......../.......
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐINH QUANG THÀNH
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH
CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP - TỪ THỰC TIỄN
CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
......../.......
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ ................/............... HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
ĐINH QUANG THÀNH
ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH
CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP - TỪ THỰC TIỄN
CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ CÚC THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Công trình luận văn tốt nghiệp này do tôi trực tiếp nghiên cứu, thực
hiện và thể hiện quan điểm cá nhân tôi trên cơ sở nghiên cứu khoa học trung
thực. Những thông tin, tài liệu và số liệu trong luận văn này của tôi là chính
xác, trung thực.
Tôi cũng cam kết và đảm bảo các nội dung trình bày trong luận văn,
các kết quả nghiên cứu, kết luận khoa học trong luận văn này không trùng lắp
với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã công bố trước đây.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018
Học viên
Đinh Quang Thành
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn , tôi luôn luôn nhận được sự động
viên, giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Trần Thị Cúc, người đã
trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận văn
này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến Quý lãnh đạo Học viện Hành chính
Quốc gia, các Khoa, Phòng cũng như các thầy cô giáo đã tham gia quản lý,
giảng dạy và gia đình đã tạo điều kiện, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học
tập và nghiên cứu, trong việc thu thập số liệu, thông tin cần thiết phục vụ thực
hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn các bạn học viên lớp Cao học Luật
Hành chính - Luật Hiến pháp LH3.T2 đã cùng tôi chia sẽ kiến thức và kinh
nghiệm trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Trong quá trình thực hiện luận văn, mặc dù đã hết sức cố gắng trong
việc tiếp thu, trau dồi những kiến thức đóng góp của Quý thầy, cô giáo và bạn
bè, đã tham khảo thông tin từ nhiều nguồn tài liệu khác nhau, song khó tránh
khỏi thiếu sót, rất mong nhận được thông tin góp ý của Quý thầy, cô và bạn
đọc.
Xin chân thành cảm ơn!./.
Học viên
Đinh Quang Thành
MỤC LỤC
Trang bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục viết tắt
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CHẤP
HÀNH VIÊN TRUNG CẤP THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .............................. 9
1.1. Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự ........................................... 9
1.1.1 Quan niệm, lịch sử hình thành Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân
sự ................................................................................................................... 9
1.1.2. Đặc điểm của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự ................ 18
1.1.3. Bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân
sự ................................................................................................................. 19
1.2. Dịa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong thi hành án
dân sự ........................................................................................................... 23
1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp . 23
1.2.2. Cấu thành địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp .... 24
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên
trung cấp ...................................................................................................... 27
1.3.1. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành
viên trung cấp ............................................................................................... 27
1.3.2. Chất lượng của Bản án, quyết định của Toà án .................................. 28
1.3.3. Tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự ....................................... 28
1.3.4. Năng lực của Chấp hành viên trung cấp .............................................. 29
1.3.5. Ý thức pháp luật trong xã hội ............................................................. 29
1.3.6. Một số yếu tố khác: ............................................................................ 30
Tóm tắt Chương 1 ........................................................................................ 32
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH CỦA
CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP TRONG CÁC CƠ QUAN THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH .............................................. 33
2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình
tác động đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp ......... 33
2.1.2. Điều kiện tự nhiên .............................................................................. 33
2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội ................................................................... 34
2.1.4. Về văn hóa - xã hội: ............................................................................ 36
2.1.5. Về quốc phòng - an ninh ..................................................................... 37
2.2. Tổng quan tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình .................................................................................................. 38
2.2.1. Cơ cấu tổ chức .................................................................................... 38
2.2.2. Tình hình đội ngũ Chấp hành viên trung cấp trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình ............................................................................................................. 41
2.2.3. Kết quả công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình từ năm 2012
đến năm 2017 ............................................................................................... 43
2.3. Thực tế địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong
các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình ......................................... 50
2.3.1. Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung của chấp hành viên và nhiệm vụ, quyền hạn
riêng của Chấp hành viên trung cấp .............................................................. 50
2.3.2. Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong việc thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự: ....... 60
2.4. Đánh giá địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình ................................................................... 82
2.4.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân ....................................................... 82
2.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân ............................................. 85
Tóm tắt chương 2 ......................................................................................... 88
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP
LÝ HÀNH CHÍNH CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ........................................................................... 89
3.1. Phương hướng nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên
trung cấp trong thi hành án dân sự ................................................................ 89
3.1.1. Cần bảo đảm tính độc lập của Chấp hành viên trung cấp .................... 89
3.1.2. Cần phân định rõ hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của Chấp hành viên
trung cấp ...................................................................................................... 92
3.1.3. Tăng quyền hạn cho Chấp hành viên trung cấp và Thủ trưởng cơ quan
Thi hành án dân sự cấp tỉnh .......................................................................... 92
3.1.4. Nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp đồng
bộ với cải cách tư pháp, cải cách hành chính ................................................ 94
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên
trung cấp thi hành án dân sự ......................................................................... 94
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ............................ 94
3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự .................. 96
3.2.3. Nâng cao năng lực thực thi công vụ của Chấp hành viên trung cấp .... 97
3.2.4. Kiểm soát tốt hoạt động của Chấp hành viên trung cấp ....................... 98
3.2.5. Nâng cao ý thức pháp luật cho các bên liên quan .............................. 100
KẾT LUẬN ............................................................................................... 102
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC VIẾT TẮT
THADS Thi hành án dân sự
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
UBND Ủy ban nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Số lượng Chấp hành viên trung cấp tính đến ngày 30/9/2017 ....... 42
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về việc của cơ quan thi hành án tỉnh
Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017 ...................................................... 44
Bảng 2.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền của cơ quan thi hành án tỉnh
Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017 ...................................................... 45
Bảng 2.4. Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017: ................... 72
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác thi hành án dân sự có thể coi là khâu, là công đoạn cuối cùng
để buộc một hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân, tổ chức phải chịu trách
nhiệm và thực hiện trách nhiệm về dân sự theo các nội dung phán quyết đã có
hiệu lực pháp luật của cơ quan tố tụng. Hay nói cách khác, thi hành án dân sự
là việc tổ chức thực thi trên thực tế các quyền, nghĩa vụ về phần dân sự như
thanh toán tiền, xử lý tài sản, xử lý vật chứng, thực hiện các công việc, các
hành vi và các nghĩa vụ khác của các chủ thể được quy định trong các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Trong thi hành án dân sự, Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên
trung cấp nói riêng là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các
bản án, quyết định theo quy định của pháp luật; đồng thời, Chấp hành viên
trung cấp là người có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn khá lớn, có vai trò
quan trọng trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị nói
riêng và của Hệ thống cơ quan Thi hành án dân sự nói chung, là những nhân
tố tích cực, quan trọng góp phần đưa hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự
hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao.
Thực trạng công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình trong
những năm qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn một số tồn tại
như số vụ việc không có điều kiện thi hành tồn đọng qua các năm ngày càng
gia tăng, hiện tượng tiêu cực, vô tâm, tắc trách, vi phạm những nghĩa vụ hoặc
lạm dụng những quyền hạn theo quy định của pháp luật còn nhiều. Mặt khác,
hành lang pháp lý cho Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp
nói riêng thực hiện nhiệm vụ chưa đầy đủ. Chẳng hạn, muốn tổ chức cưỡng
chế thi hành án phải có lực lượng công an bảo vệ những người tham gia công
1
tác cưỡng chế, nếu cơ quan công an không phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ sự an toàn về người và tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự cũng không
thể tổ chức cưỡng chế thi hành án…Việc tổ chức thi hành các bản án, quyết
định của Chấp hành viên trung cấp nói riêng và của cơ quan thi hành án dân
sự nói chung còn phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp của các ngành, các cấp có
liên quan như chính quyền địa phương và một số cơ quan chuyên môn
khác….Đây chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả hoạt động của công tác thi hành án dân sự và địa vị pháp lý hành chính
của Chấp hành viên trung cấp.
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 ra đời đã đánh dấu bước phát triển
vượt bậc trong công tác thi hành án dân sự, đó là tạo ra một nền tảng hành
lang pháp lý cơ bản nhất, phù hợp, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm
2014 được ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2015 đã hoàn thiện hơn về
nhiều mặt của thể chế pháp lý đối với công tác thi hành án dân sự.
Sau hơn sáu năm thực hiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và hơn
02 năm thực hiện những nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật Thi hành án dân
sự, văn bản luật này đã đạt được nhiều kết quả tích cực, thể hiện ở những
điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, Luật Thi hành án dân sự được ban hành và các văn bản dưới
luật như nghị định, thông tư, quyết định... được ban hành nhằm cụ thể hóa, đi
vào đời sống xã hội làm thành một chỉnh thể hệ thống pháp luật điều chỉnh
các mối quan hệ pháp luật, các trình tự, thủ tục, cơ cấu tổ chức, nhân sự của
hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự để đưa các bản án, quyết định dân sự,
hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật
chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự,
bản án, quyết định hành chính của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết
2
phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành và phán quyết, quyết định
của Trọng tài thương mại, ra tổ chức thi hành trên thực tế, đảm bảo quyền và
lợi ích hợp pháp của nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Thứ hai, Luật thi hành án dân sự và các nghị định, thông tư và các văn
bản dưới luật khác quy định về thi hành án dân sự hiện hành đã quy định một
cách đầy đủ, rõ ràng, trao quyền, gắn trách nhiệm, nâng cao rõ rệt địa vị pháp
lý, vị trí, vai trò, tầm quan trọng của các chức danh của những công chức làm
công tác thi hành án dân sự, trong đó có chức danh Chấp hành viên trung cấp,
đối tượng được nghiên cứu trong luận văn này.
Mặc dù vậy, nhìn dưới góc độ một người nghiên cứu và lựa chọn đề tài
về địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp, Luật Thi hành án
dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 vẫn còn tồn tại một số bất
cập nổi bật như sau:
Một là, hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành còn có sự
cắt khúc, tách rời, thiếu đồng bộ và thiếu mối quan hệ nhân quả giữa hoạt
động xét xử với hoạt động thi hành án, dẫn đến một số mặt hiệu quả phối hợp,
hiệu quả, hiệu lực trong việc tổ chức đưa bản án, quyết định ra thi hành còn
chưa thực sự tương xứng với vai trò, tầm quan trọng của hoạt động này.
Hai là, trong Luật Thi hành án dân sự hiện hành, chỉ quy định về Chấp
hành viên trung cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung của Chấp hành
viên chứ không quy định rõ về nhiệm vụ, quyền hạn riêng của Chấp hành
viên trung cấp.
Vì những bất cập, tồn tại nêu trên, tác giả chọn đề tài “Địa vị pháp lý
hành chính của Chấp hành viên trung cấp – Từ thực tiễn các cơ quan Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình” để nghiên cứu làm rõ về vị trí, tầm quan
trọng, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trên phương
3
diện lý luận và trên thực tế công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình,
từ đó mong muốn sẽ góp phần đề xuất các giải pháp, phương hướng nhằm
nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp nói chung
và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát, tìm hiểu và rà soát các đề tài, công
trình nghiên cứu khoa học liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự và liên
quan đến vai trò, tổ chức, hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự,
các chức danh trong tổ chức thi hành án dân sự, có các công trình sau:
a) Đề tài nghiên cứu khoa học
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Đề án kiện toàn mô hình tổ chức
và đội ngũ cán bộ thi hành án để thực hiện có hiệu quả Luật Thi hành án dân
sự năm 2008”, mã số 2010-8219 do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, nguyên
Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự làm chủ nhiệm đề tài;
- Đề án cấp Bộ: “Khảo sát khoa học về quy trình, thủ tục thi hành các
bản án có tài sản thi hành là bất động sản và các giải pháp nhằm đảm bảo tính
thống nhất cho các quy trình này” do bà Đinh Thị Mai Phương làm chủ nhiệm
theo Quyết định số 2678/QĐ-BTP ngày 09/11/2010 của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp.
b) Luận án Tiến sĩ Luật học
- Đề tài: “Hoàn thiện pháp luật Thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm 2008;
- Đề tài: “Hiệu quả áp dụng pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam”,
Luận án Tiến sỹ Luật học tại Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí
Minh của tác giả Đặng Đình Quyền, năm 2012.
c) Luận văn Thạc sĩ Luật học
4
- Đề tài: “Đổi mới tổ chức thi hành án dân sự ở Việt Nam”, Luận văn
thạc sỹ Luật học tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả
Nguyễn Quang Thái, năm 2003.
- Đề tài: “Hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành
án dân sự ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thị Phíp, năm 2009;
- Đề tài: “Áp dụng pháp luật thi hành án dân sự của cơ quan Thi hành
án ở thành phố Hà Nội hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Hoàng
Giang, năm 2010;
- Đề tài: “Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở thành phố Hà
Nội hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thị Kim Tuyến, năm 2010;
- Đề tài: “Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự”, Luận văn Thạc sĩ
Luật tại Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật, mã số: 60.38.30 của tác giả
Phan Huy Hiếu, năm 2012;
- Đề tài: “Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh
Bắc Giang”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh của tác giả Nguyễn Thành Bắc năm 2013;
- Đề tài: “Xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh
Thanh Hóa”, Luận văn Thạc sĩ Luật học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội của tác giả Nguyễn Xuân Thái năm 2016;
- Đề tài: “Địa vị pháp lý của Thẩm tra viên thi hành án dân sự từ thực
tiễn thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ Luật tại Học viện khoa học xã hội,
mã số: Mã số: 60.38.01.02 của tác giả Nguyễn Hồng Nhung, năm 2016.
Ngoài ra, còn có các tài liệu tham khảo khác như: Giáo trình Kỹ năng
Thi hành án dân sự (phần chung và phần nghiệp vụ) và Tài liệu bồi dưỡng
5
ngạch Chấp hành viên trung cấp của Học viện Tư pháp; Sổ tay nghiệp vụ thi
hành án dân sự - Tổng cục Thi hành án dân sự….
Các đề tài kể trên, nghiên cứu các khía cạnh khác nhau về thi hành án
dân sự, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về địa vị pháp lý hành chính
của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự từ thực tiễn tại tỉnh Quảng
Bình.
Do đó, đề tài “Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp
– Từ thực tiễn các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình” là một đề tài
khoa học độc lập, không có sự trùng lắp với các đề tài đã được nghiên cứu,
công bố trước đó. Tuy nhiên, đề tài mà tác giả nghiên cứu vẫn mang tính thời
sự, tính thực tế và kết quả nghiên cứu có thể được ứng dụng nhằm giải quyết
các vấn đề thực tiễn đặt ra trong thi hành án dân sự tại Quảng Bình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
Thứ nhất, Phân tích thực trạng địa vị pháp lý hành chính của Chấp
hành viên trung cấp từ thực tiễn công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng
Bình, đánh giá kết quả đạt được, nêu ra những tồn tại, bất cập khi thực hiện
quyền hạn, chức trách của chấp hành viên trung cấp tại các cơ quan thi hành
án dân sự tỉnh Quảng Bình.
Thứ hai, tìm ra các nguyên nhân của tồn tại và bất cập để đưa ra các
đề xuất mang tính khoa học nhằm nâng cao địa vị pháp lý hành chính của
Chấp hành viên trung cấp các cơ quan thi hành án dân sự.
3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn này sẽ thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Nghiên cứu, phân tích sâu hơn, làm rõ về cơ sở lý luận về địa vị
6
pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp;
- Nghiên cứu, phản ánh thực trạng địa vị pháp lý hành chính của Chấp
hành viên trung cấp từ thực tiễn công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng
Bình;
- Đề xuất, kiến nghị một số nội dung, quan điểm nhằm nâng cao địa vị
pháp lý hành chính, hiệu quả hoạt động của Chấp hành viên trung cấp nói
chung và trên địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Công trình sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, cơ sở khoa
học, các quy định của pháp luật và thực tiễn về địa vị pháp lý hành chính của
Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tập trung nghiên cứu vị trí, vai
trò, thẩm quyền, phạm vi hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Chấp hành
viên trung cấp thi hành án dân sự trong các cơ quan Thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình gồm: Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình và
08 Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thành phố, thị xã trực thuộc,
không đề cập đến hoạt động của Chấp hành viên trung cấp tại cơ quan thi
hành án dân sự thuộc Bộ Quốc phòng và Phòng thi hành án dân sự quân khu.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Từ năm 2012 – 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận để thực hiện đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm:
- Phương pháp tổng hợp các luận điểm khoa học, phân tích, so sánh
các luận điểm khoa học, các căn cứ pháp lý…Phương pháp này được áp
dụng trong phần cơ sở lý luận tại Chương 1 của luận văn.
7
- Phương pháp thống kê, phân tích, khảo sát thực tế, so sánh được sử
dụng cho những nội dung nêu tại Chương 2 của luận văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và quy nạp áp dụng tại Chương 3
của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trước hết, việc thực hiện đề tài này sẽ góp phần phân tích sâu hơn về
địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự ở
các khía cạnh cơ bản như khái niệm, quan niệm về địa vị pháp lý hành chính
của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự, nội dung cơ bản địa vị
pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp.
Mặt khác, về mặt thực tiễn, đề tài này này hướng tới mục đích vận
dụng vào thực tiễn để nâng cao hơn nữa địa vị pháp lý hành chính, hiệu quả
công tác của Chấp hành viên trung cấp tại các cơ quan thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Bình nói riêng và trong hệ thống thi hành án dân sự nói chung.
Luận văn này sẽ là một tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu,
học tập, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ công chức ngành thi hành
án dân sự nói chung và các Chấp hành viên trung cấp nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Chương 1: Cơ sở Lý luận địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên
trung cấp thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên
trung cấp trong các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp nâng cao địa vị pháp lý hành
chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự.
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự
1.1.1 Quan niệm, lịch sử hình thành Chấp hành viên trung cấp thi hành án
dân sự
1.1.1.1. Quan niệm về Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự
Theo quy định mới của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 thì khái
niệm công chức được hiểu là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan,
đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan
chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã
hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Dựa vào
những quy định trên cho thấy, Chấp hành viên trung cấp trước hết là
công chức Nhà nước.
Trong mỗi cơ quan khác nhau thì có những chức danh khác nhau để
thực thi nhiệm vụ của cơ quan đó. Chẳng hạn, đối với cơ quan Tòa án thì
người thực hiện chức năng xét xử là Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung
cấp, Thẩm phán cao cấp hay đối với cơ quan Viện kiểm sát thì người thực
9
hiện chức năng công tố là Kiểm sát viên sơ cấp, Kiểm sát viên trung cấp,
Kiểm sát viên cao cấp...Tại các Cơ quan thi hành án dân sự đều có các cán
bộ làm nhiệm vụ thi hành án và các cán bộ làm các nhiệm vụ khác liên
quan đến việc thi hành án, như thủ quỹ, kế toán, thủ kho... Nhưng người có
nhiệm vụ, quyền hạn trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của
Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định được gọi là Chấp
hành viên và theo quy định tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008
được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì: “Chấp hành viên là người được Nhà
nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định theo quy định tại Điều
2 của Luật này. Chấp hành viên có ba ngạch: Chấp hành viên sơ cấp, Chấp
hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp”[29].
Hướng dẫn thực hiện Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014, Khoản 1 Điều 6 Thông tư 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của
Bộ Tư pháp Quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các
ngạch công chức chuyên ngành thi hành án dân sự thì: “Chấp hành viên
trung cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành án dân sự, thi hành
án hành chính, trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi hành các vụ việc thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính phức tạp, số tiền, tài sản phải thi
hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương thuộc thẩm
quyền của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự".
Như vậy, theo tác giả Chấp hành viên trung cấp trước hết là công
chức Nhà nước, được bổ nhiệm theo những tiêu chuẩn do pháp luật quy
định, công tác tại các cơ quan Thi hành án dân sự ở cấp tỉnh, cấp huyện,
được pháp luật quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn nhằm thực hiện những
mục tiêu mà Nhà nước đặt ra. Theo đó, chấp hành viên trung cấp sẽ nhân
danh Nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước để tổ chức thi hành các bản
án, quyết định của Tòa án. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, chấp hành
10
viên trung cấp chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và
được pháp luật bảo vệ.
1.1.1.2. Khái quát lịch sử hình thành Chấp hành viên trung cấp
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 10/10/1945
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 47, với 6 chương, gồm 12
điều, trong đó quy định nguyên tắc: “Cho đến khi ban hành những bộ luật
pháp duy nhất cho toàn cõi nước Việt Nam, các luật lệ hiện hành ở Bắc,
Trung và Nam vẫn tạm thời giữ nguyên như cũ, nếu những luật lệ ấy không
trái với những điều thay đổi ấn định trong sắc lệnh này”, chỉ thi hành khi nào
không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà.
Tại Thông tư số 24-BK ngày 26/4/1949 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp "Về việc
thi hành án Hình và án Hộ" quy định cụ thể những nguyên tắc chấp hành, thể
thức chấp hành, cách thức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án. Thông
tư xác định trách nhiệm thi hành án của Thừa phát lại, Ban Tư pháp xã và
nhấn mạnh vai trò của ủy ban nhân dân cấp xã và các cơ quan liên quan trong
việc hỗ trợ thi hành án. Ở nước ta giai đoạn này tồn tại dưới hai hình thức là
Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã.
Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về "Cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng". Sắc lệnh có 4 chương với 20 điều. Tại
Điều 19 Sắc lệnh quy định "Thẩm phán huyện dưới sự kiểm soát của biện lý
có nhiệm vụ đem chấp hành các án Hình về khoản bồi thường hay bồi hoàn
và các án Hộ mà chính Tòa án huyện và Tòa án trên đã tuyên. Việc phát mãi
bất động sản và phân phối tiền bán được cũng do Tòa án huyện phụ trách.
Trong trường hợp có nhiều bất động sản rải rác ở nhiều huyện khác nhau thì
Biện lý sẽ chỉ định một Thẩm phán huyện để việc phát mãi đó vừa có lợi cho
chủ nợ lẫn người mắc nợ". Theo quy định này, việc thi hành án dân sự do
Thừa phát lại và Ban Tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng
11
Thẩm phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm
1960 quy định tại Điều 24: “Tại các Toà án nhân dân địa phương có nhân
viên chấp hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự,
những khoản xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình
sự” thì việc thi hành án dân sự do nhân viên chấp hành án thực hiện theo thủ
tục do pháp luật quy định. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên chấp
hành án được xác định rõ trong luật tổ chức Tòa án nhân dân đã tạo cơ sở
pháp lý quan trọng cho việc tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự.
Ngày 13/10/1972, Chánh án Toà án nhân dân tối cao ra Quyết định số
186/TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên; cùng ngày này,
Toà án nhân dân tối cao cũng ban hành Thông tư số 187-TC hướng dẫn thi
hành Quyết định số 186-TC nêu trên, tên gọi “Chấp hành viên” được ra đời
thay cho “nhân viên chấp hành án” để làm nhiệm vụ thi hành án dân sự. Chấp
hành viên được đặt tại Toà án, dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Chánh án
Toà án. Chấp hành viên có nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định về
dân sự, những khoản xử phạt tiền, tịch thu tài sản, bồi thường, hoàn trả lại tài
sản trong các bản án, quyết định hình sự; giúp Chánh án Tòa án nhân dân đôn
đốc, kiểm tra công tác thi hành án tại các Tòa án nhân dân cấp dưới. Chấp
hành viên thực hiện nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân dân
nơi mình công tác.
Như vậy, chức danh Chấp hành viên ra đời từ năm 1972 và trở thành
chức danh tư pháp độc lập với chức danh thẩm phán, được biên chế trong các
Toà án nhân dân địa phương, có nhiệm vụ chuyên trách thi hành các bản án,
quyết định của toà án dưới sự chỉ đạo của chánh án.
Bước ngoặt quan trọng, có tác động mạnh mẽ trong xây dựng, phát
triển đội ngũ cán bộ chấp hành viên được đánh dấu bởi sự ra đời của Hiến
12
pháp năm 1980 - Hiến pháp của thời kỳ cả nước hoà bình, thống nhất, độc
lập, quá độ lên CNXH. Nhằm cụ thể hoá Hiến pháp mới, ngày 03/7/1981,
Quốc hội đã ban hành Luật Tổ chức toà án nhân dân thay thế Luật năm 1960.
Điều 16 của Luật đã giao cho Bộ Tư pháp đảm nhiệm quản lý Tòa án nhân
dân địa phương và công tác thi hành án dân sự.
Đến năm 1989, Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Thi hành án
dân sự đầu tiên, đánh dấu bước chuyển biến căn bản trong tổ chức và hoạt
động thi hành án dân sự, đặt cơ sở pháp luật cho công tác xây dựng, phát triển
đội ngũ cán bộ chấp hành viên thời kỳ đổi mới.
