BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
PHẠM QUỐC HUY
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
TRONG PHÒNG, CHỐNG LÂY TRUYỀN VI RÚT VIÊM GAN B
TRÊN PHỤ NỮ MANG THAI CÓ HBV TẠI ĐỒNG THÁP VÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2020
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
Hà Nội - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
KHOA: KHOA HỌC SỨC KHỎE
BỘ MÔN: Y TẾ CÔNG CỘNG
PHẠM QUỐC HUY – C01459
KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
TRONG PHÒNG, CHỐNG LÂY TRUYỀN VI RÚT VIÊM GAN B
TRÊN PHỤ NỮ MANG THAI CÓ HBV TẠI
ĐỒNG THÁP VÀ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020
CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số: 8720710
LUẬN VĂN THẠC SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. BS. HOÀNG QUỐC CƯỜNG
Hà Nội - 2020
LỜI CÁM ƠN
Lời đầu tiên tôi muốn gửi lời cám ơn tới Ban Giám hiệu và Quý Thầy cô
trường Đại học Thăng Long đã dùng tri thức cùng với tâm huyết và thời gian quý
báu của mình để trang bị kiến thức, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và
nghiên cứu tại Trường.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS. BS. Hoàng
Quốc Cường, người đã truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm quý báu cùng với sự
quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn tận tình tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp, tập thể lãnh đạo của Viện Pasteur
TP. HCM, Bệnh viện Từ Dũ và Bệnh viên đa khoa Đồng Tháp đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong quá trình thu thập số liệu và cung cấp các tài liệu liên quan
đến luận văn.
Sau cùng, tôi xin gửi lời cám ơn tới những người thân trong gia đình và bạn
bè, đồng nghiệp đã chia sẻ, động viên, khuyến khích và giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!
HỌC VIÊN
Phạm Quốc Huy
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là một phần số liệu trong đề tài nghiên cứu
cấp Bộ có tên “Nghiên cứu tình trạng nhiễm HBV ở trẻ em sinh ra từ mẹ có HBV
và các yếu tố liên quan đến khoảng trống miễn dịch ở các đối tượng này” với cơ
quan chủ trì đề tài là Viện Pasteur TP. HCM. Kết quả đề tài này là thành quả
nghiên cứu của tập thể mà tôi là một thành viên chính. Tôi đã được Chủ nhiệm đề
tài và toàn bộ các thành viên trong nhóm nghiên cứu đồng ý cho phép sử dụng số
liệu, kết quả của đề tài này vào luận văn để bảo vệ lấy bằng Thạc sĩ. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
cứ đề tài nào khác. Nếu có điều gì sai trái tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
PHẠM QUỐC HUY
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .......................................................... 3
1.1. TỔNG QUAN VỀ BỆNH VIÊM GAN B ............................................. 3
1.1.1. Tình hình phân bố viêm gan B theo địa lý ......................................... 3
1.1.2. Đặc điểm của Vi rút viêm gan B ....................................................... 8
1.1.3. Khả năng gây bệnh của vi rút viêm gan B ....................................... 10
1.1.4. Lây truyền Vi rút viêm gan B .......................................................... 12
1.1.5. Các biện pháp phòng, chống ........................................................... 13
1.1.6. Tiêm vắc xin viêm gan B trên trẻ được sinh ra từ mẹ có HBV ........ 16
1.1.7. Hiệu quả của tiêm chủng vắc xin VGB trong chương trình TCMR . 23
1.2. TÌNH HÌNH VÀ LUẬN GIẢI MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ............. 25
1.2.1. Đánh giá tổng quan ......................................................................... 25
1.2.2. Luận giải ......................................................................................... 28
1.3. KHUNG LÝ THUYẾT ....................................................................... 30
1.4. GIỚI THIỆU ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU ......................................... 30
1.4.1. Bệnh viện Từ Dũ............................................................................. 30
1.4.2. Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp ....................................................... 30
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............. 32
2.1. ĐỐI TƯỢNG. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU ........... 32
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................... 32
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu ....................................................................... 32
2.1.3. Thời gian nghiên cứu ...................................................................... 32
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ...................................................... 32
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ........................................................................ 32
2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu .............................................................. 33
2.3. Các biến số, chỉ số nghiên cứu và tiêu chí đánh giá ........................... 34
2.3.1. Biến số và chỉ số nghiên cứu ........................................................... 34
2.3.2. Tiêu chí đánh giá ............................................................................ 37
2.4. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP THÔNG TIN .................................... 38
2.4.1. Công cụ thu thập thông tin .............................................................. 38
2.4.2. Các kỹ thuật thu thập thông tin ....................................................... 38
2.4.3. Quy trình thu tuyển ......................................................................... 38
2.5. PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ SỐ LIỆU ................................................... 40
2.6. SAI SỐ VÀ BIỆN PHÁP KHỐNG CHẾ SAI SỐ.............................. 40
2.6.1. Sai số .............................................................................................. 40
2.6.2. Biện pháp khắc phục ....................................................................... 41
2.7. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU ................................................. 41
2.8. HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI .................................................................... 42
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................... 43
3.1. THỜI GIAN THU TUYỂN ................................................................ 43
3.2. THÔNG TIN CHUNG ........................................................................ 43
3.3. KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH PHÒNG CHỐNG LÂY TRUYỀN VI RÚT VIÊM GAN B CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ..................... 49
3.3.1. Kiến thức về phòng, chống lây truyền vi rút VGB .......................... 49
3.3.2. Thực hành phòng, chống lây truyền VGB của thai phụ ................... 57
3.4. YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH ........ 57
3.4.1. Yếu tố liên quan đến kiến thức về phòng, chống lây truyền vi rút VGB của thai phụ có HBV ................................................................................... 57
3.4.2. Yếu tố liên quan đến thực hành của thai phụ có HBV ..................... 66
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN .............................................................................. 70
4.1. ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH PHÒNG CHỐNG LÂY TRUYỀN VI RÚT VIÊM GAN B CỦA THAI PHỤ CÓ HBV.................. 70
4.1.1. Kiến thức của thai phụ có HBV về đường lây truyền vi rút VGB .... 70
4.1.2. Thực hành của thai phụ có HBV ..................................................... 75
4.2. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC, THỰC HÀNH PHÒNG, CHỐNG LÂY TUYỀN VI RÚT VIÊM GAN B CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU .............................................................................. 77
KẾT LUẬN .................................................................................................. 86
KHUYẾN NGHỊ.............................................................................................. 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 89
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
: Acid Desoxyribonucleic ADN
: Acid Ribonucleic ARN
: Aspartate aminotransferase enzyme ALT
: Alanine aminotransferase enzyme
: Antibody against Hepatitis B surface antigen (Kháng thể chống AST Anti-HBs
lại kháng nguyên bề mặt của vi rút VGB)
: Antibody against Hepatitis B envelop antigen (Kháng thể chống lại Anti-HBe
kháng nguyên vỏ của vi rút VGB)
Anti-HBc : Antibody against Hepatitis B core antigen (Kháng thể chống lại
kháng nguyên lõi của vi rút VGB)
BCG : Bacillus Calmette Guérin (Vắcxin BCG phòng bệnh lao)
BVĐK : Bệnh viện Đa khoa
CDC : The Centers for Disease Control Prevention (Trung tâm kiểm
soát bệnh tật Hoa Kỳ)
cccADN : Convalently closed circular DNA (ADN vòng đóng tương đương)
CI : Confidence Interval (Khoảng tin cậy)
DPT
GAVI
HBIg HBsAg
HBeAg : Diphtheria- Tetanus-Pertussis Vaccine (Vắc xin bạch hầu - ho gà - uốn ván) : Global Alliance for Vaccine and Immunization (Liên minh toàn cầu về vắcxin và tiêm chủng) : Hepatitis B immunoglobulin (Kháng thể kháng VGB) : Hepatitis B surface Antigen (Kháng nguyên bề mặt của vi rút viêm gan B) : Hepatitis B e Antigen (Kháng nguyên vỏ của vi rút VGB)
HBV : Hepatitis B virus (Vi rút VGB)
HCC : Hepatocellular carcinoma (Ung thư gan nguyên phát)
HIV : Human immunodeficiency virus (Vi rút gây suy giảm miễn dịch
ở người)
HCV : Hepatitis C virus (Vi rút viêm gan C)
IU : International Unit (Đơn vị quốc tế)
OPV : Oral Poliomyelitis Vaccine (Vắcxin bại liệt uống)
Odds : Tỷ số của hai xác suất
OR : Odds Ratio (Tỷ suất chênh)
PARA : Prity (tiền sử thai của sản phụ)
SHBs : Small Hepatitis B surface Protein (Protein bề mặt loại nhỏ của vi
rút VGB)
TCMR : Tiêm chủng mở rộng
PTCS : Phổ thông cơ sở (cấp 2)
PTTH : Phổ thông trung học (cấp 3)
VGB0 : Mũi vắc xin VGB trong thời kỳ sơ sinh
VGB1 : Mũi vắc xin VGB thứ nhất
VGB2 : Mũi vắc xin VGB thứ hai
VGB3 : Mũi vắc xin VGB thứ ba
VGB : Viêm gan B
WHO : World Health Organization ( Tổ chức Y tế thế giới)
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1. 1: Một số nghiên cứu nhiễm HBsAg(+) .......................................... 5
Bảng 1. 2: Một số nghiên cứu nhiễm HBsAg(+) trên phụ nữ có thai ........... 6
Bảng 1. 3: Lịch tiêm vắc xin VGB: chương trình TCMR .......................... 18
Bảng 2. 1: Biến số và chỉ số nghiên cứu .................................................... 34
Bảng 2. 2: Tính điểm kiến thức của thai phụ có HBV ................................ 37
Bảng 2. 3: Thực hành đối với thai phụ có HBV ......................................... 38
Bảng 3. 1: Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng tham gia nghiên cứu .. 44
Bảng 3. 2: Kiến thức của thai phụ có HBV về đường lây truyền ................ 50
Bảng 3. 3: Kiến thức của thai phụ có HBV về cách phòng, chống lây truyền
vi rút VGB tốt nhất cho trẻ ................................................................................ 51
Bảng 3. 4: Kiến thức của thai phụ có HBV về tiêm phòng vắc xin VGB cho
trẻ ...................................................................................................................... 52
Bảng 3. 5: Nguồn tìm hiểu kiến thức VGB của thai phụ có HBV .............. 54
Bảng 3. 6: Kiến thức đúng về phòng, chống lây truyền vi rút viên van B của
thai phụ có HBV ............................................................................................... 55
Bảng 3. 7: Thực hành của thai phụ có HBV............................................... 57
Bảng 3. 8: Yếu tố liên quan đến kiến thức đường lây truyền qua đường tình
dục .................................................................................................................... 58
Bảng 3. 9: Yếu tố liên quan đến kiến thức về đường lây truyền từ mẹ sang
con .................................................................................................................... 59
Bảng 3. 10: Yếu tố liên quan đến kiến thức về cách phòng, chống lây truyền
vi rút VGB của thai phụ có HBV ....................................................................... 60
Bảng 3. 11: Các yếu tố liên quan đến kiến thức về đối tượng tiêm phòng vắc
xin của thai phụ có HBV ................................................................................... 61
Bảng 3. 12: Yếu tố liên quan đến kiến thức về số mũi tiêm đủ liều đối với trẻ
dưới 12 tháng tuổi ............................................................................................. 62
Bảng 3. 13: Yếu tố liên quan đến kiến thức về thời điểm tiêm tốt nhất cho trẻ
dưới 12 tháng tuổi ............................................................................................. 63
Bảng 3. 14: Yếu tố liên quan đến kiến thức về thời gian bảo vệ của vắc xin
.......................................................................................................................... 64
Bảng 3. 15: Yếu tố liên quan đến điểm kiến thức chung ............................ 65
Bảng 3. 16: Yếu tố liên quan đến thực hành của thai phụ .......................... 66
Bảng 3. 17: Mối liên quan giữa kiến thức và nguồn tìm hiểu kiến thức của
thai phụ có HBV ............................................................................................... 68
Bảng 3. 18: Mối liên quan giữa điểm kiến thức và thực hành của thai phụ có
HBV .................................................................................................................. 68
Bảng 3. 19: Mối liên quan giữa thực hành của thai phụ và thực hành của
người chồng ...................................................................................................... 68
DANH MỤC HÌNH
Hình 1. 1: Bản đồ phân bố nhiễm viêm gan B trên thế giới. ........................ 5
Hình 1. 2: Cấu trúc của Vi rút viêm gan B ................................................. 10
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3. 1: Tỷ lệ thu tuyển đối tượng nghiên cứu theo tháng .................. 43
Biểu đồ 3. 2: Tỷ lệ thu tuyển đối tượng nghiên cứu tại hai Bệnh viện ........ 45
Biểu đồ 3.3: Phân bố về tuổi của thai phụ có HBV .................................... 46
Biểu đồ 3. 4: Học vấn của thai phụ có HBV .............................................. 47
Biểu đồ 3. 5: Phân bố nghề nghiệp của thai phụ có HBV .......................... 48
Biểu đồ 3. 6: Kiến thức chung của đối tương nghiên cứu .......................... 49
Biểu đồ 3. 7: Phân bổ về điểm kiến thức của thai phụ có HBV .................. 56
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1. 1: Khung lý thuyết của nghiên cứu .............................................. 30
Sơ đồ 2. 1: Quy trình thu tuyển .................................................................. 39
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Viêm gan B (VGB) là bệnh nhiễm trùng gan có khả năng đe dọa đến tính
mạng. Nhiễm vi rút viêm gan B là một vấn đề có tính chất toàn cầu. Theo báo cáo
của WHO năm 2002, thì có hơn 2 tỷ người trên thế giới bị nhiễm vi rút viêm gan
B, trong đó có 350 triệu người mang vi rút viêm gan B mạn tính. Hàng năm, hơn
4 triệu ca lâm sàng liên quan đến vi rút viêm gan B và 25% trong số đó mang bệnh,
ước tính trên thế giới có tới một triệu người mang vi rút viêm gan B mạn tính chết
vì ung thư gan nguyên phát và xơ gan [73].
Bệnh viêm gan B có thể phòng, chống được nếu sử dụng vắc xin sớm và tuân
thủ điều trị. WHO khuyến cáo sử dụng vắc xin viêm gan B trong chương trình
tiêm chủng mở rộng để tiêm chủng cho trẻ ở tất cả các quốc gia [71].
Vi rút viêm gan B tồn tại trong máu và dịch thể, có thể lây truyền theo 3
đường: Từ mẹ sang con, qua đường máu và quan hệ tình dục không sử dụng bao
cao su. Ở Việt Nam, đường phổ biến nhất là lây truyền từ mẹ sang con và cũng là
nguyên nhân thường gặp nhất. Nhiều thai phụ không biết mình bị nhiễm vi rút
viêm gan B do không có triệu chứng và không được xét nghiệm [26].
Mặc dù bệnh VGB có thể dự phòng được, tỷ lệ bao phủ vắc xin VGB trên
toàn cầu mới đạt 75% thấp hơn nhiều so với mục tiêu cần đạt là 90%. Trong đó tỷ
lệ tiêm vắc xin VGB liều sơ sinh (trong vòng 24 giờ đầu) mới đạt 27% [28].
Việc tiêm vắc xin thực hiện càng sớm thì hiệu quả càng cao, với mũi tiêm
trong 24 giờ kết hợp với tiêm đủ 3 liều vắc xin, thì khả năng phòng được 85-90%
các trường hợp lây truyền từ mẹ sang con [28].
Trên thực tế, nhiều trẻ sinh ra từ mẹ có vi rút viêm gan B dương tính vẫn bị
nhiễm bệnh viêm gan B sau khi sinh, mặc dù đã được tiêm vắc xin viêm gan B.
2
Lây truyền viêm gan B trong quá trình chuyển dạ và khi đẻ là nguyên nhân phổ
biến trong cơ chế lây truyền vi rút viêm gan B từ mẹ sang con[28].
Trung tâm gan Á Châu – Trường đại học Stanford cho rằng viêm gan B là
“kẻ giết người thầm lặng”. Khi có các biểu hiện lâm sàng thì thường bệnh đã ở
giai đoạn muộn. Và VGB là nguyên nhân chính gây ung thư gan, là nguyên nhân
của 37% các trường hợp tử vong do ung thư gan trên thế giới. Người mắc viêm
gan B mạn có nguy cơ bị ung thư gan cao gấp 100 lần so với người không mắc[26].
Trẻ sơ sinh có nguy cơ tiến triển thành viên gan B mạn cao nhất. Trên 90%
trẻ sinh từ mẹ nhiễm viêm gan B sẽ mắc viêm gan B mạn nếu không được tiêm
vắc xin và điều trị dự phòng [26].
Mặc dù Bộ Y tế Việt Nam đã rất quan tâm đến việc kiểm soát bệnh. Nhưng
không có nhiều nghiên cứu về kiến thức, thực hành phòng, chống lây truyền vi rút
viêm gan B tại Việt Nam, đặc biệt là trên đối tượng thai phụ có vi rút viêm gan B.
Vì vậy nhóm nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu với mục đích chính là khảo sát
nhận thức việc phòng, chống lây truyền vi rút VGB của các bà mẹ mang thai có
HBV tại 2 địa điểm: Bệnh viện Từ Dũ – TP. HCM và bệnh viện đa khoa Đồng
Tháp từ đề tài cấp Bộ mà cơ quan chủ trì nghiên cứu là Viện Pasteur Thành Phố
Hồ Chí Minh với các mục tiêu cụ thể như sau:
1. Đánh giá kiến thức và thực hành phòng, chống lây truyền vi rút viêm gan B
của thai phụ có HBV tại bệnh viện đa khoa Đồng Tháp và Bệnh viện Từ Dũ
– TP. HCM năm 2020.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành phòng, chống
lây truyền vi rút viêm gan B của đối tượng nghiên cứu.
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TỔNG QUAN VỀ BỆNH VIÊM GAN B
1.1.1. Tình hình phân bố viêm gan B theo địa lý
1.1.1.1. Trên thế giới
Theo báo cáo của WHO năm 2002, thì có hơn 2 tỷ người trên thế giới bị
nhiễm HBV, trong đó có 350 triệu người mang vi rút VGB mạn tính. Hàng năm,
hơn 4 triệu ca lâm sàng liên quan đến HBV và 25% trong số đó mang bệnh, ước
tính trên thế giới có tới một triệu người mang vi rút VGB mạn tính chết vì ung thư
gan nguyên phát và xơ gan [73].
Phân bổ VGB trên toàn cầu được xem xét tốt nhất theo 6 khu vực được quản
lý của WHO, bao gồm: Châu Mỹ, Châu Âu, Châu Phi, Đông Địa Trung Hải và
Tây Thái Bình Dương. Theo một nghiên cứu của Cheung R Hwang EW (2011)
[48], mỗi khu vực địa lý như vậy có tỷ lệ nhiễm và cách thức lây truyền có sự khác
biệt rõ rệt, quan sát được xác định bởi sự phổ biến của kháng nguyên bề mặt vi rút
VGB (HbsAg) trên quần thể nói chung. Tùy theo tỷ lệ người có HBV, có 3 khu
vực chính:
Vùng lưu hành bệnh cao: có tỷ lệ HBsAg(+) > 8%. Chiếm khoảng 45% dân
số của thế giới, bao gồm khu vực Châu Phi, các quốc gia Châu Á, lưu vực sông
Amazon và các khu vực miền Trung Đông, được cho là sống trong các khu vực
độ đặc hiệu cao với người đã từng phơi nhiễm vi rút VGB trên 60%. Phương thức
lây truyền thông thường là dọc tại thời điểm sinh ra từ một người mẹ bị nhiễm
bệnh mạn tính hoặc ngay trong thời thơ ấu do bị cắn, tổn thương da hoặc thói quen
vệ sinh, chính vì vậy tuổi bị nhiễm rất sớm như ở trẻ sơ sinh [48].
Vùng lưu hành bệnh trung bình: có tỷ lệ HBsAg (+) từ 2-7%, ở các quốc
gia ở miền Nam châu Âu (Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp) và Đông Âu,
4
Nga, Nam Mỹ. Ở khu vực này kiểu lây truyền chủ yếu là qua đường quan hệ tình
dục [48].
Vùng lưu hành bệnh thấp: Chỉ khoảng 12% dân số thế giới, có tỷ lệ
HBsAg(+) < 2% như ở Bắc Mỹ, Tây Âu, Úc. Đường lây truyền chủ yếu ở khu vực
này là lây truyền hàng ngang ở các đối tượng nguy cơ cao: nghiện ma túy, gái mại
dâm, nhân viên y tế, bệnh nhân bị bệnh huyết hữu (bệnh ưa chảy máu), bệnh nhân
ghép tạng [48].
Đặc biệt khu vực Châu Á Thái Bình Dương đại diện cho 3/4 bệnh nhân HBV
mạn tính trên toàn thế giới. Cụ thể, khu vực Tây Thái Bình Dương bao gồm các
quốc gia bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Philippines và Việt Nam
chiếm 50% số người có HBV mạn tính trên thế giới. Một phần ba các trường hợp
xơ gan và hơn một nửa số trường hợp ung thư gan nguyên phát ở khu vực châu Á
là do HBV. Trước khi thực hiện chương trình tiêm chủng HBV, khu vực Châu Á
Thái Bình Dương được chia thành ba loại về tỷ lệ lưu hành. Các khu vực có tỷ lệ
mắc cao (> 8%) bao gồm Trung Quốc đại lục, Hồng Kông. Đài Loan, Hàn Quốc.
Mông Cổ, Philippines, Thái Lan, Việt Nam và các đảo phía nam Thái Bình Dương.
Tỷ lệ lưu hành trung bình (2-8%) bao gồm Trung Á, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia
và Singapore. Tỷ lệ lưu hành thấp (<2%) bao gồm Úc và New Zealand, mặc dù
điều này đã tăng lên trong những năm gần đây do di cư từ các quốc gia có tỷ lệ
nhiễm cao [64].
5
Hình 1. 1: Bản đồ phân bố nhiễm viêm gan B trên thế giới. Nguồn: CDC [33]
1.1.1.2. Ở Việt Nam
Theo thống kê của WHO, Việt Nam được xếp vào vùng lưu hành bệnh cao,
qua nhiều nghiên cứu của các tác giả trong nước chúng ta biết rằng tỷ lệ nhiễm
HBV ở Việt Nam trung bình vào khoảng 15%, như vậy tính ra có khoảng 10-12
triệu người đang mang mầm bệnh. Trong khu vực lây truyền cao như nước ta thì
lây truyền chủ yếu là lây truyền dọc, từ mẹ truyền sang con [64].
Bảng 1. 1: Một số nghiên cứu nhiễm HBsAg(+)
Số mắc/ Tỷ lệ Địa phương Tác giả - Thời điểm nghiên cứu Tổng số %
Hà Nội Trần Thị Chính-1996 [1] 257/1780 14,4
Thái Nguyên Duong TH. Nguyen Ph -2009 [43] 34/383 8,8
6
Số mắc/ Tỷ lệ Địa phương Tác giả - Thời điểm nghiên cứu Tổng số %
Thái Bình Nguyen VT. McLaws ML-2007 [57] 159/837 19,0
Bát Xát – Lào Bùi Xuân Trường. Nguyễn Văn Bàng 107/683 15,7
Cai -2009 [34]
Tỉnh Quảng Bình Nguyễn Đức Cường – 2017 [2] 240/2019 11,89
Xã Phú cường – Ngô Thị Quỳnh Trang – 2011 [32] 66/375 17,6
Hưng Yên
Thừa Thiên Huế Ngô Viết Lộc – 2012 [15] 413/2525 16,36
Huyện Tân Châu Châu Hữu Hầu-1995 [10] 199/1801 11,0
(An Giang)
Thành phố Hồ Trương Thị Xuân Liên-1994 [14] 62/548 11,3
Chí Minh
Từ 1996 – 2017, tìm hiểu một số nghiên cứu cho thấy tỉ lệ nhiễm vi rút VGB
(HbsAg(+)) ở cộng đồng dân cư ở các tỉnh thành trên cả nước dao động từ 8,8%-
19%.
Bảng 1. 2: Một số nghiên cứu nhiễm HBsAg(+) trên phụ nữ có thai
Địa phương Tác giả - Thời điểm nghiên cứu
Hà Nội
Hải Phòng
Số mắc/ Tổng số 412/3185 163/1300 204/1651 36/200 Tỷ lệ % 12,9 12,5 12,36 18,0
Vũ Thi Tường Vân - 1996 [35] Chu Thị Thu Hà- 2006 [6] Nguyễn Tuyết Nga – 1996 [18] Nguyen CH, Azumi Ishizaki, et al- 2011[56] Phí Đức Long – 2009 [16]
Thái Bình Bình Dương Đào Thị Mỹ Phượng. Võ Minh Tuấn – 60/476 106/1010 12,6 10,5
2014
7
Địa phương Tác giả - Thời điểm nghiên cứu Số mắc/ Tổng số
TP.HCM
Trương Thị Xuân Liên-1994 [14] Lê Đình Vĩnh Phúc - 2015[22] 12/100 76/601
Tỷ lệ % 12,0 12,6 Từ 1994-2015, các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ thai phụ có HBV được cho là
cao trong khu vực dao động từ 10,5%- 18%. Do vậy lây truyền dọc từ mẹ sang
con được cho là một trong những đường lây truyền rất phổ biến và quan trọng ở
Việt Nam [7, 18, 35, 56].
