......../.......

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐINH QUANG THÀNH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH

CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP - TỪ THỰC TIỄN

CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

......../.......

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

ĐINH QUANG THÀNH

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH

CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP - TỪ THỰC TIỄN

CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ CÚC THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Công trình luận văn tốt nghiệp này do tôi trực tiếp nghiên cứu, thực

hiện và thể hiện quan điểm cá nhân tôi trên cơ sở nghiên cứu khoa học trung

thực. Những thông tin, tài liệu và số liệu trong luận văn này của tôi là chính

xác, trung thực.

Tôi cũng cam kết và đảm bảo các nội dung trình bày trong luận văn,

các kết quả nghiên cứu, kết luận khoa học trong luận văn này không trùng lắp

với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã công bố trước đây.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018

Học viên

Đinh Quang Thành

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện luận văn , tôi luôn luôn nhận được sự động

viên, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.

Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Trần Thị Cúc, người đã

trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn

này.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Quý lãnh đạo Học viện Hành chính

Quốc gia, các Khoa, Phòng cũng như các thầy cô giáo đã tham gia quản lý,

giảng dạy và gia đình đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học

tập và nghiên cứu, trong việc thu thập số liệu, thông tin cần thiết phục vụ thực

hiện luận văn tốt nghiệp.

Cuối cùng xin chân thành cảm ơn các bạn học viên lớp Cao học Luật

Hành chính - Luật Hiến pháp LH3.T2 đã cùng tôi chia sẽ kiến thức và kinh

nghiệm trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.

Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã hết sức cố gắng trong

việc tiếp thu, trau dồi những kiến thức đóng góp của Quý thầy, cô giáo và bạn

bè, đã tham khảo thông tin từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, song khó tránh

khỏi thiếu sót, rất mong nhận được thông tin góp ý của Quý thầy, cô và bạn

đọc.

Xin chân thành cảm ơn!./.

Học viên

Đinh Quang Thành

MỤC LỤC

Trang bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục viết tắt

Danh mục các bảng biểu

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP

HÀNH VIÊN TRUNG CẤP THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .............................. 9

1.1. Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự ........................................... 9

1.1.1 Quan niệm, lịch sử hình thành Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân

sự ................................................................................................................... 9

1.1.2. Đặc điểm của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự ................ 18

1.1.3. Bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân

sự ................................................................................................................. 19

1.2. Dịa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong thi hành án

dân sự ........................................................................................................... 23

1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp . 23

1.2.2. Cấu thành địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp .... 24

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên

trung cấp ...................................................................................................... 27

1.3.1. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành

viên trung cấp ............................................................................................... 27

1.3.2. Chất lượng của Bản án, quyết định của Toà án .................................. 28

1.3.3. Tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự ....................................... 28

1.3.4. Năng lực của Chấp hành viên trung cấp .............................................. 29

1.3.5. Ý thức pháp luật trong xã hội ............................................................. 29

1.3.6. Một số yếu tố khác: ............................................................................ 30

Tóm tắt Chương 1 ........................................................................................ 32

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH CỦA

CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP TRONG CÁC CƠ QUAN THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH .............................................. 33

2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình

tác động đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp ......... 33

2.1.2. Điều kiện tự nhiên .............................................................................. 33

2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội ................................................................... 34

2.1.4. Về văn hóa - xã hội: ............................................................................ 36

2.1.5. Về quốc phòng - an ninh ..................................................................... 37

2.2. Tổng quan tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình .................................................................................................. 38

2.2.1. Cơ cấu tổ chức .................................................................................... 38

2.2.2. Tình hình đội ngũ Chấp hành viên trung cấp trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình ............................................................................................................. 41

2.2.3. Kết quả công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình từ năm 2012

đến năm 2017 ............................................................................................... 43

2.3. Thực tế địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong

các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình ......................................... 50

2.3.1. Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong việc thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung của chấp hành viên và nhiệm vụ, quyền hạn

riêng của Chấp hành viên trung cấp .............................................................. 50

2.3.2. Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong việc thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự: ....... 60

2.4. Đánh giá địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình ................................................................... 82

2.4.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân ....................................................... 82

2.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân ............................................. 85

Tóm tắt chương 2 ......................................................................................... 88

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP

LÝ HÀNH CHÍNH CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP TRONG

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ........................................................................... 89

3.1. Phương hướng nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên

trung cấp trong thi hành án dân sự ................................................................ 89

3.1.1. Cần bảo đảm tính độc lập của Chấp hành viên trung cấp .................... 89

3.1.2. Cần phân định rõ hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của Chấp hành viên

trung cấp ...................................................................................................... 92

3.1.3. Tăng quyền hạn cho Chấp hành viên trung cấp và Thủ trưởng cơ quan

Thi hành án dân sự cấp tỉnh .......................................................................... 92

3.1.4. Nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp đồng

bộ với cải cách tư pháp, cải cách hành chính ................................................ 94

3.2. Giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên

trung cấp thi hành án dân sự ......................................................................... 94

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ............................ 94

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự .................. 96

3.2.3. Nâng cao năng lực thực thi công vụ của Chấp hành viên trung cấp .... 97

3.2.4. Kiểm soát tốt hoạt động của Chấp hành viên trung cấp ....................... 98

3.2.5. Nâng cao ý thức pháp luật cho các bên liên quan .............................. 100

KẾT LUẬN ............................................................................................... 102

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC VIẾT TẮT

THADS Thi hành án dân sự

TNHH Trách nhiệm hữu hạn

UBND Ủy ban nhân dân

XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Số lượng Chấp hành viên trung cấp tính đến ngày 30/9/2017 ....... 42

Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về việc của cơ quan thi hành án tỉnh

Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017 ...................................................... 44

Bảng 2.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền của cơ quan thi hành án tỉnh

Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017 ...................................................... 45

Bảng 2.4. Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017: ................... 72

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Công tác thi hành án dân sự có thể coi là khâu, là công đoạn cuối cùng

để buộc một hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức phải chịu trách

nhiệm và thực hiện trách nhiệm về dân sự theo các nội dung phán quyết đã có

hiệu lực pháp luật của cơ quan tố tụng. Hay nói cách khác, thi hành án dân sự

là việc tổ chức thực thi trên thực tế các quyền, nghĩa vụ về phần dân sự như

thanh toán tiền, xử lý tài sản, xử lý vật chứng, thực hiện các công việc, các

hành vi và các nghĩa vụ khác của các chủ thể được quy định trong các bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Trong thi hành án dân sự, Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên

trung cấp nói riêng là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các

bản án, quyết định theo quy định của pháp luật; đồng thời, Chấp hành viên

trung cấp là người có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khá lớn, có vai trò

quan trọng trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị nói

riêng và của Hệ thống cơ quan Thi hành án dân sự nói chung, là những nhân

tố tích cực, quan trọng góp phần đưa hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự

hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao.

Thực trạng công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình trong

những năm qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại

như số vụ việc không có điều kiện thi hành tồn đọng qua các năm ngày càng

gia tăng, hiện tượng tiêu cực, vô tâm, tắc trách, vi phạm những nghĩa vụ hoặc

lạm dụng những quyền hạn theo quy định của pháp luật còn nhiều. Mặt khác,

hành lang pháp lý cho Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp

nói riêng thực hiện nhiệm vụ chưa đầy đủ. Chẳng hạn, muốn tổ chức cưỡng

chế thi hành án phải có lực lượng công an bảo vệ những người tham gia công

1

tác cưỡng chế, nếu cơ quan công an không phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo

vệ sự an toàn về người và tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự cũng không

thể tổ chức cưỡng chế thi hành án…Việc tổ chức thi hành các bản án, quyết

định của Chấp hành viên trung cấp nói riêng và của cơ quan thi hành án dân

sự nói chung còn phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp của các ngành, các cấp có

liên quan như chính quyền địa phương và một số cơ quan chuyên môn

khác….Đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu

quả hoạt động của công tác thi hành án dân sự và địa vị pháp lý hành chính

của Chấp hành viên trung cấp.

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 ra đời đã đánh dấu bước phát triển

vượt bậc trong công tác thi hành án dân sự, đó là tạo ra một nền tảng hành

lang pháp lý cơ bản nhất, phù hợp, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm

2014 được ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2015 đã hoàn thiện hơn về

nhiều mặt của thể chế pháp lý đối với công tác thi hành án dân sự.

Sau hơn sáu năm thực hiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và hơn

02 năm thực hiện những nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật Thi hành án dân

sự, văn bản luật này đã đạt được nhiều kết quả tích cực, thể hiện ở những

điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, Luật Thi hành án dân sự được ban hành và các văn bản dưới

luật như nghị định, thông tư, quyết định... được ban hành nhằm cụ thể hóa, đi

vào đời sống xã hội làm thành một chỉnh thể hệ thống pháp luật điều chỉnh

các mối quan hệ pháp luật, các trình tự, thủ tục, cơ cấu tổ chức, nhân sự của

hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự để đưa các bản án, quyết định dân sự,

hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật

chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự,

bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết

2

phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh

tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định

của Trọng tài thương mại, ra tổ chức thi hành trên thực tế, đảm bảo quyền và

lợi ích hợp pháp của nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

Thứ hai, Luật thi hành án dân sự và các nghị định, thông tư và các văn

bản dưới luật khác quy định về thi hành án dân sự hiện hành đã quy định một

cách đầy đủ, rõ ràng, trao quyền, gắn trách nhiệm, nâng cao rõ rệt địa vị pháp

lý, vị trí, vai trò, tầm quan trọng của các chức danh của những công chức làm

công tác thi hành án dân sự, trong đó có chức danh Chấp hành viên trung cấp,

đối tượng được nghiên cứu trong luận văn này.

Mặc dù vậy, nhìn dưới góc độ một người nghiên cứu và lựa chọn đề tài

về địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp, Luật Thi hành án

dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 vẫn còn tồn tại một số bất

cập nổi bật như sau:

Một là, hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành còn có sự

cắt khúc, tách rời, thiếu đồng bộ và thiếu mối quan hệ nhân quả giữa hoạt

động xét xử với hoạt động thi hành án, dẫn đến một số mặt hiệu quả phối hợp,

hiệu quả, hiệu lực trong việc tổ chức đưa bản án, quyết định ra thi hành còn

chưa thực sự tương xứng với vai trò, tầm quan trọng của hoạt động này.

Hai là, trong Luật Thi hành án dân sự hiện hành, chỉ quy định về Chấp

hành viên trung cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung của Chấp hành

viên chứ không quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn riêng của Chấp hành

viên trung cấp.

Vì những bất cập, tồn tại nêu trên, tác giả chọn đề tài “Địa vị pháp lý

hành chính của Chấp hành viên trung cấp – Từ thực tiễn các cơ quan Thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình” để nghiên cứu làm rõ về vị trí, tầm quan

trọng, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trên phương

3

diện lý luận và trên thực tế công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình,

từ đó mong muốn sẽ góp phần đề xuất các giải pháp, phương hướng nhằm

nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp nói chung

và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát, tìm hiểu và rà soát các đề tài, công

trình nghiên cứu khoa học liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự và liên

quan đến vai trò, tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự,

các chức danh trong tổ chức thi hành án dân sự, có các công trình sau:

a) Đề tài nghiên cứu khoa học

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Đề án kiện toàn mô hình tổ chức

và đội ngũ cán bộ thi hành án để thực hiện có hiệu quả Luật Thi hành án dân

sự năm 2008”, mã số 2010-8219 do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, nguyên

Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự làm chủ nhiệm đề tài;

- Đề án cấp Bộ: “Khảo sát khoa học về quy trình, thủ tục thi hành các

bản án có tài sản thi hành là bất động sản và các giải pháp nhằm đảm bảo tính

thống nhất cho các quy trình này” do bà Đinh Thị Mai Phương làm chủ nhiệm

theo Quyết định số 2678/QĐ-BTP ngày 09/11/2010 của Bộ trưởng Bộ Tư

pháp.

b) Luận án Tiến sĩ Luật học

- Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật Thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện

nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm 2008;

- Đề tài: “Hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam”,

Luận án Tiến sỹ Luật học tại Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí

Minh của tác giả Đặng Đình Quyền, năm 2012.

c) Luận văn Thạc sĩ Luật học

4

- Đề tài: “Đổi mới tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Luận văn

thạc sỹ Luật học tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả

Nguyễn Quang Thái, năm 2003.

- Đề tài: “Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành

án dân sự ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thị Phíp, năm 2009;

- Đề tài: “Áp dụng pháp luật thi hành án dân sự của cơ quan Thi hành

án ở thành phố Hà Nội hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Hoàng

Giang, năm 2010;

- Đề tài: “Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở thành phố Hà

Nội hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thị Kim Tuyến, năm 2010;

- Đề tài: “Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự”, Luận văn Thạc sĩ

Luật tại Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật, mã số: 60.38.30 của tác giả

Phan Huy Hiếu, năm 2012;

- Đề tài: “Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh

Bắc Giang”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thành Bắc năm 2013;

- Đề tài: “Xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh

Thanh Hóa”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ

Chí Minh, Hà Nội của tác giả Nguyễn Xuân Thái năm 2016;

- Đề tài: “Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự từ thực

tiễn thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Luật tại Học viện khoa học xã hội,

mã số: Mã số: 60.38.01.02 của tác giả Nguyễn Hồng Nhung, năm 2016.

Ngoài ra, còn có các tài liệu tham khảo khác như: Giáo trình Kỹ năng

Thi hành án dân sự (phần chung và phần nghiệp vụ) và Tài liệu bồi dưỡng

5

ngạch Chấp hành viên trung cấp của Học viện Tư pháp; Sổ tay nghiệp vụ thi

hành án dân sự - Tổng cục Thi hành án dân sự….

Các đề tài kể trên, nghiên cứu các khía cạnh khác nhau về thi hành án

dân sự, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về địa vị pháp lý hành chính

của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự từ thực tiễn tại tỉnh Quảng

Bình.

Do đó, đề tài “Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp

– Từ thực tiễn các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình” là một đề tài

khoa học độc lập, không có sự trùng lắp với các đề tài đã được nghiên cứu,

công bố trước đó. Tuy nhiên, đề tài mà tác giả nghiên cứu vẫn mang tính thời

sự, tính thực tế và kết quả nghiên cứu có thể được ứng dụng nhằm giải quyết

các vấn đề thực tiễn đặt ra trong thi hành án dân sự tại Quảng Bình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là:

Thứ nhất, Phân tích thực trạng địa vị pháp lý hành chính của Chấp

hành viên trung cấp từ thực tiễn công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng

Bình, đánh giá kết quả đạt được, nêu ra những tồn tại, bất cập khi thực hiện

quyền hạn, chức trách của chấp hành viên trung cấp tại các cơ quan thi hành

án dân sự tỉnh Quảng Bình.

Thứ hai, tìm ra các nguyên nhân của tồn tại và bất cập để đưa ra các

đề xuất mang tính khoa học nhằm nâng cao địa vị pháp lý hành chính của

Chấp hành viên trung cấp các cơ quan thi hành án dân sự.

3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên, luận văn này sẽ thực hiện các nhiệm vụ

sau:

- Nghiên cứu, phân tích sâu hơn, làm rõ về cơ sở lý luận về địa vị

6

pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp;

- Nghiên cứu, phản ánh thực trạng địa vị pháp lý hành chính của Chấp

hành viên trung cấp từ thực tiễn công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng

Bình;

- Đề xuất, kiến nghị một số nội dung, quan điểm nhằm nâng cao địa vị

pháp lý hành chính, hiệu quả hoạt động của Chấp hành viên trung cấp nói

chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Công trình sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, cơ sở khoa

học, các quy định của pháp luật và thực tiễn về địa vị pháp lý hành chính của

Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tập trung nghiên cứu vị trí, vai

trò, thẩm quyền, phạm vi hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Chấp hành

viên trung cấp thi hành án dân sự trong các cơ quan Thi hành án dân sự trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình gồm: Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình và

08 Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thành phố, thị xã trực thuộc,

không đề cập đến hoạt động của Chấp hành viên trung cấp tại cơ quan thi

hành án dân sự thuộc Bộ Quốc phòng và Phòng thi hành án dân sự quân khu.

Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Từ năm 2012 – 2017.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận để thực hiện đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện

chứng, duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm:

- Phương pháp tổng hợp các luận điểm khoa học, phân tích, so sánh

các luận điểm khoa học, các căn cứ pháp lý…Phương pháp này được áp

dụng trong phần cơ sở lý luận tại Chương 1 của luận văn.

7

- Phương pháp thống kê, phân tích, khảo sát thực tế, so sánh được sử

dụng cho những nội dung nêu tại Chương 2 của luận văn.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp và quy nạp áp dụng tại Chương 3

của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Trước hết, việc thực hiện đề tài này sẽ góp phần phân tích sâu hơn về

địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự ở

các khía cạnh cơ bản như khái niệm, quan niệm về địa vị pháp lý hành chính

của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự, nội dung cơ bản địa vị

pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp.

Mặt khác, về mặt thực tiễn, đề tài này này hướng tới mục đích vận

dụng vào thực tiễn để nâng cao hơn nữa địa vị pháp lý hành chính, hiệu quả

công tác của Chấp hành viên trung cấp tại các cơ quan thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Bình nói riêng và trong hệ thống thi hành án dân sự nói chung.

Luận văn này sẽ là một tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,

học tập, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ công chức ngành thi hành

án dân sự nói chung và các Chấp hành viên trung cấp nói riêng.

7. Cơ cấu của luận văn

Chương 1: Cơ sở Lý luận địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên

trung cấp thi hành án dân sự.

Chương 2: Thực trạng địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên

trung cấp trong các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao địa vị pháp lý hành

chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự.

8

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ

CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự

1.1.1 Quan niệm, lịch sử hình thành Chấp hành viên trung cấp thi hành án

dân sự

1.1.1.1. Quan niệm về Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự

Theo quy định mới của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 thì khái

niệm công chức được hiểu là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ

nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản

Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp

huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ

quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan,

đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan

chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp

công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã

hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và

hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh

đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ

lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Dựa vào

những quy định trên cho thấy, Chấp hành viên trung cấp trước hết là

công chức Nhà nước.

Trong mỗi cơ quan khác nhau thì có những chức danh khác nhau để

thực thi nhiệm vụ của cơ quan đó. Chẳng hạn, đối với cơ quan Tòa án thì

người thực hiện chức năng xét xử là Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung

cấp, Thẩm phán cao cấp hay đối với cơ quan Viện kiểm sát thì người thực

9

hiện chức năng công tố là Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp,

Kiểm sát viên cao cấp...Tại các Cơ quan thi hành án dân sự đều có các cán

bộ làm nhiệm vụ thi hành án và các cán bộ làm các nhiệm vụ khác liên

quan đến việc thi hành án, như thủ quỹ, kế toán, thủ kho... Nhưng người có

nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của

Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định được gọi là Chấp

hành viên và theo quy định tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì: “Chấp hành viên là người được Nhà

nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều

2 của Luật này. Chấp hành viên có ba ngạch: Chấp hành viên sơ cấp, Chấp

hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp”[29].

Hướng dẫn thực hiện Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung

năm 2014, Khoản 1 Điều 6 Thông tư 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của

Bộ Tư pháp Quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các

ngạch công chức chuyên ngành thi hành án dân sự thì: “Chấp hành viên

trung cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành án dân sự, thi hành

án hành chính, trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi hành các vụ việc thi

hành án dân sự, thi hành án hành chính phức tạp, số tiền, tài sản phải thi

hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương thuộc thẩm

quyền của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự".

Như vậy, theo tác giả Chấp hành viên trung cấp trước hết là công

chức Nhà nước, được bổ nhiệm theo những tiêu chuẩn do pháp luật quy

định, công tác tại các cơ quan Thi hành án dân sự ở cấp tỉnh, cấp huyện,

được pháp luật quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn nhằm thực hiện những

mục tiêu mà Nhà nước đặt ra. Theo đó, chấp hành viên trung cấp sẽ nhân

danh Nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước để tổ chức thi hành các bản

án, quyết định của Tòa án. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, chấp hành

10

viên trung cấp chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và

được pháp luật bảo vệ.

1.1.1.2. Khái quát lịch sử hình thành Chấp hành viên trung cấp

Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 10/10/1945

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 47, với 6 chương, gồm 12

điều, trong đó quy định nguyên tắc: “Cho đến khi ban hành những bộ luật

pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc,

Trung và Nam vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không

trái với những điều thay đổi ấn định trong sắc lệnh này”, chỉ thi hành khi nào

không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà.

Tại Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp "Về việc

thi hành án Hình và án Hộ" quy định cụ thể những nguyên tắc chấp hành, thể

thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Thông

tư xác định trách nhiệm thi hành án của Thừa phát lại, Ban Tư pháp xã và

nhấn mạnh vai trò của ủy ban nhân dân cấp xã và các cơ quan liên quan trong

việc hỗ trợ thi hành án. Ở nước ta giai đoạn này tồn tại dưới hai hình thức là

Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã.

Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về "Cải

cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng". Sắc lệnh có 4 chương với 20 điều. Tại

Điều 19 Sắc lệnh quy định "Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý

có nhiệm vụ đem chấp hành các án Hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn

và các án Hộ mà chính Tòa án huyện và Tòa án trên đã tuyên. Việc phát mãi

bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do Tòa án huyện phụ trách.

Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác ở nhiều huyện khác nhau thì

Biện lý sẽ chỉ định một Thẩm phán huyện để việc phát mãi đó vừa có lợi cho

chủ nợ lẫn người mắc nợ". Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do

Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng

11

Thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án.

Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm

1960 quy định tại Điều 24: “Tại các Toà án nhân dân địa phương có nhân

viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự,

những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình

sự” thì việc thi hành án dân sự do nhân viên chấp hành án thực hiện theo thủ

tục do pháp luật quy định. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên chấp

hành án được xác định rõ trong luật tổ chức Tòa án nhân dân đã tạo cơ sở

pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự.

Ngày 13/10/1972, Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra Quyết định số

186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên; cùng ngày này,

Toà án nhân dân tối cao cũng ban hành Thông tư số 187-TC hướng dẫn thi

hành Quyết định số 186-TC nêu trên, tên gọi “Chấp hành viên” được ra đời

thay cho “nhân viên chấp hành án” để làm nhiệm vụ thi hành án dân sự. Chấp

hành viên được đặt tại Toà án, dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Chánh án

Toà án. Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định về

dân sự, những khoản xử phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường, hoàn trả lại tài

sản trong các bản án, quyết định hình sự; giúp Chánh án Tòa án nhân dân đôn

đốc, kiểm tra công tác thi hành án tại các Tòa án nhân dân cấp dưới. Chấp

hành viên thực hiện nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân

nơi mình công tác.

Như vậy, chức danh Chấp hành viên ra đời từ năm 1972 và trở thành

chức danh tư pháp độc lập với chức danh thẩm phán, được biên chế trong các

Toà án nhân dân địa phương, có nhiệm vụ chuyên trách thi hành các bản án,

quyết định của toà án dưới sự chỉ đạo của chánh án.

Bước ngoặt quan trọng, có tác động mạnh mẽ trong xây dựng, phát

triển đội ngũ cán bộ chấp hành viên được đánh dấu bởi sự ra đời của Hiến

12

pháp năm 1980 - Hiến pháp của thời kỳ cả nước hoà bình, thống nhất, độc

lập, quá độ lên CNXH. Nhằm cụ thể hoá Hiến pháp mới, ngày 03/7/1981,

Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức toà án nhân dân thay thế Luật năm 1960.

Điều 16 của Luật đã giao cho Bộ Tư pháp đảm nhiệm quản lý Tòa án nhân

dân địa phương và công tác thi hành án dân sự.

Đến năm 1989, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án

dân sự đầu tiên, đánh dấu bước chuyển biến căn bản trong tổ chức và hoạt

động thi hành án dân sự, đặt cơ sở pháp luật cho công tác xây dựng, phát triển

đội ngũ cán bộ chấp hành viên thời kỳ đổi mới.

Trên cơ sở Pháp lệnh, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ra

Nghị định số 68/HĐBT ngày 06/3/1990, ban hành Quy chế chấp hành viên,

quy định chỉ có chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi

hành các bản án, quyết định của toà án. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định số

lượng biên chế chấp hành viên cho từng địa phương. Việc bổ nhiệm, miễn

nhiệm, cách chức chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo

đề nghị của chánh án Toà án nhân dân các địa phương.