Trên cơ sở Pháp lệnh, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ra
Nghị định số 68/HĐBT ngày 06/3/1990, ban hành Quy chế chấp hành viên,
quy định chỉ có chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm thi
hành các bản án, quyết định của toà án. Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định số
lượng biên chế chấp hành viên cho từng địa phương. Việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định theo
đề nghị của chánh án Toà án nhân dân các địa phương.
Theo Quy chế chấp hành viên, ở Tòa án nhân dân tỉnh và Tòa án nhân
dân huyện có chấp hành viên trưởng và các chấp hành viên. Chánh án các toà
án này có quyền ra các quyết định thi hành án; chấp hành viên trưởng, chấp
hành viên có quyền ra các quyết định cưỡng chế, thực hiện cơ chế kết hợp
quyền tự định đoạt của đương sự với sự chủ động thi hành án của cơ quan thi
hành án và chấp hành viên.
Thực tế cho thấy, tuy Bộ Tư pháp được giao chức năng quản lý nhà
nước công tác thi hành án, song đội ngũ chấp hành viên vẫn thuộc biên chế
của các toà án; chánh án là người trực tiếp chỉ đạo về nghiệp vụ, mọi quyết
định quan trọng trong thi hành án đều do chánh án quyết định. Chấp hành
viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định
13
của toà án nhưng thực tế chỉ là người thừa hành sự chỉ đạo của chánh án mà
không có quyền năng thực sự để đảm bảo thực thi nhiệm vụ của mình. Công
tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, tuyển dụng và các chính sách,
chế độ đối với đội ngũ cán bộ chấp hành viên chưa được quan tâm đúng mức,
lại thường xuyên bị xáo trộn, vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng;
tình trạng tồn đọng án dân sự chưa được thi hành không được khắc phục, trở
thành mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trong bối cảnh đó, Quốc hội khoá IX đã ra Nghị quyết thực hiện việc
chuyển công tác thi hành án dân sự từ Toà án sang Chính phủ. Để thực hiện
Nghị quyết của Quốc hội, ngày 21/4/1993, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
(khoá IX) đã thông qua Pháp lệnh Thi hành án dân sự (sửa đổi), có hiệu lực từ
ngày 01/6/1993 (Pháp lệnh năm 1993). Trên cơ sở Pháp lệnh năm 1993, hệ
thống các cơ quan Thi hành án dân sự đã được xây dựng trong cả nước; đội
ngũ chấp hành viên đã được quy hoạch, kiện toàn, do Chính phủ thống nhất
quản lý; chấp hành viên trở thành một chức danh tư pháp độc lập, có địa vị
pháp lý rõ ràng, theo nguyên tắc: chỉ có chấp hành viên cơ quan thi hành án
dân sự mới có thẩm quyền tổ chức việc thi hành án dân sự.
Đến pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 thì ngạch Chấp hành viên
gồm có Chấp hành viên cấp tỉnh và Chấp hành viên cấp huyện và được bổ
nhiệm theo nhiệm kỳ là 05 năm. Tuy nhiên, việc quy định ngạch bậc của
Chấp hành viên theo hai cấp đã phát sinh nhiều bất cập trong việc sắp xếp,
điều động, luân chuyển Chấp hành viên giữa các cơ quan thi hành án dân sự
trong phạm vi toàn quốc, không thu hút được cán bộ về công tác ở cơ quan thi
hành án dân sự và cũng chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp.
Để khắc phục tình trạng trên, bảo đảm sự công bằng giữa công sức mà
các Chấp hành viên bỏ ra với tính chất, yêu cầu công việc của họ thì Luật Thi
hành án dân sự năm 2008 và Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm
14
2014 (Điều 17) đã quy định chấp hành viên có ba ngạch: sơ cấp, trung cấp và
cao cấp dựa trên tiêu chuẩn về chuyên môn, trình độ, năng lực, nghiệp vụ,
thâm niên, kinh nghiệm công tác mà không phụ thuộc vào đơn vị công tác (cơ
quan thi hành án cấp huyện hay cơ quan thi hành án cấp tỉnh), thời hạn bổ
nhiệm Chấp hành viên là không kì hạn. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành
viên phải được đảm bảo để thi hành được đúng, kịp thời nội dung bản án,
quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Có thể nói, Luật Thi hành án
dân sự năm 2008 đã đánh dấu một bước ngoặt lớn về kiện toàn của hệ thống
các cơ quan thi hành án dân sự, các chức danh thi hành án dân sự, trong đó có
chức danh Chấp hành viên trung cấp, đây là một bước tiến quan trọng trong
việc hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và trong cả những
nội dung sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 64/2014/QH13 ngày 25/11/2014 của
Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, có hiệu
lực kể từ ngày 01/7/2015, không có điều khoản riêng nào quy định chức trách,
nhiệm vụ, quyền hạn riêng của Chấp hành viên trung cấp. Mà chức danh
Chấp hành viên trung cấp được quy định tại Thông tư 10/2010/TT-BNV ngày
28/10/2010 của Bộ trưởng Bộ Nội; Quyết định số 01/2007/QĐ-BNV ngày
17/01/ 2007 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ, hiện nay được thay thế bằng Thông tư
03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số
ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án
dân sự.
1.1.1.3. Một số quy định của pháp luật hiện hành về thi hành án dân sự
và Chấp hành viên trung cấp
Luật Thi hành án dân sự hiện hành không quy định chức trách, nhiệm
vụ, quyền hạn riêng của từng ngạch Chấp hành viên mà chỉ quy định, nhiệm
vụ, quyền hạn chung của Chấp hành viên. Do vậy, Chấp hành viên trung cấp
15
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 20 của Luật Thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, gồm: Kịp thời tổ chức thi hành vụ
việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; Thi
hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp
luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện
nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên; Triệu tập
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết việc thi hành
án; Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa
chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan
xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án; Quyết
định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án;
lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án; Yêu cầu cơ
quan Công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của
pháp luật; Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt
vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý
kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người vi phạm; Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền,
tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi
hành án và các khoản phải nộp khác; Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi
thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ; Thực hiện nhiệm vụ khác theo
sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín.
Ngoài nhiệm vụ, quyền hạn trên, pháp luật quy định Chấp hành viên
16
trung cấp không được làm những việc theo quy định tại Điều 21 Luật Thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung 2014 bao gồm: Những việc mà pháp
luật quy định công chức không được làm; Tư vấn cho đương sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật; Can
thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh
hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm thi hành án; Sử dụng trái
phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án; Thực hiện việc thi hành án liên quan
đến quyền, lợi ích của bản thân và những người sau đây: Vợ, chồng, con đẻ,
con nuôi; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của Chấp hành viên, của vợ
hoặc chồng của Chấp hành viên; Cháu ruột mà Chấp hành viên là ông, bà,
bác, chú, cậu, cô, dì; Sử dụng thẻ Chấp hành viên, trang phục, phù hiệu thi
hành án, công cụ hỗ trợ để làm những việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
được giao; Sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án; Cố ý thi hành trái nội dung bản án,
quyết định; trì hoãn hoặc kéo dài thời gian giải quyết việc thi hành án được
giao không có căn cứ pháp luật.
Tại điều 167 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014 quy định nội dung Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm thực hiện việc hướng
dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên, miễn nhiệm Chấp
hành viên và tại Điều 25 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014 quy định về việc Chấp hành viên được cấp trang phục, phù hiệu khi
thi hành công vụ, được hưởng tiền lương, chế độ phụ cấp nghề nghiệp và các
chế độ ưu đãi khác.
Bên cạnh đó, nhiệm vụ, quyền hạn Chấp hành viên trung cấp còn biểu
hiện trực tiếp qua các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó
thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự. Theo khoản 1 Điều 22 Luật Thi hành
17
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: “Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải là Chấp hành viên”. Hướng dẫn thực
hiện Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, Điều 72 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 của Chính phủ quy định: Chi Cục
trưởng, Phó Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự: Phải là Chấp hành
viên sơ cấp trở lên; Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự phải
là Chấp hành viên trung cấp trở lên. Do đó, Chấp hành viên trung cấp nếu đủ
các điều kiện theo quy định thì có thể được bổ nhiệm làm Chi Cục trưởng,
Phó Chi cục trưởng; Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng thực hiện theo
Điều 23 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và các văn
bản hướng dẫn thi hành như: Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015
quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc
Tổng cục Thi hành án dân và các cơ quan Thi hành án dân sự; Thông tư số
02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung
quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc hệ thống tổ chức thi hành
án dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự
Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự có các đặc điểm cơ bản sau:
Chấp hành viên thi hành án dân sự nói chung và Chấp hành viên trung
trung cấp là một công chức. Ngay tại khoản 1 Điều 6 Thông tư số
03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số
ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành Thi hành
án dân sự đã khẳng định rõ Chấp hành viên trung cấp là công chức như sau:
“ Chấp hành viên trung cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính, trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc
thi hành các vụ việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính phức tạp, số
18
tiền, tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa
phương thuộc thẩm quyền của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án
dân sự”. [17, tr.55]
Tại Điều 3 Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư
pháp quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch
công chức chuyên ngành Thi hành án dân sự thì chức danh Chấp hành viên
thi hành án dân sự được chia làm ba ngạch, với tên, mã ngạch như sau:
1. Chấp hành viên cao cấp Mã số ngạch: 03.299
2. Chấp hành viên trung cấp Mã số ngạch: 03.300
3. Chấp hành viên sơ cấp Mã số ngạch: 03.301
[02, tr.01]
1.1.3. Bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự
1.1.3.1. Bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự
Theo quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật Thi hành án dân sự
được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì Chấp hành viên trung cấp do Bộ
trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm [36, tr.171].
Tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành viên trung cấp. Theo quy định tại
Khoản 1, Điều 18 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014,
để trở thành Chấp hành viên trung cấp cần thỏa mãn những điều kiện sau:
Là công dân Việt Nam trung thành với tổ quốc, trung thực, liêm khiết,
có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân Luật trở lên, đã được đào tạo về
nghiệp vụ thi hành án dân sự, có thời gian làm công tác pháp luật theo quy
định, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, ngoài các
điều kiện theo quy định nêu trên để được bổ nhiệm vào ngạch Chấp hành viên
trung cấp thì bắt buộc phải qua kỳ thi tuyển, hoặc xét tuyển. Để tham dự kỳ
thi tuyển này, Điều 57 nghị định số 62/2015/NĐ - CP ngày 18/07/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi
19
hành án dân sự quy định: ngoài việc có đủ tiêu chuẩn của ngạch Chấp hành
viên, người tham dự kỳ thi tuyển phải không thuộc trường hợp đang bị truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang bị xem xét xử lý kỷ luật nhưng chưa có
kết luận, quyết định cuối cùng của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và các
trường hợp khác theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức.
Bên cạnh đó, để được bổ nhiệm làm Chấp hành viên trung cấp thì ngoài
những tiêu chuẩn chung đã nêu ở trên, người được bổ nhiệm làm Chấp hành
viên trung cấp phải có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên
và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp. Ngoài ra, theo quy định
của Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định
chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên
ngành Thi hành án dân sự thì đối với mỗi ngạch Chấp hành viên phải có đủ
tiêu chuẩn về năng lực và trình độ khác nhau. Đối với chấp hành viên trung
cấp:
- Về năng lực: Có kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên để vận dụng vào công tác thi hành
án dân sự; am hiểu các nội dung về hệ thống pháp luật hiện hành và pháp luật
quốc tế liên quan đến công tác thi hành án của cấp mình; am hiểu sâu về nội
dung pháp luật về thi hành án dân sự; áp dụng thành thạo các nguyên tắc, chế
độ, thủ tục về nghiệp vụ thi hành án dân sự; nắm chắc tình hình kinh tế, xã
hội của địa phương, của đất nước; có khả năng độc lập tổ chức thực hiện công
việc được giao; có khả năng phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan trong việc
thi hành án; có khả năng giáo dục, thuyết phục đương sự thi hành bản án,
quyết định của tòa án; có khả năng phân tích, tổng hợp và soạn thảo được văn
bản liên quan đến chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Về trình độ: Có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch Chấp hành viên
20
trung cấp theo nội dung, chương trình của Bộ Tư pháp; có ngoại ngữ trình độ
B trở lên (một trong năm thứ tiếng: Anh, Pháp, Nga, Đức, Trung Quốc) hoặc
một ngoại ngữ khác theo yêu cầu của vị trí làm việc; có trình độ tin học văn
phòng; chủ trì hoặc tham gia xây dựng đề tài, đề án, công trình nghiên cứu
khoa học về công tác thi hành án dân sự được áp dụng có hiệu quả trong thực
tiễn.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thu hút người có kinh nghiệm làm công
tác pháp luật ở các ngành khác từ đó góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ thi hành án, bên cạnh những đối tượng đã được Luật Thi hành án dân
sự 2008 và Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
định: Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên được điều động
đến công tác tại cơ quan thi hành án dân sự và đã bổ sung thêm trường hợp
người đã từng là chấp hành viên nhưng được bố trí làm nhiệm vụ khác và có
đủ điều kiện quy định tại khoản 1, Điều 18 thì có thể được bổ nhiệm chấp
hành viên ở ngạch tương đương không qua thi tuyển.
Ngoài ra, Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 còn
quy định trong trường hợp do nhu cầu cấp bách phải bổ nhiệm Thủ trưởng,
Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, người có đủ tiêu chuẩn quy định
tại khoản 1, Điều 18 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014
đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 05 năm trở lên có thể được bổ nhiệm
Chấp hành viên sơ cấp; có 10 năm làm công tác pháp luật trở lên có thể được
bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp; có 15 năm làm công tác pháp luật trở lên
có thể được bổ nhiệm chấp hành viên Cao cấp không qua thi tuyển. Việc xác
định tiêu chuẩn và bổ nhiệm chấp hành viên trong một số trường hợp đặc biệt
nêu trên được quy định cụ thể tại Điều 18 Luật Thi hành án dân sự được sửa
đổi, bổ sung năm 2014, Điều 63 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
Chấp hành viên trung cấp được Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm
21
thông qua hai hình thức đó là thi tuyển hoặc xét tuyển theo quy định tại Điều
62 và Điều 63 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP [08, tr.07].
Trên cơ sở kết quả thi nâng ngạch, xét chuyển ngạch, Bộ trưởng Bộ Tư
pháp xem xét, quyết định bổ nhiệm vào ngạch Chấp hành viên trung cấp theo
quy định.
1.1.3.2. Miễn nhiệm, cách chức, điều động, luân chuyển, biệt phái
Chấp hành viên trung cấp
a) Miễn nhiệm, cách chức Chấp hành viên trung cấp
Theo quy định tại Điều 19 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ
sung năm 2014 thì Chấp hành viên trung cấp được miễn nhiệm trong các
trường hợp sau: Chấp hành viên trung cấp đương nhiên được miễn nhiệm
trong trường hợp nghỉ hưu hoặc chuyển công tác đến cơ quan khác; Do
hoàn cảnh gia đình hoặc sức khỏe mà xét thấy không thể bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ Chấp hành viên; Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ không
bảo đảm thực hiện nhiệm vụ Chấp hành viên hoặc vì lý do khác mà không
còn đủ tiêu chuẩn để làm Chấp hành viên.
Căn cứ theo Điều 19 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014 và khoản 8 Điều 3 Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015
của Bộ Tư pháp quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức,
người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan Thi
hành án dân sự thì Chấp hành viên cao cấp, Chấp hành viên trung cấp,
Chấp hành viên sơ cấp sẽ do Bộ trưởng Bộ Tư pháp miễn nhiệm.
b) Điều động, luân chuyển, biệt phái Chấp hành viên trung cấp
Theo quy định tại khoản 1 Điều 70 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
thì thẩm quyền điều động, luân chuyển, biệt phái Chấp hành viên đang giữ
chức vụ lãnh đạo thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự quyết định việc điều động,
22
luân chuyển, biệt phái Chấp hành viên từ tỉnh này sang tỉnh khác, Chấp
hành viên đang giữ chức vụ Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, Thẩm
tra viên đang giữ chức vụ Phó, Vụ trưởng và tương đương thuộc Tổng cục
Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thuộc Thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp; Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự quyết định điều động, luân
chuyển, biệt phái Chấp hành viên trong địa bàn do mình quản lý. Trường
hợp điều động, luân chuyển Chấp hành viên đang giữ chức vụ lãnh đạo
quản lý thì phải báo cáo xin ý kiến của người có thẩm quyền bổ nhiệm
chức vụ lãnh đạo trước khi thực hiện điều động, luân chuyển, trừ trường
hợp thuộc thẩm quyền của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự
[17, tr.57, 58].
1.2. Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong thi
hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp
Địa vị pháp lý hành chính là tổng thể các quyền, nghĩa vụ của một
chủ thể pháp luật, phản ánh vị trí, tư cách pháp lý của chủ thể đó trong các
mối quan hệ pháp luật.
Địa vị pháp lý hành chính hay tư cách pháp lý của một chủ thể thể hiện
vị trí, vai trò của một chủ thể trong quan hệ pháp luật và đi liền với nó là
quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý phát sinh, ràng buộc, xác định quyền,
nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, là cơ sở để xem xét và xử lý các mâu thuẫn,
xung đột, tranh chấp pháp lý, là cơ sở cho việc thực thi quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của một cá nhân hay tổ chức trong một mối quan hệ pháp luật.
Theo đó, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp
chính là tổng thể các quyền, nghĩa vụ, tư cách, vị trí của Chấp hành viên
trung cấp khi thực thi chức trách, nhiệm vụ, nghĩa vụ, quyền hạn trong mối
quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.
23
Với những phân tích, lập luận trên, để xác định rõ địa vị pháp lý
hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong thi hành án dân sự, pháp
luật phải thể hiện được một cách rõ ràng, đầy đủ và toàn diện các quyền và
nghĩa vụ của Chấp hành viên trung cấp cũng như các mối quan hệ của
Chấp hành viên trung cấp trong các nhóm quy định sau đây:
Thứ nhất, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp
phải được thể hiện ở nhiệm vụ, quyền hạn chung của Chấp hành viên và
chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn riêng của Chấp hành viên trung cấp.
Thứ hai, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thể
hiện ở nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi
hành án dân sự.
Có thể quan niệm về địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên
trung cấp thi hành án dân sự như sau: Địa vị pháp lý hành chính của Chấp
hành viên trung cấp thi hành án dân sự là tổng thể các quyền và nghĩa vụ
của Chấp hành viên trung cấp trong các quan hệ pháp luật về thi hành án
dân sự, thể hiện vị trí, vai trò, thẩm quyền, chức trách, nhiệm vụ, quyền lợi,
nghĩa vụ và trách nhiệm của Chấp hành viên trung cấp khi thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên và nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự và các nhiệm vụ khác
theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Cấu thành địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp
Cấu thành địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp
bao gồm các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của Chấp hành viên trung cấp
trong việc thực hiện các chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
1.2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trung cấp
a) Chức năng của Chấp hành viên trung cấp
Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung của Chấp hành viên
24
theo quy định tại Điều 20 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014 như đã trình bày ở phần trên thì Chấp hành viên trung cấp còn thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Thông tư số
03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số
ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án
dân sự: Là người trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi hành các vụ việc thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành
lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương thuộc thẩm quyền của
Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự.
b) Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trung cấp:
Theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày
05/4/2017 của Bộ Tư pháp thì Chấp hành viên trung cấp có các nhiệm vụ,
quyền hạn sau đây:
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 20 của Luật Thi
hành án dân sự (có 10 nhiệm vụ, quyền hạn được trình bày ở phần trên).
- Triển khai thực hiện công tác thi hành án hành chính theo quy định
của pháp luật;
- Xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện quyết định thi hành án dân sự;
đề xuất biện pháp, chỉ đạo việc thi hành các quyết định thi hành án dân sự
thuộc thẩm quyền; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân theo quy định;
- Báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính,
kiến nghị, đề xuất biện pháp tổ chức thi hành án dân sự, thi hành án hành
chính trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao;
- Hướng dẫn nghiệp vụ đối với Chấp hành viên sơ cấp, Thư ký, Thư ký
trung cấp thi hành án;
- Xây dựng văn bản chỉ đạo công tác thi hành án, biên soạn tài liệu và
hướng dẫn, phổ biến nghiệp vụ công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành
25
chính;
- Giúp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nắm tình hình công tác
thi hành án và việc chấp hành pháp luật trong công tác thi hành án thuộc thẩm
quyền theo sự phân công;
- Tham gia nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm và thực tiễn thi hành án;
- Nghiên cứu, kiến nghị, sửa đổi bổ sung các văn bản về thi hành án, đề
xuất ý kiến đóng góp về hoàn thiện hệ thống pháp luật thi hành án;
- Thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật hoặc do Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự giao.
1.2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trung cấp với vai trò
là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự
Khi được bổ nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi hành án
dân sự, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên, thì
Chấp hành viên trung thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng, Phó
Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự.
Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 23 Luật Thi hành án dân sự được
sửa đổi, bổ sung năm 2014, thì Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi hành
án dân sự có các nhiệm vụ, quyền hạn như sau:
- Đối với Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự: Ra quyết định về thi
hành án theo thẩm quyền; Quản lý, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự của
cơ quan thi hành án dân sự; Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp tổ
chức thi hành án; Yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng
văn bản những điểm chưa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án,
quyết định đó để thi hành; Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo
thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định
của pháp luật; Trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát; giải quyết
khiếu nại, tố cáo về thi hành án, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm
26
quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi
phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm;
Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên; Tổ chức thực hiện chế
độ báo cáo, thống kê thi hành án; Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp
tỉnh có quyền điều động, hướng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công tác thi
hành án đối với Chấp hành viên, công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp
tỉnh và cấp huyện trên địa bàn và những việc khác theo hướng dẫn, chỉ đạo
của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
- Đối với Phó thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự: Phó thủ trưởng
cơ quan Thi hành án dân sự thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân
công hoặc ủy quyền của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự và chịu trách
nhiệm trong phạm vi công việc được giao.
Ngoài ra, hiện nay theo phân cấp của Bộ Tư pháp tại Thông tư số
09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 quy định việc phân cấp quản lý công chức,
viên chức, người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân và các cơ quan
Thi hành án dân sự thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh còn có
vai trò rất lớn trong công tác quản lý cán bộ của các cơ quan Thi hành án dân
sự địa phương. Thông tư phân cấp nêu trên cho thấy phần lớn các nhiệm vụ,
quyền hạn liên quan đến công tác cán bộ địa phương có vai trò rất lớn của
Thủ trưởng cơ quan quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành
viên trung cấp
1.3.1. Quy định của pháp luật về địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành
viên trung cấp
Pháp luật quy định quyền, nghĩa vụ, chức trách, nhiệm vụ, vai trò, vị trí
của Chấp hành viên trung cấp. Do đó, đây chính là yếu tố chính, yếu tố ảnh
hưởng nhiều và ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp
27
hành viên trung cấp.
Việc hoàn thiện thể chế, hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự đã quyết định đến sự hoàn thiện về tư cách, địa vị, vị trí, vai
trò, quyền hạn và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của Chấp hành viên trung
cấp, từ đó tạo cơ sở pháp lý, tạo cơ chế hoạt động thuận lợi cho các Chấp
hành viên trung cấp trong việc thực thi công vụ.
Ngược lại, nếu trường hợp pháp luật có những quy định bất cập, những
nội dung không phù hợp thực tế thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt
động tổ chức thi hành án dân sự nói chung và ảnh hưởng đến quyền lợi, nghĩa
vụ, vài trò của Chấp hành viên trung cấp nói riêng.
1.3.2. Chất lượng của Bản án, quyết định của Toà án
Một trong những yếu tố tác động đến địa vị pháp lý hành chính của
Chấp hành viên trung cấp đó là nội dung bản án còn thiếu tính khả thi; có
những bản án tuyên không rõ khiến cơ quan thi hành án dân sự “ngẩn ngơ”
chẳng biết phải thi hành sao… Từ đó, dẫn đến việc phát sinh khiếu nại, tố cáo
trong thi hành án dân sự gia tăng. Không những thế, việc các bản án tuyên
không rõ, không thể thi hành còn tạo sự chây ỳ trong nếp nghĩ của người dân
dẫn đến việc coi thường luật. Vì họ cảm thấy hoang mang và mất lòng tin đối
với các cơ quan tư pháp.
1.3.3. Tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự
Cơ chế tổ chức, hoạt động của bộ máy của cơ quan thi hành án dân sự
có ảnh hưởng, tác động mang tính quyết định đến vai trò, địa vị và tư cách
của Chấp hành viên trung cấp trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.