Tình hình nhiễm HBV cao ở các thể bệnh của gan như:
Trong viêm gan siêu vi B cấp là 40-50% (tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới)
Trong bệnh xơ gan là 37,8% (tại Bệnh viện Truyền máu Huyết Học
TP. HCM)
Trong bệnh ung thư gan nguyên phát là 70,7% so với nhóm ung thư và
bướu lành khác là 13,2% với p< 0,001 (tại trung tâm ung bướu TP.
HCM).
Theo báo cáo của tác giả Đinh Văn Phương và cộng sự năm 2008-2009 tại
Bệnh viện Long Thành – Đồng Nai, tỷ lệ HBV-DNA (+) của thai phụ có HBV là
62%, 74% tại báo cáo của nhóm tác giả Bùi Hữu Hoàng khảo sát tại Bệnh viện
Nhân Dân Gia Định năm 2013, tuy nhiên một nghiên cứu khác tại Bình Dương
của nhóm tác giả Đào Thị Mỹ Phượng và Võ Minh Tuấn thì tỷ lệ này là 44,6%
[24] [19, 23].
Các nghiên cứu đã công bố ở trong và ngoài nước cho thấy:
Tỷ lệ người có HBV từ 10-25% tùy thuộc vào đối tượng và hoàn cảnh nghiên
cứu. Với dân số hơn 84 triệu dân (ước tính năm 2006) và tỷ lệ người có HBV cao,
các bệnh lý về gan do HBV vẫn sẽ là một gánh nặng cho ngành y tế [6, 10, 14, 34,
35].
8
Tỷ lệ thai phụ có HBV là 12- 18%, trong số đó có khoảng 30-40% mang đồng
thời cả HBsAg và HBeAg do vậy lây truyền dọc từ mẹ sang con là một con đường
lây truyền rất quan trọng ở Việt Nam [6, 18, 35, 56].
Khoảng 50% các trường hợp viêm gan có HBsAg(+), tỷ lệ có HBV ở các
bệnh nhân HCC hoặc xơ gan là 50- 85% [4, 20, 30, 57].
Tỷ lệ có HBV ở người có kháng nguyên bề mặt HBsAg(-) (nhiễm HBV ẩn:
occult HBV) theo một nghiên cứu ban đầu là rất cao 91,3% (73/80) do vậy trong
tương lai cần phải có những nghiên cứu có quy mô lớn hơn để đánh giá về tỷ lệ
cũng như tác động của có HBV ẩn đối với người Việt Nam [33].
1.1.2. Đặc điểm của Vi rút viêm gan B
Vi rút viêm gan B (tiếng Anh: Hepatitis B virus, viết tắt: HBV) là một vi rút
có vỏ, bao bọc lỏi AND sợi kép, thuộc họ Hepadnaviridae. Trong huyết thanh của
bệnh nhân ở giai đoạn hoạt động nhân lên của siêu vi người ta tìm thấy ba kiểu
cấu trúc [12]:
Hạt tử Dane hay virion hoàn chỉnh, có đường kính 42nm, gồm lớp vỏ bọc
bên ngoài là kháng nguyên bề mặt (HBsAg) và phần lõi bên trong là một
nucleocapside được cấu tạo từ kháng nguyên lõi (HbcAg). Bên trong lõi có
chứa cấu trúc ADN chuỗi đôi và các men như ADN polymeraza, protein
kinaza.
Các cấu trúc hình cầu đường kính 22nm.
Các cấu trúc hình ống cũng có đường kính 22nm nhưng chiều dài thay đổi.
Các cấu trúc này có thể do các cấu trúc hình cầu chồng chất lên nhau mà tạo
thành.
9
Hai cấu trúc hình cầu và hình ống chính là phần kháng nguyên bề mặt của vi
rút được sản xuất dư thừa tại bào tương của tế bào gan, cho nên cũng mang các
đặc tính như HBsAg.
HBV là vi rút có lõi ADN nhỏ nhất được biết đến bao gồm 3200 cặp gen, hai
sợi ADN của vi rút không giống hệt nhau. Chuỗi dài nằm ngoài có cực tính âm tạo
nên một vòng tròn liên tục có chiều dài 3,2kb và mã hóa cho các thông tin di truyền
của siêu vi. Chuỗi ngắn nằm trong có cực tính dương chiều dài thay đổi từ 50-
100% chiều dài bộ gen. Vỏ bao ngoài có chứa kháng nguyên bề mặt vi rút VGB
(HBsAg) lưu hành trong máu và là các hạt hình ống hoặc hình cầu có đường kính
22nm. Lõi bên trong của vi rút có chứa kháng nguyên lõi của vi rút VGB
(HBcAg), kháng nguyên e của vi rút (HBeAg), một phân tử ADN có một phần sợi
kép và ADN polymeraze phụ thuộc ADN [11].
Sau khi xâm nhập vào trong tế bào gan nhờ cơ chế nhập bào, vi rút phóng
thích phần vỏ bọc, chỉ còn phần lõi có chứa phân tử ADN để đi vào trong nhân tế
bào. Lúc đầu, cấu trúc ADN có chuỗi trong ngắn hơn chuỗi ngoài. Nhờ men ADN
polymeraze sẽ bổ sung cho chiều dài của chuỗi để tạo nên một ADN vòng khép
kín với hai chuỗi dài bằng nhau và bị xoắn cuộn lại nhờ các liên kết đồng hóa trị.
ADN này viết tắt là ccc-DNA. Sự hiện diện của dạng ccc-DNA trong tế bào gan
bị nhiễm giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì tình trạng mạn tính của nhiễm
HBV.
10
Hình 1. 2: Cấu trúc của Vi rút viêm gan B [4]
1.1.3. Khả năng gây bệnh của vi rút viêm gan B
1.1.3.1. Nhiễm vi rút VGB cấp tính.
Thời gian ủ bệnh từ 6 tuần đến 6 tháng và các biểu hiện khi phát bệnh tùy
thuộc rất nhiều vào tuổi của người bị nhiễm vi rút. Ở trẻ sơ sinh nói chung không
hề thấy các biểu hiện lâm sàng, các biểu hiện điển hình của bệnh thấy ở 5-15% trẻ
từ 1 đến 5 tuổi. Chỉ 33-50% các trường hợp có HBV ở người lớn và trẻ lớn có biểu
hiện lâm sàng. Các triệu chứng lâm sàng thường gặp là sốt nhẹ, mệt mỏi, chán ăn,
buồn nôn và nôn, vàng da, vàng mắt, nước tiểu sẫm màu, phân bạc màu, đau bụng.
Đôi khi có các biểu hiện ngoài gan như phát ban trên da, đau khớp và viêm khớp.
Viêm gan tối cấp khoảng 1-2% số bệnh nhân viêm gan cấp và tỷ lệ tử vong do hôn
mê gan là 63-93%[45].
1.1.3.2. Nhiễm vi rút VGB mạn tính
11
Nhiễm vi rút VGB mạn tính được xác định khi tồn tại HBsAg ít nhất 6 tháng
hoặc khi có HBsAg (+) và IgM anti-HBc (-) trong huyết thanh. Nguy cơ trở thành
người mang vi rút mạn tính phụ thuộc nhiều vào tuổi của người nhiễm vi rút. Nguy
cơ cao nhất khi lây truyền trong thời kỳ chu sinh, lên đến 90%, 25-50% ở giai đoạn
1-5 tuổi, 6-10% ở trẻ lớn và người trưởng thành. Hậu quả của tình trạng mang vi
rút VGB mạn tính là các bệnh gan mạn tính như xơ gan hay ưng thư gan nguyên
phát. Thời gian mang vi rút VGB kéo dài là yếu tố chính gây nên các bệnh lý gan
nguy hiểm. Khoảng 25% những người có HBV ở tuổi nhỏ và sơ sinh sẽ phát triển
thành xơ gan hoặc ung thư gan so với 15% ở nhóm có HBV ở độ tuổi vị thành
niên và trưởng thành. Một số yếu tố kèm theo ở bệnh nhân là mắc các bệnh mạn
tính như suy thận, nhiễm HIV, đái tháo đường sẽ làm tăng thêm nguy cơ có HBV
mạn tính[45]. Nhiễm vi rút VGB mạn sẽ trải qua 4 giai đoạn sau:
Giai đoạn dung nạp miễn dịch (immune tolerance)
Giai đoạn hoạt tính miễn dịch (immune active) hay còn được gọi là giai
đoạn thanh thải miễn dịch (immune clearance)
Giai đoạn không hoạt động (inactive HBsAg carrier) hay giai đoạn vi rút
không nhân lên hoặc nhân lên chậm (low replication)
Giai đoạn tái hoạt động (HBV reactivation) hay giai đoạn hoạt động miễn
dịch HBeAg(-)
Nhiễm vi rút VGB mạn tính ở người châu Á khác với người phương Tây.
Phần đông người mang vi rút VGB ở châu Á (40-50%) có HBV qua lây truyền
dọc theo đường mẹ truyền sang con hoặc nhiễm ngang ngay thời kỳ thơ ấu. Trong
khi đó, người mang vi rút VGB mạn tính tại các nước phát triển phương Tây
thường nhiễm vi rút trong giai đoạn trưởng thành qua con đường lây truyền ngang,
do vậy không có giai đoạn dung nạp miễn dịch kéo dài như người châu Á mà
12
chuyển ngay sang giai đoạn hoạt động. Sự khác biệt về lứa tuổi có HBV và phương
thức lây truyền giải thích một phần sự khác biệt về biểu hiện lâm sàng và đáp ứng
với điều trị bằng các thuốc điều hoà miễn dịch giữa người mang vi rút VGB mạn
tính châu Á và phương Tây [50].
1.1.4. Lây truyền Vi rút viêm gan B
Người có HBV là nguồn dự trữ siêu vi chủ yếu. HBV lây truyền khi phơi
nhiễm qua da bị tổn thương và dịch tiết. Mặc dù HBsAg phát hiện trong máu, nước
bọt, tinh dịch, dịch âm đạo và hầu hết các dịch cơ thể nhưng chỉ khi phơi nhiễm
với máu, tinh dịch, nước bọt mới bị nhiễm bệnh. Nồng độ HBV cao trong máu,
thấp trong tinh dịch và nước bọt. Tất cả những người có HBsAg (+) đều có thể
lây. HBV có thể tồn tại trên các bề mặt trong môi trường ở nhiệt độ phòng hơn 7
ngày. Khi nồng độ HBV-ADN từ 102-103 IU/mL hiện diện trên các bề mặt, mặc
dù vết máu không nhìn thấy vẫn có thể lây truyền [44].
Ở người trưởng thành, hai nguồn lây HBV chính là tiếp xúc tình dục và phơi
nhiễm qua da vào máu. Lây truyền từ người sang người không qua tiếp xúc tình
dục như những người sống chung nhà với người nhiễm mạn tính.
Lây truyền HBV qua đường tình dục rất cao đặc biệt ở những người đồng
tính do không sử dụng các biện pháp bảo vệ, quan hệ với nhiều người, quan hệ
qua đường hậu môn. Đây là cách thức lây bệnh thường gặp và quan trọng nhất tại
Hoa Kỳ, nhất là ở lứa tuổi dậy thì. Vì nhiễm HBV thường không có triệu chứng,
nên những người có HBV vô tình truyền bệnh của mình cho người khác một cách
nhanh chóng và dễ dàng. Tỷ lệ nhiễm HBV khá cao ở phụ nữ mại dâm, nhóm đồng
tính luyến ái, những người có nhiều bạn tình.
Lây truyền qua da: qua truyền máu, ghép cơ quan, ghép mô do người cho bị
nhiễm HBV, sử dụng chung bơm kim tiêm; nhân viên y tế thường xuyên phơi
13
nhiễm với máu, kim tiêm. Trước đây, truyền máu được xem là nguyên nhân chính
gây nhiễm HBV, đặc biệt là những năm 1960 do hiến máu được trả tiền thù lao,
nhiều người nghiện đổi máu lấy tiền mua thuốc, cần sa.
Người sống cùng với người nhiễm HBV mạn có nguy cơ cao bị lây truyền
do sử dụng chung bàn chải đánh răng, dao cạo râu, tiếp xúc với chất tiết do thương
tổn da, tiếp xúc với các bề mặt có HBsAg [44].
Mẹ truyền sang con: đây là nguyên nhân chính gây có HBV tại các nước
Châu Á, có ít nhất 90% người Việt Nam bị nhiễm qua đường này [28]. Lây có
HBV qua đường chu sinh rất quan trọng. Theo nghiên cứu của Chu Thị Thu Hà,
tỷ lệ nhiễm HBsAg ở phụ nữ có thai tại Hà Nội là 12,5% [6], tỷ lệ lây truyền
HBsAg từ mẹ sang con được xét nghiệm trong máu cuống rốn là 35,6% hay ở
nghiên cứu của Phí Đức Long thì tỷ lệ lây truyền vi rút VGB từ các bà mẹ có
HBsAg(+) khi sinh sang con qua xét nghiệm dấu ấn nhiễm vi rút này trong máu
cuống rốn của con là: HBsAg: 61,5%[16]. Trẻ có HBV ở giai đoạn chu sinh qua
theo dõi cho thấy 100% các trẻ này sẽ trở thành có HBV mạn tính [11]. Trẻ sinh
ra từ mẹ có HBsAg(+), một số ít có Anti-HBs(+) sau một thời gian mang HBsAg
thoáng qua, một số ít trẻ có Anti-HBs(-) nhưng không phát hiện được kháng
nguyên [58].
1.1.5. Các biện pháp phòng, chống
Hiện nay trên thế giới chưa có phương pháp nào điều trị đặc hiệu nào cho vi
rút viêm gan B. Do vậy vấn đề quan trọng nhất cho vi rút viêm gan B là phòng lây
truyền. Để dự phòng kiểm soát tốt lây truyền vi rút VGB cũng như giảm nguy cơ
mắc bệnh VGB cần phải phối hợp các biện pháp phòng bệnh chung và các biện
pháp phòng bệnh đặc hiệu như tiêm phòng vắc xin VGB và globulin miễn dịch
VGB.
14
1.1.5.1. Các biện pháp phòng, chống chung
Thực hiện tốt an toàn truyền máu và các sản phẩm của máu để giảm nguy cơ hệ
thống cung cấp máu có chứa các mầm bệnh như HBV. Người cho máu phải được
khám sức khỏe định kỳ, làm các xét nghiệm huyết thanh học sàng lọc vi rút VGB.
Những người có tiền sử vàng da hoặc xét nghiệm HBsAg dương tính không được
cho máu. Hạn chế sự lây truyền HBV trong Bệnh viện bằng cách sử dụng bơm kim
tiêm một lần, tiệt trùng dụng cụ y tế, thực hành mũi tiêm an toàn. Khi đeo khuyên tai,
xăm mình, châm cứu phải sử dụng kim tiêm mới đã được khử trùng. Tránh tiếp xúc
trực tiếp với máu và dịch cơ thể. Xử lý tốt chất thải Bệnh viện để hạn chế nguồn lây
truyền cho cộng đồng. Thầy thuốc phải sử dụng các dụng cụ bảo hộ lao động khi
khám chữa bệnh. Tuyên truyền cho thanh thiếu niên thực hiện hành vi tình dục an
toàn[45, 72, 73].
1.1.5.2. Các biện pháp phòng bệnh đặc hiệu
Các biện pháp dự phòng chung chủ yếu phòng lây truyền vi rút VGB cho các
đối tượng có nguy cơ cao. Tuy nhiên, để có thể dự phòng rộng rãi và lâu dài cho
cả cộng đồng thì các biện pháp phòng bệnh đặc hiệu như tiêm phòng vắc xin và
huyết thanh kháng VGB là hết sức cần thiết.
Miễn dịch thụ động
Việc phát hiện kháng thể anti-HBs có thể bảo vệ các cá thể có HBV cấp hoặc
mạn nếu kháng thể được sử dụng sớm ngay sau khi phơi nhiễm dẫn đến việc phát
triển các globulin miễn dịch (Ig) đặc hiệu chứa anti-HBs nồng độ cao (HBIg).
HBIg được sản xuất từ huyết thanh chứa anti-HBs nồng độ cao. Đó là huyết thanh
của những người có HBV tự nhiên trong quá khứ nhưng đã qua khỏi, không trở
thành người mang HBsAg [45, 80]. Hiệu quả bảo vệ của HBIg có ngay sau khi
tiêm nhưng chỉ kéo dài 3-6 tháng. HBIg được sử dụng qua đường tiêm bắp, vị trí
15
tiêm cơ Delta ở người lớn và mặt trước bên đùi cho trẻ sơ sinh. Nếu lượng thuốc tiêm
trên 2 ml với trẻ em, trên 5 ml đối với người lớn có thể chia nhỏ để tiêm ở những vị
trí khác nhau. HBIg được chỉ định trong những trường hợp sau [80]:
Tạo miễn dịch thụ động với VGB trên đối tượng chưa tiêm phòng, hoặc mới
tiêm phòng 1 mũi vắc xin nhưng bị phơi nhiễm VGB do xước da, kim đâm,
cắn,… Trẻ em tiêm 200 UI cho trẻ 0-4 tuổi, 300 UI cho trẻ 5-9 tuổi, người
lớn tối thiểu 500 UI, phụ thuộc vào mức độ phơi nhiễm. Tốt nhất trong vòng
24-72 giờ nhưng có thể tới 1 tuần sau phơi nhiễm. Liều thứ hai tiêm sau 1
tháng. Việc sử dụng đồng thời HBIg và vắc xin VGB làm tăng hiệu quả bảo
vệ sau phơi nhiễm.
Trên bệnh nhân lọc máu, liều dùng 8-12UI/kg tối đa 500 UI. Dùng 2 tháng/
lần cho tới khi có đáp ứng miễn dịch bảo vệ sau tiêm phòng.
Ở trẻ sinh ra từ mẹ mang HBsAg, đặc biệt trẻ sinh ra từ các bà mẹ
HBeAg/HBsAg(+). Tiêm sau đẻ càng sớm càng tốt, trong vòng 24 giờ đầu
sau sinh. Liều lượng 30-100 UI/kg. Mũi vắc xin VGB đầu tiên có thể tiêm
cùng ngày với HBIg nhưng ở vị trí khác. Việc tiêm HBIg lúc sinh cung cấp
kháng thể đủ mạnh cho đến lúc đáp ứng miễn dịch đối với vắc xin xảy ra.
Không đáp ứng với vắc xin sau tiêm phòng (anti-HBs <10UI/ml), có nguy
cơ bị nhiễm VGB. Liều lượng 500 UI đối với người lớn và 8UI/kg đối với
trẻ em. Cứ hai tháng tiêm một lần tới khi có đáp ứng miễn dịch bảo vệ sau
tiêm phòng.
Quan hệ tình dục với người VGB cấp trong vòng 1 tuần
Quan hệ tình dục không an toàn với người VGB mạn mới được chẩn đoán
trong vòng 1 tuần.
Trên những bệnh nhân sau ghép gan để chống tái có HBV
16
Miễn dịch chủ động
Vắc xin VGB chính là kháng nguyên bề mặt của vi rút VGB (HBsAg) có độ
tinh khiết cao. Hiện nay có tất cả 3 thế hệ vắc xin VGB. Trong đó 2 loại vắc xin VGB
được sử dụng phổ biến là vắc xin điều chế từ huyết tương người và vắc xin tái tổ hợp.
Quá trình sản xuất vắc xin được tiến hành qua một loạt các bước như tinh khiết, bất
hoạt sau đó hấp thụ với nhôm hydroxid và thêm thimerosal với vai trò là chất bảo
quản. Hiện nay một số loại vắc xin sử dụng chất hấp phụ mới như MPL (3-deacylated
monophosphoryl lipid A). MF-59 có thể tăng đáp ứng miễn dịch với những đối tượng
đáp ứng miễn dịch kém hoặc không có đáp ứng miễn dịch với các loại vắc xin truyền
thống [45, 72, 73].
1.1.6. Tiêm vắc xin viêm gan B trên trẻ được sinh ra từ mẹ có HBV
Nhiều nghiên cứu trên trẻ em đặc biệt trẻ sơ sinh, con của các bà mẹ mang vi
rút VGB mạn tính cho thấy có sự dao động rất lớn về đáp ứng miễn dịch sau tiêm
vắc xin phòng bệnh. Các yếu tố ảnh hưởng đến tính sinh miễn dịch sau tiêm phòng
bao gồm đối tượng tiêm, lịch tiêm, liều lượng vắc xin, đường tiêm, nhiệt độ bảo
quản vắc xin, tiêm đồng thời hoặc phối hợp với các vắc xin khác, phối hợp hay
không phối hợp với HBIg, tình trạng có HBV ở mẹ, tỷ lệ lây truyền vi rút VGB
trong tử cung và ngay sau sinh, điều trị bằng các thuốc kháng vi rút trong quá
trình mang thai, tình trạng đột biến trốn thoát vắc xin.
1.1.6.1. Đối tượng tiêm vắc xin
Trẻ sơ sinh non tháng và cân nặng thấp <2000gam có mức độ đáp ứng miễn
dịch thấp với liều vắc xin VGB sơ sinh. Tuy nhiên, ngay ở thời điểm 1 tháng tuổi,
không phụ thuộc vào cân nặng sơ sinh và tuổi thai, đáp ứng miễn dịch có được ở
những trẻ này tương đương với trẻ có cân nặng bình thường và đẻ đủ tháng. Như
vậy đối với những trẻ đẻ non và có cân nặng thấp, liều sơ sinh thường không được
17
tính trong 3 liều tiêm đầy đủ của vắc xin VGB và lịch tiêm 4 mũi với mũi tiêm sơ
sinh được xem là tối ưu và cho hiệu quả phòng bệnh tốt nhất[60, 66].
1.1.6.2. Tiêm đồng thời và phối hợp các vắc xin khác
Trẻ mới sinh khi tiêm phòng phải sử dụng loại vắc xin VGB đơn. Trong vắc
xin VGB phối hợp chứa vắc xin DPT và Hib không được sử dụng cho trẻ sơ sinh.
Các mũi tiêm sau có thể sử dụng vắc xin VGB phối hợp [72, 73].
Vắc xin VGB có thể được sản xuất dưới dạng phối hợp với những loại vắc
xin khác như lao, sởi, quai bị, Rubella, Hib, bạch hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt,
viêm gan A. Vắc xin VGB an toàn và có hiệu quả miễn dịch cao khi được tiêm
cùng với các loại vắc xin khác trong cùng thời điểm. Có thể tiêm vắc xin VGB vào
bất kỳ thời điểm nào trước hoặc sau các mũi tiêm vắc xin bất hoạt và vắc xin sống
khác mà không ảnh hưởng đến tính sinh miễn dịch của những loại vắc xin này.
Nếu vắc xin VGB được tiêm cùng ngày với một loại vắc xin khác thì tiêm mỗi
loại ở một chi khác nhau. Nếu tiêm cùng một chi thì nên tiêm ở mặt trước bên đùi
cách nhau 2,5-5 cm để tránh phản ứng tại chỗ. Không được lấy vắc xin VGB và
một loại vắc xin khác vào cùng một bơm tiêm trừ khi có hướng dẫn của nhà sản
xuất ở những loại vắc xin phối hợp [72, 73].
1.1.6.3. Lịch tiêm vắc xin
WHO đã đưa ra một số lịch tiêm vắc xin VGB để mỗi quốc gia lựa chọn triển
khai tiêm phòng vắc xin VGB như một phần trong chương trình TCMR. Lịch tiêm
thứ nhất dễ dàng triển khai trong chương trình TCMR vì 3 mũi vắc xin VGB được
tiêm đồng thời với ba mũi vắc xin DPT, tuy nhiên không phòng được lây truyền
vi rút VGB từ mẹ sang con trong giai đoạn chu sinh. Hai lịch tiêm thứ hai và thứ
ba có thể phòng tránh được lây truyền vi rút VGB mẹ con trong thời kỳ chu sinh
vì có mũi tiêm vắc xin VGB sơ sinh. Lịch tiêm thứ hai kinh tế vì chỉ tiêm phòng
18
3 mũi, nhưng khó áp dụng vì tiêm không đồng thời với các mũi DPT. Lịch tiêm
thứ ba dễ áp dụng do ba mũi sau được tiêm đồng thời với DPT nhưng giá thành
cao khó áp dụng ở các nước đang phát triển[72].
Bảng 1. 3: Lịch tiêm vắc xin VGB: chương trình TCMR[72]
Tuổi
Các vắc xin khác
I
II
III
Lần tiêm
0
0
VGB02 VGB02
Sơ sinh
VGB13 VGB22 DTP-VGB14 DTP-VGB24 VGB23 VGB33 VGB32 DTP-VGB34
(DTP1) (DTP2) (DTP3)
Sởi
1 2 3 4
BCG (OPV0)1
6 tuần 10 tuần 14 tuần 9-12 tháng
(OPV1) (OPV1 (OPV1 1 Chỉ áp dụng cho những vùng lưu hành dịch bại liệt cao
2 Tiêm loại vắc xin chỉ có VGB
3Tiêm loại vắc xin chỉ có VGB hoặc loại vắc xin VGB kết hợp với các loại vắc xin khác
4 Tiêm loại vắc xin VGB kết hợp với các vắc xin khác
Tất cả mọi nghiên cứu với vắc xin VGB trên động vật và người đã chỉ ra sự
cần thiết ít nhất 3 lần tiêm để tạo kháng thể ở mức độ phù hợp và có độ dài cần
thiết. Một hoặc hai lần tiêm có thể bảo vệ chống lây truyền dọc như ba lần tiêm
nhưng sẽ không tạo ra kháng thể bảo vệ bền vững theo thời gian. Những đứa trẻ
chỉ nhận được hai lần tiêm sẽ có sự bảo vệ nhưng có thể bị nhiễm ở các giai đoạn
sau do các nguồn lây khác nhau. Hai mũi tiêm đầu tiên thường khởi đầu cho quá
trình sản sinh anti-HBs và tạo tiền đề đáp ứng thứ phát cho hệ miễn dịch. Mũi tiêm
thứ ba kích thích đáp ứng miễn dịch thứ phát, hiệu giá kháng thể sẽ tăng nhanh và
đạt mức cao, duy trì được lượng kháng thể trên ngưỡng bảo vệ lâu dài[38, 49].