Theo Quy chế chấp hành viên, ở Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án nhân

dân huyện có chấp hành viên trưởng và các chấp hành viên. Chánh án các toà

án này có quyền ra các quyết định thi hành án; chấp hành viên trưởng, chấp

hành viên có quyền ra các quyết định cưỡng chế, thực hiện cơ chế kết hợp

quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động thi hành án của cơ quan thi

hành án và chấp hành viên.

Thực tế cho thấy, tuy Bộ Tư pháp được giao chức năng quản lý nhà

nước công tác thi hành án, song đội ngũ chấp hành viên vẫn thuộc biên chế

của các toà án; chánh án là người trực tiếp chỉ đạo về nghiệp vụ, mọi quyết

định quan trọng trong thi hành án đều do chánh án quyết định. Chấp hành

viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định

13

của toà án nhưng thực tế chỉ là người thừa hành sự chỉ đạo của chánh án mà

không có quyền năng thực sự để đảm bảo thực thi nhiệm vụ của mình. Công

tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, tuyển dụng và các chính sách,

chế độ đối với đội ngũ cán bộ chấp hành viên chưa được quan tâm đúng mức,

lại thường xuyên bị xáo trộn, vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng;

tình trạng tồn đọng án dân sự chưa được thi hành không được khắc phục, trở

thành mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Trong bối cảnh đó, Quốc hội khoá IX đã ra Nghị quyết thực hiện việc

chuyển công tác thi hành án dân sự từ Toà án sang Chính phủ. Để thực hiện

Nghị quyết của Quốc hội, ngày 21/4/1993, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

(khoá IX) đã thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự (sửa đổi), có hiệu lực từ

ngày 01/6/1993 (Pháp lệnh năm 1993). Trên cơ sở Pháp lệnh năm 1993, hệ

thống các cơ quan Thi hành án dân sự đã được xây dựng trong cả nước; đội

ngũ chấp hành viên đã được quy hoạch, kiện toàn, do Chính phủ thống nhất

quản lý; chấp hành viên trở thành một chức danh tư pháp độc lập, có địa vị

pháp lý rõ ràng, theo nguyên tắc: chỉ có chấp hành viên cơ quan thi hành án

dân sự mới có thẩm quyền tổ chức việc thi hành án dân sự.

Đến pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì ngạch Chấp hành viên

gồm có Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp hành viên cấp huyện và được bổ

nhiệm theo nhiệm kỳ là 05 năm. Tuy nhiên, việc quy định ngạch bậc của

Chấp hành viên theo hai cấp đã phát sinh nhiều bất cập trong việc sắp xếp,

điều động, luân chuyển Chấp hành viên giữa các cơ quan thi hành án dân sự

trong phạm vi toàn quốc, không thu hút được cán bộ về công tác ở cơ quan thi

hành án dân sự và cũng chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.

Để khắc phục tình trạng trên, bảo đảm sự công bằng giữa công sức mà

các Chấp hành viên bỏ ra với tính chất, yêu cầu công việc của họ thì Luật Thi

hành án dân sự năm 2008 và Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm

14

2014 (Điều 17) đã quy định chấp hành viên có ba ngạch: sơ cấp, trung cấp và

cao cấp dựa trên tiêu chuẩn về chuyên môn, trình độ, năng lực, nghiệp vụ,

thâm niên, kinh nghiệm công tác mà không phụ thuộc vào đơn vị công tác (cơ

quan thi hành án cấp huyện hay cơ quan thi hành án cấp tỉnh), thời hạn bổ

nhiệm Chấp hành viên là không kì hạn. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành

viên phải được đảm bảo để thi hành được đúng, kịp thời nội dung bản án,

quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Có thể nói, Luật Thi hành án

dân sự năm 2008 đã đánh dấu một bước ngoặt lớn về kiện toàn của hệ thống

các cơ quan thi hành án dân sự, các chức danh thi hành án dân sự, trong đó có

chức danh Chấp hành viên trung cấp, đây là một bước tiến quan trọng trong

việc hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và trong cả những

nội dung sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 64/2014/QH13 ngày 25/11/2014 của

Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, có hiệu

lực kể từ ngày 01/7/2015, không có điều khoản riêng nào quy định chức trách,

nhiệm vụ, quyền hạn riêng của Chấp hành viên trung cấp. Mà chức danh

Chấp hành viên trung cấp được quy định tại Thông tư 10/2010/TT-BNV ngày

28/10/2010 của Bộ trưởng Bộ Nội; Quyết định số 01/2007/QĐ-BNV ngày

17/01/ 2007 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, hiện nay được thay thế bằng Thông tư

03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số

ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án

dân sự.

1.1.1.3. Một số quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án dân sự

và Chấp hành viên trung cấp

Luật Thi hành án dân sự hiện hành không quy định chức trách, nhiệm

vụ, quyền hạn riêng của từng ngạch Chấp hành viên mà chỉ quy định, nhiệm

vụ, quyền hạn chung của Chấp hành viên. Do vậy, Chấp hành viên trung cấp

15

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 20 của Luật Thi hành

án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, gồm: Kịp thời tổ chức thi hành vụ

việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; Thi

hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp

luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi

ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện

nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên; Triệu tập

đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành

án; Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu

cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa

chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan

xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án; Quyết

định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án;

lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án; Yêu cầu cơ

quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của

pháp luật; Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt

vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý

kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối

với người vi phạm; Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền,

tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi

hành án và các khoản phải nộp khác; Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi

thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ; Thực hiện nhiệm vụ khác theo

sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Khi thực hiện

nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu

trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín.

Ngoài nhiệm vụ, quyền hạn trên, pháp luật quy định Chấp hành viên

16

trung cấp không được làm những việc theo quy định tại Điều 21 Luật Thi

hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung 2014 bao gồm: Những việc mà pháp

luật quy định công chức không được làm; Tư vấn cho đương sự, người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật; Can

thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh

hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm thi hành án; Sử dụng trái

phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án; Thực hiện việc thi hành án liên quan

đến quyền, lợi ích của bản thân và những người sau đây: Vợ, chồng, con đẻ,

con nuôi; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà

ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của Chấp hành viên, của vợ

hoặc chồng của Chấp hành viên; Cháu ruột mà Chấp hành viên là ông, bà,

bác, chú, cậu, cô, dì; Sử dụng thẻ Chấp hành viên, trang phục, phù hiệu thi

hành án, công cụ hỗ trợ để làm những việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn

được giao; Sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá

trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án; Cố ý thi hành trái nội dung bản án,

quyết định; trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án được

giao không có căn cứ pháp luật.

Tại điều 167 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm

2014 quy định nội dung Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm thực hiện việc hướng

dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên, miễn nhiệm Chấp

hành viên và tại Điều 25 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung

năm 2014 quy định về việc Chấp hành viên được cấp trang phục, phù hiệu khi

thi hành công vụ, được hưởng tiền lương, chế độ phụ cấp nghề nghiệp và các

chế độ ưu đãi khác.

Bên cạnh đó, nhiệm vụ, quyền hạn Chấp hành viên trung cấp còn biểu

hiện trực tiếp qua các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó

thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Theo khoản 1 Điều 22 Luật Thi hành

17

án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: “Thủ trưởng, Phó thủ

trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải là Chấp hành viên”. Hướng dẫn thực

hiện Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, Điều 72 Nghị

định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ quy định: Chi Cục

trưởng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự: Phải là Chấp hành

viên sơ cấp trở lên; Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự phải

là Chấp hành viên trung cấp trở lên. Do đó, Chấp hành viên trung cấp nếu đủ

các điều kiện theo quy định thì có thể được bổ nhiệm làm Chi Cục trưởng,

Phó Chi cục trưởng; Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự.

Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng thực hiện theo

Điều 23 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và các văn

bản hướng dẫn thi hành như: Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015

quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc

Tổng cục Thi hành án dân và các cơ quan Thi hành án dân sự; Thông tư số

02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung

quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc hệ thống tổ chức thi hành

án dân sự.

1.1.2. Đặc điểm của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự

Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự có các đặc điểm cơ bản sau:

Chấp hành viên thi hành án dân sự nói chung và Chấp hành viên trung

trung cấp là một công chức. Ngay tại khoản 1 Điều 6 Thông tư số

03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số

ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành Thi hành

án dân sự đã khẳng định rõ Chấp hành viên trung cấp là công chức như sau:

“ Chấp hành viên trung cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi

hành án dân sự, thi hành án hành chính, trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc

thi hành các vụ việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính phức tạp, số

18

tiền, tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa

phương thuộc thẩm quyền của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án

dân sự”. [17, tr.55]

Tại Điều 3 Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư

pháp quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch

công chức chuyên ngành Thi hành án dân sự thì chức danh Chấp hành viên

thi hành án dân sự được chia làm ba ngạch, với tên, mã ngạch như sau:

1. Chấp hành viên cao cấp Mã số ngạch: 03.299

2. Chấp hành viên trung cấp Mã số ngạch: 03.300

3. Chấp hành viên sơ cấp Mã số ngạch: 03.301

[02, tr.01]

1.1.3. Bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự

1.1.3.1. Bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự

Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật Thi hành án dân sự

được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì Chấp hành viên trung cấp do Bộ

trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm [36, tr.171].

Tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành viên trung cấp. Theo quy định tại

Khoản 1, Điều 18 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014,

để trở thành Chấp hành viên trung cấp cần thỏa mãn những điều kiện sau:

Là công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc, trung thực, liêm khiết,

có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân Luật trở lên, đã được đào tạo về

nghiệp vụ thi hành án dân sự, có thời gian làm công tác pháp luật theo quy

định, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, ngoài các

điều kiện theo quy định nêu trên để được bổ nhiệm vào ngạch Chấp hành viên

trung cấp thì bắt buộc phải qua kỳ thi tuyển, hoặc xét tuyển. Để tham dự kỳ

thi tuyển này, Điều 57 nghị định số 62/2015/NĐ - CP ngày 18/07/2015 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi

19

hành án dân sự quy định: ngoài việc có đủ tiêu chuẩn của ngạch Chấp hành

viên, người tham dự kỳ thi tuyển phải không thuộc trường hợp đang bị truy

cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang bị xem xét xử lý kỷ luật nhưng chưa có

kết luận, quyết định cuối cùng của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và các

trường hợp khác theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.

Bên cạnh đó, để được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp thì ngoài

những tiêu chuẩn chung đã nêu ở trên, người được bổ nhiệm làm Chấp hành

viên trung cấp phải có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên

và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp. Ngoài ra, theo quy định

của Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định

chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên

ngành Thi hành án dân sự thì đối với mỗi ngạch Chấp hành viên phải có đủ

tiêu chuẩn về năng lực và trình độ khác nhau. Đối với chấp hành viên trung

cấp:

- Về năng lực: Có kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư

tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của

Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để vận dụng vào công tác thi hành

án dân sự; am hiểu các nội dung về hệ thống pháp luật hiện hành và pháp luật

quốc tế liên quan đến công tác thi hành án của cấp mình; am hiểu sâu về nội

dung pháp luật về thi hành án dân sự; áp dụng thành thạo các nguyên tắc, chế

độ, thủ tục về nghiệp vụ thi hành án dân sự; nắm chắc tình hình kinh tế, xã

hội của địa phương, của đất nước; có khả năng độc lập tổ chức thực hiện công

việc được giao; có khả năng phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan trong việc

thi hành án; có khả năng giáo dục, thuyết phục đương sự thi hành bản án,

quyết định của tòa án; có khả năng phân tích, tổng hợp và soạn thảo được văn

bản liên quan đến chức trách, nhiệm vụ được giao.

- Về trình độ: Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch Chấp hành viên

20

trung cấp theo nội dung, chương trình của Bộ Tư pháp; có ngoại ngữ trình độ

B trở lên (một trong năm thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc) hoặc

một ngoại ngữ khác theo yêu cầu của vị trí làm việc; có trình độ tin học văn

phòng; chủ trì hoặc tham gia xây dựng đề tài, đề án, công trình nghiên cứu

khoa học về công tác thi hành án dân sự được áp dụng có hiệu quả trong thực

tiễn.

Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thu hút người có kinh nghiệm làm công

tác pháp luật ở các ngành khác từ đó góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ

cán bộ thi hành án, bên cạnh những đối tượng đã được Luật Thi hành án dân

sự 2008 và Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy

định: Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên được điều động

đến công tác tại cơ quan thi hành án dân sự và đã bổ sung thêm trường hợp

người đã từng là chấp hành viên nhưng được bố trí làm nhiệm vụ khác và có

đủ điều kiện quy định tại khoản 1, Điều 18 thì có thể được bổ nhiệm chấp

hành viên ở ngạch tương đương không qua thi tuyển.

Ngoài ra, Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 còn

quy định trong trường hợp do nhu cầu cấp bách phải bổ nhiệm Thủ trưởng,

Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, người có đủ tiêu chuẩn quy định

tại khoản 1, Điều 18 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014

đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 05 năm trở lên có thể được bổ nhiệm

Chấp hành viên sơ cấp; có 10 năm làm công tác pháp luật trở lên có thể được

bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp; có 15 năm làm công tác pháp luật trở lên

có thể được bổ nhiệm chấp hành viên Cao cấp không qua thi tuyển. Việc xác

định tiêu chuẩn và bổ nhiệm chấp hành viên trong một số trường hợp đặc biệt

nêu trên được quy định cụ thể tại Điều 18 Luật Thi hành án dân sự được sửa

đổi, bổ sung năm 2014, Điều 63 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.

Chấp hành viên trung cấp được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm

21

thông qua hai hình thức đó là thi tuyển hoặc xét tuyển theo quy định tại Điều

62 và Điều 63 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP [08, tr.07].

Trên cơ sở kết quả thi nâng ngạch, xét chuyển ngạch, Bộ trưởng Bộ Tư

pháp xem xét, quyết định bổ nhiệm vào ngạch Chấp hành viên trung cấp theo

quy định.

1.1.3.2. Miễn nhiệm, cách chức, điều động, luân chuyển, biệt phái

Chấp hành viên trung cấp

a) Miễn nhiệm, cách chức Chấp hành viên trung cấp

Theo quy định tại Điều 19 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ

sung năm 2014 thì Chấp hành viên trung cấp được miễn nhiệm trong các

trường hợp sau: Chấp hành viên trung cấp đương nhiên được miễn nhiệm

trong trường hợp nghỉ hưu hoặc chuyển công tác đến cơ quan khác; Do

hoàn cảnh gia đình hoặc sức khỏe mà xét thấy không thể bảo đảm hoàn

thành nhiệm vụ Chấp hành viên; Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ không

bảo đảm thực hiện nhiệm vụ Chấp hành viên hoặc vì lý do khác mà không

còn đủ tiêu chuẩn để làm Chấp hành viên.

Căn cứ theo Điều 19 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung

năm 2014 và khoản 8 Điều 3 Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015

của Bộ Tư pháp quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức,

người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan Thi

hành án dân sự thì Chấp hành viên cao cấp, Chấp hành viên trung cấp,

Chấp hành viên sơ cấp sẽ do Bộ trưởng Bộ Tư pháp miễn nhiệm.

b) Điều động, luân chuyển, biệt phái Chấp hành viên trung cấp

Theo quy định tại khoản 1 Điều 70 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP

thì thẩm quyền điều động, luân chuyển, biệt phái Chấp hành viên đang giữ

chức vụ lãnh đạo thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,

Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự quyết định việc điều động,

22

luân chuyển, biệt phái Chấp hành viên từ tỉnh này sang tỉnh khác, Chấp

hành viên đang giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, Thẩm

tra viên đang giữ chức vụ Phó, Vụ trưởng và tương đương thuộc Tổng cục

Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thuộc Thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ

Tư pháp; Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự quyết định điều động, luân

chuyển, biệt phái Chấp hành viên trong địa bàn do mình quản lý. Trường

hợp điều động, luân chuyển Chấp hành viên đang giữ chức vụ lãnh đạo

quản lý thì phải báo cáo xin ý kiến của người có thẩm quyền bổ nhiệm

chức vụ lãnh đạo trước khi thực hiện điều động, luân chuyển, trừ trường

hợp thuộc thẩm quyền của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự

[17, tr.57, 58].

1.2. Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong thi

hành án dân sự

1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp

Địa vị pháp lý hành chính là tổng thể các quyền, nghĩa vụ của một

chủ thể pháp luật, phản ánh vị trí, tư cách pháp lý của chủ thể đó trong các

mối quan hệ pháp luật.

Địa vị pháp lý hành chính hay tư cách pháp lý của một chủ thể thể hiện

vị trí, vai trò của một chủ thể trong quan hệ pháp luật và đi liền với nó là

quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý phát sinh, ràng buộc, xác định quyền,

nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, là cơ sở để xem xét và xử lý các mâu thuẫn,

xung đột, tranh chấp pháp lý, là cơ sở cho việc thực thi quyền, nghĩa vụ, trách

nhiệm của một cá nhân hay tổ chức trong một mối quan hệ pháp luật.

Theo đó, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp

chính là tổng thể các quyền, nghĩa vụ, tư cách, vị trí của Chấp hành viên

trung cấp khi thực thi chức trách, nhiệm vụ, nghĩa vụ, quyền hạn trong mối

quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.

23

Với những phân tích, lập luận trên, để xác định rõ địa vị pháp lý

hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong thi hành án dân sự, pháp

luật phải thể hiện được một cách rõ ràng, đầy đủ và toàn diện các quyền và

nghĩa vụ của Chấp hành viên trung cấp cũng như các mối quan hệ của

Chấp hành viên trung cấp trong các nhóm quy định sau đây:

Thứ nhất, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp

phải được thể hiện ở nhiệm vụ, quyền hạn chung của Chấp hành viên và

chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn riêng của Chấp hành viên trung cấp.

Thứ hai, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thể

hiện ở nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi

hành án dân sự.

Có thể quan niệm về địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên

trung cấp thi hành án dân sự như sau: Địa vị pháp lý hành chính của Chấp

hành viên trung cấp thi hành án dân sự là tổng thể các quyền và nghĩa vụ

của Chấp hành viên trung cấp trong các quan hệ pháp luật về thi hành án

dân sự, thể hiện vị trí, vai trò, thẩm quyền, chức trách, nhiệm vụ, quyền lợi,

nghĩa vụ và trách nhiệm của Chấp hành viên trung cấp khi thực hiện các

nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên và nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ

trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự và các nhiệm vụ khác

theo quy định của pháp luật.

1.2.2. Cấu thành địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp

Cấu thành địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp

bao gồm các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Chấp hành viên trung cấp

trong việc thực hiện các chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.

1.2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trung cấp

a) Chức năng của Chấp hành viên trung cấp

Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung của Chấp hành viên

24

theo quy định tại Điều 20 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung

năm 2014 như đã trình bày ở phần trên thì Chấp hành viên trung cấp còn thực

hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư số

03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số

ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án

dân sự: Là người trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi hành các vụ việc thi

hành án dân sự, thi hành án hành chính phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành

lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương thuộc thẩm quyền của

Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự.

b) Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trung cấp:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày

05/4/2017 của Bộ Tư pháp thì Chấp hành viên trung cấp có các nhiệm vụ,

quyền hạn sau đây:

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 20 của Luật Thi

hành án dân sự (có 10 nhiệm vụ, quyền hạn được trình bày ở phần trên).

- Triển khai thực hiện công tác thi hành án hành chính theo quy định

của pháp luật;

- Xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện quyết định thi hành án dân sự;

đề xuất biện pháp, chỉ đạo việc thi hành các quyết định thi hành án dân sự

thuộc thẩm quyền; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân theo quy định;

- Báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính,

kiến nghị, đề xuất biện pháp tổ chức thi hành án dân sự, thi hành án hành

chính trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao;

- Hướng dẫn nghiệp vụ đối với Chấp hành viên sơ cấp, Thư ký, Thư ký

trung cấp thi hành án;

- Xây dựng văn bản chỉ đạo công tác thi hành án, biên soạn tài liệu và

hướng dẫn, phổ biến nghiệp vụ công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành

25

chính;

- Giúp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nắm tình hình công tác

thi hành án và việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án thuộc thẩm

quyền theo sự phân công;

- Tham gia nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm và thực tiễn thi hành án;

- Nghiên cứu, kiến nghị, sửa đổi bổ sung các văn bản về thi hành án, đề

xuất ý kiến đóng góp về hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án;

- Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật hoặc do Thủ

trưởng cơ quan thi hành án dân sự giao.

1.2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trung cấp với vai trò

là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự

Khi được bổ nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi hành án

dân sự, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên, thì

Chấp hành viên trung thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó

Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự.

Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 23 Luật Thi hành án dân sự được

sửa đổi, bổ sung năm 2014, thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi hành

án dân sự có các nhiệm vụ, quyền hạn như sau:

- Đối với Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự: Ra quyết định về thi

hành án theo thẩm quyền; Quản lý, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự của

cơ quan thi hành án dân sự; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp tổ

chức thi hành án; Yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng

văn bản những điểm chưa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án,

quyết định đó để thi hành; Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định

của pháp luật; Trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát; giải quyết

khiếu nại, tố cáo về thi hành án, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm

26

quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi

phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm;

Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên; Tổ chức thực hiện chế

độ báo cáo, thống kê thi hành án; Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp

tỉnh có quyền điều động, hướng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công tác thi

hành án đối với Chấp hành viên, công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp

tỉnh và cấp huyện trên địa bàn và những việc khác theo hướng dẫn, chỉ đạo

của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.

- Đối với Phó thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự: Phó thủ trưởng

cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân

công hoặc ủy quyền của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự và chịu trách

nhiệm trong phạm vi công việc được giao.

Ngoài ra, hiện nay theo phân cấp của Bộ Tư pháp tại Thông tư số

09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 quy định việc phân cấp quản lý công chức,

viên chức, người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân và các cơ quan

Thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh còn có

vai trò rất lớn trong công tác quản lý cán bộ của các cơ quan Thi hành án dân

sự địa phương. Thông tư phân cấp nêu trên cho thấy phần lớn các nhiệm vụ,

quyền hạn liên quan đến công tác cán bộ địa phương có vai trò rất lớn của

Thủ trưởng cơ quan quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành

viên trung cấp

1.3.1. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành

viên trung cấp

Pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ, chức trách, nhiệm vụ, vai trò, vị trí

của Chấp hành viên trung cấp. Do đó, đây chính là yếu tố chính, yếu tố ảnh

hưởng nhiều và ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp

27

hành viên trung cấp.

Việc hoàn thiện thể chế, hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi

hành án dân sự đã quyết định đến sự hoàn thiện về tư cách, địa vị, vị trí, vai

trò, quyền hạn và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của Chấp hành viên trung

cấp, từ đó tạo cơ sở pháp lý, tạo cơ chế hoạt động thuận lợi cho các Chấp

hành viên trung cấp trong việc thực thi công vụ.

Ngược lại, nếu trường hợp pháp luật có những quy định bất cập, những

nội dung không phù hợp thực tế thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt

động tổ chức thi hành án dân sự nói chung và ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa

vụ, vài trò của Chấp hành viên trung cấp nói riêng.

1.3.2. Chất lượng của Bản án, quyết định của Toà án

Một trong những yếu tố tác động đến địa vị pháp lý hành chính của

Chấp hành viên trung cấp đó là nội dung bản án còn thiếu tính khả thi; có

những bản án tuyên không rõ khiến cơ quan thi hành án dân sự “ngẩn ngơ”

chẳng biết phải thi hành sao… Từ đó, dẫn đến việc phát sinh khiếu nại, tố cáo

trong thi hành án dân sự gia tăng. Không những thế, việc các bản án tuyên

không rõ, không thể thi hành còn tạo sự chây ỳ trong nếp nghĩ của người dân

dẫn đến việc coi thường luật. Vì họ cảm thấy hoang mang và mất lòng tin đối

với các cơ quan tư pháp.

1.3.3. Tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự

Cơ chế tổ chức, hoạt động của bộ máy của cơ quan thi hành án dân sự

có ảnh hưởng, tác động mang tính quyết định đến vai trò, địa vị và tư cách

của Chấp hành viên trung cấp trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.

