VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH DUY KHÁNH
KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2014 TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, NĂM 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐINH DUY KHÁNH
KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ THEO
LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ NĂM 2014 TỰ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN ĐỨC MINH
HÀ NỘI, NĂM 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn: “Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
theo Luật thi hành án dân sự năm 2014 từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” là
công trình nghiên cứu độc lập của tôi, không có sự sao chép từ người khác.
Tất cả những số liệu được đưa vào sử dụng trong Luận văn này đều là
những số liệu trên thực tế trong lĩnh vực thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh do Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh đã cung cấp cho tôi.
Trong luận văn của mình tôi cũng có tham khảo nhiều bài viết, sách, tạp chí
của các tác giả có nguồn gốc rõ ràng và có sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy
Nguyễn Đức Minh.
Tôi xin cam đoan và tự chịu trách nhiệm nếu có vấn đề gì xảy ra với bài
luận văn của mình.
Đồng thời qua đây tôi xin được gửi lời cảm ơn tới Cục thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Ninh, các Chi cục thi hành án thành phố Hạ Long, thành phố
Cẩm Phả, thành phố Uông Bí đã giúp đỡ tôi thông qua việc cung cấp số liệu
phục vụ cho bài viết của tôi được thực tế. Tôi cảm ơn thầy Nguyễn Đức Minh
là người đã nhiệt tình hướng dẫn tôi để tôi có thể hoàn thiện luận văn này.
Cảm ơn tất cả những người thân đã luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ tôi hoàn
thành nhiệm vụ của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Tác giả
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN
TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................... 5
1.1 Khái niệm kê biên tài sản trong thi hành án dân sự. ............................. 5
1.2. Vai trò của biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ......... 14
1.3. Nội dung chế định pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án
dân sự ........................................................................................................ 17
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN Ở
TỈNH QUẢNG NINH ................................................................................... 33
2.1. Thực trạng pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ..... 33
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản đảm bảo thi hành án .... 45
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ .......................................................................................................... 58
3.1 Quan điểm, yêu cầu, định hướng hoàn thiện pháp luật về kê biên
tài sản trong thi hành án dân sự ................................................................. 58
3.2. Giải pháp hoàn thiện và thực hiện pháp luật về kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự ............................................................................ 60
3.3. Kiến nghị sửa đổi một số nội dung trong Luật THADS năm 2014 ... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73
BẢNG CHỮ VIÊT TẮT:
BA Bản án
CHV Chấp hành viên
ĐBTHA Đảm bảo thi hành án
ĐKTHA Điều kiện thi hành án
QSDĐ Quyền sử dụng đất
THA Thi hành án
THADS Thi hành án dân sự
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển mạnh mẽ, song song với
đó là những giá trị vật chất được tạo ra ngày một tăng đáng kể, Đảng và nhà
nước đang dần xây dựng và kiện toàn bộ máy chính trị theo định hướng xã
hội chủ nghĩa theo mục tiêu đã đặt ra. Nhân dân dần được làm chủ trong các
hoạt động của mình để xây dựng nhà nước pháp quyền.
Với chính sách đổi mới toàn diện về kinh tế chính trị, văn hóa xã hội, lấy
đổi mới kinh tế trước tiên sau đó dần dần từng bước đổi mới về chính trị,
trong quá trình phát triển kinh tế theo nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chính vì lẽ đó trong các quan hệ pháp luật dân
sự tăng lên một cách nhanh chóng, đi cùng với đổi mới là sự tăng lên của các
vụ, việc tranh chấp dân sự, kéo theo sự tăng lên của của các việc THADS, để
thi hành triệt để các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực, các cơ quan
THADS phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án, trong đó có biện
pháp cưỡng chế kê biên tài sản được sử dụng nhằm giải quyết dứt điểm những
bản án, quyết định có hiệu lực của tòa án cần phải thi hành.
Chúng ta cũng biết rằng, kê biên tài sản là một hình thức cưỡng chế kê
biên phức tạp đòi hỏi chấp hành viên phụ trách hồ sơ thi hành án phải có kỹ
năng toàn diện mới có thể thực hiện được công việc này. Mặt khác việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế cần phải có sự phối hợp của các ngành các cấp,
nếu thiếu một thành phần theo quy định thì khó mà thành công được.
Đây là một đề tài không mới nhưng rất ít có công trình nghiên cứu được
xây dựng bài bản, rõ nét, chủ yếu tập trung ở các tạp chí luật học của các thầy
cô là giảng viên các trường đại học lớn trên toàn quốc, gần đây đã có một số
trường Đại học đưa đề tài này vào làm đề tài luận văn cho chương trình đào
tạo sau đại học, tuy nhiên những bài viết liên quan tới đề tài này thì chủ yếu
tập trung vào một hoặc một số vấn đề riêng lẻ trong các biện pháp kê biên tài
1
sản, hoặc tập trung vào phân tích từng loại tài sản được kê biên, ví dụ như tài
sản là quyền sử dụng đất…Rất ít đề tài đi sâu phân tích tất cả các loại tài sản
cần phải kê biên trong quá trình thi hành án dân sự, đặc biệt là kể từ khi Luật
thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm 2014.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trước những vấn đề cấp thiết của đề tài, những đòi hỏi khách quan của
công tác thi hành án dân sự, trong những năm qua đã có một số công trình
khoa học nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự, cụ thể là: Đề tài: “Thi hành
án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001” do Bộ tư
pháp chủ trì thực hiện dự án. Một số luận văn và công trình nghiên cứu khác
như: Luận văn thạc sĩ Luật học “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự,
thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện” của tác giả Nguyễn Công Long; Luận
văn thạc sĩ luật học “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự” của tác giả
Nguyễn Thanh Thủy; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về
“Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học của
tác giả Nguyễn Quang Thái về “Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự ở Việt Nam”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn với đề
tài “Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam”, ngoài ra còn các bài viết
đăng trên tạp chí luật học, dân chủ và pháp luật…
Nhìn chung các công trình nghiện cứu nói trên đã một phần nào đó
đánh giá, nghiên cứu ở những khía cạnh và góc độ khác nhau của vấn đề kê
biên tài sản trong thi hành án. Ở đề tài của tác giả trong luận văn này, tác giả
sẽ tập trung đi sâu phân tích những vẫn đề lý luận về kê biên tài sản trong thi
hành án dân sự kể từ thời điểm Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung
năm 2014, đồng thời tác giả đưa vào bài viết những số liệu thực tế phản án
tình hình thực hiện biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh, để thấy được những thành quả đạt được cũng như
những mặt hạn chế mà công tác thi hành án trên địa bàn tỉnh nhà còn tồn
đọng.
2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đây là đề tài mà tác giả rất tâm huyết để thực hiện và mong muốn bài
viết của mình được ghi nhận rộng rãi hơn. Trong bài viết tác giả hướng tới
phân tích những vấn đề lý luận về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự, và
tác giả tập trung chủ yếu tới lĩnh vực THA dân sự. Về lĩnh vực THA hình sự,
nếu có điều kiện tác giả sẽ thực hiện bằng một công trình nghiên cứu khoa
học khác.
Mục đích của việc thực hiện đề tài này, tác giả tập trung phân tích toàn
bộ những vấn đề liên quan tới lĩnh vực kê biên tài sản trong thi hành án dân
sự, đặc biệt kể từ sau khi Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ sung năm
2014. Qua đó tác giả sẽ cho người đọc thấy được những thành quả đạt được
của Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh trong quá trình áp dụng Luật thi
hành án dân sự sửa đổi, đồng thời cũng rút ra được những hạn chế còn tồn
đọng để có giải pháp khắc phục sớm nhất góp phần nâng cao hiệu quả công
tác kê biên
Xuất phát từ mục đích của việc nghiên cứu đề tài nêu trên, việc nghiên
cứu đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận về kê biên tài sản,
các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về kê biên tài sản và thực tiễn
thực hiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do thời gian cũng như giới hạn của luận văn nên trong toàn bộ bài viết
này tôi chỉ tập trung hướng tới phân tích về lĩnh vực kê biên tài sản đảm bảo
thi hành án dân sự. Trong đó tập trung đi sâu vào những vấn đề lý luận về kê
biên tài sản THADS, các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam và thực
tiễn thực hiện các quy định đó trên địa bản tỉnh Quảng Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác Lê Nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ
Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
3
về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Quá trình nghiên cứu luận văn tác giả cũng đã sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống như phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh và một số phương pháp liên quan để thực hiện đề tài một cách
hoàn chỉnh hơn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
- Về lý luận: Luận văn đã đi sâu và phân tích được khái quát những vấn
đề về khái niệm, trong đó có khái niệm chung nhất là kê biên tài sản, phân
tích được những đặc điểm của vấn đề kê biên tài sản trong thi hành án dân sự,
góp thêm một Luận văn nghiên cứu vào kho tài liệu về kê biên tài sản.
- Về thực tiễn: Qua nghiên cứu tổng thể về lý luận thi hành án, có thể
thấy được thực trạng vấn đề kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án dân sự tại
địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Từ đó rút ra được những kinh nghiệm trong quá
trình làm việc và tìm ra được những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong
công tác kê biên tài sản thi hành án.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được xây dựng với cơ cấu 03 chương.
- Chương 1: Khái quát lý luận và pháp luật về kê biên tài sản trong thi
hành án dân sự;
- Chương 2: Thực trạng về tình hình kê biên tài sản trong thi hành án dân
sự qua thực tiễn thực hiện ở tỉnh Quảng Ninh;
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật về kê
biên tài sản trong thi hành án dân sự.
4
Chương 1
KHÁI QUÁT LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1 Khái niệm kê biên tài sản trong thi hành án dân sự.
1.1.1. Định nghĩa kê biên tài sản trong thi hành án dân sự:
Theo từ điển bách khoa toàn thư thì định nghĩa kê biên tài sản được giải
thích rất ngắn gọn: kê biên tài sản là biện pháp cưỡng chế của nhà nước đối
với tài sản của người vi phạm để đảm bảo thi hành án.
Nếu chỉ dừng lại ở định nghĩa kê biên tài sản thì định nghĩa kê biên tài
sản được hiểu cả trong lĩnh vực hình sự. Đó là một biện pháp cưỡng chế nhà
nước được áp dụng đối với bị can, bị cáo mà theo quy định của pháp luật có
thể bị phạt tiền. Đây là cách hiểu và giải thích gói gọn trong lĩnh vực kê biên
tài sản thi hành án hình sự.
Những năm trước đây, khoảng từ năm 1989 trở về trước, trong pháp luật
tố tụng dân sự chưa có sự phân biệt và định nghĩa rõ ràng về khái niệm kê
biên tài sản và tịch biên tài sản. Tài sản bị kê biên thường được xử lý để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án còn tài sản trong biện pháp
tịch biên sẽ được xung công quỹ Nhà nước. Sau này theo quá trình phát triển
của xã hội, pháp luật cũng được chú trọng để sửa đổi cho hợp lý hơn thì khái
niệm kê biên tài sản đã được hiểu đúng bản chất. Kê biên tài sản luôn gắn với
một chủ thể nhất định, nhân danh cho quyền lực Nhà nước, không phải ai
cũng có quyền kê biên tài sản của người khác, mà quá trình kê biên tài sản đòi
hỏi phải được thực hiện thông qua những bước nghiêm ngặt, thể hiện quyền
lực của Nhà nước thể hiện qua hành động của chấp hành viên được phân công
thực hiện.
Như vậy kê biên tài sản của người phải thi hành án dân sự là một biện
pháp cưỡng chế thi hành án do cơ quan thi hành án dân sự áp dụng khi người
phải thi hành án có nghĩa vụ thanh toán tiền theo bản án, quyết định của tòa
5
án được áp dụng trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án
chuyển dịch tài sản cho người khác tẩu tán hoặc hủy hoại tài sản.
1.1.2. Đặc điểm của kê biên tài sản trong thi hành án dân sự.
Bất cứ một khái niệm thuật học nào cũng đều mang trong nó những đặc
điểm để phân biệt giữa khái niệm này với khái niệm khác. Kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự cũng vậy, khái niệm kê biên luôn đi cùng với khái
niệm cưỡng chế. Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế hữu hiện để Nhà
nước thực hiện quyền lực nhà nước của mình. Kê biên tài sản được Nhà nước
trao chocác cơ quan khác nhau thực hiện như: Thủ trưởng cơ quan điều tra
công an, Thẩm phán tòa án nhân các cấp … trong đó có chấp hành viên cơ
quan THADS. Sự khác biệt này được thể hiện ở những khía cạnh chính là chủ
thể áp dụng kê biên và mục đích kê biên. Ví dụ chủ thể thực hiện kê biên
trong giai đoạn xét xử là thẩm phán giải quyết vụ việc, chủ thể thực hiện kê
biên trong giai đoạn thi hành án là do chấp hành viên. Về mục đích kê biên
của các cơ quan điều tra và cơ quan tòa án nhằm bảo đảm việc thi hành
án, tránh việc tẩu tán, hủy hoại tài sản của bị can, bị cáo, đương sự. Nhưng
mục đích áp dụng biện pháp kê biên của các cơ quan hành chính và cơ quan
THADS là ngoài mục đích như trên còn mục đích xử lý tài sản thanh toán trả
tiền cho khoản tiền phạt, khoản thu cho ngân sách nhà nước và chủ nợ. Một
số đặc điểm chính của Kê biên tài sản trong thi hành án dân sự có thể nêu ra
như sau:
Một là, biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự thể
hiện quyền năng đặc biệt của Nhà nước và được thực hiện cũng bằng sức
mạnh đặc biệt của Nhà nước. Trên thực tế cũng như quy định của pháp luật,
việc cưỡng chế thi hành án phải do cơ quan nhà nước có thểm quyền thực
hiện. Theo đó, người được thi hành án không có quyền tự mình dùng sức
mạnh để buộc người có nghĩa vụ thi hành án (người phải thi hành án) thực
hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa án.
6
Theo quy định trong Luật thi hành án dân sự thì Nhà nước ta trao quyền
năng này cho Chấp hành viên, người của cơ quan thi hành án dân sự. Do đó,
khi cần thiết phải sử dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án thì chỉ có CHV
mới có quyền ban hành những quyết định có liên quan tới việc thi hành án,
lựa chọn biện pháp để thực hiện việc cưỡng chế thi hành án.
Hai là, biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án dân sự được
Chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành án hoặc buộc họ thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án,
quyết định của Tòa án.
Dân sự luôn ưu tiên sự thỏa thuận của các đương sự, do vậy trong thi
hành án dân sự, các bên có quyền tự định đoạt nên nhà nước luôn ưu tiền cho
các bên tự nguyện thi hành án trước khi người được thi hành án có đơn yêu
cầu cơ quan thi hành án dân sự thực hiện việc áp dụng các biện pháp để thi
hành được bản án, quyêt định đó.
Tuy nhiên trên thực tế, việc người phải thi hành án tự nguyện thi hành
bản án, quyết định là rất ít khi xảy ra. Do vậy mới có biện pháp cưỡng chế kê
biên tài sản trong thi hành án, để áp dụng cho những người không tự nguyện
thi hành án. Đây được xem là bước đi cuối cùng để có thể đảm bảo thi hành
án được theo đúng bản án, quyết định đã tuyên, bước cuối cùng nhưng đem
lại được sự hài hòa và lợi ích chính đáng cho người được thi hành án.
Ba là, đối tượng của biện pháp kê biên tài sản thi hành án dân sự chính là
tài sản của người phải thi hành án. Khác với hình sự mục đích của các biện
pháp hình sự mang tính trừng phạt là chủ yếu, nhưng với dân sự, trong thi
hành án việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản chỉ hướng tới mục đích yêu
cầu hay buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người được thi
hành án.
Bốn là, khia áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án dân
sự thì người phải thi hành án ngoài việc phải thực hiện nghĩa vụ theo bản án,
7
quyết định của Tòa án thì còn phải chịu những chi phí khác phát sinh trong
quá trình cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án.
Những chi phí nêu trên có thể kể tới như chi phí để trả cho các cơ quan
liên quan trong quá trình cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án, trong đó có ủy
ban cấp xã, cơ quan công an thực hiện việc đảm bảo an ninh cho công tác thi
hành án, hoặc chi phí để bảo vệ tài sản, chi phí định giá tài sản, xác minh
những vấn đề liên quan tới tài sản thi hành án…
Năm là, biện pháp kê biên tài sản trong THADS thể hiện quyền năng đặc
biệt của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước.
Biện pháp kê biên tài sản THADS được CHV quyết định áp dụng không
chỉ có hiệu lực đối với người phải thi hành án, người được thi hành án mà còn
tác động tới các cơ quan, cá nhân, tổ chức có liên quan khác. Đây là biện pháp
thể hiện quyền lực của Nhà nước nên mọi quyết định của CHV đều phải được
các chủ thể liên quan nghiêm túc chấp hành để đảm bảo tính thượng tôn pháp
luật và công tác thi hành án được thực hiện đúng, đủ, nhanh chóng.
1.1.3. Phân loại kê biên tài sản trong THADS.
Theo quy định của pháp luật thì CHV chỉ được kê biên tài sản của người
phải THA tương ứng với phần nghĩa vụ của họ đối với nghĩa vụ THA và các
chi phí hợp lý phát sinh khác trong quá trình tố tụng.
Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản sẽ có những tác động
trực tiếp vào những người sau: Người được THA, người phải THA và người
có quyền và nghĩa vụ liên quan. Trong các đối tượng trên, đối tượng liên quan
mật thiết, chặt chẽ tới hoạt động THA phải kể tới đó là tài sản bảo đảm kê
biên. Tài sản này có thể là động sản hoặc bất động sản, nhưng nó buộc phải
đảm bảo điều kiện về sở hữu của người phải thi hành án, không phụ thuộc vào
thực tế ai đang là người quản lý sử dụng. Miễn tài sản đó là của người phải thi
hành án. Việc này đảm bảo được nguyên tắc người phải thi hành án phải thực
hiện nghĩa vụ bằng chính tài sản của mình. Tài sản kê biên phải tương ứng với
nghĩa vụ phải thi hành và các chi phí có liên quan. Trong trường hợp đặc biệt
8
mà tài sản kê biên lớn hơn nghĩa vụ phải thi hành án thì phải xác định rõ phần
nghĩa vụ cụ thể, phần còn lại nằm ngoài nghĩa vụ thì phải xem xét trao trả cho
người phải thi hành án.
Pháp luật về THADS liệt kê các loại tài sản kê biên như sau:
- Một là kê biên tài sản thuộc sở hữu chung: Luật THADS sửa đổi bổ
sung năm 2014 quy định: “1. Trường hợp chưa xác định được phần quyền sở
hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối
tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người
phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản,
quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu
cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.”
Điểm mới trong quy định của Luật THADS năm 2014 là phân định rõ
trường hợp sở hữu chung thành hai loại: Sở hữu chung của vợ chồng; và sở
hữu chung ở hình thức khác, từ đó chấp hành viên dễ dàng lựa chọn cách thức
giải quyết việc kê biên tài sản. Đồng thời Luật còn cho phép chủ sở hữu
chung được quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu bảo vệ quyền lợi cho mình,
điều này thể hiện tính dân chủ trong quá trình giải quyết, bảo vệ quyền lợi của
các đồng sở hữu. Mặc dù đây là một điểm tiến bộ khi bảo vệ được những
người liên quan, nhưng lại phát sinh vấn đề tốn thời gian cho người được thi
hành án. Bởi vì quá trình khởi kiện để xác định tài sản chung mất không ít
thời gian, đến lúc có sự phân xử của Tòa án có hiệu lực thì liệu giá trị tài sản
đảm bảo thi hành có còn được giữ nguyên vẹn hay không?