Với thể chế, quy định của pháp luật ngày càng được hoàn thiện, cơ cấu
tổ chức cơ quan thi hành án được kiện toàn hơn đã mang lại hiệu quả hoạt
động cho Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp thi hành án
dân sự nói riêng, tạo ra vị thế, sự chuyên trách, thẩm quyền rõ ràng cho Chấp
28
hành viên trung cấp, qua đó khẳng định, củng cố và hoàn thiện địa vị pháp lý
hành chính của Chấp hành viên trung cấp.
Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập nhất định trong việc tổ chức, hoạt
động của cơ quan thi hành án dân sự dẫn đến Chấp hành viên trung cấp vẫn
gặp một số khó khăn nhất định trong hoạt động công vụ, ví dụ, theo luật định
thì Chấp hành viên trung cấp là người trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi
hành các vụ việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính phức tạp, số tiền,
tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương
thuộc thẩm quyền của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự
nhưng hiện nay pháp luật về thi hành án dân sự chưa có văn bản nào quy định
về tiêu chí như thế nào là vụ việc phức tạp, số tiền, tài sản phải thi hành lớn…
Chấp hành viên trung cấp thực hiện nhiệm vụ chủ yếu theo sự phân công của
Thủ trưởng cơ quan nới Chấp hành viên trung cấp công tác.
1.3.4. Năng lực của Chấp hành viên trung cấp
Năng lực, kỹ năng thi hành án dân sự, khả năng tư duy, trình độ nghiệp
vụ của Chấp hành viên trung cấp là yếu tố quyết định thành công trong công
tác, khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của Chấp hành viên trung cấp
trong công tác thi hành án dân sự.
Thực tế cho thấy, hiện nay vẫn còn nhiều vụ việc có điều kiện thi hành
nhưng Chấp hành viên trung cấp chưa thi hành dứt điểm, tình trạng vi phạm
pháp luật trong tổ chức thi hành án dân sự của Chấp hành viên trung cấp còn
nhiều dẫn đến hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự chưa cao, án tồn đọng
còn nhiều, kết quả thi hành án dân sự vẫn chưa cao, từ đó làm giảm uy tín, vai
trò, vị thế của Chấp hành viên trung cấp.
1.3.5. Ý thức pháp luật trong xã hội
Thi hành án dân sự là công tác phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực
trong đời sống xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền về tài sản, nhân thân của
29
các bên đương sự và những người có liên quan. Chính từ đó, Chấp hành viên
trung cấp luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn trong thi hành nhiệm
vụ…như đương sự chây ỳ, chống đối; phần lớn các đương sự có thái độ thiếu
hợp tác, chây ỳ, chống đối thường rơi vào trường hợp có điều kiện thi hành án
và để trốn tránh nhiệm vụ của mình, họ dùng đủ mọi chiêu trò như muốn
“thách thức” sự kiên nhẫn của Chấp hành viên nói chung. Một trong những
vũ khí đắc lực giúp họ trì hoãn việc thi hành án là lợi dụng quyền tự do dân
chủ của công dân nhằm khiếu nại, tố cáo không đúng sự thực. Trong khi, các
cơ quan thi hành án dân sự đã giải quyết nhiều lần, giải quyết hết thẩm quyền
mà đương sự vẫn liên tục khiếu nại, tố cáo đến nhiều ngành, nhiều cấp gây ra
vô vàn khó khăn cho Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp
nói riêng cũng như cơ quan Thi hành án dân sự.
1.3.6. Một số yếu tố khác
- Công tác thi tuyển, xét tuyển bổ nhiệm là cơ sở quan trọng để đánh
giá chất lượng của Chấp hành viên trung cấp. Khâu này có ý nghĩa quyết định
đến chất lượng đội ngũ Chấp hành viên trung cấp trong quá trình thi hành án.
Nếu khâu thi tuyển, xét tuyển bổ nhiệm càng tốt, càng công bằng, khách quan
thì đội ngũ chấp hành viên càng có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu. Ngược
lại, khâu tổ chức thi tuyển, bổ nhiệm không tốt, không trung thực, khách quan
thì chất lượng của đội ngũ Chấp hành viên sẽ không đáp ứng được yêu cầu
trong quá trình thi hành án, hiệu quả công việc không cao.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng: Thực hiện tốt khâu tuyển chọn là chưa đủ
để nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, mà muốn phát huy được vai trò
đội ngũ cán bộ, công chức phải làm tốt khâu đào tạo, bồi dưỡng. Đào tạo
được xác định là quá trình làm biến đổi hành vi của con người một cách có hệ
thống thông qua việc học tập. Việc học tập này có được là kết quả của việc
giáo dục, hướng dẫn, phát triển là lĩnh hội kinh nghiệm một cách có kế hoạch
30
hay nó là một quá trình tác động đến con người làm cho người đó lĩnh hội và
nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo....một cách có hệ thống nhằm thích nghi
với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định, góp phần vào
việc phát triển xã hội....
Bồi dưỡng là quá trình làm cho người ta tăng thêm năng lực hoặc
phẩm chất. Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng chính là việc tổ chức ra những cơ hội
cho Chấp hành viên trung cấp được học tập nhằm nâng cao năng lực chuyên
môn, kỹ năng nghiệp vụ, phẩm chất chính trị làm cho họ có thể làm việc tốt
hơn, cho phép họ sử dụng các khả năng, tiềm năng vốn có, phát huy hết năng
lực làm việc. Vì vậy, việc đào tạo, bồi dưỡng có ảnh hưởng rất lớn tới chất
lượng của đội ngũ Chấp hành viên trung cấp, giúp chấp hành viên trung cấp
cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao năng lực thi hành án.
31
Tóm tắt Chương 1
Trong Chương 1, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung
cấp đã được khái quát, chỉ rõ về mặt lý luận, phân tích, phát triển ở các nội
dung cơ bản gồm: Các quan điểm, quan niệm về Chấp hành viên trung cấp,
lịch sử hình thành chức danh, vai trò, chức năng, nhiệm vụ,… cấu thành nên
địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp.
Chấp hành viên trung cấp là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành
án dân sự, thi hành án hành chính, trực tiếp tổ chức thi hành, đôn đốc thi hành
các vụ việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính phức tạp, số tiền, tài
sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan đến nhiều địa phương thuộc
thẩm quyền của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự và thực
hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án
dân sự là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên trung cấp trong
các quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự, thể hiện vị trí, vai trò, thẩm
quyền, chức trách, nhiệm vụ, quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của Chấp
hành viên trung cấp với vai trò là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi
hành án dân sự.
Cấu thành địa vị pháp lý của Chấp hành viên trung cấp bao gồm các
quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Chấp hành viên trung cấp trong việc tổ chức
thi hành bản án, quyết định của Toà án và quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của
Chấp hành viên trung cấp trong vai trò là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan
Thi hành án dân sự và các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trung cấp bao gồm: Pháp luật; cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân
sự; năng lực của Chấp hành viên trung cấp, ý thức pháp luật trong xã hội và
một số yếu tố khác.
32
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH
CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP TRONG
CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Bình
tác động đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp
2.1.2. Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Quảng Bình thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, một mặt giáp biển và 1
mặt dựa lưng vào dãy Trường Sơn. Phía Bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh, ranh giới
là núi Hoành Sơn. Phía Nam tiếp giáp với tỉnh Quảng Trị. Phía Đông giáp
biển với bờ biển dài 116,04 km. Phía Tây giáp Lào với đường biên giới dài
201,87 km. Tỉnh Quảng Bình có toạ độ địa lí là 17005' 02" - 18005' 12" vĩ độ
Bắc, 105036' 55" - 106059' 37" kinh độ Đông. Quảng Bình là nơi hẹp nhất
của lãnh thổ nước ta. Địa giới hành chính của tỉnh được chia làm 08 huyện,
thị xã, thành phố, gồm các huyện: Lệ Thủy, Quảng Ninh, Bố Trạch, Quảng
Trạch, Tuyên Hóa, Minh Hóa; thị xã Ba Đồn và thành phố Đồng Hới.
Quảng Bình nằm ở vị trí trung độ của cả nước, có các trục lộ lớn quốc
gia chạy xuyên suốt chiều dài của tỉnh, có cửa khẩu quốc tế Cha Lo, Cửa khẩu
Cà Roòng. Bên cạnh đó, tỉnh có đường bờ biển dài, thuận lợi cho giao lưu,
thông thương, phát triển kinh tế - xã hội. Địa hình có cấu tạo phức tạp, núi
rừng sát biển, tạo thành độ dốc cao dần từ Đông sang Tây, đồng bằng nhở
hẹp, chủ yếu ven biển, diện tích phần lớn là đồi núi, mật độ sông ngòi dày đặc
với 5 con sông chính, gồm: sông Gianh, sông Ròn, sông Nhật Lệ, sông Lý
Hoà, sông Dinh.
Quảng Bình nằm trong đới khí hậu chí tuyến gió mùa, á đới nóng ẩm,
có sự phân hoá sâu sắc của địa hình và chịu ảnh hưởng khí hậu chuyển tiếp
33
giữa miền Bắc và miền Nam nước ta. Những năm gần đây, do tác động của
biến đổi khí hậu toàn cầu, khí hậu ở Quảng Bình ngày càng khắc nghiệt hơn,
mùa hè nắng nóng, khô hạn, cộng thêm gió Lào khắc nghiệt; mùa mưa thường
xuyên xảy ra bão, lũ quét làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế
- xã hội, hoạt động sản xuất của người dân, đặc biệt là những vùng sâu, vùng
xa, miền núi, dân tộc.
Có thể thấy, tỉnh Quảng Bình địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó
khăn, chẳng hạn từ trung tâm thành phố Đồng Hới đi đến trung tâm huyện lỵ
xa nhất của tỉnh (huyện Minh Hóa) với bán kính trên 120 km, với nhiều cung
đường, đội núi núi hiểm trở, nhiều nơi đường giao thông còn khó khăn gây
trở ngại, khó khăn cho Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung
cấp nói riêng trong công tác chỉ đạo điều hành, nhất là công tác tổ chức cán
bộ và việc tổ chức thi hành án, như: đi lại, xác minh, cưỡng chế thi hành án,
từ đó ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
2.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
Những năm qua, cùng với xu thế đổi mới và mở cửa của cả nước, sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đã đạt được những thành tựu
đáng kế. Quy mô kinh tế không ngừng được mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng tiến bộ, cơ sở hạ tâng được cải thiện đáng kể, các lĩnh vực
văn hóa xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được
nâng cao. Nền kinh tế tỉnh đang từng bước phát huy các thế mạnh về phát
triển thương mại, dịch vụ, du lịch...
Năm 2017, tỉnh Quảng Bình gặp nhiều khó khăn, thách thức do hậu quả
sự cố ô nhiễm môi trường biển còn tiếp tục ảnh hưởng đến tình hình kinh tế -
xã hội, an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh; 02 trận lũ kép năm 2016, bão số 10
năm 2017 gây thiệt hại lớn về người, tài sản và ảnh hưởng đến sản xuất kinh
doanh; …Nhưng với quyết tâm cao để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ
34
tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân
tỉnh đã tích cực, chủ động lãnh đạo, tập trung chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên
đôn đốc, theo dõi các cấp, các ngành triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải
pháp cụ thể để khắc phục khó khăn; sự vào cuộc kịp thời của các cấp, các
ngành và sự nỗ lực, cố gắng của nhân dân, các tổ chức đoàn thể, doanh
nghiệp nên tình hình kinh tế - xã hội năm 2017 có những chuyển biến tích
cực, đạt được những kết quả quan trọng trên các lĩnh vực.
Tăng trưởng kinh tế vượt kế hoạch đề ra; nông nghiệp được mùa toàn
diện, sản lượng lương thực đạt cao nhất từ trước đến nay; sản xuất lâm nghiệp
phát triển theo hướng đẩy mạnh khai thác gỗ rừng trồng; sản lượng thuỷ sản
khai thác tăng cao; hoạt động du lịch phục hồi và phát triển tốt, số lượt khách
du lịch đến tỉnh tăng cao... Lĩnh vực văn hóa, xã hội có những chuyển biến
tiến bộ; công tác cải cách hành chính chuyển biến tích cực; Quốc phòng - an
ninh được tăng cường, giữ vững; Công tác an sinh xã hội được chú trọng, đời
sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.
Một số chỉ tiêu chủ yếu được thực hiện năm 2017 như sau:
Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,7% (KH 6,5%, TH cùng kỳ 5,8%); Giá
trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 6,2% (KH 3,5%, thực hiện
cùng kỳ 1,83%); Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 8,3% (KH 9,5%, TH cùng
kỳ 9,15%); Giá trị sản xuất dịch vụ tăng 7% (KH 7,5%, thực hiện cùng kỳ
5,37%); Cơ cấu kinh tế: nông, lâm nghiệp và thủy sản: 20,4%; công nghiệp -
xây dựng: 27%; dịch vụ: 52,6% (KH Nông, lâm, ngư nghiệp: 22,1%; Công
nghiệp - xây dựng: 26,1%; dịch vụ: 51,8%); Thu ngân sách trên địa bàn đạt
3.350 tỷ đồng, vượt 3% so kế hoạch (KH 3.250 tỷ đồng); Tổng vốn đầu tư
toàn xã hội đạt 16.754 tỷ đồng, vượt 39,6% so kế hoạch (KH 12.000 tỷ đồng);
GRDP bình quân đầu người đạt 33,7 triệu đồng, vượt 8,7% so kế hoạch (KH
31 triệu đồng); Có thêm 9 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 100% KH (chiếm
35
38,9% số xã). Giải quyết việc làm cho 3,59 vạn lao động, vượt 2,6% so kế
hoạch (KH 3,5 vạn lao động); Tỷ lệ hộ nghèo giảm 2,3% so với năm 2016
(KH giảm 2-2,5%); Tốc độ tăng dân số 0,53%/năm (KH tăng 0,65%/năm);
99,66% hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia (KH 99,65%); 86,16% xã,
phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế (KH 84,3%); Số giường bệnh bình
quân trên 1 vạn dân đạt 36,4 giường (KH 22 giường); 89,8% dân số tham gia
bảo hiểm y tế (KH 86,57%); 56,6% xã, phường, thị trấn hoàn thành phổ cập
THCS mức độ III (KH 50,9%); Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 63,1% (KH
63%); trong đó lao động qua đào tạo nghề đạt 41,3% (KH 41%). Tỷ lệ dân cư
thành thị được sử dụng nước sạch đạt 97,2% (KH 97,2%); Tỷ lệ hộ nông thôn
được cung cấp nước sạch và hợp vệ sinh đạt 88% (KH 87%).
Việc kinh tế có chuyển biến, phát triển cũng nảy sinh nhiều vấn nạn
xã hội làm cho số lượng án ngày càng gia tăng cùng với tính chất, mức độ
vụ việc phải thi hành ngày càng phức tạp, giá trị tài sản phải thi hành ngày
càng lớn, đặc biệt là các vụ án có liên quan đến kinh doanh thương mại, tín
dụng ngân hàng,…làm cho lượng việc và tiền phải thi hành án hàng năm
luôn tăng cao, nhiều vụ việc khó khăn phức tạp đã tạo ra áp lực rất lớn cho
các Chấp hành viên trung cấp trong việc thực thi nhiệm vụ.
2.1.4. Về văn hóa - xã hội
Hàng năm tỉnh Quảng Bình đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, thông
tin tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị, các ngày lễ lớn của đất nước
và của tỉnh như: Kỷ niệm ngày cách mạng Tháng tám và quốc khánh 2/9, tổ
chức nhiều hoạt động văn hóa, thể thao, nghệ thuật...
Ngành y tế đã tập trung chỉ đạo triển khai các danh mục kỹ thuật mới
cho bệnh viện tuyến dưới; tổ chức khám sàng lọc và phẫu thuật miễn phí cho
các cháu bị dị tật bẩm sinh. Công tác y tế dự phòng được quan tâm, không có
dịch mới phát sinh. Quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm được tăng cường.
36
Ngành giáo dục và đào tạo đã tổ chức hội nghị tổng kết năm học 2016 -
2017, đã triển khai nhiệm vụ năm học 2017 – 2018. Về vấn đề việc làm đã
giải quyết cho nhiều lao động làm việc trong nước và nước ngoài. Các chính
sách đối với người có công, chính sách an sinh xã hội đã được thực hiện kịp
thời, đúng đối tượng.
2.1.5. Về quốc phòng - an ninh
Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh cơ
bản ổn định. Quảng Bình đã thường xuyên tổ chức tập huấn, bồi dưỡng
nghiệp vụ, kiến thức quốc phòng an ninh, hậu cần, kỹ thuật; thực hiện tốt chế
độ hậu phương quân đội và tham gia công tác phòng chống bão lụt, thiên tai,
tìm kiếm cứu nạn; đồng thời, đã thực hiện nhiều biện pháp phòng ngừa, đấu
tranh trấn áp các loại tội phạm, đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội trên
toàn tỉnh.
Có thể thấy, đời sống văn hóa - tinh thần của nhân dân tỉnh Quảng
Bình, trong đó có đội ngũ Chấp hành viên trung cấp đang ngày được cải
thiện, các chính sách an sinh xã hội ngày càng tăng cường, quốc phòng – an
ninh được giữ vững, đã tạo niềm tin cho nhân dân và đội ngũ Chấp hành viên
tin vào sự lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước từ đó có ý
thức thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự ngày
càng nghiêm chỉnh hơn.
Bên cạnh đó, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thường
xuyên tổ chức các buổi giao lưu văn nghệ, mở các cuộc thi tìm hiểu về pháp
luật thi hành án dân sự, chấp hành viên giỏi... để đội ngũ Chấp hành viên nói
chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng có cơ hội giao lưu học hỏi, tăng
thêm kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm trong tổ chức thi hành án và quản lý
hoạt động thi hành án dân sự.
37
2.2. Tổng quan tổ chức và hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Cơ cấu tổ chức
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình được thành lập theo Quyết
định số 2879/QĐ-BTP ngày 06/11/2009, Cục Thi hành án dân sự là cơ quan
thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, thực hiện nhiệm vụ thi
hành án dân sự theo quy định của pháp luật, thực hiện chức năng thi hành án
dân sự, có nhiệm vụ giúp Tổng cục Thi hành án dân sự quản lý một số mặt
công tác tổ chức cán bộ, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động các
nhiệm vụ, quyền hạn khác của các cơ quan Thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình theo quy định của pháp luật, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp và Tổng cục Thi hành án dân sự; đồng thời, Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình giúp Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình thực hiện trách nhiệm,
quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình có 04 Phòng chuyên môn trực
thuộc, gồm: Văn phòng Cục; phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án; phòng
Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng tổ chức cán bộ và 08 Chi cục
Thi hành án dân sự huyện, thị xã, thành phố trực thuộc, gồm: Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Lệ Thủy, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng
Ninh, Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới, Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Bố Trạch, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch, Chi
cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn, Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Tuyên Hóa, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hóa. Các Chi cục Thi
hành án dân sự trực thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, thực hiện
nhiệm vụ thi hành án và các nhiệm vụ quyền hạn khác theo quy định của pháp
luật; đồng thời, chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cùng cấp theo quy định
của pháp luật.
38
Cơ cấu biên chế của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình:
Theo Quyết định số 474/QĐ-TCTHADS ngày 14/4/2017 của Tổng cục Thi
hành án dân sự - Bộ Tư pháp về việc giao biên chế công chức hành chính Nhà
nước năm 2017 đối với các cơ quan Thi hành án dân sự, thì các cơ quan Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình được giao tổng cộng 105 biên chế, trong đó
tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh được giao 25, các Chi cục Thi hành án dân sự
huyện, thị xã, thành phố được giao 80 biên chế. Số biên chế đã thực hiện
được 103 biên chế, trong đó: ở Cục Thi hành án dân sự thực hiện được 25/25
biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh thực
hiện được 78/80 biên chế.
Việc sắp xếp, bố trí số biên chế đã tuyển dụng được Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Quảng Bình thực hiện cụ thể như sau:
Ở cấp tỉnh: Tổng biên chế được giao là 25 biên chế, trong đó: Xét về
ngạch công chức: có 10 Chấp hành viên (07 Chấp hành viên trung cấp, 03
Chấp hành viên sơ cấp); 04 Thẩm tra viên (01 Thẩm tra viên chính, 03 Thẩm
tra viên); 08 Thư ký thi hành án; 04 công chức khác (Kế toán, Văn thư, Lái
xe). Xét về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: 02 công chức có trình độ thạc sĩ
Luật; 23 công chức có trình độ cử nhân (cử nhân Luật 21 công chức, cử nhân
Kinh tế chuyên ngành Kế toán 02 công chức); 01 công chức có trình độ khác.
Về cơ cấu chức danh lãnh đạo và công chức thừa hành nhiệm vụ: Lãnh
đạo Cục có 01 Cục trưởng (Chấp hành viên trung cấp) và 03 Phó Cục trưởng
(Chấp hành viên trung cấp). Các phòng chuyên môn: Văn phòng Cục có 01
Chánh Văn phòng (Thẩm tra viên chính), 01 Phó chánh Văn phòng (Thẩm tra
viên), 01 thẩm tra viên, 01 thư ký thi hành án, 02 kế toán (01 kế toán nghiệp
vụ, 01 kế toán hành chính) và 01 Văn thư – lưu trữ; Phòng Nghiệp vụ và tổ
chức thi hành án có 01 Trưởng phòng (Chấp hành viên trung cấp), 02 Phó
trưởng phòng (Chấp hành viên sơ cấp), 01 Chấp hành viên sơ cấp và 03 Thư
39
ký thi hành án; Phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo có 01 Trưởng
phòng (Chấp hành viên trung cấp), 01 Phó Trưởng phòng (Thẩm tra viên) và
02 thư ký thi hành án; Phòng Tổ chức cán bộ có 01 Trưởng phòng (Chấp
hành viên trung cấp), 01 Phó trưởng phòng (thư ký thi hành án) và 01 thư ký
thi hành án.
Ơ cấp huyện: Trên cơ sở Quyết định số 474/QĐ-TCTHADS ngày
14/4/2017 của Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình ban hành Quyết định số 148/QĐ-TCTHADS ngày 27/4/2017 về
việc giao biên chế công chức hành chính Nhà nước năm 2017 đối với Chi cục
Thi hành án dân sự các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Theo đó, tổng số
biên chế giao cho các Chi cục Thi hành án dân sự là 80 biên chế, phân bổ cho
08 Chi cục. Cụ thể: Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy 11 biên chế,
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Ninh 08 biên chế, Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Đồng Hới 16 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Bố Trạch 11 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quảng Trạch 09
biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn 10 biên chế, Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Tuyên Hóa 08 biên chế, Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Minh Hóa 07 biên chế.
Nhìn chung, kể từ khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luật Thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và bên cạnh được sự quan
tâm của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, cấp ủy và chính quyền địa
phương, nên tổ chức, bộ của các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
ngày càng được củng cố, kiện toàn, đi vào hoạt động có hiệu quả. Hàng năm,
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thực hiện tốt công tác rà soát, quy
hoạch cán bộ lãnh đạo của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
để làm tiền đề cho việc đề xuất cơ quan có thẩm quyền bổ nhiệm và trực tiếp
bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý thuộc thẩm quyền. Công tác đào
40
tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ công
chức thi hành án dân sự được Cục Thi hành án dân sự quan tâm, chú trọng.
Hoạt động thi hành án dân sự có hiệu quả, thông suốt, đạt được nhiều kết quả
đáng khích lệ. Kết quả thi hành án dân sự hàng năm đều đạt và vượt các chỉ
tiêu mà Quốc Hội, Chính phủ, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự
giao. Với thành tích xây dựng và phát triển, Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình và nhiều cá nhân, đơn vị thuộc và trực thuộc đã vinh dự được
Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao qúy như: Huân chương
lao động hạng Ba, Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Cờ thi đua Ngành
Tư pháp, Uỷ ban nhân dân tỉnh; Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bằng
khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh…
2.2.2. Tình hình đội ngũ Chấp hành viên trung cấp trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình
2.2.2.1. Số lượng và độ tuổi
Được sự quan tâm của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự và
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương nên đội ngũ Chấp hành viên, công
chức các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình không ngừng được
củng cố, tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Cụ thể: Năm 1993, khi
tách ra khỏi Tòa án, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình chỉ có
08 Chấp hành viên (Phòng thi hành án 03 Chấp hành viên, Đội thi hành án
05 Chấp hành viên) và đến nay các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình có 44 Chấp hành viên (14 Chấp hành viên trung cấp, 30 Chấp hành viên
sơ cấp), trong đó, nam 29 người, nữ 15 người.