Với thể chế, quy định của pháp luật ngày càng được hoàn thiện, cơ cấu

tổ chức cơ quan thi hành án được kiện toàn hơn đã mang lại hiệu quả hoạt

động cho Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp thi hành án

dân sự nói riêng, tạo ra vị thế, sự chuyên trách, thẩm quyền rõ ràng cho Chấp

28

hành viên trung cấp, qua đó khẳng định, củng cố và hoàn thiện địa vị pháp lý

hành chính của Chấp hành viên trung cấp.

Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập nhất định trong việc tổ chức, hoạt

động của cơ quan thi hành án dân sự dẫn đến Chấp hành viên trung cấp vẫn

gặp một số khó khăn nhất định trong hoạt động công vụ, ví dụ, theo luật định

thì Chấp hành viên trung cấp là người trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi

hành các vụ việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính phức tạp, số tiền,

tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương

thuộc thẩm quyền của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự

nhưng hiện nay pháp luật về thi hành án dân sự chưa có văn bản nào quy định

về tiêu chí như thế nào là vụ việc phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành lớn…

Chấp hành viên trung cấp thực hiện nhiệm vụ chủ yếu theo sự phân công của

Thủ trưởng cơ quan nới Chấp hành viên trung cấp công tác.

1.3.4. Năng lực của Chấp hành viên trung cấp

Năng lực, kỹ năng thi hành án dân sự, khả năng tư duy, trình độ nghiệp

vụ của Chấp hành viên trung cấp là yếu tố quyết định thành công trong công

tác, khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Chấp hành viên trung cấp

trong công tác thi hành án dân sự.

Thực tế cho thấy, hiện nay vẫn còn nhiều vụ việc có điều kiện thi hành

nhưng Chấp hành viên trung cấp chưa thi hành dứt điểm, tình trạng vi phạm

pháp luật trong tổ chức thi hành án dân sự của Chấp hành viên trung cấp còn

nhiều dẫn đến hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự chưa cao, án tồn đọng

còn nhiều, kết quả thi hành án dân sự vẫn chưa cao, từ đó làm giảm uy tín, vai

trò, vị thế của Chấp hành viên trung cấp.

1.3.5. Ý thức pháp luật trong xã hội

Thi hành án dân sự là công tác phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực

trong đời sống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền về tài sản, nhân thân của

29

các bên đương sự và những người có liên quan. Chính từ đó, Chấp hành viên

trung cấp luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn trong thi hành nhiệm

vụ…như đương sự chây ỳ, chống đối; phần lớn các đương sự có thái độ thiếu

hợp tác, chây ỳ, chống đối thường rơi vào trường hợp có điều kiện thi hành án

và để trốn tránh nhiệm vụ của mình, họ dùng đủ mọi chiêu trò như muốn

“thách thức” sự kiên nhẫn của Chấp hành viên nói chung. Một trong những

vũ khí đắc lực giúp họ trì hoãn việc thi hành án là lợi dụng quyền tự do dân

chủ của công dân nhằm khiếu nại, tố cáo không đúng sự thực. Trong khi, các

cơ quan thi hành án dân sự đã giải quyết nhiều lần, giải quyết hết thẩm quyền

mà đương sự vẫn liên tục khiếu nại, tố cáo đến nhiều ngành, nhiều cấp gây ra

vô vàn khó khăn cho Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp

nói riêng cũng như cơ quan Thi hành án dân sự.

1.3.6. Một số yếu tố khác

- Công tác thi tuyển, xét tuyển bổ nhiệm là cơ sở quan trọng để đánh

giá chất lượng của Chấp hành viên trung cấp. Khâu này có ý nghĩa quyết định

đến chất lượng đội ngũ Chấp hành viên trung cấp trong quá trình thi hành án.

Nếu khâu thi tuyển, xét tuyển bổ nhiệm càng tốt, càng công bằng, khách quan

thì đội ngũ chấp hành viên càng có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu. Ngược

lại, khâu tổ chức thi tuyển, bổ nhiệm không tốt, không trung thực, khách quan

thì chất lượng của đội ngũ Chấp hành viên sẽ không đáp ứng được yêu cầu

trong quá trình thi hành án, hiệu quả công việc không cao.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng: Thực hiện tốt khâu tuyển chọn là chưa đủ

để nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, mà muốn phát huy được vai trò

đội ngũ cán bộ, công chức phải làm tốt khâu đào tạo, bồi dưỡng. Đào tạo

được xác định là quá trình làm biến đổi hành vi của con người một cách có hệ

thống thông qua việc học tập. Việc học tập này có được là kết quả của việc

giáo dục, hướng dẫn, phát triển là lĩnh hội kinh nghiệm một cách có kế hoạch

30

hay nó là một quá trình tác động đến con người làm cho người đó lĩnh hội và

nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo....một cách có hệ thống nhằm thích nghi

với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định, góp phần vào

việc phát triển xã hội....

Bồi dưỡng là quá trình làm cho người ta tăng thêm năng lực hoặc

phẩm chất. Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng chính là việc tổ chức ra những cơ hội

cho Chấp hành viên trung cấp được học tập nhằm nâng cao năng lực chuyên

môn, kỹ năng nghiệp vụ, phẩm chất chính trị làm cho họ có thể làm việc tốt

hơn, cho phép họ sử dụng các khả năng, tiềm năng vốn có, phát huy hết năng

lực làm việc. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng có ảnh hưởng rất lớn tới chất

lượng của đội ngũ Chấp hành viên trung cấp, giúp chấp hành viên trung cấp

cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao năng lực thi hành án.

31

Tóm tắt Chương 1

Trong Chương 1, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung

cấp đã được khái quát, chỉ rõ về mặt lý luận, phân tích, phát triển ở các nội

dung cơ bản gồm: Các quan điểm, quan niệm về Chấp hành viên trung cấp,

lịch sử hình thành chức danh, vai trò, chức năng, nhiệm vụ,… cấu thành nên

địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp.

Chấp hành viên trung cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành

án dân sự, thi hành án hành chính, trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi hành

các vụ việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính phức tạp, số tiền, tài

sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương thuộc

thẩm quyền của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự và thực

hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án

dân sự là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trung cấp trong

các quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự, thể hiện vị trí, vai trò, thẩm

quyền, chức trách, nhiệm vụ, quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của Chấp

hành viên trung cấp với vai trò là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi

hành án dân sự.

Cấu thành địa vị pháp lý của Chấp hành viên trung cấp bao gồm các

quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Chấp hành viên trung cấp trong việc tổ chức

thi hành bản án, quyết định của Toà án và quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của

Chấp hành viên trung cấp trong vai trò là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan

Thi hành án dân sự và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.

Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của Chấp hành viên

trung cấp bao gồm: Pháp luật; cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân

sự; năng lực của Chấp hành viên trung cấp, ý thức pháp luật trong xã hội và

một số yếu tố khác.

32

Chương 2

THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH

CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP TRONG

CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình

tác động đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp

2.1.2. Điều kiện tự nhiên

Tỉnh Quảng Bình thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, một mặt giáp biển và 1

mặt dựa lưng vào dãy Trường Sơn. Phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, ranh giới

là núi Hoành Sơn. Phía Nam tiếp giáp với tỉnh Quảng Trị. Phía Đông giáp

biển với bờ biển dài 116,04 km. Phía Tây giáp Lào với đường biên giới dài

201,87 km. Tỉnh Quảng Bình có toạ độ địa lí là 17005' 02" - 18005' 12" vĩ độ

Bắc, 105036' 55" - 106059' 37" kinh độ Đông. Quảng Bình là nơi hẹp nhất

của lãnh thổ nước ta. Địa giới hành chính của tỉnh được chia làm 08 huyện,

thị xã, thành phố, gồm các huyện: Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng

Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa; thị xã Ba Đồn và thành phố Đồng Hới.

Quảng Bình nằm ở vị trí trung độ của cả nước, có các trục lộ lớn quốc

gia chạy xuyên suốt chiều dài của tỉnh, có cửa khẩu quốc tế Cha Lo, Cửa khẩu

Cà Roòng. Bên cạnh đó, tỉnh có đường bờ biển dài, thuận lợi cho giao lưu,

thông thương, phát triển kinh tế - xã hội. Địa hình có cấu tạo phức tạp, núi

rừng sát biển, tạo thành độ dốc cao dần từ Đông sang Tây, đồng bằng nhở

hẹp, chủ yếu ven biển, diện tích phần lớn là đồi núi, mật độ sông ngòi dày đặc

với 5 con sông chính, gồm: sông Gianh, sông Ròn, sông Nhật Lệ, sông Lý

Hoà, sông Dinh.

Quảng Bình nằm trong đới khí hậu chí tuyến gió mùa, á đới nóng ẩm,

có sự phân hoá sâu sắc của địa hình và chịu ảnh hưởng khí hậu chuyển tiếp

33

giữa miền Bắc và miền Nam nước ta. Những năm gần đây, do tác động của

biến đổi khí hậu toàn cầu, khí hậu ở Quảng Bình ngày càng khắc nghiệt hơn,

mùa hè nắng nóng, khô hạn, cộng thêm gió Lào khắc nghiệt; mùa mưa thường

xuyên xảy ra bão, lũ quét làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế

- xã hội, hoạt động sản xuất của người dân, đặc biệt là những vùng sâu, vùng

xa, miền núi, dân tộc.

Có thể thấy, tỉnh Quảng Bình địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó

khăn, chẳng hạn từ trung tâm thành phố Đồng Hới đi đến trung tâm huyện lỵ

xa nhất của tỉnh (huyện Minh Hóa) với bán kính trên 120 km, với nhiều cung

đường, đội núi núi hiểm trở, nhiều nơi đường giao thông còn khó khăn gây

trở ngại, khó khăn cho Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung

cấp nói riêng trong công tác chỉ đạo điều hành, nhất là công tác tổ chức cán

bộ và việc tổ chức thi hành án, như: đi lại, xác minh, cưỡng chế thi hành án,

từ đó ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.

2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội

Những năm qua, cùng với xu thế đổi mới và mở cửa của cả nước, sự

nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đã đạt được những thành tựu

đáng kế. Quy mô kinh tế không ngừng được mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển

dịch theo hướng tiến bộ, cơ sở hạ tâng được cải thiện đáng kể, các lĩnh vực

văn hóa xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được

nâng cao. Nền kinh tế tỉnh đang từng bước phát huy các thế mạnh về phát

triển thương mại, dịch vụ, du lịch...

Năm 2017, tỉnh Quảng Bình gặp nhiều khó khăn, thách thức do hậu quả

sự cố ô nhiễm môi trường biển còn tiếp tục ảnh hưởng đến tình hình kinh tế -

xã hội, an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh; 02 trận lũ kép năm 2016, bão số 10

năm 2017 gây thiệt hại lớn về người, tài sản và ảnh hưởng đến sản xuất kinh

doanh; …Nhưng với quyết tâm cao để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ

34

tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân

tỉnh đã tích cực, chủ động lãnh đạo, tập trung chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên

đôn đốc, theo dõi các cấp, các ngành triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải

pháp cụ thể để khắc phục khó khăn; sự vào cuộc kịp thời của các cấp, các

ngành và sự nỗ lực, cố gắng của nhân dân, các tổ chức đoàn thể, doanh

nghiệp nên tình hình kinh tế - xã hội năm 2017 có những chuyển biến tích

cực, đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.

Tăng trưởng kinh tế vượt kế hoạch đề ra; nông nghiệp được mùa toàn

diện, sản lượng lương thực đạt cao nhất từ trước đến nay; sản xuất lâm nghiệp

phát triển theo hướng đẩy mạnh khai thác gỗ rừng trồng; sản lượng thuỷ sản

khai thác tăng cao; hoạt động du lịch phục hồi và phát triển tốt, số lượt khách

du lịch đến tỉnh tăng cao... Lĩnh vực văn hóa, xã hội có những chuyển biến

tiến bộ; công tác cải cách hành chính chuyển biến tích cực; Quốc phòng - an

ninh được tăng cường, giữ vững; Công tác an sinh xã hội được chú trọng, đời

sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.

Một số chỉ tiêu chủ yếu được thực hiện năm 2017 như sau:

Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,7% (KH 6,5%, TH cùng kỳ 5,8%); Giá

trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 6,2% (KH 3,5%, thực hiện

cùng kỳ 1,83%); Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 8,3% (KH 9,5%, TH cùng

kỳ 9,15%); Giá trị sản xuất dịch vụ tăng 7% (KH 7,5%, thực hiện cùng kỳ

5,37%); Cơ cấu kinh tế: nông, lâm nghiệp và thủy sản: 20,4%; công nghiệp -

xây dựng: 27%; dịch vụ: 52,6% (KH Nông, lâm, ngư nghiệp: 22,1%; Công

nghiệp - xây dựng: 26,1%; dịch vụ: 51,8%); Thu ngân sách trên địa bàn đạt

3.350 tỷ đồng, vượt 3% so kế hoạch (KH 3.250 tỷ đồng); Tổng vốn đầu tư

toàn xã hội đạt 16.754 tỷ đồng, vượt 39,6% so kế hoạch (KH 12.000 tỷ đồng);

GRDP bình quân đầu người đạt 33,7 triệu đồng, vượt 8,7% so kế hoạch (KH

31 triệu đồng); Có thêm 9 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 100% KH (chiếm

35

38,9% số xã). Giải quyết việc làm cho 3,59 vạn lao động, vượt 2,6% so kế

hoạch (KH 3,5 vạn lao động); Tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,3% so với năm 2016

(KH giảm 2-2,5%); Tốc độ tăng dân số 0,53%/năm (KH tăng 0,65%/năm);

99,66% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia (KH 99,65%); 86,16% xã,

phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế (KH 84,3%); Số giường bệnh bình

quân trên 1 vạn dân đạt 36,4 giường (KH 22 giường); 89,8% dân số tham gia

bảo hiểm y tế (KH 86,57%); 56,6% xã, phường, thị trấn hoàn thành phổ cập

THCS mức độ III (KH 50,9%); Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 63,1% (KH

63%); trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 41,3% (KH 41%). Tỷ lệ dân cư

thành thị được sử dụng nước sạch đạt 97,2% (KH 97,2%); Tỷ lệ hộ nông thôn

được cung cấp nước sạch và hợp vệ sinh đạt 88% (KH 87%).

Việc kinh tế có chuyển biến, phát triển cũng nảy sinh nhiều vấn nạn

xã hội làm cho số lượng án ngày càng gia tăng cùng với tính chất, mức độ

vụ việc phải thi hành ngày càng phức tạp, giá trị tài sản phải thi hành ngày

càng lớn, đặc biệt là các vụ án có liên quan đến kinh doanh thương mại, tín

dụng ngân hàng,…làm cho lượng việc và tiền phải thi hành án hàng năm

luôn tăng cao, nhiều vụ việc khó khăn phức tạp đã tạo ra áp lực rất lớn cho

các Chấp hành viên trung cấp trong việc thực thi nhiệm vụ.

2.1.4. Về văn hóa - xã hội

Hàng năm tỉnh Quảng Bình đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thông

tin tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ lớn của đất nước

và của tỉnh như: Kỷ niệm ngày cách mạng Tháng tám và quốc khánh 2/9, tổ

chức nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, nghệ thuật...

Ngành y tế đã tập trung chỉ đạo triển khai các danh mục kỹ thuật mới

cho bệnh viện tuyến dưới; tổ chức khám sàng lọc và phẫu thuật miễn phí cho

các cháu bị dị tật bẩm sinh. Công tác y tế dự phòng được quan tâm, không có

dịch mới phát sinh. Quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường.

36

Ngành giáo dục và đào tạo đã tổ chức hội nghị tổng kết năm học 2016 -

2017, đã triển khai nhiệm vụ năm học 2017 – 2018. Về vấn đề việc làm đã

giải quyết cho nhiều lao động làm việc trong nước và nước ngoài. Các chính

sách đối với người có công, chính sách an sinh xã hội đã được thực hiện kịp

thời, đúng đối tượng.

2.1.5. Về quốc phòng - an ninh

Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh cơ

bản ổn định. Quảng Bình đã thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng

nghiệp vụ, kiến thức quốc phòng an ninh, hậu cần, kỹ thuật; thực hiện tốt chế

độ hậu phương quân đội và tham gia công tác phòng chống bão lụt, thiên tai,

tìm kiếm cứu nạn; đồng thời, đã thực hiện nhiều biện pháp phòng ngừa, đấu

tranh trấn áp các loại tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội trên

toàn tỉnh.

Có thể thấy, đời sống văn hóa - tinh thần của nhân dân tỉnh Quảng

Bình, trong đó có đội ngũ Chấp hành viên trung cấp đang ngày được cải

thiện, các chính sách an sinh xã hội ngày càng tăng cường, quốc phòng – an

ninh được giữ vững, đã tạo niềm tin cho nhân dân và đội ngũ Chấp hành viên

tin vào sự lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước từ đó có ý

thức thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự ngày

càng nghiêm chỉnh hơn.

Bên cạnh đó, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thường

xuyên tổ chức các buổi giao lưu văn nghệ, mở các cuộc thi tìm hiểu về pháp

luật thi hành án dân sự, chấp hành viên giỏi... để đội ngũ Chấp hành viên nói

chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng có cơ hội giao lưu học hỏi, tăng

thêm kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm trong tổ chức thi hành án và quản lý

hoạt động thi hành án dân sự.

37

2.2. Tổng quan tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Bình

2.2.1. Cơ cấu tổ chức

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình được thành lập theo Quyết

định số 2879/QĐ-BTP ngày 06/11/2009, Cục Thi hành án dân sự là cơ quan

thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, thực hiện nhiệm vụ thi

hành án dân sự theo quy định của pháp luật, thực hiện chức năng thi hành án

dân sự, có nhiệm vụ giúp Tổng cục Thi hành án dân sự quản lý một số mặt

công tác tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động các

nhiệm vụ, quyền hạn khác của các cơ quan Thi hành án dân sự trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình theo quy định của pháp luật, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư

pháp và Tổng cục Thi hành án dân sự; đồng thời, Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình giúp Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình thực hiện trách nhiệm,

quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình có 04 Phòng chuyên môn trực

thuộc, gồm: Văn phòng Cục; phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án; phòng

Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng tổ chức cán bộ và 08 Chi cục

Thi hành án dân sự huyện, thị xã, thành phố trực thuộc, gồm: Chi cục Thi

hành án dân sự huyện Lệ Thủy, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng

Ninh, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, Chi cục Thi hành án

dân sự huyện Bố Trạch, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, Chi

cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn, Chi cục Thi hành án dân sự huyện

Tuyên Hóa, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa. Các Chi cục Thi

hành án dân sự trực thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, thực hiện

nhiệm vụ thi hành án và các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp

luật; đồng thời, chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cùng cấp theo quy định

của pháp luật.

38

Cơ cấu biên chế của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình:

Theo Quyết định số 474/QĐ-TCTHADS ngày 14/4/2017 của Tổng cục Thi

hành án dân sự - Bộ Tư pháp về việc giao biên chế công chức hành chính Nhà

nước năm 2017 đối với các cơ quan Thi hành án dân sự, thì các cơ quan Thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình được giao tổng cộng 105 biên chế, trong đó

tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh được giao 25, các Chi cục Thi hành án dân sự

huyện, thị xã, thành phố được giao 80 biên chế. Số biên chế đã thực hiện

được 103 biên chế, trong đó: ở Cục Thi hành án dân sự thực hiện được 25/25

biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh thực

hiện được 78/80 biên chế.

Việc sắp xếp, bố trí số biên chế đã tuyển dụng được Cục Thi hành án

dân sự tỉnh Quảng Bình thực hiện cụ thể như sau:

Ở cấp tỉnh: Tổng biên chế được giao là 25 biên chế, trong đó: Xét về

ngạch công chức: có 10 Chấp hành viên (07 Chấp hành viên trung cấp, 03

Chấp hành viên sơ cấp); 04 Thẩm tra viên (01 Thẩm tra viên chính, 03 Thẩm

tra viên); 08 Thư ký thi hành án; 04 công chức khác (Kế toán, Văn thư, Lái

xe). Xét về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: 02 công chức có trình độ thạc sĩ

Luật; 23 công chức có trình độ cử nhân (cử nhân Luật 21 công chức, cử nhân

Kinh tế chuyên ngành Kế toán 02 công chức); 01 công chức có trình độ khác.

Về cơ cấu chức danh lãnh đạo và công chức thừa hành nhiệm vụ: Lãnh

đạo Cục có 01 Cục trưởng (Chấp hành viên trung cấp) và 03 Phó Cục trưởng

(Chấp hành viên trung cấp). Các phòng chuyên môn: Văn phòng Cục có 01

Chánh Văn phòng (Thẩm tra viên chính), 01 Phó chánh Văn phòng (Thẩm tra

viên), 01 thẩm tra viên, 01 thư ký thi hành án, 02 kế toán (01 kế toán nghiệp

vụ, 01 kế toán hành chính) và 01 Văn thư – lưu trữ; Phòng Nghiệp vụ và tổ

chức thi hành án có 01 Trưởng phòng (Chấp hành viên trung cấp), 02 Phó

trưởng phòng (Chấp hành viên sơ cấp), 01 Chấp hành viên sơ cấp và 03 Thư

39

ký thi hành án; Phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo có 01 Trưởng

phòng (Chấp hành viên trung cấp), 01 Phó Trưởng phòng (Thẩm tra viên) và

02 thư ký thi hành án; Phòng Tổ chức cán bộ có 01 Trưởng phòng (Chấp

hành viên trung cấp), 01 Phó trưởng phòng (thư ký thi hành án) và 01 thư ký

thi hành án.

Ơ cấp huyện: Trên cơ sở Quyết định số 474/QĐ-TCTHADS ngày

14/4/2017 của Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình ban hành Quyết định số 148/QĐ-TCTHADS ngày 27/4/2017 về

việc giao biên chế công chức hành chính Nhà nước năm 2017 đối với Chi cục

Thi hành án dân sự các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Theo đó, tổng số

biên chế giao cho các Chi cục Thi hành án dân sự là 80 biên chế, phân bổ cho

08 Chi cục. Cụ thể: Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy 11 biên chế,

Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Ninh 08 biên chế, Chi cục Thi hành

án dân sự thành phố Đồng Hới 16 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện

Bố Trạch 11 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch 09

biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn 10 biên chế, Chi cục Thi

hành án dân sự huyện Tuyên Hóa 08 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự

huyện Minh Hóa 07 biên chế.

Nhìn chung, kể từ khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luật Thi

hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và bên cạnh được sự quan

tâm của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, cấp ủy và chính quyền địa

phương, nên tổ chức, bộ của các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh

ngày càng được củng cố, kiện toàn, đi vào hoạt động có hiệu quả. Hàng năm,

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thực hiện tốt công tác rà soát, quy

hoạch cán bộ lãnh đạo của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

để làm tiền đề cho việc đề xuất cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm và trực tiếp

bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền. Công tác đào

40

tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ công

chức thi hành án dân sự được Cục Thi hành án dân sự quan tâm, chú trọng.

Hoạt động thi hành án dân sự có hiệu quả, thông suốt, đạt được nhiều kết quả

đáng khích lệ. Kết quả thi hành án dân sự hàng năm đều đạt và vượt các chỉ

tiêu mà Quốc Hội, Chính phủ, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự

giao. Với thành tích xây dựng và phát triển, Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình và nhiều cá nhân, đơn vị thuộc và trực thuộc đã vinh dự được

Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao qúy như: Huân chương

lao động hạng Ba, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Cờ thi đua Ngành

Tư pháp, Uỷ ban nhân dân tỉnh; Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bằng

khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh…

2.2.2. Tình hình đội ngũ Chấp hành viên trung cấp trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình

2.2.2.1. Số lượng và độ tuổi

Được sự quan tâm của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự và

cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương nên đội ngũ Chấp hành viên, công

chức các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình không ngừng được

củng cố, tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Cụ thể: Năm 1993, khi

tách ra khỏi Tòa án, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình chỉ có

08 Chấp hành viên (Phòng thi hành án 03 Chấp hành viên, Đội thi hành án

05 Chấp hành viên) và đến nay các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình có 44 Chấp hành viên (14 Chấp hành viên trung cấp, 30 Chấp hành viên

sơ cấp), trong đó, nam 29 người, nữ 15 người.