Bên cạnh đó là trường hợp kê biên tài sản trong trường hợp sở hữu
chung hợp nhất của vợ chồng. Trong trường hợp này CHV chỉ được kê biên
tài sản thuộc sở hữu riêng của người có nghĩa vụ phải thi hành án (vợ hoặc
chồng). Nếu trong trường hợp tài sản riêng đó không đảm bảo nghĩa vụ phải
thi hành án thì CHV hướng dẫn và giải thích cho người còn lại có quyền ưu
tiên mua phần tài sản của người kia. Nếu vợ hoặc chồng không mua thì sau
khi bán tài sản CHV phải thanh toán lại cho họ phần giá trị tài sản mà họ
9
được hưởng. Sau đó trích lại cho người phải THA số tiền nhất định dùng cho
việc trợ cấp nuôi con chưa thành niên hoặc tàn tật hoặc người mà người phải
THA có trách nhiệm nuôi dưỡng. Đây là việc làm thể hiện tính nhân đạo rất
lớn, đảm bảo được nhu cầu tối thiểu nhất của một con người.
Giả sử trường hợp tài sản chung của vợ chồng gồm nhiều loại thì CHV
căn cứ vào giá trị của từng tài sản để kê biên loại tài sản tương ứng với nghĩa
vụ và chi phí để đảm bảo THA. Quy định này nhằm ngăn chặn tình trạng vượt
quyền của CHV bởi nếu không quy định như vậy thì CHV sẽ cưỡng chế kê
biên theo hiểu biết chủ quan của mình, ảnh hưởng tới lợi ích của người còn lại
và CHV có thể kê biên bất cứ tài sản nào kể cả trường hợp tài sản thực tế lớn
hơn nghĩa vụ phải THA (Khoản 2 Điều 74 Luật THADS sửa đổi năm 2014
quy định rất rõ vấn đề này). Việc quy định rõ ràng vừa đảm bảo lợi ích của
người phải thi hành án, cho đồng sở hữu chung và cho người được THA.
Đối với trường hợp nghĩa vụ thi hành án chung của hai vợ chồng nhỏ
hơn giá trị tài sản chung thì CHV có thể xem xét kê biên tài sản tương ứng
với phần giá trị phải thi hành án mà không phải kê biên toàn bộ tài sản chung
đó. Việc kê biên toàn bộ tài sản sẽ rất tốn kém kinh phí, thời gian thi hành án.
Ví dụ: Anh Trần Văn Sơn và vợ là chị Lường Thị Hòa có tài sản chung
gồm 01 ngôi nhà trị giá 1 tỷ đồng, 02 chiếc xe ô tô trị giá 950.000.000đồng
01 chiếc xe môtô trị giá 28.000.000 đồng. Bản án của tòa án tuyên buộc anh
Sơn và chị Hòa phải có nghĩa vụ thi hành án trả lại cho chị Nguyễn Minh Tâm
số tiền 800.000.000đồng tiền vay, trong trường hợp này Chấp hành viên có
thể xem xét việc kê biên 02 chiếc xe ô tô của hai vợ chồng để đảm bảo thi
hành án cho chị Tâm, mà không phải kê biên tất cả các loại tài sản của vợ
chồng anh Sơn chị Hòa.
- Hai là việc kê biên tài sản đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ.
Việc kê biên tài sản là những tài sản hữu hình đã khó, lĩnh vực sở hữu
trí tuệ lại là tài sản vô hình thì việc kê biên còn gặp vô vàn khó khăn. Nắm bắt
được tình hình đó nên pháp luật THADS sửa đổi đã quy định rất cụ thể những
10
trường hợp xảy ra trong quá trình kê biên tài sản SHTT. Ngay cả trong trường
hợp quyền SHTT được chuyển giao cho cơ quan nhà nước khác thì quyền
SHTT đó vẫn bị kê biên. Bởi vì người chuyển quyền SHTT chỉ là chuyển giao
quyền sử dụng, khai thác. Còn quyền chiếm hữu, định đoạt vẫn nằm trong tay
chủ sở hữu ban đầu. Do vậy đây vẫn là tài sản có thể kê biên được. (Điều 84
Luật THADS 2014 sửa đổi, bổ sung).
- Ba là việc kê biên tài sản đối với trường hợp tài sản là quyền sử dụng
đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu.
Điều 89 Luật THADS 2014 quy định: “1.Trước khi kê biên tài sản là
quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch
bảo đảm theo quy định của pháp luật, Chấp hành viên yêu cầu cơ quan đăng
ký cung cấp thông tin về tài sản, giao dịch đã đăng ký.
2. Sau khi kê biên, Chấp hành viên thông báo bằng văn bản cho cơ quan
đăng ký về việc kê biên tài sản đó để xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều 178
của Luật này.”
Để đảm bảo việc kê biên tài sản đúng mục đích, đúng nghĩa vụ thì đối
với những tài sản như QSDĐ và tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, thì CHV
phải có nghĩa vụ yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài sản đó.
Để xác minh rõ tài sản được thi hành hiện trạng như thế nào, có thuộc quyền
sở hữu của người phải thi hành án hay không? Giá trị của tài sản đó là bao
nhiêu so với nghĩa vụ phải thi hành án? Đồng thời sau khi xác định rõ những
vấn đề liên quan và đã kê biên tài sản đó thì CHV có trách nhiệm thông tin lại
cho cơ quan đăng ký quyền sở hữu biết về tình trạng của tài sản kê biên, tránh
tình trạng tài sản đó lại được đem ra giao dịch bất hợp pháp để hòng trốn
tránh nghĩa vụ.
Đây là những trường hợp kê biên tài sản nổi bật và gây nhiều tranh cãi
cũng như những vấn đề liên quan phát sinh nhất. Những trường hợp kê biên
tài sản còn lại như:
- Kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp;
11
- Kê biên tài sản do người thứ ba đang nắm giữ;
- Kê biên tài sản là vốn góp;
- Kê biên tài sản là phương tiện giao thông;
Trên đây là việc phân loại các biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản đảm
bảo thi hành án theo quy định của pháp luật hiện nay, được thể hiện rất cụ thể
trong Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014.
1.1.4. Cơ sở của việc quy định biện pháp kê biên tài sản của người phải thi
hành án trong pháp luật thi hành án dân sự
1.1.4.1: Cơ sở lý luận
Thứ nhất, trong bất cứ một hoạt động nào liên quan đến bộ máy nhà
nước cũng cần phải có một chế tài nhất định, điều đó thể hiện tính nghiêm
minh của pháp luật và đảm bảo được tính thượng tôn pháp luật, để bù lại việc
tự nguyện thi hành án không đạt được.
Khi một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành, người phải
thi hành án vẫn có sự lựa chọn của mình để thực hiện nghĩa vụ đó là việc tự
nguyện THA trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên sau khoảng thời gian
đó mà người phải THA không tự nguyện thi hành thì buộc cơ quan THA, đại
diện là CHV trực tiếp phụ trách vụ án phải có bước cưỡng chế kê biên tài sản
để đảm bảo thực hiện được bản án, pháp luật được thực thi và quyền lợi của
người được THA được bảo đảm. Thời hạn tự nguyện THA được quy định rõ
nét tại điều 45 luật THADS năm 2014: “Thời hạn tự nguyện THA là mười
ngày, kể từ ngày người phải THA nhận được quyết định THA hoặc được
thông báo hợp lệ quyết đinh THA”
Như vậy để thực hiện được việc kê biên tài sản, cơ sở đầu tiên CHV cần
xét đến là người phải THA phải có điều kiện để THA. Điều này được hiểu rất
đơn giản, “có điều kiện thi hành án” nghĩa là người đó có những tài sản đảm
bảo cho nghĩa vụ THA được thi hành đúng luật. Tài sản đó có thể là động sản,
là bất động sản…Để xác định được người phải THA có đủ điều kiện THA thì
buộc CHV phải có bước xác minh điều kiện THA. Việc này phải làm chính
12
xác và nghiêm minh, tránh xảy ra trường hợp xác minh không khách quan,
không chính xác dẫn tới bản án không được thi hành hoặc thi hành không
đảm bảo quyền lợi của người được thi hành án.
Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở việc đảm bảo có điều kiện để THA thì chưa
đủ, mà phải có một điều kiện đi kèm là: đã hết thời hiệu tự nguyện thi hành
án. Bởi lẽ, nếu đang còn trong thời hiệu tự nguyện THA thì cơ quan THA
không được quyền ra quyết định cưỡng chế THA, mà nếu đã không thể ra
quyết định cưỡng chế THA thì không được phép kê biên tài sản. Trường hợp
này loại trừ đối với việc CHV có cơ sở cho rằng nếu không kê biên tài sản kịp
thời thì người phải thi hành án sẽ tẩu tán tài sản đó nhằm trốn tránh nghĩa vụ
đối với người được THA.
Trong hai điều kiện nói trên, CHV không được xem nhẹ bất cứ điều kiện
nào bởi hai điều kiện này làm tiền đề cho nhau, là hai điều kiện bắt buộc và
phải thỏa mãn đủ. Đã có rất nhiều trường hợp xảy ra khi CHV coi nhẹ một
điều kiện nào đó, ở đây chằng hạn việc xem nhẹ bước thông báo quyết định
THA cho người phải THA, sau khi cưỡng chế người phải THA đã làm đơn
khiếu nại vì không được nhận thông báo của cơ quan THA nên không nắm
được thời hạ tự nguyện THA là bao lâu.
1.1.4.2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tiễn hoạt động THADS, khi người phải THA không tự
nguyện THA và biện pháp bảo đảm THADS chỉ mang tính tạm thời thì thực
tiễn đòi hỏi cần phải có biện pháp cưỡng chế THA. Từ thực tế đó mà buộc
phải có biện pháp cưỡng chế bằng hình thức kê biên tài sản. Thực tiễn chứng
minh biện pháp kê biên tài sản là biện pháp được CHV áp dụng nhiều nhất
trong quá trình THADS.
Do vậy biện pháp kê biên tài sản để THA là biện pháp cần thiết, vừa đảm
bảo quyền lợi của người được THA, đảm bảo tính khách quan của cơ quan
nhà nước, góp phần giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho người dân trong
công tác THADS.
13
1.2. Vai trò của biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Kê biên tài sản là một biện pháp được quy định tại Điều 71 Luật THADS
sửa đổi bổ sung năm 2014, những trường hợp không thuộc phải kê biên tài
sản có thể hiểu là những trường hợp tự nguyên THA. Như vậy, có thể nói kê
biên tài sản là sự đánh giá rõ nét nhất về vai trò và tầm quan trọng của cơ
quan THADS. Điều đó được thể hiện như sau:
- Thể hiện tính nghiêm minh, thượng tôn pháp luật, đúng bản chất pháp
quyền của Nhà nước XHCN, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người được thi
hành án. Một bản án,quyết định của Tòa án phải được thi hành nhanh chóng
và đúng luật. Nếu người phải THA không tự nguyện THA thì cơ quan được
Nhà nước giao thẩm quyền có quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản. Nếu
bản án, quyết định đó không được thi hành đúng luật, không đảm bảo được
quyền lợi của người được THA thì sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng.
Trước mắt là quyền lợi của người được THA không được đảm bảo, làm cho
người dân mất niềm tin vào pháp luật. Thứ hai, tính nghiêm minh của pháp
luật không còn ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của những cơ quan liên
quan khác, trong đó gần nhất là là Tòa án, viện kiểm sát.
- Thứ hai, THADS góp phần nâng cao nhận thức pháp luật cho người
dân. Đây là đặc thù riêng của lĩnh vực THA. Bởi vì việc THADS không phải
là việc làm của duy nhất của CQTHA mà nó là sự kết hợp của nhiều ban
ngành tại địa phương. Thông qua việc THA thì ý thức pháp luật của dân được
nâng cao và tuyên truyền rộng rãi ra toàn xã hội.
- Thứ ba, kê biên tài sản trong THADS là khâu cuối cùng giải quyết và
thể hiện kết quả của bản án, quyết định của Tòa án. Một vụ án có thể kéo dài
rất nhiều năm gây tốn kém cho người tham gia tố tụng, cho những người liên
quan khác. Sau khi bản án, quyết định được tuyên mà trường hợp người phải
THA lại không tuân thủ việc THA mặc dù có đủ điều kiện để thi hành án thì
buộc cơ quan THADS phải áp dụng ngay biện pháp kê biên tài sản. Có như
14
vậy mới giải quyết dứt điểm được những nội dung đã được tuyên trong bản
án, quyết định của Tòa án.
- Thứ tư, kê biên tài sản ngoài đảm bảo lợi ích cho công dân còn thể hiện
tính thượng tôn pháp luật của Nhà nước ta. Thông qua việc kê biên tài sản xử
lý thi hành án góp phần vào việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật thi hành án
dân sự. Hiện nay công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật thi hành án dân sự
còn nhiều hạn chế và chưa được chú trọng. Nhiều trường hợp xảy ra điển hình
như việc người được thi hành án không biết rằng để bản án được thi hành thì
người được thi hành án phải có đơn yêu cầu thi hành án gửi tới cơ quan
THADS. Điều này dẫn tới việc đã quá thời hạn để yêu cầu thi hành án nhưng
người được THA không có đơn nên mất quyền của mình.
Việc kê biên tài sản thi hành án thể hiện rõ nét nhất vai trò của Chấp
hành viên. Thông qua đó thấy được rằng CHV có tuân thủ đúng pháp luật về
THA hay không? Đánh giá được trình độ chuyên môn của CHV, đồng thời
xác định được nguyên nhân của việc chậm trễ THA hoặc không thi hành án
được. Từ đó khắc phục và sữa chữa những sai lầm không đáng có.
Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 có nhiều thay đổi, bổ
sung quan trọng, trong đó khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án khi
có đủ điều kiện thi hành án. Đây là sự tôn trọng quyền lợi của đương sự trong
quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên để đảm bảo thi hành án trong trường
hợp người phải THA không tự nguyện thi hành sau thời gian 10 ngày mà
pháp luật cho phép, thì CHV được quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế kê
biên tài sản để thi hành án.
Việc kê biên tài sản để thi hành án dân sự do CHV thực hiện nhưng phải
tuân thủ quy định chặt chẽ của pháp luật thi hành án. Cơ quan có trách nhiệm
quản lý việc thi hành án dân sự là Bộ tư pháp, đây là cơ quan chủ quản trong
vấn đề quản lý việc thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự bao gồm cơ quan
thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung
là cơ quan thi hành án cấp tỉnh); cơ quan thi hành án dân sự cấp quận, huyện,
15
thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi là cơ quan là cơ quan thi hành
án dân sự cấp huyện).
Lần đầu tiên hệ thống cơ quan quản lý thi hành án từ trung ương tới địa
phương được đưa cụ thể hóa vào Luật thi hành án dân sự năm 2008, kể từ
ngày 01 tháng 11 năm 2009, vị trí và tên gọi của hệ thống tổ chức thi hành án
dân sự bao gồm ở trung ương có Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ
Tư pháp; ở địa phương có Cục thi hành án dân sự tỉnh trực thuộc Tổng cục thi
hành án dân sự và Chi cục thi hành án dân sự huyện trực thuộc Cục thi hành
án dân sự tỉnh. Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ tư pháp được đổi
tên từ Cục thi hành án dân sự nhằm đảm bảo chức năng quản lý thi hành án
được tốt hơn. Việc thi hành án phải được quản lý và kiểm tra thường xuyên,
minh bạch để không xảy ra sai sót trong quá trình thi hành án.
Có thể lấy một ví dụ điển hình cho việc sai sót trong quá trình thi hành
án, mà trách nhiệm lớn do sự quản lý không chặt chẽ của cơ quan quản lý thi
hành án.
“Năm 2002 bà Trần Thị Hà và ông Hà Văn Hòa (Nguyễn Thiên Hòa)
góp vốn thành lập Công ty TNHH xây dựng, thương mại và kinh doanh nhà
Thành Phát (Công ty Thành Phát), địa chỉ trụ sở chính tại số 10, khu phố 2,
đường HT 25, phường Hiệp Thành, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2005 sau khi kí Hợp đồng tín dụng, Hợp đồng thế chấp để vay vốn
kinh doanh với số lượng 3 ngàn lượng vàng và 18 tỉ đồng của Ngân hàng
Nông nghiệp phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Chợ Lớn, thành phố
Hồ Chí Minh, bà Hà, ông Hòa và một số người liên quan bị bắt và truy tố về
tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “Đưa hối lộ”.. Sau khi bị xét xử với tội
danh đưa hối lộ, bản án số 375/2013/HSST ngày 28/8/2013 và Bản án số
206/2014/HSPT ngày 16 và 17/4/2014 bà Hà bị buộc cùng với ông Hà Văn
Hòa (Nguyễn Thiên Hòa) liên đới bồi thường cho Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam – Chi Nhánh Chợ Lớn 3.000 (ba ngàn) lượng
vàng SJC và 18 tỉ đồng, phân định mỗi người chịu trách nhiệm bồi thường ½.
16
Trong thời gian bà Hà chấp hành án tại trại giam, Cục Thi hành án
dân sự thành phố Hồ Chí Minh (Cục THA) đã thụ lí yêu cầu thi hành án của
Nguyên đơn dân sự Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam – Chi nhánh Chợ Lớn và phân công Chấp hành viên Hà Quốc Dũng trực
tiếp thi hành. Tuy nhiên quá trình thi hành án, CHV đã vi phạm nghiêm trọng
những điều khoản quan trọng như: Vi phạm về thông báo thi hành án (tiến
hành đấu giá tài sản nhưng không một lần thông báo tới người phải thi hành
án); Kê biên tài sản hiện đang có tranh chấp; Cục trưởng Cục THADS không
thực hiện việc giải quyết khiếu nại theo đúng quy định của pháp luật…Hiện
nay người đại diện theo ủy quyền của bà Hà sau khi thực hiện quyền khiếu
nại của mình, toàn bộ yêu cầu trong đơn khiếu nại đều được chấp thuận và bà
Hà cũng đang thực hiện những việc làm tiếp theo để đảm bảo quyền lợi cho
mình.”
Qua ví dụ ngắn gọn nêu trên, có thể thấy tầm quan trọng của công tác
quản lý thi hành án, chỉ một sơ suất nhỏ trong quá trình thi hành án đã làm
ảnh hưởng nghiêm trọng và kéo theo tất cả những cá nhân, cơ quan liên quan
chịu hậu quả.
1.3. Nội dung chế định pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
1.3.1. Lịch sử phát triển của chế định kê biên tài sản trong thi hành án dân
sự được thể hiện qua nhiều thời kỳ khác nhau
Giai đoạn bắt đầu từ năm 1945 đến năm 1960: đây là thời điểm cách
mạng tháng Tám vừa thành công, miền bắc hoàn toàn dược giải phóng, nhà
nước ta bắt tay vào xây dựng hệ thống pháp luật, tuy nhiên chưa thể đưa ra
được một văn bản pháp luật bao quát cụ thể vấn đề thi hành án nên Chủ tịch
Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 với mục đích tạm thời
giữ nguyên các luật lệ hiện có của chế độ cũ, với điều kiện các luật lệ đó
không được trái với nguyên tắc của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thời
điểm này, hai lực lượng được quyền thi hành án là Thừa phát lại và Ban tư
pháp xã, vai trò của hai chủ thể này là cao nhất trong quá trình thi hành án.
17
Tới thời điểm năm 1950, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về “cải cách
bộ máy tư pháp và tố tụng” thì công tác thi hành án dân sự lại được giao cho
Tòa án đảm nhiệm, cụ thể hóa hơn nữa là cho Thẩm phán TAND cấp huyện.
Ở thời điểm này, vai trò của Thẩm phán được mở rộng sang cả giai đoạn sau
khi bản án, quyêt định đã có hiệu lực.
Đến năm 1955, theo Thông tư số 19.VHH/HS ngày 30/6/1955 của Bộ tư
pháp và Chỉ thị 772/TATC ngày 10/07/1957 của TANDTC thì từ đó trở đi
Tòa án không đươch áp dụng pháp luật của chế độ cũ nữa mà thay vào đó tại
Thông tư 4176-HCTP ngày 28/11/1957 của Bộ tư pháp đã đưa ra nguyên tắc
trong thực hiện biện pháp cưỡng chế thi hành án nhưng chưa có quy định cụ
thể về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Cho tới năm 1960, khi Luật tổ chức TAND ra đời thì chế định cưỡng chế
THA nói chung và cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án nói riêng mới có căn
cứ pháp lý để thực hiện.