41
Bảng 2.1. Số lượng Chấp hành viên trung cấp tính đến ngày 30/9/2017 Số lượng (người) Ngạch Tuổi
Chấp hành viên sơ cấp 30 Từ 32 – 60
Chấp hành viên trung cấp 14 Từ 42 - 59
Chấp hành viên cao cấp 0 0
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự năm 2017 của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
2.2.2.2. Chuyên môn, nghiệp vụ
Đội ngũ Chấp hành viên trung cấp Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
đều có trình độ chuyên môn cử nhân Luật. Đa số đã được đào tạo qua các lớp
đào tạo dài hạn về kỹ năng thi hành án dân sự tại Học viện Tư pháp (trên
65%), số còn lại đều đã qua đào tạo tại các lớp ngắn hạn về kỹ năng thi hành
án dân sự do Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp tổ chức; thường
xuyên được rèn luyện trong môi trường công tác, trải qua nhiều thử thách nên
đã vận dụng một cách thành thạo, sáng tạo các kỹ năng thi hành án dân sự vào
thực tế đem lại chất lượng, hiệu quả trong giải quyết công việc cũng như công
tác quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt động thi hành án dân sự ở địa phương.
2.2.2.3. Ngoại ngữ, tin học
- Đội ngũ Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình đều có chứng chỉ ngoại ngữ với trình độ tương đương bậc 2 khung năng
lực ngoại ngữ Việt Nam theo quy định tại Thông tư số 01/2014/TT-
BGDĐT ngày 24/01/2014 của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành khung năng
lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (tương đương trình độ A2 hoặc trình
độ B trở lên).
42
- Đội ngũ Chấp hành viên trung cấp Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình đều có chứng chỉ tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công
nghệ thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-
BTTTT ngày 11/3/2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định Chuẩn
kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin (tương đương trình độ B trở lên).
2.2.2.4. Lý luận chính trị
Hiện nay, đội ngũ Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình đều có trình độ lý luận chính trị cao cấp, có phẩm chất chính trị
vững vàng, trưởng thành qua thực tế công tác; luôn kiên định và tuyệt đối tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu hết mình phục vụ đất nước và
nhân dân. Có đạo đức nghề nghiệp, tận tụy với công việc, yêu ngành, yêu
nghề; không ngừng học tập để nâng cao kiến thức về mọi mặt. Chấp hành tốt
kỷ luật, kỷ cương trong ngành, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ được giao; dám
nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; thường xuyên tìm tòi, đổi mới cách
nghĩ, cách làm, vận dụng một cách sáng tạo, khoa học các kiến thức và kinh
nghiệm vào thực tế công tác. Qua đó, đã góp phần quan trọng đưa công tác thi
hành án dân sự của Quảng Bình trong những năm qua có bước chuyển mình
mạnh mẽ.
Có thể thấy, kể từ khi các cơ quan thi hành án dân sự được thành lập,
nhất là khi thực hiện Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 thì đội ngũ Chấp
hành viên trung cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã được củng cố, tăng
cường một cách toàn diện cả về số lượng cũng như về chất lượng, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
2.2.3. Kết quả công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Bình từ năm
2012 đến năm 2017
Thời gian qua, mặc dù gắp nhiều khó khăn, thử thách như: số lượng án
43
phải thi hành tăng nhanh qua từng năm; nhất là, thời gian gần đây trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình phát sinh nhiều vụ việc liên quan đến đất đai, kinh doanh
thương mại, tín dụng ngân hàng, tranh chấp dân sự… với giá trị phải thi hành
lớn và hết sức phức tạp đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả công tác THADS.
Bên cạnh đó, là tỉnh hứng chịu những thiên tai nặng nề từ tự nhiên; hiện
tượng cá chết hàng loạt tại vùng biển Miền Trung do Công ty Formosa Hà
Tĩnh gây ra trong thời gian qua đã ảnh hướng không nhỏ đến kết quả thi hành
án trên địa bàn. Song, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Tư pháp,
Tổng cục Thi hành án dân sự, cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, sự phối
hợp chặt chẽ của các cơ quan, ban ngành đoàn thể các cấp và đặc biệt là sự nỗ
lực, tận tụy của đội ngũ cán bộ, chấp hành viên, nhất là Chấp hành viên trung
cấp nên kết quả thi hành án dân sự luôn đạt, vượt các chỉ tiểu, nhiệm vụ được
giao, đóng góp một phần tích cực vào kết quả chung của toàn Hệ thống và
góp phần giữ vững an ninh, chính trị và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn
tỉnh, thể hiện qua kết quả công tác từng năm của giai đoạn 2012 - 2017:
Thứ nhất, về kết quả thi hành án:
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về việc của cơ quan thi hành án tỉnh Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017
Đơn vị tính: việc
Tỷ lệ thi hành Năm công Tổng số phải Tổng số có điều Tổng số thi xong/số có tác thi hành kiện thi hành hành xong điều kiện
2.176 94% 2012 3.168 2.314
2.677 93% 2013 3.465 2.877
2.583 93% 2014 3.281 2.779
2.837 97% 2015 3.447 2.914
44
2016 3.741 3.261 2.956 91%
2017 4.073 3.504 3.173 91%
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2012-
2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
Bảng 2.3: Kết quả thi hành án dân sự về tiền của cơ quan thi hành án tỉnh Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017
Đơn vị tính: VN đồng
Tỷ lệ thi Tổng số phải Tổng số có điều Tổng số thi Năm hành thi hành kiện thi hành hành xong công tác xong/số có (1.000đ) (1.000đ) (1.000đ) điều kiện
37.748.872 19.512.776 18.573.255 94% 2012
75.132.749 30.608.155 27.967.708 91% 2013
139.803.286 80.371.111 65.890.764 82% 2014
185.052.651 85.348.862 83.292.293 98% 2015
272.542.093 132.677.879 46.379.753 35% 2016
395.605.455 150.643.167 70.132.314 47% 2017
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn 2012-
2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
- Về tình hình giải quyết các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng:
Năm 2017, số việc phải giải quyết loại này của các cơ quan Thi hành
án dân sự tỉnh Quảng Bình là 90 việc, tương ứng với số tiền là 188 tỷ 935
triệu 370 nghìn đồng. Tỷ lệ án tín dụng ngân hàng chiếm 2% về việc và 48%
về tiền so với tổng số việc và tiền phải giải quyết. Kết quả: trong số việc loại
này, đã giải quyết được 19 việc, thu được số tiền là 41 tỷ 738 triệu 704 ngàn
đồng, đạt tỷ lệ 21% về việc và 22,09 % về tiền (Nguồn báo cáo thống kê năm
45
2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình).
- Về kết quả xét miễn, giảm thi hành án:
Năm 2017, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã phối
hợp với Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp rà soát, lập hồ sơ và đề nghị Tòa án
nhân dân có thẩm quyền xét miễn, giảm đối với 26 việc, tương ứng với số tiền
121 triệu 356 nghìn đồng (Nguồn báo cáo thống kê năm 2017 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình).
- Về kết quả tổ chức thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự đối
với phạm nhân tại các Trại giam thuộc Bộ Công an:
Năm 2017, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thụ lý thi
hành 447 việc, tương ứng với số tiền 48 tỷ 290 triệu 935 nghìn đồng. Kết quả:
đã giải quyết xong 260 việc, thu được số tiền 2 tỷ 382 triệu 191 nghìn đồng,
đạt tỷ lệ 58,2% về việc và 4,9% về tiền (Nguồn báo cáo thống kê năm 2017
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình).
Thứ hai, sự tích cực trong hoạt động của các cơ quan Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Bình và đội ngũ Chấp hành viên trung cấp đã tạo ra sự chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương,
các ngành, đoàn thể và nhân dân trên địa bàn tỉnh về công tác thi hành án dân
sự. Thi hành án dân sự đã được coi là một trong các nhiệm vụ chính trị quan
trọng, được các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương quan tâm, chú trọng.
Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện được thành lập và đã làm
tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, tạo điều kiện cho các cơ quan Thi hành án
dân sự thực hiện nhiệm vụ chính trị trên địa bàn tỉnh, góp phần đảm bảo an
ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội. Việc phối hợp giữa các cơ quan thi hành
án dân sự trong tỉnh với các đơn vị liên quan luôn được duy trì và phát huy,
nhất là trong việc giải quyết những vụ việc có vướng mắc, khó khăn, có ảnh
hưởng lớn đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội của địa
46
phương.
Thứ ba, đã tổ chức thi hành dứt điểm nhiều vụ án khó khăn, phức tạp,
tồn đọng nhiều năm, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và
công dân, đơn cử một số việc như:
- Vụ việc Công ty Thanh Hòa
Theo Quyết định số 01/2013/KDTM-ST ngày 15/3/2013 của TAND
huyện Quảng Trạch tuyên Công ty Thanh Hòa phải trả nợ cho Ngân hàng
TMCP Sài Gòn Thương Tín số tiền cả gốc và lãi là 3.283.484.000 đồng, tài
sản thế chấp bảo lãnh cho khoản vay là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất là nhà 4 tầng xây bê tông cốt thép thuộc quyền sở hữu của bà Nguyễn
Thị Hòa, bà Hòa đồng thời là giám đốc Công ty Thanh Hòa, đất và nhà trên
tại thị xã Ba Đồn. Quá trình tổ chức thi hành, Chi cục THADS thị xã Ba Đồn
đã tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản của bà Hòa để đảm bảo cho việc thi hành
án, tài sản trên đã được bán đấu giá thành trong tháng 11/2015 nhưng không
giao được tài sản vì bà Hòa kịch liệt chống đối, không tự nguyện thi hành,
mặt khác còn gửi đơn khiếu nại, tố cáo đến nhiều nơi, có hành vi chống đối
quyết liệt, cản trở việc thi hành án.
Đây là vụ việc phức tạp, khó khăn trong việc cưỡng chế giao tài sản
cho người mua trúng đấu giá, người phải thi hành án và người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan chống đối quyết liệt, được dư luận xã hội quan tâm, có khả
năng phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước. Để tập trung giải quyết dứt
điểm vụ việc nói trên, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và quyền lợi
của người mua trúng đấu giá tài sản, Chấp hành viên trung cấp Chi cục thi
hành án thị xã Ba Đồn tăng cường phối hợp với cơ quan, ban, ngành liên quan
tiếp tục kiên trì vận động, thuyết phục, giải thích cho người phải thi hành án,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tự nguyên giao tài sản; một số cơ
quan đã phối hợp rất tích cực, đặc biệt Công an thị xã Ba Đồn. Vì vậy người
47
phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã tự nguyện giao
tài sản cho người mua tài sản bán đấu giá, không phải tổ chức cưỡng chế, đảm
bảo an ninh trật tự trên địa bàn trung tâm thị xã Ba Đồn. Như vậy, sau gần 2
năm kể từ khi bán đấu giá thành vụ việc đã được giải quyết năm 2017.
- Vụ ông Dương Văn Chanh và bà Hoàng Thị Lê
Theo Bản án sơ thẩm số 14/STTC ngày 10/3/2000 của TAND huyện
Lệ Thuỷ tuyên giao cho ông Hoàng Đình Luyện được thừa kế quyền sử dụng
đất có diện tích 321m2 của bà Lê Thị Yên (mẹ ông Luyện) tại thị trấn Kiến
Giang, huyện Lệ Thủy. Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày Bản án có hiệu lực
pháp luật vợ chồng ông Dương Văn Chanh và bà Hoàng Thị Lê đang sinh
sống trên khu đất, phải tìm nơi ở mới để trả lại khu đất cho ông Luyện. Hết
thời hạn 1 năm, ông Chanh, bà Lê vẫn không chuyển đi nơi khác để trả khu
đất, trong thời gian này ông Luyện bị chết. Bà Trần Thị Hoài Thu (vợ ông
Luyện) đã làm đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục THADS huyện Lệ Thủy ra
Quyết định thi hành án số 99/THA ngày 23/5/2001 để thi hành Bản án trên.
Qua xác minh thông tin về tài sản thi hành án được biết trên khu đất đang
tranh chấp có ngôi nhà của ông Chanh, bà Lê được xây dựng kiên cố trước
khi có Bản án sơ thẩm nhưng Tòa án không tuyên việc xử lý ngôi nhà như thế
nào khi chuyển giao quyền sử dụng khu đất, vì vậy không thể để tổ chức
cưỡng chế giao tài sản. Xét thấy Bản án tuyên có nhiều sai sót, không phù
hợp với thực tế khách quan, khó thi hành án, Chấp hành viên trung cấp Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy đã gửi văn bản cho Tòa án có thẩm
quyền kiến nghị xem xét lại Bản án để làm cơ sở tổ chức thi hành. Do Bản án
đã hết thời hiệu kháng nghị giám đốc thẩm, không có căn cứ để kháng nghị
tái thẩm nên những sai sót của Bản án không khắc phục được, dẫn đến vụ việc
tồn đọng nhiều năm, gây bức xúc cho các bên đương sự. Vụ việc đã được Tòa
án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Thi hành án dân sự tỉnh thống nhất
48
bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ, có sai sót, khó thi hành để tổng
hợp báo cáo Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân
tối cao.
Trước tình hình đó, Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh (Chấp hành
viên trung cấp) đã chỉ đạo Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy tiếp tục
vận động, thuyết phục và hướng dẫn cho các bên đương sự thỏa thuận thi
hành án trong thời gian chờ các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn giải quyết.
Thông qua vận động, thuyết phục và hướng dẫn cho các bên đương sự thỏa
thuận thi hành án, sự chỉ đạo, phối hợp của cấp ủy, chính quyền, các ban,
ngành ở địa phương, ngày 21/7/2017 dưới sự chứng kiến của Chấp hành viên
trung cấp Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy, các bên đương sự đạt
được thỏa thuận về thi hành án đối với vụ việc, cụ thể bà Thu đồng ý nhận số
tiền 145.000.000 đồng của vợ chồng ông Chanh, bà Lê để không yêu cầu thi
hành án nữa, đồng ý khu đất thuộc quyền sử dụng của ông Chanh, bà Lê. Như
vậy, sau hơn 16 năm thi hành, vụ việc đã được giải quyết dứt điểm trong năm
2017.
Qua số liệu thống kê của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình (báo cáo tổng kết công tác thi hành án dân sự năm: 2012; 2013; 2014;
2015; 2016 và 2017) cho thấy các vụ việc mà cơ quan thi hành án dân sự phải
thụ lý ngày càng tăng, nhất là về giá trị với tính chất phức tạp, nhưng đội ngũ
Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Bình nói riêng đã chỉ đạo và trực tiếp tổ chức thi hành án kịp thời,
đúng quy định của pháp luật. Kết quả thi hành án dân sự của tỉnh Quảng Bình
là sự phản ánh một cách đầy đủ, toàn diện nhất về địa vị pháp lý hành chính
của đội ngũ Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
49
2.3. Thực tế địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp
trong các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
2.3.1. Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn chung của chấp hành viên và nhiệm vụ,
quyền hạn riêng của Chấp hành viên trung cấp
Thứ nhất, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 20 của
Luật Thi hành án dân sự năm 2014. Điều 20 Luật Thi hành án dân sự được
sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định 10 nhiệm vụ, quyền hạn chung của
Chấp hành viên để tổ chức thi hành bản án, quyết định. Theo báo cáo kết quả
công tác thi hành án dân sự các năm 2012, 2013, 2014, 2015, 2016 và 2017
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cho thấy: Kể từ khi các cơ quan
Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình được thành lập, mặc dù đội ngũ Chấp
hành viên vừa thiếu, vừa yếu, trong khi phải giải quyết công việc vừa bổ
sung, kiện toàn tổ chức, nhưng với sự quan tâm, tạo điều kiện của các cơ quan
có thẩm quyền và sự nỗ lực, cố gắng của từng Chấp hành viên nói chung và
Chấp hành viên trung cấp nói riêng, năng lực của đội ngũ Chấp hành viên
trung câp thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Bình thời gian qua đã được nâng
lên đáng kể. Hầu hết các Chấp hành viên trung câp khi được bổ nhiệm đều có
trình độ cử nhân Luật và tương đương trung cấp chính trị, được bồi dưỡng
thêm kiến thức về quản lý hành chính nhà nước, các Chấp hành viên trung
cấp đều được đào tạo trình độ Cao cấp lý luận chính trị nên năng lực tư duy,
lý luận của đội ngũ Chấp hành viên trung cấp đáp ứng được yêu cầu của công
việc. Bên cạnh đó, do trước khi được bổ nhiệm các Chấp hành viên trung cấp
đều có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên nên những kiến
thức, bài học kinh nghiệm được rút ra từ thực tiễn công tác đã được đúc kết
thành những tri thức mang tầm lý luận giúp cho các Chấp hành viên trung cấp
nhanh chóng, dễ dàng nắm bắt nội dung, tính chất của từng vụ việc để lập
50
phương án, kế hoạch thi hành án phù hợp và phát hiện, phân tích những vấn
đề mới nảy sinh trong khi tổ chức thi hành án để tìm biện pháp giải quyết
thích hợp. Đồng thời, với lực lượng dần được "trẻ hóa", khả năng nhận thức,
nắm bắt nhanh nhạy chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước để triển khai, vận dụng vào thực tiễn thi hành án của các Chấp
hành viên trung cấp ngày càng được nâng cao. Qua đó, góp phần quan trọng,
tích cực vào kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, góp
phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua một số Chấp hành viên trung cấp thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình khi làm việc dựa vào kinh nghiệm chủ quan,
phiến diện dẫn đến lúng túng, thậm chí sai lầm trong tổ chức thi hành án. Một
số Chấp hành viên trung cấp chưa nhận thức rõ vai trò, vị trí của mình trong
quá trình thi hành án nên giao cho cán bộ thi hành án thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Chấp hành viên dẫn đến vi phạm pháp luật. Một số Chấp hành
viên trung cấp không nhanh nhạy, khôn khéo, thiếu tầm nhìn xa, trông rộng
khi tổ chức thi hành những vụ việc có tính chất nhạy cảm, trong những thời
điểm nhạy cảm nên có khi việc thi hành án tạo thành "điểm nóng" ở địa
phương; hoặc giải quyết công việc một cách cứng nhắc, không quan tâm đến
những yếu tố kinh tế - xã hội ở địa phương cũng như hoàn cảnh, điều kiện của
người phải thi hành án làm cho đương sự có những phản ứng tiêu cực gây mất
trật tự an ninh chính trị, hoặc bế tắc khi giải quyết những loại việc mới phát
sinh trong nền kinh tế thị trường có liên quan tới thị trường chứng khoán,
tham nhũng, kinh doanh thương mại, đất đai... Chấp hành viên trung cấp áp
dụng sai các quy định của pháp luật trong việc giải quyết những quan hệ pháp
luật cụ thể. Đặc biệt, là khi thi hành nghĩa vụ của một người vợ (hoặc chồng)
chấp hành viên đã kê biên tài sản chung của vợ chồng nhưng lại không xử lý
51
theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình hoặc Bộ luật dân sự dẫn đến
khiếu nại, khiếu kiện…
Đối với nhiệm vụ “kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công và
ra các quyết định về thi hành án của các Chấp hành viên” thực tế vẫn còn hạn
chế, thể hiện qua việc mặc dù người phải thi hành án có điều kiện thi hành án
nhưng Chấp hành viên trung cấp không ra quyết định cưỡng chế để buộc họ
phải thi hành. Tại báo cáo tổng kết công thi hành án dân sự năm 2017 phương
hướng nhiệm vụ năm 2018 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã
khẳng định: "Một số cán bộ, Chấp hành viên, trong đó có Chấp hành viên
trung cấp chưa tích cực, chủ động trong công tác: chậm ra quyết định thi hành
án, chưa kịp thời xác minh điều kiện thi hành án hoặc không kiên quyết áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án mặc dù người phải thi hành án có
điều kiện thi hành". Nhiều vụ việc Chấp hành viên trung cấp xác minh điều
kiện thi hành án với nội dung sơ sài như “bản thân người phải thi hành án
đang thụ hình, trong nhà không có tài sản gì” và tại Kết luận số 2094/KL-
VKS-P11 ngày 27/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình về
trực tiếp kiểm sát hoat động thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình khẳng định:
Một số Chấp hành viên, trong đó có Chấp hành viên trung cấp chưa kịp thời
áp dụng biện pháp cưỡng chế, kê biên tài sản, bán đấu giá để đảm bảo thi
hành án: Có vụ việc người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng
hơn 2 năm mà Chấp hành viên trung cấp chưa áp dụng biện pháp cưỡng chế
thi hành án, mặc dù Viện kiểm sát đã có văn bản yêu cầu Chấp hành viên
trung cấp ra quyết định cưỡng chế nhưng vẫn chưa thực hiện; Chấp hành viên
ra quyết định thu phí thi hành án không đúng quy định…Như vậy, Chấp hành
viên trung cấp chưa làm tròn trách nhiệm của Nhà nước giao phó để kịp thời
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước và công dân đã được ghi nhận
tại bản án, quyết định .
52
Về việc thực hiện quyền yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ người chống
đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật. Trên thực tế khi thi hành
công vụ, Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng
phải sử dụng quyền này rất nhiều nhưng cũng rất ít trường hợp cơ quan Công
an ủng hộ đề nghị của Chấp hành viên tạm giữ người chống đối việc thi hành
án. Có trường hợp người phải thi hành án còn có hành vi đổ nước bẩn vào cán
bộ thi hành án đang thi hành nhiệm vụ...Trước tình hình đó, Chấp hành viên
đã yêu cầu Công an tạm giữ người phải thi hành án để Hội đồng cưỡng chế
tiếp tục làm việc nhưng Công an chỉ dùng biện pháp động viên, thuyết phục
và giám sát người phải thi hành án chứ không thực hiện quyền tạm giữ người
chống đối việc thi hành án. Để hoàn thành nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước
giao phó, Chấp hành viên trung cấp vẫn phải tiếp tục buổi cưỡng chế giao đất
nhưng trong một hoàn cảnh vừa làm vừa nghe những lời chửi rủa vô văn hóa
đó cho đến khi kết thúc buổi giao đất. Tình hình này đã xúc phạm rất nghiêm
trọng đến danh dự của cán bộ, Chấp hành viên nói chung trong ngành thi
hành án dân sự mà không có sự bảo vệ cần thiết, mặc dù có sự tham gia của
lực lượng bảo vệ. Để bảo đảm cho công tác thi hành án nhất là công tác
cưỡng chế thi hành án, nên chăng cần tăng thẩm quyền cho Chấp hành viên
trung cấp đó là quyền ký lệnh hoặc quyền bắt người có hành vi chống đối việc
thi hành án.
Mặt khác, để tổ chức thi hành các bản án, quyết định một trong những
nhiệm vụ của Chấp hành viên nói chung là phải xác minh điều kiện thi hành
án của người phải thi hành án. Trong một số trường hợp khi Chấp hành viên,
cán bộ cơ quan thi hành án đến nhà người phải thi hành án Chấp hành viên đã
nhìn được có một xe máy trong nhà. Nhưng khi Chấp hành viên hỏi người
phải thi hành án về chiếc xe đó thì người phải thi hành án trả lời là “trong nhà
tôi không có chiếc xe máy nào cả” không cón cách nào khác Chấp hành viên
53
và những người tham gia buổi làm việc đã ra về với nội dung xác minh như
sau: “trong nhà người phải thi hành án chỉ có một bộ bàn ghế xa long đã cũ,
và một ti vi 16 inh nhãn hiệu sam sung đã cũ còn chiếc xe máy thì không
được đưa vào nội dung xác minh vì không thể nhìn thấy để mô tả tình trạng
của chiếc xe và người phải thi hành án không thừa nhận có chiếc xe máy đó
cho nên nếu ghi vào biên bản thì người phải thi hành án không ký tên vào
biên bản xác minh. Từ những ví dụ trên, nên chăng pháp luật cần bổ sung
thẩm quyền cho chấp hành viên trong khi thi hành công vụ như quyền được
khám xét người, nơi ở... của người phải thi hành án thì hiệu quả của công tác
thi hành án dân sự sẽ cao hơn rất nhiều. Theo tác giả, để hoạt động thi hành
án dân sự được tổ chức một cách an toàn về người và tài sản và đạt được hiệu
quả cao cần phải có Cảnh sát tư pháp thuộc cơ quan thi hành án dân sự để họ
thực thi nhiệm vụ bảo vệ cán bộ, Chấp hành viên khi thi hành công vụ. Đồng
thời, cần được bổ sung thêm quyền hạn cho Chấp hành viên trung cấp đó là
quyền được khám người, khám nơi cất giữ đồ vật, tài liệu, phương tiện của
người phải thi hành án trong khi thi hành công vụ.
