ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

LÊ XUÂN HÒA

VAI TRß CñA THANH TRA Bé T¦ PH¸P

TRONG QU¶N Lý NHµ N¦íC VÒ THI HµNH ¸N D¢N Sù

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

LÊ XUÂN HÒA

VAI TRß CñA THANH TRA Bé T¦ PH¸P

TRONG QU¶N Lý NHµ N¦íC VÒ THI HµNH ¸N D¢N Sù

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HOÀNG ANH

HÀ NỘI - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của cá

nhân tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn

thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài

chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học

Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.

Trân trọng cảm ơn!

Người cam đoan

Lê Xuân Hòa

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THANH TRA BỘ TƢ PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................................................ 7 1.1. Thi hành án dân sự và quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự ....... 7 1.1.1. Định nghĩa thi hành án dân sự ............................................................. 7 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự .......................... 10 1.1.3. Vai trò của hoạt động thi hành án dân sự ........................................... 12 1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ........ 17 1.1.5. Chủ thể quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ............................... 18 1.1.6. Nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ............................. 23 1.1.7. Hình thức quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ......... 29

1.2. Thanh tra Bộ Tƣ pháp và vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp

trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự.............................. 31

1.2.1. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh

tra Bộ Tư pháp.................................................................................... 31

1.2.2. Vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi

hành án dân sự .................................................................................... 42

1.3. Các điều kiện đảm bảo vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp

trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự.............................. 56

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA THANH TRA BỘ TƢ PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................. 59

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ

Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự .............. 59

2.1.1. Về quản lý công tác tổ chức cán bộ ................................................... 60 2.1.2. Về quản lý chuyên môn, nghiệp vụ.................................................... 61 2.1.3. Về khen thưởng và xử lý vi phạm ...................................................... 64 2.1.4. Về công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo ........................ 64

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự và những hạn chế, tồn tại ..................................................................... 67 2.2.1. Trong lĩnh vực công tác tổ chức cán bộ ............................................. 67 2.2.2. Trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ ............................................. 69 2.2.3. Trong lĩnh vực khen thưởng, xử lý vi phạm ...................................... 72 2.2.4. Trong lĩnh vực thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo ................... 76 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại ...................................... 78 2.3.1. Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật ........................................... 78 2.3.2. Các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy ......................................... 81 2.3.3. Các vấn đề liên quan đến chất lượng công chức ................................ 83

2.4. Quan điểm và mục tiêu bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ

Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự .............. 84

2.4.1. Quan điểm bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong

quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ............................................. 85

2.4.2. Mục tiêu bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản

lý nhà nước về thi hành án dân sự ...................................................... 89

2.5. Giải pháp bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong

quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự ........................................ 91 2.5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật ........................................................... 91 2.5.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ Tư pháp ....................... 93 2.5.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức Thanh tra Bộ Tư pháp ....... 94 2.5.4. Đổi mới phương thức hoạt động ........................................................ 95 2.5.5. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác thanh tra, giải

quyết khiếu nại, tố cáo ....................................................................... 95

KẾT LUẬN .................................................................................................... 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 100

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Bàn về ý nghĩa, vị trí, vai trò của công tác thi hành án dân sự, Giáo sư

James F Harrigan, chuyên gia tư vấn pháp lý cho cơ quan thi hành án San

Francisco, California, Hoa Kỳ cho rằng:

Việc thi hành các bản án của quốc gia là yếu tố quan trọng nhất

trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Tất cả các hệ thống pháp luật

đều dựa vào các Tòa án để giải thích pháp luật bằng cách áp dụng

pháp luật để giải quyết tranh chấp liên quan đến cá nhân, tổ chức

và nhà nước. Việc thực hiện các quyết định đã xem xét của Tòa án

đạt được bằng nỗ lực pháp luật và sự tham gia của các bên tranh

chấp chỉ được công nhận trong việc thi hành các bản án của Tòa

án được đưa ra để giải quyết các tranh chấp. Việc thi hành đó, tiếp

theo quá trình, là một phần không kém quan trọng. Nếu bản án

không được thi hành, có nghĩa pháp luật mà bản án căn cứ vào

không có ý nghĩa trên thực tế. Vì lý do đó, có một khái niệm riêng

giữa hệ thống luật chung và Luật Dân sự khác là bản án phải được

coi là chung thẩm, có giá trị ràng buộc, và có thể thi hành ngay sau

khi ban hành, và việc thi hành án là quyền ưu tiên cao nhất của

một hệ thống pháp luật [32, tr.3].

Việc thi hành án dân sự tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của Nhà

nước, của các cá nhân và tổ chức có liên quan. Trong bối cảnh hội nhập sâu,

rộng của nước ta hiện nay, thông qua việc tác động đến quyền, lợi ích của các

chủ thể trong xã hội, hoạt động thi hành án dân sự trong một chừng mực nhất

định có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và đặc

1

biệt là lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước, pháp luật. Do đó,

vấn đề quản lý nhà nước về thi hành án dân sự luôn luôn được Bộ Tư pháp

quan tâm, hoàn thiện và nâng cao chất lượng nhằm góp phần trong việc bảo

vệ pháp chế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của, Nhà nước, công dân và duy

trì kỷ cương phép nước.

Với tư cách là cơ quan tham mưu của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Thanh tra

Bộ Tư pháp (Sau đây gọi chung là Thanh tra Bộ) đóng vai trò quan trọng

trong việc giúp Bộ trưởng thực hiện việc quản lý nhà nước về thi hành án dân

sự; đảm bảo công tác này luôn theo đúng định hướng. Tuy nhiên, việc quản lý

nhà nước trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng số lượng khiếu

nại, tố cáo trong lĩnh vực này chiếm 90% số lượng đơn, thư Bộ Tư pháp giải

quyết hàng năm. Công tác thanh tra trong lĩnh vực này cũng còn hạn chế, ví

dụ: Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án

dân sự năm 2014, Thanh tra Bộ không tiến hành thanh tra theo kế hoạch đối

với lĩnh vực nghiệp vụ thi hành án dân sự, mà chỉ thực hiện chức năng này

thông quá việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và thanh tra đột xuất trong trường

hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 2 Điều

19 Luật Thanh tra năm 2010. Như vậy, mặc dù Bộ Tư pháp là cơ quan giúp

Chính phủ quản lý nhà nước toàn diện trong lĩnh vực thi hành án dân sự

nhưng lại không có chức năng thực hiện công tác thanh tra theo kế hoạch đối

với nghiệp vụ thi hành án dân sự là một trong những bất cập lớn của việc

quản lý nhà nước. Thực tiễn cho thấy, từ việc không thực hiện chức năng

thanh tra theo kế hoạch đối với nghiệp vụ thi hành án dân sự dẫn đến tình

trạng khó khăn trong việc phòng ngừa, chấn chỉnh và xử lý đối với những vi

phạm của cơ quan thi hành án dân sự và các công chức làm công tác thi hành

án dân sự. Để công tác thi hành án dân sự có bước chuyển mình thật sự mạnh

mẽ, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự; đặc biệt

2

cần nâng cao vai trò của Thanh tra Bộ. Về mặt lý luận, dù đã có các nghiên

cứu về thi hành án dân sự và về thanh tra, nhưng chưa có công trình nghiên

cứu kết hợp cả hai lĩnh vực này. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Vai trò

của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự”.

2. Tình hình nghiên cứu

Thi hành án dân sự là một trong các lĩnh vực nhận được sự quan tâm

của các cơ quan và các nhà luật học trong nước thể hiện ở số lượng các công

trình nghiên cứu trong khoảng hai mươi năm trở lại đây. Viện Nghiên cứu

Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp phối hợp với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí

Minh đã có đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Những cơ sở lý luận và thực

tiễn về chế định Thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT; Cục Quản lý Thi hành

án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ:

“Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”, mã số: 96-98-027/ĐT;

Bộ Tư pháp chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: “Luận cứ khoa

học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai

đoạn mới”; tác giả Nguyễn Công Long có công trình: “Các biện pháp cưỡng

chế thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà

Nội, 2000); tác giả Nguyễn Thanh Thủy có công trình: “Hoàn thiện pháp luật

thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà

Nội, 2001); tác giả Lê Kim Dung có công trình: “Civil Execution in Việt

Nam; Reality Problems and Suggestion Towrds a WellFunctioning System”

(Thi hành án dân sự Việt Nam; thực trạng, vấn đề và những gợi ý hướng tới

một hệ thống hoàn thiện), (Luận văn thạc sĩ Luật học, 2002); tác giả Lê Xuân

Hồng có công trình: “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự”, (Luận

văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002); tác giả Trần Anh

Tuấn có công trình: “Thi hành quyết định trọng tài tại Việt Nam”, (Luận văn

thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002); tác giả Nguyễn Quang

3

Thái có công trình: “Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt

Nam”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,

2003); tác giả Lê Anh Tuấn có công trình: “Đổi mới thủ tục thi hành án dân

sự Việt Nam”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,

2004). Bên cạnh đó, không thể không đề cập tới những bài viết, nghiên cứu

trao đổi đã được đăng tải trên các tạp chí có uy tín của ngành tư pháp như Tạp

chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học,

Bản tin Thi hành án dân sự về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án

dân sự ở Việt Nam hiện nay.