Mặc dù có rất nhiều lịch tiêm khác nhau đã được thực hiện nhưng vẫn không có
xác nhận lịch tiêm nào là tốt nhất. Nghiên cứu phân tích hệ thống của Gong Y Lee
cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ có vi rút VGB sau tiêm phòng với lịch
tiêm khác nhau ở trẻ có mẹ mang HBsAg. Tỷ lệ có đáp ứng miễn dịch bảo vệ sau
19
khi kết thúc tiêm phòng không có sự khác biệt với các lịch tiêm phòng khác
nhau[51]. Nghiên cứu của Nguyễn Tuyết Nga đánh giá đáp ứng miễn dịch với vắc
xin VGB ở trẻ có mẹ HBsAg(+) với hai lịch tiêm 0-1-6 và 0-1-3-12 tháng thấy
hiệu quả bảo vệ là tương đương, tuy nhiên lịch tiêm 4 mũi 0-1-3-12 tháng tạo
lượng kháng thể bảo vệ với nồng độ cao hơn so với lịch tiêm ba mũi 0-1-6
tháng[18].
1.1.6.4. Thời điểm tiêm mũi vắc xin VGB sơ sinh
Tiêm phòng ở trẻ có mẹ mang HBsAg là tiêm phòng khi trẻ đã có phơi nhiễm
với vi rút VGB do vậy việc sử dụng vắc xin và HBIg phải tiến hành càng sớm càng
tốt để cơ thể nhanh chóng có kháng thể anti-HBs trung hòa vi rút. Theo khuyến
cáo của CDC thì những trẻ sinh ra từ các bà mẹ mang HBsAg phải được tiêm
phòng mũi vắc xin VGB sơ sinh cùng với HBIg càng sớm càng tốt, tốt nhất là
trong vòng 12 giờ đầu sau sinh. Yếu tố quyết định hiệu quả bảo vệ là việc sử dụng
mũi vắc xin VGB sơ sinh sớm[61]. Theo khuyến cáo của WHO thì trẻ sinh ra từ
các bà mẹ có HBsAg phải được tiêm phòng vắc xin VGB càng sớm càng tốt, tốt
nhất là 24 giờ đầu. Tiêm phòng vắc xin VGB đơn thuần hoặc vắc xin VGB phối
hợp với HBIg có khả năng phòng tránh 90% khả năng lây truyền từ mẹ sang
con[37, 72]. Sử dụng vắc xin VGB đơn thuần cũng có hiệu quả tương đương như
phối hợp vắc xin VGB và HBIg. Hiệu quả bảo vệ tối đa trong việc phòng tránh lây
truyền vi rút VGB từ mẹ sang con khi vắc xin VGB được tiêm trong vòng 24 giờ
đầu sau sinh. Không có bằng chứng có hiệu quả bảo vệ nếu mũi vắc xin VGB sơ
sinh được sử dụng sau 7 ngày [72].
Tuy nhiên, các bằng chứng nghiên cứu CDC viện dẫn cũng chỉ chứng minh
được hiệu quả bảo vệ sau phơi nhiễm giảm nếu sử dụng vắc xin sau mốc thời điểm
7 ngày đối với lây truyền mẹ con, kim đâm, sau 14 ngày đối với quan hệ tình
20
dục[54, 61]. Nghiên cứu của Li L Cui cũng cho thấy hiệu quả bảo vệ ở nhóm tiêm
phòng vắc xin VGB sớm trong vào 24 giờ đầu cao hơn nhóm tiêm muộn sau 7
ngày, nhưng không có sự khác biệt về hiệu quả bảo vệ giữa nhóm vắc xin VGB
được tiêm trong vòng 24 giờ và nhóm tiêm sau 24 giờ nhưng trước 7 ngày[40].
Nghiên cứu của Đỗ Tuấn Đạt cho thấy tỷ lệ có HBV ở trẻ được tiêm phòng sớm
trước 24 giờ hoặc 3 ngày thấp hơn so với tiêm muộn sau mốc thời điểm, tuy vậy
sự khác biệt là không có ý nghĩa thống kê[5].
1.1.6.5. Tình trạng có HBV ở mẹ
Tình trạng có HBV ở mẹ biểu hiện bằng sự có mặt của HBeAg, anti-HBe,
anti-HBc, HBV-DNA, tải lượng vi rút trong máu mẹ. Tải lượng cao của vi rút
VGB, HBV-DNA(+), HBeAg(+) trong máu mẹ là những yếu tố nguy cơ có HBV
dù được tiêm phòng HBIg và vắc xin VGB của trẻ sinh ra từ mẹ có HBsAg[67,
68, 83]. Tuy nhiên, ở những trẻ có đáp ứng miễn dịch, nồng độ kháng thể sau tiêm
phòng lại không phụ thuộc vào sự có mặt hay không của HBeAg, anti-HBe trong
máu mẹ[83]. Kháng thể anti-HBs ở mẹ với nồng độ cao cũng không ảnh hưởng
đến đáp ứng miễn dịch ở trẻ sau tiêm phòng. Do vậy, trong tương lai tiêm phòng
vắc xin VGB cho trẻ em vẫn phát huy giá trị cho dù hầu hết trẻ ngay sau sinh có
kháng thể anti-HBs của mẹ đã được tiêm vắc xin VGB truyền sang [67, 68]. Kháng
thể anti-HBc làm giảm lây truyền vi rút VGB từ mẹ sang con ở trẻ có mẹ
HBeAg(+)/ HBsAg(+). Những bà mẹ có định lượng anti-HBc cao là yếu tố hạn
chế lây truyền vi rút VGB mẹ sang con sau tiêm phòng [39].
1.1.6.6. Các biện pháp điều trị khi mang thai
Điều trị bằng HBIg
Nghiên cứu của Xu Q sử dụng HBIg liều 200UI cho thai phụ mang HBsAg
từ tuần thứ 28, tiêm 3 mũi cách nhau 4 tuần làm giảm tỷ lệ HBeAg(+), HBV-
21
DNA(+) ở máu cuống rốn ngay sau khi sinh ở nhóm điều trị so với nhóm đối
chứng. Tải lượng vi rút mẹ trước sinh ở nhóm điều trị giảm đi rõ rệt trong khi
nhóm chứng không thay đổi [77]. Trong nghiên cứu của Xiao XM trên 469 phụ
nữ có thai HBsAg(+), trong số đó có 126 mẹ có HBeAg(+) và 343 mẹ HBeAg(-
). Ở mỗi nhóm bà mẹ có HBeAg(+) và HBeAg(-) chia ngẫu nhiên 2 nhóm: điều
trị và không điều trị với HBIg ở 3 tháng cuối của thời kỳ có thai. Tất cả trẻ sinh
ra được tiêm phòng HBIg và vắc xin VGB trong vòng 12 giờ đầu. Điều trị HBIg
làm giảm tỷ lệ HBsAg(+) lúc mới sinh và khi 6 tháng tuổi trên nhóm mẹ có
HBeAg(+) nhưng không có sự khác biệt ở nhóm mẹ HBeAg(-). Điều trị HBIg
làm tăng tỷ lệ trẻ có kháng thể bảo vệ ở cả hai nhóm trẻ có mẹ HBeAg(+) và
HBeAg(-). Như vậy trong nghiên cứu này HBIg làm giảm tỷ lệ lây truyền vi rút
VGB từ mẹ sang con trên trẻ có mẹ HBeAg(+) nhưng không có tác dụng rõ rệt
trên trẻ có mẹ HBeAg(-) [76]. Tuy nhiên, trên nghiên cứu của Yuan J thấy HBIg
không có hiệu quả trên các bà mẹ HBsAg(+)/HBeAg(+). Trong nghiên cứu này,
250 mẹ có thai HBeAg(+)/ HBsAg(+) được chia ngẫu nhiên làm hai nhóm. Nhóm
điều trị 117 bà mẹ được tiêm 3 mũi HBIg 400UI vào 3 tháng cuối thời kỳ có thai.
Nhóm đối chứng 113 bà mẹ không tiêm HBIg. Tất cả trẻ sinh ra được tiêm HBIg
và vắc xin ngay sau khi sinh. Không có sự khác biệt về tỷ lệ HBsAg(+) tải lượng
vi rút ở bà mẹ ngay trước khi sinh giữa hai nhóm can thiệp và đối chứng. Không
có sự khác biệt về tỷ lệ trẻ có kháng thể bảo vệ sau tiêm phòng lúc 12 tháng giữa
hai nhóm bà mẹ tiêm và không tiêm HBIg, không có tác dụng phụ của HBIg trên
bà mẹ và trẻ sơ sinh [81].
Điều trị bằng các thuốc kháng vi rút
Việc sử dụng HBIg và vắc xin VGB an toàn và hiệu quả trong việc phòng tránh
lây truyền vi rút VGB từ mẹ sang con. Tuy nhiên, có khoảng 5-10% trẻ sinh ra từ các
22
bà mẹ mang HBsAg vẫn có HBV dù được tiêm phòng đầy đủ [51]. Tải lượng cao của
vi rút, lây truyền mẹ con xảy ra ngay trong tử cung, đột biến của vi rút cùng với tình
trạng miễn dịch yếu của đứa trẻ là những nguy cơ thất bại của tiêm phòng. Trong các
yếu tố đó, tải lượng cao của vi rút và tình trạng HBeAg(+) ở mẹ là những yếu tố quan
trọng dẫn đến lây truyền vi rút VGB mẹ con dù được tiêm phòng vắc xin VGB và
HBIg [67, 68, 83]. Trong một nghiên cứu phân tích hệ thống của Del Caho R dựa
trên 3 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên cho thấy nếu ở mẹ HBV-DNA
< 150pg/ml (≈ 3,16,107 copies) thì hiệu quả bảo vệ lên đến 100% sau khi dùng HBIg
và 3 mũi vắc xin VGB so với chỉ 68% nếu HBV-DNA > 150pg/ml[41]. Điều trị
cho những phụ nữ có thai có tải lượng HBV-DNA cao bằng các thuốc kháng vi
rút có thể cải thiện hiệu quả sau tiêm phòng vắc xin VGB và HBIg.
Lamivudine, một thuốc ức chế sao chép ngược dạng nucleoside rất hiệu quả
trong việc ức chế việc sao chép của vi rút VGB. Trong nghiên cứu của Li XM, tỷ
lệ lây truyền vi rút VGB giữa hai nhóm điều trị bằng HBIg và lamivudine tương
đương nhau [52]. Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng mù
kép của Xu WM cho thấy lamivudine giảm tỷ lệ lây truyền vi rút VGB từ những
phụ nữ có tải lượng vi rút cao sang con khi tất cả trẻ đó đều được tiêm phòng vắc
xin và HBIg sau sinh. Không có tác dụng phụ của lamivudine [78]. Trong nghiên
cứu phân tích hệ thống của Han L dựa trên 15 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có
đối chứng cho thấy điều trị lamivudine từ tuần 28 có hiệu quả an toàn hơn HBIg
trong việc hạn chế lây truyền vi rút VGB mẹ con. Lây truyền mẹ con được ngăn
chặn hiệu quả khi tải lượng vi rút được điều trị dưới ngưỡng 106 copies/ml [46].
Telbivudine, một loại thuốc kháng vi rút dạng nucleoside (nhóm B theo phân
loại FDA nguy cơ đối với phụ nữ có thai) rất hiệu quả trong điều trị vi rút VGB.
Trên bệnh nhân có HBV mạn tính có HBeAg(+) hoặc HBeAg(-), telbividine hiệu
23
quả hơn lamivudine trong việc làm giảm các triệu chứng lâm sàng và tải lượng vi
rút. Trong nghiên cứu phân tích hệ thống của Deng M dựa trên 6 nghiên cứu thử
nghiệm lâm sàng với telbividine ở phụ nữ có thai có HBV. Nhóm điều trị gồm 306
bà mẹ điều trị telbividine liều 600mg/ngày từ quí thứ 2 hoặc thứ 3 của thời kỳ
mang thai cho tới khi sinh hoặc 1 tháng sau khi sinh. Nhóm đối chứng gồm 270
bà mẹ không nhận được bất kỳ thuốc kháng vi rút nào. Tất cả trẻ sinh ra đều được
tiêm phòng HBIg và vắc xin VGB. Kết quả cho thấy telbividine hiệu quả trong
việc giảm tỷ lệ dương tính với HBsg và HBV-DNA ở các thời điểm lúc mới sinh,
6 tháng, 12 tháng [42].
Một số tác giả đưa ra phác đồ gợi ý cho việc dùng thuốc kháng vi rút ở tuần
thứ 28 -32. Ngưỡng điều trị khi người mẹ có HBV - DNA > 106 copies/ml có thể
giảm xuống nếu đứa trẻ trước có HBV [55, 70]. Tuy nhiên, hiện nay không có
khuyến cáo chính thức nào trong việc sử dụng HBIg hoặc các thuốc kháng vi rút
trong giai đoạn có thai.
1.1.7. Hiệu quả của tiêm chủng vắc xin VGB trong chương trình TCMR
Năm 1992, nhóm tư vấn toàn cầu về TCMR đã kêu gọi các quốc gia trên thế
giới đưa vắc xin VGB vào Chương trình TCMR [71]. Khi khuyến cáo này được
đưa ra chỉ có khoảng 20 quốc gia có chương trình tiêm phòng vắc xin VGB thường
xuyên, nhưng cho đến năm 2006, trong số 193 quốc gia báo cáo tình hình TCMR
cho WHO có khoảng 162 quốc gia triển khai tiêm phòng rộng rãi vắc xin VGB
cho trẻ em. Kể từ 2008, 177 quốc gia đã đưa vắc xin VGB vào trong chương trình
TCMR, ước tính tỷ lệ trẻ được tiêm phòng đầy đủ 3 mũi vắc xin VGB là 69%. Tới
năm 2006, 81 trong số 193 quốc gia báo cáo đã sử dụng lịch tiêm phòng với mũi
VGB sơ sinh. Tuy nhiên, chỉ có 36% trẻ sơ sinh ở các quốc gia có tỷ lệ lưu hành
vi rút VGB cao và 27% trẻ em trên thế giới nhận được mũi vắc xin sơ sinh [62].
24
Trước khi vắc xin VGB được đưa vào sử dụng năm 1982, tại Mỹ có khoảng
200,000-300,000 người có HBV mỗi năm và tỷ lệ có HBV lên cao nhất giữa những
năm 1980. Tuy nhiên, do tiêm phòng vắc xin VGB tỷ lệ này đã giảm xuống nhanh
chóng. CDC Hoa Kỳ ước tính chỉ có khoảng 13,000 bệnh nhân VGB cấp và 43,000
trường hợp có HBV mới năm 2007, giảm đáng kể so với các cuộc điều tra trước
đó [48].
Ở Ý, tiêm phòng rộng rãi VGB từ năm 1991 đã làm giảm tỷ lệ bệnh từ 5,1
trường hợp /100,000 dân xuống 0,9 trường hợp/ 100,000 dân năm 2010. Trong
cùng thời gian, tỷ lệ bệnh ở nhóm tuổi 15-24 giảm đáng kể hơn từ 17 trường hợp/
100,000 người xuống 0,5 trường hợp [63]. Hơn nữa tỷ lệ các dấu ấn của vi rút
VGB giảm mạnh sau khi đưa vắc xin VGB vào chương trình TCMR. Tỷ lệ người
người mang HBsAg giảm từ 3,5% những năm 1970-1980 xuống dưới 2% hiện
nay[65]. Các bằng chứng tại Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc cho thấy tầm quan
trọng của việc tiêm chủng rộng rãi. Tỷ lệ người mang HBsAg tại Trung Quốc khi
bắt đầu chương trình tiêm chủng cho trẻ sơ sinh năm 1992 là 9,8%. Năm 2009 tỷ
lệ này giảm xuống còn 7,2%, đặc biệt ở trẻ em dưới 5 tuổi chỉ còn 1% [53]. Chương
trình tiêm chủng VGB quốc gia được thực hiện ở Đài Loan năm 1984 đã giảm tỷ
lệ mang vi rút ở trẻ 6 tuổi từ 10,5% năm 1989 xuống 1,7% năm 1999 [47]. Tại
Hàn Quốc, tỷ lệ người mang HBsAg giảm từ 10% năm 1980 xuống 3,8% năm
2007. Tỷ lệ đó thậm chí còn thấp hơn 0,4% ở trẻ vị thành niên và 0,2% ở trẻ nhỏ
hơn 10 tuổi [59].
Ở Việt Nam, tiêm phòng vắc xin VGB được đưa vào chương trình TCMR từ
năm 1997. Tiêm chủng VGB rộng rãi cho trẻ sơ sinh được đưa vào chương trình
TCMR với sự giúp đỡ của Liên minh toàn cầu về vắc xin và tiêm chủng (GAVI)
từ 2003 đã làm tăng diện bao phủ của tiêm chủng từ dưới 20,0% năm 2000 lên
25
hơn 90,0% vào năm 2005. Mũi vắc xin VGB sơ sinh được hướng dẫn tiêm phòng
trong vòng 24 giờ đầu thay cho trong 3 ngày đầu sau sinh vào năm 2006. Tiêm
chủng VGB trong vòng 24 giờ đầu sau sinh đã đạt hơn 62,2% vào năm 2005. Năm
2006, thông tin về các tai biến sau tiêm phòng vắc xin VGB ở Thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Tĩnh làm tỷ lệ trẻ được tiêm phòng mũi vắc xin VGB trong vòng 24
giờ đầu giảm xuống từ 67,0% năm 2006 xuống 24% năm 2007 và 22,0% năm
2008. Tuy nhiên, tỷ lệ trẻ được tiêm phòng đầy đủ 3 mũi vắc xin vẫn đạt 89%,
chứng tỏ trẻ vẫn được tiêm phòng mũi VGB sơ sinh nhưng trì hoãn sau 24 giờ
[74]. Việc trì hoãn mũi tiêm vắc xin VGB sơ sinh có thể là nguyên nhân của các
trường hợp thất bại sau tiêm phòng. Các nghiên cứu được tiến hành gần đây sau
15 năm đưa vắc xin VGB vào chương trình TCMR ở Việt Nam cho thấy tỷ lệ
mang vi rút VGB chưa giảm trên các đối tượng nghiên cứu. Tỷ lệ người mang
HBsAg dao động từ 10-25% [34, 43, 56, 57].
1.2. TÌNH HÌNH VÀ LUẬN GIẢI MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1. Đánh giá tổng quan
1.2.1.1. Ở nước ngoài
Có rất nhiều nghiên cứu khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành trong phòng,
chống lây truyền vi rút VGB trên thế giới.
Theo WHO cho rằng trẻ sơ sinh được sinh ra từ các bà mẹ nhiễm HBV không
được điều trị có khả năng bị lây truyền từ mẹ, chủ yếu là trong lúc sinh. Trẻ sơ
sinh được sinh ra từ các bà mẹ dương tính với cả HBsAg và HBeAg có nguy cơ
bị nhiễm HBV cao hơn (70-100% ở châu Á và 40% ở châu Phi) so với những trẻ
sinh ra ở các bà mẹ HBsAg dương tính nhưng HBeAg âm tính (5–30% ở châu Á
và 5% ở châu Phi). Tiêm chủng sớm cho trẻ với liều VGB sơ sinh trong vòng 24
giờ đầu góp phần ngăn ngừa lây truyền từ mẹ sang con [75].
26
Tuy nhiên, theo một số nghiên cứu trên thế giới thì tỉ lệ hiểu biết về lây truyền
vi rút VGB còn thấp. Như một nghiên cứu tại tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc, chỉ
có 46,7% [82] biết rằng vi rút VGB có thể lây qua đường quan hệ tình dục, có số
này đối với nghiên cứu tại một số vùng có nguy cơ cao tại Trung Quốc là 52,9%
[79]. 46,7% - 75,5% [79, 82] ở Trung Quốc và 10,3% [36] ở Nigeria nhận ra rằng
HBV có thể lây truyền qua đường máu. Đáng chú ý, các thông tin liên quan đến
vắc-xin HBV và VGB tương đối dễ tiếp cận đối với thai phụ tại các địa điểm
nghiên cứu. Trong khi đó nhận thức được việc lây truyền vi rút VGB từ mẹ sang
con dẫn đến cuối cùng có thể dẫn đến các biến chứng gan nghiêm trọng ở cả thời
thơ ấu và khi trưởng thành trong nghiên cứu tại tỉnh Quảng Đông – Trung Quốc
chỉ có 58,8%[82], cũng trong nghiên cứu này người ta cũng thấy tỷ lệ sẵn sàng
sàng lọc trước sinh và tỷ lệ sẵn sàng cho bé tiêm vắc xin lần lượt là 83,3% và
89,9% [82]. Sự lo ngại thể hiện rõ trong nghiên cứu này khi chỉ có 49% thai phụ
cho phép lấy máu từ con mình để xét nghiệm.
Một nghiên cứu khác tại Ethiopia [69], trong số 354 người tham gia, 73,4%
nằm trong nhóm kiến thức kém. Chỉ 18,9% số người được hỏi biết HBV có thể
truyền từ mẹ sang con trong khi mang thai. Chưa đến một nửa (43,8%) người tham
gia nghĩ rằng họ sẽ không bao giờ bị nhiễm HBV và 47,7% trong số họ tìm đến
những người chữa bệnh truyền thống khi họ có triệu chứng của HBV. Đa số những
người được hỏi (85,87%) chưa bao giờ sàng lọc HBV và chỉ có 28,5% số người
tham gia tin rằng VGB có thể gây ung thư gan
Tóm lại: Các nghiên cứu trước đây đều cho chúng ta thấy kiến thức, thái độ
và thực hành về lây truyền HBV ở thai phụ còn kém và cần phải cải thiện để ngăn
ngừa lây truyền từ mẹ sang con của vi rút VGB. Giáo dục sức khỏe cần phải được
27
hướng tới các bà mẹ mang thai, đặc biệt là những bà mẹ có trình độ học vấn thấp,
trong môi trường lưu hành bệnh cao.
1.2.1.2. Ở trong nước
Tỷ lệ thai phụ có HBsAg là 12- 18%, do vậy lây truyền dọc từ mẹ sang con
là một con đường lây truyền rất cần được quan tâm ở Việt Nam [6, 18, 35, 56].
Có ít nghiên cứu tại Việt Nam khảo sát kiến thức thái độ thực hành phòng,
chống lây truyền vi rút VGB ở thai phụ có HBV, chủ yếu là các đối tượng thuộc
nhóm nguy cơ cao như là nhân viên y tế, sinh viên điều dưỡng. Khảo sát sơ qua
một số nghiên cứu thì chính những nhân viên y tế làm việc trực tiếp với bệnh nhân
cũng đang rất hạn chế về nhận thức lây truyền vi rút VGB. Cụ thể là trong nghiên
cứu của Nguyễn Đức Cường [3], kết quả cho thấy 81,5% nhân viên y tế biết ≥ 2
loại vi rút viêm gan; 80,1% đến 98% hiểu đúng về đường lây truyền HBV; 60%
đến 79,6% biết các biến chứng của VGB. Về các xét nghiệm xác định nhiễm HBV:
tỷ lệ nhân viên y tế biết về HBsAg là 86,7%; về anti - HBs là 66,0%; về HBcAg
là 25,6%; về HBeAg là 6,8% và còn 14,2% nhân viên y tế chưa biết về các test
chẩn đoán nhiễm HBV. Có 54,5% nhân viên y tế biết bản chất của HBsAg và
86,4% nhân viên y tế biết ý nghĩa của HBsAg (+). Đối với nghiên cứu của Nguyễn
Quang Tập [27] trên 206 đối tượng là nhân viên y tế tại một số Bệnh viện ở Hải
Phòng thì cho kết quả rằng: 81% hiểu biết về số loại virut viêm gan, các đường
lây truyền vi rút VGB (trên 78%), các biến chứng nguy hiểm của vi rút VGB (trên
74%). Nhận thức và thái độ thực hành về các biện pháp chuyên môn phòng tránh
nhiễm virut VGB đúng quy định chiếm tỷ lệ trên 60%.
Đối với nghiên cứu của Trần Thị Tây Nguyên [21] trên đối tượng là sinh viên
điều dưỡng Trường Cao đẳng Y tế Phú Yên thì tỷ lệ học sinh đạt về kiến thức
82,7%, thái độ 70%, thực hành 77,3%.
28
Một nghiên cứu hiếm hoi gần đây của Phạm Thị Thúy Hằng [8] trên 380 đối
tượng là phụ nữ, trong đó 50,3% đã mang thai và 49,7% sau sinh. Mặc dù 70,3%
người tham gia báo cáo đã nhận được thông tin về HBV trong khi mang thai,
nhưng chỉ có 10,8% cung cấp câu trả lời chính xác cho tất cả các câu hỏi liên quan
đến đường lây truyền HBV và các biện pháp phòng, chống. Khoảng một nửa số
người tham gia tin rằng HBV lây truyền qua hắt hơi, nước bị ô nhiễm hoặc chia sẻ
thực phẩm với bệnh nhân HBV mạn tính. Mặc dù 86,1% người tham gia tin rằng
tiêm vắc xin HBV là cần thiết cho trẻ sơ sinh, nhưng chỉ có 66,1% trả lời rằng họ
chắc chắn sẵn sàng tiêm vắc-xin cho con mình trong vòng 24 giờ. Hơn một phần
ba số người tham gia bày tỏ lo ngại về việc tiếp xúc thông thường hoặc chia sẻ
thực phẩm với bệnh nhân HBV mạn tính.