Giai đoạn thứ hai từ 1960 đến năm 1989: Ở giai đoạn này, nội dung
biện pháp cưỡng chế tài sản kê biên được áp dụng theo Thông tư số 04/TT-
NCPL ngày 14/04/1966 của TANDTC hướng dẫn áp dụng biện pháp kê biên
tài sản như sau: Những tài sản có thể kê biên là tài sản của người mắc nợ, kể
cả những tài sản mà họ gửi giữ ở nơi khác, cho người khác mượn, cho vay
hoặc đang sửa chữa. Trường hợp người phải thi hành án đang ở tù thì cũng có
thể kê biên những tài sản đang giữ của họ như đồng hồ, trang sức…nhằm
phục vụ công tác thi hành án. Bên cạnh đó thông tư cũng quy định rõ những
tài sản không được kê biên để thi hành án bao gồm: Giường, chiếu…vật dụng
tối cần thiết nhất cho người đó và gia đình họ; Lương thực, đồ dùng vào việc
thờ cúng…Nhận xét chung ở giai đoạn này tuy trong nội dung của pháp luật
đã thể hiện rõ các bước để kê biên tài sản thi hành án, về điều kiện và những
nội dung liên quan tới việc thi hành án. Tuy nhiên về giá trị của văn bản thì
chỉ mới dừng lại ở Thông tư, Chỉ thị, quyết định…những văn bản này có tính
pháp lý chưa cao.
18
Phải cho tới ngày 28/08/1989 Nhà nước ta mới ban hành Pháp lệnh thi
hành án dân sự, đánh dấu sự phát triển vượt bậc của các nhà lập pháp, thể
hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong pháp luật nước nhà.
Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1993: Ngày 28/8/1989 Pháp lệnh
THADS đầu tiên đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện
pháp luật, tạo bước tiến mới trong công tác THADS. Lần đầu tiên trong lịch
sử, tất cả các vấn đề liên quan tới thi hành án như: nguyên tắc, trình tự, thủ
tục, các biện pháp cưỡng chế thi hành án được cụ thể hóa thành pháp lệnh.
Nếu trước kia Thẩm phán vừa đảm nhiệm vai trò xét xử, lại vừa là cơ
quan thực hiện tiếp nhiệm vụ thi hành án, thì nay THA đã được tổ chức và
xây dựng bằng một hệ thống cơ quan riêng, có chức năng nhiệm vụ nhất định
để thực hiện các phán quyết của Tòa án được chính xác và nhanh chóng.
Vấn đề cưỡng chế kê biên tài sản THA được quy định thành một chế
định riêng, chứng tỏ được vai trò và sự cần thiết của các biện pháp cưỡng chế
trong THADS. Tuy nhiên sau một thời gian áp dụng triển khai thì Pháp lệnh
cũng gặp phải những hạn chế, chủ yếu nhất nổi cộm lên vấn đề Thẩm phán
vẫn còn quen công việc cũ khi áp đặt tư tưởng giải quyết của mình cho chấp
hành viên. Theo đó CHV thì cũng dựa vào Thẩm phán do CHV mới được tiếp
cận công việc nên chưa thể thực hiện theo đúng tinh thần của pháp lệnh, dẫn
tới việc nhiều bản án, quyết định không được thực hiện đảm bảo trên thực tế.
Trước tình hình đó, Quốc hội khóa IX đã họp và có Nghị quyết chính
thức bàn giao công tác thi hành án cho cơ quan thuộc Chính phủ. Cũng thời
điểm này Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1993 được ra đời.
Giai đoạn 1993 đến 2004: Thời điểm này Pháp lệnh THADS là văn bản
pháp lý cao nhất về lĩnh vực thi hành án. Phấp lệnh được xây dựng nên đã tạo
cơ sở pháp lý cho việc xây dựng hệ thống cơ quan THA tách ra khỏi hệ thống
tòa án để thực hiện nhiệm vụ được tốt nhất.
Mặc dù vậy nhưng do Pháp lệnh được ban hành ở thời điểm phải khẩn
trường để thực hiện Nghị quyết về bàn giao công tác THADS từ Tòa án sang
19
Chính phủ cho nên Pháp lệnh cũng còn những hạn chế nhất định. Nhiều vấn
đề trong pháp lệnh năm 1989 được giữ nguyên tới pháp lệnh năm 1993, do
vậy không đảm bảo theo kịp với nền kinh tế đất nước dẫn tới nhiều vấn đề
mới xảy ra nhưng lại không có luật áp dụng.
Giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2008:
Nhìn qua chặng đường phát triển của chế định pháp luật về kê biên tài
sản thi hành án mới thấy được dấu mốc vượt bậc khi các quy định được cụ thể
hóa lên thành Luật, đảm bảo được tính nghiêm minh, thượng tôn pháp luật và
vấn đề kê biên tài sản được luật hóa sẽ đảm bảo quyền lợi cho người được thi
hành án trong các bản án dân sự. Ngoài Luật thi hành án dân sự thì vấn đề kê
biên tài sản thi hành án còn được điều chỉnh ở nhiều văn bản pháp luật liên
quan đến từng loại tài sản như: Luật đất đai, Luật nhà ở liên quan đến tài sản
là nhà và đất; Luật sở hữu trí tuệ liên quan tới tài sản sở hữu trí tuệ…
Ở Việt Nam cơ quan thi hành án là một cơ quan riêng biệt, tách khỏi Tòa
án và Viện kiểm sát, là một cơ quan quan trọng cuối cùng quyết định việc có
hay không bản án được thi hành trên thực tế.
Ở một số nước trên thế giới việc thi hành án không do cơ quan riêng biệt
thực hiện mà lại gắn liền với một cơ quan khác.
- Ở Mỹ: Bản án, quyết định dân sự được thi hành theo lệnh thi hành án
của tòa án. Pháp luật về tòa án ở Mỹ, kể cả pháp luật của từng bang hay pháp
luật liên bang đều quy định về việc tòa án sẽ hỗ trợ và bảo đảm cho việc xác
minh điều kiện thi hành án. Điểm nỏi bật trong pháp luật của Mỹ là xem hoạt
động xác minh điều kiện thi hành án giống như việc xác minh thu thập chứng cứ
ở giai đoạn tòa án trong tố tụng dân sự. Bởi vậy, người được thi hành án sẽ sử
dụng các biện pháp thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật dân sự
để đảm bảo việc xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, và
đồng thời Tòa án cũng có chức năng hỗ trợ trong việc xác minh đó.
Theo quy định tại khoản 2 quy tắc số 69 trong bộ quy tắc tố tụng dân sự
của liên bang Mỹ do tòa án tối cao Mỹ ban hành, để hỗ trợ cho việc thi hành
20
án thì người được thi hành án hoặc người được ủy quyền hoặc người được
hưởng quyền đó được tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ từ bất kỳ
người nào, bao gồm cả người phả thi hành án, theo các quy định về thu thập
chứng cứ được quy định trong bộ quy tắc tố tụng dân sự của Liên bang hoặc
theo thủ tục dân sự của bang nơi có tòa án đã ra bản án.
- Ở Anh: Có lẽ là những quốc gia trong cùng hệ thống Common Law nên
những quy định trong pháp luật thi hành án có những điểm tương đồng nhau
rõ rệt. Theo đó trong pháp luật Anh cũng quy định việc người được thi hành
án có quyền nộp đơn yêu cầu tòa án ban hành lệnh cung cấp thông tin. Bằng
thủ tục này cho phép người được thi hành án buộc người phải thi hành án
trình diện trước tòa án để trả ời câu hỏi về tình hình tài chính và tài sản của
mình, từ đó giúp cho người được thi hành án đưa ra quyết định có nên tiếp tục
theo đuổi quá trình thi hành án nữa hay không, hay nên dừng lại, và nếu có
tiếp tục thì nên theo thực hiện biện pháp gì tiếp theo.
Người được thi hành án có quyền yêu cầu tòa án ra lệnh cung cấp thông
tin ở bất kỳ thời điểm nào sau khi bản án được ban hành. Đơn yêu cầu sẽ
được thực hiện theo mẫu của tòa án, thông tin của bản án, các câu hỏi cụ thể
khác cần hỏi người phải thi hành án, tên các tài liệu cần người phải thi hành
án cung cấp. Dựa trên đơn của đượng sự, tòa án sẽ ban hành lệnh buộc người
phải thi hành án trình diện để thẩm vấn. Người được thi hành án thì không bắt
buộc phải có mặt tại buổi thẩm vấn do tòa án tổ chức, trừ khi người đó muốn
đến. Sau khi kết thúc phiên thẩm vấn, người được thi hành án sẽ được tòa án
gửi một bản sao về việc thẩm vấn. Như vậy ở Anh và Mỹ, vai trò của Tòa án
bao trùm sang cả lĩnh vực thi hành án, không phân định cơ quan riêng biệt để
thực hiện nhiệm vụ thi hành án.
- Ở Pháp, việc thi hành án dân sự do Bộ tư pháp quản lý, và thực hiện thi
hành án là do cơ quan thừa phát lại. Thừa phát lại được tổ chức theo hình thức
công ty thương mại, nguồn tiền để cơ quan này hoạt động không do Nhà nước
chi trả mà do các bên trong thi hành án có nghĩa vụ chi trả.
21
- Ở Trung Quốc: Cũng giống như Pháp, ở Trung Quốc việc thi hành án
cũng do Bộ tư pháp quản lý, và Tòa án là cơ quan kiêm luôn chức năng thi
hành án. Điều này đang gây ra sự chồng chéo và không tách biệt chức năng
của từng cơ quan.
- Ở Indonesia được thực hiện bởi Thẩm phán. Thẩm quyền thi hành bản
án của Thẩm phán thể hiện ngay ở tiêu đề của bản án vì công lý dựa vào
Thượng đế toàn năng, tức là Thẩm phán được sử dụng sức mạnh cưỡng chế
của bộ máy nhà nước để thi hành bản án.
Đối chiếu với quy định của Luật thi hành án dân sự ở Việt Nam, có thể
thấy mô hình thi hành án ở Việt Nam là mô hình hỗn hợp giữa cơ quan
THADS và tổ chức thi hành án tư nhân là thừa phát lại (có sự quản lý chặt chẽ
của Nhà nước), nhưng chủ đạo vẫn là cơ quan THADS thuộc Bộ tư pháp.
Pháp luật Việt Nam đặc biệt đề cao vai trò chủ đạo của CHV trong việc thi
hành án, có văn bản quy định riêng là Luật thi hành án dân sự chứ không phải
quy định chung trong chế định tòa án như các nước theo hệ thống luật Anh –
Mỹ. Cơ chế đảm bảo thi hành án ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong
vấn đề xác minh điều kiện thi hành án, không những người phải thi hành án
gây khó dễ mà cả những cơ quan có liên quan cũng chưa thiện chí trong quá
trình xác minh thông tin thi hành án.
Chế định pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự gồm nhiều
nhóm quy phạm pháp luật, trong đó có thể kể đến như nhóm quy phạm pháp
luật quy định về sở hữu điều chỉnh về vấn đề sở hữu chung, riêng tài sản;
nhóm quy phạm quy định về thừa kế liên quan tới việc thi hành án đối với tài
sản là di sản thừa kế; nhóm quy phạm về hành chính liên quan đến tổ chức cơ
quan thi hành án…tóm lại vấn đề thi hành án dân sự liên quan hầu hết tới các
nhóm quan hệ xã hội, do vậy khi xây dựng pháp luật về kê biên tài sản thi
hành án cần phải thật chú trọng và cẩn thận tránh để xảy ra sai sót kéo theo
những hậu quả không đáng có.
22
1.3.2. Nội dung chính của chế định pháp luật kê biên tài sản trong thi hành
án dân sự
1.3.2.1 Điều kiện áp dụng biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án
Được hiểu là giai đoạn cuối cùng trong quá trình tố tụng, giai đoạn đánh
giá bản án, quyết định của tòa án có được thi hành trên thực tế hay không thì
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án phải đáp ứng
một số điều kiện sau:
Thứ nhất, người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền
theo bản án, quyết định được đưa ra thi hành hoặc nộp phí thi hành án.
Nghĩa vụ thanh toán tiền của người phải thi hành án được ấn định trong
bản án, quyết định của TA hoặc của cơ quan có thẩm quyền như tổ chức trọng
tài thương mại hoặc hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Ở đó thẻ hiện bằng
những hình thức phán quyết như: buộc người phải THA phải trả tiền bồi
thường; bồi thường thiệt hại do làm mất, làm hư hỏng tài sản; bồi thường chi
phí đào tạo; bồi thường tính mạng, sức khỏe – vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự; hoặc việc trả tiền theo hợp đồng, công lao động...hoặc nghĩa vụ nộp phí
thi hành khi người được thi hành án đã nhận được phần lợi ích của mình mà
không chịu thanh toán lại phí thi hành án cho cơ quan THA…
Thứ hai, việc kê biên tài sản phải đảm bảo điều kiện người buộc phải thi
hành án phải có đủ điều kiện thi hành án. Điều kiện thi hành án ở đây hiểu
một cách đơn giản nhất ví dụ như người đó có tài sản để thực hiện nghĩa vụ
của mình. Tài sản ở đây có thề là đất đai, là động sản khác hoặc là quyền sở
hữu trí tuệ.
Thứ ba, đã qua hết thời gian tự nguyện thi hành án nhưng người phải thi
hành án vẫn không thực hiện đúng nghĩa vụ thi hành án của mình. Hoặc có
những trường hợp chưa hết thời hạn thi hành án nhưng có cơ sở cho rằng
người phải thi hành án có khả năng sẽ tẩu tán, hủy hoại tài sản để trốn tránh
nghĩa vụ thi hành án thì CHV trực tiếp phụ trách vụ án cũng có quyền áp
23
dụng ngay biện pháp kê biên tài sản sau khi đã hết thời gian ấn định việc kê
biên tài sản thông báo tới người phải thi hành án.
1.3.2.2. Nguyên tắc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của người
phải thi hành án
Để đảm bảo việc thi hành án có hiệu quả và đúng pháp luật, việc áp
dụng biện pháp kê biên tài sản của người phải THA phải đảm bảo tuân thủ
nghiêm ngặt những nguyên tắc quy định tại Luật thi hành án dân sự và các
văn bản hướng dẫn đi kèm. Theo đó, khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản
phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Một là, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản chỉ được thực
hiện sau khi xác định là đã hết thời gian tự nguyện thi hành án của người phải
thi hành án. Nguyên tắc của pháp luật dân sự bao giờ cũng là tôn trọng sự
thỏa thuận và tự nguyện của các bên liên quan. Việc tự nguyện đó được tôn
trọng ở bất cứ giai đoạn nào, ở giai đoạn thi hành án cũng không ngoại lệ.
Pháp luật vẫn cho người phải thi hành án một khoảng thời gian nhất định để
thi hành bản án, quyết định. Chỉ sau khi hết thời gian này mà người phải thi
hành án vẫn không thi hành đúng thì cơ quan THA mới tiến hành áp dụng
biện pháp có tính nghiêm khắc là kê biên tài sản.
Chấp hành viên chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế khi và chỉ khi đã hết
thời gian tự nguyện thi hành án. Tuy vậy để đảm bảo công tác dân sự đạt kết
quả, và đảm bảo quyền lợi chính đáng của người được thi hành án thì pháp
luật vẫn cho phép trường hợp ngoại lệ là nhằm ngăn chặn việc tẩu tán tài sản,
trốn tránh nghĩa vụ thi hành án thì CHV được áp dụng một số biện pháp bảo
đảm quy định trong Luật THADS.
Hai là, chỉ kê biên tài sản khi xác định được rõ ràng tài sản đó thuộc sở
hữu hợp pháp của người phải thi hành án. Tài sản đó phải đang do họ quản lý
sử dụng hoặc người thứ ba đang nắm giữ. Tài sản của người phải thi hành án
có thể là tài sản riêng của chính họ cũng có thể là tài sản chung trong khối tài
sản với người khác như tài sản chung vợ chồng, hoặc tài sản góp vốn chung…
24
Người phải thi hành án có quyền thỏa thuận với người được thi hành án
về tài sản được kê biên đảm bảo thi hành án. Nếu hai bên không thể thống
nhất quan điểm giải quyết thì người được thi hành án có quyền đề nghị chấp
hành viên về trình tự những tài sản sẽ kê biên và CHV phải chấp nhận việc đó
khi xác định được yêu cầu đó là chính đáng.
Nếu người phải thi hành án không có đề xuất thì thứ tự sẽ kê biên từ tài
sản riêng của người phải thi hành án trước, sau đó mới kê biên đến phần tài
sản chung trong khối tài sản của người phải thi hành án với người khác.
Pháp luật hiện nay không quy định rõ trường hợp người phải thi hành án
vừa có tài sản riêng vừa có tài sản chung với người khác mà tài sản riêng là
động sản, tài sản chung là bất động sản thì quy tắc ưu tiên kê biên tài sản là
động sản trước. Giả sử trường hợp tài sản riêng là bất động sản,còn tài sản
chung là động sản, mà phần tài sản chung kia đủ để thực hiện nghĩa vụ thi
hành án thì vẫn có thể kê biên tài sản chung đó. Trừ trường hợp nếu việc kê
biên tài sản chung đó làm cho người đồng sở hữu còn lại không còn phương
tiện để kiếm sống thì phải quay lại áp dụng kê biên tài sản riêng cho dù đó là
bất động sản.
Ba là, chỉ được kê biên tài sản của người phải thi hành án tương ứng với
nghĩa vụ của người đó và các chi phí tố tụng cần thiết do luật định.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/07/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật THADS quy định rất cụ thể: CHV căn cứ vào nội dung bản
án,quyết định, tính chất mức độ,nghĩa vụ thi hành án; điều kiện của người
phải thi hành án, đề nghị của người được thi hành án và tình hình thực tế để
lựa chọn một trong các biện pháp bảo đảm thi hành án thích hợp. Việc áp
dụng biện pháp phải tuân thủ nguyên tắc đúng, tương ứng giữa quyền và
nghĩa vụ. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn
hơn nhiều lần so với nghĩa vụ của họ mà không thể phân chia được khối tài
sản đó thì CHV vẫn có quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án. Để
25
làm được điều naỳ thì ngay khi xác minh tài sản thi hành án chấp hành viên phải
tính toán được giá trị cảu tài sản. Từ đó CHV mới có thể lực chọn tài sản kê biên
tương ứng với nghĩa vụ của họ trong trường hợp người đó có nhiều tài sản.
Đối với trường hợp chỉ có duy nhất một tài sản có giá trị lớn hơn nghĩa
vụ phải thi hành án mà việc kê biên sẽ làm ảnh hưởng tới giá trị của tài sản đó
thì CHV vẫn có quyền kê biên tài sản để đảm bảo quyền lợi chính đáng của
người được thi hành án mà pháp luật bảo vệ.
Như vậy, các nguyên tắc như kê biên tài sản riêng trước, tài sản chung
sau hoặc kê biên tài sản là động sản trước, bất động sản sau được quy định ở
pháp lệnh thi hành án thì nay theo Luật THADS đã được xóa bỏ. Đây là một
bước tiến mới vô cùng quan trọng trong lĩnh vực thi hành án, và quyền lợi của
người được thi hành án được bảo đảm tối đa quyền của mình.
Bốn là không được kê biên những tài sản mà pháp luật đã quy định là
không được kê biên.
Theo quy định tại Điều 87 Luật THADS năm 2014 sửa đổi bổ sung thì
những tài sản sau không được kê biên:
- Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ
mục đích quốc phòng an ninh, lợi ích công cộng; tài sản được cấp cho cơ
quan nhà nước từ nguồn ngân sách nhà nước. Những tài sản này có thề kể đến
như thuốc phiện,, pháo nổ, súng đạn, vật liệu gây nổ, phương tiện giao thông,
tiền lương của cán bộ công chức…
- Tài sản của người phải thi hành án là cá nhân. CHV không được tiến
hành kê biên tài sản trong các trường hợp sau:
+ Tài sản đó là tiền lương thực đáp ứng nhu cầu thực tế cấp thiết của
người phải thi hành án và gia đình trong thời gian chưa phát sinh nguồn thu
nhập nào mới;
+ Số thuốc cần dùng để phòng, chữa bệnh của người phải thi hành án và
gia đình;
26
+ Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng của người ốm như xe
lăn;
+ Đồ dùng thờ cúng về tâm linh theo tập quán ở địa phương. Tuy nhiên
bên cạnh đó có những đồ thờ cúng nhưng vẫn có thể được kê biên như lư
hương, đồ cổ...tuy nhiên phải xác định rõ nguồn gốc của tài sản đó.