Về cơ bản các Luận văn và bài viết nêu trên đã nêu toàn cảnh công tác

thi hành án dân sự, đã nêu lên được những khó khăn, vướng mắc qua đó đã

đóng góp một phần không nhỏ về vấn đề lý luận cũng như thực tiễn, giúp hoạt

động thi hành án dân sự dần đi vào nề nếp và tháo gỡ được những khó khăn

vướng mắc. Tuy nhiên, hầu hết các Luận văn nêu trên đều chưa nêu và đánh

giá về vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.

Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá được thực trạng công tác

quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, qua đó làm rõ vai trò của Thanh tra

Bộ trong lĩnh vực này.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của

Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, luận văn đưa ra

một số giải pháp nâng cao vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về

thi hành án dân sự.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:

- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thi

hành án dân sự, vị trí, vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi

4

hành án dân sự.

- Đánh giá thực trạng của công tác quản lý nhà nước của Thanh tra Bộ

về thi hành án dân sự trên cả hai phương diện: quy định của pháp luật và thực

tiễn quản lý trong giai đoạn hiện nay.

- Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực trạng hiện nay, đưa ra các

quan điểm, yêu cầu, giải pháp để bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ trong công

tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng

Các vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh

vực thi hành án dân sự của Thanh tra Bộ.

4.2. Phạm vi

Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh

vực Thi hành án dân sự tại cơ quan Thanh tra Bộ trong giai đoạn từ khi Luật

Thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực ngày 01/7/2009) đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ

nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng và đường

lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương

pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp và một số phương pháp luận khác

để lựa chọn những vấn đề cần thiết đưa vào nội dung nghiên cứu.

6. Những đóng góp mới của luận văn

Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý

nhà nước về thi hành án dân sự.

Đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về vai trò của

Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, làm rõ những mặt

được, những mặt còn hạn chế, vướng mắc bất cập trong quản lý nhà nước về

5

thi hành án dân sự và nêu các nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.

Phân tích các yêu cầu, quan điểm và đề xuất các giải pháp để nâng cao

hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

7. Bố cục của luận văn

Gồm có phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo,

luận văn bao gồm 2 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp

trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.

Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ

6

Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THANH TRA BỘ TƢ

PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Thi hành án dân sự và quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự

1.1.1. Định nghĩa thi hành án dân sự

Hiện nay, dựa trên các quan điểm, nhận thức pháp luật khác nhau, các

chuyên gia, các nhà nghiên cứu luật học đã đưa ra hai quan niệm cơ bản về

hoạt động thi hành án dân sự; cụ thể như sau:

Quan niệm thứ nhất cho rằng, thi hành án là một giai đoạn của tố tụng,

vì: “Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của của

công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự” [2, tr.43-44]. Quan điểm này thừa nhận “không

phải mọi hoạt động trong quá trình thi hành án và quyết định của tòa án đều

nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật tố tụng...” nhưng lại cho rằng thi

hành án “thực chất là hoạt động tố tụng của tòa án, của các cơ quan, tổ chức

có thẩm quyền nhằm bảo đảm cho bản án và quyết định của tòa án được thi

hành một cách chính xác, kịp thời” [53, tr.282].

Hoạt động thi hành án dân sự được coi là một giai đoạn tố tụng dân

sự, là giai đoạn tiếp theo của hoạt động xét xử để đảm bảo Bản án và Quyết

định của Tòa án được thi hành kịp thời và đúng pháp luật. Tương tự như các

hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, hoạt động thi hành án dân sự hướng

đến mục tiêu chung là bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp cho nhà

nước và nhân dân.

Do vậy, tuy được đặt trong hệ thống cơ quan hành chính nhưng xét về

bản chất, cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện

7

nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân.

Đối lập với quan điểm thứ nhất, quan niệm thứ hai lại cho rằng, thi

hành án là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Theo quan niệm này

thì tố tụng là quá trình tiến hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp

luật; quá trình này trải qua nhiều giai đoạn nhưng các giai đoạn có liên quan

mật thiết với nhau trong thể thống nhất và xét xử là giai đoạn cuối cùng của

quá trình tố tụng cho nên bản án, quyết định của toà án là kết quả cuối cùng

đánh dấu sự kết thúc của quá trình tố tụng [2, tr.43-44].

Hay nói cách khác, theo quan điểm thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt

động của cơ quan hành chính nhà nước, có bản chất là hoạt động hành chính -

tư pháp vì những lý do sau [2, tr.43-44]:

- Thứ nhất, tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng về bản chất là

việc áp dụng các trình tự, thủ tục luật định để xác minh sự thật của các sự kiện

đã diễn ra trên thực tế và giải quyết vụ việc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của Nhà nước và của các cá nhân, tổ chức khác. Trong khi đó, thi hành

án dân sự chỉ đơn thuần là quá trình tiến hành các hoạt động nghiệp vụ nhằm

thực hiện các Bản án và Quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Bên cạnh đó,

quá trình thi hành án dân sự tôn trọng sự thỏa thuận, tự nguyện thi hành án

của các đương sự. Cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên trực tiếp tổ

chức thi hành chỉ thực hiện quyền lực nhà nước khi các bên đương sự không

tự nguyện thi hành. Vì vậy, có thể nói rằng quá trình tố tụng là quá trình đi

tìm sự thật để áp dụng pháp luật; còn thi hành án là quá trình có sự xen kẽ

giữa việc chấp hành pháp luật và áp dụng pháp luật.

- Thứ hai, trong lĩnh vực thi hành án dân sự có sự xen kẽ giữa các quan

hệ mang tính chất tố tụng và quan hệ mang tính hành chính - tư pháp nhưng

các quan hệ mang tính chất hành chính - tư pháp chiếm tỷ lệ cao hơn. Ngoài

ra, việc tổ chức thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước và người có

8

thẩm quyền nhưng ở một số lĩnh vực Nhà nước có thể ban hành các quy định

để xã hội hóa hoạt động này. Các hoạt động liên quan đến lĩnh vực thừa phát

lại là ví dụ cụ thể cho luận điểm này. Đây cũng chính là một điểm khác biệt

cơ bản so với hoạt động tố tụng nói chung bởi hoạt động tố tụng mang tính

chất quyền lực nhà nước thuần túy. Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số

61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại

thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, Thừa phát lại được làm những

công việc sau đây:

1. Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc Cơ quan

thi hành án dân sự; 2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ

quan, tổ chức; 3. Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của

đương sự; 4. Trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định

của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức

thi hành án các bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ quan

thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án.

Trên sự ghi nhận của Quốc hội về kết quả đạt được trong việc thực hiện

chế định thừa phát lại tại Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 của

Quốc hội và sự phân công của Chính phủ, Bộ Tư pháp hiện đang xây dựng

Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại. Điều 3 Dự thảo Nghị định

quy định về các công việc thừa lại được làm bao gồm:

1. Tống đạt theo yêu cầu của Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự

các cấp, đương sự trong vụ việc dân sự, hành chính, cơ quan nhà

nước và các tổ chức hành nghề bổ trợ tư pháp trên địa bàn tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại;

tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến hoạt động tương trợ tư

pháp theo quy định của pháp luật; 2. Lập vi bằng theo yêu cầu của

cá nhân, cơ quan, tổ chức; 3. Xác minh điều kiện thi hành án theo

9

yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; 4.

Tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu

của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành án các bản án,

quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ

động ra quyết định thi hành án theo quy định của pháp luật về thi

hành án dân sự.

- Thứ ba, theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan thi hành án

dân sự áp dụng các trình tự, thủ tục về thi hành án dân sự không chỉ đối với

các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân mà còn bao gồm cả Quyết định

xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của

Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại.

Tóm lại, mỗi quan điểm về thi hành án dân sự nêu trên đều có những cơ

sở khoa học và hạt nhân hợp lý riêng. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân của

mình, tôi cho rằng quan điểm thứ hai là hợp lý hơn cả; thi hành án dân sự

không chỉ là hoạt động hành chính hay tư pháp đơn thuần cũng không phải là

một giai đoạn của quá trình tố tụng. Xét về bản chất, thi hành án dân sự nên

được coi là hoạt động hành chính - tư pháp.