Tóm lại: Các nghiên cứu cho thấy: tỷ lệ nhiễm HBV ở thai phụ cao dao động
từ 12% - 18% [6, 18, 35, 56]. Các nghiên cứu cũng thể hiện rõ nhận thức về
phòng, chống lây truyền vi rút VGB còn hạn chế cần phải ưu tiên về truyền thông
giáo dục sức khỏe nhất là đối với thai phụ và tất nhiên phải xem xét cải thiện liều
vắc xin VGB ở Việt Nam.
1.2.2. Luận giải
Từ những nghiên cứu trên cho thấy nhận thức về phòng, chống lây truyền vi
rút VGB chưa cao, đặc biệt là thai phụ nhiễm HBV càng nên được quan tâm vì ở
Việt Nam nói riêng hay môt số nước Châu Á nói chung mẹ truyền sang con là
đường dọc lây truyền chủ yếu, có ít nhất 90,0% người Việt Nam có HBV qua
đường này [4, 28].
Trên thực tế, tỉ lệ mẹ lây truyền vi rút VGB cho con là từ 5%-10%, trong đó
có tới 90% trẻ chuyển sang VGB mạn tính nếu không được tiêm vắc xin HBV cho
trẻ trong vòng 24 tiếng sau sinh.
29
Ngoài các quy định, khuyến cáo của chính phủ và các cơ quan y tế đã được
công bố thì yếu tố quan trọng nhất, tác động trực tiếp đến mọi người vẫn là nhận
thức trong việc phòng, chống lây truyền vi rút VGB, đặc biệt với đối tượng là các
bà mẹ mang thai vì ảnh hưởng trực tiếp đến lây truyền thế hệ sau trong tương lai,
sự quan tâm của chính phủ đã chứng minh rằng tác hại mà vi rút VGB mang lại là
vô cùng lớn, không những là gánh nặng bệnh tật, gánh nặng kinh tế mà còn là mối
nguy hai cho thế hệ tương lai sau này, để đánh giá một cộng đồng có khỏe chúng
ta buộc phải đánh giá sự nhận thức về bệnh tật của cộng đồng đó. Tuy nhiên, số
liệu về nhận thức lây truyền vi rút VGB, đặc biệt là thai phụ có HBV còn hạn chế.
Chính vì vậy, trong nghiên cứu này một phần sẽ củng cố số liệu nghiên cứu về
phòng, chống lây truyền HBV có thể xem xét một số yếu tố liên quan đến nhận
thức lây truyền vi rút VGB của thai phụ có HBV trong thời đại ngày nay.
30
1.3. KHUNG LÝ THUYẾT
Sơ đồ 1. 1: Khung lý thuyết của nghiên cứu
1.4. GIỚI THIỆU ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
1.4.1. Bệnh viện Từ Dũ
Là Bệnh viện chuyên khoa phụ sản hạng 1, có nhiệm vụ khám chữa bệnh, chỉ
đạo tuyến cho 32 tỉnh/thành khu vực phía Nam.
Kinh nghiệm và thành tựu nghiên cứu khoa học: từ 2011-2016 Bệnh viện
hoàn thành 7-10 đề tài cấp cơ sở/năm trong đó có lĩnh vực sản phụ khoa, sơ sinh,
xét nghiệm.
Cơ sở vật chất và nhân lực: Bệnh viện Từ Dũ có 1200 giường bệnh, 60,000
ca sinh/năm, khoảng 3000 lượt khám ngoại trú/ngày bao gồm lĩnh vực sản phụ
khoa, trẻ em. Khoảng 60-70% thai phụ đến khám và có ý định sinh tại Bệnh viện.
Bệnh viện Từ Dũ có một khu khám trẻ ngoại trú, tiếp nhận 200- 300 lượt/ngày cho
đối tượng từ 1 tháng tuổi đến dưới 15 tuổi.
1.4.2. Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp
31
Là Bệnh viện hạng 1 của Tỉnh Đồng Tháp với quy mô 700 giường bệnh.
Năm 2017, tổng số lượt khám chữa bệnh ngoại trú khoảng 700,000, 66,000
bệnh nhân điều trị nội trú, 1000 sản phụ đến khám và sinh tại Bệnh viện.
Nghiên cứu khoa học và hợp tác: Liên tục hàng năm Bệnh viện luôn có từ
25-30 đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở. Trong năm 2016, có 1 đề tài nghiên
cứu khoa học đạt giải thưởng cấp Tỉnh. Phối hợp nghiên cứu khoa học cùng Bệnh
viện Bệnh Nhiệt đới Trung Ương. Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới. Bệnh viện còn hợp
tác NCKH với các tổ chức quốc tế khác như: WHO (Giám sát viêm đường hô hấp
cấp, SARI). Đơn vị nghiên cứu lâm sàng Đại học Oxford (Các tác nhân gây bệnh
lý tiêu chảy, nhiễm trùng đường hô hấp, vàng da, nhiễm trùng hệ thần kinh trung
ương ở các tỉnh của Việt Nam. Tay chân miệng, Sốt xuất huyết, viêm gan B…)
32
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn
Thai phụ đã chuyển dạ, có dấu sanh hoặc có tuổi thai >34 tuần;
Có nhiễm HBV (có kết quả xét nghiệm dương tính với HBsAg);
Khám thai và sanh tại Bệnh viện Từ Dũ và BVĐK Đồng Tháp;
Không tham gia các nghiên cứu tương tự trong thời gian thực hiện;
Đồng ý tham gia nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ
Bất kỳ sản phụ nào từ chối tham gia nghiên cứu;
Sản phụ có dị tật bẩm sinh, có tiền sử bệnh tâm thần;
Sản phụ mắc các bệnh suy giảm miễn dịch, HIV;
Sản phụ có con dị tật bẩm sinh;
Sản phụ có bất thường về thai kỳ nặng như: tiền sản giật, nhau tiền
đạo;
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Bệnh Viện Từ Dũ - Thành phố Hồ Chí Minh
Bệnh Viện Đa Khoa Đồng Tháp
2.1.3. Thời gian nghiên cứu
Tháng 11 năm 2019 đến cuối tháng 5 năm 2020.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
33
Nghiên cứu thiết kế theo phương pháp dịch tễ học, mô tả cắt ngang có phân
tích.
2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
2.2.2.1. Cỡ mẫu
Do mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát kiến thức, thực hành của thai phụ có
HBV, vì vậy cách thức xác định cỡ mẫu nhóm nghiên cứu lựa chọn công thức ước
lượng một tỷ lệ trong nghiên cứu mô tả:
Trong đó:
n: Cỡ mẫu tối thiểu cần nghiên cứu.
p: Tỷ lệ ước đoán biến số trong nghiên cứu. Vì trước đây chưa có nghiên cứu
nào đề cập đến kiến thức, thực hành của thai phụ có HBV tại 2 địa điểm là BVĐK
Đồng Tháp và Bệnh viện Từ Dũ – TP. HCM nên trong nghiên cứu này lấy tỷ lệ
ước đoán là 50%, p = 0.5.
d: Sai số tuyệt đối, có thể ước tính sai số tỷ lệ lưu hành hiện nay của vi rút
viêm gan B trên phụ nữ mang thai là 6,5% so với dân số cả nước, cho phép d =
0,065.
: Hệ số giới hạn tin cậy, ứng với độ tin cậy 95% → =1,96.
nên ta có cỡ mẫu nhau sau:
𝑛 = = 227,3 1,962 × 0,5(1 − 0,5) 0,0652
Cho rằng tỷ lệ sai sót và thất lạc bộ câu hỏi là 5% = 11,4
Cỡ mẫu nghiên cứu: 227+11=238
Vậy cỡ mẫu nghiên cứu: 238.
34
Nghiên cứu được khảo sát tại BVĐK Đồng Tháp, và Bệnh viện Từ Dũ nên
thực tế nhóm nghiên cứu đã chọn đủ 238 cỡ mẫu cho nghiên cứu.
2.2.2.2. Cách chọn mẫu
Vì kết cục của nghiên cứu liên quan đến nhận thức của đối tượng nghiên cứu
là thai phụ có HBV, nên nghiên cứu đã lựa chọn phương pháp chọn mẫu thuận
tiện là thai phụ có HBV tại 2 địa điểm trên.
2.3. Các biến số, chỉ số nghiên cứu và tiêu chí đánh giá
2.3.1. Biến số và chỉ số nghiên cứu
Bảng 2. 1: Biến số và chỉ số nghiên cứu
Công cụ Biến số Chỉ số/ định nghĩa Phân loại PP thu thập
Thông tin chung của thai phụ có HBV Địa điểm thu tuyển Tuổi Học vấn Nghề nghiệp Thu tuyển Địa điểm thu tuyển Phiếu hỏi Phiếu hỏi Phiếu hỏi Hỏi Hỏi Hỏi
Thứ tự Thứ tự Phân nhóm Thứ tự Số con Hỏi Phiếu hỏi
Nhị phân Thu thập tại địa điểm thu tuyển Ngày tháng năm sinh Theo cấp học của mẹ Theo nghề nghiệp của mẹ Theo chỉ số PARA, lấy số con hiện tại (trước lúc sinh)
35
Mục tiêu 1: Kiến thức, thực hành về phòng, chống lây truyền vi rút VGB ở thai phụ có HBV Biết về bệnh Phiếu hỏi Hỏi
Hỏi Phiếu hỏi
Hỏi Phiếu hỏi
Hỏi Phiếu hỏi
Nhị phân Qua đường ăn uống Nhị phân Qua đường hô hấp Nhị phân Nhị phân Phân loại theo câu trả lời có, không Phân loại theo câu trả lời đúng sai Phân loại theo câu trả lời đúng sai Phân loại theo câu trả lời đúng sai
Hỏi Phiếu hỏi
Hỏi Phiếu hỏi
Nhị phân Nhị phân Phân loại theo câu trả lời đúng sai Phân loại theo câu trả lời đúng sai
Hỏi Phiếu hỏi
Hỏi Phiếu hỏi
Hỏi Phiếu hỏi
Đối tượng tiêm vắc xin Số lượng mũi tiêm Hỏi Phiếu hỏi
Hỏi Phiếu hỏi
Qua đường máu và các dịch tiết liên quan đến máu Qua quan hệ tình dục Mẹ truyền sang con lúc mang thai và lúc sinh. Nhị Qua da: ôm ấp, bắt tay phân Cách phòng, chống Thứ hạng Thứ hạng Thứ hạng Thứ hạng Phân loại theo câu trả lời đúng sai Phân loại theo câu trả lời đúng nhất Phân loại theo câu trả lời đúng nhất Phân loại theo câu trả lời đúng nhất Phân loại theo câu trả lời đúng nhất
Số lượng mũi tiêm cho trẻ dưới 12 tháng tuổi Thời điểm tiêm Hỏi Phiếu hỏi
Hỏi Phiếu hỏi
Thời gian bảo vệ của vắc xin Nguồn kiến thức Hỏi Phiếu hỏi
Điều trị trước đó Hỏi Phiếu hỏi
Phân loại theo câu trả lời đúng nhất Phân loại theo câu trả lời đúng nhất Lựa chọn nguồn kiến thức theo cảm tính của thai phụ Lựa chọn nguồn kiến thức theo cảm tính của thai phụ
Thứ hạng Thứ hạng Thứ hạng Thứ hạng
36
Mục tiêu 2: Một số yếu tố liên quan đến phòng, chống lây truyền vi rút VGB của thai phụ có HBV:
Biến độc lập: Yếu tố nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu Biến phụ thuộc: Kiến thức, thực hành đạt hay không đạt Phương pháp thu thập: OR (CI95%), p
Phương phấp thu thập Biến phụ thuộc Biến độc lập CI 95% p ORđơn biến ORhiệu chỉnh Có Không
-
- -
- -
- - - -
Địa điểm thu tuyển Bệnh viện Từ Dũ BVĐK Đồng Tháp Nhóm tuổi ≤ 25 tuổi 26-34 tuổi ≥ 35 tuổi Trình độ học vấn từ PTCS trở xuống PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp Nội trợ Làm nông - Công nhân Văn Phòng Kinh doanh Số con Con so Con rạ
37
2.3.2. Tiêu chí đánh giá
2.3.2.1. Nhóm câu hỏi về kiến thức
Bảng 2. 2: Tính điểm kiến thức của thai phụ có HBV
Điểm / Đúng 1 1 1 1 1 1 1 1
Câu hỏi 1. Qua đường ăn uống 2. Qua đường hô hấp 3. Qua đường máu và các dịch tiết liên quan đến máu 4. Qua quan hệ tình dục 5. Mẹ truyền sang con lúc mang thai và lúc sinh 6. Qua da: ôm ấp, bắt tay 7. Cách phòng, chống 8. Đối tượng tiêm vắc xin 9. Số lượng mũi tiêm, để phòng, chống bệnh viêm gan siêu vi 1 B
10. Số lượng mũi tiêm đối với trẻ dưới 12 tháng tuổi để phòng, 1 chống bệnh viêm gan siêu vi B
11. Thời điểm nào tốt nhất cho trẻ dưới 12 tháng tuổi tiêm vắc 1 xin phòng, chống bệnh viêm gan siêu vi B
12. Nếu tiêm vắc xin đúng và đủ liều thì thời gian bảo vệ của 1 vắc xin là bao lâu
12 TỔNG
Cách cho điểm số là cách đánh giá khách quan từng kiến thức rời rạc của bộ
câu hỏi bằng cách cho 1 điểm đối với câu trả lời đúng và 0 điểm đối với câu trả
lời sai. Thang điểm do lường kiến thức từ tối thiểu là 0 đến tối đa là 12. Và để
thống nhất tính toàn diện nhóm nghiên cứu đưa ra cách xác định về kiến thức
chung của thai phụ có HBV theo tiêu chí: điểm chung < 6 xem như là KHÔNG
ĐẠT, điểm chung ≥ 6 được xem như là ĐẠT
38
2.3.2.2. Nhóm câu hỏi về thực hành được đánh giá dựa trên các nhóm tiêu chí
sau:
Bảng 2. 3: Thực hành đối với thai phụ có HBV (n=238)
Nhóm câu hỏi Số lượng %
Điều trị cho bản thân
1. Có 2. Không 3. Không biết
Khoản thời gian điều trị trước đó Chồng đã từng xét nghiệm HBV
1. Có 2. Không 3. Không biết
Kết quả xét nghiệm HBV (nếu có) 1. Nhiễm viêm gan siêu vi B 2. Không nhiễm viêm gan siêu vi B 3. Không biết
2.4. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP THÔNG TIN
2.4.1. Công cụ thu thập thông tin
Phiếu đồng ý tham gia nghiên cứu (ICF)
Phiếu khám sàng lọc trước khi thu tuyển
Bộ cậu hỏi soạn sẵn là công cụ để phỏng vấn thai phụ có HBV.
2.4.2. Các kỹ thuật thu thập thông tin
Đối tượng nghiên cứu tự điền vào phần thông tin chung.
Đối với các thông tin về kiến thức và thực hành thì nghiên cứu viên sử dụng
kỹ thuật phỏng vấn sâu đối với thai phụ có HBV.
2.4.3. Quy trình thu tuyển
39
Sơ đồ 2. 1: Quy trình thu tuyển
Bước 1: Sàng lọc đối tượng nghiên cứu (theo tiêu chí tại mục 2,1,1)
Bước 2: Giới thiệu chung về nghiên cứu, trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi
khi tham gia nghiên cứu và yêu cầu đối tượng nghiên cứu ký vào phiếu chấp thuận
tham gia nghiên cứu. Các trường hợp không đồng ý được loại, ngược lại sẽ chuyển
sang bước 3.
40
Bước 3: Gửi phiếu thông tin chung, để đối tượng nghiên cứu điền và ký nhận. Tiến hành phỏng vấn các thông tin về kiến thức, thực hành trong bộ câu hỏi, nghiên cứu viên đã phô tô lại kết quả HBsAg(+) của đối tượng nghiên cứu.
Bước 4: Nghiên cứu viên bổ sung ngày chấp nhận tham gia nghiên cứu, ngày
phòng vấn và ký nhận hồ sơ.
Bước 5: Tất cả hồ sơ của đối tượng tham gia nghiên cứu được kiểm tra lại
kỹ một lần trước khi lưu tại 1 bìa hồ sơ và đánh mã số theo quy định như sau:
Mã tại BVĐK Đồng Tháp: VGB_ĐT_[ ][ ][ ] (trong đó [ ][ ][ ] là số thứ tự
tăng dần)
Mã tại Bệnh viện Từ Dũ: VGB_TD_[ ][ ][ ] ( trong đó [ ][ ][ ] là số thứ tự
tăng dần)
Bước 6: Cám ơn vì sự tham gia tự nghiên của đối tượng nghiên cứu và kết
thúc quy trình thu thập số liệu. 2.5. PHÂN TÍCH VÀ XỬ LÝ SỐ LIỆU
Số liệu nghiên cứu sẽ thu thập và được nhập bằng phần mềm Epidata 3,1.
Làm sách và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 16.
Các phương pháp thống kê được sử dụng: χ2, OR đơn biến, OR hiệu chỉnh theo
hồi quy đa biến.
2.6. SAI SỐ VÀ BIỆN PHÁP KHỐNG CHẾ SAI SỐ
2.6.1. Sai số
Sai số có thể xảy ra khi không thể kiểm soát hết các tiêu chí loại trừ khi lựa
chọn thai phụ có HBV.
Sai số có thể xảy ra khi thời điểm chấp nhận tham gia nghiên cứu và thời
điểm phỏng vấn là khác nhau dẫn đến đối tượng đã đồng ý tham gia nghiên
cứu nhưng không thể hoàn tất bộ cậu hỏi nghiên cứu.
Sai số có thể xảy ra do người phỏng vấn không hiểu hết các ý hỏi.
41
Sai số có thể xảy ra do đối tượng được phỏng vấn hiểu sai ý hỏi hoặc thiếu
trung thực khi trả lời các câu hỏi.
2.6.2. Biện pháp khắc phục
Nghiên cứu đã chọn mẫu đủ lớn để có thể hạn chế các sai số ngẫu nhiên
Chặt chẽ trong khâu sàng lọc khi lựa chọn đối tượng tham gia nghiên cứu,
hạn chế các sai số hệ thống.
Hạn chế việc xác nhận tham gia nghiên cứu và trả lời bộ câu hỏi vào hai
thời điểm khác nhau. Phần lớn chúng tôi đã thực hiện phỏng vấn cùng một
thời điểm.
Thiết kế bộ câu hỏi rõ ràng, dễ hiểu để người phỏng vấn và đối tượng được
phỏng vấn không hiểu sai ý hỏi, sự rõ ràng dễ hiểu đã hạn chế sự không
thoải mái khi phỏng vấn.
Sử dụng dạng câu hỏi định tính đối với nhóm câu hỏi về kiến thức thái độ
thực hành nhằm hạn chế các câu trả lời cho chủ đích hoặc thiếu trung thực.
2.7. VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU
Đề cương yêu cầu được Hội đồng xét duyệt đề cương Trường Đại học –
Thăng Long thông qua.
Nghiên cứu tuân thủ các khía cạnh đạo đức theo quy định của Hội đồng xét
duyệt đề cương trường Đại học – Thăng Long.
Các đối tượng tham gia nghiên cứu là hoàn toàn tự nguyện và được thông
tin đầy đủ về mục đích, ý nghĩa nghiên cứu, trách nhiệm và nghĩa vụ của
các bên tham gia nghiên cứu. Đối tượng được quyền rút lui tại bất cứ thời
điểm nào trong thời gian tham gia nghiên cứu.
Mỗi thai phụ có HBV có một mã số riêng. Mã số này được sử dụng cho tất
cả các thông tin liên quan về đối tượng trong toàn bộ quá trình nghiên cứu.
42
Hồ sơ và các thông tin về đối tượng trong nghiên cứu chỉ được sử dụng cho
mục đích nghiên cứu, đảm bảo tính riêng tư.
Quá trình triển khai nghiên cứu tuân thủ đúng các bước đã được phê duyệt
trong đề cương từ việc tư vấn, cung cấp thông tin cho đối tượng, sàng lọc,
xử trí các sự cố bất lợi, thu thập, báo cáo số liệu.
2.8. HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích không thể xác định được
mối quan hệ nhân quả của các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hổi đối với nhận
thức về phòng chống viêm gan vi rút B của đối tượng nghiên cứu.
Thu thập số liệu qua bộ câu hỏi có thể sẽ dễ bỏ sót thông tin của đối tượng
nghiên cứu.
Vì nghiên cứu thực hiên tại BVĐK Đồng Tháp và bệnh viên Từ Dũ chỉ có
thể đại diện cho Đồng Tháp và Tp.HCM mà không thể đại diện cho một khu
vực lớn hơn. Nên vì thế kết quả nghiên cứu không thể ngoại suy rộng hơn.
43
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. THỜI GIAN THU TUYỂN
Trên thực tế thì thời gian thu tuyển tại 2 Bệnh viện lớn của TP. HCM và Đồng
Tháp chậm hơn so với dự kiến. Với tổng thời gian là 9 tháng từ ngày 28/10 /2019
đến ngày 03/07/2020.
Biểu đồ 3. 1: Tỷ lệ thu tuyển đối tượng nghiên cứu theo tháng (n=238)
238 bà mẹ mang thai có HBV đồng ý tham gia nghiên cứu được thu tuyển
trong 9 tháng từ tháng 10/2019 đến tháng 7/2020. Trừ 2 tháng đầu và cuối thì
tháng 6/2020 có tỉ lệ thu tuyển cao nhất đạt 21,01%, trong khi tháng 4/2020 có tỉ
lệ thu tuyển thấp nhất à 5,9%
3.2. THÔNG TIN CHUNG
Tổng số thai phụ có HBV là 238 bà mẹ mang thai có HBV đủ điều kiện tham
gia nghiên cứu. 100% số đối tượng đáp ứng đủ yêu cầu của đề tài để đưa vào phân
tích.
44
Bảng 3. 1: Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng tham gia nghiên cứu (n=238)
THÔNG TIN CHUNG Số lượng
Tỷ lệ (%) 100,0 64,3 35,7 100,0 18,1 66,8 15,1 100,0 ,4 5,5 21,4 29,8 42,9 100,0 37,0 2,9 16,4 33,2 10,5 100,0 26,47 73,53 238 153 85 238 43 159 36 238 1 13 51 71 102 238 88 7 39 79 25 238 63 175
Địa điểm thu tuyển Bệnh viện Từ Dũ BVĐK Đồng Tháp Tuổi ≤ 25 tuổi Từ 26 đến 34 tuổi ≥ 35 tuổi Học vấn Mù chữ Tiểu học PTCS PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp Nội trợ Làm nông Công nhân Văn Phòng Kinh doanh Số con Con so Con rạ
45
Biểu đồ 3. 2: Tỷ lệ thu tuyển đối tượng nghiên cứu tại hai Bệnh viện (n=238)
Tỷ lệ thu tuyển tại Bệnh viện Từ Dũ chiếm đa số với 64,29% trong khi BVĐK
Đồng Tháp là 35,71%. BVĐK Đồng Tháp đã thu tuyển sớm hơn 2 tháng so với
Bệnh Viện Từ Dũ.
46
Biểu đồ 3.3: Phân bố về tuổi của thai phụ có HBV (n=238)
Kết quả nghiên cứu cho thấy phân bổ về tuổi là một phân bố chuẩn với tuổi
trung bình của thai phụ có HBV là 29,43 tuổi và độ lệ chuẩn là ±5,038. Tuổi của
thai phụ có HBV tập trung nhiều nhất vào nhóm tuổi 26-34 tuổi (66,81%), nhóm
tuổi ≤ 25 tuổi và nhóm ≥35 tuổi có tỷ lệ gần bằng nhau lần lượt chiếm 28,07% và
15,13%.
47
Biểu đồ 3. 4: Học vấn của thai phụ có HBV (n=238)
Trình độ học vấn theo như quan sát thì tỷ lệ tăng dần theo từ cấp độ học vấn,
trong đó nhóm có tỷ lệ cao nhất (42,86%) là trên PTTH. Vẫn còn 1 trường hợp
(0,42%) không biết chữ.
Phần lớn thai phụ có HBV rơi vào 2 nhóm ngành chính lần lượt là nội trợ
(36,97%) và nhóm văn phòng (33,19%), nhóm nghề nghiệp là công nhân thì ít hơn
một nửa có tỷ lệ 16,39%, tiếp theo là nhóm nghề nghiệp kinh doanh (nghề tự do)
là 10,5%. Nhóm nghề nghiệp của thai phụ có HBV chiếm tỷ lệ thấp nhất (2,94%)
là nghề nông.
48
Biểu đồ 3. 5: Phân bố nghề nghiệp của thai phụ có HBV (n=238)
Ở chỉ số PARA, xác định được nhiều chỉ số khác nhau bao gồm: số lần sinh
con đủ tháng, số lần sinh con thiếu tháng, số lần sảy thai tự nhiên hoặc hút thai và
số con hiện còn sống. Nghiên cứu này quan tâm đến thống tin số con hiện còn
sống. Nghiên cứu phân thành 2 nhóm. Nhóm 1 là nhóm thai phụ có HBV chuẩn
bị sinh con lần đầu (con so), nhóm 2 là là nhóm thai phụ có HBV đã có từ 1 con
trở lên (con rạ). Nhóm 1 đại diện cho nhóm phụ nữ chưa có kinh nghiệm về sinh
con và chăm sóc con, nhóm 2 thì ngược lại.