+ Công cụ lao động cần thiết dùng làm phương tiện sinh sống chính của
gia đình hoặc duy nhất của người phải thi hành án.
+ Đồ dùng sinh hoạt cần thiết thiết yếu như quần áo, những vật dụng cá
nhân khác.
Năm là, tài sản của tổ chức không được kê biên theo quy định tài khoản
3 Điều 87 Luật THADS năm 2014.
+ Số thuốc phục vụ phòng, chữa bệnh cho người lao động, lương thực
thực phẩm, dụng cụ và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho người lao động. Trên
thực tế, các doanh nghiệp, hợp tác xã cơ sở sản xuất kinh doanh thường có
các phòng ban như phòng y tế, bếp ăn tập thể thì CHV không kê biên số thuốc
mà phòng y tế dự trữ, hoặc số lương thực dữ trữ phục vụ cho bữa ăn, sinh
hoạt chủ yếu của người lao động.
+ Trang thiết bị,phương tiện, công cụ bảo đảm an toàn lao động, phòng
chống cháy nổ, phòng chống ô nhiễm môi trường.
Cuối cùng về thời gian tổ chức thực hiện. Theo quy định tại khoản 2
Điều 13 NĐ 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của luật THADS thì cơ quan THADS
không được tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong thời
hạn 15 ngày trước và sau tết nguyên đán, các ngày truyền thống đối với các
đối tượng chính sách, người có công với cách mạng. Trường hợp buộc phải
cưỡng chế thì Thủ trưởng cơ quan THA cấp tỉnh và huyện phải có văn bản
báo cáo Chủ tịch UBND cùng cấp trước khi tổ chức cưỡng chế theo quy định
tại khoản 1 Điều 172, khoản 2 Điều 173, khoản 3 Điều 174 Luật THADS sửa
đổi năm 2014.
27
1.3.2.3. Căn cứ để áp dụng biện pháp kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Nếu như trong Điều 2 Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, những
căn cứ để áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của người phải thi
hành án là:
- Bản án, quyết định dân sự được thi hành (trong đó bao gồm những bản
án, quyết định đã có hiệu lực và bản án, quyết định chưa có hiệu lực nhưng
được thi hành ngay;
- Phải có quyết định THA của người có thẩm quyền ban hành;
- Quyết định, bản án được thi hành là quyết định, bản án về tài sản hoặc
có liên quan đến tài sản;
- Người mà pháp luật quy định là người phải thi hành án phải có tài sản
và tài sản đó đủ điều kiện được phép thi hành án theo Pháp lệnh THA dân sự
2004;
- Người phải thi hành án đã không THA tự nguyện trong thời gian pháp
luật quy định.
Tới Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, tại Điều 70 đã
có sự thay đổi rõ nét, điều luật quy định về những căn cứ để áp dụng biện
pháp kê biên tài sản một cách ngắn gọn nhưng bao quát được toàn bộ vấn đề.
Theo đó, các căn cứ để áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản gồm
những căn cứ sau đây:
- Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa án;
- Quyết định thi hành án;
- Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản; trừ trường
hợp bản án đã tuyên về việc phong tỏa tài khoản và trường hợp đã thi hành
biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
Điều này được lí giải rằng, trong quá trình tố tụng, khi Tòa án đã tuyên
việc phong tỏa tài khoản, hoặc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì giai
đoạn thi hành án không còn căn cứ để ra quyết định cưỡng chế kê biên tài sản
nữa, mà căn cứ vào quyết định trước đó của Tòa án mà cơ quan THADS tiến
28
hành kê biên tài sản khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành theo
bản án, quyết định đã tuyên.
Việc Tòa án tuyên kê biên tài sản nào đó tức là bảo đảm cho việc đương
sự không thể tẩu tán tài sản đó, khi đương sự không tự nguyện thi hành án thì
cơ quan thi hành án dân sự căn cứ vào quyết định kê biên của tòa án để cưỡng
chế mà không phải ra quyết định cưỡng chế nữa.
Có thể thấy rằng Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 đã
giải quyết được vướng mắc thời gian qua đó là trường hợp bản án đã tuyên
kê biên hoặc cơ quan thi hành án đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời thì cơ quan thi hành án có phải ra thêm quyết định thi hành án ở giai
đoạn thi hành án nữa hay không? Với quy định tại khoản 3 Điều 70 Luật thi
hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 thì Cơ quan thi hành án sẽ thống
nhất không ra thêm quyết định cưỡng chế thi hành án đối với trường hợp bản
án, quyết định của Tòa án đã tuyên áp dụng biện pháp khẩn cấp, tạm thời
hoặc tuyên phong tỏa tài khoản, tài sản, kê biên tài sản.
29
Tiểu kết chương 1
Thi hành án dân sự là việc thực hiện trên thực tế các quyền, nghĩa vụ đã
được bản án, quyết định ghi nhận. Thi hành án dân sự nhằm khôi phục lại
tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và mọi công
dân mà trong đó, quyền và lợi ích đó đã được pháp luật công nhận. Trên cơ sở
nguyên tắc bảo đảm tính tối cao của Hiến Pháp; Bảo đảm và tôn trọng quyền
con người, quyền công dân trong thi hành án dân sự; Xuất phát từ nguyên tắc
thỏa thuận và tự định đoạt của giao dịch dân sự trong thi hành án dân sự; Pháp
luật về thi hành án dân sự quy định các biện pháp thi hành án dân sự bao gồm:
biện pháp tự nguyện thi hành án và biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
Tự nguyện thi hành án là xuất phát từ phía các bên đương sự, nhằm thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự đã được bản án, quyết định ghi nhận, thể hiện ý
chí và sự mong muốn của các đương sự.
Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng
quyền lực của nhà nước, nhằm buộc người phải thi hành án dân sự thực hiện
những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của tòa án.
Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, biện pháp bảo đảm thi hành
án, biện pháp cưỡng chế hành chính đều sử dụng quyền lực của nhà nước để
đảm bảo thực hiện. Song chúng có những đặc điểm, đặc thù riêng có của từng
biện pháp và từng lĩnh vực áp dụng cụ thể. Nếu như cưỡng chế thi hành án
dân sự là biện pháp thi hành án dân sự nhằm buộc đương sự phải thực hiện
những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của tòa án;
Biện pháp bảo đảm là những chế tài theo quy định của pháp luật do chấp hành
viên tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đương sự áp dụng nhằm
ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án; Thì
cưỡng chế hành chính là biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính, quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả do vi
30
phạm hành chính gây ra trong trường hợp không áp dụng xử phạt, trách nhiệm
thi hành và bảo đảm thi hành quyết định cưỡng chế.
Trên cơ sở nghĩa vụ phải thi hành án, đối tượng áp dụng cưỡng chế để
thi hành nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án, và các quy định của
pháp luật về thi hành án; Có thể phân loại thành các nhóm biện pháp cưỡng
chế cụ thể như sau:
Đối tượng áp dụng cưỡng chế đối với tài sản là tiền để thi hành nghĩa
vụ trả tiền có thể phân loại thành 5 biện pháp cưỡng chế như : Biện pháp
cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản; Biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt
động kinh doanh của người phải thi hành án; Biện pháp cưỡng chế thu tiền
của người phải thi hành án đang giữ; Biện pháp cưỡng chế thu tiền của người
phải thi hành án đang do người thứ ba giữ; Biện pháp cưỡng chế trừ vào thu
nhập của người phải thi hành án.
Đối tượng áp dụng cưỡng chế là tài sản khác (không phải là tiền) để thi
hành nghĩa vụ trả tiền, có thể phân loại thành 4 biện pháp cưỡng chế như:
Biện pháp cưỡng chế thu giữ giấy tờ có giá; Biện pháp cưỡng chế đối với tài
sản là quyền sở hữu trí tuệ; Biện pháp cưỡng chế đối với tài sản là quyền sử
dụng đất; Biện pháp cưỡng chế khai thác tài sản.
Đối tượng áp dụng biện pháp cưỡng chế là vật để thi hành nghĩa vụ trả
vật theo nội dung được ghi cụ thể trong bản án, quyết định, có thể phân loại
thành 04 biện pháp cưỡng chế như: Biện pháp cưỡng chế trả vật; Biện pháp
cưỡng chế trả nhà, giao nhà; Biện pháp cưỡng chế trả giấy tờ; Biện pháp
cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất.
Đối tượng áp dụng biện pháp cưỡng chế là nghĩa vụ buộc thực hiện
hoặc không được thực hiện công việc nhất định theo nội dung bản án, quyết
định; Có thể phân loại thành 04 biện pháp như: Biện pháp cưỡng chế thi
hành nghĩa vụ buộc thực hiện công việc nhất định; Biện pháp cưỡng chế thi
hành nghĩa vụ không được thực hiện công việc nhất định; Biện pháp cưỡng
31
chế giao người chưa thành niên cho người được giao nuôi dưỡng theo bản án,
quyết định; Biện pháp cưỡng chế buộc nhận người lao động trở lại làm việc.
Ngoài ra, Pháp luật về thi hành án dân sự còn quy định cưỡng chế thi
hành án dân sự trong một số trường hợp cụ thể như: Kê biên, xử lý tài sản
cầm cố thế chấp; Kê biên tài sản đang do người thứ ba giữ; Kê biên vốn góp;
Kê biên phương tiện giao thông; Kê biên đồ vật bị khóa, đóng gói...
Kết thúc chương I, cũng là chương cơ bản nhất làm nền tảng cho tất cả
những vấn đề nghiên cứu về sau của luận văn. Nghiên cứu các vấn đề được
vạch ra tại chương I chúng ta hiểu được từng khái niệm về kê biên tài sản
trong thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam. Pháp luật của
các nước theo hệ thống luật Common Law(luật Anh – Mỹ) có quy định khác
biệt nhiều so với pháp luật của các quốc gia theo Civil Law. Nếu nhìn trên
mặt bằng chung thì có nhiều điểm Việt Nam, một đất nước theo hệ thống luật
Civil law cần phải học hỏi ở pháp luật Anh – Mỹ đó là vẫn đề quy định người
được thi hành án có quyền xác minh thi hành án, được sử dụng mọi biện pháp
để xác minh, và được sự hỗ trợ từ Tòa án. Đồng thời Tòa án cũng nên được
giao quyền ban hành lệnh yêu cầu người phải thi hành án có trách nhiệm cung
cấp thông tin chính xác về điều kiện thì hánh án của mình, để đảm bảo cơ
quan thi hành án có chế tài áp dụng nếu những cung cấp của người phải thi
hành án là sai.
32
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
Ở TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Thực trạng pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
2.1.1. Thực trạng pháp luật về thẩm quyền kê biên tài sản trong thi hành án
dân sự
Như đã phân tích ở chương 1, pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam
có quy định rõ ràng và khác biệt hơn so với một số nước trên thế giới, đó là
Việt Nam có cơ quan thi hành án dân sự riêng biệt, tách khỏi cơ quan tiến
hành tố tụng là Tòa án.
Theo đó, khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật sẽ được
chuyển sang cho cơ quan thi hành án dân sự tiến hành các thủ tục thực hiện việc
thi hành án. Khi người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án và hoàn thiện
tất cả hồ sơ, giấy tờ có liên quan gửi tới cơ quan THADS thì cơ quan THADS sẽ
tiếp nhận và phân công CHV tiến hành thụ lý, giải quyết. CHV là người có thẩm
quyền cao nhất trong quá trình tiến hành kê biên tài sản.
Sau khi CHV tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để xác minh điều kiện
thi hành án của người phải THA, đồng thời đối chiếu với thời hạn tự nguyện
THA mà có căn cứ cho rằng đã hết thời hạn THA tự nguyện nhưng người
phải THA không tự nguyện THA thì chấp hành viên trực tiếp phụ trách hồ sơ
vụ án ra quyết định kê biên tài sản.
Quyết định kê biên tài sản là một loại quyết định cưỡng chế thi hành án,
chính vì vậy người ký quyết định là CHV cơ quan THADS quy định tại khoản
5 Điêu 20 Luật THADS sửa đổi. Trong trường hợp người trực tiếp tổ chức
THA là thủ trường cơ quan THA thì ký quyết định kê biên, xử lý tài sản phải
nhân danh CHV chứ không phải Thủ trưởng lấy danh nghĩa mình để ký quyết
định.
33
Điều 20 quy định nhiệm vụ quyền hạn của CHV như sau:
“8. Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã
chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án
và các khoản phải nộp khác.”
Như vậy đối chiếu quy định trên, chỉ có CHV mới được quyền ký vào
quyết định cưỡng chế THA. Vai trò của CHV là đặc biệt quan trọng trong quá
trình thi hành án dân sự, cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án.
2.1.2. Thực trạng pháp luật về trình tự, thủ tục kê biên tài sản THADS
a. Xác minh điều kiện thi hành án.
Sau khi được phân công phụ trách thụ lý việc thi hành án thì CHV phải
sử dụng mọi nghiệp vụ và trong phạm vi pháp luật cho phép để tiến hành xác
minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Việc thi hành án chỉ
đạt được kết quả khi mà người phải thi hành án có điều kiện để thi hành bản
án, hay nói đúng hơn là có khả năng thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết
định của Tòa án đã tuyên. Rất nhiều trường hợp quyết định thi hành án đã
được ban hành, nhưng sau đó trong quá trình thực hiện việc thi hành án mới
phát sinh ra việc người phải thi hành án không còn bất cứ tài sản nào để thi
hành án, do vậy CHV lại phải ra quyết định tạm đình chỉ thi hành án.
Đây không phải là trường hợp ít xảy ra trên thực tế, đặc biệt là những
vụ án vay tiền bằng giấy tờ viết tay có ghi nhận việc thế chấp tài sản để làm
tin. Sau khi người vay tiền sử dụng khoản tiền vay đó để kinh doanh, vì một lí
do nào đó mà trong quá trình kinh doanh bị thua lỗ, không có khả năng để trả
nợ. Sau khi người cho vay khởi kiện ra tòa án, Tòa án tuyên buộc bên vay có
nghĩa vụ trả tiền cho bên nguyên đơn. Tuy nhiên khi xác minh điều kiện thi
hành án thì bên vay tiền đã không còn tài sản để thi hành án, nhà và đất được
ghi nhận trong giấy tờ vay mượn kia bên vay tiền cũng đã kịp chuyển nhượng
trước khi Tòa án giải quyết vụ việc. Do vậy việc thi hành án buộc phải tạm
đình chỉ vì người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án.
b. Ra quyết định kê biên tài sản thi hành án
34
Sau khi CHV tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải
thi hành án, xác minh về thời hạn tự nguyện thi hành án đã hết thì CHV ra
quyết định kê biên tài sản của người phải thi hành án.
Đối với bản án, quyết định đã tuyên kê biên rồi thì CHV xử lý tài sản đó
theo quy định tại Điều 98 về định giá tài sản kê biên và những điều khoản liên
quan như Điều 99, Điều 100, Điêu 101…mà không cần CHV phải ra thêm
một quyết định kê biên tài sản nữa. Điều này thể hiện cụ thể tại Điều 127 về
xử lý tài sản mà bản án, quyết định của Tòa án tuyên kê biên để đảm bảo thi
hành án của Luật THADS được sửa đổi bổ sung năm 2014.
Trước khi kê biên tài sản, CHV phải có nghĩa vụ gửi quyết định kê biên
tài sản đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong thời hạn 03 ngày làm việc
kể từ ngày ra quyết định.(Điều 38 Luật THADS sửa đổi bổ sung 2014)
Căn cứ quy định tại Điều 38 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung
năm 2014 thì ngoài việc gửi quyết định cho VKS cùng cấp, CHV phải gửi
cho Ủy ban nhân dân xã phường, thị trấn nơi có tài sản kê biên hoặc cơ quan,
tổ chức có liên quan đến việc thực hiện quyết định kê biên.
Tiếp đến, CHV phải gửi thông báo quyết định kê biên tài sản cho người
phải thi hành án biết về việc tài sản của họ sẽ được kê biên để thi hành án.
Gửi cho người được thi hành án và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan đến quyết định kê biên biết. (Quy định tại Điều 39 Luật Thi hành án dân
sự sửa đổi năm 2014).
c. Xây dựng kế hoạch kê biên tài sản
Cũng như các biện pháp cưỡng chế khác, trước khi kê biên tài sản của
người phải thi hành án thì CHV được giao nhiệm vụ tổ chức thi hành án vụ
việc phải lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án theo mẫu Luật định, trừ trường
hợp phải cưỡng chế ngay theo Điều 72 Luật THADS sửa đổi năm 2014.
Điều luật hiện hành đã nới lỏng việc quy định về vấn đề lập kế hoạch
thi hành án trong trường hợp cần thiết. Trước đây quy định tại Luật thi hành
35
án năm 2008 quy định việc lập kế hoạch thi hành án là bắt buộc không phụ
thuộc vào mức độ khó dễ của việc thi hành án.
Sau khi lập kế hoạch cưỡng chế, kế hoạch đó phải được gửi ngay cho
VKSND cùng cấp, cơ quan công an cùng cấp, ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ
chức cưỡng chế thi hành án và những người có liên quan đến việc thi hành án.
d. Lập danh sách những người tham gia kê biên tài sản
Bên cạnh việc lập kế hoạch kê biên tài sản, thì việc lập danh sách
những người tham gia kê biên tài sản cũng là một việc làm vô cùng quan
trọng. Trong danh sách đó phải xác định rõ quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia kê biên tài sản. Những người tham gia kê biên có thể kể đến
như: Người có tài sản bị kê biên, người được thi hành án, (trường hợp ủy
quyền thì phải có người đại diện theo ủy quyền hợp pháp), người làm chứng,
đại diện của chính quyền địa phương và đại diện viện kiểm sát cùng cấp, tổ
chức có liên quan nếu xét thấy việc có mặt của những người liên quan là cần
thiết.
Sau khi lập danh sách những người tham gia kê biên tài sản thì cơ quan
THA phải gửi thông báo đó cho những người có tên trong danh sách để họ
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
đ. Tiến hành thực hiện kê biên tài sản
- Trước khi tiến hành việc kê biên tài sản thì Chấp hành viên phải căn cứ
vào tình hình thực tế của tài sản và tính chất mức độ của vụ án đang được thi
hành án để bố trí và xử lý kịp thời những bước chuẩn bị. Kiểm tra các loại
giấy tờ cần thiết của những người liên quan xem đã đảm bảo đầy đủ hay chưa.
Nếu đó là vụ việc phức tạp, có thể gây mất trật tự an toàn tại nơi tiến hành kê
biên tài sản thì CHV phải thông báo và kết hợp với Công an nơi có tài sản kê
biên để đảm bảo cho việc kê biên được tiến hành an toàn nhất.
Trường hợp vụ việc đơn giản thì CHV cứ thực hiện những thủ tục như
bình thường để tiến hành kê biên tài sản.
36
Sau khi đã có quyết định cưỡng chế thi hành án, CHV vẫn để cho người
phải THA một khoảng thời gian để họ tự nguyện chấp hành việc THA, nếu họ
vẫn cố tình không thực hiện thì áp dụng ngay biện pháp cưỡng chế kê biên tài
sản. còn nếu người phải thi hành án tự nguyện thi hành thì CHV lập biên bản
về việc tự nguyện thi hành đó của người phải thi hành án.
Sau khi thông qua biên bản kê biên, CHV phải lấy chữ ký của tất cả
những người tham gia buổi thi hành án. Nếu một trong số những người đó
không đồng ý ký thì CHV lập biên bản hoặc ghi biên bản sự việc về nội dung
không chấp hành ký. Ngoài ra CHV lập biên bản thỏa thuận về giá tài sản kê
biên, lập biên bản về việc đương sự lựa chọn tổ chức giám định, thẩm định
giá nếu có những trường hợp này xảy ra.