Thứ hai, việc thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn riêng của Chấp
hành viên trung cấp thi hành án dân sự
- Triển khai thực hiện công tác thi hành án hành chính theo quy định
của pháp luật:
Các Chấp hành viên trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình đã thường xuyên quán triệt, triển khai thực hiện Luật Tố tụng
hành chính năm 2015 và Nghị định số 71/2016/NĐ-CP đến toàn thể Chấp
hành viên, Thẩm tra viên, công chức của toàn đơn vị; tổ chức tuyên truyền,
phổ biến, cập nhật các quy định của pháp luật về thi hành án hành chính. Phối
hợp với các ban ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương, cơ sở tuyên truyền
trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao nhận thức, trách
54
nhiệm của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức và hiểu biết
của người dân về công tác thi hành án hành chính theo quy định của pháp luật
hiện hành, thông qua đó tăng cường hơn nữa hiệu quả thi hành án hành chính
tại địa phương. Đồng thời, chủ động thực hiện chức năng theo dõi thi hành án
hành chính theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan nơi công tác.
Từ trước cho đến hết năm 2017, các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình chưa thụ lý theo dõi vụ việc thi hành án hành chính nào. Vì số
bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính chuyển giao đến các cơ
quan Thi hành án dân sự, không có trường hợp nào có nội dung theo dõi việc
thi hành án hành chính theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015
và Nghị định 71/2016/NĐ-CP.
Mặc dù, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 bỏ thủ tục đôn đốc thi
hành án hành chính vốn gây nhiều bức xúc trong thời gian qua và thay thế
bằng cơ chế chủ động thi hành án với việc tự nguyện thi hành của người phải
thi hành án và thẩm quyền ban hành quyết định buộc thi hành án của Tòa án
đã xét xử sơ thẩm vụ án đó. Tuy nhiên, qua nghiên cứu và theo dõi thực tiễn
thi hành án hành chính tại nhiều địa phương cho thấy vẫn còn nhiều khó khăn,
vướng mắc như: Khoản 2 Điều 311 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 quy
định: Thời hạn tự nguyện thi hành án được xác định người phải thi hành án
phải thi hành ngay bản án, quyết định; Người phải thi hành án phải thi hành
bản án, quyết định của Tòa án quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1
Điều này trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của
Tòa án nhưng tại Khoản 2 Điều 14 Nghị định 71 quy định: Khi nhận được
bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan Thi hành án dân sự phân công Chấp
hành viên thực hiện theo dõi việc thi hành án hành chính. Trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan
thi hành án dân sự có trách nhiệm ra văn bản thông báo về việc tự nguyện thi
55
hành án gửi người phải thi hành án. Nội dung thông báo nêu rõ thời hạn tự
nguyện, trách nhiệm tổ chức thi hành án, việc xử lý trách nhiệm nếu không
chấp hành án. Đối với bản án, quyết định của Tòa án quy định tại điểm e và
điểm g khoản 1 Điều 311 Luật tố tụng hành chính năm 2012 thì phải ra ngay
thông báo về việc tự nguyện thi hành án. Do đó, cơ quan thi hành án dân sự
khó khăn trong việc theo dõi án hành chính, khó xác định thời hạn tự nguyện
thi hành án bắt đầu và kết thúc vào lúc nào vì không biết chính xác thời điểm
người phải thi hành án nhận được bản án, quyết định của Toà án.
Bên cạnh đó, việc lập biên bản với người phải thi hành án và đề xuất xử
lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án chậm thi hành án hoặc không
chấp hành án cũng tồn tại một số vướng mắc. Cụ thể, Khoản 3 Điều 14 Nghị
định số 71/2016/NĐ-CP về trình tự, thủ tục thi hành án… quy định: Trong
thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định buộc thi hành án
hành chính, Chấp hành viên được phân công theo dõi việc thi hành án phải
làm việc với người phải thi hành án để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong bản
án, quyết định của Tòa án. Nội dung làm việc phải được lập thành biên bản.
Khoản 5 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP cũng quy định: Cơ quan thi
hành án dân sự có văn bản kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý
trách nhiệm đối với người phải thi hành án chậm thi hành án, không chấp
hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định
của Toà án theo quy định của Luật tố tụng hành chính và Nghị định này. Phần
lớn người phải thi hành án trong các vụ án hành chính là Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện nên quá trình
theo dõi việc thi hành án hành chính có phần khó khăn cho các cơ quan thi
hành án dân sự trong việc thông báo, tống đạt Thông báo tự nguyện thi hành
án và lập biên bản về buộc thi hành án hành chính theo quy định tại Khoản 2,
Khoản 3 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP. Hầu hết các Chấp hành viên
56
đều có tâm lý e ngại trong việc lập biên bản về việc buộc thi hành án hành
chính đối với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp hoặc đề nghị xử lý trách
nhiệm về việc chậm thi hành án, không chấp hành án hoặc chấp hành không
đúng nội dung bản án, quyết định vì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện là Trưởng ban chỉ đạo thi hành án dân sự; Chủ tịch Uỷ ban có ý kiến
bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ
quan Thi hành án dân sự; bên cạnh đó, định kỳ hàng tháng, quý, năm, cơ
quan thi hành án dân sự phải báo cáo kết quả thi hành án cho Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh, cấp huyện.
Mặt khác, Cơ quan thi hành án dân sự vốn dĩ lúc nào cũng trong tình
trạng quá tải về công việc, nay thêm nhiệm vụ theo dõi thi hành án hành chính
nhưng cơ chế lại thiếu rõ ràng, nên cơ quan này thực tế vẫn chủ yếu tập trung
vào nhiệm vụ chính của mình là thi hành án dân sự và thi hành phần tài sản
trong bản án, quyết định hành chính.
- Việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện quyết định thi hành án dân
sự; đề xuất biện pháp, chỉ đạo việc thi hành các quyết định thi hành án dân sự
thuộc thẩm quyền; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân theo quy định:
+ Việc xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện quyết định thi hành án
dân sự: Sau khi được phân công tổ chức thực hiện quyết định thi hành án dân
sự, Chấp hành viên trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình đều tổ chức thi hành vụ việc đảm bảo đúng quy trình thủ tục ngay từ
việc ra giấy báo tự nguyện thi hành án cho người phải thi hành án; thông báo
các quyết định thi hành án và giấy báo tự nguyện thi hành án; xác minh điều
kiện thi hành án, xác minh tài sản của người phải thi hành án; triệu tập đương
sự và người có quyền, nghĩa vụ liên quan; áp dụng các biện pháp bảo đảm
hoặc các biện pháp cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án
dân sự hiện hành.
57
Tuy nhiên, hầu hết các Chấp hành viên (sơ cấp, trung cấp) các cơ
quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình sau khi được phân công tổ chức
thực hiện quyết định thi hành án đều không xây dựng kế hoạch tổ chức thực
hiện quyết định thi hành án dân sự mà thực hiện tác nghiệp theo quy trình tổ
chức thi hành án dân sự và chỉ lập kế hoạch áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án.
+ Việc đề xuất biện pháp, chỉ đạo việc thi hành các quyết định thi hành
án dân sự thuộc thẩm quyền:
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình Chấp hành viên trung cấp
các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đều cơ bản phát huy được
vai trò tham mưu, đề xuất giúp Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự trong
việc hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án dân sự, nhất là đối với những
vụ việc khó khăn, phức tạp. Đặc biệt, thực hiện Quyết định số 824/QĐ-
TCTHADS ngày 03/12/2014 của Tổng cục Thi hành án dân sự về việc ban
hành quy trình hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự trong nội bộ ngành
Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã thành lập
Hội đồng Chấp hành viên với thành phần tham gia là các Chấp hành viên
trung cấp do Cục trưởng làm Chủ tịch Hội đồng để tư vấn, tham mưu cho Cục
trưởng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án dân sự. Qua đó,
đã tháo gỡ được nhiều vướng mắc, khó khăn của các Chi cục Thi hành án dân
sự trong quá trình tổ chức thi hành án và nâng cao hiệu quả công tác Thi hành
án dân sự trên địa bàn tỉnh.
+ Thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân theo quy định:
Nhiệm vụ tiếp công dân, thời gian qua được lãnh đạo Cục, Chi cục,
Chấp hành viên trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
quan tâm, chú trọng. Quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao, Chấp hành viên
trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã hướng dẫn, giải
58
thích giúp người dân nhận thức đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình tự
nguyện, chủ động, phối hợp trong quá trình tổ chức thi hành án.
Ngoài việc tiếp công dân theo yêu cầu, chức năng nhiệm vụ, Chấp hành
viên trung cấp, công chức trong hệ thống các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình còn thực hiện việc tiếp công dân thông qua việc báo gọi đương
sự đến tại trụ sở cơ quan hoặc tại trụ sở chính quyền địa phương để giải quyết
việc thi hành án.
+ Thực hiện nhiệm vụ báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự, thi
hành án hành chính:
Chấp hành viên trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình đều thực hiện nghiêm túc chế độ thông tin báo cáo kết quả công tác thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính theo quy định của Bộ, Ngành, chính
quyền địa phương. Số liệu báo cáo thi hành án dân sự, thi hành án hành chính
đảm bảo chính xác, kịp thời giúp cho Lãnh đạo phân tích, dánh giá đúng mức
độ hoàn thành công việc của các đơn vị, Chấp hành viên và đề ra những
phương hướng nhiệm vụ tiếp theo; chất lượng báo cáo được cải tiến về nội
dung và hình thức, đúng thời gian quy định.
Tuy nhiên, theo chế độ báo cáo thống kê như hiện nay, do có quá
nhiều biểu mẫu báo cáo đã gây tốn kém về mặt thời gian cũng như công sức
của Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng. Một
tháng, Chấp hành viên phải dành không ít thời gian cho công tác này, nhanh
thì một ngày, chậm thì hai đến ba ngày. Vì vậy, theo tác giả, để giải quyết bớt
những khó khăn cho người thực hiện báo cáo, đáp ứng yêu cầu nhanh gọn,
hiệu quả, sát thực tế, rất cần một nghiên cứu sửa đổi toàn diện biểu mẫu báo
cáo thống kê theo hướng xác lập phần mềm báo cáo thống kê gắn liền, tương
thích với phần mềm kế toán thi hành án.
+ Thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn nghiệp vụ đối với Chấp hành viên sơ
59
cấp, Thư ký, Thư ký trung cấp thi hành án:
Xác định công tác hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự, thi hành án
hành chính đối với Chấp hành viên sơ cấp, thư ký, thư ký trung cấp thi hành
án nhằm đảm bảo sự thống nhất chung trong việc giải quyết thi hành án theo
quy định pháp luật. Thời gian qua, Lãnh đao Cục, Chi cục và Chấp hành viên
trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thường xuyên
quán triệt và triển khai thực hiện các văn bản của ngành, đồng thời hướng
dẫn, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và chấn chỉnh những mặt còn hạn
chế, yếu kém đối với Chấp hành viên sơ cấp, thư ký thi hành án. Qua đó, đã
đẩy mạnh tiến độ tổ chức thi hành án đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ
công tác được giao. Các Chấp hành viên sơ cấp, Thư ký, Thư ký trung cấp thi
hành án khi có những vụ việc phức tạp, khó khăn vướng mắc đều xin ý kiến
chỉ đạo trực tiếp và đã được Chấp hành viên trung cấp giải đáp, hướng dẫn cụ
thể, tháo gỡ kịp thời đạt hiệu quả tốt. Từ đó, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân, góp phần giữ vững An ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh và tạo lòng tin của nhân dân
đối với pháp luật và Nhà nước.
2.3.2. Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp trong việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự
Hiện nay, 14 Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình đều giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Bình (01 Chấp hành viên trung cấp là Cục trưởng; 03 Chấp hành
viên trung cấp là Phó Cục trương; 03 Chấp hành viên trung cấp là Trưởng
Phòng chuyên môn; 05 Chấp hành viên trung cấp là Chi cục trưởng và 02
Chấp hành viên trung cấp là Phó Chi cục trưởng). Kết quả thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự thông qua các nội
dung sau:
60
Thứ nhất, việc ra quyết định về thi hành án theo thẩm quyền:
Quyết định thi hành án là quyết định do Thủ trưởng cơ quan thi hành án
có thẩm quyền ban hành xác định quyền, nghĩa vụ của cơ quan thi hành án,
người được thi hành án, người phải thi hành án và những người liên quan
trong một vụ việc cụ thể. Nhìn chung, việc ra quyết định thi hành án dân sự
của Thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thời gian
qua luôn thực hiện đúng thẩm quyền, sử dụng đúng mẫu quyết định thi hành
án theo quy định tại Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ
Tư pháp Hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu
mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự; quyết định thi hành án được vào sổ
theo dõi ra quyết định thi hành án và đánh số, ý phát hành theo đúng quy
định. Nội dung quyết định thi hành án, cơ bản đúng nội dung bản án, quyết
định của Tòa án và đơn yêu cầu thi hành án, phản ánh tương đối chính xác
các khoản phải thi hành, tạo điều kiện thuận lợi cho Chấp hành viên nói
chung tổ chức thi hành án.
Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự trên địa bàn tỉnh ra quyết định thi hành án không đúng, không đủ các
nội dung trong quyết định, bản án của Tòa án hoặc thừa nội dung so với đơn
yêu cầu của người được thi hành án. Ví dụ: Chi cục trưởng Chi cục Thi hành
án dân sự huyện TH, tỉnh Quảng Bình ra quyết định thi hành án cả phần lãi
suất trong khi đơn đề nghị thi hành án không có nội dung này.
Một số Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự không ra quyết định tiếp
tục thi hành án khi hết thời hạn hoãn; ra quyết định thu hồi nhưng không ra
quyết định thi hành án khi người nhận chuyển giao quyền và nghĩa vụ có đơn
yêu cầu thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 54 Luật Thi hành án dân
sự mà lại đưa vào hồ sơ giải quyết xong; hoặc không ra quyết định đình chỉ
thi hành án khi người được thi hành án rút đơn đề nghị thi hành án.
61
Thứ hai, quản lý, chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự của cơ quan thi
hành án dân sự:
- Tình hình triển khai thực hiện chỉ tiêu nhiệm vụ, Luật Thi hành án
dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án
dân sự năm 2014:
Ngay từ đầu mỗi năm công tác lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình đều xây dựng Kế hoạch trong tâm công tác trong toàn hệ thống
các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình; đồng thời, giao chỉ tiêu,
nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị chuyên môn, các Chấp hành viên thuộc Cục
Thi hành án dân sự tỉnh và các Chi cục Thi hành án dân sự trực thuộc, đảm
bảo sự công bằng giữa các đơn vị, giữa các Chấp hành viên; đồng thời, thực
hiện nhiều giải pháp để nâng cao kết quả thi hành án như: tăng cường, phối
hợp với chính quyền địa phương tìm các biện pháp nâng cao hiệu quả công
tác thi hành án dân sự trên địa bàn và kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc
trong công tác thi hành án dân sự ở cơ sở; tập trung chỉ đạo quyết liệt đối với
những địa bàn có nhiều án, án khó khăn, phức tạp hoặc còn nhiều hạn chế,
yếu kém trong thực thi nhiệm vụ, nhất là kết quả thi hành án đạt thấp; triển
khai kế hoạch xử lý các vụ việc có liên quan đến hoạt động tín dụng, ngân
hàng …Tổ chức Hội nghị triển khai công tác thi hành án dân sự để quán triệt
Quyết định giao chỉ tiêu, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS và các
văn bản khác liên quan đến công tác thi hành án dân sự và chỉ đạo các đơn vị,
Chấp hành viên tổ chức thực hiện nghiêm túc.
Hàng năm, đều tổ chức tập huấn các nội dung mới và chỉ đạo tổ chức
áp dụng thực hiện có hiệu quả Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014, các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan như Luật Dân sự, Luật đất Đai, Luật Hôn nhân
và gia đình, Luật Đấu giá tài sản số 01/2016/QH 14; Nghị quyết số
62
42/2017/QH 14 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín
dụng…các văn bản hướng dẫn thi hành đến toàn thể cán bộ, công chức trong
toàn ngành; chỉ đạo các đơn vị trong tỉnh áp dụng Luật và các loại biểu mẫu
mới theo đúng quy định của pháp luật.
Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thường xuyên về
làm việc với Thường trực Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân các huyện, thị xã,
thành phố và các ngành liên quan (Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án) để tranh
thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp đối với công tác thi hành án dân sự trên địa
bàn, đặc biệt để tập trung phối hợp, chỉ đạo cưỡng chế giao tài sản một số vụ
việc phức tạp, khó khăn.
Tiến hành đăng tải kịp thời, đầy đủ, chính xác thông tin của người phải
thi hành án chưa có điều kiện thi hành lên Trang Thông tin điện tử của Cục
Thi hành án dân sự tỉnh. Triển khai hỗ trợ trực tuyến yêu cầu thi hành án và
cơ chế một cửa tại đơn vị, cử công chức trực thực hiện tiếp nhận hỗ trợ trực
tuyến thi hành án dân sự và thực hiện cơ chế một cửa đúng theo yêu cầu.
- Xây dựng thể chế, văn bản quản lý:
Để nâng cao chất lượng công tác và đẩy nhanh kết quả thi hành án dân
sự, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã chủ động tham mưu
cho Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh (Chỉ thị số 34-
CT/TU ngày 15/3/2015), Công văn về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, phối
hợp trong công tác thi hành án dân sự (Công văn số 216-CV/TU ngày
08/3/2017); tham mưu cho Chủ tịch UBND tỉnh kiện toàn Ban chỉ đạo Thi
hành án dân sự tỉnh theo Thông tư liên tịch 05/2016/TTLT/BTP-BCA-BTC-
TANDTC-VKSNDTC ngày 19/5/2016 quy định hoạt động của Ban Chỉ đạo
thi hành án dân sự, ban hành kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị số 05/CT-
TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác thi hành án dân sự và
63
Công văn số 216-CV/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy (Kế hoạch số 542/KH-
UBND ngày 03/4/2017). Trên cơ sở đó, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh
đã ban hành các kế hoạch để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành
án dân sự và các mặt công tác khác của ngành như: Kế hoạch số 1138/KH-
CTHADS ngày 01/11/2016 về việc triển khai thực hiện ý kiến chỉ đạo của
đồng chí Bí thư Tỉnh ủy về công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành
chính; Ban hành Kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự
năm 2017; Chương trình số 215/CTr-CTHADS chương trình thực hiện Kế
hoạch số 28 - KH/TU ngày 21/02/2017 của Tỉnh ủy Quảng Bình về việc tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí...
Ngoài ra, để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và nâng cao vai trò
quản lý, điều hành đơn vị phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, hàng
năm, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đều ban hành và triển
khai thực hiện có hiệu quả quy chế làm việc, quy chế tiếp công dân, quy chế
thực hiện dân chủ cơ quan, quy chế về thưc hiện nếp sống lành mạnh và văn
hoá nới công sở, quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế mua sắm và bảo quản tài
sản công, nôi quy cơ quan và nhất là công khai hoá các thủ tục hành chính,
quy trình giải quyết việc thi hành án dân sự…
Thứ ba, việc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp tổ chức thi
hành án:
Thời gian qua các cơ quan, tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình đã cơ bản phối hợp tốt với cơ quan Thi hành án dân sự cũng như Chấp
hành viên trong tổ chức thi hành án dân sự. Thủ trưởng các cơ quan Thi hành
án dân sự tỉnh Quảng Bình đã chủ động tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính
quyền địa phương ban hành Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy
đảng, chỉ đạo của chính quyền đối với công tác thi hành án dân sự...; công tác
64
phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các sở, ban, ngành có liên quan
ngày càng chặt chẽ và bài bản hơn. Trên cơ sở Quy chế phối hợp liên ngành
số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013 của
Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, đã chủ động phối hợp với các ngành có liên quan (Công an, Kiểm sát,
Tòa án...) xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự,
trong đó, xác định rõ trách nhiệm của từng Ngành, tạo cơ chế phối hợp chặt
chẽ và hiệu quả. Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự cấp tỉnh và cấp huyện tiếp
tục được củng cố, kiện toàn và hoạt động có hiệu quả với việc ban hành quy
chế hoạt động, duy trì chế độ họp định kỳ để giải quyết những vụ việc có khó
khăn, vướng mắc, phức tạp… Một số Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự đã chủ
động kiểm tra tình hình triển khai các đợt cao điểm về thi hành án, duy trì họp
định kỳ hoặc đột xuất để cho ý kiến chỉ đạo giải quyết đối với những vụ án
khó, phức tạp.
Mặt khác, Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, Chấp
hành viên trung cấp khi được phân công phụ trách địa bàn luôn sâu sát, làm
tròn trách nhiệm của mình, thường xuyên xuống địa bàn để nắm tình hình để
có hướng chỉ đạo, xử lý kịp thời đối với những khó khăn, vướng mắc của các
Chi cục và tăng cường mối quan hệ với cấp ủy, chính quyền tại cấp cơ sở.
Nhờ đó, những vụ việc khó khăn, phực tạp, được dư luận xã hội quan tâm của
những năm trước đây chưa thi hành được giờ đã được giải quyết dứt điểm
như: Vụ Công ty TNHH Thanh Hòa – Ngân hàng Sacombank ở thị xã Ba
Đồn và vụ Chanh – Lê ở huyện Lệ Thủy như đã nêu ở phần trên.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác phối hợp giữa các cơ quan hữu
quan với cơ quan thi hành án dân sự vẫn có trường hợp chưa thật sự kịp thời
và có hiệu quả. Một số cơ quan, ban, ngành và một số chính quyền địa
phương, cơ sở chưa tích cực phối hợp giải quyết những vụ việc khó khăn,
65
vướng mắc nên kết quả công tác thi hành án dân sự đạt được chưa cao.
Thứ tư, việc yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng
văn bản những điểm chưa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án,
quyết định đó để thi hành:
Tình hình phối hợp giữa Lãnh đạo Cục, lãnh đạo Chi cục và Chấp hành
viên trung cấp thi hành án dân sự với cơ quan Tòa án nhân dân, Thẩm phán
hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình được duy trì thường xuyên. Trên cơ sở
Quy chế phối hợp liên ngành số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-
VKSNDTC ngày 09/10/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân
tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình đã phối hợp với các cơ quan Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh, Tòa
án nhân dân tỉnh xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành số
339/QCPH/CTHADS-CA-TAND-VKSND ngày 08/5/2014 đây là căn cứ
pháp lý để thực hiện tốt công tác phối hợp thi hành án dân sự, nhất là trong
việc cung cấp bản án, quyết định cũng như giải thích đối với bản án, quyết
định đã tuyên chưa rõ, có sai sót. Theo đó, trong trường hợp phát hiện bản án,
quyết định của Tòa án có những điểm chưa rõ, gây khó khăn cho việc thi
hành án hoặc phát hiện lỗi chính tả, số liệu có nhầm lẫn hoặc tính toán sai thì
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dâ sự cấp tỉnh, cấp huyện có văn bản yêu cầu
Tòa án đã ra bản án, quyết định giải thích những điểm chưa rõ, sửa chữa lỗi
chính tả hoặc số liệu nhầm lẫn. Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách
nhiệm trả lời về những vấn đề được nêu trong văn bản yêu cầu của cơ quan
Thi hành án dân sự. Việc giải thích bằng văn bản những điểm chưa rõ, sửa
chữa lỗi chính tả hoặc sai sót về số liệu được thực hiện theo quy định của
pháp luật về tố tụng và Điều 179 Luật Thi hành án dân sư.
Mặc dù, công tác phối hợp giữa các cơ quan Thi hành án dân sự với cơ
quan Tòa án thời gian qua đã được tăng cường, tuy nhiên vẫn còn tình trạng
66
các bản án tuyên không rõ gây khó khăn cho cơ quan Thi hành án dân sự, việc
giải thích bản án, quyết định còn chậm, cá biệt có trường hợp Tòa án không
giải thích hoặc không trả lời cơ quan thi hành án dân sự theo qui định.
Vi dụ: Bản án số 06/2012/KDTM-ST ngày 21/3/2012 của TAND thành
phố H. và Bản án số 196/2012/KDTM-PT ngày 17/12/2012 của Tòa Phúc
thẩm D. Theo đó, tài sản thế chấp đảm bảo thi hành án là “Quyền sử dụng đất
và nhà xưởng xây dựng trên diện tích 192 m2 tại thôn HM, xã DN, huyện T.
mang Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 143/QSDĐ/HP-TN-MĐ do
UBND huyện T. cấp ngày 16/8/1999 cho chủ sử dụng đất là ông Nguyễn Văn
H”. Nhưng thực tế Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 143 cấp ngày
10/8/1999 là: Hộ gia đình ông Nguyễn Văn H. Sau khi kê biên tài sản, cơ
quan Thi hành án dân sự đã có văn bản đề nghị Tòa án xem xét, giải thích vì
khó thi hành.