41

Bảng 2.1. Số lượng Chấp hành viên trung cấp tính đến ngày 30/9/2017 Số lượng (người) Ngạch Tuổi

Chấp hành viên sơ cấp 30 Từ 32 – 60

Chấp hành viên trung cấp 14 Từ 42 - 59

Chấp hành viên cao cấp 0 0

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2017 của

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

2.2.2.2. Chuyên môn, nghiệp vụ

Đội ngũ Chấp hành viên trung cấp Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

đều có trình độ chuyên môn cử nhân Luật. Đa số đã được đào tạo qua các lớp

đào tạo dài hạn về kỹ năng thi hành án dân sự tại Học viện Tư pháp (trên

65%), số còn lại đều đã qua đào tạo tại các lớp ngắn hạn về kỹ năng thi hành

án dân sự do Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp tổ chức; thường

xuyên được rèn luyện trong môi trường công tác, trải qua nhiều thử thách nên

đã vận dụng một cách thành thạo, sáng tạo các kỹ năng thi hành án dân sự vào

thực tế đem lại chất lượng, hiệu quả trong giải quyết công việc cũng như công

tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thi hành án dân sự ở địa phương.

2.2.2.3. Ngoại ngữ, tin học

- Đội ngũ Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình đều có chứng chỉ ngoại ngữ với trình độ tương đương bậc 2 khung năng

lực ngoại ngữ Việt Nam theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-

BGDĐT ngày 24/01/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành khung năng

lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (tương đương trình độ A2 hoặc trình

độ B trở lên).

42

- Đội ngũ Chấp hành viên trung cấp Thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình đều có chứng chỉ tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công

nghệ thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-

BTTTT ngày 11/3/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định Chuẩn

kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin (tương đương trình độ B trở lên).

2.2.2.4. Lý luận chính trị

Hiện nay, đội ngũ Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình đều có trình độ lý luận chính trị cao cấp, có phẩm chất chính trị

vững vàng, trưởng thành qua thực tế công tác; luôn kiên định và tuyệt đối tin

tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu hết mình phục vụ đất nước và

nhân dân. Có đạo đức nghề nghiệp, tận tụy với công việc, yêu ngành, yêu

nghề; không ngừng học tập để nâng cao kiến thức về mọi mặt. Chấp hành tốt

kỷ luật, kỷ cương trong ngành, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ được giao; dám

nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; thường xuyên tìm tòi, đổi mới cách

nghĩ, cách làm, vận dụng một cách sáng tạo, khoa học các kiến thức và kinh

nghiệm vào thực tế công tác. Qua đó, đã góp phần quan trọng đưa công tác thi

hành án dân sự của Quảng Bình trong những năm qua có bước chuyển mình

mạnh mẽ.

Có thể thấy, kể từ khi các cơ quan thi hành án dân sự được thành lập,

nhất là khi thực hiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 thì đội ngũ Chấp

hành viên trung cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã được củng cố, tăng

cường một cách toàn diện cả về số lượng cũng như về chất lượng, đáp ứng

yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

2.2.3. Kết quả công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình từ năm

2012 đến năm 2017

Thời gian qua, mặc dù gắp nhiều khó khăn, thử thách như: số lượng án

43

phải thi hành tăng nhanh qua từng năm; nhất là, thời gian gần đây trên địa bàn

tỉnh Quảng Bình phát sinh nhiều vụ việc liên quan đến đất đai, kinh doanh

thương mại, tín dụng ngân hàng, tranh chấp dân sự… với giá trị phải thi hành

lớn và hết sức phức tạp đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả công tác THADS.

Bên cạnh đó, là tỉnh hứng chịu những thiên tai nặng nề từ tự nhiên; hiện

tượng cá chết hàng loạt tại vùng biển Miền Trung do Công ty Formosa Hà

Tĩnh gây ra trong thời gian qua đã ảnh hướng không nhỏ đến kết quả thi hành

án trên địa bàn. Song, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tư pháp,

Tổng cục Thi hành án dân sự, cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, sự phối

hợp chặt chẽ của các cơ quan, ban ngành đoàn thể các cấp và đặc biệt là sự nỗ

lực, tận tụy của đội ngũ cán bộ, chấp hành viên, nhất là Chấp hành viên trung

cấp nên kết quả thi hành án dân sự luôn đạt, vượt các chỉ tiểu, nhiệm vụ được

giao, đóng góp một phần tích cực vào kết quả chung của toàn Hệ thống và

góp phần giữ vững an ninh, chính trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn

tỉnh, thể hiện qua kết quả công tác từng năm của giai đoạn 2012 - 2017:

Thứ nhất, về kết quả thi hành án:

Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về việc của cơ quan thi hành án tỉnh Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017

Đơn vị tính: việc

Tỷ lệ thi hành Năm công Tổng số phải Tổng số có điều Tổng số thi xong/số có tác thi hành kiện thi hành hành xong điều kiện

2.176 94% 2012 3.168 2.314

2.677 93% 2013 3.465 2.877

2.583 93% 2014 3.281 2.779

2.837 97% 2015 3.447 2.914

44

2016 3.741 3.261 2.956 91%

2017 4.073 3.504 3.173 91%

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2012-

2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

Bảng 2.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền của cơ quan thi hành án tỉnh Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017

Đơn vị tính: VN đồng

Tỷ lệ thi Tổng số phải Tổng số có điều Tổng số thi Năm hành thi hành kiện thi hành hành xong công tác xong/số có (1.000đ) (1.000đ) (1.000đ) điều kiện

37.748.872 19.512.776 18.573.255 94% 2012

75.132.749 30.608.155 27.967.708 91% 2013

139.803.286 80.371.111 65.890.764 82% 2014

185.052.651 85.348.862 83.292.293 98% 2015

272.542.093 132.677.879 46.379.753 35% 2016

395.605.455 150.643.167 70.132.314 47% 2017

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2012-

2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

- Về tình hình giải quyết các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng:

Năm 2017, số việc phải giải quyết loại này của các cơ quan Thi hành

án dân sự tỉnh Quảng Bình là 90 việc, tương ứng với số tiền là 188 tỷ 935

triệu 370 nghìn đồng. Tỷ lệ án tín dụng ngân hàng chiếm 2% về việc và 48%

về tiền so với tổng số việc và tiền phải giải quyết. Kết quả: trong số việc loại

này, đã giải quyết được 19 việc, thu được số tiền là 41 tỷ 738 triệu 704 ngàn

đồng, đạt tỷ lệ 21% về việc và 22,09 % về tiền (Nguồn báo cáo thống kê năm

45

2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình).

- Về kết quả xét miễn, giảm thi hành án:

Năm 2017, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã phối

hợp với Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp rà soát, lập hồ sơ và đề nghị Tòa án

nhân dân có thẩm quyền xét miễn, giảm đối với 26 việc, tương ứng với số tiền

121 triệu 356 nghìn đồng (Nguồn báo cáo thống kê năm 2017 của Cục Thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình).

- Về kết quả tổ chức thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự đối

với phạm nhân tại các Trại giam thuộc Bộ Công an:

Năm 2017, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thụ lý thi

hành 447 việc, tương ứng với số tiền 48 tỷ 290 triệu 935 nghìn đồng. Kết quả:

đã giải quyết xong 260 việc, thu được số tiền 2 tỷ 382 triệu 191 nghìn đồng,

đạt tỷ lệ 58,2% về việc và 4,9% về tiền (Nguồn báo cáo thống kê năm 2017

của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình).

Thứ hai, sự tích cực trong hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân

sự tỉnh Quảng Bình và đội ngũ Chấp hành viên trung cấp đã tạo ra sự chuyển

biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương,

các ngành, đoàn thể và nhân dân trên địa bàn tỉnh về công tác thi hành án dân

sự. Thi hành án dân sự đã được coi là một trong các nhiệm vụ chính trị quan

trọng, được các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương quan tâm, chú trọng.

Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện được thành lập và đã làm

tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, tạo điều kiện cho các cơ quan Thi hành án

dân sự thực hiện nhiệm vụ chính trị trên địa bàn tỉnh, góp phần đảm bảo an

ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc phối hợp giữa các cơ quan thi hành

án dân sự trong tỉnh với các đơn vị liên quan luôn được duy trì và phát huy,

nhất là trong việc giải quyết những vụ việc có vướng mắc, khó khăn, có ảnh

hưởng lớn đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội của địa

46

phương.

Thứ ba, đã tổ chức thi hành dứt điểm nhiều vụ án khó khăn, phức tạp,

tồn đọng nhiều năm, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và

công dân, đơn cử một số việc như:

- Vụ việc Công ty Thanh Hòa

Theo Quyết định số 01/2013/KDTM-ST ngày 15/3/2013 của TAND

huyện Quảng Trạch tuyên Công ty Thanh Hòa phải trả nợ cho Ngân hàng

TMCP Sài Gòn Thương Tín số tiền cả gốc và lãi là 3.283.484.000 đồng, tài

sản thế chấp bảo lãnh cho khoản vay là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền

với đất là nhà 4 tầng xây bê tông cốt thép thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn

Thị Hòa, bà Hòa đồng thời là giám đốc Công ty Thanh Hòa, đất và nhà trên

tại thị xã Ba Đồn. Quá trình tổ chức thi hành, Chi cục THADS thị xã Ba Đồn

đã tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản của bà Hòa để đảm bảo cho việc thi hành

án, tài sản trên đã được bán đấu giá thành trong tháng 11/2015 nhưng không

giao được tài sản vì bà Hòa kịch liệt chống đối, không tự nguyện thi hành,

mặt khác còn gửi đơn khiếu nại, tố cáo đến nhiều nơi, có hành vi chống đối

quyết liệt, cản trở việc thi hành án.

Đây là vụ việc phức tạp, khó khăn trong việc cưỡng chế giao tài sản

cho người mua trúng đấu giá, người phải thi hành án và người có quyền lợi và

nghĩa vụ liên quan chống đối quyết liệt, được dư luận xã hội quan tâm, có khả

năng phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước. Để tập trung giải quyết dứt

điểm vụ việc nói trên, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và quyền lợi

của người mua trúng đấu giá tài sản, Chấp hành viên trung cấp Chi cục thi

hành án thị xã Ba Đồn tăng cường phối hợp với cơ quan, ban, ngành liên quan

tiếp tục kiên trì vận động, thuyết phục, giải thích cho người phải thi hành án,

người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tự nguyên giao tài sản; một số cơ

quan đã phối hợp rất tích cực, đặc biệt Công an thị xã Ba Đồn. Vì vậy người

47

phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã tự nguyện giao

tài sản cho người mua tài sản bán đấu giá, không phải tổ chức cưỡng chế, đảm

bảo an ninh trật tự trên địa bàn trung tâm thị xã Ba Đồn. Như vậy, sau gần 2

năm kể từ khi bán đấu giá thành vụ việc đã được giải quyết năm 2017.

- Vụ ông Dương Văn Chanh và bà Hoàng Thị Lê

Theo Bản án sơ thẩm số 14/STTC ngày 10/3/2000 của TAND huyện

Lệ Thuỷ tuyên giao cho ông Hoàng Đình Luyện được thừa kế quyền sử dụng

đất có diện tích 321m2 của bà Lê Thị Yên (mẹ ông Luyện) tại thị trấn Kiến

Giang, huyện Lệ Thủy. Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Bản án có hiệu lực

pháp luật vợ chồng ông Dương Văn Chanh và bà Hoàng Thị Lê đang sinh

sống trên khu đất, phải tìm nơi ở mới để trả lại khu đất cho ông Luyện. Hết

thời hạn 1 năm, ông Chanh, bà Lê vẫn không chuyển đi nơi khác để trả khu

đất, trong thời gian này ông Luyện bị chết. Bà Trần Thị Hoài Thu (vợ ông

Luyện) đã làm đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục THADS huyện Lệ Thủy ra

Quyết định thi hành án số 99/THA ngày 23/5/2001 để thi hành Bản án trên.

Qua xác minh thông tin về tài sản thi hành án được biết trên khu đất đang

tranh chấp có ngôi nhà của ông Chanh, bà Lê được xây dựng kiên cố trước

khi có Bản án sơ thẩm nhưng Tòa án không tuyên việc xử lý ngôi nhà như thế

nào khi chuyển giao quyền sử dụng khu đất, vì vậy không thể để tổ chức

cưỡng chế giao tài sản. Xét thấy Bản án tuyên có nhiều sai sót, không phù

hợp với thực tế khách quan, khó thi hành án, Chấp hành viên trung cấp Chi

cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy đã gửi văn bản cho Tòa án có thẩm

quyền kiến nghị xem xét lại Bản án để làm cơ sở tổ chức thi hành. Do Bản án

đã hết thời hiệu kháng nghị giám đốc thẩm, không có căn cứ để kháng nghị

tái thẩm nên những sai sót của Bản án không khắc phục được, dẫn đến vụ việc

tồn đọng nhiều năm, gây bức xúc cho các bên đương sự. Vụ việc đã được Tòa

án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Thi hành án dân sự tỉnh thống nhất

48

bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ, có sai sót, khó thi hành để tổng

hợp báo cáo Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân

tối cao.

Trước tình hình đó, Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh (Chấp hành

viên trung cấp) đã chỉ đạo Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy tiếp tục

vận động, thuyết phục và hướng dẫn cho các bên đương sự thỏa thuận thi

hành án trong thời gian chờ các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn giải quyết.

Thông qua vận động, thuyết phục và hướng dẫn cho các bên đương sự thỏa

thuận thi hành án, sự chỉ đạo, phối hợp của cấp ủy, chính quyền, các ban,

ngành ở địa phương, ngày 21/7/2017 dưới sự chứng kiến của Chấp hành viên

trung cấp Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy, các bên đương sự đạt

được thỏa thuận về thi hành án đối với vụ việc, cụ thể bà Thu đồng ý nhận số

tiền 145.000.000 đồng của vợ chồng ông Chanh, bà Lê để không yêu cầu thi

hành án nữa, đồng ý khu đất thuộc quyền sử dụng của ông Chanh, bà Lê. Như

vậy, sau hơn 16 năm thi hành, vụ việc đã được giải quyết dứt điểm trong năm

2017.

Qua số liệu thống kê của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình (báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự năm: 2012; 2013; 2014;

2015; 2016 và 2017) cho thấy các vụ việc mà cơ quan thi hành án dân sự phải

thụ lý ngày càng tăng, nhất là về giá trị với tính chất phức tạp, nhưng đội ngũ

Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Bình nói riêng đã chỉ đạo và trực tiếp tổ chức thi hành án kịp thời,

đúng quy định của pháp luật. Kết quả thi hành án dân sự của tỉnh Quảng Bình

là sự phản ánh một cách đầy đủ, toàn diện nhất về địa vị pháp lý hành chính

của đội ngũ Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

49

2.3. Thực tế địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp

trong các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

2.3.1. Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong việc

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung của chấp hành viên và nhiệm vụ,

quyền hạn riêng của Chấp hành viên trung cấp

Thứ nhất, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 20 của

Luật Thi hành án dân sự năm 2014. Điều 20 Luật Thi hành án dân sự được

sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định 10 nhiệm vụ, quyền hạn chung của

Chấp hành viên để tổ chức thi hành bản án, quyết định. Theo báo cáo kết quả

công tác thi hành án dân sự các năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016 và 2017

của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cho thấy: Kể từ khi các cơ quan

Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình được thành lập, mặc dù đội ngũ Chấp

hành viên vừa thiếu, vừa yếu, trong khi phải giải quyết công việc vừa bổ

sung, kiện toàn tổ chức, nhưng với sự quan tâm, tạo điều kiện của các cơ quan

có thẩm quyền và sự nỗ lực, cố gắng của từng Chấp hành viên nói chung và

Chấp hành viên trung cấp nói riêng, năng lực của đội ngũ Chấp hành viên

trung câp thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Bình thời gian qua đã được nâng

lên đáng kể. Hầu hết các Chấp hành viên trung câp khi được bổ nhiệm đều có

trình độ cử nhân Luật và tương đương trung cấp chính trị, được bồi dưỡng

thêm kiến thức về quản lý hành chính nhà nước, các Chấp hành viên trung

cấp đều được đào tạo trình độ Cao cấp lý luận chính trị nên năng lực tư duy,

lý luận của đội ngũ Chấp hành viên trung cấp đáp ứng được yêu cầu của công

việc. Bên cạnh đó, do trước khi được bổ nhiệm các Chấp hành viên trung cấp

đều có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên nên những kiến

thức, bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn công tác đã được đúc kết

thành những tri thức mang tầm lý luận giúp cho các Chấp hành viên trung cấp

nhanh chóng, dễ dàng nắm bắt nội dung, tính chất của từng vụ việc để lập

50

phương án, kế hoạch thi hành án phù hợp và phát hiện, phân tích những vấn

đề mới nảy sinh trong khi tổ chức thi hành án để tìm biện pháp giải quyết

thích hợp. Đồng thời, với lực lượng dần được "trẻ hóa", khả năng nhận thức,

nắm bắt nhanh nhạy chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật

của Nhà nước để triển khai, vận dụng vào thực tiễn thi hành án của các Chấp

hành viên trung cấp ngày càng được nâng cao. Qua đó, góp phần quan trọng,

tích cực vào kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, góp

phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước.

Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua một số Chấp hành viên trung cấp thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình khi làm việc dựa vào kinh nghiệm chủ quan,

phiến diện dẫn đến lúng túng, thậm chí sai lầm trong tổ chức thi hành án. Một

số Chấp hành viên trung cấp chưa nhận thức rõ vai trò, vị trí của mình trong

quá trình thi hành án nên giao cho cán bộ thi hành án thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn của Chấp hành viên dẫn đến vi phạm pháp luật. Một số Chấp hành

viên trung cấp không nhanh nhạy, khôn khéo, thiếu tầm nhìn xa, trông rộng

khi tổ chức thi hành những vụ việc có tính chất nhạy cảm, trong những thời

điểm nhạy cảm nên có khi việc thi hành án tạo thành "điểm nóng" ở địa

phương; hoặc giải quyết công việc một cách cứng nhắc, không quan tâm đến

những yếu tố kinh tế - xã hội ở địa phương cũng như hoàn cảnh, điều kiện của

người phải thi hành án làm cho đương sự có những phản ứng tiêu cực gây mất

trật tự an ninh chính trị, hoặc bế tắc khi giải quyết những loại việc mới phát

sinh trong nền kinh tế thị trường có liên quan tới thị trường chứng khoán,

tham nhũng, kinh doanh thương mại, đất đai... Chấp hành viên trung cấp áp

dụng sai các quy định của pháp luật trong việc giải quyết những quan hệ pháp

luật cụ thể. Đặc biệt, là khi thi hành nghĩa vụ của một người vợ (hoặc chồng)

chấp hành viên đã kê biên tài sản chung của vợ chồng nhưng lại không xử lý

51

theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình hoặc Bộ luật dân sự dẫn đến

khiếu nại, khiếu kiện…

Đối với nhiệm vụ “kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công và

ra các quyết định về thi hành án của các Chấp hành viên” thực tế vẫn còn hạn

chế, thể hiện qua việc mặc dù người phải thi hành án có điều kiện thi hành án

nhưng Chấp hành viên trung cấp không ra quyết định cưỡng chế để buộc họ

phải thi hành. Tại báo cáo tổng kết công thi hành án dân sự năm 2017 phương

hướng nhiệm vụ năm 2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã

khẳng định: "Một số cán bộ, Chấp hành viên, trong đó có Chấp hành viên

trung cấp chưa tích cực, chủ động trong công tác: chậm ra quyết định thi hành

án, chưa kịp thời xác minh điều kiện thi hành án hoặc không kiên quyết áp

dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án mặc dù người phải thi hành án có

điều kiện thi hành". Nhiều vụ việc Chấp hành viên trung cấp xác minh điều

kiện thi hành án với nội dung sơ sài như “bản thân người phải thi hành án

đang thụ hình, trong nhà không có tài sản gì” và tại Kết luận số 2094/KL-

VKS-P11 ngày 27/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình về

trực tiếp kiểm sát hoat động thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình khẳng định:

Một số Chấp hành viên, trong đó có Chấp hành viên trung cấp chưa kịp thời

áp dụng biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản, bán đấu giá để đảm bảo thi

hành án: Có vụ việc người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng

hơn 2 năm mà Chấp hành viên trung cấp chưa áp dụng biện pháp cưỡng chế

thi hành án, mặc dù Viện kiểm sát đã có văn bản yêu cầu Chấp hành viên

trung cấp ra quyết định cưỡng chế nhưng vẫn chưa thực hiện; Chấp hành viên

ra quyết định thu phí thi hành án không đúng quy định…Như vậy, Chấp hành

viên trung cấp chưa làm tròn trách nhiệm của Nhà nước giao phó để kịp thời

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân đã được ghi nhận

tại bản án, quyết định .

52

Về việc thực hiện quyền yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống

đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật. Trên thực tế khi thi hành

công vụ, Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng

phải sử dụng quyền này rất nhiều nhưng cũng rất ít trường hợp cơ quan Công

an ủng hộ đề nghị của Chấp hành viên tạm giữ người chống đối việc thi hành

án. Có trường hợp người phải thi hành án còn có hành vi đổ nước bẩn vào cán

bộ thi hành án đang thi hành nhiệm vụ...Trước tình hình đó, Chấp hành viên

đã yêu cầu Công an tạm giữ người phải thi hành án để Hội đồng cưỡng chế

tiếp tục làm việc nhưng Công an chỉ dùng biện pháp động viên, thuyết phục

và giám sát người phải thi hành án chứ không thực hiện quyền tạm giữ người

chống đối việc thi hành án. Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước

giao phó, Chấp hành viên trung cấp vẫn phải tiếp tục buổi cưỡng chế giao đất

nhưng trong một hoàn cảnh vừa làm vừa nghe những lời chửi rủa vô văn hóa

đó cho đến khi kết thúc buổi giao đất. Tình hình này đã xúc phạm rất nghiêm

trọng đến danh dự của cán bộ, Chấp hành viên nói chung trong ngành thi

hành án dân sự mà không có sự bảo vệ cần thiết, mặc dù có sự tham gia của

lực lượng bảo vệ. Để bảo đảm cho công tác thi hành án nhất là công tác

cưỡng chế thi hành án, nên chăng cần tăng thẩm quyền cho Chấp hành viên

trung cấp đó là quyền ký lệnh hoặc quyền bắt người có hành vi chống đối việc

thi hành án.

Mặt khác, để tổ chức thi hành các bản án, quyết định một trong những

nhiệm vụ của Chấp hành viên nói chung là phải xác minh điều kiện thi hành

án của người phải thi hành án. Trong một số trường hợp khi Chấp hành viên,

cán bộ cơ quan thi hành án đến nhà người phải thi hành án Chấp hành viên đã

nhìn được có một xe máy trong nhà. Nhưng khi Chấp hành viên hỏi người

phải thi hành án về chiếc xe đó thì người phải thi hành án trả lời là “trong nhà

tôi không có chiếc xe máy nào cả” không cón cách nào khác Chấp hành viên

53

và những người tham gia buổi làm việc đã ra về với nội dung xác minh như

sau: “trong nhà người phải thi hành án chỉ có một bộ bàn ghế xa long đã cũ,

và một ti vi 16 inh nhãn hiệu sam sung đã cũ còn chiếc xe máy thì không

được đưa vào nội dung xác minh vì không thể nhìn thấy để mô tả tình trạng

của chiếc xe và người phải thi hành án không thừa nhận có chiếc xe máy đó

cho nên nếu ghi vào biên bản thì người phải thi hành án không ký tên vào

biên bản xác minh. Từ những ví dụ trên, nên chăng pháp luật cần bổ sung

thẩm quyền cho chấp hành viên trong khi thi hành công vụ như quyền được

khám xét người, nơi ở... của người phải thi hành án thì hiệu quả của công tác

thi hành án dân sự sẽ cao hơn rất nhiều. Theo tác giả, để hoạt động thi hành

án dân sự được tổ chức một cách an toàn về người và tài sản và đạt được hiệu

quả cao cần phải có Cảnh sát tư pháp thuộc cơ quan thi hành án dân sự để họ

thực thi nhiệm vụ bảo vệ cán bộ, Chấp hành viên khi thi hành công vụ. Đồng

thời, cần được bổ sung thêm quyền hạn cho Chấp hành viên trung cấp đó là

quyền được khám người, khám nơi cất giữ đồ vật, tài liệu, phương tiện của

người phải thi hành án trong khi thi hành công vụ.