- Bảo quản tài sản kê biên: Việc bảo quản tài sản kê biên được quy định
tại Điều 58 Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014: “1. Việc bảo quản
tài sản thi hành án được thực hiện bằng một trong các hình thức sau đây:
a) Giao cho người phải thi hành án, người thân thích của người phải thi
hành án theo quy định tại khoản 2 Điều 40 của Luật này hoặc người đang sử
dụng, bảo quản;
b) Cá nhân, tổ chức có điều kiện bảo quản;
c) Bảo quản tại kho của cơ quan thi hành án dân “
CHV có quyền lựa chọn các hình thức theo quy định trên để bảo quản
tài sản thi hành án.
(*)Đối với những tài sản đặc thù:
- Tài sản là vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, cổ vật, bảo vật quốc gia và
giấy tờ có giá được thực hiện theo quy định của Thông tư số 122/2012/TT-
BTC của Bộ tài chính quy định việc quản lý đối với các loại tài sản quý hiếm
và giấy tờ có giá khác do Kho bạc Nhà nước. Kho bạc Nhà nước có chức
năng bảo quản các loại vật chứng là vàng bạc, kim khí quý, đá quý, cổ vật,
bảo vật quốc gia. Tài sản thuộc diện tịch thu sung công mà chưa xử lý thì
Chấp hành viên phải gửi các tài sản này tại Kho bạc nhà nước. Những tài sản
37
còn lại bị kê biên để đảm bảo thi hành các nghĩa vụ về tài sản thì CHV làm
thủ tục gửi các tài sản này vào ngân hàng.
- Tài sản là quyền sử dụng đất: Đối với tài sản là quyền sử dụng đất được
thực hiện theo quy định tại Điều 112 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi bổ
sung năm 2014 như sau: Trường hợp diện tích đất đã kê biên đang do người
phải thi hành án quản lý, khai thác, sử dụng thì CHV tạm giao diện tích đất đã
kê biên cho người phải thi hành án. Trong trường hợp diện tích đất đã kê biên
đang do tổ chức cá nhân khác quản lý thì tạm giao cho tổ chức, các nhân đó
tiếp tục khai thác, quản lý; trường hợp không có tổ chức, cá nhân nào nhận thì
Cơ quan thi hành dân sự tiến hành ngay việc định giá và bán đấu giá theo quy
định của pháp luật.
2.1.3. Thực trạng pháp luật về tài sản kê biên
2.1.3.1. Kê biên tài sản đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ
Việc kê biên tài sản là quyền sở hữu trí tuệ của người phải thi hành án
là một trong những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung,
quy định tại Điều 84. Do đó, khi thực hiện việc kê biên loại tài sản này buộc
người phải thi hành án, CHV và những cơ quan liên quan phải tìm hiểu thật
kỹ những đặc thù của loại tài sản này. Đây là loại tài sản vô hình, con người
không hề cầm nắm được nên rất khó để định giá loại tài sản này. Quyền sở
hữu trí tuệ có tính đặc thù cao, hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn chi
tiết việc kê biên tài sản đối với loại tài sản này. Do đó, để đảm bảo kê biên
được tài sản này thì CHV phải thực hiện theo các quy định chặt chẽ sau:
- Chỉ quyết định kê biên quyền SHTT khi đã xác định được quyền sở
hữu trí tuệ đó thuộc quyền sở hữu của người phải thi hành án. Trong trường
hợp người phải thi hành án là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ chuyền quyền
sở hữu trí tuệ cho cơ quan khác thì quyền sở hữu trí tuệ vẫn bị kê biên để thi
hành án. Vì việc chuyển giao đó chỉ là chuyển giao quyền khai thác, còn chủ
sở hữu trên thực tế vẫn là tác giả của quyền SHTT đó. Loại trừ trường hợp
quyền SHTT đó được chuyển giao cho cơ quan tổ chức khác trong một thời
38
gian nhất định để khai thác nhằm đảm bảo mục đích quốc phòng an ninh của
nhà nước, xã hội thì không được quyền kê biên tài sản đó.
- Về thủ tục kê biên: Khi tiến hành kê biên quyền SHTT, tùy từng đối
tượng của quyền SHTT, CHV phải tiến hành thu giữ những giấy tờ liên quan
đến quyền SHTT đó như: bằng sáng chế, giấy chứng nhận đăng ký thương
hiệu, nhãn hiệu; văn bằng bảo hộ kiểu dáng công nghiệp; giấy chứng nhận
quyền tác giả. Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn chi tiết việc
định giá quyền SHTT, vì vậy trên thực tiễn rất ít trường hợp CHV kê biên
quyền SHTT.
2.1.3.2. Kê biên tài sản là quyền sử dụng, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu
hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm
Như đã phân tích ở trên việc kê biên tài sản là quyền sử dụng đất hay
tài sản là các tài sản đảm bảo khác thì người kê biên phải xác minh thông tin
của tài sản cần thi hành, tiến hành gửi các thủ tục cần thiết và sau khi kết thúc
việc kê biên tài sản thì tiến hành thông báo cho cơ quan đăng ký tài sản bảo
đảm biết được về tình trạng của tài sản sau khi đã kê biên.
2.1.3.3. Đối với tài sản đang cầm cố, thế chấp
Theo quy định tại Điều 90 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ
sung năm 2014, CHV có quyền kê biên tài sản đang cầm cố, thế chấp.
Việc kê biên tài sản này cần phải đảm bảo điều kiện: Người phải thi
hành án trên thực tế không còn bất cứ tài sản nào để thi hành án, hoặc có
nhưng không đủ để thi hành án; đặc biệt giá trị tài sản đảm bảo phải lớn hơn
nghĩa vụ được bảo đảm và chi phí cưỡng chế thi hành án.
Trong vấn đề kê biên tài sản đang cầm cố thế chấp đó, cần xác minh
những vấn đề liên quan trực tiếp như việc cầm cố, thế chấp tài sản đó có hợp
pháp không;
Giá trị của tài sản cầm cố thế chấp có cao hơn giá trị của nghĩa vụ phải
thi hành án hay không? Chỉ khi nào xác minh được thực tế người phải thi
hành án không còn tài sản nào khác ngoài tài sản đang cầm cố thế chấp và giá
39
trị của tài sản đang cầm cố thế chấp phải đảm bảo lớn hơn nghĩa vụ phải thi
hành thì mới tiến hành kê biên tài sản. Điều này đảm bảo được quyền lợi cho
đương sự, đồng thời tránh việc tốn kém chi phí kê biên tài sản không đạt được
mục đích.
Khi tiến hành kê biên tài sản, CHV phải thông báo ngay cho người
nhận cầm cố, thế chấp và khi xử lý tài sản đó thì CHV phải ưu tiên thanh toán
cho nghĩa vụ được đảm bảo sau khi đã trừ đi chi phí về thi hành án.
Trường hợp xác minh tài sản cầm cố, thế chấp mà tài sản đó giá trị thấp
hơn nghĩa vụ phải thi hành thì CHV không tiến hành kê biên tài sản đó mà chỉ
thông báo cho người đang cầm cố, thế chấp biết về nghĩa vụ người phải thi
hành án đang phải thi hành.
2.1.3.4. Kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ
Theo quy định tại Điều 91 Luật thi hành án dân sự năm 2014 thì CHV
có quyền kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba nắm
giữ. Trong trường hợp này, CHV ra quyết định kê biên tài sản đó khi tài sản
đó có giá trị tương đương với nghĩa vụ của người phải thi hành án cộng với
các chi phí cần thiết để thi hành án. Nếu người đang trực tiếp giữ tài sản
không tự nguyện giao nộp tài sản đó thì CHV cưỡng chế buộc họ phải giao tài
sản đó.
2.1.3.5. Kê biên vốn góp của người phải thi hành án
Đây là một nội dung rất mới trong Luật THADS sửa đổi bổ sung năm
2014. Mặc dù vấn đề xác định vốn góp không phải là dễ tuy nhiên buộc phải
xác minh để kê biên đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án.
Điều 92 quy định cụ thể: “Điều 92. Kê biên vốn góp
1. Chấp hành viên yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức nơi người phải thi
hành án có vốn góp cung cấp thông tin về phần vốn góp của người phải thi
hành án để kê biên phần vốn góp đó. Trong trường hợp cần thiết, Chấp hành
viên yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xác định phần vốn góp của người phải
40
thi hành án; trưng cầu tổ chức, cá nhân có chuyên môn xác định phần giá trị
vốn góp của người phải thi hành án để cưỡng chế thi hành án.
2. Đương sự có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần vốn góp của người
phải thi hành án.”
Để xác minh được nội dung trên, CHV có quyền sử dụng những quyền
hạn của mình để xác minh phần vốn góp của người phải thi hành án trong tổ
chức mà người đó góp vốn thành lập. Trong trường hợp CHV không tự mình
xác minh được thì có quyền yêu cầu tổ chức đó cung cấp thông tin về giá trị
vốn góp xác định tỷ lệ góp vốn của người phải thi hành án.
2.1.3.6. Kê biên đối với đồ vật bị khóa, đóng gói
Đối với tài sản là đồ vật bị khóa, đóng gói, thì khi tiến hành kê biên tài
sản, trường hợp người phải thi hành án tự nguyện mở khóa đồ vật, mở đóng
gói thì CHV để cho họ tự mở. Trường hợp không tự nguyện mở thì CHV tiến
hành mở đóng gói, mở khóa. Việc mở đó phải được lập thành biên bản,có sự
chứng kiến của tất cả mọi người tham gia cùng ký tên.
2.1.3.7. Kê biên tài sản gắn liền với đất
Điều 94 Luật THADS sửa đổi năm 2019 quy định khi kê biên tài sản gắn
liền với đất là công trình xây dựng thì phải kê biên cả quyền sử dụng đất
(QSDĐ). Như vậy, chỉ trừ trường hợp pháp luật hiện hành không cho phép kê
biên QSDĐ đó ví dụ như đó là đất lấn chiếm, hoặc đất không phải của người
phải thi hành án thì các trường hợp còn lại nếu kê biên tài sản gắn liên với đất,
CHV có quyền kê biên cả QSDĐ đó.
Một số trường hợp ngoại lệ mà không thể kê biên được đất thì CHV có
thể lựa chọn việc kê biên theo hình thức khai thác hoa lợi lợi tức từ tài sản đó.
Tuy nhiên việc này gặp phải rủi ro cao ví dụ như sự tăng giảm của lợi tức từ
tài sản đó không cố định, thời gian thi hành án không đảm bảo được quyền
cho người được thi hành án.
41
2.1.3.8. Kê biên tài sản là nhà ở
Khắc phục những bất cập trong quy định tại Luật thi hành án dân sự
trước đây, Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 đã chỉ rõ tại khoản 1 Điều
95: “1. Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành án và
gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có các tài sản
khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi
hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án.”
Ở đây chỉ áp dụng cho trường hợp kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của
người phải thi hành án chứ không quy định cho việc kê biên nhà ở của người
phải thi hành án. Như vậy nếu người phải thi hành án có nhiều nhà ở khác
nhau thì CHV được lựa chọn kê biên một trong những nhà ở đó. CHV phải
đánh giá xem nhà nào có giá trị tương ứng với nghĩa vụ của người phải thi
hành án cùng các chi phí phát sinh trong quá trình THA. Đây là một điểm vô
cùng tích cực và mới tại pháp luật hiện hành. Từ đó CHV không bị vướng vào
vòng quay phải cưỡng chế nhiều lần như luật cũ.
Cũng như việc kê biên tài sản gắn liền với đất thì về nguyên tắc chung,
CHV phải tiến hành kê biên cả quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở đó.
2.1.3.9. Kê biên tài sản là phương tiện giao thông
Phương tiện giao thông là những tài sản dùng để đi lại, vận chuyển hàng
hóa, hành khách, tài sản trong quá trình lưu thông, khi kê biên phương tiện
giao thông của người phải THA thì CHV phải yêu cầu người phải thi hành án
cung cấp giấy đăng ký phương tiện đó. Nếu người đó không chịu giao giấy tờ
hoặc kể cả trường hợp mất thì CHV vẫn tiến hành kê biên tài sản và giải
thích rõ cho người phải THA được biết về hậu quả của việc gây khó dễ của
họ, hướng dẫn cho họ về quyền khiếu nại, quyền khỏi kiện ra TAND các cấp.
Đối với phương tiện giao thông đang được khai thác, sử dụng thì sau khi
kê biên, CHV có thể thu giữ hoặc giao cho người phải thi hành án tiếp tục
khai thác nhưng tuyệt đối không được sử dụng quyền của chủ sở hữu đối với
tài sản đó.
42
Sau khi kê biên, CHV yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấm để cho
phương tiện đó lđược chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, cho thuê và lưu
thông hạn chế.
2.1.4.Thực trạng pháp luật về giải tỏa kê biên tài sản
Theo quy định tại khoản 1 Điều 105 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm
2014 thì việc giải tỏa kê biên được hiểu như sau: “1. Việc giải tỏa kê biên tài
sản được thực hiện trong các trường hợp sau đây:
a) Đương sự thỏa thuận về việc giải tỏa kê biên tài sản mà không ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;
b) Đương sự đã thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án và các chi phí thi
hành án theo quy định của Luật này;
c) Có quyết định của người có thẩm quyền hủy bỏ quyết định kê biên tài
sản;”
Như vậy, nếu trong quá trình xử lý tài sản kê biên mà đương sự thỏa
thuận được về việc giải tỏa kê biên, mà việc thỏa thuận này không làm ảnh
hưởng tới nghĩa vụ của người phải thi hành án đối với việc thực hiện nghĩa vụ
của họ, không làm ảnh hưởng tới người được thi hành án thì việc giải tỏa kê
biên được áp dụng; Hoặc trong trường hợp người có tài sản kê biên để thi
hành án, tuy nhiên người đó đã dùng cách khác để hoàn thành nghĩa vụ thi
hành án và các chi phí THA phát sinh thì việc giải tỏa kê biên cũng được áp
dụng.
Trong những trường hợp nói trên, khi CHV đồng ý cho biệc giải tỏa kê
biên thì điều kiện để thực thi được thì CHV phải ra quyết định giải tỏa kê
biên, sau khi có quyết định trong thời hạn 05 ngày cơ quan THA phải trả lại
tài sản kê biên cho chủ sở hữu.
2.1.5. Thực trạng pháp luật về xử lý tài sản kê biên
Sau khi tiến hành kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án, vấn đề xử lý
tài sản sau kê biên cũng là vấn đề đáng lưu ý. Pháp luật quy định về việc xử lý
tài sản kê biên như sau:
43
2.1.5.1.Giao tài sản cho người được thi hành án
Tài sản sau khi đã được CHV kê biên, định giá, trường hợp đầu tiên sẽ
giao lại cho người được thi hành án. Tại buổi kê biên hoặc sau khi đã thực
hiện việc kê biên tài sản của người phải thi hành án hoặc sau khi định giá tài
sản kê biên người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền tự
thỏa thuận với nhau liên quan đến tài sản và nghĩa vụ của các bên để trừ vào
tiền được thi hành án. Khi đó, CHV phải lập biên bản sự việc về việc các bên
thỏa thuận được; trong thời hạn 05 ngày các bên buộc phải thực hiện xong
theo những gì đã thống nhất và có sự chứng kiến của CHV.
2.1.5.2 Bán đấu giá tài sản
Việc bán đấu giá tài sản thực hiện theo quy định tại Luật này, BLDS 2015 và
nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/03/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài
sản. Đối với những tài sản là động sản và tài sản do tổ chức bán đấu giá thực hiện.
Việc tham gia của tổ chức bán đấu giá được thông qua hình thức ký hợp đồng
giữa chấp hành viên có thẩm quyền kê biên tài sản và tổ chức bán đấu giá.
Pháp luật cũng quy định cho CHV được quyền bán đấu giá tài sản đối
với những tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi chưa có tổ chức bán đấu
giá hoặc có tổ chức bán đấu giá nhưng tổ chức đó từ chối việc ký hợp đồng
bán đấu giá tài sản.
Đối với việc bán đấu giá, CHV phải hết sức lưu ý trong việc đứng ra ký
kết hợp đồng bán đấu giá tài sản. Bởi khi đứng ra ký hợp đồng, đồng nghĩa
với CHV là một bên trong chủ thể hợp đồng và phải chịu mọi trách nhiệm đối
với quyền và nghĩa vụ của một chủ thể trong giao dịch. Nếu xảy ra tranh chấp
hoặc sai sót trong việc bán đấu giá, CHV có thể bị khởi kiện và gánh vác
trách nhiệm rất lớn trong vấn đề này.
2.1.5.3 Bán tài sản không qua thủ tục bán đấu giá
Trường hợp tài sản kê biên được bán không qua thủ tục bán đấu giá
được quy định tại khoản 1 Điều 101 Luật THADS sửa đổi năm 2014. Điều
luật quy định như sau:
44
- Các tài sản đem bán: Những tài sản có giá trị dưới 2.000.000đồng.
- Thời hạn bán tài sản: trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ
ngày kê biên tài sản theo khoản 4 ĐIều 101 Luật THADS;
- Thủ tục bán tài sản: Khi bán cơ quan THADS mời đại diện VKSND
cùng cấp để cùng giám sát kết quả bán tài sản.
2.1.5.4. Chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản thi hành án
Việc chuyển quyền sở hữu thực hiện theo các bước sau:
- Giao tài sản đấu giá cho người mua theo đúng thời gian, thủ tục và
các vấn đề liên quan theo đúng như thỏa thuận trong hợp đồng bán đấu giá
tài sản. Người phải thi hành án hoặc người đang trực tiếp quản lý tài sản đối
với trường hợp quản lý và sở hữu tài sản không cùng một người phải giao tài
sản bán đấu giá cho người mua hoặc người nhận tài sản để trừ vào tiền phải
thi hành án. Nếu không tự nguyện thì CHV có quyền cưỡng chế thi hành.
- Giao tài sản cho người nhận tài sản thi hành án. Trường hợp không
tiến hành bán đấu giá tài sản mà giao trực tiếp cho người được thi hành án thì
CHV phải chứng kiến việc giao nhận đó, lập biên bản có chữ ký của các bên
để xác định việc giao nhận là đúng luật và đã thực hiện đầy đủ tự nguyện.
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên tài sản đảm bảo thi hành án
2.2.1. Thực tiễn chung
Hiện nay với tình hình phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước
nhà cũng như sự phát triển của toàn xã hội thì vấn đề tranh chấp xảy ra ngày
càng nhiều. Để giải quyết được tranh chấp đó là cả một quá trình, trong đó
nếu xét về tố tụng thì giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng, và cũng là
giai đoạn quyết định việc bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên có được
thực hiện hay không? Và việc thực hiện tới đâu?
Việc thi hành dứt điểm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
trên thực tế có ý nghĩa vô cùng to lớn, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho
người được thi hành và đồng thời đảm bảo trật tự xã hội.
45
Để thực hiện được điều này Nhà nước đã trao quyền cho cơ quan
THADS thực hiện mọi biện pháp, thủ tục trong giới hạn cho phép để thi hành
pháp luật. Trong các biện pháp đó thì “Kê biên tài sản” luôn được nhắc đến là
biện pháp hữu hiệu hàng đầu, cũng là biện pháp thông dụng nhất trong quá
trình xử lý tài sản ở giai đoạn thi hành án.
Với vai trò và nhiệm vụ của cơ quan THADS nói chung, kể từ khi
được trao quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản, cơ quan THADS mà ở đó
là những cán bộ công chức đã nỗ lực hết mình mang lại hiệu quả cao nhất
trong quá trình thi hành án. Từ đó rất nhiều bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực đã được thi hành và mang lại kết quả đáng kể. Tình trạng bản án,
quyết định treo để đấy không thi hành được đã giảm đi rất nhiều, từ đó góp
phần vào việc ổn định tình hình an ninh chính trị của đất nước và sự phát triển
của xã hội.