Từ những căn cứ nêu trên, theo quan điểm cá nhân của tác giả: thi hành

án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có

thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm đảm bảo Bản án,

Quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền

được thực thi trên thực tế.

1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự

- Thứ nhất, trong hoạt động thi hành án dân sự luôn luôn tồn tại ba

chủ thể bắt buộc; bao gồm: cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên trực

tiếp tổ chức thi hành và các đương sự. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều

10

Luật Thi hành án dân sự năm 2014, đương sự bao gồm người được thi hành

án, người phải thi hành án và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan.

Trong quan hệ này, cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên là những

chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước, có quyền áp dụng các biện pháp luật

định để đảm bảo các Bản án, Quyết định được thực thi trên thực tế một các

nghiêm chỉnh nhất nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp

pháp của các tổ chức, cá nhân.

- Thứ hai, trong hoạt động thi hành án dân sự, tính chủ động, độc lập

của Chấp hành viên trong quá trình tác nghiệp cũng được đề cao và tôn trọng.

Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên tuân

theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được bảo vệ tính mạng,

sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Kể từ thời điểm được phân công tổ chức thi

hành án, Chấp hành viên có quyền chủ động đối với phần lớn các hoạt động

nghiệp vụ của mình trừ một số việc thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ

quan thi hành án dân sự như: ban hành quyết định ủy thác, quyết định trả đơn,

đình chỉ, tạm đình chỉ, hoãn thi hành án.

- Thứ ba, trong một chừng mực nhất định thi hành án dân sự là hoạt

động mang tính quyền lực nhà nước. Cơ quan thi hành án dân sự và Chấp

hành viên sử dụng quyền lực nhà nước để bảo đảm Bản án, Quyết định của

Tòa án và các quyết định dân sự khác theo quy định của pháp luật được thực

thi trên thực tế. Do đó, việc không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm

chỉnh các quy định về thi hành án đều dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất

định và có thể bị xử phạt bằng chế tài tùy mức độ nghiêm trọng của hành vi.

Căn cứ theo quy định của Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư

pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản

doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015

11

của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định 110/2013/NĐ-CP,

thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục

hậu quả được giao cho các chức danh sau: Chấp hành viên trực tiếp tổ chức

thi hành, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự, Cục trưởng Cục Thi

hành án dân sự, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, Thanh tra

viên Thanh tra Bộ và Chánh Thanh tra Bộ với hình phạt chính là cảnh cáo và

phạt từ tiền từ 500.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Ngoài ra, người có hành vi

vi phạm có thể phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục

lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi. Bên cạnh đó, hoạt động thi hành án dân

sự cũng được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ đảm bảo sự công

bằng trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của các đương sự.

- Thứ tư, khác với thi hành án hình sự, trong thi hành án dân sự,

phương pháp giáo dục, thuyết phục có ý nghĩa quan trọng và trong nhiều

trường hợp mang tính quyết định; đây cũng là phương pháp đặc thù trong lĩnh

vực này. Nhà nước cho phép và bảo hộ việc các đương sự tự thỏa thuận với

nhau về việc thi hành án nếu sự thỏa thuận đó không vi phạm pháp luật,

không trái đạo đức xã hội hay xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của người thứ ba.

1.1.3. Vai trò của hoạt động thi hành án dân sự

Thứ nhất, đảm bảo các Bản án, Quyết định được thi hành trên thực tế.

Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa

án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn

trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.

Tuy nhiên, như đã trình bày, việc thi hành án không chỉ dừng lại ở việc bảo

đảm các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân được thực thi trên thực tế

mà còn bao gồm các Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và

Trọng tài thương mại theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự:

12

“Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm:

1. Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu

lực pháp luật:

a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ

thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;

b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;

c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;

d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của

Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho

thi hành tại Việt Nam;

đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc

cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương

sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án;

e) Quyết định của Trọng tài thương mại.

2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được

thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:

a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động,

trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động

hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh

thần, nhận người lao động trở lại làm việc;

b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

Về bản chất, quá trình tác nghiệp của Chấp hành viên thực chất là việc

áp dụng các biện pháp thi hành án để đảm bảo nội dung hiến định đồng thời

hướng tới mục tiêu bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như quyền, lợi ích hợp

pháp cho các cá nhân và tổ chức khác.

Với tính chất đặc thù của một hoạt động liên quan đến quyền con

người, quyền sở hữu tài sản, thi hành án dân sự cũng chính là một trong

13

những hoạt động tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến việc xâm phạm quyền con

người, quyền công dân. Chính vì thế, Nhà nước cần phải có quy định về cơ

chế giám sát, kiểm tra đối với hoạt động thi hành án dân sự. Theo quy định

của pháp luật hiện nay, việc kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án được

giao cho rất nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức như: Quốc hội, Hội đồng nhân

dân, Mặt trận Tổ quốc, Ban chỉ đạo thi hành án.... Đối với cơ quan Bộ Tư

pháp, công tác thanh tra, kiểm tra cũng được lãnh đạo Bộ đặc biệt quan tâm.

Theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008, công tác thanh tra, kiểm tra lĩnh vực

thi hành án dân sự được quy định cụ thể sau:

+ Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp thực hiện việc kiểm tra

định kỳ theo kế hoạch hoặc kiểm tra đột xuất công tác thi hành án dân sự,

đồng thời thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền đối với

các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.

+ Thanh tra Bộ là cơ quan tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực

hiện việc thanh tra theo kế hoạch đối với các cơ quan thi hành án dân sự địa

phương (Kế hoạch thanh tra được Bộ trưởng phê duyệt trên cơ sở đề xuất của

Thanh tra Bộ). Trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật,

Thanh tra Bộ thực hiện việc thanh tra đột xuất đối với các cơ quan thi hành

án, Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án theo quy định tại

khoản 2 Điều 19 Luật Thanh tra năm 2010. Ngoài ra, Thanh tra Bộ còn đóng

vai trò là cơ quan tham mưu cho Bộ trưởng trong việc giải quyết khiếu nại, tố

cáo theo thẩm quyền và tham mưu cho Bộ trưởng trong việc xem xét lại đối

với các Quyết định giải quyết khiếu nại của Cục trưởng Cục Thi hành án dân

sự và Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã có hiệu lực thi hành

theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự năm 2008

(Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại quyết

định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành quy định tại khoản 2 và

14

khoản 3 Điều này).

Tuy nhiên, hiện nay theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014, Thanh tra Bộ không còn thực

hiện chức năng thanh tra theo kế hoạch về lĩnh vực nghiệp vụ thi hành án.

Việc thanh tra về nghiệp vụ thi hành án chỉ được thực hiện trong trường hợp

thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm hoặc theo yêu cầu của

công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động bảo vệ quyền lợi của người

được thi hành án được xác định trong bản án, quyết định.

Quyền lợi của người được thi hành án được bảo vệ bằng dưới hai hình

thức: do các đương sự tự thỏa thuận thực hiện hoặc được nhà nước bảo đảm

bằng quyền lực nhà nước. Như đã trình bày ở phần trên, các quy định của

pháp luật về thi hành án dân sự tôn trọng sự tự nguyện và cho phép các đương

sự được quyền thỏa thuận trong thi hành án. Xuất phát từ nguyên tắc “Vấn đề

dân sự, thương sự cốt ở hai bên”, trong mọi giai đoạn của quá trình thi hành

án dân sự, các đương sự đều có quyền thỏa thuận, định đoạt các vấn đề liên

quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã được quyết định trong các bản

án, quyết định. Nhà nước tôn trọng sự thỏa thuận đó. Việc pháp luật tôn trọng

sự tự giải quyết giữa các bên có tác dụng làm giảm gánh nặng của cơ quan thi

hành án, làm tăng tình đoàn kết giữa hai bên và phù hợp với truyền thống của

người Việt Nam khuyến khích hòa giải ở bất kỳ giai đoạn nào.