Thứ hai, việc thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn riêng của Chấp

hành viên trung cấp thi hành án dân sự

- Triển khai thực hiện công tác thi hành án hành chính theo quy định

của pháp luật:

Các Chấp hành viên trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình đã thường xuyên quán triệt, triển khai thực hiện Luật Tố tụng

hành chính năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP đến toàn thể Chấp

hành viên, Thẩm tra viên, công chức của toàn đơn vị; tổ chức tuyên truyền,

phổ biến, cập nhật các quy định của pháp luật về thi hành án hành chính. Phối

hợp với các ban ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương, cơ sở tuyên truyền

trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức, trách

54

nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức và hiểu biết

của người dân về công tác thi hành án hành chính theo quy định của pháp luật

hiện hành, thông qua đó tăng cường hơn nữa hiệu quả thi hành án hành chính

tại địa phương. Đồng thời, chủ động thực hiện chức năng theo dõi thi hành án

hành chính theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan nơi công tác.

Từ trước cho đến hết năm 2017, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình chưa thụ lý theo dõi vụ việc thi hành án hành chính nào. Vì số

bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính chuyển giao đến các cơ

quan Thi hành án dân sự, không có trường hợp nào có nội dung theo dõi việc

thi hành án hành chính theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015

và Nghị định 71/2016/NĐ-CP.

Mặc dù, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 bỏ thủ tục đôn đốc thi

hành án hành chính vốn gây nhiều bức xúc trong thời gian qua và thay thế

bằng cơ chế chủ động thi hành án với việc tự nguyện thi hành của người phải

thi hành án và thẩm quyền ban hành quyết định buộc thi hành án của Tòa án

đã xét xử sơ thẩm vụ án đó. Tuy nhiên, qua nghiên cứu và theo dõi thực tiễn

thi hành án hành chính tại nhiều địa phương cho thấy vẫn còn nhiều khó khăn,

vướng mắc như: Khoản 2 Điều 311 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 quy

định: Thời hạn tự nguyện thi hành án được xác định người phải thi hành án

phải thi hành ngay bản án, quyết định; Người phải thi hành án phải thi hành

bản án, quyết định của Tòa án quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1

Điều này trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của

Tòa án nhưng tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định 71 quy định: Khi nhận được

bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự phân công Chấp

hành viên thực hiện theo dõi việc thi hành án hành chính. Trong thời hạn 05

ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan

thi hành án dân sự có trách nhiệm ra văn bản thông báo về việc tự nguyện thi

55

hành án gửi người phải thi hành án. Nội dung thông báo nêu rõ thời hạn tự

nguyện, trách nhiệm tổ chức thi hành án, việc xử lý trách nhiệm nếu không

chấp hành án. Đối với bản án, quyết định của Tòa án quy định tại điểm e và

điểm g khoản 1 Điều 311 Luật tố tụng hành chính năm 2012 thì phải ra ngay

thông báo về việc tự nguyện thi hành án. Do đó, cơ quan thi hành án dân sự

khó khăn trong việc theo dõi án hành chính, khó xác định thời hạn tự nguyện

thi hành án bắt đầu và kết thúc vào lúc nào vì không biết chính xác thời điểm

người phải thi hành án nhận được bản án, quyết định của Toà án.

Bên cạnh đó, việc lập biên bản với người phải thi hành án và đề xuất xử

lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án chậm thi hành án hoặc không

chấp hành án cũng tồn tại một số vướng mắc. Cụ thể, Khoản 3 Điều 14 Nghị

định số 71/2016/NĐ-CP về trình tự, thủ tục thi hành án… quy định: Trong

thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định buộc thi hành án

hành chính, Chấp hành viên được phân công theo dõi việc thi hành án phải

làm việc với người phải thi hành án để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong bản

án, quyết định của Tòa án. Nội dung làm việc phải được lập thành biên bản.

Khoản 5 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP cũng quy định: Cơ quan thi

hành án dân sự có văn bản kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý

trách nhiệm đối với người phải thi hành án chậm thi hành án, không chấp

hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định

của Toà án theo quy định của Luật tố tụng hành chính và Nghị định này. Phần

lớn người phải thi hành án trong các vụ án hành chính là Chủ tịch Uỷ ban

nhân dân tỉnh, thành phố hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện nên quá trình

theo dõi việc thi hành án hành chính có phần khó khăn cho các cơ quan thi

hành án dân sự trong việc thông báo, tống đạt Thông báo tự nguyện thi hành

án và lập biên bản về buộc thi hành án hành chính theo quy định tại Khoản 2,

Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP. Hầu hết các Chấp hành viên

56

đều có tâm lý e ngại trong việc lập biên bản về việc buộc thi hành án hành

chính đối với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp hoặc đề nghị xử lý trách

nhiệm về việc chậm thi hành án, không chấp hành án hoặc chấp hành không

đúng nội dung bản án, quyết định vì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp

huyện là Trưởng ban chỉ đạo thi hành án dân sự; Chủ tịch Uỷ ban có ý kiến

bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ

quan Thi hành án dân sự; bên cạnh đó, định kỳ hàng tháng, quý, năm, cơ

quan thi hành án dân sự phải báo cáo kết quả thi hành án cho Uỷ ban nhân

dân cấp tỉnh, cấp huyện.

Mặt khác, Cơ quan thi hành án dân sự vốn dĩ lúc nào cũng trong tình

trạng quá tải về công việc, nay thêm nhiệm vụ theo dõi thi hành án hành chính

nhưng cơ chế lại thiếu rõ ràng, nên cơ quan này thực tế vẫn chủ yếu tập trung

vào nhiệm vụ chính của mình là thi hành án dân sự và thi hành phần tài sản

trong bản án, quyết định hành chính.

- Việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện quyết định thi hành án dân

sự; đề xuất biện pháp, chỉ đạo việc thi hành các quyết định thi hành án dân sự

thuộc thẩm quyền; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân theo quy định:

+ Việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện quyết định thi hành án

dân sự: Sau khi được phân công tổ chức thực hiện quyết định thi hành án dân

sự, Chấp hành viên trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình đều tổ chức thi hành vụ việc đảm bảo đúng quy trình thủ tục ngay từ

việc ra giấy báo tự nguyện thi hành án cho người phải thi hành án; thông báo

các quyết định thi hành án và giấy báo tự nguyện thi hành án; xác minh điều

kiện thi hành án, xác minh tài sản của người phải thi hành án; triệu tập đương

sự và người có quyền, nghĩa vụ liên quan; áp dụng các biện pháp bảo đảm

hoặc các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án

dân sự hiện hành.

57

Tuy nhiên, hầu hết các Chấp hành viên (sơ cấp, trung cấp) các cơ

quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình sau khi được phân công tổ chức

thực hiện quyết định thi hành án đều không xây dựng kế hoạch tổ chức thực

hiện quyết định thi hành án dân sự mà thực hiện tác nghiệp theo quy trình tổ

chức thi hành án dân sự và chỉ lập kế hoạch áp dụng biện pháp cưỡng chế thi

hành án.

+ Việc đề xuất biện pháp, chỉ đạo việc thi hành các quyết định thi hành

án dân sự thuộc thẩm quyền:

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình Chấp hành viên trung cấp

các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đều cơ bản phát huy được

vai trò tham mưu, đề xuất giúp Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự trong

việc hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án dân sự, nhất là đối với những

vụ việc khó khăn, phức tạp. Đặc biệt, thực hiện Quyết định số 824/QĐ-

TCTHADS ngày 03/12/2014 của Tổng cục Thi hành án dân sự về việc ban

hành quy trình hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự trong nội bộ ngành

Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã thành lập

Hội đồng Chấp hành viên với thành phần tham gia là các Chấp hành viên

trung cấp do Cục trưởng làm Chủ tịch Hội đồng để tư vấn, tham mưu cho Cục

trưởng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án dân sự. Qua đó,

đã tháo gỡ được nhiều vướng mắc, khó khăn của các Chi cục Thi hành án dân

sự trong quá trình tổ chức thi hành án và nâng cao hiệu quả công tác Thi hành

án dân sự trên địa bàn tỉnh.

+ Thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân theo quy định:

Nhiệm vụ tiếp công dân, thời gian qua được lãnh đạo Cục, Chi cục,

Chấp hành viên trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

quan tâm, chú trọng. Quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, Chấp hành viên

trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã hướng dẫn, giải

58

thích giúp người dân nhận thức đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình tự

nguyện, chủ động, phối hợp trong quá trình tổ chức thi hành án.

Ngoài việc tiếp công dân theo yêu cầu, chức năng nhiệm vụ, Chấp hành

viên trung cấp, công chức trong hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình còn thực hiện việc tiếp công dân thông qua việc báo gọi đương

sự đến tại trụ sở cơ quan hoặc tại trụ sở chính quyền địa phương để giải quyết

việc thi hành án.

+ Thực hiện nhiệm vụ báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự, thi

hành án hành chính:

Chấp hành viên trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình đều thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo kết quả công tác thi

hành án dân sự, thi hành án hành chính theo quy định của Bộ, Ngành, chính

quyền địa phương. Số liệu báo cáo thi hành án dân sự, thi hành án hành chính

đảm bảo chính xác, kịp thời giúp cho Lãnh đạo phân tích, dánh giá đúng mức

độ hoàn thành công việc của các đơn vị, Chấp hành viên và đề ra những

phương hướng nhiệm vụ tiếp theo; chất lượng báo cáo được cải tiến về nội

dung và hình thức, đúng thời gian quy định.

Tuy nhiên, theo chế độ báo cáo thống kê như hiện nay, do có quá

nhiều biểu mẫu báo cáo đã gây tốn kém về mặt thời gian cũng như công sức

của Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng. Một

tháng, Chấp hành viên phải dành không ít thời gian cho công tác này, nhanh

thì một ngày, chậm thì hai đến ba ngày. Vì vậy, theo tác giả, để giải quyết bớt

những khó khăn cho người thực hiện báo cáo, đáp ứng yêu cầu nhanh gọn,

hiệu quả, sát thực tế, rất cần một nghiên cứu sửa đổi toàn diện biểu mẫu báo

cáo thống kê theo hướng xác lập phần mềm báo cáo thống kê gắn liền, tương

thích với phần mềm kế toán thi hành án.

+ Thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn nghiệp vụ đối với Chấp hành viên sơ

59

cấp, Thư ký, Thư ký trung cấp thi hành án:

Xác định công tác hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự, thi hành án

hành chính đối với Chấp hành viên sơ cấp, thư ký, thư ký trung cấp thi hành

án nhằm đảm bảo sự thống nhất chung trong việc giải quyết thi hành án theo

quy định pháp luật. Thời gian qua, Lãnh đao Cục, Chi cục và Chấp hành viên

trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thường xuyên

quán triệt và triển khai thực hiện các văn bản của ngành, đồng thời hướng

dẫn, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và chấn chỉnh những mặt còn hạn

chế, yếu kém đối với Chấp hành viên sơ cấp, thư ký thi hành án. Qua đó, đã

đẩy mạnh tiến độ tổ chức thi hành án đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ

công tác được giao. Các Chấp hành viên sơ cấp, Thư ký, Thư ký trung cấp thi

hành án khi có những vụ việc phức tạp, khó khăn vướng mắc đều xin ý kiến

chỉ đạo trực tiếp và đã được Chấp hành viên trung cấp giải đáp, hướng dẫn cụ

thể, tháo gỡ kịp thời đạt hiệu quả tốt. Từ đó, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân, góp phần giữ vững An ninh

chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh và tạo lòng tin của nhân dân

đối với pháp luật và Nhà nước.

2.3.2. Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong việc

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự

Hiện nay, 14 Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình đều giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Bình (01 Chấp hành viên trung cấp là Cục trưởng; 03 Chấp hành

viên trung cấp là Phó Cục trương; 03 Chấp hành viên trung cấp là Trưởng

Phòng chuyên môn; 05 Chấp hành viên trung cấp là Chi cục trưởng và 02

Chấp hành viên trung cấp là Phó Chi cục trưởng). Kết quả thực hiện nhiệm

vụ, quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự thông qua các nội

dung sau:

60

Thứ nhất, việc ra quyết định về thi hành án theo thẩm quyền:

Quyết định thi hành án là quyết định do Thủ trưởng cơ quan thi hành án

có thẩm quyền ban hành xác định quyền, nghĩa vụ của cơ quan thi hành án,

người được thi hành án, người phải thi hành án và những người liên quan

trong một vụ việc cụ thể. Nhìn chung, việc ra quyết định thi hành án dân sự

của Thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thời gian

qua luôn thực hiện đúng thẩm quyền, sử dụng đúng mẫu quyết định thi hành

án theo quy định tại Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ

Tư pháp Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu

mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự; quyết định thi hành án được vào sổ

theo dõi ra quyết định thi hành án và đánh số, ý phát hành theo đúng quy

định. Nội dung quyết định thi hành án, cơ bản đúng nội dung bản án, quyết

định của Tòa án và đơn yêu cầu thi hành án, phản ánh tương đối chính xác

các khoản phải thi hành, tạo điều kiện thuận lợi cho Chấp hành viên nói

chung tổ chức thi hành án.

Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án

dân sự trên địa bàn tỉnh ra quyết định thi hành án không đúng, không đủ các

nội dung trong quyết định, bản án của Tòa án hoặc thừa nội dung so với đơn

yêu cầu của người được thi hành án. Ví dụ: Chi cục trưởng Chi cục Thi hành

án dân sự huyện TH, tỉnh Quảng Bình ra quyết định thi hành án cả phần lãi

suất trong khi đơn đề nghị thi hành án không có nội dung này.

Một số Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự không ra quyết định tiếp

tục thi hành án khi hết thời hạn hoãn; ra quyết định thu hồi nhưng không ra

quyết định thi hành án khi người nhận chuyển giao quyền và nghĩa vụ có đơn

yêu cầu thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 54 Luật Thi hành án dân

sự mà lại đưa vào hồ sơ giải quyết xong; hoặc không ra quyết định đình chỉ

thi hành án khi người được thi hành án rút đơn đề nghị thi hành án.

61

Thứ hai, quản lý, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự của cơ quan thi

hành án dân sự:

- Tình hình triển khai thực hiện chỉ tiêu nhiệm vụ, Luật Thi hành án

dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án

dân sự năm 2014:

Ngay từ đầu mỗi năm công tác lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình đều xây dựng Kế hoạch trong tâm công tác trong toàn hệ thống

các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình; đồng thời, giao chỉ tiêu,

nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị chuyên môn, các Chấp hành viên thuộc Cục

Thi hành án dân sự tỉnh và các Chi cục Thi hành án dân sự trực thuộc, đảm

bảo sự công bằng giữa các đơn vị, giữa các Chấp hành viên; đồng thời, thực

hiện nhiều giải pháp để nâng cao kết quả thi hành án như: tăng cường, phối

hợp với chính quyền địa phương tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả công

tác thi hành án dân sự trên địa bàn và kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc

trong công tác thi hành án dân sự ở cơ sở; tập trung chỉ đạo quyết liệt đối với

những địa bàn có nhiều án, án khó khăn, phức tạp hoặc còn nhiều hạn chế,

yếu kém trong thực thi nhiệm vụ, nhất là kết quả thi hành án đạt thấp; triển

khai kế hoạch xử lý các vụ việc có liên quan đến hoạt động tín dụng, ngân

hàng …Tổ chức Hội nghị triển khai công tác thi hành án dân sự để quán triệt

Quyết định giao chỉ tiêu, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS và các

văn bản khác liên quan đến công tác thi hành án dân sự và chỉ đạo các đơn vị,

Chấp hành viên tổ chức thực hiện nghiêm túc.

Hàng năm, đều tổ chức tập huấn các nội dung mới và chỉ đạo tổ chức

áp dụng thực hiện có hiệu quả Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014, các văn bản quy

phạm pháp luật có liên quan như Luật Dân sự, Luật đất Đai, Luật Hôn nhân

và gia đình, Luật Đấu giá tài sản số 01/2016/QH 14; Nghị quyết số

62

42/2017/QH 14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín

dụng…các văn bản hướng dẫn thi hành đến toàn thể cán bộ, công chức trong

toàn ngành; chỉ đạo các đơn vị trong tỉnh áp dụng Luật và các loại biểu mẫu

mới theo đúng quy định của pháp luật.

Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thường xuyên về

làm việc với Thường trực Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã,

thành phố và các ngành liên quan (Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án) để tranh

thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp đối với công tác thi hành án dân sự trên địa

bàn, đặc biệt để tập trung phối hợp, chỉ đạo cưỡng chế giao tài sản một số vụ

việc phức tạp, khó khăn.

Tiến hành đăng tải kịp thời, đầy đủ, chính xác thông tin của người phải

thi hành án chưa có điều kiện thi hành lên Trang Thông tin điện tử của Cục

Thi hành án dân sự tỉnh. Triển khai hỗ trợ trực tuyến yêu cầu thi hành án và

cơ chế một cửa tại đơn vị, cử công chức trực thực hiện tiếp nhận hỗ trợ trực

tuyến thi hành án dân sự và thực hiện cơ chế một cửa đúng theo yêu cầu.

- Xây dựng thể chế, văn bản quản lý:

Để nâng cao chất lượng công tác và đẩy nhanh kết quả thi hành án dân

sự, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã chủ động tham mưu

cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của

Đảng đối với công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh (Chỉ thị số 34-

CT/TU ngày 15/3/2015), Công văn về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, phối

hợp trong công tác thi hành án dân sự (Công văn số 216-CV/TU ngày

08/3/2017); tham mưu cho Chủ tịch UBND tỉnh kiện toàn Ban chỉ đạo Thi

hành án dân sự tỉnh theo Thông tư liên tịch 05/2016/TTLT/BTP-BCA-BTC-

TANDTC-VKSNDTC ngày 19/5/2016 quy định hoạt động của Ban Chỉ đạo

thi hành án dân sự, ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 05/CT-

TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác thi hành án dân sự và

63

Công văn số 216-CV/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (Kế hoạch số 542/KH-

UBND ngày 03/4/2017). Trên cơ sở đó, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh

đã ban hành các kế hoạch để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành

án dân sự và các mặt công tác khác của ngành như: Kế hoạch số 1138/KH-

CTHADS ngày 01/11/2016 về việc triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của

đồng chí Bí thư Tỉnh ủy về công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành

chính; Ban hành Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự

năm 2017; Chương trình số 215/CTr-CTHADS chương trình thực hiện Kế

hoạch số 28 - KH/TU ngày 21/02/2017 của Tỉnh ủy Quảng Bình về việc tiếp

tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí...

Ngoài ra, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và nâng cao vai trò

quản lý, điều hành đơn vị phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, hàng

năm, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đều ban hành và triển

khai thực hiện có hiệu quả quy chế làm việc, quy chế tiếp công dân, quy chế

thực hiện dân chủ cơ quan, quy chế về thưc hiện nếp sống lành mạnh và văn

hoá nới công sở, quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế mua sắm và bảo quản tài

sản công, nôi quy cơ quan và nhất là công khai hoá các thủ tục hành chính,

quy trình giải quyết việc thi hành án dân sự…

Thứ ba, việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp tổ chức thi

hành án:

Thời gian qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình đã cơ bản phối hợp tốt với cơ quan Thi hành án dân sự cũng như Chấp

hành viên trong tổ chức thi hành án dân sự. Thủ trưởng các cơ quan Thi hành

án dân sự tỉnh Quảng Bình đã chủ động tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính

quyền địa phương ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy

đảng, chỉ đạo của chính quyền đối với công tác thi hành án dân sự...; công tác

64

phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các sở, ban, ngành có liên quan

ngày càng chặt chẽ và bài bản hơn. Trên cơ sở Quy chế phối hợp liên ngành

số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013 của

Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân

tối cao, đã chủ động phối hợp với các ngành có liên quan (Công an, Kiểm sát,

Tòa án...) xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự,

trong đó, xác định rõ trách nhiệm của từng Ngành, tạo cơ chế phối hợp chặt

chẽ và hiệu quả. Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự cấp tỉnh và cấp huyện tiếp

tục được củng cố, kiện toàn và hoạt động có hiệu quả với việc ban hành quy

chế hoạt động, duy trì chế độ họp định kỳ để giải quyết những vụ việc có khó

khăn, vướng mắc, phức tạp… Một số Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự đã chủ

động kiểm tra tình hình triển khai các đợt cao điểm về thi hành án, duy trì họp

định kỳ hoặc đột xuất để cho ý kiến chỉ đạo giải quyết đối với những vụ án

khó, phức tạp.

Mặt khác, Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, Chấp

hành viên trung cấp khi được phân công phụ trách địa bàn luôn sâu sát, làm

tròn trách nhiệm của mình, thường xuyên xuống địa bàn để nắm tình hình để

có hướng chỉ đạo, xử lý kịp thời đối với những khó khăn, vướng mắc của các

Chi cục và tăng cường mối quan hệ với cấp ủy, chính quyền tại cấp cơ sở.

Nhờ đó, những vụ việc khó khăn, phực tạp, được dư luận xã hội quan tâm của

những năm trước đây chưa thi hành được giờ đã được giải quyết dứt điểm

như: Vụ Công ty TNHH Thanh Hòa – Ngân hàng Sacombank ở thị xã Ba

Đồn và vụ Chanh – Lê ở huyện Lệ Thủy như đã nêu ở phần trên.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác phối hợp giữa các cơ quan hữu

quan với cơ quan thi hành án dân sự vẫn có trường hợp chưa thật sự kịp thời

và có hiệu quả. Một số cơ quan, ban, ngành và một số chính quyền địa

phương, cơ sở chưa tích cực phối hợp giải quyết những vụ việc khó khăn,

65

vướng mắc nên kết quả công tác thi hành án dân sự đạt được chưa cao.

Thứ tư, việc yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng

văn bản những điểm chưa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án,

quyết định đó để thi hành:

Tình hình phối hợp giữa Lãnh đạo Cục, lãnh đạo Chi cục và Chấp hành

viên trung cấp thi hành án dân sự với cơ quan Tòa án nhân dân, Thẩm phán

hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình được duy trì thường xuyên. Trên cơ sở

Quy chế phối hợp liên ngành số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-

VKSNDTC ngày 09/10/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân

tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình đã phối hợp với các cơ quan Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Tòa

án nhân dân tỉnh xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành số

339/QCPH/CTHADS-CA-TAND-VKSND ngày 08/5/2014 đây là căn cứ

pháp lý để thực hiện tốt công tác phối hợp thi hành án dân sự, nhất là trong

việc cung cấp bản án, quyết định cũng như giải thích đối với bản án, quyết

định đã tuyên chưa rõ, có sai sót. Theo đó, trong trường hợp phát hiện bản án,

quyết định của Tòa án có những điểm chưa rõ, gây khó khăn cho việc thi

hành án hoặc phát hiện lỗi chính tả, số liệu có nhầm lẫn hoặc tính toán sai thì

Thủ trưởng cơ quan thi hành án dâ sự cấp tỉnh, cấp huyện có văn bản yêu cầu

Tòa án đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ, sửa chữa lỗi

chính tả hoặc số liệu nhầm lẫn. Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách

nhiệm trả lời về những vấn đề được nêu trong văn bản yêu cầu của cơ quan

Thi hành án dân sự. Việc giải thích bằng văn bản những điểm chưa rõ, sửa

chữa lỗi chính tả hoặc sai sót về số liệu được thực hiện theo quy định của

pháp luật về tố tụng và Điều 179 Luật Thi hành án dân sư.

Mặc dù, công tác phối hợp giữa các cơ quan Thi hành án dân sự với cơ

quan Tòa án thời gian qua đã được tăng cường, tuy nhiên vẫn còn tình trạng

66

các bản án tuyên không rõ gây khó khăn cho cơ quan Thi hành án dân sự, việc

giải thích bản án, quyết định còn chậm, cá biệt có trường hợp Tòa án không

giải thích hoặc không trả lời cơ quan thi hành án dân sự theo qui định.