2.2.2 Thực tiễn trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh nằm ở địa đầu phía đông bắc Việt Nam, có dáng một con
cá sấu nằm chếch theo hướng Đông Bắc - Tây Nam. Tỉnh Quảng Ninh cách
thủ đô Hà Nội 153 km về phía Đông Bắc. Phía đông nghiêng xuống nửa phần
đầu Vịnh Bắc bộ, phía tây tựa lưng vào núi rừng trùng điệp. Toạ độ địa lý
khoảng 106o26' đến 108o31' kinh độ đông và từ 20o40' đến 21o40' vĩ độ bắc.
Bề ngang từ đông sang tây, nơi rộng nhất là 102 km. Bề dọc từ bắc xuống
nam khoảng 195 km. Phía đông bắc của tỉnh giáp với Trung Quốc, phía
nam giáp vịnh Bắc Bộ, phía tây nam giáp tỉnh Hải Dương và thành phố Hải
Phòng, đồng thời phía tây bắc giáp các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và Hải
Dương. Là tỉnh duy nhất có 04 thành phố: Hạ Long, Móng Cái, Uông Bí,
Cẩm Phả, tiến tới năm 2022 sẽ có năm thành phố.
Là một trong 25 tỉnh, thành phố có biên giới, tuy nhiên lại là tỉnh duy
nhất có đường biên giới cả trên bộ và trên biển với Trung Quốc, với đường
biên giới trên bộ dài 118,825 km và đường phân định Vịnh Bắc Bộ trên biển
dài trên 191 km. Mặc khác, Quảng Ninh là một trong 28 tỉnh, thành có biển,
46
với đường bờ biển dài 250 km, trong đó có 40.000 hecta bãi triều và trên
20.000 hecta eo vịnh, có 2/12 huyện đảo của cả nước.
Với tất cả những đặc điểm, điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý kể trên,
dường như Quảng Ninh đang có vố số lợi thể để phát triển kinh tế của mình.
Đồng nghĩa với những phát triển đó thì không tránh khỏi những mâu thuẫn
xảy ra trong quá trình kinh doanh buôn bán, có rất nhiều vụ án tranh chấp xảy
ra được đưa tới Tòa án giải quyết và bước cuối cùng là thi hành án.
Nằm trong tình hình chung với cả nước, việc thi hành án dân sự trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh đặc biệt là trong việc áp dụng biện pháp “kê biên tài
sản” cũng là biện pháp được sử dụng nhiều nhất. Tình trạng bản áo treo không
thi hành được cũng không tồn đọng quá nhiều. Chấp hành viên ngày càng
nâng cao được khả năng nghiệp vụ của mình, không chỉ dừng lại ở việc hiểu
biết pháp luật trong vấn đề THADS mà theo đó còn nâng cao hiểu biết trong
các ngành liên quan đến vấn đề thi hành án.
Dưới đây là bảng số liệu cụ thể về tình hình thực hiện biện pháp cưỡng
chế kê biên tài sản của người phải thi hành án trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh:
(Số liệu ở Phụ lục 01đi kèm)
Dựa trên bảng số liệu thực tế được Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Ninh phối hợp cung cấp, có thể thấy được tình hình kê biên tài sản trong thi
hành án ở tỉnh Quảng Ninh trong những năm gần đây đạt được những kết quả
khả quan. Số vụ án mà người phải thi hành án tự nguyện thi hành đang ở mức
tăng lên, đồng nghĩa với việc những vụ án phải ra quyết định cưỡng chế, kê
biên giảm đi nhiều. Có những vụ án khi ra quyết định cưỡng chế kê biên tài
sản, nhưng sau đó khi được sự giải thích của chấp hành viên thì người phải thi
hành án cũng đã có động thái tự nguyện ở giai đoạn này.
Tất cả những thay đổi đó chứng minh nhận thức của người dân đối với
công tác thi hành án đang ngày một tăng lên, trình độ hiểu biết pháp luật của
người dân nâng cao hơn. Điển hình có thể nhận thấy năm 2014 số việc cưỡng
chế không cần huy động lực lượng là 39 vụ. Đến năm 2018 đã tăng lên 66 vụ
47
không cần huy động lực lượng tham gia cưỡng chế. Vụ việc cưỡng chế cần
huy động lực lượng trên 50 người đã không còn. Điều đó chứng tỏ việc chấp
hành pháp luật của người dân đã được nâng cao đáng kể.
Năm 2014 số việc mà đương sự tự nguyện thi hành trước khi cưỡng chế
là 10 vụ trên tổng số 52 vụ chiếm khoảng 19,2%. Tuy nhiên đến năm 2018 đã
tăng lên 40 vụ trên tổng số 79 vụ, chiếm 51% . Như vậy chỉ trong 3 năm, con
số này đã tăng thêm 30%. Đây là một tín hiệu đáng mừng trong công tác thi
hành án nói chung và của địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
Tuy nhiên với thuận lợi đó, có những vụ án liên quan đến đối tượng phải
thi hành án là đất và tài sản trên đất, khiến cho CHV loay hoay trong quá trình
ra quyết định thi hành án, và trên thực tế là rất khó để thi hành án.
Ví dụ: “Năm 2015 xảy ra vụ án trên địa bàn huyện Hải Hà, tỉnh Quảng
Ninh. Anh A là người được cấp GCNQSDĐ đối với diện tích 300m2. Sau khi
anh A được cấp đất thì có dựng tạm một ngôi nhà để mẹ đẻ sống, anh A
không sống cùng mẹ. Anh B là em trai ruột của anh A, có ngỏ ý được ở chung
với mẹ trên thửa đất của anh A, anh A đồng ý cho ở nhờ.
Hai năm sau khi bà mẹ mất, anh B cũng không có ý định trả lại nhà đất
cho anh A, mà còn có thái độ không tôn trọng anh A, khi anh A yêu cầu trả lại
nhà và đất thì B không đồng ý và đuổi A ra khỏi nhà, cho rằng đất của mình.
Anh A làm đơn khởi kiện ra TAND huyện Hải Hà, sau đó TAND huyện Hải
Hà xác định anh B phải trả lại toàn bộ nhà và đất cho anh A. Tuy nhiên khi
hồ sơ chuyển quan cơ quan thi hành án, trong quá trình xác minh điều kiện
thi hành án thì phát sinh vấn đề, trong thời gian sống cùng mẹ trên thửa đất
đó, anh B đã xây dựng một ngôi nhà khoảng 40m2, ngôi nhà có diện tích
chồng lên diện tích đất công ích, lấn sang diện tích của nhà bên cạnh, và hơn
nữa diện tích đất này còn nằm trong dự án đã được lập quy hoạch.
Cơ quan thi hành án đang loay hoay không biết xử lý vấn đề thi hành án
như thế nào, không thể buộc anh B đập ngôi nhà kia để trả đất cho anh A
được. Do vậy CHV đã áp dụng phương thức vận động thi hành án, cho các
48
bên gặp gỡ để thuyết phục anh A nhận lại giá trị đất bằng cách nhận bằng
khoản tiền giải phóng mặt bằng đã được lập. Các bên đã đi đến thống nhất,
vụ việc đã được giải quyết dứt điểm khi anh A hoàn tất hồ sơ nhận tiền bồi
thường dự án.”
Khi người phải thi hành án tự nguyện thi hành không cần cưỡng chế thì
người được thi hành án sẽ nhanh chóng lấy lại được tài sản. Đồng thời cũng
giảm bớt được chi phí thi hành án khi không phải cưỡng chế, không phải tổ
chức thực hiện những công tác liên quan tới cưỡng chế tài sản thi hành nhất là
ở khâu đưa tài sản ra định giá, bán đấu giá…Số vụ việc cưỡng chế không
thành công là không xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. 100% các vụ việc
khi đã phải ra quyết định cưỡng chế thì đều thành công, không để lại án tồn
không thi hành được.
Ví dụ: “Năm 2016, công ty TNHH đo đạc bản đồ Hạ Long khởi kiện
công ty TNHH MTV Việt Mỹ - Hạ Long vì chậm thanh toán tiền theo hợp
đồng đã ký từ năm 2012. Sau khi hồ sơ được thụ lý, TAND Tp. Hạ Long đã
xem xét toàn bộ chứng từ mà công ty đo đạc bản đồ Hạ Long cung cấp cho
Tòa án và tuyên buộc công ty Việt Mỹ- Hạ Long có trách nhiệm trả lại số tiền
80.000.000đồng cộng với khoản tiền lãi phát sinh từ năm 2012 tới năm 2016.
Đến giai đoạn thi hành án, qua quá trình xác minh điều kiện thì hành án
thì toàn bộ tài khoản của công ty Việt Mỹ đều không có số dư, nghĩa là chỉ có
tài khoản mà không có tiền để thi hành án. Chi cục THADS thành phố Hạ
Long đã tiến hành xác minh tài sản là máy móc, thiết bị của công ty để đánh
giá giá trị phù hợp với nghĩa vụ phải thi hành án. Trong quá trình xác minh
kê biên, đại diện Công ty Việt Mỹ là ông Huỳnh Văn Trach, phó giám đốc đã
chủ động hẹn làm việc với Giám đốc công ty đo đạc bản đồ Hạ Long, hai bên
thỏa thuận trả ngay tiền gốc và miễn một phần lãi suất phát sinh. Sau đó sự
việc cũng được giải quyết kịp thời mà chưa phải tiến hành kê biên tài sản trên
thực tế”
49
Trong các biện pháp cưỡng chế thì biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản
đảm bảo thi hành án là biện pháp được chấp hành viên áp dụng rộng rãi nhất,
phổ biến nhất so với các biện pháp còn lại. Kê biên tài sản đảm bảo thi hành
án đòi hỏi trình tự thực hiện chặt chẽ, do vậy nên hiệu quả của biện pháp này
là rất cao vì trong quá trình trước khi ra quyết định kê biên tài sản, CHV còn
có có thời gian xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Điều này giúp cho việc thi hành án đạt kết quả cao hơn.
Trong số những loại tài sản phải kê biên đảm bảo thi hành án tại địa bàn
tỉnh Quảng Ninh, có thể thấy đặc thù của tỉnh Quảng Ninh là không có trường
hợp nào xảy ra đối với việc cưỡng chế kê biên tài sản là quyền sở hữu trí tuệ,
đây là loại tài sản đặc biệt mà đến Luật thi hành án sửa đổi bổ sung năm 2014
mới được đưa vào thể chế hóa thành luật.
Loại tài sản được kê biên nhiều nhất tập trung đối với quyền sử dụng đất,
nhà ở gắn liền với đất. Đây là loại tài sản gắn liền với cuộc sống của con
người và cũng là loại tài sản dễ cưỡng chế kê biên hơn các loại tài sản còn lại.
Mặc dù liên quan tới quyền sử dụng đất khi kê biên sẽ phát sinh nhiều
trường hợp như tài sản là sở hữu chung, hoặc tài sản đó đang cầm cố thế
chấp…nhưng nhìn chung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hoặc hầu hết trên cả
nước thì loại tài sản này vẫn được cưỡng chế kê biên phổ biến nhất.
Đối với việc kê biên tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liên với
đất, khó khăn còn tồn tại trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là một số vụ án khi
CHV quyết định kê biên tài sản là QSDĐ, nhưng trên đất đó lại có tài sản của
người khác không phải là ngưởi phải thi hành án thì chưa có hướng xử lý dứt
điểm. Ví dụ: “Năm 2017, CHV tiến hành kê biên quyền sử dụng đất của người
phải THA là ông Trần Văn Sơn, người có tài sản trên đất thi hành án là bà
Nguyễn Thị Nhường. Người phải thi hành án là ông Sơn đã thỏa thuận với bà
Nhường giá trị tài sản trên đất cao gấp khoảng 10 lần giá trị thực của tài sản.
Trường hợp này nếu chấp nhận thỏa thuận giữa hai bên sẽ ảnh hưởng đến
quyền lợi của người được thi hành án là ông Đào Bá Minh, nhưng nếu không
50
chấp nhận thì khó cho công tác thi hành án. Do vậy hiện nay vụ án vẫn chưa
được thi hành xong và cơ quan thi hành án đang tiến hành xin ý kiến để giải
quyết dứt điểm”.
Trong vụ án thực tế nói trên, đối tượng để thi hành án thuộc trường hợp
điển hình trong những vụ việc liên quan tới tài sản là quyền sử dụng đất, tài
sản gắn liền với đất. Nếu CHV có thể thuyết phục được các bên thỏa thuận
với nhau về cách thức để thi hành án thì vụ việc sẽ sớm được giải quyết,
nhưng nếu ông Sơn và người liên quan là bà Nhường không thống nhất được
với nhau về giá trị của tài sản trên đất, và vì không thống nhất được giá nên
kéo dài thời gian thi hành án của vụ án ảnh hưởng tới quyền lợi của người
được thi hành án là ông Minh. Trường hợp này, CHV lại phải linh hoạt để áp
dụng phương pháp vận động thi hành án thì mới mang lại kết quả cao được.
Trong công tác thi hành án dân sự, tỉnh Quảng Ninh đã đạt được những
thành quả đáng ghi nhận nhưng cũng không thể không kể đến những khó
khăn còn tồn tại. Là tỉnh thành phát triển kinh tế mạnh mẽ tuy nhiên Quảng
Ninh cũng là tỉnh mà đa phần là đồi núi, địa hình trắc trở, việc thi hành án đối
với những tài sản tập trung ở khu vực vùng sâu vùng xa rất tốn kém chi phí,
đi lại khó khăn mà khả năng thi hành án thành công cũng không cao. Bên
cạnh đó là tình trạng dân trí còn thấp, không đồng đều ở các vùng miền, chưa
hiểu biết pháp luật rõ ràng nên dẫn tới còn gây khó khăn cho cán bộ thi hành
án trong việc cưỡng chế kê biên để thi hành án.
Ví dụ: “Năm 2014, vụ việc xảy ra trên địa bàn huyện Ba Chẽ, cũng là
một huyện miền núi nghèo của tỉnh Quảng Ninh. Ông Trần Văn Mạ ký “giấy
mua bán nhà đất” với anh Dương Văn Quang, hai bên không làm hợp đồng
chuyển nhượng theo đúng hình thức hợp pháp mà chỉ viết tay có ký nhận. anh
Quang đã thực hiện việc thanh toán đủ số tiền đã thỏa thuận và có cho ông
Mạ một khoảng thời gian là 02 tháng để ông Mạ chủ động tìm người trả được
giá tài sản cao hơn. Khi hết thời hạn nói trên, anh Quang tới yêu cầu ông Mạ
thực hiệtn việc ký hợp đồng công chứng, chứng thực để anh Quang sang tên
51
theo đúng quy định, nhưng ông Mạ không đồng ý bán nữa, và cũng không
chấp nhận trả lại tiền.
Anh Quang làm đơn khởi kiện yêu cầu hủy giao dịch mua bán và muốn
nhận lại số tiền 1 tỷ đồng đã trả cho ông Mạ. Tòa án nhân dân huyện Ba Chẽ
đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện và buộc ông Mạ trả lại cho anh Quang toàn
bộ số tiền đã nhận của anh Quang.
Sau khi cơ quan thi hành án tiến hành xác minh điều kiện thi hành án thì
thấy rằng ngoài nhà và đất nói trên, ông Mạ không có bất cứ tài sản nào nữa
để thi hành án, do vậy cơ quna THA đã tiến hành kê biên tài sản để thực hiên
việc bán đấu giá tài sản của ông Mạ.
Do không hiểu biết pháp luật nên trong quá trình cơ quan THA thực hiện
công việc kê biên, ông Mạ đã gây khó khăn bằng cách khóa cửa không cho ai
vào, ỷ mình là người già nên không ai dám động tới, ông Mạ vẫn cố tình
không thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình.”
Hiện vụ án vẫn đang trong quá trình cưỡng chế kê biên tài sản, đối với
đương sự như vậy CHV vẫn vừa thực hiện biện pháp cưỡng chế, vừa vận
động và giải thích pháp luật để người phải thi hành án hiểu được nghĩa vụ của
mình trong quá trình thi hành án. Trường hợp này, nếu người phải thi hành án
có đủ trình độ hiểu biết pháp luật thì sẽ không để xảy ra việc gây khó khăn
trong quá trình thi hành án của CHV.
Vấn đề về trình độ pháp luật không chỉ là tồn tại của tỉnh Quảng Ninh
mà còn là vấn đề nhức nhối đối với tất cả các cơ quan thi hành án trên cả
nước, bởi khi dân trí thấp thì việc phối hợp để cưỡng chế thi hành án là vô
cùng khó khăn.
Ngoài ra còn khó khăn ngay trong chính nội bộ của các cơ quan liên
quan tới việc phối hợp thi hành án. Công tác phối hợp trong thi hành án dân
sự giữa cơ quan Thi hành án dân sự với chính quyền địa phương cấp xã và các
cơ quan hữu quan có lúc có nơi còn chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu đòi
hỏi của nhiệm vụ phối hợp trong thi hành án dân sự. Để áp dụng biện pháp
52
cưỡng chế thi hành án đòi hỏi chấp hành viên phải thực hiện thật tốt trong
công tác xác minh thi hành án dân sự. Đây là cơ sở quan trọng trong việc áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án; Đòi hỏi trong quá trình xác minh phải
thu thập được đầy đủ những thông tin liên quan đến quyền sử dụng đất dự
kiến kê biên, cưỡng chế; Nhưng ngay từ giai đoạn này chấp hành viên đã gặp
phải sự hợp tác không chặt chẽ, thiếu nhiệt tình trách nhiệm của cán bộ
chuyên môn cấp xã. Với những lý do đặc thù như: có liên quan đến dòng họ,
huyết thống nên không thể tham gia công tác xác minh, xác định vị trí, ranh
giới, kích thước...của thửa đất dự kiến cưỡng chế. Trên thực tiễn, có nơi chính
quyền địa phương cấp xã còn chưa thật sự thực hiện đúng trách nhiệm phối
hợp, chỉ đạo cán bộ chuyên môn cấp xã phối hợp trong công tác thi hành án
dân sự theo luật định. Không phân công hay cử cán bộ chuyên môn tham gia
phối hợp xác minh điều kiện thi hành án của đương sự. Coi đây là công việc
có thể làm hoặc có thể không làm mà không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì.
Không những khó khăn trong việc thi hành án nói trên, mà trên địa bàn
thành phố Hạ Long còn một ví dụ điển hình về việc thi hành án khi mà các
quy định của pháp luật bị mâu thuẫn nhau.
Cụ thể: “Ông A trú tại phường Hồng Hà, Tp. Hạ Long bị buộc phải thi
hành án thực hiện việc trả tiền, trong quá trình xác minh thi hành án thì ông
A không có tiền để trả, chỉ có một thửa đất do ông khai hoang từ những năm
1980 và chưa được cấp GCNQSDĐ. Thửa đất đủ điều kiện được cấp
GCNQSDĐ theo pháp luật hiện hành.”
Tuy nhiên trong quá trình thi hành án, cơ quan THA kê biên xong nhưng
không thể bán đấu giá để thi hành án được vì: Theo quy định của Nghị định
số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính Phủ về bán đấu giá tài sản thì
tại cuộc bán đấu giá tài sản là bất động sản phải có sự tham gia của Công
chứng viên (Điều 35 Nghị định 17/2010), nếu như Công chứng viên không
tham gia thì cuộc bán đấu giá không đảm bảo trình tự theo quy định của pháp
luật. Đối với trường hợp người phải thi hành án bị Cơ quan Thi hành án kê
53
biên đất, tài sản gắn liền với đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng thuộc diện được cấp Giấy chứng nhận, khi thực hiện việc bán đấu giá,
người mua trúng đấu giá phải làm thủ tục theo quy định của pháp luật về đất
đai là phải công chứng khi thực hiện hợp đồng mua, bán (khoản 3, Điều 167
Luật đất đai 2013). Mà tại điểm d, khoản 1, Điều 40 Luật Công chứng năm
2014 quy định về hồ sơ yêu cầu Công chứng gồm: “Bản sao chứng nhận
quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật
quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu,
quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản
đó”. Như vậy, khi chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy chứng
nhận quyền sở hữu) Công chứng viên không thể tham gia cuộc bán đấu giá và
công chứng hồ sơ mua bán tài sản đấu giá là quyền sử dụng đất, như vậy việc
bán đấu giá sẽ không thể thực hiện được.