Mặt khác, trong trường hợp các đương sự không tự nguyện thi hành án

hoặc không tôn trọng sự thỏa thuận trước đó, Nhà nước mà đại diện ở đây là

cơ quan thi hành án và Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành sử dụng

quyền lực nhà nước như một công cụ hữu hiệu để bảo vệ pháp chế xã hội chủ

nghĩa và quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khác với nhiều nước trên

thế giới, ở Việt Nam từ ngày 01/7/1993, Tòa án nhân dân không còn được

15

giao nhiệm vụ thi hành án dân sự mà công việc này được chuyển giao từ Toà

án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ [1], tuy nhiên điểm

chung trong pháp luật các nước, đó là đảm bảo kiểm soát việc sử dụng biện

pháp chế tài trong thi hành án dân sự bằng các biện pháp cưỡng chế. Nhân

danh Nhà nước, các cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên thực hiện

quyền lực này. Áp dụng các biện pháp cưỡng chế đương nhiên là quyền

chuyên biệt của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên; do đó, mọi cá nhân,

tổ chức khác không được phép sử dụng quyền lực để buộc người khác thực

hiện nghĩa vụ của họ nếu pháp luật không cho phép.

Thứ ba, góp phần nâng cao chất lượng của Bản án, quyết định

Các Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự

phải được tôn trọng và thi hành. Ngược lại, chính hoạt động thi hành án cũng

góp phần củng cố, hoàn thiện công tác xét xử. Thông qua việc áp dụng các

biện pháp thi hành án, nếu có sai sót trong bản án, quyết định được thi hành,

cơ quan thi hành án sẽ có những kiến nghị thích hợp, giúp cho cơ quan có

thẩm quyền có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm trong việc áp dụng

pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng của bản án, quyết định. Điểm đ Khoản 1

Điều 23 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án

dân sự (gồm Cục trưởng và Chi cục trưởng) có nhiệm vụ, quyền hạn trong

việc “Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật”.

Thứ tư, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân

Khác với thi hành án hình sự, cơ chế tự thỏa thuận trong thi hành án

dân sự có tác động tích cực đến quyền, lợi ích của các bên đương sự, cụ thể:

người được thi hành án sớm khôi phục lại quyền lợi của mình; người phải thi

hành án có thể giảm được một phần nghĩa vụ theo bản án, quyết định đặc biệt

giảm được các thiệt hại về vật chất so với trường hợp cơ quan thi hành án tổ

16

chức thi hành như chi phí cưỡng chế thi hành án, lãi suất chậm thi hành án.

Những quy định như vậy sẽ thúc đẩy các đương sự ý thức tự nguyện trong

việc thi hành án, cũng như thái độ, ý thức khi thỏa thuận với nhau trong việc

thực hiện quyền, nghĩa vụ trong bản án, quyết định. Việc quy định rõ ràng về

quyền tự thỏa thuận giữa các đương sự là một công cụ quan trọng trong việc

phổ biến, giáo dục pháp luật đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật

trong nhân dân.

1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự

Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động thực hiện chức

năng của Nhà nước với tư cách là một tổ chức đặc biệt do giai cấp thống trị

lập ra để quản lý xã hội. Nhà nước có quyền ban hành pháp luật, pháp luật do

nó ban hành có giá trị bắt buộc chung và được đảm bảo thực thi bằng các biện

pháp cưỡng chế do Nhà nước thực hiện. Ở đây, hoạt động quản lý nhà nước

cũng bao hàm cả hoạt động tài phán đối với các tranh chấp phát sinh bằng

pháp luật mà Nhà nước định ra. Nói cách khác, theo nghĩa rộng quản lý nhà

nước là toàn bộ hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của loại chủ thể đặc

biệt là Nhà nước, nó dùng để phân biệt với hoạt động quản lý của các chủ thể

khác trong xã hội.

Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là nội dung hoạt động cơ bản của cơ

quan nhà nước. Loại cơ quan này có chức năng chuyên trách quản lý mọi lĩnh

vực của đời sống kinh tế, xã hội dựa trên các quy định của hệ thống pháp luật

do cơ quan lập pháp ban hành. Đó là hoạt động của cơ quan hành pháp hay

còn gọi là cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Đặc

điểm của hoạt động quản lý theo nghĩa hẹp là nó chuyển hoá các quy định của

pháp luật vào đời sống xã hội bằng các biện pháp quản lý, tác động trực tiếp

đến hành vi ứng xử của các đối tượng quản lý. Hoạt động này hiện diện ở mọi

lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Đây cũng là hoạt động trực tiếp quản lý

17

tài nguyên, lao động, công sản, nền tài chính công và các nguồn lực của xã

hội. Nói cách khác, cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan có thực quyền. Hoạt

động của nó không chịu sự giám sát của nhiều thiết chế khác nhau như giám

sát của cơ quan lập pháp, của xã hội và nhân dân… mà bản thân nó phải có

các cơ chế thanh tra, kiểm tra để đảm bảo hiệu quả và tính hợp pháp của hoạt

động quản lý.

Từ những nhận thức, quan điểm chung nhất về quản lý nhà nước nói

chung, có thể định nghĩa về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân

sự là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước nhằm tác động có tổ chức đối với

tất cả các hoạt động trong lĩnh vực thi hành án dân sự do các cơ quan thi hành

án dân sự tiến hành để hiện thực hoá những Bản án, Quyết định của Toà án và

quyết định của cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định.

1.1.5. Chủ thể quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

Ngày 13/3/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2013/NĐ-CP và

ngày 16/8/2017, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 96/2017/NĐ-CP,

quy định vị trí và chức năng của Bộ Tư pháp:

Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về: Xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy

phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, thi

hành án hành chính, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, bồi thường

nhà nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành

chính; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công trong các lĩnh

vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ [29, Điều 1].

Việc xác định và hiểu rõ về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân

sự đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường, nâng cao hiệu quả

của công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.

18

Đồng thời, Điều 13 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật Sửa đổi,

bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014, hệ thống các cơ

quan thi hành án dân sự được phân chia thành cơ quan quản lý thi hành dân sự

và các cơ quan thi hành án dân sự.

- Cơ quan quản lý thi hành án dân sự

Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực thi hành vào

ngày 01/7/2009) và Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật

Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành

án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, ở Trung ương:

Tổng cục Thi hành án dân sự là cơ quan quản lý thi hành án dân sự trực

thuộc Bộ Tư pháp [25, Điều 2, Khoản 1]. Ngày 06/11/2009, Bộ trưởng Bộ Tư

pháp ban hành Quyết định số: 2999/QĐ-BTP để công bố việc thành lập Tổng

cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp.

Ngày 30/10/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số

61/2014/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức

của Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành

án dân sự thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý

nhà nước về công tác thi hành án dân sự và thi hành án hành chính trong

phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự và thi

hành án hành chính theo quy định của pháp luật.

Ngày 13/3/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2013/NĐ-CP

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp

(nay được thay thế bằng Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017), thì

Tổng cục Thi hành án dân sự được thành lập và là cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ

Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân

19

sự và thi hành án hành chính. Cụ thể như sau:

+ Quản lý hệ thống tổ chức, biên chế và hoạt động của cơ

quan thi hành án dân sự; quyết định thành lập, giải thể các cơ quan

thi hành án dân sự;

+ Hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên,

Thẩm tra viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự;

+ Hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý thi hành án

hành chính;

+ Quyết định kế hoạch phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật

chất, phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; bảo

đảm biên chế, cơ sở vật chất, phương tiện cho công tác quản lý nhà

nước về thi hành án hành chính theo quy định của pháp luật;

+ Ban hành và thực hiện chế độ thống kê về thi hành án dân

sự, thi hành án hành chính;

+ Báo cáo về công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành

chính theo quy định của pháp luật [30, Điều 2, Khoản 13].

Về cơ cấu tổ chức, Tổng cục Thi hành án dân sự có 08 đơn vị trục

thuộc; trong đó có 07 tổ chức hành chính có nhiệm vụ giúp Tổng cục trưởng

thực hiện chức năng quản lý nhà nước và 01 tổ chức sự nghiệp công lập. Cụ

thể như sau:

+ Vụ Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định dân sự,

kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, trọng tài thương mại (gọi tắt là Vụ

nghiệp vụ 1);

+ Vụ Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định phá sản; phần

dân sự, tiền, tài sản, vật chứng trong bản án, quyết định hình sự và quyết định xử

lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản (gọi tắt là Vụ Nghiệp vụ 2);

+ Vụ Quản lý Thi hành án hành chính (gọi tắt là Vụ Nghiệp vụ 3);

20

+ Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo;

+ Vụ Tổ chức cán bộ;

+ Vụ Kế hoạch - Tài chính;

+ Văn phòng;

+ Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và Ứng dụng công nghệ thông tin.

- Các cơ quan thi hành án dân sự địa phương

Theo Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng

Chính phủ, Cơ quan Thi hành án dân sự ở địa phương bao gồm Cục Thi

hành án dân sự ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là

Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh) trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và

Chi cục Thi hành án dân sự ở các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh

(gọi chung là Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện) trực thuộc Cục Thi

hành án dân sự cấp tỉnh.