Vi dụ: Bản án số 06/2012/KDTM-ST ngày 21/3/2012 của TAND thành

phố H. và Bản án số 196/2012/KDTM-PT ngày 17/12/2012 của Tòa Phúc

thẩm D. Theo đó, tài sản thế chấp đảm bảo thi hành án là “Quyền sử dụng đất

và nhà xưởng xây dựng trên diện tích 192 m2 tại thôn HM, xã DN, huyện T.

mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 143/QSDĐ/HP-TN-MĐ do

UBND huyện T. cấp ngày 16/8/1999 cho chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Văn

H”. Nhưng thực tế Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 143 cấp ngày

10/8/1999 là: Hộ gia đình ông Nguyễn Văn H. Sau khi kê biên tài sản, cơ

quan Thi hành án dân sự đã có văn bản đề nghị Tòa án xem xét, giải thích vì

khó thi hành.

Luật Thi hành án dân sự quy định rõ Thủ trưởng cơ quan Thi hành án

dân sự có quyền yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng văn

bản những điểm chưa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án, quyết

định đó để thi hành. Khoản 1 Điều 179 Luật cũng qui định trách nhiệm của

Tòa án khi ra bản án: “Bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ

ràng, cụ thể, phù hợp với thực tế”; khoản 2 Điều luật này cũng qui định trách

nhiệm của Tòa án: “Có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết

định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của

đương sự hoặc của cơ quan Thi hành án dân sự. Trường hợp vụ việc phức tạp

thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu”. Tuy

nhiên, với thực tế đã chỉ ra ở trên cho thấy, vẫn còn nhiều vấn đề cần khắc

phục trong việc ban hành các bản án, quyết định của Tòa án. Bởi lẽ, nếu án

tuyên thiếu chính xác không những gây khó khăn cho cơ quan Thi hành án

dân sự mà còn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, dễ

67

phát sinh khiếu nại. Do đó, tăng cường công tác phối hợp để giải thích kịp

thời các bản án tuyên không rõ, khó thi hành là việc làm cần thiết nhưng quan

trọng hơn, cần nâng cao chất lượng các bản án, quyết định được ban hành.

Thứ năm, việc trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát; giải

quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm

quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi

phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm:

- Việc trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát:

Công tác kiểm sát thi hành án dân sự là một trong những công tác thực

hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân

theo qui định của Hiến pháp và pháp luật, là một hoạt động song hành với

hoạt động tổ chức thi hành án và do cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tiến

hành đối với các cơ quan thi hành án dân sự. Hiện nay hoạt động kiểm sát thi

hành án dân sự của các cơ quan Viện Kiểm sát được thực hiện theo Quy chế

công tác kiểm sát thi hành án dân sự ban hành kèm theo Quyết định số

255/2013/QĐ/VKSTC-V10 ngày 19/6/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát

nhân dân tối cao. Đối tượng của công tác kiểm sát thi hành án dân sự là việc

tuân theo pháp luật của Toà án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự, Chấp

hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan trong việc thi

hành bản án, quyết định đã có hiệu lực và những bản án, quyết định chưa có

hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay theo đúng qui định của pháp

luật. Nội dung, phạm vi kiểm sát thi hành án dân sự là Viện kiểm sát nhân dân

kiểm sát việc chấp hành các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành các bản án,

quyết định cho tới khi bản án, quyết định đó được thi hành xong.

Trong thời gian qua, công tác kiểm sát thi hành án dân sự đối với các

cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình luôn được Viện Kiểm sát nhân

dân tỉnh Quảng Bình và Viện Kiểm sát nhân dân các quận, huyện, thị xã tiến

68

hành thường xuyên, đúng quy định, đạt nhiều kết quả tích cực và phối hợp tốt

với cơ quan thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác.

Về kiến nghị, các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình hàng năm và đột xuật nhận được các văn bản từ các cơ quan kiểm sát

hai cấp trong quá trình kiểm sát thường xuyên và các kết luận trong các cuộc

kiểm sát trực tiếp. Những nội dung vi phạm chủ yếu được phát hiện và nêu

trong kiến nghị như: Về thời hạn gửi quyết định, giấy tờ về thi hành án; Chấp

hành viên chưa tiến hành xác minh (hoặc xác minh lại theo định kỳ) điều kiện

thi hành án để xử lý theo luật; sau khi kê biên các chấp hành viên còn vi phạm

về thời hạn áp dụng các biện pháp tiếp theo do luật định (như không thẩm

định giá hoặc không đưa ra bán đấu giá tài sản); sau khi kê biên tài sản là

quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu một số đơn vị không

thông báo kết quả kê biên cho cơ quan có thẩm quyền biết theo quy định;

chậm xử lý vật chứng; thông báo chưa đúng quy định để đương sự nhận lại

tiền tạm ứng án phí dẫn đến vụ việc kéo dài; chậm tổ chức thi hành án…

Về kháng nghị, các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cũng

đã nhận được các văn bản kháng nghị từ các cơ quan Viện kiểm sát trong quá

trình kiểm sát thường xuyên về thi hành án dân sự. Những nội dung vi phạm

chủ yếu của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và người làm công

tác thi hành án như: Ra quyết định thi hành án chưa đúng nội dung đơn yêu

cầu thi hành án; ra quyết định thi hành án thiếu nội dung…

Nhìn chung, sau khi nhận được các văn bản kiến nghị, kháng nghị của

Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình đã kịp thời trả lời bằng văn bản (chấp nhận hoặc không chấp

nhận sai phạm) cho cơ quan Kiểm sát; đồng thời, có văn bản, kế hoạch chỉ

đạo Chấp hành viên, cán bộ, công chức trong đơn vị thực hiện việc tiếp thu

kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa chữa, khắc phục những tồn tại,

69

thiếu sót, vi phạm (nếu có).

Tuy nhiên, kết quả kiểm sát, nội dung kiến nghị, kháng nghị của Viện

kiểm sát còn có những tồn tại, bất cập như:

+ Chất lượng các cuộc trực tiếp kiểm sát thi hành án dân sự có đôi lúc,

đôi khi còn không đồng đều, hiệu quả của một số cuộc kiểm sát không cao,

một số cuộc trực tiếp kiểm sát không phát hiện vi phạm mà là việc kiểm sát

còn thực hiện hình thức, thiếu sâu sát, thiếu trọng tâm.

+ Nội dung trực tiếp kiểm sát của một số đơn vị chỉ tập trung một số

nội dung như hoãn, tạm đình chỉ, không tiến hành kiểm sát toàn diện nên khó

đánh giá tổng thể hoạt động cũng như vi phạm trong hoạt động kiểm sát thi

hành án, dẫn đến vẫn còn trường hợp Chấp hành viên, cán bộ, công chức

không nghiêm túc đối với hoạt động kiểm sát cũng như không tích cực tiếp

thu, thực hiện các kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát.

+ Một số đơn vị còn có hiện tượng khi kết thúc đợt trực tiếp kiểm sát,

khi xác định vi phạm của cơ quan thi hành án chỉ nêu chung chung, không có

sự phân định rõ ràng, không phân biệt vi phạm và không nêu rõ căn cứ xử lý,

hướng khắc phục, biện pháp xử lý.

+ Vẫn còn hiện tượng áp dụng chưa chính xác các quy định của pháp

luật hoặc còn bất đồng trong cách hiểu, cách áp dụng luật giữa cơ quan thi

hành án dân sự và Viện kiểm sát dẫn đến tồn tại nội dung Viện kiểm sát thì

cho rằng vi phạm nhưng Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự thì

hiểu rằng không có vi phạm dẫn đến khó khăn trong việc tiếp thu, thực hiện

và giải trình, trả lời kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát.

- Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự:

Tình hình công tác thi hành án ngày càng tăng lên về số lượng việc

phải thi hành, gia tăng đột biến về giá trị phải thi hành và tính chất, mức độ

phức tạp của vụ việc, thì đồng thời tình hình đơn thư khiếu nại, tố cáo trong

70

thi hành án dân sự cũng ngày càng tăng lên về số lượng, tính chất, mức độ

phức tạp nên công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa hết sức quan

trọng trong công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để thực hiện tốt công tác

này, Thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng

Bình phân công, bố trí công chức, Chấp hành viên có phẩm chất đạo đức

tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong giải quyết các

tranh chấp, khiếu kiện, khiêu nại để tiếp công dân nhằm hướng dẫn, giải

thích cho các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp

luật, ghi nhận những đề nghị của đương sự để xem xét giải quyết theo thẩm

quyền. Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh thường xuyên chỉ đạo Chi

cục Thi hành án dân sự tăng cường công tác xác minh, đối thoại trực tiếp

nhằm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo phát sinh ngay từ cơ sở, không

để kéo dài trở nên phức tạp, khiếu kiện đông người và giải quyết đúng pháp

luật các yêu cầu của tổ chức, cá nhân để đảm bảo tốt cho việc tổ chức thi

hành án dân sự. Thông qua hoạt động này, những thiếu sót, vi phạm của

Thủ trưởng, Chấp hành viên các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình trong việc thực hiện pháp luật nói chung và hoạt động tổ chức thi

hành bản án, quyết định của toà án vào thực tế cuộc sống nói riêng được

khắc phục, nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân, cơ quan, tổ chức.

Tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh, phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu

nại, tố cáo thuộc Cục được giao nhiệm vụ tham mưu giúp Cục trưởng thực

hiện công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, chỉ đạo Chi cục

trưởng Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh

tập trung giải quyết dứt điểm các đơn thư khiếu nại thuộc thẩm quyền ngay

tại nơi phát sinh, đảm bảo đúng pháp luật, không để tình trạng khiếu nại

bức xúc kéo dài, vượt cấp, gây mất lòng tin trong nhân dân, góp phần bảo

71

vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự và tăng cường pháp chế xã

hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong

thi hành án dân sự của Thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình luôn đạt hiệu quả cao. Kết quả cụ thể:

Bảng 2.4. Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017

Đơn vị tính: đơn

Năm công Số lượng đơn Số lượng đơn tố Kết quả giải Tỷ lệ % tác khiếu nại cáo quyết

2012 0 0 0 100%

2013 26 0 26/26 100%

2014 41 3 44/44 100%

2015 37 11 48/48 100%

2016 39 5 44/44 100%

2017 34 0 34/34 100%

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn

2012-2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

Mặc dù, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thời gian qua đạt kết quả cao. Tuy nhiên,

công tác kiểm giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình còn có một số hạn chế như sau:

+ Việc xử lý đơn: Đây là bước đầu tiên khi cơ quan thi hành án dân

sự tiếp nhận đơn khiếu nại của người khiếu nại, đây là bước quan trọng

trong việc phân loại xử lý đơn, thư và giải quyết khiếu nại về thi hành án

dân sự. Thực tế cho thấy việc phân loại và xử lý đơn thư khiếu nại vẫn còn

tình trạng bỏ sót, chậm chưa xử lý theo quy định, không chuyển đơn thư

72

thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án khác, vẫn còn những trường hợp

do việc phân loại xử lý đơn thư không chính xác dẫn đến việc giải quyết cả

những khiếu nại đã hết thời hiệu theo quy định của pháp luật.

+ Việc tổ chức xác minh, đối thoại: Việc tổ chức xác minh, đối thoại

trực tiếp với người khiếu nại và các cơ quan, tổ chức có liên quan để giải

quyết khiếu nại là việc làm hết sức cần thiết của người giải quyết khiếu nại

nhưng người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần một và cả lần hai chưa

làm triệt để việc này, còn nhiều vụ việc chưa tổ chức đối thoại với người

khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, nắm bắt tâm tư nguyện vọng để kịp

thời định hướng biện pháp giải quyết phù hợp.

- Việc xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan

nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm:

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói chung, trong

hoạt động thi hành án dân sự nói riêng là một trong những chế định quan

trọng của pháp luật nhằm đấu tranh phòng và chống các vi phạm hành chính,

giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, góp phần đưa các bản án, quyết định

có hiệu lực của Toàn án được thực thi trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích

hợp pháp của công dân. Tuy nhiên trong thực tế, kết quả xử lý vi phạm hành

chính trong thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình còn rất khiêm tốn, chưa phản

ánh được hết thực trạng vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự hiện

nay. Thực tế cho thấy, các qui định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt

động thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Bình thời gian qua vẫn chưa phát huy

hiệu quả, việc phòng ngừa, xử lý vi phạm vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều hành

vi vi phạm trong thi hành án dân sự diễn ra phổ biến nhưng chưa được xử lý

kịp thời. Theo báo cáo tổng kết của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

cho thấy trong nhiều năm các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

73

không thực hiện việc xử lý vi phạm hành chính vì Chấp hành viên các cơ

quan thi hành án dân sự do ngại phải tổ chức thi hành quyết định xử phạt vi

phạm hành chính dù nhiều hành vi vi phạm xảy ra nhưng không bị xử lý hành

chính, điển hình như những hành vi: đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ

hai nhưng không đến địa điểm mà không có lý do chính đáng, không cung

cấp thông tin, không thực hiện quyết định khấu trừ thu nhập của người có

thẩm quyền… Vì có quan điểm cho rằng nếu ra quyết định xử phạt vi phạm

hành chính thì việc xử phạt không có tính khả thi, số tiền phải thi hành tăng

dẫn đến người phải thi hành án sẽ tiếp tục chống đối, cản trở việc thi hành án,

không thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong khi việc tổ

chức cưỡng chế để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính không hề

dễ dàng. Mặt khác, hiện nay chưa có chế tài mạnh, phù hợp mang tính bắt

buộc đối với các trường hợp cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm

quyền khi không cung cấp thông tin, xác nhận tài sản cho Chấp hành viên.

Hiện mới chỉ có Nghị định 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24

tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi

hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định xử phạt vi phạm

hành chính từ 1.000.000 đến 3.000.000đ đối với hành vi không cung cấp

thông tin nếu không có lý do chính đáng. Tuy nhiên, trong thực tiễn để xử

phạt hành vi này quả thực không dễ dàng bởi nó sẽ làm ảnh hưởng đến mối

quan hệ phối hợp trong công tác thi hành án dân sự…

Thứ sáu, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên:

Ngoài việc thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành,

Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đều

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên và thực hiện chỉ tiêu thi

74

hành án dân sự được giao như tất cả các Chấp hành viên không giữ chức vụ

lãnh đạo, quản lý. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Bình là những người có thời gian làm công chuyên môn, nghiệp

vụ lâu năm nên việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên có

nhiều thuận lợi, kết quả thi hành vụ việc luôn đạt tỷ lệ cao; thực hiện đúng

quy trình, thủ tục thi hành án; thường xuyên bám nắm địa bàn, kiên trì giáo

dục, thuyết phục đương sự và người thân của đương sự hỗ trợ thi hành án;

tích cực, chủ động phối hợp với chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị nơi

đương sự cư trú, làm việc để xác minh tài sản, thu nhập và đôn đốc đương sự

thi hành; kiên quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với người phải thi hành

án nhưng không tự nguyện thi hành. Qua đó, góp phần quan trọng, tích cực

vào kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, góp phần bảo

đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ

chức, cá nhân và Nhà nước.

Tuy nhiên, do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân

sự tỉnh Quảng Bình còn nặng về công tác quản lý chỉ đạo, điều hành và hoạt

động hành chính nên việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên

chưa nhiều, nhất là việc trực tiếp nhận và tổ chức thi hành vụ việc còn ít, các

vụ việc thi hành chủ yếu là án đơn giản, có giá trị thi hành không lớn…nên

phần nào đã làm hạn chế kết quả công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình.

Thứ bảy, việc tổ chức thực hiện chế độ báo cáo, thống kê thi hành án:

Thời gian qua, Thủ trưởng, Chấp hành viên các cơ quan Thi hành án

dân sự tỉnh Quảng Bình đều thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, thống kê

thi hành án theo Thông tư số 08/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 của Bộ Tư

pháp Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày

03/01/2013 của Bộ Tư pháp Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư

75

số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn Chế độ báo

cáo thống kê thi hành án dân sự và các chế độ thông tin báo cáo khác cho Bộ

Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban

nhân dân tỉnh… Duy trì đều đặn chế độ báo cáo tháng, quý, thực hiện các báo

cáo chuyên đề, báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Bộ, Ngành và chính quyền

địa phương. Đảm bảo tổng hợp số liệu báo cáo chính xác, kịp thời, phân tích

đánh giá đúng mức độ hoàn thành công việc của các đơn vị, Chấp hành viên

trên địa bàn tỉnh nhằm đề ra những phương hướng nhiệm vụ cho giai đoạn

tiếp theo.

Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện chế độ báo cáo, thống kê thi hành án

dân sự cho thấy các cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên cả nước nói

chung và tại Quảng Bình nói riêng phải thực hiện quá nhiều biểu mẫu thống

kê, báo cáo như hiện nay mất rất nhiều thời gian, gây tốn kém công sức, ảnh

hưởng đến chất lượng công tác tổ chức thi hành án của Chấp hành viên và của

người thực hiện chế độ báo cáo thống kế.

Mặt khác, với cách tính thống kê thi hành án dân sự như hiện nay, thì

án có điều kiện đang tính theo nghĩa vụ thi hành án chứ không phải tính theo

điều kiện về tài sản, thu nhập thực tế của đương sự. Một đương sự có nghĩa

vụ thi hành án 50 tỷ, mặc dù qua xác minh, đương sự này chỉ có tài sản duy

nhất trị giá 1 tỷ, thì cơ quan THADS vẫn phải xác định có điều kiện 50 tỷ chứ

không phải là 10 tỷ như điều kiện tài sản thực tế của đương sự.

Ví dụ, Chi cục Thi hành án dân sự huyện BT, tỉnh Quảng Bình đang thi

hành việc thi hành án giữa Công ty Cổ phần NTT phải trả nợ vay cho Ngân

hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh tỉnh Quảng

Bình 50 tỷ đồng. Mặc dù, qua xác minh, thẩm định giá, Công ty cổ phần NTT

chỉ có tài sản duy nhất là nhà xưởng và máy móc trị giá 30 tỷ đồng nhưng do

tài sản bán đấu giá không có người mua, cho nên hơn 1 năm nay thi hành án

76

dân sự huyện BT vẫn đang phải thống kê vụ việc này là án có điều kiện với số

tiền là 50 tỷ đồng.

Cũng với cách tính thống kê như hiện nay, thì gần như cơ quan thi hành

án dân sự, Chấp hành viên nói chung đang phải “ôm” vào cả phần việc của

các cơ quan khác. Điển hình là hoạt động bán đấu giá tài sản. Theo quy định

hiện hành, sau khi cưỡng chế kê biên, định giá tài sản, cơ quan thi hành án

dân sự ký hợp đồng ủy quyền cho tổ chức bán đấu giá tiến hành bán đấu giá

tài sản. Trong thời gian chờ tổ chức đấu giá bán tài sản thì cơ quan thi hành

án dân sư vẫn phải thống kê vụ việc là đang thi hành dở dang. Điều này rõ

ràng là không phù hợp vì toàn bộ quá trình bán đấu giá tài sản là do tổ chức

bán đấu giá thực hiện chứ không phải do cơ quan thi hành án dân sự thực

hiện. Việc bán đấu giá thành trong thời gian bao lâu, nhanh hay chậm phụ

thuộc vào tổ chức bán đấu giá chứ không phụ thuộc vào cơ quan thi hành án

dân sự. Trong nhiều trường hợp, tổ chức đấu giá tài sản chậm bán tài sản đấu

giá, thậm chí vi phạm trình tự bán đấu giá làm kéo dài thời gian bán đấu giá

tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự vẫn phải gánh chịu hậu quả về mặt

thống kê là chậm thi hành án.

Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự hiện hành thì đương sự có

một khoảng thời gian là 10 ngày để tự nguyện thi hành án. Trong thời gian

này, cơ quan thi hành án dân sự chưa được áp dụng các biện pháp cưỡng chế

thi hành án. Tuy nhiên về mặt thống kê, thời gian tự nguyện thi hành của

đương sự nói trên cũng phải tính vào thời gian tổ chức thi hành án của cơ

quan Thi hành án dân sự. Điều bất hợp lý này đã dẫn đến một thực tế là vào

gần thời điểm chốt số liệu thống kê, nếu cơ quan Tòa án chuyển cho cơ quan

Thi hành án dân sự nhiều bản án, quyết định thì coi như việc hoàn thành chỉ

tiêu của cơ quan Thi hành án dân sự trở thành “điều không thể”.

Từ các bất hợp lý về mặt thống kê thi hành án dân sự nói trên, tác giả

77

kính đề nghị Bộ Tư pháp và Tổng cục thi hành án dân sự nghiên cứu khắc

phục tình trạng thống kê “ảo” khi thống kê đối với các vụ việc có điều kiện

thi hành án; tách các hoạt động của các cơ quan khác có liên quan đến hoạt

động thi hành án dân sự (tổ chức bán đấu giá. Tòa án, thanh tra, kiểm tra...),

không thống kê vào thời gian tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân

sự và không thống kê thời gian tự nguyện thi hành án của đương sự vào thời

gian tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự; đồng thời, để giải

quyết bớt những khó khăn cho cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên

và người thực hiện chế độ báo cáo thống kê nhằm đáp ứng yêu cầu nhanh

gọn, hiệu quả, sát thực tế, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự nên

nghiên cứu sửa đổi toàn diện biểu mẫu báo cáo thống kê theo hướng xác lập

phần mềm báo cáo thống kê gắn liền, tương thích với phần mềm kế toán thi

hành án. Từ đó có số liệu chính xác, thống nhất giữa số liệu của chấp hành

viên với số liệu kế toán và giảm tải công việc cho chấp hành viên, đơn vị thực

hiện báo cáo thống kê.

Thứ tám, việc điều động, hướng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công

tác thi hành án đối với Chấp hành viên, công chức cơ quan thi hành án dân sự

cấp tỉnh và cấp huyện trên địa bàn và những việc khác theo hướng dẫn, chỉ

đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.

- Việc điều động đối với Chấp hành viên, công chức cơ quan thi hành

án dân sự cấp tỉnh và cấp huyện trên địa bàn: Có thể nói thời gian qua Cục

Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã thực hiện tốt công tác điều động, luân

chuyển đội ngũ lãnh đạo, chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án

dân sự trên địa bàn tỉnh. Hiệu quả của công tác điều động, luân chuyển rất rõ

nét, lãnh đạo, Chấp hành viên và công chức làm công tác thi hành án dân sự

được điều động, luân chuyển đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; đặc biệt

công tác tổ chức, cán bộ ngày càng được kiện toàn, hoạt động ổn định, nền

78

nếp hơn. Nhiều cán bộ được điều động, luân chuyển đã phát huy được khả

năng, sức sáng tạo, tạo ra “làn gió mới” trong các cơ quan thi hành án dân sự,

góp phần hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và toàn hệ

thống cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

Đơn cử năm 2017, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã thực

hiện Thực hiện điều động, chuyển đổi vị trí công tác đối với 18 công chức và

người lao động, trong đó: Có 01 Chấp hành viên sơ cấp, 02 Thẩm tra viên, 06

Thư ký thi hành án; 02 chuyên viên, 01 kế toán viên, 03 văn thư lưu trữ, và 03

Hợp đồng lao động 68.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác điều động, luân chuyển cán bộ

thời gian qua tại các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cũng đã

bộc lộ nhiều khó khăn, nhất là đối với địa bàn miền núi, giao thông cách trở,

điều kiện sinh hoạt khó khăn, trong khi chưa có chế độ, chính sách mang

tính đặc thù trong hệ thống thi hành án dân sự. Do vậy, đề nghị Bộ Tư pháp

sớm ban hành chế độ, chính sách cho công chức được điều động, biệt phái

trong Hệ thống thi hành án dân sự.

- Việc hướng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công tác thi hành án đối

với Chấp hành viên, công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và cấp

huyện trên địa bàn: Hàng năm, ngay sau khi kết thúc năm công tác của mình,

Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã chỉ đạo các đơn vị thi

hành án dân sự trực thuộc chủ động triển khai thực hiện nhiệm vụ thi hành án

dân sự, tập trung cao độ giải quyết án ngay từ những ngày, tháng đầu năm, tổ

chức thi hành án đối với những vụ việc có điều kiện thi hành từ năm trước

chuyển sang năm sau, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến án tín dụng, ngân

hàng, việc bồi thường thiệt hại cho Nhà nước, bồi thường cho công

dân,…Thực hiện công tác đánh giá, triển khai các giải pháp thực hiện chỉ tiêu,

nhiệm vụ; định kỳ hàng tháng, quý tổ chức Hội nghị giao ban để kiểm tra,

79

nắm tình hình, tiến độ thực hiện nhiệm vụ và có ý kiến chỉ đạo cụ thể đối với

từng lĩnh vực công tác; tham mưu Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự chỉ đạo

giải quyết các vụ việc có khó khăn, phức tạp, khó thi hành [23, tr.20].