Như vậy, nếu trường hợp này CHV bỏ qua quy định của pháp luật mà
khiên cưỡng cho bán đấu giá tài sản để thi hành án thì CHV đã vi phạm
nghiêm trọng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định. Do vậy, vụ án chưa thể
thi hành án triệt để được, mặc dù người phải thi hành án đã rất hợp tác trong
quá trình xác minh, tiến hành thủ tục thi hành án. Điều này dẫn đến quyền lợi
của người được thi hành án không được đảm bảo, hoặc có thì quyền lợi này
cũng được thực hiện rất chậm.
Năm 2015 theo thống kê và báo cáo của Cục THADS tỉnh Quảng Ninh
thì những hạn chế trong công tác THADS là: Tổng số tiền thụ lý phải thi hành
trong năm 2015, về tiền tăng hơn 362 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2014; số
thụ lý mới về tiền cũng tăng hơn 264 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2014. Số
việc thụ lý mới có số tiền phải thi hành lớn, tính chất của các vụ việc phức tạp
hơn, như án kinh doanh thương mại, án liên quan đến ngân hàng và các tổ
chức tín dụng tài sản đảm bảo... Việc xử lý tài sản để thi hành án chủ yếu là
bất động sản, như nhà ở, quyền sử dụng đất, công trình dự án... rất khó bán,
giảm giá nhiều lần nhưng vẫn không có người mua. Trong các vụ việc loại
54
này, cơ quan thi hành án gặp nhiều khó khăn do thủ tục kê biên, thẩm định giá
tài sản mất nhiều thời gian, người dân có tâm lý e ngại khi mua tài sản liên
quan đến thi hành án. Điển hình như vụ án kinh doanh thương mại của Công
ty đầu tư Minh Việt, Hà Nội phải thi hành trên 323 tỷ đồng, tài sản kê biên là
công trình, dự án đã hạ giá 2 lần, còn trên 77 tỷ nhưng vẫn chưa có ai mua.
Cùng với đó là cơ sở vật chất, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động của
các cơ quan THADS còn hạn chế. Đến nay, Chi cục THADS thành phố Cẩm
Phả vẫn đang phải thuê trụ sở làm việc; 12/14 đơn vị THADS cấp huyện chưa
có kho vật chứng. Một số đơn vị phải thuê kho bãi để gửi giữ tài sản, vật
chứng, do vậy việc quản lý, bảo quản còn gặp khó khăn.
Mặt khác, công tác THADS tại mỗi một địa phương trong tỉnh cũng có
những khó khăn và hạn chế riêng theo đặc thù khu vực. Như tại TP Cẩm Phả,
kết quả thi hành án còn hạn chế có nguyên nhân do việc tái lập tổ dân trên địa
bàn mới được thực hiện. Do đó chưa có quy định về chế độ bồi dưỡng cho đại
diện tổ dân, khu phố khi tham gia hỗ trợ công tác thi hành án. Đội ngũ cán bộ,
công chức của Chi cục hiện có 20 người, trong đó có 8 chấp hành viên. Trung
bình mỗi năm, một chấp hành viên phải thi hành khoảng 195 việc, ngoài ra
còn phải kiêm nhiệm thêm các công việc khác của đơn vị. Do vậy, việc cán
bộ, chấp hành viên phải thường xuyên đến nhà người có trách nhiệm thi hành
án để đôn đốc, xác minh gặp nhiều khó khăn, hiệu quả không cao. Trong khi
đó, vụ việc liên quan đến án ma tuý chiếm số lượng lớn; đương sự hiện đang
tù, hoặc đã ra tù nhưng không có tài sản để thi hành dứt điểm. Số việc
THADS trong các vụ án hình sự chiếm 54% tổng số các vụ việc thi hành.
Loại việc cần thi hành trong các án này là thu các khoản án phí, tiền phạt, tiền
bồi thường, rất khó đôn đốc thi hành bởi các đối tượng phải thi hành phần dân
sự đang phải chấp hành hình phạt tù tại trại giam. Một số đối tượng phải thi
hành án đã bỏ đi khỏi địa phương, chưa xác định được địa chỉ mới.
Ông Đinh Khắc Khang, Phó Cục trưởng Cục THADS tỉnh kiến nghị:
Để thực hiện tốt công tác này, thời gian tới, đề nghị tỉnh có cơ chế hỗ trợ kinh
55
phí cho cơ quan THADS để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực; quan tâm tạo
quỹ đất để cải tạo, xây dựng trụ sở và kho vật chứng của các cơ quan
THADS. Chính quyền các cấp cần tăng cường quản lý nhà nước về thi hành
án, thường xuyên củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo THADS cấp mình; kịp thời
cho ý kiến giải quyết các vụ án còn vướng mắc khó thi hành; thường xuyên
kiểm tra đôn đốc, nâng cao chất lượng công tác THADS; tăng cường tuyên
truyền, giáo dục pháp luật về THADS cho cán bộ, công chức và nhân dân để
cùng lực lượng chức năng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THADS
trên địa bàn.
Tiểu kết chương 2
Trên cơ sở quy định tại Điều 46 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung
năm 2014 và Điều 13 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015
của Chính phủ thì hết thời gian tự nguyện thi hành án, người phải thi hành án
có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.
Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ
sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật,
không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong thời gian
15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các đối
tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án; các trường hợp đặc biệt
khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội,
phong tục, địa phương.
Để thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự cần phải tuân thủ những
nguyên tắc chung theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự như: Xác
minh điều kiện thi hành án trước khi tiến hành cưỡng chế. Lựa chọn biện
pháp cưỡng chế. Xác định loại tài sản không được kê biên, cưỡng chế. Xây
dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án. Thực hiện thông báo cưỡng chế thi
hành án. Chi phí cưỡng chế thi hành án. Phân chia, xử lý tài sản đối với tài
sản thuộc sở hữu chung. Xử lý tài sản khi cưỡng chế có tranh chấp.
56
Sau khi xác định được những điều kiện đó thì sẽ phân loại ra và đối
chiếu quy định của pháp luật về kê biên tài sản đối với từng loại tài sản (kê
biên áp dụng với 9 loại tài sản) để thi hành án.
Trong chương này chúng ta sẽ thấy được thực trạng trong công tác
cưỡng chế kê biên tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, thấy được những mặt
đạt được và những khó khăn còn tồn đọng tác động trực tiếp tới việc kê biên
tài sản. Nhìn nhận được những tồn tại đó chúng ta sẽ có những giải pháp để
khắc phục, và vấn đề này sẽ được phân tích ở chương 3 của Luận văn.
57
Chương 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 đã có nhiều thay đổi đáng kể đối
với quy định về vấn đề cưỡng chế kê biên tài sản đảm bảo thi hành án dân sự.
Cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng, trong thi hành án dân sự nói chung
là một trong những hoạt động quan trọng, nhằm khôi phục và bảo vệ các quan
hệ xã hội bị xâm hại. Bởi vậy, thi hành dứt điểm các bản án, quyết định đã có
hiệu lực hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay trên thực
tế có ý nghĩa đặc biệt trong việc đảm bảo trật tự, an toàn xã hội.
Trong những năm qua Đảng và nhà nước đã quan tâm và ban hành nhiều
chủ trương chính sách pháp luật để tạo mọi điều kiện thuận lợi cho công tác
thi hành án; hoàn thiện kiện toàn các cơ quan quản lý thi hành án để quản lý
việc thi hành án được tốt nhất. Nhờ vào những việc làm đó nên nhiều bản án,
quyết định của Tòa án được thi hành dứt điểm, đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước, cá nhân, cơ quan, tổ chức góp phần ổn định trật tự xã hội,
tạo tiền đề cho sự phát triển của kinh tế xã hội.
Để việc thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án đạt
được kết quả cao nhất, tác giả đưa ra những định hướng sau đây:
3.1 Quan điểm, yêu cầu, định hướng hoàn thiện pháp luật về kê biên tài
sản trong thi hành án dân sự
Hoàn thiện pháp luật về kê biên tài sản trong thi hành án dân sự phải
được đặt trong mối quan hệ tổng thể hoàn thiện pháp luật nói chung, hoàn
thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án dân sự
nói riêng. Bảo đảm sự phù hợp với các quy định của Hiến pháp; tiếp tục thể
chế hoá Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
58
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Hoàn thiện pháp
luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải đáp ứng được các
tiêu chí đánh giá yêu cầu hoàn thiện pháp luật như tính thống nhất; đồng bộ
và toàn diện; tính khả thi và phù hợp với thực tiễn; tính công khai, minh bạch;
phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam; tính hiệu quả và khả năng dự
báo .v.v..
Tính thống nhất được đặt ra đối với cả hệ thống pháp luật cũng như đối
với từng văn bản quy phạm pháp luật và quy phạm pháp luật; Hệ thống pháp
luật được cấu tạo nên bởi các thành tố khác nhau, cho nên để bảo đảm được
tính thống nhất của hệ thống pháp luật thì giữa các thành tố cấu tạo nên nó
không được có sự mâu thuẫn, chồng chéo với nhau. Bất cứ một sự mâu thuẫn,
chồng chéo nào xảy ra trong hệ thống pháp luật đều phải được phát hiện và
loại khỏi hệ thống. Tính đồng bộ và toàn diện nghĩa là phải có đầy đủ chế
định pháp luật và quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật để điều chỉnh
các quan hệ xã hội trong lĩnh vực quản lý; Không có các hiện tượng trùng lặp,
chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau của các quy phạm pháp luật trong mỗi bộ
phận và trong các bộ phận khác nhau của hệ thống pháp luật. Điều này đòi hỏi
các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống
nhất, hài hoà về nội dung mà còn phải bảo đảm tính thứ bậc của mỗi văn bản
về giá trị pháp lý của chúng.
Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, việc mâu thuẫn của các văn bản
pháp luật hiện nay đang xảy ra. Có thể lấy ví dụ như sau: “Theo khoản 2 Điều
110 Luật THADS quy định: “Người phải thi hành án chưa được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc
diện quy hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn
được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó”.
Quy định này mâu thuẫn với Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 và trên
thực tế công chứng viên từ chối công chứng hợp đồng mua bán tài sản trong
59
trường hợp quyền sử dụng đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. “
Như vậy, với trường hợp trên các văn bản quy phạm pháp luật về kê
biên tài sản thi hành án chưa đảm bảo được tính thống nhất, tính đồng bộ
trong quy định nội hàm của từng văn bản về từng lĩnh vực cụ thể. Vấn đề đặt
ra ở đây là pháp luật phải được xem xét và quy định thống nhất trong tất cả
các lĩnh vực, không để xảy ra chồng chéo trong quy định, dẫn đến khó thực
thi trong quá trình thi hành án.
Tính khả thi và phù hợp với thực tiễn thể hiện ở sự phù hợp của các văn
bản quy phạm pháp luật mà đặc biệt là của các văn bản luật với các quy luật
khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội là điều kiện vô cùng quan trọng
bảo đảm cho tính khả thi và hiệu quả của pháp luật. Sự phù hợp của pháp luật
với điều kiện chính trị của đất nước, mà quan trọng nhất là phù hợp với đường
lối, chính sách của Đảng. Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay phải thể chế
hóa đường lối, quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được
đề ra tại Đại hội lần thứ XII và các kỳ Đại hội trước của Đảng, thể chế hóa
chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội của Đảng trong điều kiện đổi
mới. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, mở cửa, hội nhập quốc tế.
Tính công khai minh bạch thể hiện ngay từ giai đoạn thẩm tra, thẩm
định dự thảo, giai đoạn thẩm định, thông qua dự thảo, đến giai đoạn ban hành,
công bố pháp luật. Đảm bảo mọi người đều được biết, được tiếp cận pháp
luật. Mọi người đều có thể nắm bắt được các quyền và nghĩa vụ của mình để
tuân thủ nghiêm túc và thực hiện đúng quy định của pháp luật.
3.2. Giải pháp hoàn thiện và thực hiện pháp luật về kê biên tài sản trong
thi hành án dân sự
Hiện nay chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa vì vậy công việc thực hiện pháp luật đòi hỏi phải bảo đảm pháp chế,
60
nghĩa là không những tăng cường hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn đảm
bảo cho pháp luật ấy đi vào cuộc sống, cụ thể là trong thi hành án để nâng cao
hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế kê biên đảm bảo thi hành
án. Những văn bản dưới luật, văn bản hướng dẫn chuyên ngành phải phù hợp
với quy định của Hiến pháp, Luật, nếu có xung đột thì phải chỉnh sửa và
hướng dẫn thực hiện cho đúng luật, các cơ quan cấp trên phải tăng cường
hướng dẫn khi có vướng mắc trong thực tiễn
Như chúng ta đã biết, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản
để thi hành án là một biện pháp rất phức tạp. Tuy nhiên biện pháp này lại có
vai trò và ý nghĩa rất lớn đối với công tác thi hành án hiện nay. Do vậy, chúng
ta cần có sự nhận thức một cách đúng đắn về những thành quả đạt được và
những vướng mắc còn tồn tại để có giải pháp khắc phục, đồng thời hoàn thiện
về mặt pháp luật cưỡng chế thi hành án nói riêng, thi hành án dân sự nói
chung góp phần vào công cuộc xây dựng bảo vệ nhà nước pháp quyền.
Để việc thực hiện pháp luật đạt được kết quả cao nhất thì yêu cầu đối với
các bản án, quyết định của Tòa án khi có hiệu lực pháp luật để đưa ra thi hành
phải đúng luật, án tuyên phải rõ ràng, đúng với thực tế, đảm bảo tính khả thi.
Trường hợp án có vi phạm pháp luật thì cần được phát hiện, xử lý kịp thời
theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, nếu người phải thi hành án có đơn
khiếu kiện đến cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận thì giải quyết đơn kịp thời,
đúng quy định của pháp luật; nếu án tuyên có sai sót, không rõ ràng thì Tòa án
có thẩm quyền phải kịp thời đính chính, giải thích theo quy định; trường hợp
đương sự có tranh chấp tài sản cưỡng chế kê biên thì đề nghị cơ quan có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đúng thời hạn luật định, không để kéo dài làm
ảnh hưởng việc cưỡng chế thi hành án, nếu đương sự có đơn khởi kiện đến
Tòa án thì đề nghị Tòa án thụ lý giải quyết sớm. Nếu như trong hệ thống các
cơ quan từ cơ quan THA đến các cơ quan có liên quan đều thực hiện thông
suốt và phối kết hợp với nhau trong quá trình giải quyết công việc thì vấn đề
thi hành án sẽ thực hiện có hiệu quả hơn.
61
3.2.1. Về công tác quản lý thi hành án
Trên thực tế thấy được rằng kinh phí cho công tác kê biên tài sản thi
hành án là rất lớn tuy nhiên kinh phí mà nhà nước chi trả cho cơ quan thi hành
án lại đang dừng lại ở một giới hạn nhất định nếu không muốn nói là thấp
nhất trong hệ thống ngành tư pháp. Do vậy để công tác này đạt được hiệu quả
cao Nhà nước cần đặc biệt quan tâm hơn nữa trong việc bổ sung kinh phí cho
công tác thi hành án dân sự và quá trình áp dụng biện pháp kê biên tài sản.
Như đã biết việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản cần phải có sự
phối hợp giữa rất nhiều cơ quan với nhau, phát sinh rất nhiều chi phí cho việc
cưỡng chế. Trong khi hiện nay chi phí cho việc cưỡng chế rất hạn chế, hơn
nữa phương tiện sử dụng cho việc cưỡng chế còn sơ sài chưa đảm bảo an toàn
cho người thi hành án. Nhiều trường hợp người phải thi hành án chống đối
quyết liệt thì còn gây tổn hại đến sức khỏe của cán bộ thi hành án và những
cán bộ thuộc cơ quan liên quan đảm bảo cho việc cưỡng chế kê biên tài sản
thi hành án.
Vấn đề quản lý được đặt ra ở chương II trong nội dung so sánh pháp luật
về thi hành án dân sự ở Việt Nam so với các nước trên thế giới, đặc biệt là hai
nước theo hệ thống luật Common Law Anh – Mỹ cũng đặt ra cho chúng ta
môt hướng hoàn thiện pháp luật đáng học tập. Nếu việc thi hành án ở những
quốc gia Anh, Mỹ được thực hiện với vai trò quan trọng của Tòa án trong việc
ra lệnh cưỡng chế thi hành án. Điều đó có nghĩa rằng giai đoạn thi hành án
không bị tách rời khỏi tòa án, mà tòa án ngoài việc ra lệnh thi hành án, còn có
thể yêu cầu người phải thi hành án cung cấp những thông tin liên quan đến tài
sản thực hiện nghĩa vụ thi hành án. Và người được thi hành án được hưởng
mọi quyền lợi như trong giai đoạn tố tụng của tòa án. Pháp luật thi hành án
của Việt Nam nên chăng học hỏi có chọn lọc ở phương diện này để đảm bảo
quyền lợi cho người được thi hành án cũng như những đối tượng khác có liên
quan.
62
Công tác thi hành án cần được thống nhất và đưa về một mối bởi lẽ đổi
mới cơ chế quản lý thi hành án hiện nay là một giải pháp có tính chiến lược,
nằm trong nội dung cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Việc đổi mới cơ
chế nhằm đảm bảo sự quản lý thống nhất về tổ chức, cơ chế hoạt động, công
tác hướng dẫn, chỉ đạo chuyên môn tâp trung lực lượng cán bộ và có sự
chuyên môn hóa cán bộ, tăng cường cơ sở vật chất nhằm khắc phục những
vướng mắc, bất cập, dẫn tới tình trạng phân tán, xé lẻ trong hoạt động thi
hành án.
3.2.2.Về xây dựng pháp luật
Muốn việc cưỡng chế thi hành án đạt kết quả cao nhất thì điều kiện kiên
quyết quan trọng nhất các nhà làm luật cần xây dựng, hoàn thiện bộ máy pháp
luật về thi hành án dân sự nói chung và các quy định của pháp luật liên quan
nói riêng. Có xây dựng được quy định của pháp luật rõ nét thì việc áp dụng
pháp luật mới đạt hiệu quả cao, không xảy ra vướng mắc trong quá trình giải
quyết ở bất cứ một khâu nào.
Những tồn tại cơ bản của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài
sản để thi hành án được xem xét trong mối quan hệ với hiện trạng pháp luật
về thi hành án, đây được xem là nguyên nhân chính. Do vậy chúng ta cần
hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án sao cho đảm bảo được tính khả
thi, thống nhất, tránh mâu thuẫn chồng chéo. Ví dụ xây dựng và ban hành Bộ
luật thi hành án trong thời gian sắp tới, rồi vấn đề Thừa phát lại cũng nên
được đưa ra xem xét và xem đây là một lĩnh vực quan trọng trong công tác thi
hành án, việc mà hiện tại pháp luật thi hành án của Pháp vẫn đang áp dụng.
Bên cạnh đó việc xác định rõ trách nhiệm của CHV trong công tác kê
biên tài sản, đặc biệt là trong việc làm đầu tiên trược khi ra quyết định cưỡng
chế kê biên đó là xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Nếu việc xác minh này không đúng thực tế sẽ kéo theo một loạt những công
việc tiếp theo của giai đoạn kê biên tài sản, từ đó việc KBTS không thể đạt
được kết quả như mong muốn.
63
3.2.3. Về phối hợp trong công tác kê biên tài sản
Như đã biết công tác kê biên tài sản là biện pháp có sự phối hợp chặt chẽ
giữa nhiều cơ quan với nhau nhằm đảm bả hiệu quả công việc tốt nhất. Tuy
nhiên do hiện nay sự phối kết hợp này chưa đồng đều, nhiều nơi trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh việc phối hợp chỉ dừng lại trên giấy tờ, điều đó gây nhiều
khó khăn cho công tác kê biên tài sản thi hành án.Ví dụ trong công tác cưỡng
chế kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án, pháp luật hiện nay quy định ngoài
cơ quan thi hành án là cơ quan chủ yếu thực hiện nhiệm vụ thi hành án, thì
còn có sự phối hợp với các cơ quan khác như Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy
ban mặt trận tổ quốc, Công an, đia chính. Những cơ quan này sẽ giúp việc xác
minh điều kiện thi hành án được chính xác; hoặc phối hợp trong công tác đảm
bảo an ninh trật tự nơi có tài sản thi hành án. Do vậy, nếu sự phối hợp này
không tốt thì việc kê biên tài sản không thể đạt được kết quả cao nhất.