Luật Thi hành án dân sự quy định rõ Thủ trưởng cơ quan Thi hành án
dân sự có quyền yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng văn
bản những điểm chưa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án, quyết
định đó để thi hành. Khoản 1 Điều 179 Luật cũng qui định trách nhiệm của
Tòa án khi ra bản án: “Bảo đảm bản án, quyết định đã tuyên chính xác, rõ
ràng, cụ thể, phù hợp với thực tế”; khoản 2 Điều luật này cũng qui định trách
nhiệm của Tòa án: “Có văn bản giải thích những nội dung mà bản án, quyết
định tuyên chưa rõ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của
đương sự hoặc của cơ quan Thi hành án dân sự. Trường hợp vụ việc phức tạp
thì thời hạn trả lời không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu”. Tuy
nhiên, với thực tế đã chỉ ra ở trên cho thấy, vẫn còn nhiều vấn đề cần khắc
phục trong việc ban hành các bản án, quyết định của Tòa án. Bởi lẽ, nếu án
tuyên thiếu chính xác không những gây khó khăn cho cơ quan Thi hành án
dân sự mà còn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, dễ
67
phát sinh khiếu nại. Do đó, tăng cường công tác phối hợp để giải thích kịp
thời các bản án tuyên không rõ, khó thi hành là việc làm cần thiết nhưng quan
trọng hơn, cần nâng cao chất lượng các bản án, quyết định được ban hành.
Thứ năm, việc trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát; giải
quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm
quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi
phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm:
- Việc trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát:
Công tác kiểm sát thi hành án dân sự là một trong những công tác thực
hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
theo qui định của Hiến pháp và pháp luật, là một hoạt động song hành với
hoạt động tổ chức thi hành án và do cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tiến
hành đối với các cơ quan thi hành án dân sự. Hiện nay hoạt động kiểm sát thi
hành án dân sự của các cơ quan Viện Kiểm sát được thực hiện theo Quy chế
công tác kiểm sát thi hành án dân sự ban hành kèm theo Quyết định số
255/2013/QĐ/VKSTC-V10 ngày 19/6/2013 của Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Đối tượng của công tác kiểm sát thi hành án dân sự là việc
tuân theo pháp luật của Toà án nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự, Chấp
hành viên, cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan trong việc thi
hành bản án, quyết định đã có hiệu lực và những bản án, quyết định chưa có
hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay theo đúng qui định của pháp
luật. Nội dung, phạm vi kiểm sát thi hành án dân sự là Viện kiểm sát nhân dân
kiểm sát việc chấp hành các nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành các bản án,
quyết định cho tới khi bản án, quyết định đó được thi hành xong.
Trong thời gian qua, công tác kiểm sát thi hành án dân sự đối với các
cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình luôn được Viện Kiểm sát nhân
dân tỉnh Quảng Bình và Viện Kiểm sát nhân dân các quận, huyện, thị xã tiến
68
hành thường xuyên, đúng quy định, đạt nhiều kết quả tích cực và phối hợp tốt
với cơ quan thi hành án dân sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác.
Về kiến nghị, các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình hàng năm và đột xuật nhận được các văn bản từ các cơ quan kiểm sát
hai cấp trong quá trình kiểm sát thường xuyên và các kết luận trong các cuộc
kiểm sát trực tiếp. Những nội dung vi phạm chủ yếu được phát hiện và nêu
trong kiến nghị như: Về thời hạn gửi quyết định, giấy tờ về thi hành án; Chấp
hành viên chưa tiến hành xác minh (hoặc xác minh lại theo định kỳ) điều kiện
thi hành án để xử lý theo luật; sau khi kê biên các chấp hành viên còn vi phạm
về thời hạn áp dụng các biện pháp tiếp theo do luật định (như không thẩm
định giá hoặc không đưa ra bán đấu giá tài sản); sau khi kê biên tài sản là
quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký quyền sở hữu một số đơn vị không
thông báo kết quả kê biên cho cơ quan có thẩm quyền biết theo quy định;
chậm xử lý vật chứng; thông báo chưa đúng quy định để đương sự nhận lại
tiền tạm ứng án phí dẫn đến vụ việc kéo dài; chậm tổ chức thi hành án…
Về kháng nghị, các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cũng
đã nhận được các văn bản kháng nghị từ các cơ quan Viện kiểm sát trong quá
trình kiểm sát thường xuyên về thi hành án dân sự. Những nội dung vi phạm
chủ yếu của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên và người làm công
tác thi hành án như: Ra quyết định thi hành án chưa đúng nội dung đơn yêu
cầu thi hành án; ra quyết định thi hành án thiếu nội dung…
Nhìn chung, sau khi nhận được các văn bản kiến nghị, kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân, Thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình đã kịp thời trả lời bằng văn bản (chấp nhận hoặc không chấp
nhận sai phạm) cho cơ quan Kiểm sát; đồng thời, có văn bản, kế hoạch chỉ
đạo Chấp hành viên, cán bộ, công chức trong đơn vị thực hiện việc tiếp thu
kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa chữa, khắc phục những tồn tại,
69
thiếu sót, vi phạm (nếu có).
Tuy nhiên, kết quả kiểm sát, nội dung kiến nghị, kháng nghị của Viện
kiểm sát còn có những tồn tại, bất cập như:
+ Chất lượng các cuộc trực tiếp kiểm sát thi hành án dân sự có đôi lúc,
đôi khi còn không đồng đều, hiệu quả của một số cuộc kiểm sát không cao,
một số cuộc trực tiếp kiểm sát không phát hiện vi phạm mà là việc kiểm sát
còn thực hiện hình thức, thiếu sâu sát, thiếu trọng tâm.
+ Nội dung trực tiếp kiểm sát của một số đơn vị chỉ tập trung một số
nội dung như hoãn, tạm đình chỉ, không tiến hành kiểm sát toàn diện nên khó
đánh giá tổng thể hoạt động cũng như vi phạm trong hoạt động kiểm sát thi
hành án, dẫn đến vẫn còn trường hợp Chấp hành viên, cán bộ, công chức
không nghiêm túc đối với hoạt động kiểm sát cũng như không tích cực tiếp
thu, thực hiện các kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát.
+ Một số đơn vị còn có hiện tượng khi kết thúc đợt trực tiếp kiểm sát,
khi xác định vi phạm của cơ quan thi hành án chỉ nêu chung chung, không có
sự phân định rõ ràng, không phân biệt vi phạm và không nêu rõ căn cứ xử lý,
hướng khắc phục, biện pháp xử lý.
+ Vẫn còn hiện tượng áp dụng chưa chính xác các quy định của pháp
luật hoặc còn bất đồng trong cách hiểu, cách áp dụng luật giữa cơ quan thi
hành án dân sự và Viện kiểm sát dẫn đến tồn tại nội dung Viện kiểm sát thì
cho rằng vi phạm nhưng Chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự thì
hiểu rằng không có vi phạm dẫn đến khó khăn trong việc tiếp thu, thực hiện
và giải trình, trả lời kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát.
- Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự:
Tình hình công tác thi hành án ngày càng tăng lên về số lượng việc
phải thi hành, gia tăng đột biến về giá trị phải thi hành và tính chất, mức độ
phức tạp của vụ việc, thì đồng thời tình hình đơn thư khiếu nại, tố cáo trong
70
thi hành án dân sự cũng ngày càng tăng lên về số lượng, tính chất, mức độ
phức tạp nên công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có ý nghĩa hết sức quan
trọng trong công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để thực hiện tốt công tác
này, Thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình phân công, bố trí công chức, Chấp hành viên có phẩm chất đạo đức
tốt, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm trong giải quyết các
tranh chấp, khiếu kiện, khiêu nại để tiếp công dân nhằm hướng dẫn, giải
thích cho các đương sự thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp
luật, ghi nhận những đề nghị của đương sự để xem xét giải quyết theo thẩm
quyền. Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh thường xuyên chỉ đạo Chi
cục Thi hành án dân sự tăng cường công tác xác minh, đối thoại trực tiếp
nhằm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo phát sinh ngay từ cơ sở, không
để kéo dài trở nên phức tạp, khiếu kiện đông người và giải quyết đúng pháp
luật các yêu cầu của tổ chức, cá nhân để đảm bảo tốt cho việc tổ chức thi
hành án dân sự. Thông qua hoạt động này, những thiếu sót, vi phạm của
Thủ trưởng, Chấp hành viên các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình trong việc thực hiện pháp luật nói chung và hoạt động tổ chức thi
hành bản án, quyết định của toà án vào thực tế cuộc sống nói riêng được
khắc phục, nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân, cơ quan, tổ chức.
Tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh, phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo thuộc Cục được giao nhiệm vụ tham mưu giúp Cục trưởng thực
hiện công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, chỉ đạo Chi cục
trưởng Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh
tập trung giải quyết dứt điểm các đơn thư khiếu nại thuộc thẩm quyền ngay
tại nơi phát sinh, đảm bảo đúng pháp luật, không để tình trạng khiếu nại
bức xúc kéo dài, vượt cấp, gây mất lòng tin trong nhân dân, góp phần bảo
71
vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự và tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
thi hành án dân sự của Thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình luôn đạt hiệu quả cao. Kết quả cụ thể:
Bảng 2.4. Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình từ năm 2012 đến năm 2017
Đơn vị tính: đơn
Năm công Số lượng đơn Số lượng đơn tố Kết quả giải Tỷ lệ % tác khiếu nại cáo quyết
2012 0 0 0 100%
2013 26 0 26/26 100%
2014 41 3 44/44 100%
2015 37 11 48/48 100%
2016 39 5 44/44 100%
2017 34 0 34/34 100%
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn
2012-2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
Mặc dù, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thời gian qua đạt kết quả cao. Tuy nhiên,
công tác kiểm giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình còn có một số hạn chế như sau:
+ Việc xử lý đơn: Đây là bước đầu tiên khi cơ quan thi hành án dân
sự tiếp nhận đơn khiếu nại của người khiếu nại, đây là bước quan trọng
trong việc phân loại xử lý đơn, thư và giải quyết khiếu nại về thi hành án
dân sự. Thực tế cho thấy việc phân loại và xử lý đơn thư khiếu nại vẫn còn
tình trạng bỏ sót, chậm chưa xử lý theo quy định, không chuyển đơn thư
72
thuộc thẩm quyền của cơ quan thi hành án khác, vẫn còn những trường hợp
do việc phân loại xử lý đơn thư không chính xác dẫn đến việc giải quyết cả
những khiếu nại đã hết thời hiệu theo quy định của pháp luật.
+ Việc tổ chức xác minh, đối thoại: Việc tổ chức xác minh, đối thoại
trực tiếp với người khiếu nại và các cơ quan, tổ chức có liên quan để giải
quyết khiếu nại là việc làm hết sức cần thiết của người giải quyết khiếu nại
nhưng người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần một và cả lần hai chưa
làm triệt để việc này, còn nhiều vụ việc chưa tổ chức đối thoại với người
khiếu nại để làm rõ nội dung khiếu nại, nắm bắt tâm tư nguyện vọng để kịp
thời định hướng biện pháp giải quyết phù hợp.
- Việc xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm:
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp nói chung, trong
hoạt động thi hành án dân sự nói riêng là một trong những chế định quan
trọng của pháp luật nhằm đấu tranh phòng và chống các vi phạm hành chính,
giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, góp phần đưa các bản án, quyết định
có hiệu lực của Toàn án được thực thi trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Tuy nhiên trong thực tế, kết quả xử lý vi phạm hành
chính trong thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình còn rất khiêm tốn, chưa phản
ánh được hết thực trạng vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự hiện
nay. Thực tế cho thấy, các qui định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Bình thời gian qua vẫn chưa phát huy
hiệu quả, việc phòng ngừa, xử lý vi phạm vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều hành
vi vi phạm trong thi hành án dân sự diễn ra phổ biến nhưng chưa được xử lý
kịp thời. Theo báo cáo tổng kết của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
cho thấy trong nhiều năm các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
73
không thực hiện việc xử lý vi phạm hành chính vì Chấp hành viên các cơ
quan thi hành án dân sự do ngại phải tổ chức thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính dù nhiều hành vi vi phạm xảy ra nhưng không bị xử lý hành
chính, điển hình như những hành vi: đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ
hai nhưng không đến địa điểm mà không có lý do chính đáng, không cung
cấp thông tin, không thực hiện quyết định khấu trừ thu nhập của người có
thẩm quyền… Vì có quan điểm cho rằng nếu ra quyết định xử phạt vi phạm
hành chính thì việc xử phạt không có tính khả thi, số tiền phải thi hành tăng
dẫn đến người phải thi hành án sẽ tiếp tục chống đối, cản trở việc thi hành án,
không thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong khi việc tổ
chức cưỡng chế để thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính không hề
dễ dàng. Mặt khác, hiện nay chưa có chế tài mạnh, phù hợp mang tính bắt
buộc đối với các trường hợp cá nhân, tổ chức, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khi không cung cấp thông tin, xác nhận tài sản cho Chấp hành viên.
Hiện mới chỉ có Nghị định 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24
tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi
hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã quy định xử phạt vi phạm
hành chính từ 1.000.000 đến 3.000.000đ đối với hành vi không cung cấp
thông tin nếu không có lý do chính đáng. Tuy nhiên, trong thực tiễn để xử
phạt hành vi này quả thực không dễ dàng bởi nó sẽ làm ảnh hưởng đến mối
quan hệ phối hợp trong công tác thi hành án dân sự…
Thứ sáu, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên:
Ngoài việc thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành,
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đều
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên và thực hiện chỉ tiêu thi
74
hành án dân sự được giao như tất cả các Chấp hành viên không giữ chức vụ
lãnh đạo, quản lý. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Bình là những người có thời gian làm công chuyên môn, nghiệp
vụ lâu năm nên việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên có
nhiều thuận lợi, kết quả thi hành vụ việc luôn đạt tỷ lệ cao; thực hiện đúng
quy trình, thủ tục thi hành án; thường xuyên bám nắm địa bàn, kiên trì giáo
dục, thuyết phục đương sự và người thân của đương sự hỗ trợ thi hành án;
tích cực, chủ động phối hợp với chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị nơi
đương sự cư trú, làm việc để xác minh tài sản, thu nhập và đôn đốc đương sự
thi hành; kiên quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với người phải thi hành
án nhưng không tự nguyện thi hành. Qua đó, góp phần quan trọng, tích cực
vào kết quả thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, góp phần bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân và Nhà nước.
Tuy nhiên, do Thủ trưởng, Phó thủ trưởng các cơ quan Thi hành án dân
sự tỉnh Quảng Bình còn nặng về công tác quản lý chỉ đạo, điều hành và hoạt
động hành chính nên việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên
chưa nhiều, nhất là việc trực tiếp nhận và tổ chức thi hành vụ việc còn ít, các
vụ việc thi hành chủ yếu là án đơn giản, có giá trị thi hành không lớn…nên
phần nào đã làm hạn chế kết quả công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình.
Thứ bảy, việc tổ chức thực hiện chế độ báo cáo, thống kê thi hành án:
Thời gian qua, Thủ trưởng, Chấp hành viên các cơ quan Thi hành án
dân sự tỉnh Quảng Bình đều thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo, thống kê
thi hành án theo Thông tư số 08/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 của Bộ Tư
pháp Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày
03/01/2013 của Bộ Tư pháp Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
75
số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn Chế độ báo
cáo thống kê thi hành án dân sự và các chế độ thông tin báo cáo khác cho Bộ
Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân tỉnh… Duy trì đều đặn chế độ báo cáo tháng, quý, thực hiện các báo
cáo chuyên đề, báo cáo đột xuất theo yêu cầu của Bộ, Ngành và chính quyền
địa phương. Đảm bảo tổng hợp số liệu báo cáo chính xác, kịp thời, phân tích
đánh giá đúng mức độ hoàn thành công việc của các đơn vị, Chấp hành viên
trên địa bàn tỉnh nhằm đề ra những phương hướng nhiệm vụ cho giai đoạn
tiếp theo.
Tuy nhiên, qua thời gian thực hiện chế độ báo cáo, thống kê thi hành án
dân sự cho thấy các cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên cả nước nói
chung và tại Quảng Bình nói riêng phải thực hiện quá nhiều biểu mẫu thống
kê, báo cáo như hiện nay mất rất nhiều thời gian, gây tốn kém công sức, ảnh
hưởng đến chất lượng công tác tổ chức thi hành án của Chấp hành viên và của
người thực hiện chế độ báo cáo thống kế.
Mặt khác, với cách tính thống kê thi hành án dân sự như hiện nay, thì
án có điều kiện đang tính theo nghĩa vụ thi hành án chứ không phải tính theo
điều kiện về tài sản, thu nhập thực tế của đương sự. Một đương sự có nghĩa
vụ thi hành án 50 tỷ, mặc dù qua xác minh, đương sự này chỉ có tài sản duy
nhất trị giá 1 tỷ, thì cơ quan THADS vẫn phải xác định có điều kiện 50 tỷ chứ
không phải là 10 tỷ như điều kiện tài sản thực tế của đương sự.
Ví dụ, Chi cục Thi hành án dân sự huyện BT, tỉnh Quảng Bình đang thi
hành việc thi hành án giữa Công ty Cổ phần NTT phải trả nợ vay cho Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh tỉnh Quảng
Bình 50 tỷ đồng. Mặc dù, qua xác minh, thẩm định giá, Công ty cổ phần NTT
chỉ có tài sản duy nhất là nhà xưởng và máy móc trị giá 30 tỷ đồng nhưng do
tài sản bán đấu giá không có người mua, cho nên hơn 1 năm nay thi hành án
76
dân sự huyện BT vẫn đang phải thống kê vụ việc này là án có điều kiện với số
tiền là 50 tỷ đồng.
Cũng với cách tính thống kê như hiện nay, thì gần như cơ quan thi hành
án dân sự, Chấp hành viên nói chung đang phải “ôm” vào cả phần việc của
các cơ quan khác. Điển hình là hoạt động bán đấu giá tài sản. Theo quy định
hiện hành, sau khi cưỡng chế kê biên, định giá tài sản, cơ quan thi hành án
dân sự ký hợp đồng ủy quyền cho tổ chức bán đấu giá tiến hành bán đấu giá
tài sản. Trong thời gian chờ tổ chức đấu giá bán tài sản thì cơ quan thi hành
án dân sư vẫn phải thống kê vụ việc là đang thi hành dở dang. Điều này rõ
ràng là không phù hợp vì toàn bộ quá trình bán đấu giá tài sản là do tổ chức
bán đấu giá thực hiện chứ không phải do cơ quan thi hành án dân sự thực
hiện. Việc bán đấu giá thành trong thời gian bao lâu, nhanh hay chậm phụ
thuộc vào tổ chức bán đấu giá chứ không phụ thuộc vào cơ quan thi hành án
dân sự. Trong nhiều trường hợp, tổ chức đấu giá tài sản chậm bán tài sản đấu
giá, thậm chí vi phạm trình tự bán đấu giá làm kéo dài thời gian bán đấu giá
tài sản thì cơ quan thi hành án dân sự vẫn phải gánh chịu hậu quả về mặt
thống kê là chậm thi hành án.
Theo quy định của Luật Thi hành án dân sự hiện hành thì đương sự có
một khoảng thời gian là 10 ngày để tự nguyện thi hành án. Trong thời gian
này, cơ quan thi hành án dân sự chưa được áp dụng các biện pháp cưỡng chế
thi hành án. Tuy nhiên về mặt thống kê, thời gian tự nguyện thi hành của
đương sự nói trên cũng phải tính vào thời gian tổ chức thi hành án của cơ
quan Thi hành án dân sự. Điều bất hợp lý này đã dẫn đến một thực tế là vào
gần thời điểm chốt số liệu thống kê, nếu cơ quan Tòa án chuyển cho cơ quan
Thi hành án dân sự nhiều bản án, quyết định thì coi như việc hoàn thành chỉ
tiêu của cơ quan Thi hành án dân sự trở thành “điều không thể”.
Từ các bất hợp lý về mặt thống kê thi hành án dân sự nói trên, tác giả
77
kính đề nghị Bộ Tư pháp và Tổng cục thi hành án dân sự nghiên cứu khắc
phục tình trạng thống kê “ảo” khi thống kê đối với các vụ việc có điều kiện
thi hành án; tách các hoạt động của các cơ quan khác có liên quan đến hoạt
động thi hành án dân sự (tổ chức bán đấu giá. Tòa án, thanh tra, kiểm tra...),
không thống kê vào thời gian tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân
sự và không thống kê thời gian tự nguyện thi hành án của đương sự vào thời
gian tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự; đồng thời, để giải
quyết bớt những khó khăn cho cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên
và người thực hiện chế độ báo cáo thống kê nhằm đáp ứng yêu cầu nhanh
gọn, hiệu quả, sát thực tế, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự nên
nghiên cứu sửa đổi toàn diện biểu mẫu báo cáo thống kê theo hướng xác lập
phần mềm báo cáo thống kê gắn liền, tương thích với phần mềm kế toán thi
hành án. Từ đó có số liệu chính xác, thống nhất giữa số liệu của chấp hành
viên với số liệu kế toán và giảm tải công việc cho chấp hành viên, đơn vị thực
hiện báo cáo thống kê.
Thứ tám, việc điều động, hướng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công
tác thi hành án đối với Chấp hành viên, công chức cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh và cấp huyện trên địa bàn và những việc khác theo hướng dẫn, chỉ
đạo của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
- Việc điều động đối với Chấp hành viên, công chức cơ quan thi hành
án dân sự cấp tỉnh và cấp huyện trên địa bàn: Có thể nói thời gian qua Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã thực hiện tốt công tác điều động, luân
chuyển đội ngũ lãnh đạo, chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án
dân sự trên địa bàn tỉnh. Hiệu quả của công tác điều động, luân chuyển rất rõ
nét, lãnh đạo, Chấp hành viên và công chức làm công tác thi hành án dân sự
được điều động, luân chuyển đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; đặc biệt
công tác tổ chức, cán bộ ngày càng được kiện toàn, hoạt động ổn định, nền
78
nếp hơn. Nhiều cán bộ được điều động, luân chuyển đã phát huy được khả
năng, sức sáng tạo, tạo ra “làn gió mới” trong các cơ quan thi hành án dân sự,
góp phần hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và toàn hệ
thống cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
Đơn cử năm 2017, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã thực
hiện Thực hiện điều động, chuyển đổi vị trí công tác đối với 18 công chức và
người lao động, trong đó: Có 01 Chấp hành viên sơ cấp, 02 Thẩm tra viên, 06
Thư ký thi hành án; 02 chuyên viên, 01 kế toán viên, 03 văn thư lưu trữ, và 03
Hợp đồng lao động 68.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác điều động, luân chuyển cán bộ
thời gian qua tại các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cũng đã
bộc lộ nhiều khó khăn, nhất là đối với địa bàn miền núi, giao thông cách trở,
điều kiện sinh hoạt khó khăn, trong khi chưa có chế độ, chính sách mang
tính đặc thù trong hệ thống thi hành án dân sự. Do vậy, đề nghị Bộ Tư pháp
sớm ban hành chế độ, chính sách cho công chức được điều động, biệt phái
trong Hệ thống thi hành án dân sự.
- Việc hướng dẫn nghiệp vụ, chỉ đạo, kiểm tra công tác thi hành án đối
với Chấp hành viên, công chức cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh và cấp
huyện trên địa bàn: Hàng năm, ngay sau khi kết thúc năm công tác của mình,
Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã chỉ đạo các đơn vị thi
hành án dân sự trực thuộc chủ động triển khai thực hiện nhiệm vụ thi hành án
dân sự, tập trung cao độ giải quyết án ngay từ những ngày, tháng đầu năm, tổ
chức thi hành án đối với những vụ việc có điều kiện thi hành từ năm trước
chuyển sang năm sau, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến án tín dụng, ngân
hàng, việc bồi thường thiệt hại cho Nhà nước, bồi thường cho công
dân,…Thực hiện công tác đánh giá, triển khai các giải pháp thực hiện chỉ tiêu,
nhiệm vụ; định kỳ hàng tháng, quý tổ chức Hội nghị giao ban để kiểm tra,
79
nắm tình hình, tiến độ thực hiện nhiệm vụ và có ý kiến chỉ đạo cụ thể đối với
từng lĩnh vực công tác; tham mưu Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự chỉ đạo
giải quyết các vụ việc có khó khăn, phức tạp, khó thi hành [23, tr.20].