Công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án dân sự được lãnh

đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh giao cho Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi

hành án thuộc Cục tham mưu theo dõi trực tiếp để kịp thời đưa ra những

hướng dẫn, chỉ đạo sâu sát, cụ thể đối với các đơn vị cấp dưới, Chấp hành

viên và công chức thực hiện công tác thi hành án dân sự; chủ động phối hợp

với các ngành hữu quan bàn hướng giải quyết vụ việc khó khăn, phức tạp;

đồng thời, tranh thủ sự chỉ đạo của Tổng cục Thi hành án dân sự, Tỉnh uỷ, Uỷ

ban nhân dân tỉnh và Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự các cấp để tháo gỡ

những khó khăn, vướng mắc, xử lý dứt điểm đúng các vụ án có điều kiện

chuyển kỳ sau.

Mặt khác, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã chỉ đạo

kiện toàn Hội đồng Chấp hành viên ở Cục và các Chi cục để tư vấn, tham

mưu giúp cho Cục trưởng, Chi cục trưởng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo

nghiệp vụ.

Đơn cử năm 2017, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã tiếp

nhận 02 văn bản xin ý kiến hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, đã xem xét, giải

quyết 02/02 văn bản, đạt tỷ lệ 100%; đồng thời, Cục Thi hành án dân sự tỉnh

có 02 văn bản xin ý kiến và được Tổng cục Thi hành án dân sự chỉ đạo kịp

thời.

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của

Cục đối với Chi cục Thi hành án dân sự trong một số trường hợp còn chưa kịp

thời, có việc còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, trong khi đó, một số Chi cục

thi hành án dân sự còn thụ động, chưa kịp thời xin ý kiến chỉ đạo hướng dẫn

nghiệp vụ khi phát sinh khó khăn, vướng mắc. Những vụ án tồn, án phức tạp,

80

án liên quan đến tín dụng ngân hàng chưa được tập trung giải quyết triệt để

gây bức xúc trong dư luận.

Xác định công tác kiểm tra và tự kiểm tra có vai trò hết sức quan trọng

trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành nên ngay từ đầu mỗi năm công tác,

lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đều ban hành Kế hoạch

kiểm tra công tác thi hành án dân sự trong toàn hệ thống các cơ quan thi hành

án dân sự tỉnh Quảng Bình; chỉ đạo các cơ quan Thi hành án dân sự cấp

huyện xây dựng Kế hoạch tự kiểm tra nội bộ và triển khai thực hiện, định kỳ

báo cáo về Cục Thi hành án dân sự tỉnh. Trên cơ sở kế hoạch ban hành từ đầu

năm, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thành lập các đoàn kiểm tra và

tổ chức các đợt kiểm tra để năm bắt tình hình hoạt động của các đơn vị. Kết

thúc đợt kiểm tra, trưởng đoàn kiểm tra ban hành kết luận kiểm tra chỉ rõ

những tồn tại, hạn chế, sai phạm của các đơn vị được kiểm tra và yêu cầu giải

trình nguyên nhân dẫn đến thiếu sót, sai phạm, tổ chức khắc phục, sửa chửa,

báo cáo kết quả về Cục Thi hành án dân sự tỉnh.

Đơn cử năm 2017, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình ban hành

Kế hoạch Kiểm tra số 77/CTHADS-KHKT ngày 24/01/2017 về kiểm tra

công tác thi hành án dân sự đối với các Chi cục Thi hành án dân sự huyện, thị

xã, thành phố và các Phòng chuyên môn thuộc Cục và đã tiến hành 20 cuộc

kiểm tra đối với 08/08 Chi cục thi hành án dân sự trực thuộc và 04/04 phòng

chuyên môn thuộc Cục, các cuộc kiểm tra được chia làm 03 đợt, cụ thể:

Tháng 4/2017 đã kiểm tra công tác thi hành án dân sự 6 tháng đầu năm đối

với các Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ, huyện Quảng Trạch,

thành phố Đồng Hới, huyện Bố Trạch và thị xã Ba Đồn; tháng 5/2017 đã

kiểm tra công tác thi hành án dân sự 6 tháng đầu năm đối với các Chi cục Thi

hành án dân sự huyện Tuyên Hoá, Minh Hoá và Quảng Ninh và tháng 9/2017

đã kiểm tra toàn diện các mặt công tác đối với các Chi cục thi hành án dân sự

81

các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh và các Phòng chuyên môn thuộc Cục

Thi hành án dân sự [23, tr.9].

Bên cạnh kết quả đạt được, công tác kiểm tra và tự kiểm tra của Thủ

trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình vẫn chưa thực sự

hiệu quả, nhiều sai phạm của Chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự chưa

được phát hiện để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý kịp thời; kết quả kiểm tra

chưa chỉ rõ sai phạm và cá nhân chịu trách nhiệm.

2.4. Đánh giá địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

2.4.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

Trên cơ sở những báo cáo và nội dung phân tích trên đây, có thể tóm

lược những kết quả đạt được trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung và

hoạt động của nghiệp vụ và quản lý chỉ đạo, điều hành hoạt động thi hành án

dân sự của đội ngũ Chấp hành viên trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua cũng như các nguyên nhân dẫn tới các

kết quả tích cực đó như sau:

* Nguyên nhân khách quan

- Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được Quốc hội nước Cộng hòa xã

hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành từ

ngày 01/7/2009 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án

dân sự đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa

XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 25/12/2014, có hiệu lực thi hành kể từ

ngày 01/7/2015 đã tạo tiền đề quan trọng cho tổ chức và hoạt động của các cơ

quan thi hành án, đồng thời tăng cường, củng cố và khẳng định vị thế của

Chấp hành viên trung cấp trong hoạt động thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, sự

ra đời của Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ qui

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự

82

năm 2008 về cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án

dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự; Nghị định số

58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ qui định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về thủ tục thi

hành án (Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa

đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009)

và nay là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 28/7/2015 của Chính phủ quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự

đã cụ thể hóa, quy định các nội dung có liên quan nhằm tạo điều kiện thuận

lợi cho Chấp hành viên trung cấp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

- Sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án

dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình trong công tác thi hành án,

tạo điều kiện để mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn, kỹ

năng nghiệp vụ, lý luận chính trị cho đội ngũ Chấp hành viên nói chung và

Chấp hành viên trung cấp nói riêng.

Bên cạnh đó, sự quan tâm phối hợp một cách có hiệu quả, đồng bộ của

các cấp, các ngành, các cơ quan hữu quan trong hoạt động tổ chức thi hành án

đã tạo điều kiện, môi trường làm việc tốt cho các Chấp hành viên nói chung

và Chấp hành viên trung cấp nói riêng như: phối hợp của cơ quan Công an

trong việc bảo vệ cưỡng chế, xác minh, tống đạt thi hành án; phối hợp của

Viện kiểm sát trong việc kiểm tra, giám sát công tác thi hành án; phối hợp của

Toà án trong việc chuyển giao bản án, quyết định, xét miễn giảm thi hành án;

Cơ quan Tài chính trong việc xử lý tài sản sung công, tiêu hủy tang vật…

* Nguyên nhân chủ quan

- Đội ngũ Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình đã không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,

cũng như trình độ lý luận chính trị đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu

83

phục vụ công tác trong tình hình mới, phần lớn họ còn trẻ nên luôn nỗ lực

phấn đấu, vượt lên khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ một cách chất lượng và

hiệu quả. Bên cạnh đó, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cũng quan

tâm đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ Chấp hành viên nói chung và Chấp hành

viên trung cấp nói riêng. Hàng năm, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

đều cử Chấp hành viên theo học các lớp Cao học Luật và các lớp bồi dưỡng

nghiệp vụ Chấp hành viên cao cấp. Các Chấp hành viên trung cấp đều có

trình độ tin học, trình độ ngoại ngữ phù hợp với ví trí công tác và ngạch công

chức.

- Kiến thức về lý luận chính trị của đội ngũ Chấp hành viên trung cấp

ngày một nâng cao, qua đó vận dụng, triển khai vào thực tế công tác đạt kết

quả tốt. Nhìn chung, đội ngũ Chấp hành viên trung cấp ở tỉnh Quảng Bình có

phẩm chất chính trị vững vàng, trưởng thành qua thực tế công tác; luôn kiên

định và tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu hết mình phục

vụ đất nước và nhân dân. Có đạo đức nghề nghiệp, tận tụy với công việc, yêu

ngành, yêu nghề; không ngừng học tập để nâng cao kiến thức về mọi mặt.

Chấp hành tốt kỷ luật, kỷ cương trong ngành, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ

được giao và hoàn thành với chất lượng tốt nhất; dám nghĩ, dám làm, dám

chịu trách nhiệm; thường xuyên tìm tòi, đổi mới cách nghĩ, cách làm, vận

dụng một cách sáng tạo, khoa học các kiến thức và kinh nghiệm vào thực tế

công tác. Qua đó, đã góp phần quan trọng đưa công tác thi hành án dân sự của

Quảng Bình trong những năm qua có bước chuyển mình mạnh mẽ. Chấp hành

viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng thường xuyên được rèn

luyện trong môi trường công tác, trải qua nhiều thử thách nên đã vận dụng

một cách thành thạo, sáng tạo các kỹ năng thi hành án dân sự vào thực tế,

đem lại chất lượng, hiệu quả trong giải quyết công việc, hoàn thành tốt nhiệm

vụ của ngành, phục vụ kịp thời cho nhiệm vụ chính trị của địa phương, giữ

84

vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Bên cạnh đó, đội ngũ Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình còn thường xuyên học hỏi kinh nghiệm, quản lý điều hành cũng

như kỹ năng tổ chức thi hành án của các đơn vị thi hành án trong và ngoài

tỉnh, vận dụng vào thực tế công tác của địa phương một cách kịp thời, giải

quyết được nhiều vụ việc khó khăn, phức tạp; đẩy nhanh được tiến độ, chất

lượng thi hành án, tạo được niềm tin của nhân dân, của xã hội đối với hoạt

động thi hành án dân sự.

2.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân

Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp được hình

thành và xây dựng trên cơ sở kết quả hoạt động thi hành án dân sự, thông qua

việc được trao quyền, giao nhiệm vụ, tổ chức triển khai và thực hiện nhiệm vụ

được giao, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, thực tế phản ánh

những yếu tố, những vấn đề mang tính bất cập và nguyên nhân nêu dưới đây

đã ảnh hưởng cơ bản, chủ yếu đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành

viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh quảng Bình:

Một là, quy định của pháp luật hiện nay việc tổ chức thi hành án dân sự

còn quá nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp và nhiều thành phần, ban ngành tham

gia, phải ban hành nhiều loại quyết định, thông báo về thi hành án làm cho

mất rất nhiều thời gian và công sức để thực hiện nhưng hiệu quả thực tiễn

chưa cao, kết quả thi hành xong về việc, về tiền thực thu so với tổng giá trị

thụ lý là rất thấp.

Hai là, vẫn còn trường hợp kỹ năng, trình độ nghiệp vụ và kỷ năng

lãnh đạo, quản lý của Chấp hành viên trung cấp không đáp ứng yêu cầu công

tác, ý thức trách nhiệm chưa cao, còn có vi phạm kỷ luật xảy ra… mà nguyên

nhân là Chấp hành viên trung cấp chưa thường xuyên cập nhật pháp luật,

85

không tự nghiên cứu để tiếp thu những kiến thức mới, không học tập tu

dưỡng nâng cao trình độ mà chỉ làm theo kinh nghiệm dẫn đến vi phạm pháp

luật; hoặc sa sút về phẩm chất đạo đức, cố tình vi phạm pháp luật hoặc thiếu

trách nhiệm đã dẫn đến vi phạm.

Ba là, tình hình thời gian gần đây, tình trạng quá tải công việc luôn xảy

ra với hầu hết các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

cũng như quá tải với các Chấp hành viên nói chung, Chấp hành viên trung cấp

nói riêng và các công chức khác. Số lượng việc thi hành án tăng nhanh đột

biến về số lượng đầu việc, về giá trị phải thi hành và tính phức tạp của vụ

việc. Trong khi đó, như nêu tại Bảng 2.1 trên đây, số lượng Chấp hành viên

nói chung và Chấp hành viên trung cấp toàn tỉnh Quảng Bình là quá ít so với

số lượng việc, tiền phải thi hành án, và tỷ lệ biên chế Chấp hành viên được bổ

sung tăng thêm không đáng kể, ví dụ tính đến 30 tháng 9 năm 2017, toàn tỉnh

chỉ có 44 Chấp hành viên (14 Chấp hành viên trung cấp, 30 Chấp hành viên

sơ cấp). Và trong đó vẫn còn có một bộ phận Chấp hành viên trung cấp còn

thiếu về trách nhiệm, yếu về năng lực, không đáp ứng yêu cầu năng lực công

tác trong tình hình mới, không theo kịp sự phát triển của xã hội, dẫn đến bất

cập là người không làm được việc tất yếu sẽ bị hạn chế giao việc và có nhiều

thời gian rảnh, còn người làm được việc thì phải đảm nhiệm nhiều công việc,

quá tải trong công việc thường xuyên xảy ra.

Bốn là, chế độ chính sách đối với đội ngũ chấp hành viên trung cấp,

cán bộ thi hành án dân sự còn chưa hợp lý, chưa phù hợp với tính chất đặc thù

của ngành thi hành án, chưa khuyến khích động viên thỏa đáng đối với chấp

hành viên nói chung. Tiền lương ít nhưng chẳng may để xảy ra sai sót mà

phải bồi thường thì rất đáng lo, bởi thiệt hại trong thi hành án thường là rất

lớn. Điều này làm cho chấp hành viên nói chung có tâm lý e ngại, thiếu quyết

đoán trong công việc, chưa yên tâm, phấn khởi trong công tác thi hành án.

86

Năm là, một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm

đến công tác thi hành án dân sự. Trên thực tế, tại nhiều nơi trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình, công tác thi hành án dân sự không nhận được sự quan tâm chỉ

đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương do chỉ chú trọng hoạt động xét xử

của Tòa án, chưa nhận thức đúng mức tầm quan trọng của hoạt động thi hành

án dân sự dẫn đến sự xem nhẹ công tác thi hành án, thiếu sự phối hợp đồng

bộ, địa vị pháp lý của Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp

nói riêng chưa được coi trọng.

Sáu là, Bản án tuyên không rõ nên cơ quan Thi hành án, Chấp hành

viên khó thi hành, chất lượng xét xử của tòa án còn nhiều hạn chế, bất cập.

Vẫn còn trường hợp bản án giải quyết một vụ việc bị hủy nhiều lần, xét xử lại

qua nhiều cấp, nhiều lần với kết quả xét xử lần sau hủy lần trước, phúc thẩm,

giám đốc thẩm nhiều lần vẫn chưa kết thúc. Đây là nguyên nhân tạo nên bức

xúc, khiếu nại, tố cáo, chống đối thi hành án; lực lượng Chấp hành viên, công

chức thi hành án là người phải trực tiếp giải quyết, đối mặt với khó khăn,

phức tạp và thậm chí là nguy hiểm khi thi hành nhiệm vụ.

Bảy là, trong công tác thi hành án dân sự, hầu hết Chấp hành viên phải

tiếp xúc với đương sự trong đó có ít nhất là một bên vi phạm pháp luật, do đó,

tất nhiên là việc ý thức chấp hành pháp luật, tuân thủ pháp luật chưa nghiêm

đã xuất phát ngay từ ban đầu, là nguyên nhân dẫn đến việc phải tổ chức thi

hành án. Có thể một phần trong số đương sự là người chưa hiểu biết pháp

luật, nhận thức pháp luật còn hạn chế, nhưng cũng không ít các trường hợp

đương sự hiểu pháp luật nhưng cố ý vi phạm, không tuân thủ, không tự

nguyện thi hành án, khiếu kiện kéo dài nhằm cản trở công tác thi hành án, ảnh

hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của Chấp hành viên và địa vị pháp lý

hành chính của Chấp hành viên trung cấp.

87

Tóm tắt chương 2

Tại Chương 2 này đã tập trung vào trọng tập nêu bật về thực trạng địa

vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự từ

thực tế tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình, và nội dung này đã được phản ánh, phân tích dưới các mặt như sau:

Khái quát về cơ cấu tổ chức và hoạt động theo mô hình hai cấp (cấp

tỉnh và cấp huyện) của các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, trong

đó nêu rõ vai trò, nhiệm vụ của mỗi cấp, thống kê số lượng Chấp hành viên

nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng trong các cơ quan thi hành

án dân sự tỉnh Quảng Bình hiện nay.

Trong Chương này cũng nêu rõ về những kết quả nổi bật trong từng

mặt công tác, mô tả một số công việc cụ thể đối với từng chức trách, nhiệm

vụ của Chấp hành viên như là trong việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn chung

và riêng của Chấp hành viên trung cấp, quyền và nghĩa vụ với vai trò là Thủ

trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, có phân tích, đánh giá

nhằm làm rõ về kết quả, hiệu quả, vị trí, vai trò, địa vị pháp lý hành chính của

Chấp hành viên trung cấp trong từng nhiệm vụ công tác được giao và trong

các mối quan hệ công tác.

Qua đây cũng nêu rõ những kết quả đạt được của Chấp hành viên trung

cấp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao trong thời gian gần đây, nêu

và phân tích bảy nội dung bất cập và nguyên nhân cơ bản đã ảnh hưởng đến

địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự từ

thực tiễn tại tỉnh Quảng Bình.

88

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH

CHÍNH CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP

TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

3.1. Phương hướng nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành

viên trung cấp trong thi hành án dân sự

3.1.1. Cần bảo đảm tính độc lập của Chấp hành viên trung cấp

Theo qui định của pháp luật, Chấp hành viên nói chung và Chấp hành

viên trung cấp thi hành án dân sự nói riêng có quyền độc lập tác nghiệp và chỉ

tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của

mình. Thực tiễn công tác thi hành án dân sự không phải lúc nào Chấp hành

viên trung cấp cũng toàn quyền để thực thi nhiệm vụ được giao. Cơ quan Thi

hành án dân sự về mặt quản lý Nhà nước chịu sự quản lý mang tính song

thùng trực thuộc; quản lý ngành dọc Cơ quan thi hành án dân sự địa phương

trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự Bộ Tư pháp quản lý, mặt khác chịu

sự kiểm tra giám sát của hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp tại địa

phương do vậy hoạt động của Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên

trung cấp nói riêng ít nhiều cũng ảnh hưởng bởi cơ chế này. Cơ quan thi hành

án dân sự địa phương ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn theo ngành

dọc còn có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương nơi công

tác, trong quá trình thực thi nhiệm vụ một số trường hợp vì mục đích ổn định

chính trị, xã hội tại địa phương, Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên

trung cấp không thể chỉ tuân theo pháp luật. Một số phát sinh khác phát sinh

ngay trong nội tại một số ít cơ quan thi hành án dân sự địa phương. Theo quy

định của pháp luật về thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án là

chức danh quản lý Nhà nước có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn về

89

mặt chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức thuộc quyền, Chấp

hành viên trung cấp vẫn là người phải chịu trách nhiệm chính về những hoạt

động tác nghiệp của mình. Tuy vậy, trên thực tế có trường hợp Thủ trưởng cơ

quan Thi hành án can thiệp sâu vào hoạt động của Chấp hành viên nói chung

và Chấp hành viên trung cấp nói riêng đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ

và hiệu quả giải quyết việc thi hành án của Chấp hành viên. Chấp hành viên

nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng là người được Thủ trưởng

Cơ quan thi hành án giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành việc thi hành án;

đồng thời, là chủ thể chịu trách nhiệm chính trước pháp luật về những hành vi

của mình và được pháp luật bảo vệ. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự là hoạt

động rất đa dạng động chạm đến quyền, lợi ích của nhiều cá nhân, tổ chức,

liên quan đến nhiều lĩnh vực, Chấp hành viên trung cấp dù muốn cũng không

có đủ khả năng đáp ứng tất cả các lĩnh vực chuyên môn, trong những trường

hợp như vậy đòi hỏi phải có sự tham gia phối kết hợp với những cơ quan

chuyên môn cùng giải quyết. Thực tế công tác thi hành án có vụ việc tranh

chấp về tài sản giữa các đương sự về giá trị tài sản không lớn song trong giai

đoạn xét xử đã sảy ra đơn thư khiếu nại đến nhiều cơ quan, ban ngành, ngay

từ đầu thụ lý giải quyết đã được Chấp hành viên trung cấp, cơ quan thi hành

án xác định là vụ việc phức tạp, Chấp hành viên bằng nhiều biện pháp đã kiên

trì động viên, thuyết phục các đương sự và đã thống nhất được biện pháp giải

quyết giữa các đương sự, tránh phải sử dụng đến biện pháp cưỡng chế thi

hành án, vừa gây tốn kém cho đương sự mất thời gian công sức của Chấp

hành viên, cán bộ Cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, tranh chấp giữa các bên

chỉ là 2 đến 3 cm (Centimet) đất và công trình xây dựng, lại được chia thành

nhiều đoạn, ở địa hình không thuận lợi cho việc xác định mốc giới. Đương sự

yêu cầu phải có sự tham gia của cơ quan chuyên môn có kỹ năng đo đạc

chính xác đến từng cm, trường hợp này ngay cả các loại máy móc chuyên

90

ngành thực hiện cũng đã rất khó. Chấp hành viên trung cấp đề xuất Thủ

trưởng cơ quan mời cơ quan chuyên môn để xác định mốc giới cho các bên

tranh chấp, tuy vậy Thủ trưởng cơ quan thi hành án cho rằng Chấp hành viên

có đủ năng lực giải quyết vụ việc không cần thiết phải mời cơ quan chuyên

môn trong lĩnh vực này, dẫn tới thỏa thuận giữa các bên không thực hiện

được và đương nhiên các đương sự không tiếp tục cộng tác với Chấp hành

viên để giải quyết vụ việc dẫn tới tình trạng án có điều kiện giải quyết tiếp tục

tồn đọng kéo dài, không những ảnh hưởng tới việc hoàn thành nhiệm vụ của

Chấp hành viên trung cấp mà còn ảnh hưởng tới thành tích của cả cơ quan,

đơn vị.

Do đó, cần phải có cơ chế rõ ràng để đảm bảo quyền độc lập tác nghiệp

và chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật của Chấp hành

viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng. Mọi hành vi cản trở,

can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án, Chấp hành

viên trung cấp đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Người nào lợi dụng

chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án hoặc ép buộc Chấp hành

viên trung cấp thi hành án trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi

phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt

hại thì phải bồi thường. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm

thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên trung cấp trong

khi tổ chức thi hành án. Nếu những cơ quan, tổ chức này không thực hiện các

yêu cầu của Chấp hành viên trung cấp thì tùy theo tính chất và mức độ vi

phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi

thường; nếu là cá nhân thì có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị

truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

91

3.1.2. Cần phân định rõ hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của Chấp hành

viên trung cấp

Việc phân định rõ hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của Chấp hành viên

trung cấp có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó nói lên tính lôgíc, khoa học đảm

bảo cho Chấp hành viên trung cấp tổ chức thực hiện nhiệm vụ được phân

công một cách có hiệu quả. Hiện nay cơ cấu các chức danh trong biên chế các

cơ quan thi hành án dân sự bao gồm: Chấp hành viên (sơ cấp, trung cấp và

cao cấp), Thẩm tra viên và thẩm tra viên chính, kế toán, chuyên viên, cán sự,

văn thư đánh máy, thủ kho, thủ quỹ, lái xe. Vấn đề được đặt ra ở đây làm phải

làm sao phân biệt rạch ròi, rõ ràng, cụ thể đâu là nhiệm vụ của Chấp hành

viên sơ cấp, đâu là nhiệm vụ của Chấp hành viên trung cấp, đâu là nhiệm vụ

của Chấp hành viên cao cấp và đâu là nhiệm vụ của cá chức danh còn lại,

công đoạn nào, thủ tục nào, loại văn bản nào thì Chấp hành viên trung cấp

thực hiện... Chỉ khi xác định được rõ ràng như vậy thì các Chấp hành viên

trung cấp mới thực sự thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả, chất lượng thi hành án

mới được nâng lên và qua đó mới có cơ sở để các định trách nhiệm nếu để

xảy ra sai sót, chậm tiến độ, gây thiệt hại trong quá trình tổ chức thi hành án.