Để đảm bảo phối hợp được tốt thì ngay chính tự các cơ quan phải ý thức
được vai trò của mình, tầm quan trọng của chính cơ quan mình đối với việc
phối hợp kê biên tài sản thi hành án. Các cơ quan liên quan phải xây dựng quy
chế phối hợp với cơ quan thi hành án trong đó nêu rõ vai trò cũng như trách
nhiệm của mình, cũng như phải chịu trách nhiệm trong trường hợp không
thực hiện đúng yêu cầu phối hợp giữa các bên dẫn đến việc thi hành án gặp
nhiều khó khăn, kéo dài tốn kém kinh phí, và không đảm bảo quyền lợi cho
người được thi hành án.
Một điểm quan trọng nữa đó là yêu cầu phải đảm bảo sự gắn kết giữa
hoạt động xét xử và thi hành án dân sự, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ
quan, tổ chức và quy định rõ hơn vai trò, trách nhiệm của Toà án, Viện kiểm
sát và Ủy ban nhân dân các cấp trong hoạt động thi hành án dân sự để bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành có hiệu quả, thực
chất, bền vững.
Hiện nay, pháp luật THADS chưa quy định theo hướng xác định
THADS là khâu thực hiện kết quả của hoạt động tư pháp, do đó, có sự tách
64
rời giữa hoạt động xét xử với hoạt động THADS. Vì thế không gắn trách
nhiệm, quyền hạn của tòa án, trọng tài thương mại, hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh đối với việc thi hành các bản án, quyết định của mình, trong đó có
trách nhiệm, quyền hạn của tòa án trong cưỡng chế THADS còn hạn chế. Tòa
án mới chỉ tham gia phối hợp mà chưa có vai trò cụ thể và quan trọng trong
cưỡng chế THADS. Bởi thế, việc xử lý tài sản cưỡng chế THADS là tài sản
chung hoặc tài sản có tranh chấp khó thực hiện. Mặc dù, Bộ luật Tố tụng dân sự
đã có quy định về việc giải quyết hậu quả của việc thi hành án khi hội đồng giám
đốc thẩm, tái thẩm hủy án hoặc sửa án tại các điều từ Điều 344 đến Điều 357.
Tuy nhiên, việc giải quyết những hệ quả, vướng mắc trong trường hợp
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của tòa án hoặc của viện
kiểm sát dẫn đến thay đổi nội dung các bản án đã có hiệu lực đang được
cưỡng chế thi hành hoặc đã cưỡng chế thi hành xong rất khó khăn, phức tạp.
Bên cạnh việc kiện toàn bộ máy thực hiện kê biên tài sản thi hành án thì
một vấn đề quan trọng nữa không thể thiếu là tuyên truyền pháp luật, giải
thích pháp luật để người dân hiểu rõ được quy định của pháp luật trong việc
thi hành án, cưỡng chế kê biên tài sản đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của người
phải thi hành án. Nội dung này thể hiện việc phối hợp thực hiện thi hành án ở
chỗ khi bản án, quyết định được ban hành đồng nghĩa với việc nó sẽ được
thực thi. Nhưng nếu không có sự phối hợp để giải thích tuyên truyền, vận
động thi hành án thì liệu việc thi hành án có đạt được kết quả nhanh chóng và
như mong muốn hay không? Việc chỉ rõ cho người dân biết trường hợp tự
nguyện thi hành án thì có lợi gì và để xảy ra kê biên cưỡng chế thi hành án thì
hậu quả như thế nào.
Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự bảo đảm được quyền con người,
quyền công dân, quyền và lợi ích chính đáng của người sử dụng đất là nội
dung quan trọng; Góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa; Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Để hoàn thiện, cần phải tuân thủ những nguyên tắc hiến định về quyền
65
con người, quyền công dân theo đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và
các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết, gia nhập,
từ đó nhận thức và quán triệt đầy đủ các quy định của Hiến pháp và Công ước
về quyền con người trong việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật
thi hành án dân sự tương thích với Hiến pháp 2013 và các cam kết của Việt
Nam trong các Công ước về quyền con người mà đã tham gia; bảo đảm quyền
và lợi ích chính đáng của công dân trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
3.3. Kiến nghị sửa đổi một số nội dung trong Luật THADS năm 2014
Có thể thấy Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 là một
bước hoàn thiện pháp luật vượt bậc, đánh dấu bước phát triển trong công tác
thi hành án, đồng thời thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong
việc thi hành án.
Tuy nhiên, song song với những thành quả đạt được thì pháp luật thi
hành án dân sự sửa đổi năm 2014 cũng còn tồn tại một số vướng mắc nhất
định, chưa được cụ thể trong luật hoặc đã quy định nhưng chưa rõ ràng thống
nhất dẫn đến việc thực hiện gặp nhiều khó khăn. Để giải quyết tình hình này,
trong Luật THADS tới đây, tác giả xin đưa ra một số giải pháp:
- Trong vấn đề xác minh điều kiện thi hành án: Khi xác minh điều kiện
thi hành án nói chung và điều kiện cưỡng chế THADS nói riêng, nhiều trường
hợp CHV chưa chú trọng thực hiện đúng pháp luật về xác minh. Việc chưa
thực hiện đúng này tương đối đa dạng, từ không yêu cầu người phải thi hành
án kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều
kiện thi hành án đến không xác minh địa chỉ, nơi cư trú của người chưa thành
niên được giao cho người khác nuôi dưỡng. Điển hình, có trường hợp người
phải thi hành án không kê khai nhưng chấp hành viên không nêu rõ trong biên
bản xác minh điều kiện thi hành án về việc đương sự không kê khai tài sản,
thu nhập; có trường hợp xác minh không làm rõ tình trạng tài sản cưỡng chế.
+ Không chỉ không thực hiện đúng các quy định về xác minh, trong quá trình
xác minh điều kiện thi hành án còn có tình trạng chấp hành viên lúng túng
66
trong thực hiện trình tự, thủ tục, xây dựng kế hoạch cưỡng chế THADS. Điển
hình, chấp hành viên không xác định được việc ra quyết định cưỡng chế
THADS đối với một tài sản sau đó tiếp tục xác minh tài sản khác để cưỡng
chế THADS hay phải xác minh tất cả các tài sản của người phải thi hành án
rồi mới được ra quyết định kê biên tài sản theo thứ tự kê biên tài sản pháp luật
quy định. Vấn đề này cần được xem xét để quy định một cách thấu đáo cụ thể,
để khi CHV được giao thực hiện công việc có cơ sở hoàn thành công việc
được giao một cách tốt nhất và đúng pháp luật.
+ Cũng trong vấn đề xác minh điều kiện thi hành án: đề nghị thay đổi việc xác
minh theo hướng thời hạn cung cấp thông tin xác minh bằng văn bản của cơ
quan, tổ chức, cán bộ, công chức cấp xã và cá nhân có liên quan thực hiện yêu
cầu của chấp hành viên.
- Trong công tác quản lý thi hành án: Quy định cụ thể và xác định rõ
trách nhiệm của tòa án trong công tác thi hành án. Như đã phân tích tại
chương 1 và chương 2 tầm quan trọng của tòa án trong công tác thi hành án.
Đồng thời quy định cụ thể quyền được ra quyết định yêu cầu cung cấp thông
tin của Tòa án đối với người phải thi hành án.
- Vấn đề cưỡng chế thi hành án đối với tài sản chưa được cấp
GCNQSDĐ: Đối với loại tài sản đặc biệt là quyền sử dụng đất, khi thực hiện
cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án cần quy định thủ tục, trình tự kê biên cụ
thể trong trường hợp này để tránh việc tồn đọng án chưa kê biên và chờ xin ý
kiến từ các cơ quan có thẩm quyền.
- Vấn đề xác định kỷ phần trong khối tải sản chung đối với tài sản, quyền
sử dụng đất: Cần quy định rõ trách nhiệm của Tòa án trong việc thụ lý, giải
quyết yêu cầu xác định quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của
người phải thi hành án trong khối tài sản chung. Thực tiễn áp dụng cho thấy,
khi chấp hành viên yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa án từ chối giải quyết với lý
do yêu cầu của chấp hành viên không đủ cơ sở để giải quyết theo quy định.
67
Chấp hành viên không thể tiếp tục giải quyết việc thi hành án vì: Chấp hành
viên chỉ được xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.
- Cần sửa đổi, bổ sung quy định về thông báo quyền thỏa thuận giá, thỏa
thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá, tổ chức bán đấu giá quyền sử dụng đất
đối với đương sự là người đang phải chấp hành hình phạt tù. Thực tế cho
thấy, người phải thi hành án đang chấp hành hình phạt tù thì họ khó có thể
tham gia những nội dung thỏa thuận trên mặc dù đã được thông báo hợp lệ.
- Những quy định ở phần cưỡng chế thi hành án phải được quy định rõ
ràng và thực tế để có thể áp dụng vào những vụ việc cụ thể, tránh các vụ án
chỉ tồn tại trên giấy, không thể thực thi được; hoặc khi tổ chức thực hiện thì
vướng mắc. Các quy định hiện hành về cưỡng chế THADS còn chưa cập nhật
được những quy định mới của Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự;
nhiều quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự còn thiếu cụ thể, rõ
ràng, thậm chí còn mâu thuẫn, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, dẫn tới
khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng. Điều này, ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng cưỡng chế cũng như việc thực hiện pháp luật của các chấp hành
viên. Có thể viện dẫn Điều 115, Luật THADS quy định, nếu người phải thi
hành án không tự chuyển tài sản ra khỏi nhà đất thì chấp hành viên yêu cầu
lực lượng cưỡng chế đưa tài sản ra khỏi nhà đất.
Nhưng nếu trong trường hợp người phải thi hành án chống đối thì việc
đưa tài sản ra hết sức khó khăn bởi không thể xác định được đầy đủ tài sản
của người phải thi hành án gồm những gì; đôi khi nhiều tài sản mà cơ quan
THADS, cơ quan chuyên môn cũng không thể nhận biết và mô tả như thế
nào, nhiều tài sản nằm ở những vị trí mà người tiến hành cưỡng chế không thể
biết được (như nằm dưới đất, âm tường, trên mái nhà...). Thực tế này dẫn đến
sau khi tổ chức cưỡng chế xong thì người phải thi hành án cho rằng vẫn còn
tài sản của họ trong nhà, xưởng, quyền sử dụng đất đã được giao cho người
được thi hành án.
68
- Pháp luật THADS cần quy định theo hướng xác định THADS là khâu
thực hiện kết quả hoạt động của quyền tư pháp, do đó không nên có sự tách
rời giữa hoạt động xét xử với hoạt động THADS. Phải gắn trách nhiệm,
quyền hạn của tòa án, trọng tài thương mại, hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
đối với việc thi hành các bản án, quyết định của mình, trong đó có trách
nhiệm, quyền hạn của tòa án trong cưỡng chế THADS phải được đưa lên
hàng đầu.
Tiểu kết chương 3
Pháp luật về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án dân sự phải
được đặt trong mối quan hệ tổng thể hoàn thiện pháp luật nói chung, hoàn
thiện pháp luật về các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng. Bảo
đảm sự phù hợp với các quy định của Hiến pháp; tiếp tục thể chế hoá Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Hoàn thiện pháp luật về các
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải đáp ứng được các tiêu chí đánh
giá yêu cầu hoàn thiện pháp luật như tính thống nhất; đồng bộ và toàn diện;
tính khả thi và phù hợp với thực tiễn; tính công khai, minh bạch; phù hợp với
các cam kết quốc tế của Việt Nam; tính hiệu quả và khả năng dự báo .v.v..
Hoàn thiện pháp luật về biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án
dân sự phải đảm bảo sự gắn kết giữa hoạt động xét xử và thi hành án dân sự,
tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và quy định rõ hơn vai trò,
trách nhiệm của Toà án, Viện kiểm sát và Ủy ban nhân dân các cấp trong hoạt
động thi hành án dân sự để bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật được thi hành có hiệu quả, thực chất, bền vững.
Cưỡng chế thi hành án là biện pháp nghiêm khắc nhất mà chấp hành viên
và cơ quan thi hành án áp dụng khi thực thi các bản án, quyết định của Tòa án
69
đã có hiệu lực pháp luật. Đó cũng chính là việc Chấp hành viên và Cơ quan
thi hành án sử dụng quyền lực nhà nước bắt buộc đương sự phải thực hiện
nghĩa vụ của mình nhằm đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án được thi
hành kịp thời nghiêm chỉnh, đúng pháp luật bảo về quyền lợi của nhà nước;
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân
Cần hoàn thiện quy định pháp luật về xã hội hóa một số hoạt động thi
hành án dân sự; Theo đó, Cơ chế xã hội hóa công tác thi hành án dân sự chính
là huy động toàn xã hội cùng tham gia vào công tác thi hành án trong một số
hoạt động thi hành án theo quy định của pháp luật;
Nâng cao chất lượng nguồn công chức thi hành án, đặc biệt quan tâm bồi
dưỡng, đào tạo, nâng cao chất lượng chấp hành viên cả về chuyên môn nghiệp
vụ cũng như trình độ lý luận chính trị, nhận thức về tình hình kinh tế - xã hội;
Có như vậy việc cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án dân sự mới thể hiện
đúng vai trò của nó, của một giai đoạn không tách rời của quá trình tố tụng.
70
KẾT LUẬN
Cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án dân sự có vai trò và ý nghĩa rất lớn
đối với công tác thi hành án dân sự hiện nay. Bởi lẽ, bản án, quyết định của
Tòa án chỉ thật sự có ý nghĩa khi được thi hành trên thực tế. Hoạt động thi
hành án dân sự là hoạt động thực thi phán quyết của Tòa án liên quan đến các
vấn đề về tài sản và nhân thân, trong các bản án hình sự, dân sự, kinh tế, lao
động, hành chính, hôn nhân và gia đình...có thể nói hoạt động thi hành án dân
sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng. Để bản án, quyết định của
Tòa án được thực thi trên thực tế, công tác thi hành án dân sự đóng vai trò rất
quan trọng, đăc biệt trong điều kiện kinh tế, xã hội phát triển, các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, thương mại diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực, chính vì thế
các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, thương mại ngày càng gia tăng, tính
chất vụ việc phức tạp, gây nhiều khó khăn cho hoạt động thi hành án dân sự.
Cùng là hoạt động thi hành án, song hoạt động thi hành án hình sự liên quan
trực tiếp đến đối tượng là những con người hiện hữu, cụ thể; hệ thống trại
giam, trại tạm giam được đầu tư, trang bị từ trung ương đến địa phương rất
kiên cố; bộ máy, trang thiết bị quản lý các đối tượng phạm tội cũng được đầu
tư chính quy, hiện đại do vậy hoạt động thi hành án hình sự có những thuận
lợi nhất định. Khác với hoạt động thi hành án hình sự, hoạt động thi hành án
dân sự đối tượng liên quan đến thi hành án lại là tài sản, trong đó tài sản có tài
sản vô hình, tài sản hữu hình, tài sản cố định và tài sản có thể dịch chuyển
được; tài sản có thể ở nhiều địa bàn, nhiều địa phương khác nhau; tài sản có
tài sản thuộc sở hữu chung, tài sản thuộc sở hữu riêng; có loại tài sản phân
chia được, có loại tài sản không thể phân chia, tồn tại ở nhiều hình thức khác
nhau.
Nhà nước khuyến khích sự tự nguyện thi hành án, song trên thực tế, khi
Chấp hành viên đã thực hiện các kỹ năng động viên, giáo dục, thuyết phục
đương sự tự nguyện thi hành án nhưng vẫn không có hiệu quả, lúc này chấp
hành viên cần phải cương quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
71
sự. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế sẽ là điều kiện tiên quyết để đảm bảo
thi hành dứt điểm việc thi hành án; Đồng thời, nó còn có tác dụng răn đe, giáo
dục đối tượng phải thi hành án khác có điều kiện nhưng không tự nguyện thi
hành án, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thi hành án dân sự
không hề đơn giản. Khi thực hiện cưỡng chế của người phải thi hành án một
cách thuận lợi cũng có nghĩa là chúng ta đã phần nào thực hiện việc bảo vệ
pháp luật, quyền và lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân. Chính vì lẽ đó chúng ta cần phải sớm khắc mục những hạn chế
còn tồn tại, đồng thời hoàn thiện hơn nữa pháp luật về cưỡng chế thi hành án
nói chung và biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của người phải thi hành án
nói riêng./.
72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tư pháp ngày 06/12/2010, “Thông tư số 23/2010/TT-BTP quy định
chi tiết và hướng dẫn thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010
về bán đấu giá tài sản”.
2. Bộ tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ban hành ngày 26/7/2010, “Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-
TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành
án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự”.
3. Nguyễn Công Bình (Chủ biên)(2007), Luật thi hành án dân sự Việt
Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
4. Lê Cảm - Nguyễn Ngọc Chí,(2004), Cải cách tư pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà
Nôi.
5. Chính phủ (2009), Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ
tục thi hành án dân sự, Hà Nội.
6. Chính phủ (2015), Nghị định 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thi
hành án dân sự.
7. Chính phủ ban hành ngày 04/3/2010, Nghị định số 17/2010/NĐ-CP
về bán đấu giá tài sản.
8. Chính phủ ban hành ngày 18/7/2015, “Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân
sự”.
9. Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh (2014 – 2018), Báo cáo tổng
kết công tác thi hành án các năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, Quảng Ninh.
10. Lê Kim Dung (2009), Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự: Bước
ngoặt của pháp luật về thi hành án dân sự, Tạp chí dân chủ và pháp luật”, (Số
chuyên đề về thi hành án dân sự).
73
11. Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6
của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
12. Đảng cộng sản Việt Nam(2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
13. Lê Thu Hà (2011), Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành
án dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Học viện tư pháp, “Sổ tay chấp hành viên”, Nxb.Thống kê, Hà Nội,
2009.
15. Học viện tư pháp, “Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự”, Bxb Tư
pháp, Hà Nội, 2012
16. Trần Thế Hùng, “Những bất cập sau 3 năm thực hiện Luật thi hành
án dân sự” , Tạp chí Dân chủ và pháp luật “(Số chuyên đề/2013).
17. Phan Huy Hiếu (2012), Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội.
18. Huỳnh Minh Khánh, “Trao đổi vê một số vướng mắc trong công tác
Thi hành án dân sự”, Tạp chí dân chủ và pháp luật (Số 1/2013).
19. Nguyễn Công Long (2000), “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự, thực tiễn áp dụng và hưỡng hoàn thiện”, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Đại học Luật Hà Nội.
20. Nguyễn Đức Nghĩa (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án
tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật
học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
21. Quốc hội (2005), Luật sở hữu trí tuệ 2005, Nxb. Chính trị quốc gia.
22. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự 2005, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2005.
23. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2015.
24. Quốc hội (2008), Luật thi hành án dân sự năm 2008, Nxb. Lao động
và Xã hội.
74
25. Quốc hội (2013), Luật đất đai năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội 2013.
26. Quốc hội (2014), Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung
năm 2014, Nxb. Tư pháp, Hà Nội 2014.
27. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội
28. Nguyễn Thanh Thủy (2001), “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân
sự”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
29. Từ điển các thuật ngữ pháp lý thông dụng (1999), Nxb. Tp. Hồ Chí
Minh, 1999.
30. Ủy ban thường vụ Quốc hội, “Pháp lệnh thi hành án dân sự năm
2004”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004.
31. https://xemtailieu.com/tai-lieu/mot-so-van-de-ly-luan-va-thuc-tien-ve-