Công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án dân sự được lãnh
đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh giao cho Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi
hành án thuộc Cục tham mưu theo dõi trực tiếp để kịp thời đưa ra những
hướng dẫn, chỉ đạo sâu sát, cụ thể đối với các đơn vị cấp dưới, Chấp hành
viên và công chức thực hiện công tác thi hành án dân sự; chủ động phối hợp
với các ngành hữu quan bàn hướng giải quyết vụ việc khó khăn, phức tạp;
đồng thời, tranh thủ sự chỉ đạo của Tổng cục Thi hành án dân sự, Tỉnh uỷ, Uỷ
ban nhân dân tỉnh và Ban chỉ đạo Thi hành án dân sự các cấp để tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc, xử lý dứt điểm đúng các vụ án có điều kiện
chuyển kỳ sau.
Mặt khác, lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã chỉ đạo
kiện toàn Hội đồng Chấp hành viên ở Cục và các Chi cục để tư vấn, tham
mưu giúp cho Cục trưởng, Chi cục trưởng trong việc hướng dẫn, chỉ đạo
nghiệp vụ.
Đơn cử năm 2017, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã tiếp
nhận 02 văn bản xin ý kiến hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, đã xem xét, giải
quyết 02/02 văn bản, đạt tỷ lệ 100%; đồng thời, Cục Thi hành án dân sự tỉnh
có 02 văn bản xin ý kiến và được Tổng cục Thi hành án dân sự chỉ đạo kịp
thời.
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ của
Cục đối với Chi cục Thi hành án dân sự trong một số trường hợp còn chưa kịp
thời, có việc còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, trong khi đó, một số Chi cục
thi hành án dân sự còn thụ động, chưa kịp thời xin ý kiến chỉ đạo hướng dẫn
nghiệp vụ khi phát sinh khó khăn, vướng mắc. Những vụ án tồn, án phức tạp,
80
án liên quan đến tín dụng ngân hàng chưa được tập trung giải quyết triệt để
gây bức xúc trong dư luận.
Xác định công tác kiểm tra và tự kiểm tra có vai trò hết sức quan trọng
trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành nên ngay từ đầu mỗi năm công tác,
lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đều ban hành Kế hoạch
kiểm tra công tác thi hành án dân sự trong toàn hệ thống các cơ quan thi hành
án dân sự tỉnh Quảng Bình; chỉ đạo các cơ quan Thi hành án dân sự cấp
huyện xây dựng Kế hoạch tự kiểm tra nội bộ và triển khai thực hiện, định kỳ
báo cáo về Cục Thi hành án dân sự tỉnh. Trên cơ sở kế hoạch ban hành từ đầu
năm, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình thành lập các đoàn kiểm tra và
tổ chức các đợt kiểm tra để năm bắt tình hình hoạt động của các đơn vị. Kết
thúc đợt kiểm tra, trưởng đoàn kiểm tra ban hành kết luận kiểm tra chỉ rõ
những tồn tại, hạn chế, sai phạm của các đơn vị được kiểm tra và yêu cầu giải
trình nguyên nhân dẫn đến thiếu sót, sai phạm, tổ chức khắc phục, sửa chửa,
báo cáo kết quả về Cục Thi hành án dân sự tỉnh.
Đơn cử năm 2017, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình ban hành
Kế hoạch Kiểm tra số 77/CTHADS-KHKT ngày 24/01/2017 về kiểm tra
công tác thi hành án dân sự đối với các Chi cục Thi hành án dân sự huyện, thị
xã, thành phố và các Phòng chuyên môn thuộc Cục và đã tiến hành 20 cuộc
kiểm tra đối với 08/08 Chi cục thi hành án dân sự trực thuộc và 04/04 phòng
chuyên môn thuộc Cục, các cuộc kiểm tra được chia làm 03 đợt, cụ thể:
Tháng 4/2017 đã kiểm tra công tác thi hành án dân sự 6 tháng đầu năm đối
với các Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thuỷ, huyện Quảng Trạch,
thành phố Đồng Hới, huyện Bố Trạch và thị xã Ba Đồn; tháng 5/2017 đã
kiểm tra công tác thi hành án dân sự 6 tháng đầu năm đối với các Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Tuyên Hoá, Minh Hoá và Quảng Ninh và tháng 9/2017
đã kiểm tra toàn diện các mặt công tác đối với các Chi cục thi hành án dân sự
81
các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh và các Phòng chuyên môn thuộc Cục
Thi hành án dân sự [23, tr.9].
Bên cạnh kết quả đạt được, công tác kiểm tra và tự kiểm tra của Thủ
trưởng các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình vẫn chưa thực sự
hiệu quả, nhiều sai phạm của Chấp hành viên, cán bộ thi hành án dân sự chưa
được phát hiện để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý kịp thời; kết quả kiểm tra
chưa chỉ rõ sai phạm và cá nhân chịu trách nhiệm.
2.4. Đánh giá địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
2.4.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân
Trên cơ sở những báo cáo và nội dung phân tích trên đây, có thể tóm
lược những kết quả đạt được trong hoạt động thi hành án dân sự nói chung và
hoạt động của nghiệp vụ và quản lý chỉ đạo, điều hành hoạt động thi hành án
dân sự của đội ngũ Chấp hành viên trung cấp các cơ quan Thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua cũng như các nguyên nhân dẫn tới các
kết quả tích cực đó như sau:
* Nguyên nhân khách quan
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2009 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án
dân sự đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa
XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 25/12/2014, có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/7/2015 đã tạo tiền đề quan trọng cho tổ chức và hoạt động của các cơ
quan thi hành án, đồng thời tăng cường, củng cố và khẳng định vị thế của
Chấp hành viên trung cấp trong hoạt động thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, sự
ra đời của Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ qui
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự
82
năm 2008 về cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án
dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự; Nghị định số
58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của Chính phủ qui định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 về thủ tục thi
hành án (Nghị định số 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 của Chính phủ sửa
đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009)
và nay là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 28/7/2015 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự
đã cụ thể hóa, quy định các nội dung có liên quan nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho Chấp hành viên trung cấp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
- Sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án
dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình trong công tác thi hành án,
tạo điều kiện để mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn, kỹ
năng nghiệp vụ, lý luận chính trị cho đội ngũ Chấp hành viên nói chung và
Chấp hành viên trung cấp nói riêng.
Bên cạnh đó, sự quan tâm phối hợp một cách có hiệu quả, đồng bộ của
các cấp, các ngành, các cơ quan hữu quan trong hoạt động tổ chức thi hành án
đã tạo điều kiện, môi trường làm việc tốt cho các Chấp hành viên nói chung
và Chấp hành viên trung cấp nói riêng như: phối hợp của cơ quan Công an
trong việc bảo vệ cưỡng chế, xác minh, tống đạt thi hành án; phối hợp của
Viện kiểm sát trong việc kiểm tra, giám sát công tác thi hành án; phối hợp của
Toà án trong việc chuyển giao bản án, quyết định, xét miễn giảm thi hành án;
Cơ quan Tài chính trong việc xử lý tài sản sung công, tiêu hủy tang vật…
* Nguyên nhân chủ quan
- Đội ngũ Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình đã không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
cũng như trình độ lý luận chính trị đáp ứng một cách tốt nhất các yêu cầu
83
phục vụ công tác trong tình hình mới, phần lớn họ còn trẻ nên luôn nỗ lực
phấn đấu, vượt lên khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ một cách chất lượng và
hiệu quả. Bên cạnh đó, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cũng quan
tâm đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ Chấp hành viên nói chung và Chấp hành
viên trung cấp nói riêng. Hàng năm, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
đều cử Chấp hành viên theo học các lớp Cao học Luật và các lớp bồi dưỡng
nghiệp vụ Chấp hành viên cao cấp. Các Chấp hành viên trung cấp đều có
trình độ tin học, trình độ ngoại ngữ phù hợp với ví trí công tác và ngạch công
chức.
- Kiến thức về lý luận chính trị của đội ngũ Chấp hành viên trung cấp
ngày một nâng cao, qua đó vận dụng, triển khai vào thực tế công tác đạt kết
quả tốt. Nhìn chung, đội ngũ Chấp hành viên trung cấp ở tỉnh Quảng Bình có
phẩm chất chính trị vững vàng, trưởng thành qua thực tế công tác; luôn kiên
định và tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, phấn đấu hết mình phục
vụ đất nước và nhân dân. Có đạo đức nghề nghiệp, tận tụy với công việc, yêu
ngành, yêu nghề; không ngừng học tập để nâng cao kiến thức về mọi mặt.
Chấp hành tốt kỷ luật, kỷ cương trong ngành, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ
được giao và hoàn thành với chất lượng tốt nhất; dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm; thường xuyên tìm tòi, đổi mới cách nghĩ, cách làm, vận
dụng một cách sáng tạo, khoa học các kiến thức và kinh nghiệm vào thực tế
công tác. Qua đó, đã góp phần quan trọng đưa công tác thi hành án dân sự của
Quảng Bình trong những năm qua có bước chuyển mình mạnh mẽ. Chấp hành
viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng thường xuyên được rèn
luyện trong môi trường công tác, trải qua nhiều thử thách nên đã vận dụng
một cách thành thạo, sáng tạo các kỹ năng thi hành án dân sự vào thực tế,
đem lại chất lượng, hiệu quả trong giải quyết công việc, hoàn thành tốt nhiệm
vụ của ngành, phục vụ kịp thời cho nhiệm vụ chính trị của địa phương, giữ
84
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Bên cạnh đó, đội ngũ Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình còn thường xuyên học hỏi kinh nghiệm, quản lý điều hành cũng
như kỹ năng tổ chức thi hành án của các đơn vị thi hành án trong và ngoài
tỉnh, vận dụng vào thực tế công tác của địa phương một cách kịp thời, giải
quyết được nhiều vụ việc khó khăn, phức tạp; đẩy nhanh được tiến độ, chất
lượng thi hành án, tạo được niềm tin của nhân dân, của xã hội đối với hoạt
động thi hành án dân sự.
2.4.2. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân
Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp được hình
thành và xây dựng trên cơ sở kết quả hoạt động thi hành án dân sự, thông qua
việc được trao quyền, giao nhiệm vụ, tổ chức triển khai và thực hiện nhiệm vụ
được giao, kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, thực tế phản ánh
những yếu tố, những vấn đề mang tính bất cập và nguyên nhân nêu dưới đây
đã ảnh hưởng cơ bản, chủ yếu đến địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành
viên trung cấp thi hành án dân sự tỉnh quảng Bình:
Một là, quy định của pháp luật hiện nay việc tổ chức thi hành án dân sự
còn quá nhiều thủ tục rườm rà, phức tạp và nhiều thành phần, ban ngành tham
gia, phải ban hành nhiều loại quyết định, thông báo về thi hành án làm cho
mất rất nhiều thời gian và công sức để thực hiện nhưng hiệu quả thực tiễn
chưa cao, kết quả thi hành xong về việc, về tiền thực thu so với tổng giá trị
thụ lý là rất thấp.
Hai là, vẫn còn trường hợp kỹ năng, trình độ nghiệp vụ và kỷ năng
lãnh đạo, quản lý của Chấp hành viên trung cấp không đáp ứng yêu cầu công
tác, ý thức trách nhiệm chưa cao, còn có vi phạm kỷ luật xảy ra… mà nguyên
nhân là Chấp hành viên trung cấp chưa thường xuyên cập nhật pháp luật,
85
không tự nghiên cứu để tiếp thu những kiến thức mới, không học tập tu
dưỡng nâng cao trình độ mà chỉ làm theo kinh nghiệm dẫn đến vi phạm pháp
luật; hoặc sa sút về phẩm chất đạo đức, cố tình vi phạm pháp luật hoặc thiếu
trách nhiệm đã dẫn đến vi phạm.
Ba là, tình hình thời gian gần đây, tình trạng quá tải công việc luôn xảy
ra với hầu hết các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
cũng như quá tải với các Chấp hành viên nói chung, Chấp hành viên trung cấp
nói riêng và các công chức khác. Số lượng việc thi hành án tăng nhanh đột
biến về số lượng đầu việc, về giá trị phải thi hành và tính phức tạp của vụ
việc. Trong khi đó, như nêu tại Bảng 2.1 trên đây, số lượng Chấp hành viên
nói chung và Chấp hành viên trung cấp toàn tỉnh Quảng Bình là quá ít so với
số lượng việc, tiền phải thi hành án, và tỷ lệ biên chế Chấp hành viên được bổ
sung tăng thêm không đáng kể, ví dụ tính đến 30 tháng 9 năm 2017, toàn tỉnh
chỉ có 44 Chấp hành viên (14 Chấp hành viên trung cấp, 30 Chấp hành viên
sơ cấp). Và trong đó vẫn còn có một bộ phận Chấp hành viên trung cấp còn
thiếu về trách nhiệm, yếu về năng lực, không đáp ứng yêu cầu năng lực công
tác trong tình hình mới, không theo kịp sự phát triển của xã hội, dẫn đến bất
cập là người không làm được việc tất yếu sẽ bị hạn chế giao việc và có nhiều
thời gian rảnh, còn người làm được việc thì phải đảm nhiệm nhiều công việc,
quá tải trong công việc thường xuyên xảy ra.
Bốn là, chế độ chính sách đối với đội ngũ chấp hành viên trung cấp,
cán bộ thi hành án dân sự còn chưa hợp lý, chưa phù hợp với tính chất đặc thù
của ngành thi hành án, chưa khuyến khích động viên thỏa đáng đối với chấp
hành viên nói chung. Tiền lương ít nhưng chẳng may để xảy ra sai sót mà
phải bồi thường thì rất đáng lo, bởi thiệt hại trong thi hành án thường là rất
lớn. Điều này làm cho chấp hành viên nói chung có tâm lý e ngại, thiếu quyết
đoán trong công việc, chưa yên tâm, phấn khởi trong công tác thi hành án.
86
Năm là, một số cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm
đến công tác thi hành án dân sự. Trên thực tế, tại nhiều nơi trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình, công tác thi hành án dân sự không nhận được sự quan tâm chỉ
đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương do chỉ chú trọng hoạt động xét xử
của Tòa án, chưa nhận thức đúng mức tầm quan trọng của hoạt động thi hành
án dân sự dẫn đến sự xem nhẹ công tác thi hành án, thiếu sự phối hợp đồng
bộ, địa vị pháp lý của Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp
nói riêng chưa được coi trọng.
Sáu là, Bản án tuyên không rõ nên cơ quan Thi hành án, Chấp hành
viên khó thi hành, chất lượng xét xử của tòa án còn nhiều hạn chế, bất cập.
Vẫn còn trường hợp bản án giải quyết một vụ việc bị hủy nhiều lần, xét xử lại
qua nhiều cấp, nhiều lần với kết quả xét xử lần sau hủy lần trước, phúc thẩm,
giám đốc thẩm nhiều lần vẫn chưa kết thúc. Đây là nguyên nhân tạo nên bức
xúc, khiếu nại, tố cáo, chống đối thi hành án; lực lượng Chấp hành viên, công
chức thi hành án là người phải trực tiếp giải quyết, đối mặt với khó khăn,
phức tạp và thậm chí là nguy hiểm khi thi hành nhiệm vụ.
Bảy là, trong công tác thi hành án dân sự, hầu hết Chấp hành viên phải
tiếp xúc với đương sự trong đó có ít nhất là một bên vi phạm pháp luật, do đó,
tất nhiên là việc ý thức chấp hành pháp luật, tuân thủ pháp luật chưa nghiêm
đã xuất phát ngay từ ban đầu, là nguyên nhân dẫn đến việc phải tổ chức thi
hành án. Có thể một phần trong số đương sự là người chưa hiểu biết pháp
luật, nhận thức pháp luật còn hạn chế, nhưng cũng không ít các trường hợp
đương sự hiểu pháp luật nhưng cố ý vi phạm, không tuân thủ, không tự
nguyện thi hành án, khiếu kiện kéo dài nhằm cản trở công tác thi hành án, ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của Chấp hành viên và địa vị pháp lý
hành chính của Chấp hành viên trung cấp.
87
Tóm tắt chương 2
Tại Chương 2 này đã tập trung vào trọng tập nêu bật về thực trạng địa
vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự từ
thực tế tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình, và nội dung này đã được phản ánh, phân tích dưới các mặt như sau:
Khái quát về cơ cấu tổ chức và hoạt động theo mô hình hai cấp (cấp
tỉnh và cấp huyện) của các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình, trong
đó nêu rõ vai trò, nhiệm vụ của mỗi cấp, thống kê số lượng Chấp hành viên
nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng trong các cơ quan thi hành
án dân sự tỉnh Quảng Bình hiện nay.
Trong Chương này cũng nêu rõ về những kết quả nổi bật trong từng
mặt công tác, mô tả một số công việc cụ thể đối với từng chức trách, nhiệm
vụ của Chấp hành viên như là trong việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn chung
và riêng của Chấp hành viên trung cấp, quyền và nghĩa vụ với vai trò là Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, có phân tích, đánh giá
nhằm làm rõ về kết quả, hiệu quả, vị trí, vai trò, địa vị pháp lý hành chính của
Chấp hành viên trung cấp trong từng nhiệm vụ công tác được giao và trong
các mối quan hệ công tác.
Qua đây cũng nêu rõ những kết quả đạt được của Chấp hành viên trung
cấp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao trong thời gian gần đây, nêu
và phân tích bảy nội dung bất cập và nguyên nhân cơ bản đã ảnh hưởng đến
địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự từ
thực tiễn tại tỉnh Quảng Bình.
88
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH
CHÍNH CỦA CHẤP HÀNH VIÊN TRUNG CẤP
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1. Phương hướng nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành
viên trung cấp trong thi hành án dân sự
3.1.1. Cần bảo đảm tính độc lập của Chấp hành viên trung cấp
Theo qui định của pháp luật, Chấp hành viên nói chung và Chấp hành
viên trung cấp thi hành án dân sự nói riêng có quyền độc lập tác nghiệp và chỉ
tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của
mình. Thực tiễn công tác thi hành án dân sự không phải lúc nào Chấp hành
viên trung cấp cũng toàn quyền để thực thi nhiệm vụ được giao. Cơ quan Thi
hành án dân sự về mặt quản lý Nhà nước chịu sự quản lý mang tính song
thùng trực thuộc; quản lý ngành dọc Cơ quan thi hành án dân sự địa phương
trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự Bộ Tư pháp quản lý, mặt khác chịu
sự kiểm tra giám sát của hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp tại địa
phương do vậy hoạt động của Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên
trung cấp nói riêng ít nhiều cũng ảnh hưởng bởi cơ chế này. Cơ quan thi hành
án dân sự địa phương ngoài việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn theo ngành
dọc còn có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương nơi công
tác, trong quá trình thực thi nhiệm vụ một số trường hợp vì mục đích ổn định
chính trị, xã hội tại địa phương, Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên
trung cấp không thể chỉ tuân theo pháp luật. Một số phát sinh khác phát sinh
ngay trong nội tại một số ít cơ quan thi hành án dân sự địa phương. Theo quy
định của pháp luật về thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án là
chức danh quản lý Nhà nước có trách nhiệm quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn về
89
mặt chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức thuộc quyền, Chấp
hành viên trung cấp vẫn là người phải chịu trách nhiệm chính về những hoạt
động tác nghiệp của mình. Tuy vậy, trên thực tế có trường hợp Thủ trưởng cơ
quan Thi hành án can thiệp sâu vào hoạt động của Chấp hành viên nói chung
và Chấp hành viên trung cấp nói riêng đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ
và hiệu quả giải quyết việc thi hành án của Chấp hành viên. Chấp hành viên
nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng là người được Thủ trưởng
Cơ quan thi hành án giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành việc thi hành án;
đồng thời, là chủ thể chịu trách nhiệm chính trước pháp luật về những hành vi
của mình và được pháp luật bảo vệ. Trong lĩnh vực thi hành án dân sự là hoạt
động rất đa dạng động chạm đến quyền, lợi ích của nhiều cá nhân, tổ chức,
liên quan đến nhiều lĩnh vực, Chấp hành viên trung cấp dù muốn cũng không
có đủ khả năng đáp ứng tất cả các lĩnh vực chuyên môn, trong những trường
hợp như vậy đòi hỏi phải có sự tham gia phối kết hợp với những cơ quan
chuyên môn cùng giải quyết. Thực tế công tác thi hành án có vụ việc tranh
chấp về tài sản giữa các đương sự về giá trị tài sản không lớn song trong giai
đoạn xét xử đã sảy ra đơn thư khiếu nại đến nhiều cơ quan, ban ngành, ngay
từ đầu thụ lý giải quyết đã được Chấp hành viên trung cấp, cơ quan thi hành
án xác định là vụ việc phức tạp, Chấp hành viên bằng nhiều biện pháp đã kiên
trì động viên, thuyết phục các đương sự và đã thống nhất được biện pháp giải
quyết giữa các đương sự, tránh phải sử dụng đến biện pháp cưỡng chế thi
hành án, vừa gây tốn kém cho đương sự mất thời gian công sức của Chấp
hành viên, cán bộ Cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, tranh chấp giữa các bên
chỉ là 2 đến 3 cm (Centimet) đất và công trình xây dựng, lại được chia thành
nhiều đoạn, ở địa hình không thuận lợi cho việc xác định mốc giới. Đương sự
yêu cầu phải có sự tham gia của cơ quan chuyên môn có kỹ năng đo đạc
chính xác đến từng cm, trường hợp này ngay cả các loại máy móc chuyên
90
ngành thực hiện cũng đã rất khó. Chấp hành viên trung cấp đề xuất Thủ
trưởng cơ quan mời cơ quan chuyên môn để xác định mốc giới cho các bên
tranh chấp, tuy vậy Thủ trưởng cơ quan thi hành án cho rằng Chấp hành viên
có đủ năng lực giải quyết vụ việc không cần thiết phải mời cơ quan chuyên
môn trong lĩnh vực này, dẫn tới thỏa thuận giữa các bên không thực hiện
được và đương nhiên các đương sự không tiếp tục cộng tác với Chấp hành
viên để giải quyết vụ việc dẫn tới tình trạng án có điều kiện giải quyết tiếp tục
tồn đọng kéo dài, không những ảnh hưởng tới việc hoàn thành nhiệm vụ của
Chấp hành viên trung cấp mà còn ảnh hưởng tới thành tích của cả cơ quan,
đơn vị.
Do đó, cần phải có cơ chế rõ ràng để đảm bảo quyền độc lập tác nghiệp
và chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật của Chấp hành
viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng. Mọi hành vi cản trở,
can thiệp trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án, Chấp hành
viên trung cấp đều bị xử lý theo quy định của pháp luật. Người nào lợi dụng
chức vụ, quyền hạn cố ý cản trở việc thi hành án hoặc ép buộc Chấp hành
viên trung cấp thi hành án trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt
hại thì phải bồi thường. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm
thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án, Chấp hành viên trung cấp trong
khi tổ chức thi hành án. Nếu những cơ quan, tổ chức này không thực hiện các
yêu cầu của Chấp hành viên trung cấp thì tùy theo tính chất và mức độ vi
phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường; nếu là cá nhân thì có thể bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
91
3.1.2. Cần phân định rõ hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của Chấp hành
viên trung cấp
Việc phân định rõ hơn về thẩm quyền, trách nhiệm của Chấp hành viên
trung cấp có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó nói lên tính lôgíc, khoa học đảm
bảo cho Chấp hành viên trung cấp tổ chức thực hiện nhiệm vụ được phân
công một cách có hiệu quả. Hiện nay cơ cấu các chức danh trong biên chế các
cơ quan thi hành án dân sự bao gồm: Chấp hành viên (sơ cấp, trung cấp và
cao cấp), Thẩm tra viên và thẩm tra viên chính, kế toán, chuyên viên, cán sự,
văn thư đánh máy, thủ kho, thủ quỹ, lái xe. Vấn đề được đặt ra ở đây làm phải
làm sao phân biệt rạch ròi, rõ ràng, cụ thể đâu là nhiệm vụ của Chấp hành
viên sơ cấp, đâu là nhiệm vụ của Chấp hành viên trung cấp, đâu là nhiệm vụ
của Chấp hành viên cao cấp và đâu là nhiệm vụ của cá chức danh còn lại,
công đoạn nào, thủ tục nào, loại văn bản nào thì Chấp hành viên trung cấp
thực hiện... Chỉ khi xác định được rõ ràng như vậy thì các Chấp hành viên
trung cấp mới thực sự thực hiện nhiệm vụ có hiệu quả, chất lượng thi hành án
mới được nâng lên và qua đó mới có cơ sở để các định trách nhiệm nếu để
xảy ra sai sót, chậm tiến độ, gây thiệt hại trong quá trình tổ chức thi hành án.