3.1.3. Tăng quyền hạn cho Chấp hành viên trung cấp và Thủ trưởng cơ

quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh

Tăng quyền hạn cho Chấp hành viên trung cấp như: quyền khám xét

người, nơi ở, nơi cất dấu tài sản, tài liệu của người phải thi hành án. Bổ sung

quyền bắt người chống người thi hành công vụ khi cần thiết thì hiệu quả thực

hiện pháp luật của chấp hành viên trung cấp sẽ cao hơn rất nhiều.

Hoạt động thi hành án dân sự vô cùng phức tạp, dễ gặp nguy hiểm, sự

chống đối của người phải thi hành án. Nghề Chấp hành viên là nghề gian nan,

phức tạp, đụng chạm trực tiếp tới quyền và lợi ích của người phải thi hành án

nên có nguy cơ bị đe doạ, trả thù, nguy hiểm. Thực tế, như khi xác minh, giải

92

quyết việc thi hành án vận động đương sự tự nguyện thi hành án, chấp hành

viên, cán bộ thi hành án vẫn bị đương sự dùng hung khí tấn công gây thương

tích. Tuy nhiên, hầu như chưa có cơ chế đủ mạnh đủ để bảo vệ tính mạng,

thân thể danh dự của chính Chấp hành viên và nhân thân của họ. Vì vậy,

không tạo cho chấp hành viên yếu tố quyết liệt trong cưỡng chế thi hành án

do e ngại sự đe doạ, trả thù…

Do vậy, cần có quy định bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho Chấp

hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng trong quá trình tác

nghiệp vì hiện nay quy định về trình tự thủ tục thi hành án dân sự còn quá

rườm rà và một số trường hợp chưa rõ ràng nên dễ dẫn đến sai sót.

Quy định rõ hơn về trách nhiệm của cơ quan Công an trong việc xây

dựng kế hoạch cưỡng chế, bảo vệ người và tài sản trong quá trình tổ chức

cưỡng chế. Cần đưa nhiệm vụ này vào nhiệm vụ chính trị của cơ quan công

an.

Tăng quyền, hoặc phân cấp thêm thẩm quyền cho Thủ trưởng cơ quan

Thi hành án dân sự cấp tỉnh về công tác tổ chức cán bộ như: Giao Thủ trưởng

cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh có quyền bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân

chuyển, miễn nhiệm, cho từ chức đối với Chi cục trưởng; Quyết định phê

duyệt quy hoạch đối với Chi cục trưởng. Phân cấp cho Cục trưởng thẩm

quyền bổ nhiệm vào ngạch, chuyển ngạch đối với Thẩm tra viên thuộc Cục,

các Chi cục Thi hành án dân sự; quản lý công chức lãnh đạo trong việc bổ

nhiệm, miễn nhiệm... đối với Phó Cục trưởng; quyết định cho Phó cục trưởng

đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước theo kế hoạch phê duyệt, Tổng cục chỉ cần

theo dõi, quản lý. Bởi vì Cục trưởng là người biết rõ ràng năng lực, đạo đức

của Chấp hành viên, công chức trong toàn đơn vị…

93

3.1.4. Nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp

đồng bộ với cải cách tư pháp, cải cách hành chính

Việc thực hiện cải cách tư pháp, cải cách hành chính là chủ trương lớn

và rất đúng đắn, kịp thời của Đảng và nhà nước đã và đang triển khai thực

hiện, từng bước khẳng định hiệu quả trong những năm qua.

Như Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/ 6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ

thì việc cải cách tư pháp, cải cách hành chính hướng tới mục tiêu làm sao tổ

chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và

hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác

định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa

mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp;

Và cũng trong Nghị quyết 49-NQ/TW, mục tiêu cốt lõi, và nội dung cải

cách này đã chỉ rõ thực hiện cải cách theo hướng nâng cao địa vị pháp lý của

cán bộ có chức danh tư pháp, trong đó có chức danh Chấp hành viên nói

chung (sơ cấp, trung cấp, cao cấp), thông qua việc nâng cao quyền hạn, trách

nhiệm pháp lý đồng thời với việc nâng cao và cụ thể hóa hàng loạt các tiêu

chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức xã

hội và tiến tới sẽ tổ chức thi tuyển đối với một số chức vụ lãnh đạo trong cơ

quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện.

Để thực hiện các phương hướng nói trên, luận văn đưa ra một số giải

pháp hoàn thiện sau đây:

3.2. Giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành

viên trung cấp thi hành án dân sự

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự

Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Nghị định

62/2015/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành thể hiện một bước tiến quan

trọng, đã kịp thời sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới phù hợp thực tiễn, đáp

94

ứng những đòi hỏi cấp thiết về thể chê hóa trong công tác thi hành án dân sự,

khắc phục được nhiều điểm còn bất cập trong quy định của luật.

Tuy nhiên, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhưng các

quy định của pháp luật hiện hành vẫn chưa quy định các quyền, nghĩa vụ, vị

trí, vai trò của Chấp hành viên trung cấp và các văn bản dưới luật hiện hành

cũng chưa thực sự hoàn thiện các quy định về chức danh này, vẫn còn có sự

không phân định rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm đối với chức danh này.

Do đó, nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, hoàn

thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao địa vị pháp lý của Chấp hành

viên trung cấp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, từ

thực tiễn công tác thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cho thấy cần tiếp tục

hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự theo các hướng như sau:

Trước mắt, trong thời gian tới cần sớm thực hiện và hoàn thiện văn bản

quy phạm pháp luật quy định về tiêu chuẩn của ngạch Chấp hành viên trung

cấp thi hành án dân sự để thay thế cho các quy định hiện hành có nhiều nội

dung không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội.

Tiếp theo, cũng cần thiệt thể chế hóa một cách cụ thể, rõ ràng nội dung

quy trình về tuyển chọn, bổ nhiệm, nâng ngạch, miễn nhiệm, cách chức và

các nội dung quản lý khác đối với ngạch Chấp hành viên trung cấp.

Cần xem xét xây dựng, đề xuất xây dựng các quy định sửa đổi, bổ sung

đối với Luật Thi hành án dân sự hiện hành các quy định cụ thể đối với chức

danh Chấp hành viên trung cấp, mà cụ thể là các quy định quyền, nghĩa vụ,

chức trách, nhiệm vụ đối với chức danh Chấp hành viên trung cấp, đảm bảo

tính độc lập của Chấp hành viên trung cấp, khẳng định và nâng cao địa vị

pháp lý của Chấp hành viên trung cấp để tương xứng với vai trò, tầm quan

trọng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trung cấp trong việc tổ chức

thi hành bản án, quyết định của Tòa án và nhiệm vụ, quyền hạn với vai trò là

95

Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, góp phần tạo thế và

lực, tạo cơ sở cho việc phát huy những giá trị, năng lực của Chấp hành viên

trung cấp và góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.

3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự

Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã định hướng

việc kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp là tổ chức các cơ quan tư

pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ

chức và điều kiện, phương tiện làm việc.

Luật Thi hành án dân sự hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành

đã quy định rõ về cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự, làm

cơ sở để thực hiện việc kiện toàn tổ chức hệ thống từ trung ương đến địa

phương. Trên cơ sở nghị quyết của Bộ Chính trị và các quy định của pháp

luật thi hành án dân sự hiện hành, từ thực tiễn hoạt đông của hệ thống các cơ

quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cho thấy cần tiếp tục thực hiện việc

kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự cơ bản sau:

Một là, tiếp tục phát huy, tăng cường và nâng cao hơn nữa năng lực

quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan thi

hành án dân sự từ cấp tỉnh đến các quận, huyện, thị xã, thành phố.

Hai là, thực hiện có hiệu quả việc quản lý, sử dụng lực lượng biên chế

hiện có, trong đó phát huy tốt nhất hiệu quả của công tác phân công phân

nhiệm, ủy quyền, phân quyền, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, rèn

luyện đối với cán bộ, công chức, nhất là đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ,

công chức trong quy hoạch. Phát huy hiệu quả của công tác điều động, luân

chuyển, biệt phái cán bộ, công chức, bao gồm cả lực lượng Chấp hành viên

trung cấp.

Ba là, cần có phương án, kế hoạch ngắn hạn và dài hạn phát triển

nguồn nhân lực một cách phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác

96

trong hiện tại và tương lai, trong đó chú trọng công tác tuyển dụng, bổ nhiệm

và đặc biệt là thực tiễn hiện nay lực lượng Chấp hành viên trung cấp còn

mỏng về số lượng, còn một số hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, cần

được chú trọng tăng cường.

Bốn là, tăng cường sự phối hợp của cơ quan thi hành án dân sự với các

cấp, các ngành trong quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác thi hành án dân sự.

Tiếp tục đổi mới, chủ động, tích cực hơn nữa trong công tác quản lý, chỉ đạo,

điều hành theo hướng nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu,

người đứng đầu phải gương mẫu, đi sâu, đi sát, chỉ đạo cụ thể, quyết liệt, rõ

người, rõ việc, rõ thời gian hoàn thành. Chấn chỉnh khắc phục những hạn chế,

bất cập, yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ để từng bước nâng cao công

tác tổ chức, quản lý nhân sự, sắp xếp, quy hoạch cán bộ đáp ứng nhiệm vụ

chính trị trong tình hình mới, nâng cao vai trò của cơ quan thi hành án dân sự

và nâng cao vị trí, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp,

bảo đảm thẩm quyền, vị trí của Chấp hành viên trung cấp tương xứng nghĩa

vụ, trọng trách được giao.

3.2.3. Nâng cao năng lực thực thi công vụ của Chấp hành viên trung cấp

Thông qua kết quả công tác thực tiễn thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình và trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về lý luận có thể thấy đồng thời với

việc cải cách tư pháp, cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế, kiện toàn tổ

chức bộ máy thì việc nâng cao năng lực thực thi công vụ cũng là một trong

những biện pháp, giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác,

nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp.

Để nâng cao năng lực thực thi công vụ của Chấp hành viên trung cấp,

cần tập trung vào một số nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, thực hiện từng bước đổi mới một cách triệt để công tác quản lý

cán bộ, công chức, mà trước hết là đổi mới ngay trong khâu tuyển dụng.

97

Hai là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo

hướng hiệu quả thiết thực, trong đó cần xác định các nội dung trọng tâm đột

phá trong cải cách, hướng tới tính chuyên nghiệp, hiện đạt, phù hợp xu thế hội

nhập quốc tế.

Ba là, sử dụng lực lượng cán bộ, công chức hợp lý, hiệu quả. Xây dựng

hệ thống các quy định về sử dụng cán bộ, công chức trên cơ sở thực tài, năng

lực thực tế giải quyết công việc và kết quả thực hiện công việc. Từng bước

triển khai mỗi vị trí công việc phải có mô tả công việc giúp cho việc tuyển

dụng, phân công theo dõi kết quả thực hiện công việc. Đổi mới công tác đánh

giá cán bộ, công chức, hướng tới đánh giá dựa trên kết quả thực thi công vụ.

Xác định vai trò của người đứng đầu, chú trọng vai trò của người thủ trưởng

trong phân công, sử dụng, đánh giá nhân viên và chịu trách nhiệm với kết quả

thực hiện công việc của nhân viên.

Bốn là, tạo động lực cho cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Cần

thiết thực hiện đổi mới công tác thi đua khen thưởng, các chính sách về lương

và đãi ngộ. Cần khách quan, trung thực không có ngoại lệ trong thực hiện

khen thưởng, kỷ luật trong thực thi nhiệm vụ với các hình thức thưởng, phạt

công minh. Lương và các hình thức đãi ngộ khác cần thể hiện sự đánh giá

tương xứng với công sức cán bộ, công chức bỏ ra để tạo ra động lực cho họ

làm việc tốt hơn. Có làm tốt công tác này mới hy vọng giữ chân được những

người giỏi, có tài ở lại phục vụ lâu dài trong nền công vụ.

3.2.4. Kiểm soát tốt hoạt động của Chấp hành viên trung cấp

Luôn quan tâm, chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kế hoạch và các

biện pháp đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí trong các hoạt động

công vụ của công chức nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng, coi

đây là công tác thường xuyên. Chú trọng đến việc giáo dục chính trị, tư

98

tưởng, đao đức lối sống cùng với việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của

Chấp hành viên trung cấp.

Bên cạnh đó cũng cần luôn quan tâm tổ chức tốt các phong trào thi đua;

xây dựng, ban hành và thực hiện nghiêm túc các quy chế về tăng cường kỷ

luật công vụ, gắn với chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với đội ngũ Chấp hành

viên trung cấp.

Xây dựng các quy định, quy chế tăng cường kỷ luật công vụ để tiến tới

xây dựng một nền công vụ “chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh

bạch, hiệu quả”. Cùng với đó là việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác

thanh tra, kiểm tra, giám sát để phát hiện, xử lý các hành vi tiêu cực trong

hoạt động nghiệp vụ và hoạt động quản lý chỉ đạo, điều hành hoạt đông thi

hành án dân sự với vai trò là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi hành án

dân sự của Chấp hành viên trung cấp. Cần thực hiện tốt cơ chế thanh tra nội

bộ, kiểm tra hoạt động và tự kiểm tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ

được giao. Thực hiện công tác thanh tra công vụ, hành chính, tập trung chú ý

và phát hiện kịp thời các biểu hiện, hiện tượng tiêu cực trong đội ngũ cán bộ,

công chức, Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng

để kịp thời chấn chỉnh, xử lý. Cần thực hiện các đợt kiểm tra, đánh giá đột

xuất hoặc kiểm tra định kỳ đối với Chấp hành viên trung cấp ở một số nội

dung công việc. Hoạt động kiểm tra, đánh giá phải mang tính khách quan,

thiết thực, phù hợp với hoàn cảnh của từng đơn vị, từng vị trí công tác, có

trọng tâm, tập trung vào đánh giá hiệu quả công việc, đánh giá ý thức chấp

hành kỷ luật công vụ của Chấp hành viên trung cấp. Đối với những hành vi

vi phạm, phải nghiêm khắc xử lý kỷ luật theo quy định; đồng thời, phải phát

hiện, động viên khen thưởng kịp thời những cá nhân có thành tích tốt, có

tinh thần trách nhiệm và mang lại hiệu quả cao trong công việc.

99

Đề cao chế độ trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị, trách nhiệm của

cấp ủy Đảng và năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.

3.2.5. Nâng cao ý thức pháp luật cho các bên liên quan

Trong hoạt động nghiệp vụ và công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành

công tác thi hành án dân sự ở địa phương, Chấp hành viên trung cấp thường

xuyên phải tiếp xúc, làm việc, thiết lập các mối quan hệ với các bên liên quan

như với các đương sự, với chính quyền địa phương và với các cơ quan, tổ

chức, ban ngành khác.

Một trong những yếu tố góp phần thực hiện pháp luật thi hành án dân

sự có hiệu quả, nâng cao hiệu quả công tác cũng như nâng cao địa vị pháp lý

hành chính của Chấp hành viên trung cấp thì cần thiết phải đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành

án dân sự nói riêng.

Việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải thực

hiện sâu rộng dưới nhiều hình thức tới mọi tầng lớp nhân dân, nhất là tuyên

truyền, phổ biến Luật Thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật có liên

quan, trong đó tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau:

Một là, cần phải luôn coi trọng và xây dựng nhận thức đúng về vị trí,

vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Quán triệt quan điểm, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật

đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ văn

hóa pháp lý cho mọi tầng lớp nhân dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tạo cơ chế phối hợp giữa hoạt động

nghiệp vụ của Chấp hành viên, Thẩm tra viên với các cán bộ phụ trách tư

pháp các cấp, các ngành địa phương để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ

biến pháp luật hiệu quả.

100

Hai là, xây dựng kế hoạch phối hợp trong công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật giữa cơ quan thi hành án dân sự và các đoàn thể, chính quyền địa

phương trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm phát

huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lồng ghép các hoạt động nhằm phổ

biến kiến thức pháp luật, đặc biệt là pháp luật về thi hành án dân sự cho đội

ngũ cán bộ, công chức, cho đương sự và các tầng lớp nhân dân.

Ba là, đổi mới phương thức phổ biến, giáo dục pháp luật, tạo tính tích

cực, chủ động trong việc tìm hiểu, áp dụng các phương thức hiện đại trong

việc phổ biến các quy định của pháp luật để tạo sự chuyển biến về nhận thức,

tạo thành thói quen tuân thủ pháp luật, hình thành ý thức tự giác tìm hiểu,

nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, sống học tập và làm việc theo pháp luật,

triệt để ứng dụng và phát huy hiệu quả của việc tuyên truyền, phổ biến, giáo

dục pháp luật trên mạng internet, truyền thông hiện đại, xây dựng chuyên mục

phổ biến pháp luật, lựa chọn nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp.

Bốn là, cần tập trung nguồn lực triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị

trọng tâm của toàn hệ thống thi hành án dân sự, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu

kết quả thi hành án dân sự được Quốc hội giao; xây dựng và thực hiện các

giải pháp giảm số lượng án tồn đọng, nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong

các vụ án kinh tế, tham nhũng, tổ chức thi hành dứt điểm các vụ việc thi hành

án dân sự phức tạp, có khiếu nại, tố cáo kéo dài, qua đó củng cố niềm tin của

nhân dân vào tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật và cơ quan tư pháp,

góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Và khi đã tạo

được niềm tin của nhân dân vào công lý, vào pháp luật, từ đó, xây dựng tình

cảm, niềm tin của người dân đối với pháp luật và đối với việc thực thi pháp

luật về thi hành án dân sự.

101

KẾT LUẬN

“Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp – Từ thực

tiễn các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình” là một đề tài mới,

nghiên cứu và phân tích từ cơ sở lý luận cho đến quá trình nghiên cứu thực

tiễn về vai trò, vị trí, chức trách, nhiệm vụ, kết quả và hiệu quả công tác cũng

như những thực trạng khác của Chấp hành viên trung cấp tại các cơ quan thi

hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

Công trình nghiên cứu này đã phân tích làm rõ hơn về khái niệm Chấp

hành viên trung cấp thi hành án dân sự, đưa ra quan niệm về Chấp hành viên

trung cấp thi hành án dân sự và quan niệm về địa vị pháp lý hành chính của

Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự, phân tích về mặt lý thuyết, cơ

sở lý luận đối với các yếu tố cấu thành, các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp

lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự.

Đồng thời, thông qua quá trình nghiên cứu thực tế công việc hàng ngày

và kết quả hoạt động của các Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự

tỉnh Quảng Bình, tác giả đã đưa ra những nhận xét, đánh giá, phân tích trên

các khía cạnh khác nhau, trên cơ sở đó tổng hợp, so sánh, đặt trong các bối

cảnh, các mối quan hệ trong công tác khác nhau nhằm làm nổi bật lên vai trò,

vị trí, tầm quan trọng, nhiệm vụ và chức trách, trách nhiệm của các Chấp

hành viên trung cấp trong việc thực thi công vụ... Qua đó, đã làm rõ chức

danh Chấp hành viên trung cấp làm nhiệm vụ gì, nằm ở vị trí nào, đóng vai

trò chủ thể nào trong từng mối quan hệ công tác, từng nhiệm vụ được giao

như thực hiện nhiệm vụ quyền hạn chung của Chấp hành viên, Chấp hành

viên trung cấp và nhiệm vụ quyền hạn với vai trò là Thủ trưởng, Phó Thủ

trưởng cơ quan Thi hành án dân sự. Đồng thời, từ kết quả nghiên cứu, đánh

giá cũng đã chỉ ra các điểm còn hạn chế, bất cập, những khó khăn, vướng mắc

102

đối với Chấp hành viên trung cấp khi thực hiện nhiệm vụ công tác và chỉ ra

các nguồn gốc, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Xuyên suốt quá

trình nghiên cứu, kết quả mang lại từ đề tài này đó là các quan điểm, giải

pháp, kiến nghị cụ thể đã được đưa ra trong luận văn, góp phần nâng cao hiệu

quả công tác thi hành án dân sự, quyết tâm đưa bản án, quyết định đã có hiệu

lực vào thực thi trên thực tế, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ

pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của nhà nước và của các tổ chức, cá nhân, góp phần giữ vững ổn

định chính trị, trật tự an toàn xã hội để phát triển đất nước trong thời kỳ mới./.

103

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thành Bắc (2013), Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành

án dân sự ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

2. Nguyễn Công Bình (Chủ biên, 2007) , Luật Thi hành án dân sự -

Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/05/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

5. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư số 10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010 của

Bộ Nội vụ về quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chấp

hành viên và thư ký thi hành án dân sự, Hà Nội.

6. Bộ Tư pháp (2002), Quyết định số 51/2002/QĐ-BTP ngày 27/02/2002

của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về chuẩn mực đạo đức chấp hành viên, Hà Nội.

7. Bộ Tư pháp (2007), Nghiên cứu thực trạng, nhu cầu phát triển đội ngũ

Chấp hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư

pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

8. Lê Vĩnh Châu (2015), “Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự cần gắn

với nâng cao trình độ, năng lực, đạo đức của cán bộ thi hành án”, Tạp chí dân

chủ và pháp luật, tại địa chỉ: http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-

phap- luat.aspx?ItemID=121, truy cập ngày 23/01/2015.

9. Chính phủ (2009), Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

THADS năm 2008 về cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan

thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.

10. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ - CP ngày 18/07/2015

của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

thi hành án dân sự, Hà Nội.

11. Bộ Tư pháp (2017), Thông tư 03/2017/TT-BTP ngày 05 tháng 4 năm

2017 của Bộ Tư pháp Quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp

vụ các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án dân sự, Hà Nội.

12. Bộ Tư pháp (2017), Thông tư số 02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của

Bộ Tư pháp thì các chức danh lãnh đạo, quản lý thuộc Cục Thi hành án dân

sự và Chi cục Thi hành án dân sự, Hà Nội.

13. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo tổng kết

hàng năm, từ năm 2012 đến năm 2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Bình, Quảng Bình.

14. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Nghị quyết đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ XII ngày 28/01/2016, Hà Nội.

15. Lê Thu Hà (2011), Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án

dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội

16. Huỳnh Thị Nam Hải (2015), Thi hành án dân sự, Tài liệu học tập, Nxb

Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Vũ Quang Hiện (2015), Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành

án dân sự ở tỉnh Đồng Tháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;

18. Lê Trung Kiên (2012), Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực Thi hành

án dân sự (qua thực tiễn tại Thanh Hóa), Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học

quốc gia, Hà Nội.

19. Đỗ Như Kim (2016), “Tăng cường bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho

đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghề

luật, (03), Tr. 88 – 94

20. Hồ Chí Minh (2000),Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đỗ Thành Nam (2008), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở

tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính

quốc gia Hồ Chi Minh, Hà Nội.

22. Ngọ Văn Nhân (2012), Xã hội học pháp luật, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

23. Ngọ Văn Nhân (2016), “kỹ năng nghiệp vụ của chấp hành viên thi

hành án dân sự”, Dân chủ và Pháp luật, (05), tr. 52- 55

25. Nguyễn Thị Phíp (2009), Hoàn thiện địa vị pháp lý của chấp hành

viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội

26. Trần Mạnh Quân (2013), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở

Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia

Hà Nội.

27. Đặng Đình Quyền (2009), “Năng lực chấp hành viên – yếu tố quyết

định thành công trong thi hành án dân sự”, Nghiên cứu lập pháp, (06), tr.16 -

21

28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Cán

bộ công chức, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Thi

hành án dân sự năm 2008, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.

30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến

pháp năm 2013, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 NXB Chính

trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

32. Nguyễn Xuân Thái (2016), Xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi hành

án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

33. Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự

ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận nhà nước và

pháp luật, Trường, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Thi hành án dân

sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

36. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo tình hình kinh tế -

xã hội năm 2017, kế hoạch phát triển kinh tế xã – hội năm 2018.

37. Viện Khoa học Pháp lý (1999), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách

khoa, Hà Nội.

38. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2015), Xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi

hành án dân sự ở thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chi Minh, Hà Nội.

39. Phạm Công ý (2009), “Nâng cao chất lượng chấp hành viên”, Tạp chí

Dân chủ và pháp luật (08), tr 52 – 55.