- Về Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh, Điều 5 Quyết định số 61/2014/QĐ-

TTg quy định như sau:

Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi

hành án dân sự, thực hiện chức năng thi hành án dân sự, thi hành án

hành chính có nhiệm vụ giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành

án dân sự quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan

thi hành án dân sự địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền

hạn khác theo quy định của pháp luật.

Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh có Cục trưởng đồng thời là Thủ trưởng

cơ quan Thi hành án dân sự; Phó Cục trưởng đồng thời là Phó Thủ trưởng cơ

quan Thi hành án dân sự; Chấp hành viên sơ cấp; Chấp hành viên trung cấp;

Chấp hành viên cao cấp; Thẩm tra viên thi hành án; Thẩm tra viên chính thi

hành án; Thẩm tra viên cao cấp thi hành án (nếu có); Thư ký thi hành án và

công chức khác [51, Điều 5, Khoản 3].

Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước

21

Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự và trước pháp luật về toàn bộ

hoạt động của Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh. Phó Cục trưởng Cục Thi

hành án dân sự cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Cục trưởng Cục Thi hành án

dân sự cấp tỉnh và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công phụ

trách [51, Điều 5, Khoản 4].

Theo Điều 173 Luật Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự cấp

tỉnh chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có trách nhiệm báo cáo

với Ủy ban nhân dân cùng cấp về chủ trương, biện pháp tăng cường công tác

thi hành án dân sự, công tác quản lý, đôn đốc thi hành án hành chính trên địa

bàn và thực hiện báo cáo công tác thi hành án dân sự, công tác quản lý, đôn

đốc thi hành án hành chính trước Hội đồng nhân dân cùng cấp theo quy định

của pháp luật.

- Về Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện, Điều 6 Quyết định số

61/2014/QĐ-TTg quy định như sau: “Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện

là cơ quan trực thuộc Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh, thực hiện chức năng

thi hành án dân sự, đôn đốc thi hành án hành chính và thực hiện các nhiệm

vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật”.

Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện có Chi cục trưởng đồng thời là

Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Phó Chi cục trưởng đồng thời là Phó

Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành

viên trung cấp, Thẩm tra viên thi hành án, Thư ký thi hành án và công chức

khác [51, Điều 6, Khoản 2].

Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện chịu trách nhiệm

trước Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và trước pháp luật về toàn

bộ hoạt động của Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện. Phó Chi cục trưởng

Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện chịu trách nhiệm trước Chi cục trưởng

Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện và trước pháp luật về lĩnh vực công tác

22

được phân công phụ trách [51, Điều 6, Khoản 3].

Căn cứ Điều 174 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Chi cục Thi hành

án dân sự cấp huyện chịu sự chỉ đạo và có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban

nhân dân cùng cấp về chủ trương, biện pháp tăng cường công tác thi hành án

dân sự, công tác đôn đốc thi hành án hành chính trên địa bàn và thực hiện báo

cáo công tác thi hành án dân sự, công tác đôn đốc thi hành án hành chính

trước Hội đồng nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp luật.

1.1.6. Nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

Về bản chất, mục đích chính của công tác thi hành án dân sự là hướng

đến mục tiêu đảm bảo cho các phán quyết của Tòa án và các cơ quan có thẩm

quyền khác được thi hành trên thực tế. Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu

trên, song song với bộ máy trực tiếp làm công tác nghiệp vụ thi hành án cần

phải có một hệ thống để vận hành cơ chế quản lý về công tác thi hành án dân

sự, đảm bảo mọi hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự đều thuộc sự quản

lý của Nhà nước. Do vậy, quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân

sự tập trung vào những nội dung sau:

1.1.6.1. Quản lý về công tác tổ chức cán bộ

Hiện nay các cơ quan thi hành án dân sự được chia thành ba cấp như sau:

+ Tổng cục thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp: Tổng cục thi hành án

dân sự không phải là cơ quan trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, mà đơn

thuần là cơ quan tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc quản

lý nhà nước về thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước.

+ Cục Thi hành án dân sự ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:

Khác với vị trí, vai trò và chức năng của Tổng cục Thi hành án dân sự, các

Cục Thi hành án dân sự ở địa phương bên cạnh việc thực hiện chức năng quản

lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương còn là cơ quan trực

tiếp thực hiện các hoạt động nghiệp vụ về thi hành án dân sự.

23

+ Chi cục Thi hành án dân sự ở các quận, huyện, thị xã, thành phố

thuộc tỉnh: là các cơ quan thi hành án dân sự thuộc sự quản lý trực tiếp của

Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các Chi cục

Thi hành án dân sự có chức năng chính là tổ chức thi hành các bản án do Tòa

án nhân dân cùng cấp xét xử sơ thẩm và các bản án khác do các cơ quan thi

hành án trong phạm vi toàn quốc thực hiện việc ủy thác thi hành án theo quy

định pháp luật về thi hành án dân sự

Theo quy định tại Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 của

Bộ Tư pháp quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao

động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự,

việc quản lý về tổ chức cán bộ được giao cho những cá nhân có thẩm quyền

sau: Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự,

Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án

dân sự. Việc quản lý nhà nước về công tác tổ chức cán bộ được thực hiện theo

những nội dung sau [23, Điều 1]:

- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, đề án kiện toàn đội ngũ công chức,

viên chức và người lao động.

- Quản lý vị trí việc làm, cơ cấu, biên chế công chức, số lượng viên

chức, người lao động theo quy định của pháp luật.

- Quản lý tiêu chuẩn đối với công chức, viên chức, người lao động

thuộc phạm vi quản lý.

- Tuyển dụng, tiếp nhận, sử dụng công chức, viên chức, người lao động

thuộc thẩm quyền quản lý.

- Đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức, người lao động.

- Điều động, luân chuyển, biệt phái, cho chuyển công tác, bổ nhiệm, bổ

nhiệm lại, miễn nhiệm, cho từ chức, cho thôi giữ chức vụ.

- Bổ nhiệm ngạch, thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp và các chế độ

chính sách đãi ngộ khác đối với công chức, viên chức, người lao động thuộc

24

thẩm quyền quản lý.

- Khen thưởng, kỷ luật hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng, kỷ

luật đối với công chức, viên chức, người lao động theo quy định của pháp luật.

- Cho thôi việc, nghỉ công tác hưởng chế độ hưu trí, nghỉ phép, nghỉ

công tác không hưởng lương, cử công chức, viên chức, người lao động đi

công tác, cho phép đi nước ngoài về việc riêng.

- Quản lý hồ sơ công chức, viên chức, người lao động.

- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp luật về công

chức, viên chức, người lao động.

- Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về thực hiện quy định của pháp

luật về công chức, viên chức, người lao động.

- Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo phân cấp và theo quy định của

pháp luật.

- Các nội dung quản lý khác đối với công chức, viên chức, người lao

động theo quy định của pháp luật.

1.1.6.2. Quản lý về công tác kinh phí, ngân sách

Căn cứ Thông tư số 03/2011/TT-BTP ngày 17/01/2011 của Bộ Tư pháp

về phân cấp quản lý tài chính, tài sản, đâu tư xây dựng cơ bản cho Tổng cục

Thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự, việc quản lý ngân sách

được trao cho các cá nhân có thẩm quyền, bao gồm: Bộ trưởng Bộ Tư pháp,

Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục trưởng Cục Thi hành án

dân sự và Chủ tài khoản của các đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách. Cũng

theo quy định tại Thông tư này, hệ thống quản lý ngân sách đối với thi hành

án dân sự được chia thành bốn cấp; bao gồm:

- Đơn vị dự toán cấp I: Bộ Tư pháp; trong đó, Bộ trưởng là chủ tài

khoản, Cục Kế hoạch - Tài chính là đơn vị tham mưu;

- Đơn vị dự toán cấp II: Tổng cục Thi hành án dân sự; trong đó, Tổng

cục trưởng là chủ tài khoản, Vụ Kế hoạch - Tài chính thuộc Tổng cục Thi

25

hành án dân sự là đơn vị tham mưu.

- Đơn vị dự toán cấp III: Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh; trong đó Cục

trưởng Cục Thi hành án dân sự là chủ tài khoản và Kế toán trưởng đóng vai

trò là người tham mưu (Hiện nay, về cơ bản các Cục Thi hành án dân sự tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Phòng Kế hoạch - Tài chính để

tham mưu giúp Cục trưởng trong công tác tài chính).