Kết quả nghiên cứu thì tỷ lệ thai phụ có HBV có con rạ là chủ yếu, chiếu tới
73,53%. Con số này là 26,47% đối với thai phụ có HBV chuẩn bị có con đầu lòng.
49
Trong quá trình khám sàng lọc tại hai địa điểm nghiên cứu, hầu như trình
trạng sức khỏe của các sản phụ đều bình thường, chỉ có 1 số rất ít không đáng kể
bao gồm có 2 trường hợp có bệnh liên quan đến tim chiếm tỷ lệ 0,8% trên tổng số
238 trường hợp, 3 trường hợp có trình trạng sức khỏe không bình thường ở nhóm
bệnh khác chiếm tỷ lệ là 1,3%.
Nghiên cứu phân nhóm theo tình trạng sức khỏe được thể hiện, nhóm không
có bệnh sẽ được xếp vào nhóm có sức khỏe bình thường, nhóm còn lại là nhóm có
vấn đề về sức khỏe (bất thường).
3.3. KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH PHÒNG CHỐNG LÂY TRUYỀN VI
RÚT VIÊM GAN B CỦA ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.3.1. Kiến thức về phòng, chống lây truyền vi rút VGB
Biểu đồ 3. 6: Kiến thức chung của đối tương nghiên cứu
Có 205/238 thai phụ có HBV cho là biết và đã nghe qua Bệnh viện gan B
chiếm 86,1% trên tổng số thai phụ có HBV, 13,9% tương ứng với 33/238 thai phụ
có HBV không biết về bệnh viêm gan siêu vi B.
50
Bảng 3. 2: Kiến thức của thai phụ có HBV về đường lây truyền (n=238)
KIẾN THỨC Số lượng Tỷ lệ (%)
59 179 24,8 75,2
Có Không 51 187 21,4 78,6
192 46 80,7 19,3
Sản phụ lựa chọn đường lầy truyền bệnh viêm ban B Qua đường ăn uống Có Không Qua đường hô hấp Qua đường máu và các dịch tiết liên quan đến máu Có Không Qua quan hệ tình dục
185 53 77,7 22,3 Có Không
Có Không
Mẹ truyền sang con lúc mang thai và lúc sinh Qua da 204 34 11 203 Có Không
85,7 14,3 4,6 85,3 Nghiên cứu cho thấy có 59 (24,8%) thai phụ có HBV cho rằng VGB có thể
lây qua đường ăn uống
21,4% số thai phụ có HBV cho rằng VGB có thể lây qua đường hô hấp.
Đối với đường máu và các dịch tiết liên quan đến máu thì có 19,3%(n=46) số
thai phụ có HBV cho rằng VGB không lây qua con đường này.
Đa số thai phụ có HBV (85,7%) cho rằng VGB có thể lây qua đường quan
hệ tình dục, trong đó 14,3% thì cho là không.
51
Phần lớn số sản phụ cho rằng VGB có thể lây từ đường mẹ truyền sang con
lúc mang thai và trong lúc sinh với tỷ lệ chiếm 85,7% (n=204), và chỉ có 34 sản
phụ là không đồng ý với điều này chiếm 14,3%.
10,1% không có câu trả lời cho đường lây này, số còn lại cho rằng không thể
lây qua da.
Bảng 3. 3: Kiến thức của thai phụ có HBV về cách phòng, chống lây truyền vi rút VGB tốt nhất cho trẻ (n=238)
KIẾN THỨC Số lượng Tỷ lệ (%)
Sản phụ lựa chọn phòng, chống lây truyền vi rút VGB tốt nhất cho trẻ dưới 1 tuổi. 2 207 3 1 0,8 87 1,3 0,4
0,4 1
Truyền máu an toàn cho con Tiêm ngừa vắc xin VGB Khám sức khỏe để tầm soát bệnh Ăn chín uống sôi Không giao tiếp thông thường với người bệnh Không biết 14
5,9 Đa số sản phụ với 87% cho rằng cách phòng, chống tốt nhất là tiêm ngừa
bằng vắc xin, 5,9% và 4,2% số sản phụ không biết và không trả lời câu hỏi này,
các lựa chọn còn lại chiếm tỷ lệ không đáng kể với các chỉ số tương ứng là 0,8%,
1,3%, 0,4% và 0,4% với các lựa chọn truyền máu an toàn cho con, khám sức khỏe
để tầm soát bệnh VGB, ăn chín uống sôi và không giao tiếp thông thường với
người bệnh.
52
Bảng 3. 4: Kiến thức của thai phụ có HBV về tiêm phòng vắc xin VGB cho trẻ (n=238)
KIẾN THỨC Số lượng Tỷ lệ (%)
206 11 0 10 Mọi người Chỉ trẻ em Chỉ người lớn Không biết 86,6 4,6 0 4,2
14 51 79 82 1 mũi 2 mũi .≥3 mũi Không biết 5,9 21,4 33,2 34,5
18 50 88 70 7,6 21 37 29,4
Ngay sau sinh trong vong 24 giờ Trong vòng 1 tháng tuổi Trong vòng 2 tháng tuổi ≥3 tháng tuổi Không biết 221 3 1 1 0 92,9 1,3 0,4 0,4 0
Sản phụ lựa chọn ai nên tiêm vắc xin phòng, chống bệnh VGB Có bao nhiêu mũi vắc xin cần tiêm để phòng bệnh viêm gan siêu vi B Số lượng mũi tiêm đối với trẻ dưới 12 tháng tuổi để phòng, chống bệnh viêm gan siêu vi B 1 mũi 2 mũi .≥3 mũi Không biết Sản phụ lựa chọn thời điểm tiêm phòng vắc xin tốt nhất cho trẻ dưới 12 tháng Nếu tiêm vắc xin đúng và đủ liều thì thời gian bảo vệ của vắc xin là bao lâu Dưới 1 năm 1-10 năm 10-20 năm 20 năm trở lên Không biết 6 48 23 20 129 2,5 20,2 9,7 8,4 54,2
53
Đa số sản phụ cho rằng đối tượng cần tiêm vắc xin là tất cả mọi người
(86,6%), các lựa chọn còn lại chiếm tỷ lệ thấp cụ thể là 4,6% với lựa chọn đối
tượng cần tiêm vắc xin là trẻ em và 4,2% với lựa chọn đối tượng cần tiêm vắc xin
là người lớn. Trong nghiên cứu cũng ghi nhận có 4,6% (n=11) là không trả lời câu
hỏi này.
Đa số thai phụ có HBV không biết về số mũi tiêm để phòng, chống bệnh
VGB, tỷ lệ thai phụ trả lời đúng ở câu hỏi này chỉ có 33,2% (n=79). Các lựa chọn
khác 1 mũi tiêm, 2 mũi tiêm và không trả lời tương ứng 5,9% (n=14), 21,4%
(n=51) và 5% (n=12).
Đối với số mũi tiêm cần thiết cho trẻ dưới 12 tuổi thì nghiên cứu cho thấy,
với lựa chọn ≥ 3 mũi chiếm tỷ lệ 37% (n=88), không biết là lựa chọn chiếm tỷ lệ
thấp hơn tiếp theo với 29,4% (n=70), tiếp theo lần lượt với 2 mũi và 1 mũi có các
tỷ lệ tương ứng lần lượt là 21% (n=50) và 7,6% (n=18). Trong nghiên cứu cũng
ghi nhận 12 sản phụ không trả lời câu hỏi trên chiếm tỷ lệ 5%.
Hầu hết các thai phụ có HBV cho rằng thời điểm để tiêm mũi đầu tiên cho
trẻ dưới 12 tháng tuôi là trong vòng 24 giờ sau sinh chiếm tỷ lệ 92,9%. Các lựa
chọn còn lại chiếm tỷ lệ không đáng kể tương ứng với các lựa chọn trong vòng 1
tháng tuổi, trong vòng 2 tháng tuổi và lớn hơn hoặc bằng 3 tháng tuổi là 1,3%
(n=3), 0,4% (n=1), 0,4% (n=1), trong đó nghiên cứu ghi nhận 12 trường hợp không
trả lời câu hỏi này chiếm 5%.
Hơn phân nửa số sản phụ lựa chọn không biết về thời gian bảo vệ khi đã tiêm
đủ các liều vắc xin chiếm với 54,2% (n=129), tỷ lệ cao thứ 2 là lựa chọn từ 1-10
năm chiếm 20,2% (n=48), trong khi chỉ có 8,4% (n=20) số sản phụ lựa chọn từ 20
năm trở lên. Các lựa chọn khác, dưới 1 năm và từ 10-20 năm có tỷ lệ lựa chọn
54
tương ứng là 2,5% (n=6) và 9,7% (n=23). Có 5% số sản phụ không có câu trả lời
trong câu hỏi này.
Bảng 3. 5: Nguồn tìm hiểu kiến thức VGB của thai phụ có HBV (n=238)
Nguồn tìm hiểu kiến thức Số lượng Tỷ lệ(%)
Bạn bè, người thân, hàng xóm 29 12,2
124 52,1 Sách báo, tờ rơi, poster, internet
Đài phát thanh, đài truyền hình 66 27,7
Nhân viên y tế 153
64,3 Phần đông số sản phụ (64,3%) cho rằng nhân viên y tế đã tác động đến kiến
thức của họ.
Tiếp đến là sách báo, tờ rơi và Internet (52,1%) sản phụ cho rằng kiến thức
về phòng lây truyền vi rút VGB là từ sách báo, tờ rơi và từ Internet. Đài phát thanh
và truyền hình được tiếp cận với tỷ lệ 27,7% và 12,2% số sản phụ nhắc đến nguồn
thông tin từ bạn bè và người thân.
55
Bảng 3. 6: Kiến thức đúng về phòng, chống lây truyền vi rút viên van B của thai phụ có HBV (n=238)
Số lượng Tỷ lệ (%)
Kiến thức đúng về phòng, chống lây truyền vi rút VGB Câu hỏi về đường lây truyền
Qua đường ăn uống Qua đường hô hấp Qua đường máu và các dịch tiết liên quan đến máu Qua quan hệ tình dục Mẹ truyền sang con lúc mang thai và lúc sinh Qua da: ôm ấp, bắt tay
Câu hỏi về cách phòng, chống Câu hỏi về tiêm vắc xin 179 187 192 185 204 203 207 75,2% 78,6% 80,7% 77,7% 85,7% 85,3% 87,0%
Ai nên tiêm vắc xin phòng, chống bệnh viêm gan 206 86,6% siêu vi B
Tiêm vắc xin phòng, chống bệnh viêm gan siêu vi B 79 33,2% bao nhiêu mũi là đủ liều
88 37,0% Trẻ em dưới 12 tháng tuổi nên tiêm vắc xin phòng, chống bệnh viêm gan siêu vi B bao nhiêu mũi là đủ liều
Thời điểm tiêm vắc xin phòng, chống bệnh viêm gan 221 92,9% siêu vi B lần đầu tốt nhất cho trẻ em dưới 12 tháng
20 8,4%
Nếu tiêm vắc xin phòng, chống bệnh viêm gan siêu vi B đúng và đủ liều thì thời gian có thể bảo vệ cơ thể bao lâu
Tổng quan về kiến thức 210
82,2% Mặc dù không có sản phụ nào đạt được điểm tối đa, nhưng nghiên cứu ghi
nhận phần đông đều được điểm kiến thức cao với điểm trung bình là 8,25/12 điểm
và độ lệch chuẩn ±2,095 và cũng không có sản phụ nào không hiểu hoàn toàn về
bệnh VGB.
56
Biểu đồ 3. 7: Phân bổ về điểm kiến thức của thai phụ có HBV (n=238)
57
3.3.2. Thực hành phòng, chống lây truyền VGB của thai phụ
Bảng 3. 7: Thực hành của thai phụ có HBV (n=238)
Số lượng Tỷ lệ (%)
Thực hành của thai phụ có HBV Sản phụ đã từng điều trị VGB
Có Không Không biết
Chồng đã từng xét nghiệm HBV
Có Không Không biết
Kết quả xét nghiệm của chồng Nhiễm viêm gan siêu vi B Không nhiễm viêm gan siêu vi B Không biết 20 215 3 77 153 8 19 95 124
8,4 90,3 1,3 32,4 153 3,4 8,0 39,9 52,1 Nghiên cứu cho thấy, chỉ có 8,4% số sản phụ cho rằng là đã từng điều trị
VGB trong quá khứ, tuy nhiên chỉ có 11 sản phụ nhớ khoảng thời gian điều trị
trước đó từ 1-12 năm.
Khoảng 1/3 số người chồng của các thai phụ (32,4%) đã từng xét nghiệm
HBV, số còn lại là chưa từng điều trị hoặc không biết. Trong 77 người chồng đã
từng xét nghiệm chỉ có 19 trường hợp là có kết quả nhiễm HBV, chiếm tỷ lệ 24,6%
trong số 77 người chồng đa từng xét nghiệm HBV và chiếm 8,0% trên tổng số câu
trả lời của sản phụ.
3.4. YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH
3.4.1. Yếu tố liên quan đến kiến thức về phòng, chống lây truyền vi rút VGB
của thai phụ có HBV
58
Bảng 3. 8: Yếu tố liên quan đến kiến thức đường lây truyền qua đường tình dục
Kiến thức đạt
Yếu tố nguy cơ
CI 95%
p
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Có
Không
1,52
123 80,4% 30 19,6% 62 72,9% 23 27,1%
0,84 0,34 - 2,03 0,836
0,50 0,59
29 67,4% 14 32,6% 128 80,5% 31 19,5% 8 22,2% 28 77,8%
0,82 0,36 - 1,89 0,824 0,73 0,25 - 2,17 0,735
Địa điểm thu tuyển Bệnh viện Từ Dũ BVĐK Đồng Tháp Nhóm tuổi ≤ 25 tuổi 26-34 tuổi ≥ 35 tuổi Trình độ học vấn (χ2= 13,4, p=0,001)
từ PTCS trở xuống
0,50 0,25
41 63,1% 24 36,9% 55 77,5% 16 22,5% 89 87,3% 13 12,7%
0,42 0,18 - 1,01 0,424 0,38 0,12 - 1,23 0,385
7
0,79 0,25 1,68
63 71,6% 25 28,4% 35 76,1% 11 23,9% 72 91,1% 8,9% 15 60,0% 10 40,0%
0,77 0,33 - 1,79 0,773 0,35 0,11 - 1,17 0,352 1,85 0,69 - 4,94 1,848
0,75 0,31 - 1,81 0,753
1,14
PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp (χ2= 14,7, p=0,002) Nội trợ Làm nông - Công nhân Văn Phòng Kinh doanh Số con Con so Con rạ
50 79,4% 13 20,6% 135 77,1% 40 22,9%
Trình độ học vấn trên PTTH có tỷ lệ trả lời đạt cao nhất với 87,3%, 77,5%
là tỷ lệ trả lời đạt của nhóm PTTH, nhóm còn lại có tỷ lệ trả lời đúng thấp nhất với
63,1%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2= 13,4, p=0,001).
Thai phụ làm việc văn phòng có tỷ lệ trả lời đúng cao hơn cả với 91,1%, 60%
là tỷ lệ trả lời đúng thấp nhất của nhóm nghề Kinh doanh, hai nhóm Làm Nông –
Công nhân và nhóm nội trợ có tỷ lệ trả lời đúng tương ứng là 76,1% và 71,6%. Sự
khác này này có ý nghĩa thống kê (χ2= 14,7, p=0,002).
Nhóm con so có tỷ lệ trả lời đúng cao hơn nhóm con rạ với các tỷ lệ tương
đương là 79,4% và 77,1% (p>0,05).
59
Bảng 3. 9: Yếu tố liên quan đến kiến thức về đường lây truyền từ mẹ sang con (n=238)
Yếu tố nguy cơ
CI 95%
p
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Kiến thức đạt Có
Không
1,74
135 88,2% 18 11,8% 69 81,2% 16 18,8%
0,54 0,61
Địa điểm thu tuyển Bệnh viện Từ Dũ BVĐK Đồng Tháp Nhóm tuổi ≤ 25 tuổi 9 20,9% 34 79,1% 26-34 tuổi 139 87,4% 20 12,6% ≥ 35 tuổi 5 13,9% 31 86,1% Trình độ học vấn (χ2= 12,07, p=0,002)
từ PTCS trở xuống
0,46 0,21
48 73,8% 17 26,2% 61 85,9% 10 14,1% 6,9% 95 93,1%
7
0,81 0,30 1,42
72 81,8% 16 18,2% 7 15,2% 39 84,8% 6,3% 5 74 93,7% 6 24,0% 19 76,0%
0,87 0,32 - 2,42 0,796 0,870 0,91 0,35 - 2,35 0,845 0,72 0,20 - 2,53 0,603 0,088 0,42 0,15 - 1,12 0,082 0,22 0,05 - 0,98 0,046 0,593 0,79 0,29 - 2,14 0,645 0,74 0,16 - 3,34 0,692 1,76 0,56 - 5,55 0,332
0,96 0,33 - 2,82 0,945
1,46
PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp Nội trợ Làm nông - Công nhân Văn Phòng Kinh doanh Số con Con so Con rạ
7 11,1% 56 88,9% 148 84,6% 27 15,4%
Trình độ Trên PTTH có tỷ lệ trả lời đúng cao nhất với 93,1%, các nhóm còn
lại có tỷ lệ trả lời đúng thấp hơn, cụ thể: PTTH với 85,9% và từ PTCS trở xuống
với 73,8%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2= 16,641, p=0,002).
Nhóm Văn phòng có tỷ lệ trả lời đúng cao nhất với 93,7%, thấp nhất là nhóm
Kinh doanh với 76,0%. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Nhóm con so có tỷ lệ trả lời đúng cao hơn nhóm con rạ (88,9% và 84,6%).
Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Khi thực hiện hồi quy đa biến, nghiên cứu ghi nhận yếu tố trên PTTH là yếu
tố độc lập duy nhất có tương quan đến hiểu biết về đường lây truyền từ mẹ sang
con có ý nghĩa thống kê khi p=0,046.
60
Bảng 3. 10: Yếu tố liên quan đến kiến thức về cách phòng, chống lây truyền vi rút VGB của thai phụ có HBV (n=238)
Yếu tố nguy cơ
CI 95%
p
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Kiến thức đạt Có
Không
142 92,8% 11 7,2% 65 76,5% 20 23,5%
3,97
0,48 0,47
Địa điểm thu tuyển (p=0,000) Bệnh viện Từ Dũ BVĐK Đồng Tháp Nhóm tuổi 34 79,1% 9 20,9% ≤ 25 tuổi 141 88,7% 18 11,3% 26-34 tuổi 4 11,1% 32 88,9% ≥ 35 tuổi Trình độ học vấn (χ2= 12,12, p=0,002)
từ PTCS trở xuống
50 76,9% 15 23,1% 60 84,5% 11 15,5% 4,9% 97 95,1%
5
0,61 0,17
74 84,1% 14 15,9% 36 78,3% 10 21,7% 4 75 94,9% 5,1% 3 12,0% 22 88,0%
1,47 0,28 0,72
2,32 0,80 - 6,76 0,123 0,792 0,81 0,31 - 2,13 0,672 0,63 0,17 - 2,40 0,500 0,416 0,97 0,36 - 2,58 0,953 0,35 0,07 - 1,86 0,217 0,924 1,39 0,55 - 3,52 0,493 1,07 0,19 - 5,96 0,940 1,12 0,28 - 4,57 0,871
4
59 93,7% 6,3% 148 84,6% 27 15,4%
1,30 0,35 - 4,83 0,699
2,69
PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp (χ2= 8,17, p=0,043) Nội trợ Làm nông - Công nhân Văn Phòng Kinh doanh Số con Con so Con rạ
Tại Bệnh viện Từ Dũ (92,8%) là trả lời đúng cao hơn tỷ lệ này tại BVĐK
Đồng Tháp (76,5%). sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,000, OR = 3,97,
95% CI 1,799 – 8,77).
Tỷ lệ trả lời đúng cao nhất là nhóm có trình độ trên PTTH với 95,1%, tỷ lệ
này giảm dần ở các trình độ thấp hơn như PTTH, trên PTTH lần lượt là 84,5%,
76,9%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2= 12,12, p=0,002).
Tỷ lệ trả lời đúng cao nhất vẫn là nhóm Văn phòng với 94,9%, nhóm có tỷ lệ
thấp nhất là nhóm Làm nông – Công nhân với 78,3%. Sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (χ2= 8,17, p=0,043).
61
Bảng 3. 11: Các yếu tố liên quan đến kiến thức về đối tượng tiêm phòng vắc xin của thai phụ có HBV (n=238)
Kiến thức đạt
Yếu tố nguy cơ
CI 95%
p
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Không
Có
139 90,8% 14 9,2% 67 78,8% 18 21,2%
2,67
1,59 0,58 -
0,49 1,25
0,59 0,22 - 1,21 0,37 -
Địa điểm thu tuyển (p=0,009) Bệnh viện Từ Dũ BVĐK Đồng Tháp Nhóm tuổi 35 81,4% 8 18,6% ≤ 25 tuổi 143 89,9% 16 10,1% 26-34 tuổi 8 22,2% 28 77,8% ≥ 35 tuổi Trình độ học vấn (χ2= 7,343, p=0,025)
từ PTCS trở xuống
50 76,9% 15 23,1% 8 11,3% 63 88,7% 8,8% 9 93 91,2%
0,42 0,32
0,67 0,24 - 1,05 0,27 -
75 85,2% 13 14,8% 8 17,4% 38 82,6% 5 74 93,7% 6,3% 6 24,0% 19 76,0%
1,21 0,39 1,82
1,12 0,41 - 0,57 0,13 - 2,47 0,75 -
4,36 0,364 0,310 1,64 0,315 3,95 0,747 0,692 1,89 0,454 4,05 0,945 0,275 3,04 0,822 2,50 0,458 8,11 0,137
2
61 96,8% 3,2% 145 82,9% 30 17,1%
4,04 0,84 - 19,39 0,081
6,31
PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp (χ2= 8,17, p=0,043) Nội trợ Làm nông - Công nhân Văn Phòng Kinh doanh Số con (p=0,005) Con so Con rạ
Tỷ lệ thai phụ trả lời đúng ở Bệnh viện Từ Dũ (90,8%) cao hơn tại BVĐK
Đồng Tháp (78,8%). Sự khác nhau có ý nghĩa thống kê (p=0,009, OR = 2,67,
95% CI 1,25 – 5,69).
Tỷ lệ trả lời đạt cao nhất (89,9%) vẫn là ở nhóm tuổi từ 26-34 tuổi. Sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Tỷ lệ trả lời đúng theo từng cấp trình độ, cụ thể: từ PTCS trở xuống (76,9%).
PTTH (88,7%) và cao nhất là trình độ trên PTTH với 91,2%. Sự khác biệt này có
ý nghĩa thống kê (χ2= 7,343, p=0,025).
62
Tỷ lệ trả lời đúng cao nhất vẫn là nhóm Văn phòng với 93,7% và thấp nhất
(76,0%) ở nhóm Kinh doanh. Sự chênh lệch này có ý nghĩa thống kê (χ2= 8,17,
p=0,043).
Tỷ lệ trả lời đúng của thai phụ con so (96,8%) cao hơn nhóm con rạ (85,5%),
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,005, OR = 6,31, 95% CI 1,46 – 27,23).
Tuy nhiên, khi chạy hồi quy đa biến với các nhóm, nghiên cứu không nhận
thấy sự tương quan nào có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3. 12: Yếu tố liên quan đến kiến thức về số mũi tiêm đủ liều đối với trẻ dưới 12 tháng tuổi (n=238)
Kiến thức đạt
Yếu tố nguy cơ
CI 95%
p
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Có
Không
34 22,2% 119 77,8% 31 36,5% 54 63,5%
0,16
12 27,9% 64 40,3% 12 33,3%
31 72,1% 95 59,7% 24 66,7%
0,57 0,77
Địa điểm thu tuyển (p=0,000) Bệnh viện Từ Dũ BVĐK Đồng Tháp Nhóm tuổi ≤ 25 tuổi 26-34 tuổi ≥ 35 tuổi Trình độ học vấn
từ PTCS trở xuống
31 47,7% 21 29,6% 36 35,3%
34 52,3% 50 70,4% 66 64,7%
2,17 1,67
49 55,7% 28 60,9% 55 69,6% 18 72,0%
1,24 1,82 2,05
0,15 0,06 - 0,36 0,000 0,122 0,43 0,17 - 1,08 0,072 0,78 0,26 - 2,37 0,661 0,053 0,75 0,31 - 1,85 0,537 0,23 0,07 - 0,79 0,019 0,633 1,54 0,66 - 3,58 0,317 1,86 0,61 - 5,70 0,275 1,29 0,41 - 4,10 0,666
3 4,8% 85 48,6%
0,08 0,02 - 0,29 0,000
0,05
PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp 39 44,3% Nội trợ Làm nông - Công nhân 18 39,1% 24 30,4% Văn Phòng 7 28,0% Kinh doanh Số con (p=0,000) Con so Con rạ
60 95,2% 90 51,4% Tại BVĐK Đồng Tháp có tỷ lệ chọn đúng (63,5%) cao hơn Bệnh viện Từ Dũ
(22,2%), sự chênh lệch đáng kể này có ý nghĩa thống kê (p=0,000, OR = 0,16,
95% CI 0,092 – 0,294).
63
Tỷ lệ trả lời đúng cao nhất (47,7%) thuộc nhóm trình độ từ PTCS trở xuống.