3.1.3. Tăng quyền hạn cho Chấp hành viên trung cấp và Thủ trưởng cơ
quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh
Tăng quyền hạn cho Chấp hành viên trung cấp như: quyền khám xét
người, nơi ở, nơi cất dấu tài sản, tài liệu của người phải thi hành án. Bổ sung
quyền bắt người chống người thi hành công vụ khi cần thiết thì hiệu quả thực
hiện pháp luật của chấp hành viên trung cấp sẽ cao hơn rất nhiều.
Hoạt động thi hành án dân sự vô cùng phức tạp, dễ gặp nguy hiểm, sự
chống đối của người phải thi hành án. Nghề Chấp hành viên là nghề gian nan,
phức tạp, đụng chạm trực tiếp tới quyền và lợi ích của người phải thi hành án
nên có nguy cơ bị đe doạ, trả thù, nguy hiểm. Thực tế, như khi xác minh, giải
92
quyết việc thi hành án vận động đương sự tự nguyện thi hành án, chấp hành
viên, cán bộ thi hành án vẫn bị đương sự dùng hung khí tấn công gây thương
tích. Tuy nhiên, hầu như chưa có cơ chế đủ mạnh đủ để bảo vệ tính mạng,
thân thể danh dự của chính Chấp hành viên và nhân thân của họ. Vì vậy,
không tạo cho chấp hành viên yếu tố quyết liệt trong cưỡng chế thi hành án
do e ngại sự đe doạ, trả thù…
Do vậy, cần có quy định bảo đảm an toàn về mặt pháp lý cho Chấp
hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng trong quá trình tác
nghiệp vì hiện nay quy định về trình tự thủ tục thi hành án dân sự còn quá
rườm rà và một số trường hợp chưa rõ ràng nên dễ dẫn đến sai sót.
Quy định rõ hơn về trách nhiệm của cơ quan Công an trong việc xây
dựng kế hoạch cưỡng chế, bảo vệ người và tài sản trong quá trình tổ chức
cưỡng chế. Cần đưa nhiệm vụ này vào nhiệm vụ chính trị của cơ quan công
an.
Tăng quyền, hoặc phân cấp thêm thẩm quyền cho Thủ trưởng cơ quan
Thi hành án dân sự cấp tỉnh về công tác tổ chức cán bộ như: Giao Thủ trưởng
cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh có quyền bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân
chuyển, miễn nhiệm, cho từ chức đối với Chi cục trưởng; Quyết định phê
duyệt quy hoạch đối với Chi cục trưởng. Phân cấp cho Cục trưởng thẩm
quyền bổ nhiệm vào ngạch, chuyển ngạch đối với Thẩm tra viên thuộc Cục,
các Chi cục Thi hành án dân sự; quản lý công chức lãnh đạo trong việc bổ
nhiệm, miễn nhiệm... đối với Phó Cục trưởng; quyết định cho Phó cục trưởng
đi đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước theo kế hoạch phê duyệt, Tổng cục chỉ cần
theo dõi, quản lý. Bởi vì Cục trưởng là người biết rõ ràng năng lực, đạo đức
của Chấp hành viên, công chức trong toàn đơn vị…
93
3.1.4. Nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp
đồng bộ với cải cách tư pháp, cải cách hành chính
Việc thực hiện cải cách tư pháp, cải cách hành chính là chủ trương lớn
và rất đúng đắn, kịp thời của Đảng và nhà nước đã và đang triển khai thực
hiện, từng bước khẳng định hiệu quả trong những năm qua.
Như Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/ 6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ
thì việc cải cách tư pháp, cải cách hành chính hướng tới mục tiêu làm sao tổ
chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và
hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm việc; trong đó, xác
định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm; xã hội hóa
mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp;
Và cũng trong Nghị quyết 49-NQ/TW, mục tiêu cốt lõi, và nội dung cải
cách này đã chỉ rõ thực hiện cải cách theo hướng nâng cao địa vị pháp lý của
cán bộ có chức danh tư pháp, trong đó có chức danh Chấp hành viên nói
chung (sơ cấp, trung cấp, cao cấp), thông qua việc nâng cao quyền hạn, trách
nhiệm pháp lý đồng thời với việc nâng cao và cụ thể hóa hàng loạt các tiêu
chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức xã
hội và tiến tới sẽ tổ chức thi tuyển đối với một số chức vụ lãnh đạo trong cơ
quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện.
Để thực hiện các phương hướng nói trên, luận văn đưa ra một số giải
pháp hoàn thiện sau đây:
3.2. Giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành
viên trung cấp thi hành án dân sự
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự
Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Nghị định
62/2015/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành thể hiện một bước tiến quan
trọng, đã kịp thời sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới phù hợp thực tiễn, đáp
94
ứng những đòi hỏi cấp thiết về thể chê hóa trong công tác thi hành án dân sự,
khắc phục được nhiều điểm còn bất cập trong quy định của luật.
Tuy nhiên, mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện nhưng các
quy định của pháp luật hiện hành vẫn chưa quy định các quyền, nghĩa vụ, vị
trí, vai trò của Chấp hành viên trung cấp và các văn bản dưới luật hiện hành
cũng chưa thực sự hoàn thiện các quy định về chức danh này, vẫn còn có sự
không phân định rõ ràng quyền hạn, trách nhiệm đối với chức danh này.
Do đó, nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, hoàn
thiện các quy định của pháp luật nhằm nâng cao địa vị pháp lý của Chấp hành
viên trung cấp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, từ
thực tiễn công tác thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cho thấy cần tiếp tục
hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự theo các hướng như sau:
Trước mắt, trong thời gian tới cần sớm thực hiện và hoàn thiện văn bản
quy phạm pháp luật quy định về tiêu chuẩn của ngạch Chấp hành viên trung
cấp thi hành án dân sự để thay thế cho các quy định hiện hành có nhiều nội
dung không còn phù hợp với sự phát triển của xã hội.
Tiếp theo, cũng cần thiệt thể chế hóa một cách cụ thể, rõ ràng nội dung
quy trình về tuyển chọn, bổ nhiệm, nâng ngạch, miễn nhiệm, cách chức và
các nội dung quản lý khác đối với ngạch Chấp hành viên trung cấp.
Cần xem xét xây dựng, đề xuất xây dựng các quy định sửa đổi, bổ sung
đối với Luật Thi hành án dân sự hiện hành các quy định cụ thể đối với chức
danh Chấp hành viên trung cấp, mà cụ thể là các quy định quyền, nghĩa vụ,
chức trách, nhiệm vụ đối với chức danh Chấp hành viên trung cấp, đảm bảo
tính độc lập của Chấp hành viên trung cấp, khẳng định và nâng cao địa vị
pháp lý của Chấp hành viên trung cấp để tương xứng với vai trò, tầm quan
trọng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trung cấp trong việc tổ chức
thi hành bản án, quyết định của Tòa án và nhiệm vụ, quyền hạn với vai trò là
95
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, góp phần tạo thế và
lực, tạo cơ sở cho việc phát huy những giá trị, năng lực của Chấp hành viên
trung cấp và góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã định hướng
việc kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp là tổ chức các cơ quan tư
pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ
chức và điều kiện, phương tiện làm việc.
Luật Thi hành án dân sự hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành
đã quy định rõ về cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự, làm
cơ sở để thực hiện việc kiện toàn tổ chức hệ thống từ trung ương đến địa
phương. Trên cơ sở nghị quyết của Bộ Chính trị và các quy định của pháp
luật thi hành án dân sự hiện hành, từ thực tiễn hoạt đông của hệ thống các cơ
quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình cho thấy cần tiếp tục thực hiện việc
kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan thi hành án dân sự cơ bản sau:
Một là, tiếp tục phát huy, tăng cường và nâng cao hơn nữa năng lực
quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan thi
hành án dân sự từ cấp tỉnh đến các quận, huyện, thị xã, thành phố.
Hai là, thực hiện có hiệu quả việc quản lý, sử dụng lực lượng biên chế
hiện có, trong đó phát huy tốt nhất hiệu quả của công tác phân công phân
nhiệm, ủy quyền, phân quyền, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, rèn
luyện đối với cán bộ, công chức, nhất là đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ,
công chức trong quy hoạch. Phát huy hiệu quả của công tác điều động, luân
chuyển, biệt phái cán bộ, công chức, bao gồm cả lực lượng Chấp hành viên
trung cấp.
Ba là, cần có phương án, kế hoạch ngắn hạn và dài hạn phát triển
nguồn nhân lực một cách phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác
96
trong hiện tại và tương lai, trong đó chú trọng công tác tuyển dụng, bổ nhiệm
và đặc biệt là thực tiễn hiện nay lực lượng Chấp hành viên trung cấp còn
mỏng về số lượng, còn một số hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, cần
được chú trọng tăng cường.
Bốn là, tăng cường sự phối hợp của cơ quan thi hành án dân sự với các
cấp, các ngành trong quản lý, chỉ đạo, điều hành công tác thi hành án dân sự.
Tiếp tục đổi mới, chủ động, tích cực hơn nữa trong công tác quản lý, chỉ đạo,
điều hành theo hướng nâng cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu,
người đứng đầu phải gương mẫu, đi sâu, đi sát, chỉ đạo cụ thể, quyết liệt, rõ
người, rõ việc, rõ thời gian hoàn thành. Chấn chỉnh khắc phục những hạn chế,
bất cập, yếu kém trong công tác tổ chức cán bộ để từng bước nâng cao công
tác tổ chức, quản lý nhân sự, sắp xếp, quy hoạch cán bộ đáp ứng nhiệm vụ
chính trị trong tình hình mới, nâng cao vai trò của cơ quan thi hành án dân sự
và nâng cao vị trí, địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp,
bảo đảm thẩm quyền, vị trí của Chấp hành viên trung cấp tương xứng nghĩa
vụ, trọng trách được giao.
3.2.3. Nâng cao năng lực thực thi công vụ của Chấp hành viên trung cấp
Thông qua kết quả công tác thực tiễn thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình và trên cơ sở nghiên cứu tổng quan về lý luận có thể thấy đồng thời với
việc cải cách tư pháp, cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế, kiện toàn tổ
chức bộ máy thì việc nâng cao năng lực thực thi công vụ cũng là một trong
những biện pháp, giải pháp quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả công tác,
nâng cao địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp.
Để nâng cao năng lực thực thi công vụ của Chấp hành viên trung cấp,
cần tập trung vào một số nhiệm vụ cơ bản sau:
Một là, thực hiện từng bước đổi mới một cách triệt để công tác quản lý
cán bộ, công chức, mà trước hết là đổi mới ngay trong khâu tuyển dụng.
97
Hai là, đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo
hướng hiệu quả thiết thực, trong đó cần xác định các nội dung trọng tâm đột
phá trong cải cách, hướng tới tính chuyên nghiệp, hiện đạt, phù hợp xu thế hội
nhập quốc tế.
Ba là, sử dụng lực lượng cán bộ, công chức hợp lý, hiệu quả. Xây dựng
hệ thống các quy định về sử dụng cán bộ, công chức trên cơ sở thực tài, năng
lực thực tế giải quyết công việc và kết quả thực hiện công việc. Từng bước
triển khai mỗi vị trí công việc phải có mô tả công việc giúp cho việc tuyển
dụng, phân công theo dõi kết quả thực hiện công việc. Đổi mới công tác đánh
giá cán bộ, công chức, hướng tới đánh giá dựa trên kết quả thực thi công vụ.
Xác định vai trò của người đứng đầu, chú trọng vai trò của người thủ trưởng
trong phân công, sử dụng, đánh giá nhân viên và chịu trách nhiệm với kết quả
thực hiện công việc của nhân viên.
Bốn là, tạo động lực cho cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Cần
thiết thực hiện đổi mới công tác thi đua khen thưởng, các chính sách về lương
và đãi ngộ. Cần khách quan, trung thực không có ngoại lệ trong thực hiện
khen thưởng, kỷ luật trong thực thi nhiệm vụ với các hình thức thưởng, phạt
công minh. Lương và các hình thức đãi ngộ khác cần thể hiện sự đánh giá
tương xứng với công sức cán bộ, công chức bỏ ra để tạo ra động lực cho họ
làm việc tốt hơn. Có làm tốt công tác này mới hy vọng giữ chân được những
người giỏi, có tài ở lại phục vụ lâu dài trong nền công vụ.
3.2.4. Kiểm soát tốt hoạt động của Chấp hành viên trung cấp
Luôn quan tâm, chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kế hoạch và các
biện pháp đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí trong các hoạt động
công vụ của công chức nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng, coi
đây là công tác thường xuyên. Chú trọng đến việc giáo dục chính trị, tư
98
tưởng, đao đức lối sống cùng với việc nâng cao tinh thần trách nhiệm của
Chấp hành viên trung cấp.
Bên cạnh đó cũng cần luôn quan tâm tổ chức tốt các phong trào thi đua;
xây dựng, ban hành và thực hiện nghiêm túc các quy chế về tăng cường kỷ
luật công vụ, gắn với chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với đội ngũ Chấp hành
viên trung cấp.
Xây dựng các quy định, quy chế tăng cường kỷ luật công vụ để tiến tới
xây dựng một nền công vụ “chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh
bạch, hiệu quả”. Cùng với đó là việc đổi mới và nâng cao chất lượng công tác
thanh tra, kiểm tra, giám sát để phát hiện, xử lý các hành vi tiêu cực trong
hoạt động nghiệp vụ và hoạt động quản lý chỉ đạo, điều hành hoạt đông thi
hành án dân sự với vai trò là Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan Thi hành án
dân sự của Chấp hành viên trung cấp. Cần thực hiện tốt cơ chế thanh tra nội
bộ, kiểm tra hoạt động và tự kiểm tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao. Thực hiện công tác thanh tra công vụ, hành chính, tập trung chú ý
và phát hiện kịp thời các biểu hiện, hiện tượng tiêu cực trong đội ngũ cán bộ,
công chức, Chấp hành viên nói chung và Chấp hành viên trung cấp nói riêng
để kịp thời chấn chỉnh, xử lý. Cần thực hiện các đợt kiểm tra, đánh giá đột
xuất hoặc kiểm tra định kỳ đối với Chấp hành viên trung cấp ở một số nội
dung công việc. Hoạt động kiểm tra, đánh giá phải mang tính khách quan,
thiết thực, phù hợp với hoàn cảnh của từng đơn vị, từng vị trí công tác, có
trọng tâm, tập trung vào đánh giá hiệu quả công việc, đánh giá ý thức chấp
hành kỷ luật công vụ của Chấp hành viên trung cấp. Đối với những hành vi
vi phạm, phải nghiêm khắc xử lý kỷ luật theo quy định; đồng thời, phải phát
hiện, động viên khen thưởng kịp thời những cá nhân có thành tích tốt, có
tinh thần trách nhiệm và mang lại hiệu quả cao trong công việc.
99
Đề cao chế độ trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị, trách nhiệm của
cấp ủy Đảng và năng lực của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.
3.2.5. Nâng cao ý thức pháp luật cho các bên liên quan
Trong hoạt động nghiệp vụ và công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành
công tác thi hành án dân sự ở địa phương, Chấp hành viên trung cấp thường
xuyên phải tiếp xúc, làm việc, thiết lập các mối quan hệ với các bên liên quan
như với các đương sự, với chính quyền địa phương và với các cơ quan, tổ
chức, ban ngành khác.
Một trong những yếu tố góp phần thực hiện pháp luật thi hành án dân
sự có hiệu quả, nâng cao hiệu quả công tác cũng như nâng cao địa vị pháp lý
hành chính của Chấp hành viên trung cấp thì cần thiết phải đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành
án dân sự nói riêng.
Việc đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải thực
hiện sâu rộng dưới nhiều hình thức tới mọi tầng lớp nhân dân, nhất là tuyên
truyền, phổ biến Luật Thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật có liên
quan, trong đó tập trung vào một số nội dung trọng tâm sau:
Một là, cần phải luôn coi trọng và xây dựng nhận thức đúng về vị trí,
vai trò quan trọng của công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Quán triệt quan điểm, công tác giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục pháp luật
đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ văn
hóa pháp lý cho mọi tầng lớp nhân dân trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tạo cơ chế phối hợp giữa hoạt động
nghiệp vụ của Chấp hành viên, Thẩm tra viên với các cán bộ phụ trách tư
pháp các cấp, các ngành địa phương để thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền, phổ
biến pháp luật hiệu quả.
100
Hai là, xây dựng kế hoạch phối hợp trong công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật giữa cơ quan thi hành án dân sự và các đoàn thể, chính quyền địa
phương trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nhằm phát
huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lồng ghép các hoạt động nhằm phổ
biến kiến thức pháp luật, đặc biệt là pháp luật về thi hành án dân sự cho đội
ngũ cán bộ, công chức, cho đương sự và các tầng lớp nhân dân.
Ba là, đổi mới phương thức phổ biến, giáo dục pháp luật, tạo tính tích
cực, chủ động trong việc tìm hiểu, áp dụng các phương thức hiện đại trong
việc phổ biến các quy định của pháp luật để tạo sự chuyển biến về nhận thức,
tạo thành thói quen tuân thủ pháp luật, hình thành ý thức tự giác tìm hiểu,
nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, sống học tập và làm việc theo pháp luật,
triệt để ứng dụng và phát huy hiệu quả của việc tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật trên mạng internet, truyền thông hiện đại, xây dựng chuyên mục
phổ biến pháp luật, lựa chọn nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp.
Bốn là, cần tập trung nguồn lực triển khai thực hiện nhiệm vụ chính trị
trọng tâm của toàn hệ thống thi hành án dân sự, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu
kết quả thi hành án dân sự được Quốc hội giao; xây dựng và thực hiện các
giải pháp giảm số lượng án tồn đọng, nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong
các vụ án kinh tế, tham nhũng, tổ chức thi hành dứt điểm các vụ việc thi hành
án dân sự phức tạp, có khiếu nại, tố cáo kéo dài, qua đó củng cố niềm tin của
nhân dân vào tính nghiêm minh của hệ thống pháp luật và cơ quan tư pháp,
góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Và khi đã tạo
được niềm tin của nhân dân vào công lý, vào pháp luật, từ đó, xây dựng tình
cảm, niềm tin của người dân đối với pháp luật và đối với việc thực thi pháp
luật về thi hành án dân sự.
101
KẾT LUẬN
“Địa vị pháp lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp – Từ thực
tiễn các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình” là một đề tài mới,
nghiên cứu và phân tích từ cơ sở lý luận cho đến quá trình nghiên cứu thực
tiễn về vai trò, vị trí, chức trách, nhiệm vụ, kết quả và hiệu quả công tác cũng
như những thực trạng khác của Chấp hành viên trung cấp tại các cơ quan thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
Công trình nghiên cứu này đã phân tích làm rõ hơn về khái niệm Chấp
hành viên trung cấp thi hành án dân sự, đưa ra quan niệm về Chấp hành viên
trung cấp thi hành án dân sự và quan niệm về địa vị pháp lý hành chính của
Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự, phân tích về mặt lý thuyết, cơ
sở lý luận đối với các yếu tố cấu thành, các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp
lý hành chính của Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự.
Đồng thời, thông qua quá trình nghiên cứu thực tế công việc hàng ngày
và kết quả hoạt động của các Chấp hành viên trung cấp thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Bình, tác giả đã đưa ra những nhận xét, đánh giá, phân tích trên
các khía cạnh khác nhau, trên cơ sở đó tổng hợp, so sánh, đặt trong các bối
cảnh, các mối quan hệ trong công tác khác nhau nhằm làm nổi bật lên vai trò,
vị trí, tầm quan trọng, nhiệm vụ và chức trách, trách nhiệm của các Chấp
hành viên trung cấp trong việc thực thi công vụ... Qua đó, đã làm rõ chức
danh Chấp hành viên trung cấp làm nhiệm vụ gì, nằm ở vị trí nào, đóng vai
trò chủ thể nào trong từng mối quan hệ công tác, từng nhiệm vụ được giao
như thực hiện nhiệm vụ quyền hạn chung của Chấp hành viên, Chấp hành
viên trung cấp và nhiệm vụ quyền hạn với vai trò là Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng cơ quan Thi hành án dân sự. Đồng thời, từ kết quả nghiên cứu, đánh
giá cũng đã chỉ ra các điểm còn hạn chế, bất cập, những khó khăn, vướng mắc
102
đối với Chấp hành viên trung cấp khi thực hiện nhiệm vụ công tác và chỉ ra
các nguồn gốc, nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó. Xuyên suốt quá
trình nghiên cứu, kết quả mang lại từ đề tài này đó là các quan điểm, giải
pháp, kiến nghị cụ thể đã được đưa ra trong luận văn, góp phần nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án dân sự, quyết tâm đưa bản án, quyết định đã có hiệu
lực vào thực thi trên thực tế, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ
pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nhà nước và của các tổ chức, cá nhân, góp phần giữ vững ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội để phát triển đất nước trong thời kỳ mới./.
103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thành Bắc (2013), Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành
án dân sự ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Nguyễn Công Bình (Chủ biên, 2007) , Luật Thi hành án dân sự -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 49 – NQ/TW ngày 02/05/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
5. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư số 10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010 của
Bộ Nội vụ về quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chấp
hành viên và thư ký thi hành án dân sự, Hà Nội.
6. Bộ Tư pháp (2002), Quyết định số 51/2002/QĐ-BTP ngày 27/02/2002
của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về chuẩn mực đạo đức chấp hành viên, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp (2007), Nghiên cứu thực trạng, nhu cầu phát triển đội ngũ
Chấp hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư
pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội.
8. Lê Vĩnh Châu (2015), “Nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự cần gắn
với nâng cao trình độ, năng lực, đạo đức của cán bộ thi hành án”, Tạp chí dân
chủ và pháp luật, tại địa chỉ: http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/thi-hanh-
phap- luat.aspx?ItemID=121, truy cập ngày 23/01/2015.
9. Chính phủ (2009), Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
THADS năm 2008 về cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan
thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
10. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ - CP ngày 18/07/2015
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
thi hành án dân sự, Hà Nội.
11. Bộ Tư pháp (2017), Thông tư 03/2017/TT-BTP ngày 05 tháng 4 năm
2017 của Bộ Tư pháp Quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp
vụ các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án dân sự, Hà Nội.
12. Bộ Tư pháp (2017), Thông tư số 02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của
Bộ Tư pháp thì các chức danh lãnh đạo, quản lý thuộc Cục Thi hành án dân
sự và Chi cục Thi hành án dân sự, Hà Nội.
13. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo tổng kết
hàng năm, từ năm 2012 đến năm 2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Bình, Quảng Bình.
14. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Nghị quyết đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII ngày 28/01/2016, Hà Nội.
15. Lê Thu Hà (2011), Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án
dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội
16. Huỳnh Thị Nam Hải (2015), Thi hành án dân sự, Tài liệu học tập, Nxb
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Vũ Quang Hiện (2015), Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành
án dân sự ở tỉnh Đồng Tháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội;
18. Lê Trung Kiên (2012), Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực Thi hành
án dân sự (qua thực tiễn tại Thanh Hóa), Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học
quốc gia, Hà Nội.
19. Đỗ Như Kim (2016), “Tăng cường bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho
đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghề
luật, (03), Tr. 88 – 94
20. Hồ Chí Minh (2000),Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đỗ Thành Nam (2008), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở
tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chi Minh, Hà Nội.
22. Ngọ Văn Nhân (2012), Xã hội học pháp luật, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
23. Ngọ Văn Nhân (2016), “kỹ năng nghiệp vụ của chấp hành viên thi
hành án dân sự”, Dân chủ và Pháp luật, (05), tr. 52- 55
25. Nguyễn Thị Phíp (2009), Hoàn thiện địa vị pháp lý của chấp hành
viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội
26. Trần Mạnh Quân (2013), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở
Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
27. Đặng Đình Quyền (2009), “Năng lực chấp hành viên – yếu tố quyết
định thành công trong thi hành án dân sự”, Nghiên cứu lập pháp, (06), tr.16 -
21
28. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Cán
bộ công chức, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Thi
hành án dân sự năm 2008, NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
30. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến
pháp năm 2013, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
31. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 NXB Chính
trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
32. Nguyễn Xuân Thái (2016), Xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi hành
án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
33. Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự
ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Lý luận nhà nước và
pháp luật, Trường, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
35. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Thi hành án dân
sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
36. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2017), Báo cáo tình hình kinh tế -
xã hội năm 2017, kế hoạch phát triển kinh tế xã – hội năm 2018.
37. Viện Khoa học Pháp lý (1999), Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách
khoa, Hà Nội.
38. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2015), Xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi
hành án dân sự ở thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chi Minh, Hà Nội.
39. Phạm Công ý (2009), “Nâng cao chất lượng chấp hành viên”, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật (08), tr 52 – 55.