- Đơn vị dự toán trực tiếp sử dụng ngân sách là đơn vị có tổ chức bộ

máy kế toán độc lập, được giao nhiệm vụ thu, chi trực tiếp và không có đơn vị

dự toán cấp dưới trực thuộc; bao gồm: Văn phòng Tổng cục Thi hành án dân

sự (Chánh văn phòng là chủ tài khoản), Văn phòng Cục Thi hành án dân sự

(Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự là chủ tài khoản) và Chi cục Thi hành án

dân sự cấp huyện (Chi cục trưởng là chủ tài khoản).

Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự,

Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh và lãnh đạo các đơn vị dự toán trực

tiếp sử dụng ngân sách thực hiện việc quản lý tài chính, ngân sách dựa trên

nội dung phân cấp sau:

- Về quản lý tài chính, điều hành ngân sách

Nội dung quản lý này được phân cấp cho Tổng cục trưởng Tổng cục

Thi hành án dân sự và Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh. Theo

đó, người có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của

mình có trách nhiệm tổng hợp, lập dự toán thu chi ngân sách; lập phương án

phân bổ, giao dự toán thu, chi ngân sách cho các đơn vị dự toán trực thuộc;

điều chỉnh dự toán kinh phí; quyết định phương án phân bổ điều hòa phí thi

hành án dân sự, phê duyệt dự toán, quyết toán; tổ chức kiểm tra quyết toán

và quyết định chi phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai hỏa hoạn trong

phạm vi dự toán.

- Về quản lý tài sản

26

Nội dung chủ yếu của nhiệm vụ này tập trung vào các vấn đề sau: mua

sắm tài sản công, thu hồi tài sản, điều chuyển, thanh lý tài sản nhà nước,

kiểm tra, tổng hợp nhu cầu mua sắm, thu hồi, điều chuyển và thanh lý tài

sản; phê duyệt kế hoạch bảo trì, sửa chữa tài sản trong phạm vi ngân sách

được giao; tổng hợp, lập kế hoạch mua sắm tài sản và thực hiện theo kế

hoạch phê duyệt của Bộ trưởng. Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân

sự, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Thủ trưởng đơn vị trực tiếp sử

dụng ngân sách có trách nhiệm căn cứ vào quy định của pháp luật quy định

về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình để thực hiện tốt các nội dung

quản lý nhà nước về tài sản.

- Về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản

Đây là nội dung tương đối quan trọng trong việc quản lý về ngân sách

thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp. Nhiệm vụ công tác này được phân cấp

cho Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự và các Cục trưởng Cục Thi

hành án dân sự với những nội dung cụ thể như sau: Lập kế hoạch đầu tư xây

dựng cơ bản hang năm; Quyết định đầu tư và phê duyệt quyết đoán các dự án

đầu tư xây dựng mới, cải tạo, sửa chữa trụ sở làm việc, kho vật chứng; tổng

hợp lập kế hoạch phân bổ vốn đầu tư, điều hòa, điều chỉnh vốn đầu tư cho các

dự án; thông báo và quyết toán vốn đầu tư.

1.1.6.3. Quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ

Đây là nội dung quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về thi hành

án dân sự. Ở Trung ương, Bộ Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm trước

Chính phủ về hoạt động thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước; trong đó,

Tổng cục Thi hành án dân sự đóng vai trò là cơ quan tham mưu, giúp Bộ

trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý về mặt chuyên môn, nghiệp vụ theo

quy định của pháp luật. Ở phạm vi địa phương, Cục Thi hành án dân sự cấp

tỉnh là cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án dân

27

sự trên địa bàn tỉnh với những nhiệm vụ cụ thể như sau:

- Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong

hoạt động thi hành án dân sự;

- Chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân

sự cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự cho Chấp hành viên,

công chức khác của cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn;

- Kiểm tra công tác thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân

sự cấp huyện;

- Tổng kết thực tiễn thi hành án dân sự; thực hiện chế độ thống kê, báo

cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự theo hướng dẫn của cơ

quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.

1.1.6.4. Quản lý về giải quyết khiếu nại, tố cáo

Khiếu nại và tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân; đã

được ghi nhận tại Điều 30 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền khiếu

nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái

pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Đây chính là một trong những cơ sở

pháp lý quan trọng và thiết yếu để công dân thực hiện quyền làm chủ của mình

đồng thời giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước góp phần làm trong

sạch bộ máy và phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo bên cạnh việc đảm bảo lợi ích

của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân cũng là một trong

những phương thức nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân, góp phần

quan trọng trong việc bảo đảm ổn định chính trị tại địa phương.

Theo quy định hiện hành, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi

hành án dân sự được giao cho Chi cục trưởng, Cục trưởng, Tổng cục trưởng

Tổng cục Thi hành án dân sự và Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Trong đó, Thanh tra

Bộ đóng vai trò là cơ quan tham mưu, chủ trì giải quyết những khiếu nại, tố

28

cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Về nội bộ ngành thi hành án dân sự, công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo cũng được quan tâm đúng mực, thể hiện thông qua việc kiện toàn bộ máy,

nhân sự làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo từ trung ương đến địa

phương. Về tổ chức bộ máy có Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc Tổng

cục Thi hành án dân sự và Phòng kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo

thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

1.1.7. Hình thức quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự

Hình thức quản lý nhà nước là hoạt động biểu hiện ra bên ngoài của các

chủ thể quản lý trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Nói

cách khác, hình thức quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện có tính chất tổ

chức, pháp lý của những hoạt động cụ thể của các cơ quan hành chính nhà

nước nhằm thực hiện tác động quản lý. Do tính chất đa dạng của hoạt động

quản lý nhà nước nên việc xác định hình thức quản lý có hiệu quả phụ thuộc

nhiều vào các điều kiện khách quan, nội dung và tính chất của những vấn đề

cần giải quyết, những đặc điểm của đối tượng quản lý, yêu cầu cụ thể đặt ra

trước chủ thể quản lý. Đồng thời cần phải căn cứ vào các quy định của pháp

luật vì hoạt động quản lý nhà nước xét đến cùng chính là hoạt động tổ chức và

thực hiện pháp luật.

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, các cơ quan nhà nước thực hiện

nhiệm vụ quản lý của mình thông qua những hình thức sau:

- Hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật; do đó, việc ban

hành văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất

của các cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện chức năng quản lý của

mình. Văn bản được ban hành trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn

của Bộ Tư pháp có hai loại như sau:

29

+ Các văn bản đề ra chủ trương, đường lối, chính sách lớn, nhiệm vụ

chung có tính chiến lược, định hướng cho hoạt động quản lý nhà nước. Đối

với các văn bản loại này, Bộ Tư pháp giữ vai trò là cơ quan tham mưu hoặc

thẩm định các văn bản Luật như Luật Thi hành án dân sự, Luật Đấu giá… và

các văn bản dưới luật như Nghị định số 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành

Luật Thi hành án dân sự…

+ Các văn bản nhằm cụ thể và chi tiết các văn bản của cơ quan nhà

nước cấp trên. Đối với loại này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành các

Thông tư hoặc Thông tư liên tịch nhằm cụ thể hóa các quy định của pháp luật

thi hành án dân sự như Thông tư số 01/2016/TT-BTP hướng dẫn thực hiện

thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự,

Thông tư số 01/2017/TT-BTP quy định quản lý kho vật chứng, tài sản tạm giữ

trong thi hành án dân sự, Thông tư liên tịch số 07/2018/TTLT-BTP-

VKSNDTC-TANDTC quy định về việc phối hợp trong thi hành quyết định

của Tòa án giải quyết phá sản…

- Hình thức ban hành văn bản áp dụng pháp luật

Hình thức ban hành văn bản áp dụng pháp luật là việc các chủ thể quản

lý có thẩm quyền căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành để giải quyết

các vụ việc cá biệt phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước. Đây là một

hình thức hoạt động thường xuyên của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ

quan thi hành án dân sự nói riêng.

Nội dung cơ bản của hình thức này là áp dụng các quy phạm pháp luật

trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để giải quyết một hay một số vụ việc

nhất định. Việc ban hành những văn bản dạng này cũng làm phát sinh, thay

đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật nhất định.

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm chấp hành

viên, khen thưởng, kỷ luật, nâng lương, nâng ngạch… đối với cán bộ, công chức,

30

viên chức và người lao động chính là biểu hiện cụ thể của hình thức này.

- Hình thức áp dụng các hoạt động mang tính chất pháp lý khác

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, áp dụng các hoạt động mang tính

chất pháp lý khác là một trong những hình thức quan trọng và phổ biến của

hoạt động quản lý nhà nước. Hình thức quản lý này phát sinh trong những

điều kiện đã được định trước trong văn bản quy phạm pháp luật nhưng không

cần ban hành các văn bản áp dụng pháp luật. Trong thi hành án dân sự, việc

cơ quan hoặc người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện

pháp bảo đảm chính là biểu hiện cụ thể của hình thức này.