Nhóm Nội trợ trả lời đúng có tỷ lệ cao nhất (44,3%). Cả trình độ học vấn và nghề
nghiệp đều cho mối tương quan không có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu ghi nhận nhóm thai phụ con so trước đó trả lời đúng có tỷ lệ 4,8%
thấp hơn rất nhiều so với nhóm đã từng có con (48,6%). Sự khác biệt này có ý
nghĩa thống kê (p=0,000, OR = 0,05, 95% CI 0,16 – 0,175)).
Ghi nhận trong hồi quy đa biến, có mối tương quan của hiểu biết về số mũi
tiêm đủ liều cho trẻ dưới 12 tháng tuổi của thai phụ có HBV với các yếu tổ độc
lập có ý nghĩa thống kê bao gồm: địa điểm thu tuyển (p=0,000), trình độ học vấn
trên PTTH (p=0,02) và con rạ (p=0,000).
Bảng 3. 13: Yếu tố liên quan đến kiến thức về thời điểm tiêm tốt nhất cho trẻ dưới 12 tháng tuổi (n=238)
Yếu tố nguy cơ
CI 95%
p
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Kiến thức đạt Có
Không
6
3,9% 147 96,1% 74 87,1% 11 12,9%
3,64
2,734 0,67 - 11,15 0,161
37 86,0% 154 96,9% 30 83,3%
6 14,0% 5 3,1% 6 16,7%
0,20 1,23
0,258 0,07 - 1,441 0,38 -
Địa điểm thu tuyển (p=0,010) Bệnh viện Từ Dũ BVĐK Đồng Tháp Nhóm tuổi (χ2= 11,76, p=0,003) ≤ 25 tuổi 26-34 tuổi ≥ 35 tuổi Trình độ học vấn
từ PTCS trở xuống
57 87,7% 65 91,5% 99 97,1%
8 12,3% 8,5% 6 2,9% 3
0,66 0,22
1,406 0,39 - 0,923 0,11 -
81 92,0% 41 89,1% 77 97,5% 22 88,0%
7 8,0% 5 10,9% 2,5% 2 3 12,0%
1,41 0,30 1,58
0,028 0,98 0,046 5,45 0,590 0,839 5,12 0,605 7,77 0,941 0,739 1,320 0,37 - 4,69 0,668 0,979 0,09 - 10,34 0,986 2,363 0,48 - 11,52 0,287
1 62 98,4% 159 90,9% 16
1,6% 9,1%
3,069 0,32 - 29,11 0,329
6,24
PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp Nội trợ Làm nông - Công nhân Văn Phòng Kinh doanh Số con (p=0,046) Con so Con rạ
64
Tại Bệnh viện Từ Dũ có tỷ lệ trả lời đúng (96,1%) cao hơn nhóm còn lại
(87,1%). Sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê (p=0,010)
Nghiên cứu cũng ghi nhận tỷ lệ trả lời đúng ở nhóm tuổi từ 26-34 là cao
nhất 96,9%, tỷ lệ thấp nhất thuộc nhóm tuổi trên 35 tuổi là 83,3%. Sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê (χ2= 11,762, p=0,003).
Trên PTTH có tỷ lệ trả lời đúng cao nhất (97,1%). Nhóm văn phòng trả lời
đúng cao nhất với tỷ lệ 97,5%. Cả trình độ học vấn và nghệ nghiệp đều có các mối
tương quan không có ý nghĩa thống kê.
Nhóm con so (98,4%) có tỷ lệ trả lời đúng nhiều hơn là nhóm có con (90,9%).
Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,046, OR = 160, 95% CI (0,021 -
1,235)).
Hồi quy đa biến ghi nhận có sự tương gian giưa nhóm tuối ≤ 25 và từ 26-34
tuổi, sự tương quan này có ý nghĩa thống kê (p=0,028 và p=0,046).
Bảng 3. 14: Yếu tố liên quan đến kiến thức về thời gian bảo vệ của vắc xin (n=238)
Kiến thức đạt
Yếu tố nguy cơ
CI 95%
p
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Có
Không
17 11,1% 136 88,9% 82 96,5% 3
3,42
0,93 0,18 -
từ PTCS trở xuống
Địa điểm thu tuyển (p=0,043) Bệnh viện Từ Dũ 3,5% BVĐK Đồng Tháp Trình độ học vấn (χ2= 9,27, p=0,010) 3,1% 2 3 4,2% 15 14,7%
63 96,9% 68 95,8% 87 85,3%
0,72 0,18
1,29 0,17 - 0,63 0,07 -
4,5% 4 1 2,2% 13 16,5% 8,0% 2
84 95,5% 45 97,8% 66 83,5% 23 92,0%
2,14 0,24 0,55
4,94 0,934 0,713 9,48 0,805 5,66 0,678 0,651 2,41 0,25 - 22,92 0,445 2,90 0,481 0,55 0,10 - 5,13 0,775 0,76 0,11 -
12 19,0% 8
51 81,0% 4,6% 167 95,4%
3,59 1,13 - 11,38 0,030
4,91
PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp (χ2= 10,68, p=0,010) Nội trợ Làm nông - Công nhân Văn Phòng Kinh doanh Số con (p=0,000) Con so Con rạ
65
Số thai phụ được thu tuyển ở Bệnh viện Từ Dũ có tỷ lệ trả lời đúng (11,1%)
cao hơn nhóm còn lại (3,5%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,043).
Tỷ lệ trả lời đúng cũng tăng dần theo trình độ học vấn, nhóm trình độ Cao
đẳng trở lên chiếm 14,7%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,01).
Nghiên cứu ghi nhận nhóm Văn phòng có tỷ lệ trả lời đúng cao nhất với
16,5%, nhóm kinh doanh (8%), nhóm nội trợ (4,5%), nhóm Làm nông - Công nhân
(2,2%)Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,01).
Nghiên cứu cho thấy nhóm con so có tỷ lệ trả lời đúng (19,0%) cao hơn nhóm
con rạ (4,6%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p=0,000).
Con rạ là yếu tố độc lập tượng quan có ý nghĩa thống kê (p=0,03).
Bảng 3. 15: Yếu tố liên quan đến điểm kiến thức chung (n=238)
Yếu tố nguy cơ
CI 95%
p
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Kiến thức đạt Có
Không
136 88,9% 17 11,1% 74 87,1% 11 12,9%
1,19
34 79,1%
9 20,9%
0,50 0,2 - 1,5 0,227 0,662
9,4% 4 11,1%
0,39 0,47
Địa điểm thu tuyển Bệnh viện Từ Dũ BVĐK Đồng Tháp Nhóm tuổi ≤ 25 tuổi 144 90,6% 15 26-34 tuổi 32 88,9% ≥ 35 tuổi Trình độ học vấn (χ2= 10,666, p=0,005)
từ PTCS trở xuống
51 78,5% 14 21,5% 9 12,7% 62 87,3% 4,9% 5 97 95,1%
0,53 0,19
76 86,4% 12 13,6% 7 15,2% 39 84,8% 3,8% 3 76 96,2% 6 24,0% 19 76,0%
1,14 0,25 2,00
0,69 0,3 - 1,9 0,466 0,56 0,1 - 2,2 0,409 0,077 0,36 0,1 - 1,1 0,068 0,19 0,0 - 0,9 0,042 0,378 1,20 0,4 - 3,4 0,730 0,54 0,1 - 3,1 0,488 2,19 0,7 - 7,3 0,199
7 11,1% 56 88,9% 154 88,0% 21 12,0%
0,84 0,3 - 2,6 0,757
1,09
PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp (χ2= 9,26, p=0,026) Nội trợ Làm nông - Công nhân Văn Phòng Kinh doanh Số con Con so Con rạ
66
Tỷ lệ điểm kiến thức chung giữa các nhóm trịnh độ học vấn là tăng dần theo
các cấp trình độ từ 78,5% của nhóm từ PTCS trở xuống đến 95,1% của nhóm trình
độ trên PTTH. Sự khác nhau này có ý nghĩa thống kê (χ2= 10,666, p=0,005), Hồi
quy đa biến ở các nhóm trình độ ghi nhân mối tương quan giữa nhóm từ PTCS trở
xuống và trên PTTH, sự tương quan có ý nghĩa thống kê (p=0,042),
Nghiên cứu ghi nhận, tỷ lệ trả lời đạt của điểm kiến thức chung với nhóm
Văn phòng là cao nhất với 96,2% và thấp nhất với nhóm Kinh doanh là 76,0%, sự
khác biệt này có ý nghĩa thống kê (χ2= 9,26, p=0,026).
3.4.2. Yếu tố liên quan đến thực hành của thai phụ có HBV
Bảng 3. 16: Yếu tố liên quan đến thực hành của thai phụ (n=238)
Kiến thức đạt
Yếu tố nguy cơ
CI 95%
p
ORhiệu chỉnh
Có
Không
ORđơn biến
13 7
8,5% 140 91,5% 78 91,8% 8,2%
0,57 0,2 -
1,0
2 15 3
4,7% 41 95,3% 9,4% 144 90,6% 33 91,7% 8,3%
0,59 0,1 - 0,54 0,1 -
Địa điểm thu tuyển Bệnh viện Từ Dũ BVĐK Đồng Tháp Nhóm tuổi ≤ 25 tuổi 26-34 tuổi ≥ 35 tuổi Trình độ học vấn
0,5 0,5
từ PTCS trở xuống
4,6% 3 6 8,5% 11 10,8%
62 95,4% 65 91,5% 91 89,2%
0,44 0,1 - 0,22 0,0 -
0,5 0,4
PTTH Trên PTTH Nghề nghiệp Nội trợ
9 10,2% 4,3% 2
79 89,8% 44 95,7%
2,0 0,380 0,793 3,0 0,528 3,7 0,530 0,241 2,0 0,291 1,3 0,092 0,503 2,62 0,5 - 12,9 0,237
2,5
Làm nông - Công nhân
7 2
8,9% 8,0%
72 91,1% 23 92,0%
2,43 0,6 - 1,54 0,3 -
9,7 0,211 8,2 0,616
1,2 1,3
6 14
9,5% 57 90,5% 8,0% 161 92,0%
1,35 0,4 -
4,4 0,625
1,2
Văn Phòng Kinh doanh Số con Con so Con rạ
67
Thai phụ được thu tuyển tại Bệnh viện Từ Dũ có tỷ lệ điều trị trước đó (8,5%)
cao hơn số thai phụ thu tuyển tại bệnh viên đa khoa Đồng Tháp (8,2%). Sự khác
biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Nhóm tuổi điều trị trước đó nhiều nhất là từ 26-34 tuổi (9,4%), tiếp sau đó là
nhóm tuổi trên 35 tuổi với 8,3% và thấp nhất là nhóm tuổi dưới 25 tuổi với 4,7%.
Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Tỷ lệ thai phụ điều trị VGB cao nhất ở nhóm trên PTTH với 10,8%, hai nhóm
còn lại là PTTH và từ PTCS trở xuống có tỷ lệ nhỏ dần tương ứng là 8,5% và
4,6%. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thông kê.
Nghiên cứu ghi nhận tỷ lệ điều trị trước đó ở yếu tố nghề nghiệp như sau:
Nội chợ (10,2%). Văn Phòng (8,9%). Kinh doanh (8,0%), Làm Nông - Công nhân
(4,3%). Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Yếu tố số con trong nghiên cứu ghi nhận sự khác biệt không đáng kể, khi tỷ
lệ đã điều trị trước đó của nhóm con so là 9,5% và nhóm con rạ là 8,0%. Sự khác
biệt này không mang ý nghĩa thống kê (p=0,709, OR= 1,211, 95% CI(0,444-
3,300)).
Hồi quy đa biến cũng không ghi nhân sự tương quan có ý nghĩa thống kê đối
với việc điều trị của thai phụ có HBV.
68
Bảng 3. 17: Liên quan giữa kiến thức và nguồn tìm hiểu kiến thức của thai phụ có HBV (n=238)
CI 95%
p
Nguồn kiến thức
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Kiến thức đạt Có
Không
Có Không
29 100,0% 156
0 90,2% 17
0,0% 9,8%
0
0,0 0,00 -
0,998
118 83
Kiến thức từ bạn bè, người thân Kiến thức từ sách báo, tờ rơi, internet 95,2% 6 4,8% 88,3% 11 11,7%
2,61
Có Không
12,0 2,07 - 70,04 0,006
Kiến thức từ đài phát thanh và truyền hình 5 92,4% 91,4% 12
61 127
7,6% 8,6%
1,15
Có Không
1,0 0,21 -
4,82 0,985
Kiến thức từ nhân viên y tế (p=0.011)
Có
145 54
8 94,8% 5,2% 84,4% 10 15,6%
3,36
17,2 3,01 - 97,82 0,001 Không Có liên quan giữa điểm kiến thức của thai phụ đến từ nguồn kiến thức là từ
sách báo, tờ rơi và internet, mối tương quan này có ý nghĩa thống kê (p=0,006).
Có liên quan giữa điểm kiến thức đến từ nguồn kiến thức là nhân viên y tế,
mối tương quan này có ý nghĩa thống kê (p=0,001).
Bảng 3. 18: Liên quan giữa điểm kiến thức và thực hành của thai phụ có HBV
CI 95%
p
Thực hành
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Kiến thức đạt Có
Không 1
19 95,0% 5,0% 191 87,6% 27 12,4%
2,686 0,345 - 20,881 0,345
Có Không
2,68
Mối tương quan này không có ý nghĩa thống kê (p=0,335).
Bảng 3. 19: Liên quan giữa thực hành của thai phụ và thực hành của người chồng
CI 95%
p
Thực hành chồng
ORđơn biến
ORhiệu chỉnh
Có
Thực hành thai phụ Không 6 30,0% 14 70,0% 63 28,9% 155 71,1%
5,74 2,11 - 15,61 0,001
Có Không
5,74
69
Nghiên cứu ghi nhận, thực hành của các thai phụ liên quan thuận, yếu đến
thực hành của người chồng. Sự tương quan này có ý nghĩa thống kê (p=0,000,
r=0,244, OR=5,741, 95%CI (2,111-15,608)).
70
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. ĐÁNH GIÁ KIẾN THỨC VÀ THỰC HÀNH PHÒNG CHỐNG LÂY
TRUYỀN VI RÚT VIÊM GAN B CỦA THAI PHỤ CÓ HBV
4.1.1. Kiến thức của thai phụ có HBV về đường lây truyền vi rút VGB
VGB là một bệnh nhiễm trùng gan do vi rút VGB gây ra. Tùy theo mức độ,
bệnh có thể chỉ kéo dài nhẹ vài tuần cho đến trở thành một bệnh lý nghiêm trọng,
ảnh hưởng suốt đời của người bệnh. Vì vậy việc đánh giá kiến thức về phòng lây
truyền vi rút VGB là rất cần thiết, không chỉ đối với cộng đồng nói chung mà cũng
đặc biệt quan trọng đối với thai phụ, vì kiến thức tốt sẽ giúp các thai phụ có tâm
lý vững vàng trong lúc mang thai, hiểu và phòng, chống lây truyền vi rút VGB cho
người thân, nhất là lây truyền dọc qua chính con của họ. Phụ nữ cũng là nguồn
chia sẻ kiến thức trong gia đình và ngoài cộng đồng được cho là phổ biến và hiệu
quả nhất. Trong nghiên cứu này, đối tượng thu tuyển lại là thai phụ có HBV. Kết
quả trong nghiên cứu sẽ phản ánh một phần thực trạng kiến thức cũng như thực
hành của đối tượng này.
Kiến thức về đường lây truyền của vi rút VGB
Nghiên cứu ghi nhận, có 72,5% số thai phụ cho rằng VGB không thể lây qua
bằng đường ăn uống thông thường, tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu Phạm Thị
Thúy Hằng [8] với 47,6% trên tổng số 380 thai phụ và sau sinh, tỷ lệ này trong
nghiên cứu của Trịnh Thúy Hằng [9] trên đối tượng là phụ nữ có con dưới 1 tuổi
chỉ có 20,6%.
VGB không thể lây truyền qua đường hô hấp, như hắt hơi và nói chuyện
thông thường thì nghiên cứu đã ghi nhận có 75,2% số thai phụ có HBV tham gia
nghiên cứu là trả lời đúng, tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ trong nghiên cứu của Phạm Thị
Thúy Hằng [8] là 58,2%,
71
Tuy nhiên, VGB có thể lây qua đường máu trong nghiên cứu này là 80,7%
số thai phụ trả lời đúng, thấp hơn trong nghiên cứu của Phạm Thị Thúy Hằng là
85,8% nhưng cao hơn nghiên cứu của Trịnh Thúy Hằng [9] chỉ có 69,1%, với đối
tượng là nhân viên điều dưỡng của Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu – Bến Tre trong
nghiên cứu của Nguyễn Thị Mỹ Khánh thì tỷ lệ này là 93,3%[13]. Điều này thể
hiện đúng với thực tế, khi tỷ lệ trả lời đúng của nhóm nhân viên điều dưỡng cao
hơn nhóm các bà mẹ mang thai. Khi cho là nhóm nhân viên điều dưỡng luôn được
trang bị kiến thức tốt hơn, là nhóm có nguy cơ cao vì thường xuyên tiếp xúc với
bệnh nhân, bơm kim tiêm, dịch tiết của người bệnh và môi trường nhiễm bệnh tại
Bệnh viện.
Theo kết quả nghiên cứu thì có tới 77,7% số thai phụ có HBV cho là VGB
có thể lây truyền qua đường tình dục, tỷ lệ này cao hơn so với nghiên cứu của
Phạm Thị thúy Hằng (75,3%) và Trịnh Thúy Hằng (66,9%) nhưng lại cao hơn gấp
2 lần so với nghiên cứu của Vũ Đức Lương chỉ với 35,7% trên đối tượng là người
đi hiến máu trại khu vực Hà Nội năm 2014 [17]. Đối tượng trong nghiên cứu của
Vũ Đức Lương là đối tượng cộng đồng dân cư, không mang tính đặc thù như các
nghiên cứu trên nên về tỷ lệ chênh lệch cũng có thể gần với thật tế. Khi các đối
tượng là mẹ mang thai sẽ hiểu biết nhiều hơn hoặc quan tâm hơn về các bệnh lây
qua đường tình dục trong đó có bệnh VGB, còn các đối tượng là cộng đồng nói
chung sẽ dễ hiểu khi tỷ lệ trả lời thấp hơn,
Hiểu biết về đường lây truyền từ mẹ sang con, tỷ lệ trả lời đúng trong nghiên
cứu này và nghiên cứu của Phạm Thị Thúy Hằng thì gần tương đồng nhau, tương
ứng là 85,7% và 85,8%, cao hơn so với nghiên cứu của Trịnh Thúy Hằng là 61,7%
và của Vũ Đức Lương là 53,3%. Với các tỷ lệ thấy được, với đối tượng trên cộng
đồng chúng ta cũng dễ hiểu vì sao tỷ lệ trả lời đúng chỉ có 53,3%, nhưng cũng là
72
phụ nữ có con dưới 6 tháng trong nghiên cứu của Trịnh Thúy Hằng lại chỉ có
61,7%, tỷ lệ này là thấp so với nghiên cứu của Phạm Thị Thúy Hằng và trong
nghiên cứu này mà đối tượng khảo sát gần giống nhau. Vì hiểu biết về đường lây
truyền dọc từ mẹ sang con là rất quan trọng, đây là đường lây truyền chủ yếu tại
Việt Nam thuộc nhóm khu vực có tỷ lệ có HBV cao trên thế giới,
Hiểu biết về đường lây truyền của vi rút VGB là rất quan trọng, nhất là đối
với thai phụ, đánh giá mức độ quan tâm cũng như kiến thức chuẩn bị trước khi
mang thai của phụ nữ, ảnh hưởng trực tiếp đến chính con của họ. Tỷ lệ một số
nghiên cứu cho thấy phần đa số các phụ nữ đều biết rằng VGB có thể lây truyền
từ mẹ sang con trong quá trình mang thai và trong lúc sinh, vì là đối tượng vừa là
thai phụ vừa có HBV nên kiến thức về đường lây truyền có phần cao hơn so với
các đối tượng khác, phải có gần một nửa số thai phụ (45,4%) trả lời đúng hết tất
cả các câu hỏi,
Kiến thức về cách phòng, chống
Cách phòng lây truyền vi rút viên gan B, cũng như phòng bệnh do vi rút VGB
gây nên được WHO cũng như Bộ Y tế khuyến váo là tiêm phòng vắc xin VGB,
không chỉ dành cho trẻ em mà cả dành cho người lớn. Trong nghiên cứu này ghi
nhận việc hiểu biết về việc tiêm vắn xin phòng, chống lây truyền vi rút VGB đạt
87,0%, tuy nhiên tỷ lệ này lại thấp hơn nghiên cứu của Phạm Thị Thúy Hằng
(92,6%) và nghiên cứu của Trịnh Thúy Hằng (91,4%). Tuy nhiên, cao hơn khi so
sánh đối tượng hiến máu nhân đạo trong nghiên cứu của Vũ Đức Lương là 79,1%.
Cũng tỷ lệ này trên đối tượng nghiên cứu là người dân xã Trung Nguyên tỉnh Vĩnh
Phúc của nhóm nghiên cứu Vũ Đình Sơn và Lê Thanh Tùng cũng không quá chênh
lệch cho rằng tiêm vắc xin đạt hiệu quả cao chiếm tỷ lệ 87,9% [25]. Tỷ lệ này ở
các bà mẹ thì khá tương đồng nhau, cũng giải thích một phần là các bà mẹ có mối
73
quan tâm nhiều hơn về tiêm phòng vắc xin VGB so với các đối tượng khác. Còn
về đối tượng là các bà mẹ mang thai, nghiên cứu mong chờ tỷ lệ cao nhất phải
thuộc về đối tượng thai phụ có HBV và mang tính cấp thiết hơn so với các đối
tượng bà mẹ khác. Tuy nhiên, kiến thức này đánh giá phần nào sự bao phủ về việc
tiêm vắc xin cho trẻ, để đạt được theo mong đợi của Bộ Y tế, độ bao phủ vắc xin
ít nhất là 95% vì vậy nghiên cứu ghi nhật sự hiểu biết về tầm quan trọng của vắc
xin vẫn còn thấp hơn giá trị mong đợi,
Hiểu biết về tiêm phòng vắc xin VGB,
Hiểu biết về tiêm vắc xin, cũng như tác dụng của việc tiêm vắc xin đủ liều
cũng ảnh hưởng rất nhiều đến tâm lý lựa chọn cách phòng, chống VGB của người
mẹ cho bản thân, cho gia đình và cho chính con cái của họ.
Có 86,6% các thai phụ có HBV trong nghiên cứu trả lời đúng và cho rằng
việc tiêm phòng vắc xin VGB phù hợp với tất cả mọi đối tượng, không chỉ là trẻ
nhỏ mà còn dành cho cả người lớn. Có thể nói đây là tỷ lệ ngoài mong đợi vì
thường khi nói đến tiêm vắc xin, đa số mọi người sẽ nghĩ tiêm phòng vắc xin chỉ
dành cho đối tượng là trẻ nhỏ, nhưng trên thực tế thì vắc xin VGB được khuyến
cáo là dành cho tất cả mọi người như là trẻ nhỏ chưa được tiêm vắc xin, cán bộ y
tế, thành viên trong gia đình có người mắc VGB và các đối tượng người lớn mắc
các bệnh xã hội khác. Trẻ lớn và người trưởng thành đều nên tiêm vắc xin với liều
tiêm 3 mũi ở tháng 0,1 và 6.
Có 37,0% số thai phụ trả lời đúng về số mũi vắc xin đủ liều cho trẻ dưới 12
tháng tuổi là lớn hơn hoặc bằng 3 liều, tỷ lệ này cao hơn trong nghiên cứu của
Trịnh Thúy Hằng [9] là 17,7% với đối tượng là các bà mẹ có con dưới 6 tháng
tuổi. Số lượng mũi tiêm lớn hơn hoặc bằng 3 liều cho mọi người, tỷ lệ trả lời đúng
này trong nghiên cứu chiếm 33,2% và tỷ lệ này thấp hơn khi so sánh đối tượng là
74
sinh viên điều dưỡng khi tham khảo thực hành của họ trong nghiên cứu của Trần
Thị Tây Nguyên [21] là 54,2%. Kiến thức về tiêm đủ liều rất quan trong, vì việc
không tiêm đủ liều có thể ảnh hưởng đến tác dụng của vắc xin, có khi sẽ mất tác
dụng đối với một số trường hợp. Tỷ lệ hiểu biết về số mũi tiêm đủ liều là quá thấp
so với kỳ vọng và ảnh hưởng nhiều đến khả năng phòng bệnh sau này. Vì trên thực
tế đối với các liều sau, việc đi tiêm phòng hay không thuộc quyết định của gia đình
và bà mẹ nói cách khác các bà mẹ có thể không đưa con của mình đến tiêm các
liều sau là vì lý do không biết hoặc là cho rằng đã tiêm đủ liều cho trẻ. Với số liệu
ghi nhân này có thể nói, nếu không có những tác động khách quan khác thì tỷ lệ
tiêm đủ liều của trẻ dưới 12 tháng tuổi và mọi người chỉ đạt 37,0%.
Tuy nhiên, 92,9% thai phụ trong nghiên cứu đã trả lời thời điểm tiêm vắc xin
mũi đầu tiên tốt nhất cho trẻ dưới 12 tháng tuổi là trong vòng 24 tiếng sau sinh, tỷ
lệ này cao hơn rất nhiều so với yếu tố thực hành trong nghiên cứu của Phạm Thị
Thúy Hằng [8] chỉ có 65,6% và 71,0% đối với phụ nữ có con dưới 6 tháng trong
nghiên cứu của Hồ Thị Thình [31]. Kết quả này cho thấy, đối tượng là thai phụ có
HBV có mối quan tâm nhiều hơn về mũi vắc xin đầu tiên dành cho trẻ hơn hẳn
đối tượng của các nghiên cứu khác.
Thời gian bảo vệ của vắc xin đối với người đã tiêm đủ liều là trên 20 năm,
tuy nhiên kết quả nghiên cứu cho thấy rất ít thai phụ (8,4%) biết điều này và phần
lớn nằm ở nhóm thu tuyển tại Bệnh viện Từ Dũ (84,0%). Tỷ lệ biết về điều này là
quá thấp so với mong đợi, mặc dù Bộ Y tế đã nhiều biện pháp tuyên truyền về khả
năng bảo vệ suốt đời của vắc xin. Có thể giải thích rằng mức độ tin cậy vào việc
tiêm vắc xin đủ liều là thấp ở các thai phụ có HBV tham gia nghiên cứu.
Nghiên cứu ghi nhận, kiến thức về VGB mà thai phụ nhận được từ sách báo,
tờ rơi, poster và internet như một cách tự tìm hiểu đạt 52,1%, theo cách thụ động
75
hơn là nguồn kiến thức biết từ Bạn bè người thân thì thấp chỉ chiếm 12,2%, từ
truyền hình, đài phát thanh là 27,7%. Tuy nhiên, các thông tin này là thông tin một
chiều, với thời đại số hóa ngày nay thì phần lớn là được tìm hiểu từ mạng Internet
cũng là một điều dễ hiểu, tuy nhiên lượng lớn kiến thức mà thai phụ có HBV cho
là từ nhân viên Y tế chiếm 64,3%. Sự vượt trội này có hai mặt, mặt tốt chính là
các nguồn thông tin chính thống, cũng như có sự tư vấn hai chiều dẫn đến kiến
thức của thai phụ tham gia nghiên cứu là khá cao, nhưng xét tổng quan thì vẫn
chưa đầy đủ. Vì nhiều lý do khách quan, tuy nhiên nhân viên y tế cũng không thể
có quá nhiều thời gian để có thể bổ sung kiến thức cho các thai phụ một cách đầy
đủ nhất. Còn về mặt ngược lại, có thể nói nhân viên Y tế là nguồn kiến thức cuối
cùng mà thai phụ có thể nhận được, tức là phải có vấn đề về sức khỏe thì mới tìm
đến nhân viên y tế để tư vấn, điều này chứng tỏ vị trí của các kênh truyền thông
khác chưa được đánh giá cao và có phần coi nhẹ, chính vì vậy vô tình đã tạo gánh
nặng lên đội ngũ y tế. Vì vốn dĩ, các kiến thức về phòng, chống bệnh tật nói chung
và VGB nói riêng là lượng kiến thức nền cần mỗi người dân đều phải biết. Chỉ có
12,2% là sự chia sẻ kiến thức từ bạn bè và người thân, hay là chỉ có 27,7% là nghe
từ đài phát thanh và truyền hình. Đặc biệt đối với thai phụ, đối tượng rất cần được
bổ sung kiến thức trước khi mang thai, để có thể đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và
trẻ nhỏ.
4.1.2. Thực hành của thai phụ có HBV
Nghiên cứu cho rằng, vì là đối tượng nghiên cứu là thai phụ có HBV nên thực
hành được cho là của thai phụ có HBV là việc điều trị trước đó của họ, theo như
quyết định mới nhất của Bộ Y tế về việc ban hành hướng dẫn chẩn đoán, điều trị
bệnh VGB [29], thì có 95% người lớn bị VGB cấp sẽ hồi phụ một cách tự nhiên
mà không cần điều trị thuốc kháng vi rút, điều trị VGB chủ yếu là điều trị hỗ trợ.
76
Xét với thai phụ có HBV là thai phụ có HBV thì điều trị trước đó là điều trị hỗ trợ
hay là điều trị điều trị kháng vi rút để làm giảm nguy cơ lây truyền cho con của
mình trong thời gian mang thai và trong lúc sinh. Việc điều trị này có ý nghĩa khi
thai phụ có điều trị VGB liên tục trước khi mang thai và đến khi dừng điều trị theo
đúng phác đồ của Bộ Y tế.
Nghiên cứu khảo sát có rất ít, chỉ 8,4% thai phụ là có điều trị VGB trước đó
và cũng cách lúc sinh khá lâu, có 4 trường hợp thai phụ có HBV chiếm 1,7% điều
trị trước đó là 1 năm và cũng có 1 trường hợp biết mình có HBV và đã điều trị
trước đó là 12 năm. Kết quả này cho thấy, hầu như đối tượng tham gia trong nghiên
cứu này không cho rằng điều trị VGB là cần thiết hoặc không biết là mình có có
HBV để điều trị. Điều này đánh giá một phần cho việc có cần thiết hay không cần
thiết điều trị VGB trước đó cho việc giảm tỷ lệ lây truyền vi rút VGB từ mẹ sang
con.
Qua phỏng vấn các đối tượng thai phụ, nghiên cứu ghi nhận có 77 (32,4%)
người chồng của thai phụ có đi xét nghiệm VGB trước đó và có tới 8,0% là có
HbsAg (+). Thật ra tỷ lệ thấp hơn so với mong đợi, việc xét nghiệm VGB trước
khi hôn nhân là khuyến cáo cần thiết của Bộ Y tế, không chỉ phòng, chống bệnh
VGB mà còn phòng, chống được các bệnh khác lây qua đường tình dục, có thể nói
việc quan tâm của các cặp vợ chồng về các bệnh lây truyền qua đường tình dục là
chưa cao. Tuy nhiên, cũng phải đề cập các vấn đề xã hội khác ảnh hưởng đến sự
quan tâm này như là kinh tế, sự tin tưởng lẫn nhau và khả năng che giấu của đối
tượng. Chính vì các rào cản xã hội như vậy thì tỷ lệ này cũng phản ánh gần đúng
với thực tế hiện nay mặc dù Bộ Y tế cũng như chính quyền luôn khuyến khích
khám và xét nghiệm tổng quát trước hôn nhân để giúp thúc đẩy một thế hệ tương
lai khỏe mạnh hơn.
77
4.2. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC, THỰC HÀNH
PHÒNG, CHỐNG LÂY TUYỀN VI RÚT VIÊM GAN B CỦA ĐỐI
TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Việt Nam là một trong những nước ở khu vực có tỷ lệ mắc cao trên thế giới
thì đường lây truyền vi rút VGB qua đường tình dục không không phổ biến bằng
đường lây truyền từ mẹ sang con nhưng nó cũng rất là quan trong và là con đường
chủ yếu ở các nước phát triển và tất nhiên nước đang phát triển như Việt Nam có
tỷ lệ này cao hơn rất nhiều so với các nước đã phát triển. Vì vậy hiểu biết về đường
lây truyền qua đường tình dục đối với các thai phụ có HBV là rất quan trọng, phản
ánh thực tế cuộc sống hôn nhân cũng như ý định mang thai trước đây. Các đối
tượng này nếu không có những biện pháp phòng, chống như quan hệ tình dục an
toàn hay xét nghiệm định kỳ thì rất dễ lây truyền cho bạn đời của họ. Mặc dù khi
chạy hồi quy đa biến không cho thấy được các nhóm yếu tố tương quan có ý nghĩa
thống kê, nhưng khi so sách chéo với kiểm định Chi-Square thì nghiên cứu ghi
nhận sự khác biệt của yếu tố nhóm trình độ học vấn có ý nghĩa thống kê (χ2= 13,4,
p=0,001) cụ thể: tỷ lệ odds hiểu biết về đường lây truyền qua đường máu của
nhóm học vấn PTTH cao hơn 2 lần nhóm có trình độ từ PTCS trở xuống (OR =
0,50), tỷ lệ này khi so sánh nhóm từ PTCS trở xuống và nhóm trên PTTH là gấp
hơn 4 lần (OR=0,25). Kết quả này cũng phản ánh đúng thực tế khi người có trình
độ cao hơn sẽ có khả năng hiểu biết tốt hơn về lây truyền vi rút VGB qua đường
tình dục. Nghiên cứu cũng ghi nhận, yếu tố nghề nghiệp cũng liên quan đến hiểu
biết về đường lây truyền qua đường tình dục (χ2= 14,7, p=0,002), cụ thể đối với
nhóm yếu tố nghề nghiệp tham chiếu là nhóm Nội trợ, thì nhóm Làm Nông – Công
nhân, nhóm Văn phòng có tỷ lệ odd hiểu biết cao hơn nhóm Nội trợ tương ứng với
các giá trị OR là 0,79 và 0,25, điều này chứng tỏ đối với nhóm Làm nông – Công
78
nhân và nhóm Văn phòng có mức hiểu biết cao hơn nhóm Nội trợ và mức hiểu
biết của nhóm Văn phòng chiếm ưu thế hơn. Tuy nhiên, nhóm Kinh doanh so với
nhóm nội trợ lại có OR=1,68>1 nên có thể nói nhóm Kinh doanh có hiểu biết về
đường lây truyền qua đường tình dục kém hơn nhóm Nội chợ. Tuy đây là so sánh
đơn biến nhưng cũng phản ánh phần nào đúng với thực tế khi nhóm kinh doanh
được cho là có nhiều mối quan tâm khác hơn như tiền, các mối quan hệ thay vì
quan tâm đến sức khỏe trong khi đó nhóm Văn phòng sẽ có mức hiểu biết tốt hơn
khi có ít mối quan tâm về xã hội hơn, họ có nguồn thu nhập ổn định, vừa đủ để có
nhiều thời gian chăm sóc gia đình, bản thân và quan tâm hơn đến tình dục an toàn,
các nhóm này được cho là vẫn chủ động về tài chính và các mối quan hệ xã hội
bên ngoài, khi so sánh điều này với nhóm Nội trợ thì ngược lại. Nhóm nội trợ có
thể nói là bị động về tài chính cũng như xung quanh cũng rất ít sự giao tiếp xã hội
so với các nhóm khác, chính lẽ vậy mà gánh nặng cơm áo gạo tiền lại dồn lên
chính người chồng, có thể xem xét việc có HBV của đối tượng này là do chính
người chồng lây truyền qua do sự phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng.
Lây truyền từ mẹ sang con như đã biết là đường lây truyền dọc chủ yếu ở các
nước đang phát triển và Việt Nam đang nằm trong nhóm các nước này. Vì vậy
đường lây truyền này rất được Nhà nước và Bộ Y tế quan tâm, cũng như đã có rất
nhiều phác đồ điều trị như đã giới thiệu ở phần tổng quan. Trong nghiên cứu này,
chỉ có trình độ học vấn là có mối tương quan đến hiểu biết về đường lây truyền từ
mẹ sang con ở thai phụ có HBV và mối tương quan này có ý nghĩa thống kê (χ2=
12,07, p=0,002), cụ thể khi so sánh đơn biến giữa nhóm PTTH và nhóm từ PTCS
trở xuống có OR=0,46, nghĩa là odds của thai phụ có HBV ở nhóm đối tượng trình
độ PTTH thì có tỷ lệ hiểu biết cao hơn thai phụ có HBV ở nhóm đối tượng trình
độ từ PTCS trở xuống là hơn 2 lần, odds này tương tự với nhóm thai phụ có HBV
79
ở nhóm đối tượng trên PTTH cao hơn nhóm đối tượng từ PTCS trở xuống là 4,81
lần (OR=0,21). Điều này có nghĩa là ở trình độ cao hơn sẽ có khả năng hiểu biết
tốt hơn về đường lây truyền từ mẹ sang con. Điều này cũng phản ánh đúng với
thực tế về hiểu biết tốt hơn ở những người có trình độ học vấn tốt hơn. Khi phân
tích đơn biến Trong hồi quy nhị phân đa biến, nghiên cứu cũng ghi nhận chỉ có
trình độ học vấn trên PTTH là yếu tố độc lập duy nhất có liên quan đến hiểu biết
của thai phụ có HBV về đường lây truyền từ mẹ sang con (B= -1,5, p=0,046. CI
95% 1-19,6, OR=4,81), biện giải ý nghĩa hồi quy đa biến ta thấy B= -1,5 nghĩa là
biến độc lập trên PTTH có tác dụng nghịch từ hiểu biết kiến thức đến không hiểu
biết kiến thức, tức là yếu tố trên PTTH sẽ giúp cho việc thai phụ có HBV có kiến
thức về đường lây truyền từ mẹ sang con tốt hơn, cụ thể là tốt hơn gần 5 lần.
Hiểu biết về cách phòng lây truyền vi rút VGB ở thai phụ có HBV được ghi
nhận trong nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng bao gồm địa điểm thu tuyển, trình
độ học vấn và nghề nghiệp, mối tương quan này có ý nghĩa thống kê khi phân tích
tương quan đơn biến. Đối với thai phụ có HBV được thu tuyển tại Bệnh viện Từ
Dũ có hiểu biết hơn về kiến thức này đối với thai phụ có HBV được thu tuyển tại
BVĐK Đồng Tháp (p=0,000, OR=3,97>1) cụ thể, odds của thai phụ được thu
tuyển tại BVĐK Đồng Tháp có hiểu biết kém hơn khoảng 4 lần so với thai phụ
được thu tuyển tại Bệnh viện Từ Dũ. Điều này cũng gần đúng với thực tế khi người
dân sống tại thành phố lớn như TP. HCM thì có mức độ hiểu biết cao hơn người
dân sống ở Đồng Tháp, trong nghiên cứu cũng ghi nhân số thai phụ tham gia
nghiên cứu có mức trình độ học vấn cao chủ yếu là ở TP. HCM cụ thể nhóm trình
độ trên PTTH thu tuyển tại TP. HCM chiếm tới 87,3% trong khi nhóm trình độ từ
PTCS trở xuống thu tuyển tại Đồng Tháp tới 78,5%. Chính vì vậy mà trình độ học
vấn của thai phụ có HBV cũng ảnh hưởng đến hiểu biết này (χ2= 12,12, p=0,002),
80
khi odds trình độ học vấn trên PTTH của các bà mẹ mang thai có HBV hiểu biết
về cách phòng lây truyền vi rút VGB tốt nhất cao hơn gần 6 lần so với nhóm thai
phụ có trình độ từ PTCS trở xuống. Nghiên cứu cũng ghi nhận yếu tố nghề nghiệp
cũng tác động đến hiểu biết của thai phụ có HBV (χ2= 8,17, p=0,043), so với
nhóm thai phụ Nội trợ thì odds hiểu biết của thai phụ nhóm văn phòng cao hơn
gấp 3,55 lần, con số này là 1,39 đối với thai phụ có HBV làm Kinh doanh. Điều
này có nghĩa là nhóm văn phòng có hiểu biết cao hơn so với nhóm kinh doanh và
nội trợ, đồng thời nhóm Làm Nông – Công nhân kém hiểu biết hơn các nhóm còn
lại (ORLàm Nông- Công nhân/Nội trợ=1,47). Tuy nhiên, khi phân tích hồi quy đa biến thì
không có nhóm độc lập nào làm ảnh hưởng đến hiểu biết về cách tốt nhất để phòng
lây truyền vi rút VGB ở thai phụ có HBV.
Tiêm phòng ở trẻ có mẹ mang HBsAg là tiêm phòng khi trẻ đã có phơi nhiễm
với vi rút VGB do vậy việc sử dụng vắc xin và HBIg phải tiến hành càng sớm càng
tốt để cơ thể nhanh chóng có kháng thể anti-HBs trung hòa vi rút. Theo khuyến
cáo của WHO thì trẻ sinh ra từ các bà mẹ có HBsAg phải được tiêm phòng vắc
xin VGB càng sớm càng tốt, tốt nhất là 24 giờ đầu. Tiêm phòng vắc xin VGB đơn
thuần hoặc vắc xin VGB phối hợp với HBIg có khả năng phòng tránh 90% khả
năng lây truyền từ mẹ sang con[37, 72]. Chính những dẫn chứng này lại là cơ sở
quan trong để đánh giá hiểu biết này đối với thai phụ có HBV tham gia nghiên cứu
trong nghiên cứu, nhóm nghiên cứu kỳ vọng hầu hết thai phụ có HBV đều phải
biết vì kiến thức này ảnh hưởng trực tiếp đến con cái của họ, mặc dù như đã biết
tại hai địa điểm thu tuyển là hai Bệnh viện lớn ở khu vực phía Nam nên mũi tiêm
sơ sinh là mũi tiêm bắt buộc. Nhưng nếu xét ở một điều kiện khác, không có được
sự hỗ trợ của Bệnh viện thì kỳ vọng mà nghiên cứu thu được là còn thấp (92,9%).
Tất nhiên odds hiểu biết về kiến thức mũi tiêm vắc xin VGB đầu tiên của thai phụ
81
có HBV thu tuyển tại bệnh viên Từ Dũ cao hơn gấp 3,64 lần so với odds hiểu biết
của thai phụ này khi thu tuyển tại BVĐK Đồng Tháp. Điều này phản ánh đúng với
thực tế khi so sánh giữa 2 thành phố lớn này. Nghiên cứu cũng ghi nhận sự hiểu
biết khác nhau giữa các nhóm tuổi cũng có ý nghĩa thống kê (χ2= 11,762, p=0,003)
cụ thể là odds hiểu biết của thai phụ có HBV ở lứa tuổi từ 26-34 tuổi cao gần 5
lần so với thai phụ có HBV ở lứa tuổi ≤ 25 tuổi (OR= 0,2), tuy nhiên khi so sánh
với lứa tuổi ≥ 35 tuổi odds hiểu biết thấp hơn 31% so với nhóm tuổi ≤ 25 tuổi,
chứng tỏ thai phụ ≥ 35 tuổi có hiểu biết kém hơn và kém nhất trong các nhóm.
Chính vì vậy không thể nói người càng lớn tuổi thì có hiểu biết về thời điểm tiêm
vắc xin tốt nhất cho trẻ dưới 12 tháng tuổi là càng tốt. Điều này nằm ngoài mong
đợi của nhóm nghiên cứu, cần phải có những nghiên cứu khác, hoặc cỡ mẫu lớn
hơn để có thể có cái nhìn tổng quan hơn. Khi phân tích hồi quy đa biến thì nghiên
cứu ghi nhận chỉ có lứa tuổi ≤ 25 (p=0,028) và lứa tuổi từ 26-34 tuổi (p=0,046) là
2 biến độc lập ảnh hưởng đến hiểu biết về kiến thức của thai phụ có HBV, nhận
thấy từ OR hiệu chỉnh (0,258) và khoảng tin cậy 95% CI (0,07-0,98) có ý nghĩa
thống kê, nghĩa là nếu có 100 nghiên cứu tương tự thì 95% các nghiên cứu sẽ nói
rằng lứa tuổi từ 26-34 có hiểu biết này hơn lứa tuổi ≤ 25 tuổi, tuy nhiên khoảng
tin cậy này là quá rộng và có cơ sở khi nói lứa tuổi ≤ 25 tuổi sẽ có hiểu biết gần
bằng với nhóm từ 26-34 tuổi.
Trên đây là các phần biện giải về các kiến thức cụ thể. Theo như tiêu chí đánh
giá điểm kiến thức đạt hay không đạt, qua kết quả của nghiên cứu ghi nhận được
hiểu biết chung có liên quan đến hai yếu tố là trình độ học vấn và nghề nghiệp của
thai phụ có HBV. Tìm hiểu mối tương quan của trình độ học vấn với hiểu biết
chung về phòng lây truyền vi rút VGB như sau, khi kiểm tra OR đơn biến, nghiên
cứu cho thấy thai phụ có trình độ học vấn cao hơn sẽ có khả năng hiểu biết cao
82
hơn so với thai phụ có trình độ thấp hơn, cụ thể odds hiểu biết về kiến thức chung
của phụ nữ cố HBV ở nhóm trình độ học vấn từ PTCS trở xuống sẽ kém hơn một
nửa so với nhóm thai phụ có HBV có trình độ học vấn là PTTH, tỷ lệ này khi so
sánh với nhóm thai phụ có HBV có trình độ trên PTTH thì có odds hiểu biết kém
hơn đến 81%. Nghĩa là cứ 100 thai phụ có HBV có trình độ trên PTTH hiểu biết
đạt về kiến thức thì có 19 thai phụ có HBV có trình độ từ PTCS trở xuống hiểu
biết đạt về kiến thức, tỷ lệ này ghi nhận tương đồng khi phân tích hồi quy đa biến,
nghiên cứu ghi nhận chỉ có trình độ học vấn trên PTTH mới ảnh hưởng đến hiểu
biết của thai phụ có HBV (p=0,042, ORhiệu chỉnh = 0,19, 95% CI 0,03-0,94), điều
này hoàn toàn phản ánh đúng thực tế khi trình độ học vấn cao sẽ có kiến thức tốt.
Nghiên cứu cũng ghi nhận mối tương quan giữa các nhóm nghề nghiệp của thai
phụ có HBV có ý nghĩa thống kê (χ2= 9,26, p=0,026) cụ thể, odds hiểu biết về
kiến thức chung của thai phụ có HBV trên nhóm Nội trợ gấp 2 lần so với nhóm
Kinh doanh, và gấp 1,14 lần so với nhóm Làm Nông – Công nhân. Tuy nhiên,
phòng = 0,25). Kết quả này chứng tỏ hiểu biết chung về phòng, chống lây truyền vi
odds hiểu biết này khi so sánh với nhóm Văn phòng thì lại kém 4 lần (ORNội trợ/Văn
rút VGB ở thai phụ có HBV đạt giảm dần theo các nhóm nghề nghiệp lần lượt là
Văn phòng. Nội trợ, Làm nông – Công nhân cuối cùng là Kinh doanh,
Qua hồi quy đa biến, odds hiểu biết đạt của thai phụ có HBV từ nguồn kiến
thức là sách báo, tờ rơi và internet cao gấp 12 lần so với thai phụ có HBV không
được tiếp xúc đến sách báo tờ rơi và internet và odds hiểu biết đạt của thai phụ có
HBV từ nguồn kiến thức là nhân viên y tế cao gấp 17,2 lần so với odds hiểu biết
đạt của thai phụ có HBV không được tiếp xúc với nguồn này. Điều này đánh giá
đúng thực tế khi công nghệ thông tin ngày nay càng ngày càng phát triển, hầu như
tất cả các thông tin về y tế không chỉ có bệnh VGB đều được đăng tải trên Internet
83
và người dân rất dễ tiếp cận với như thao tác đơn gian như tìm kiếm bằng từ khóa,
tuy nhiên nguồn thông tin một chiều như vậy cần phải chọn lọc kỹ càng trước khi
áp dụng nhất là các vấn đề y tế, một so sánh khác thấy được trong nghiên cứu là
kiến thức đạt có phần nhỉnh hơn là từ nguồn nhân viên y tế, đánh giá mức độ tiếp
cận nguồn thông tin thì nhân viên y tế được cho là có nguồn kiến thức tốt vì vậy
một phần có thể giải thích được tỷ lệ kiến thức đạt cao, tuy nhiên nhân viên y tế là
nguồn kiến thức cuối cùng đáng tin cậy, để tiếp cận được nguồn thông tin này thì
người dân phải có vấn đề về sức khỏe thì mới tiếp cận được nếu bỏ qua các mối
quan hệ xã hội, cũng chính vì vậy đã tạo một gánh nặng to lớn lên đội ngũ này.
Trên thực tế, thai phụ có HBV đạt điểm kiến thức tốt nhưng chưa chắc là đã
đạt điểm thực hành tốt. Cũng một phần giải thích thai phụ có HBV không liên
quan đến việc điều trị trước đó của họ. Có thể trên thực tế việc điều trị sẽ không
phổ biến với cộng đồng dân cư có HBV và cụ thể trong nghiên cứu này là thai phụ
có HBV. Nghiên cứu kỵ vọng các phác đồ điều trị liên quan đến điều trị cho các
thai phụ có HBV để phòng giảm nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con, nhưng kết
quả cho thấy có quá ít thai phụ lựa chọn điều này. Chính vì vậy dẫn đến các kết
quả kiểm định không đáng tin cậy hoặc không có ý nghĩa thống kê, cần có nhiều
nghiên cứu cụ thể hơn như là việc lựa chọn hình thức phòng, chống lây truyền vi
rút VGB từ mẹ sang con bằng phương pháp nào ở đối tượng là thai phụ có HBV
hay là có cỡ mẫu đủ lớn để có thể so sánh rõ hơn sự khác biệt trong việc thực hành
của thai phụ.
Tuy nhiên, thú vị là việc điều trị VGB trước đó của thai phụ có HBV lại liên
quan đến việc chồng của thai phụ có HBV. Tuy là tỷ lệ có thấp nhưng nghiên cứu
cũng ghi nhận mối tương quan luận yếu (r=0,244). Cụ thể, odds thực hành đi xét
nghiệm trước đó của người chồng có vợ là thai phụ có HBV đã điều trị trước đó
84
cao hơn gần 6 lần so với odds thực hành đi xét nghiệm của người chồng có vợ là
thai phụ có HBV đã không điều trị trước đó. Điều này chứng tỏ các gia đình có vợ
đã điều trị trước đó thì có ý thức phòng, chống lây truyền vi rút VGB tốt hơn nhóm
còn lại, tỷ lệ này cần được phổ biến và nhân rộng hơn trong cộng đồng nhằm
phòng, chống VGB hiệu quả ở cộng đồng. Vì với chương trình TCMR, có thể
kiểm soát lây truyền dọc từ mẹ sang con, nhưng lại không có biện pháp cụ thể
khác đối với đường lây truyền ngang như lây qua đường máu hay lây qua đường
tình dục, một trong những con đường vẫn tồn tại ở các nước có tỷ lệ HBV thấp
như Mỹ hay Châu Âu.