1.2. Thanh tra Bộ Tƣ pháp và vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp

trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự

1.2.1. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh

tra Bộ Tư pháp

1.2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ Tư pháp

Ngày 16/8/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 96/2017/NĐ-CP

quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.

Theo đó, Điều 1 của Nghị định này quy định như sau:

Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về: Xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy

phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự,

thi hành án hành chính, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, bồi

thường nhà nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi

phạm hành chính; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công

trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

Về cơ cấu tổ chức, Bộ Tư pháp có 27 đơn vị trực thuộc; trong đó có 22 đơn

vị là các tổ chức hành chính giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà

nước và 05 tổ chức sự nghiệp phục vụ quản lý nhà nước thuộc Bộ. Thanh tra Bộ

31

là một trong 22 đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước.

Theo Quyết định số 285/QĐ-BTP ngày 13 tháng 2 năm 2018 của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Thanh tra Bộ, Thanh tra Bộ là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, giúp Bộ

trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu

nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của

Bộ; tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành; giải quyết khiếu

nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật và phân

cấp của Bộ và Thanh tra Bộ có con dấu và tài khoản riêng mở tại Kho bạc

Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Căn cứ Quyết định số 285/QĐ-BTP ngày 13 tháng 2 năm 2018 của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:

1. Xây dựng, trình Bộ trưởng kế hoạch công tác dài hạn, 5 năm và

hàng năm của Thanh tra Bộ; tham gia xây dựng chiến lược, quy

hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, 5 năm và hàng năm của ngành

Tư pháp.

2. Chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp

luật liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra ngành Tư pháp,

các chương trình, đề án, kế hoạch về thanh tra, tiếp công dân, giải

quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng thuộc phạm vi

quản lý nhà nước của Bộ để Bộ trưởng ban hành theo thẩm quyền

hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành; tham gia xây dựng,

thẩm định, góp ý đối với các dự án, dự thảo văn bản khác do Bộ

trưởng giao.

3. Tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, đề án,

chương trình, kế hoạch về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu

nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà

32

nước của Bộ.

4. Rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật về

thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống

tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định

của pháp luật.

5. Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ,

quyền hạn được giao của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền

quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp (thanh tra hành chính).

6. Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về

chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ

quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo

quy định của pháp luật (thanh tra chuyên ngành).

7. Thực hiện thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm

pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực

tiếp của Bộ Tư pháp; xác minh, giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc

phục vụ công tác quản lý nhà nước của Bộ trưởng Bộ Tư pháp theo

thẩm quyền.

8. Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc xây dựng và thực

hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Cục Bổ trợ tư pháp,

Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực; hướng dẫn chuyên môn, nghiệp

vụ và tổ chức tập huấn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành theo quy

định pháp luật và phân cấp của Bộ.

9. Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết

định xử lý sau thanh tra của Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Cục

trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Chủ tịch Ủy ban nhân

dân cấp tỉnh đối với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước

33

của Bộ theo quy định của pháp luật.

10. Thanh tra lại vụ việc đã được Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp,

Cục trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Chủ tịch Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm

pháp luật khi được Bộ trưởng giao.

11. Chủ trì hoặc tham gia các Đoàn thanh tra liên ngành do các bộ,

ngành thành lập; trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị

có liên quan tham gia các đoàn thanh tra theo quy định của pháp luật.

12. Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc Bộ thực hiện các quy

định của pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,

tố cáo, phòng, chống tham nhũng; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, yêu

cầu các đơn vị thuộc Bộ xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc

thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo,

biện pháp xử lý tố cáo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Thủ trưởng

các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp.

13. Thực hiện tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng

ngừa, đấu tranh chống tham nhũng; chủ trì, phối hợp với các đơn vị

thuộc Bộ đề xuất các biện pháp giải quyết đối với các vụ việc khiếu

nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng theo quy

định của pháp luật và phân cấp của Bộ.

14. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử

lý vi phạm hành chính.

15. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ hoặc hủy

bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra.

16. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến

nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và

Chánh Thanh tra theo quy định của pháp luật.

34

17. Theo dõi tình hình, kết quả thực hiện, đề xuất sửa đổi, bổ sung các

chủ trương, chính sách, giải pháp, văn bản quy phạm pháp luật trong

lĩnh vực thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,

chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.

18. Tổ chức sơ kết, tổng kết và thực hiện chế độ báo cáo, thống kê

về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,

phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.

19. Tham gia nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

chức; sử dụng, khai thác trang thông tin điện tử về thanh tra, giải

quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; phổ biến, giáo

dục pháp luật thuộc phạm vi chức năng của Thanh tra Bộ và phân

cấp của Bộ.

20. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác

thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống

tham nhũng.

21. Thực hiện công tác thi đua - khen thưởng, quản lý đội ngũ công

chức, người lao động của Thanh tra Bộ theo quy định của pháp luật

và phân cấp của Bộ.

22. Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về thanh tra, giải quyết

khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của

pháp luật và phân cấp của Bộ.

23. Thực hiện chế độ tài chính, kế toán, quản lý kinh phí, tài sản

của Thanh tra Bộ theo quy định của pháp luật.

24. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác do Bộ trưởng giao

hoặc theo quy định của pháp luật.

Về cơ cấu tổ chức, hiện tại, Thanh tra Bộ có 04 Lãnh đạo Thanh tra

(Trong đó; có 01 Chánh Thanh tra và 03 Phó Chánh Thanh tra) và 05 Phòng

35

trực thuộc; bao gồm: Phòng Tổng hợp - Hành chính; Phòng Thanh tra hành

chính; Phòng Thanh tra chuyên ngành; Phòng Tiếp công dân và Giải quyết

khiếu nại, tố cáo; Phòng Giám sát, kiểm tra và xử lý sau thanh tra. Hiện nay,

có 02 phòng trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành

án dân sự; bao gồm:

+ Phòng Thanh tra Hành chính thuộc Thanh tra Bộ: là đơn vị được giao

thực hiện chức năng thanh tra theo kế hoạch đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp

phê duyệt đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, cụ thể như: công tác tổ chức,

cán bộ; công tác đầu tư xây dựng cơ bản; công tác quản lý, sử dụng kinh phí

hành chính sự nghiệp và công tác phòng, chống tham nhũng.

+ Phòng Tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc Thanh tra

Bộ được thành lập theo Quyết định số 285/QĐ-BTP ngày 13/02/2018 của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra

Bộ, Phòng Tiếp công dân Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong 05 Phòng

thuộc Thanh tra Bộ (sau khi đã thực hiện việc sáp nhập Phòng Tiếp công dân

và xử lý đơn thư và Phòng Giải quyết khiếu nại, tố cáo). Phòng Tiếp công dân

và giải quyết khiếu nại, tố cáo là đơn vị trực tiếp thực hiện các vụ việc thanh

tra đột xuất trong lĩnh vực thi hành án dân sự trong trường hợp phát hiện có

dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Ngoài ra, Phòng Tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo còn thực hiện

việc thanh tra xác minh để tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét,

giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền.

Về biên chế và cơ cấu công chức, Thanh tra Bộ hiện có 31 công chức

và người lao động gồm có 29 biên chế và 02 người lao động làm công tác văn

thư, lưu trữ và lái xe. Trong đó có 16 nam và 15 nữ; 29 đảng viên.

Theo ngạch công chức, trong số 29 biên chế, Thanh tra Bộ hiện có 12

Thanh tra viên chính (chiếm 41,4%); 11 Thanh tra viên (chiếm 38%) và 06

chuyên viên (chiếm 20,6%).

36

Về cơ cấu độ tuổi, trên 50 tuổi có 03 công chức (chiếm 10,3%), 13

công chức thuộc nhóm từ 40 đến 50 tuổi (chiếm 44,8%); 10 công chức và 01

nhân viên hợp đồng trong độ tuổi từ 30 đến 40 tuổi (chiếm 38%) và 04 người

dưới 30 tuổi (trong đó có 01 nhân viên hợp đồng, chiếm 6,9%).

Trong số 29 công chức, có 17 người vào ngành từ việc thu hút người

đang công tác tại các cơ quan, đơn vị khác; số còn lại được tuyển dụng

thông qua thi tuyển. Những công chức thu hút từ các cơ quan, đơn vị khác

như thi hành án dân sự, tòa án, kiểm sát, phòng tư pháp...đã bổ sung cho đơn

vị những cán bộ có kinh nghiệm thực tế trên các lĩnh vực khác nhau trong

các lĩnh vực thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giải quyết

khiếu nại, tố cáo.