Viêm gan B là một vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe công cộng toàn cầu.
Việc nghiên cứu các yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành phòng lây truyền
vi rút VGB ở thai phụ có HBV sẽ góp phần vào thúc đẩy công tác phát hiện và
tầm soát nhiễm HBV ở cộng đồng. Thêm vào đó, đánh giá được kiến thức và thực
hành của các thai phụ có HBV góp phần cho công tác tuyên truyền phòng bệnh
cho cá nhân, gia đình và nhất là tuyên truyền về tính hiệu quả của vắc xin VGB
lên chính cá nhân và thế hệ con cái sau này. Nghiên cứu hy vọng từ đó sẽ đưa ra
được những giải pháp xác thực hơn nhằm cải thiện sức khỏe cho các thai phụ có
HBV nói riêng và cho cả cộng đồng nói chung.
Nghiên cứu cũng ghi nhận tính trung thực khi tham gia hỏi bộ câu hỏi, thực
hiện phép thử phương trình hồi quy tuyến tính giữa biến “Biết về bệnh” của thai
phụ có HBV và biến hiểu biết đạt chung của thai phụ có HBV. Nghiên cứu ghi
nhận mối tương quan thuận tuyệt đối (r = 0,752 >75%) giữa biết về bệnh và hiểu
biết đạt của thai phụ có HBV, mối tương quan này có ý nghĩa thống kê (p=0,000),
nghĩa là tỷ lệ thai phụ có HBV biết về bệnh thì hiểu biết đạt cao gấp gần 3 lần so
với nhóm không biết về bệnh.
85
Phạm vi của nghiên cứu là chỉ tiến hành thu tuyển thai phụ đến sanh tại Bệnh
viện Từ Dũ và BVĐK Đồng Tháp nên chưa thể khái quát và đại diện một cách
chính xác cho các cộng đồng khác. Nghiên cứu cắt ngang vào một thời điểm với
bộ công cụ là bộ câu hỏi nên rất dễ mắc các sai lầm chủ quan từ thai phụ có HBV.
Do nghiên cứu thực hiện trên đối tượng là thai phụ có HBV, không tìm được
nhiều tài liệu liên quan đến đối tượng này nên gặp nhiều khó khăn trong so sánh
số liệu và phân tích bàn luận.
86
KẾT LUẬN
1. Kiến thức, thực hành về phòng, chống lây truyền vi rut viêm gan B của
thai phụ có HBV tại bệnh viên Từ Dũ TP.HCM và BVĐK Đồng Tháp.
Tỷ lệ thai phụ có HBV đạt về kiến thức phòng, chống lây truyền vi rút VGB
là 88,2%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được VGB có thể lây qua đường máu và các
dịch tiết liên quan đến máu là 80,7%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được VGB có thể lây qua quan hệ tình dục là
77,7%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được VGB có thể lây qua đường từ mẹ sang con
lúc mang thai và trong lúc sinh là 85,7%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được VGB không thể lây qua đường ăn uống là
75,2%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được VGB không thể lây qua đường hô hấp là
78,6%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được viêm gan B không thể lây qua đường ôm
ấp, bắt tay thường là 85,3%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được cách phòng, chống bệnh VGB tốt nhất là
tiêm vắc xin VGB là 87,0%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được tiêm vắc xin VGB dành cho mọi đối tượng
là 86,6%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được số mũi tiêm đủ liều ≥3 cho đối tượng nói
chung là 33,2% ,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được số mũi tiêm đủ liều ≥3 đối với trẻ dưới 12
tháng tuổi là 37,0%,
87
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được thời điểm tiêm vắc xin VGB trong vòng
24 giờ đầu sau sinh đối với trẻ dưới 12 tháng tuổi là 92,9%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV biết được thời gian bảo vệ của vắc xin VGB là trên
20 năm chiếm 8,4%,
Tỷ lệ thai phụ có HBV đã điều trị trước đó là 8,4%. Tỷ lệ người chồng của
thai phụ có HBV đã xét nghiệm VGB trong quá khứ là 32,4%,
2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành phòng chống lây
truyền vi rút viêm gan B của thai phụ có HBV tại Bệnh viện Từ Dũ
TP.HCM và BVĐK Đồng Tháp.
Trình độ học vấn là yếu tố liên quan đến điểm kiến thức của thai phụ có
HBV (p=0,002<0,05),
Nghề nghiệp là yếu tố liên quan đến điểm kiến thức của thai phụ có HBV
(p=0,026<0,05),
Kiến thức được truyền tải từ nhân viên y tế, sách báo tờ rơi và internet có
mối tương quan thuận và yếu đến hiểu biết của thai phụ có HBV, sự tương
quan này có ý nghĩa thống kê.
Không có yếu tố liên quan đến điểm thực hành của thai phụ có HBV.
Không có mối liên quan giữa kiến thức và thực hành của thai phụ có HBV.
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối tương quan giữa thực hành của thai
phụ có HBV và thực hành xét nghiệm của người chồng.
88
KHUYẾN NGHỊ
Căn cứ kết quả nghiên cứu nhằm khuyến nghị các cấp chính quyền, ban
ngành đoàn thể và nhân dân quan tâm về công tác phòng, chống lây truyền vi rút
VGB ở từ hộ gia đình, cộng đồng nhất là đối với thế hệ trẻ em trong tương lai.
1. Thực hiện nhiều chương trình giáo dục cơ bản, thông điệp truyền thông
bằng phương tiện đại chúng và Internet, giảm gánh nặng cho đội ngũ nhân
viên y tế trong việc nhận thức về tác dụng của việc tiêm phòng vắc xin VGB
trong cộng đồng nhất là với đối tượng mang thai và phụ nữ trong độ tuổi
sinh đẻ.
2. Tăng cường các chương trình xét nghiệm sàng lọc tiền thai sản đối với phụ
nữ trong độ tuổi mang thai để có hướng can thiệp kịp thời.
3. Bảo đảm độ bao phủ vắc xin cho cả người lớn và trẻ em, nhất là đối với trẻ
mới sinh được tiêm vắc xin trong vòng 24 tiếng sau sinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
Trần Thị Chính và Phan Thị Phi Phi (1993), "Một số nghiên cứu về người lành mang HBsAg", Tạp chí nội khoa, tr. 37-40. Nguyễn Đức Cường và Đỗ Quốc Tiệp (2017), "Thực trạng nhiễm vi rút Viêm gan B trong cộng đồng dân cư tỉnh Quảng Bình năm 2017", Tạp chí thông tin khoa học & công nghệ Quảng Bình. 4/2017, tr. 76-82. Nguyễn Đức Cường và các cộng sự. (2016), "Kiến thức và thái độ về phòng chống bệnh viêm gan vi rút B của nhân viên y tế tại một số bệnh viện ở tỉnh Quảng Bình năm 2012", Tạp chí y học dự phòng. XXVI(7), tr. 47. Vũ Hồng Cường (1998), "Điều tra tại thành phố Thanh Hóa về tỷ lệ HBsAg, tỷ lệ anti-HBs và hiệu lực đáp ứng miễn dịch của vắcxin viêm gan B do Việt Nam sản xuất", Luận án Tiến sỹ Y học - Hà Nội. Đỗ Tuấn Đạt (2004), "Đánh giá hiệu quả triển khai tiêm phòng vắcxin viêm gan B do Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương sản xuất dùng trong chương trình tiêm chủng mở rộng", Luận án Tiến sỹ Y học, Viện Vệ Sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội. Chu Thị Thu Hà (2006), "Nghiên cứu tỷ lệ mang các dấu ấn virus viêm gan B, khả năng lây truyền cho con ở phụ nữ có thai tại Hà Nội năm 2005- 2006 và đề xuất giải pháp can thiệp", Thông tin Y dược, tr. 12, 29-32. Chu Thị Thu Hà, Nguyễn Thu Vân và Lê Anh Tuấn (2006), "Nghiên cứu tỷ lệ mang các dấu ấn virus viêm gan B, khả năng lây truyền cho con ở phụ nữ có thai tại Hà Nội năm 2005-2006 và đề xuất giải pháp can thiệp", Thông tin Y dược, tr. 12, 29-32. Phạm Thị Thúy Hằng và cộng sự (2019), "Kiến thức, thái độ và thực hành phòng chống viêm gan B và tiêm chủng cho phụ nữ mang thai và bà mẹ ở miền bắc Việt Nam", journal.pone. Trịnh Thúy Hằng (2015), "Kiến thức, thực hành và các yếu tố liên quan đến phòng nhiễm vi rút viêm gan B ở bà mẹ có con dưới 1 tuổi tại thị trấn Mỹ Tho, Huyện Cao Lãnh, Tỉnh Đồng Tháp năm 2015", Luận văn Thạc sỹ Y Tế Công cộng.
10. Châu Hữu Hầu (1995), "Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học nhiễm virus viêm gan trong cộng đồng dân cư huyện Tân Châu, tỉnh An Giang", Luận án Phó Tiến Sỹ Y học, Học viện Quân Y, Hà Nội.
11. Bùi Hữu Hoàng (2000), Viêm gan siêu vi B từ cấu trúc siêu vi đến điều trị,
Nhà xuất bản Đà Nẵng, ed.
12. Bùi Hữu Hoàng và Định Dạ Lý Hương (2000), Viêm gan siêu vi B từ cấu
trúc siêu vi đến điều trị, Nhà xuất bản Đà Nẵng, ed.
13. Nguyễn Thị Mỹ Khánh (2018), "Kiến thức, Thực hành phòng bệnh viêm gan B nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng bệnh viên Nguyễn Đình Chiểu, Bến Tre năm 2018", Y học thực hành. 3, tr. 1091.
14. Trương Thị Xuân Liên (1994), "Tình hình nhiễm virus viêm gan C tại
thành phố Hồ Chí Minh", Luận án Phó Tiến Sỹ Y học, Hà Nội, tr. 54-87.
15. Ngô Viết Lộc (2012), "Nghiên cứu tình hình nhiễm virus viêm gan B tại
tỉnh Thừa Thiên- Huế", Luận án tiến sĩ Y học, tr. 8.
16. Phí Đức Long, Nguyễn Thị Vinh, Hà Nguyễn Văn Bàng (2009), "Nghiên cứu tình trạng nhiễm virus viêm gan B ở phụ nữ có thai tại thành phố Thái Bình và khả năng lây truyền từ mẹ sang con", Luận án tiến sĩ, Đại học Y Thái Bình, Đại học Y Hà Nội.
17. Vũ Đức Lương (2014), "Kiến thức, Thái độ và Thực hành phòng viêm gan B ở người hiến máu khu vực Hà Nội của Viện Huyết học truyền máu Trung ương năm 2014", Luận văn Thạc sỹ Y Tế Công cộng.
18. Nguyễn Tuyết Nga (1996), "Đánh giá đáp ứng miễn dịch của trẻ sơ sinh sau khi tiêm vắcxin viêm gan B theo lịch tiêm khác nhau", Luận án Phó tiến sỹ khoa học, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội.
19. Lê Thanh Quỳnh Ngân và Bùi Hữu Hoàng (2013), "Khảo sát đặc điểm nhiễm virus viêm gan B ở phụ nữ mang thai tại Bệnh Viện Nhân Dân Gia Định", Y Học TP. Hồ Chí Minh. 17(6), tr. 25-30.
20. Trịnh Thị Ngọc (2001), "Tình trạng nhiễm các virus viêm gan A, B, C, D,E ở các bệnh nhân viêm gan virus tại một số tỉnh phía Bắc Việt Nam", Luận án Tiến sỹ y học, Viện Vệ sinh dịch tễ trung ương, Hà Nội.
21. Trần Thị Tây Nguyên và Phan Văn Tường (2016), "Kiến Thức, Thái Độ, Thực Hành Và Một Số Yếu Tố Liên Quan Trong Phòng Lây Nhiễm Viêm Gan B Của Học Sinh Điều Dưỡng Trường Cao Đẳng Y Tế Phú Yên Năm 2015", Tạp chí Y tế Công cộng. 40, tr. 26.
22. Lê Đình Vĩnh Phúc (2015), "Nghiên cứu tỷ lệ và đặc điểm của nhiểm vi rút viêm gan B ở phụ nữ độ tuổi sinh đẻ từ 10 đến 35 tuổi tại trung tâm y khoa Medic thành phố Hồ Chí Minh năm 2015", Luận văn Thạc sỹ. 23. Đào Thị Mỹ Phượng và Võ Minh Tuấn (2016), "Tỷ lệ nhiễm siêu vi viêm gan B ở thai phụ và các yếu tố liên quan tại tỉnh Bình Dương năm 2014", Tạp chí phụ sản. 13(4), tr. 20-23.
24. Đinh Văn Phương và Ngô Thị Kim Phụng (2010), "Tỷ lệ lây truyền HBV từ mẹ sang con tại bệnh viện Long Thành Đồng Nai từ tháng 06/2008 đến
4/2009", Tạp chí y học TP HCM, Đại học Y Dược TP HCM. 14(2), tr. 29- 35.
25. Vũ Đình Sơn (2018), "Thực trạng kiến thức và thái độ phòng bệnh viêm gan vi rút B của người dân xã Trung Nguyên, Huyện Yên Lạc, Tỉnh Vĩnh Phúc năm 2018", Nghiên cứu khoa học. 02(01).
26. Đại học Stanford và Asian Liver Center (2016), Cẩm nang cho cán bộ Y
tế về Việm gan B, Asian Liver Center, chủ biên, tr. 4-7.
27. Nguyễn Quang Tập và Nguyễn Văn Quân (2007), "Đánh giá hiểu biết, thái độ thực hành phòng lây nhiễm virut viêm gan B của cán bộ y tế thành phố Hải Phòng", Y học thực hành. 12, tr. 26.
28. Bộ Y Tế (2015), Quyết định số 739/QĐ-BYT về việc ban hành "kế hoạch
phòng chống bệnh viêm gan vi rút giai đoạn 2015-2019, chủ biên.
29. Bộ Y Tế (2019), Quyết định số 3310/QĐ-BYT ngày 29/07/2019 về việc ban hành hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh viêm gan vi rút B, Văn bản chính phủ, chủ biên, tr. 10.
30. Hoàng Trọng Thảng (2003), "Tần suất HBsAg và anti-HCV ỏ bệnh nhân
ung thư gan nguyên phát", Y học thực hành, 1(439), tr. 90-91.
31. Hồ Thị Thình (2015), "Kiến thức, thái độ và thực hành phòng bệnh viêm gan B cho con và một số yếu tố liên quan đến thực hành của phụ nữ có con dưới 6 tháng tuổi tại huyện Khoái Chân, Hưng Yên năm 2015", Luận văn Thạc sỹ Y Tế Công cộng.
32. Ngô Thị Quỳnh Trang (2011), "Xác định tỷ lệ nhiễm vi rút viêm gan B (HBsAg) và vi rút viêm gan C (Anti HCV) trong huyết thanh học tại một xã vùng đồng bằng Bắt bộ Việt Nam năm 2011", Luận văn Thạc sỹ.
33. Bùi Xuân Trường và Nguyễn Văn Bàng (2007), "Thông báo ban đầu về tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B trên ngƣời Việt Nam có kháng nguyên bề mặt HBsAg âm tính", Tạp chí nghiên cứu Y học, 47(1), tr. 28-32.
34. Bùi Xuân Trường, Nguyễn Văn Bàng (2009), "Tỷ lệ nhiễm virus viêm gan B/C và kiểu gen của virus viêm gan B thuộc khu vực biên giới Việt- Trung huyện Bát Xát tỉnh Lào Cai", Tạp chí nghiên cứu Y học 64(5), tr. 52- 59.
35. Vũ Thị Tường Vân (1996), "Nghiên cứu tình trạng nhiễm virus viêm gan B(HBV) ở phụ nữ có thai tại Hà Nội và khả năng lây truyền của HBV từ mẹ sang con", Luận án Phó tiến sỹ khoa học Y dược, Học viện Quân Y, Hà Nội.
TIẾNG ANH 36. Enabor O. O. Adeyemi A. B., Ugwu I. A., Bello F. A., and Olayemi O. O (2013), "Knowledge of hepatitis B virus infection, access to screening and vaccination among pregnant women in Ibadan, Nigeria", Journal of Obstetrics and Gynaecology. 33(2), tr. 55–159.
37. Zuckerman AJ Andre FE (1994), "Review: Protective efficacy of
hepatitis B vaccine in neonates", J.Med.Virol. 44, tr. 144-151.
38. Lai CL But DY, Lim WL et al (2008), "Twenty-two years follow-up of a prospective randomized trial of hepatitis B vaccines without booster dose in children", Final report, Vaccine. 26(51), tr. 6587-6591.
39. Hsu HY Chang MH, Huang LM et al (1996), "The role of transplacental hepatitis B core antibody in the mother to infant transmission of hepatitis B virus", Journal of Hepatology. 24(6), tr. 674-79.
40. Li L Cui F, Hadler SC et al (2010), "Factors associated with effectiveness of the first dose of hepatitis B vaccine in China: 1992-2005", Vaccine. 26, tr. 2753-2761.
41. Grosheide PM Del Canho R, Mazel JA et al (1997), "Ten-year neonatal hepatitis B vaccination program, The Netherlands, 1982-1992: protective efficacy and long-term immunogenicity", Vaccine. 15, tr. 1624-1630. 42. Zhou X Deng M, Gao S et al (2012), "The effects of telbividine in late pregnacy intrauterine transmission of the hepatitis B virus: a systematic review and meta-analysis", Virology Journal. 9, tr. 185.
43. Nguyen PH Duong TH, Henley K, Peters M (2009), "Risk factors for hepatitis B infection in rural Vietnam", Asian Pac J Cancer Prev. 10(1), tr. 97-102.
44. Cindy M. Weinbaum Eric E. Mast, Anthony E. Fiore, Miriam J. Alter, Beth P. Bell, Lyn Finelli, et al (2006), "A Comprehensive Immunization Strategy to Eliminate Transmission of Hepatitis B Virus Infection in the United States", CDC preview.
45. Mahoney FJ (1999), "Update on diagnosis, management, and prevention of hepatitis B virus infection", Clinical Microbiology Reviews. 12(2), tr. 351-366.
46. Zhang HW Han L, Xie JX et al (2011), "A meta-analysis of lamivudine for interruption of mother-to-child transmission of hepatitis B virus", World J Gastroenterol. 14(38), tr. 4321-4333.
47. Lu CF Hsu HM, Lee SC et al (1999), "Seroepidemiological serosurvey for hepatitis B virus infection in Taiwan: the effect of hepatitis B mass immunization", J. Infect. Dis. 179(2), tr. 369-370.
48. Cheung R Hwang EW (2011), "Global Epidemiology of Hepatitis B virus (HBV) Infection", North American Journal of Medicine of Science. 4(1), tr. 7-13.
49. European consensus group on hepatitis B immunity (2000), "Are booster immunizations needed for lifelong hepatitis B immunity?", Lancet. 355, tr. 561-565.
50. Chen DS Kao HJ (2008), "Critical analysis of the immune tolerance phase of chronic HBV infection: natural history and diagnosis", Current hepatitis reports. 1, tr. 5-11.
51. Gong Y Lee C, Brok J, Boxall EH, Gludd C (2006), "Effect of heapatitis B immunisation in newborn infants of mothers positive for hepatitis B surface antigen: systematic review and meta-analysis", BMJ. 332(7537), tr. 328-336.
52. Yang YB Li XM, Hou HY et al (2003), "Interruption of HBV intrauterine
transmission: A clinical study", World J Gastroenterol. 9, tr. 1501-1503.
53. Bi S Liang X, Yang W (2009), "Epidemiological serosurvey of hepatitis B in China - declining HBV prevalence due to hepatitis B vaccination", Vaccine. 27(47), tr. 6550-6557.
54. Tomm PM Marion SA, Pi DW et al (1994), "Long term follow-up of hepatitis B vaccine in infans of carrier mothers", Am J Epidemiol. 140, tr. 746-746.
55. Browej N.H (2010), "Hepatitis B therapy in pregnancy", Curr Hepatitis Re.
9, tr. 197-204.
56. Azumi Ishizaki Nguyen CH (2011), "Prevalence of HBV infection among different HIV-risk groups in Hai Phong, Viet Nam", Journal of Medical Virology 83(3), tr. 399-404.
57. McLaws M. L. Nguyen V. T., Dore G. J. (2007), "Highly endemic hepatitis B infection in rural Vietnam", Journal of gastroenterology and hepatology.
58. Yen-Hsuan Ni (2011), "Natural history of hepatitis B virus infection: pediatric perspective", Journal of gastroenterology and hepatology. 46, tr. 1-8.
59. Chung YH Park NH, Lee HS (2010), "Impacts of vaccination on hepatitis B viral infection in Korea over a 25- year period", Intervirology. 53(1), tr. 20-28.
60. Centers for Diseases Control and Prevention (2002), "General
recommendation on immunization", MMWR. 51, tr. 1-36.
61. Centers for Diseases Control and Prevention (2005), "A comprehensive immunization strategy to eliminate transmission of hepatitis B virus infection in the United States", MMWR. 54, tr. 13.
62. Centers for Diseases Control and Prevention (2006), "Implementation of newborn hepatitis B vaccination- Worldwide", MMWR, Morb Mortal Weekly Rep. 57(46), tr. 1249-1252.
63. Paladini S Romanò L, Zanetti AR (2012), "Twenty years of universal vaccination against hepatitis B in Italy: achievements and chellenges", Journal of Public Health Research. 3, tr. 18.
64. M. Kumar S. K. Sarin, G. K. Lau (2016), "Asian-Pacific clinical practice guidelines on the management of hepatitis B: a 2015", Hepatol Int, tr. 1-19. 65. Stroffolini T Sagnelli E, Mele A et al (2008), "Italian hospitals’ Collaborating Group. Chronic hepatitis B in Italy: new features of an old disease- approaching the universal prevalence of hepatitis B and antigen- negative cases and eradication of hepatitis D infection", Clin. Infect. Dis. 46, tr. 111-113.
66. Murphy TV Schillie SF (2013), "Seroprotection after recombinant hepatitis B vaccination among newborn infants", A review, Vaccine. 31(21), tr. 2506-2016.
67. Plitt SS Singh AE, Osiowy C et al (2011), "Factos associated with vaccine failure and vertical transmission of hepatitis B among a cohort of Canadian mothers and infants", Journal of Viral hepatitis. 18(7), tr. 468-473. 68. Sung J Song YM, Yang S et al (2007), "Factors associated with immunoprophylaxis failure against vertical transmission of hepatitis B virus", Eur. J. Pediatr. 166, tr. 813-818.
69. Getu Girmay Teklay Gebrecherkos, Mulualem Lemma and Markos Negash (2020), "Knowledge, Attitude, and Practice towards Hepatitis B Virus among Pregnant Women Attending Antenatal Care at the University of Gondar Comprehensive Specialized Hospital, Northwest Ethiopia", International Journal of Hepatology.
70. Tran TT (2009), "Management of hepatitis B in pregnancy: Weighing the
options", Cleveland clinic journal of medicine. 7(3), tr. 25-29.
71. WHO (1992), "Expanded Programme on Immunization," Global Advisory
Group- Part I", Weekly Epidemiological Record. 67, tr. 11-15.
72. WHO (2001), "Introduction of hepatitis B vaccine into childhood
immunization services", WHO/V&B/01, tr. 31.
73. WHO (2002), WHO/CDS/CSRL/LYO/2002:Hepatitis B, chủ biên, tr. 6. 74. WHO (2009), "Review of Expanded Program of Immunization Vietnam
2009".
75. WHO (2017), Hepatitis B vaccines, WHO, chủ biên. 76. Li AZ Xiao XM, Chen X et al (2007), "Prevention of vertical hepatitis B transmission by hepatitis B immunoglobulin in the third trimester of pregnancy", Int. J. Gynaecol. Obstet. 96(3), tr. 167-170.
77. Xiao L Xu Q, Lu XB et al (2006), "A randomized controlled clinical trial: interruption of intrauterine transmission of hepatitis B virus infection with HBIg", World. J. Gastroenterol. 12(21), tr. 3434-3437.
78. Cui YT Xu WM, Wang L et al (2009), "Lamivudine in late pregnancy to prevent perinatal transmission of hepatits B virus infection: A multicentre, randomized double-blind, placebo-controlled study", J. Viral. Hepat. 16, tr. 94-103.
79. Oi KaChanTerence T.LaoStephen S.H.SuenTze KinLauTak YeungLeung (2011), "Knowledge on hepatitis B infection among pregnant women in a high endemicity area", Patient Education and Counseling. 85(3), tr. 516-520.
80. Gooch W.M Young M.D, Zuckerman A.J et al (2001), "Comparison of a triple antigen and single antigen recombinant vaccine for adult hepatitis B vaccination", J.Med.Virol. 64, tr. 290-298.
81. Lin J Yuan J, Xu A et al (2006), "Antepartum immunoprophylaxis of three doses of hepatitis B immunoglobulin is not effective: a single-centre randomized study", J.Viral. Hepatol. 13(9), tr. 597-604.
82. Yuzhu Yin Zhenyan Han, Yuan Zhang, Stephan Ehrhardt, Chloe L. Thio, Kenrad E. Nelson, Xiaoyi Bai, Hongying Hou (2017), "Knowledge of and attitudes towards hepatitis B and its transmission from mother to child among pregnant women in Guangdong Province, China", PloS one.
83. Chen Y Zou H, Duan Z, Zhang H (2011), "Protective effective of hepatitis B vaccine combined with two-dose hepatitis B immunoglobuline on infants born to HBsAg-positive mothers", PloS One. 6(10), tr. 26748.