Về cơ bản, cơ cấu tổ chức hiện nay của Thanh tra Bộ đáp ứng tương

đối tốt về yêu cầu công việc. Tuy nhiên, thực tiễn công việc trong thời gian

qua cũng đã bộc lộ một số hạn chế:

Đặc trưng của công tác thanh tra là thường xuyên phải đi công tác.

Điều này không thật sự phù hợp với phụ nữ đặc biệt là phụ nữ đang có bầu

hoặc nuôi con nhỏ trong khi đó, số lượng nữ giới của Thanh tra Bộ chiếm xấp

xỉ 50% tổng số biên chế của đơn vị.

Công tác thanh tra đặc biệt là giải quyết khiếu nại, tố cáo đòi hỏi việc

giải quyết công việc không theo lối mòn, cần có sự thay đổi theo từng hoàn

cảnh cụ thể, phù hợp với từng đối tượng thanh tra. Do đó, đội ngũ các thanh

tra viên nói chung và toàn bộ công chức làm công tác thanh tra cần có sự nhạy

bén, sự sáng tạo trong tư duy và sự mềm dẻo và linh hoạt trong hành động.

Đối chiếu với thực tế công chức Thanh tra Bộ trong giai đoạn hiện nay có thể

thấy được chưa có sự phù hợp giữa yêu cầu của công việc và cơ cấu tuổi. Cụ

thể, với yêu cầu công việc này cần những người có đủ độ chín về tuổi đời lẫn

tuổi nghề khoảng từ 40 tuổi trở lên. Độ tuổi này phù hợp để có sự thay đổi

37

linh hoạt cả trong tư duy lẫn hành động nhưng số lượng công chức trong độ

tuổi này còn tương đối ít. Tuy nhiên, trong khoảng 5 năm tới đây, Thanh tra

Bộ sẽ có đội ngũ kế cận tương đối đông đúc.

1.2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ Tư pháp

Tương tự như các đơn vị có chức năng quản lý nhà nước khác của Bộ

Tư pháp, Thanh tra Bộ có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong hầu hết các

nội dung quản lý nhà nước. Cụ thể như sau [11, Điều 2]:

- Quản lý về tổ chức cán bộ và cơ sở vật chất

Nội dung quản lý này của Thanh tra Bộ tập trung chủ yếu vào phần lớn

vào việc xây dựng chiến lược phát triển của ngành; xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật liên quan đến công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại tố

cáo; chú trọng đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng và phát triển con người. Để làm

tốt công tác trên, căn cứ vào đề xuất của Chánh thanh tra, Bộ trưởng Bộ Tư

pháp đã tin tưởng và giao Thanh tra Bộ những nhiệm vụ cụ thể sau:

- Xây dựng, trình Bộ trưởng kế hoạch công tác dài hạn, 5 năm và hàng

năm của Thanh tra Bộ; tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

phát triển dài hạn, 5 năm và hàng năm của ngành Tư pháp;

- Chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên

quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra ngành Tư pháp, các chương trình, đề

án, kế hoạch về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,

chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ để Bộ trưởng ban

hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành; tham gia

xây dựng, thẩm định, góp ý đối với các dự án, dự thảo văn bản khác do Bộ

trưởng giao;

- Tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, đề án, chương

trình, kế hoạch về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,

chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ;

38

- Rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật về thanh

tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng

thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật;

- Tham gia nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức;

sử dụng, khai thác trang thông tin điện tử về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố

cáo và phòng, chống tham nhũng; phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc phạm vi

chức năng của Thanh tra Bộ và phân cấp của Bộ;

- Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác thanh tra,

tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng.

- Quản lý về chuyên môn nghiệp vụ

Để công tác thanh tra của ngành tư pháp phát triển theo đúng lộ trình đã

đề ra và hạn chế đến mức thấp nhất số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo,

Thanh tra Bộ có trách nhiệm quản lý về mặt chuyên môn, nghiệp vụ đối với

Thanh tra các Sở Tư pháp, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp nói chung và cơ quan

được giao chức năng thanh tra chuyên ngành nói riêng. Các nhiệm vụ cụ thể

của Thanh tra Bộ bao gồm:

- Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc xây dựng và thực hiện kế

hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Cục Bổ trợ tư pháp, Cục Hộ tịch, quốc

tịch, chứng thực; hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ và tổ chức tập huấn

nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành theo quy định pháp luật và phân cấp của Bộ;

- Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định

xử lý sau thanh tra của Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Cục trưởng Cục Hộ

tịch, quốc tịch, chứng thực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với vụ việc

thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật;

- Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc Bộ thực hiện các quy định của

pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,

chống tham nhũng; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, yêu cầu các đơn vị thuộc Bộ

39

xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc thực hiện quyết định giải quyết

khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo, biện pháp xử lý tố cáo của Bộ trưởng Bộ

Tư pháp và Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp;

- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ hoặc hủy bỏ

quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra;

- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị,

quyết định xử lý về thanh tra của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh Thanh tra

theo quy định của pháp luật;

- Theo dõi tình hình, kết quả thực hiện, đề xuất sửa đổi, bổ sung các

chủ trương, chính sách, giải pháp, văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực

thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham

nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ;

- Tổ chức sơ kết, tổng kết và thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về

công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống

tham nhũng theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về thanh tra, giải quyết khiếu

nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật và phân

cấp của Bộ.

- Thực hiện chế độ tài chính, kế toán, quản lý kinh phí, tài sản của

Thanh tra Bộ theo quy định của pháp luật.

- Về khen thưởng và xử lý vi phạm

Khen thưởng và xử lý vi phạm là một trong số những nội dung chính

của công tác quản lý nhà nước. Riêng đối với Thanh tra Bộ, ngoài việc thực

hiện công tác thi đua khen thưởng đơn thuần theo quy định của pháp luật và

phân cấp của Bộ, Thanh tra Bộ còn thực hiện việc xử phạt vi phạm hành

chính theo quy định của pháp luật. Đây là một trong những công việc tương

đối quan trọng trong hoạt động thanh tra của Thanh tra Bộ. Qua thanh tra,

40

khi phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra, căn

cứ vào quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản có liên

quan, Chánh Thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra và các thanh tra viên thực

hiện việc lập biên bản vi phạm hành chính và ban hành Quyết định xử phạt

theo thẩm quyền.

- Thực hiện thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo

Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo là công tác chủ yếu của

Thanh tra Bộ. Căn cứ vào khảo sát hàng năm, Thanh tra Bộ có trách nhiệm

trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp để phê duyệt Kế hoạch thanh tra; trong đó tập

trung vào 02 mảng chính là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.

Riêng đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Bộ căn cứ vào

tình hình, số lượng đơn, thư năm trước và dự báo tình hình, xu hướng

tăng/giảm của vụ việc để trình Bộ trưởng dự kiến số lượng đoàn giải quyết

khiếu nại trong năm. Bên cạnh đó, trong phạm vi chức năng của mình,

Thanh tra Bộ còn có trách nhiệm trong việc thanh tra lại đối với các vụ việc

đã được Thủ trưởng cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành

của Bộ Tư pháp và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh kết luận trong trường hợp

phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và được Bộ trưởng giao. Công tác

thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Bộ tập trung chủ yếu

vào những nhiệm vụ, công việc cơ bản sau:

- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền

hạn được giao của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp

của Bộ Tư pháp (thanh tra hành chính).

- Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về

chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức,

cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật

(thanh tra chuyên ngành).

41

- Thực hiện thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp

luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ Tư

pháp; xác minh, giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc phục vụ công tác quản lý

nhà nước của Bộ trưởng Bộ Tư pháp theo thẩm quyền.

- Thanh tra lại vụ việc đã được Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Cục

trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp

tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Bộ

trưởng giao.

- Chủ trì hoặc tham gia các Đoàn thanh tra liên ngành do các bộ, ngành

thành lập; trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị có liên quan

tham gia các đoàn thanh tra theo quy định của pháp luật.

- Thực hiện tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng

ngừa, đấu tranh chống tham nhũng; chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc

Bộ đề xuất các biện pháp giải quyết đối với các vụ việc khiếu nại, tố cáo

thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng theo quy định của pháp luật và

phân cấp của Bộ.

1.2.2. Vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về

thi hành án dân sự

1.2.2.1. Thanh tra bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong

thi hành án dân sự

Có nhiều cách khác nhau để phân loại chức năng quản lý nhà nước tuy

nhiên về cơ bản, quản lý nhà nước có ba chức năng chính như sau: ra quyết

định quản lý, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện quyết định.

Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành và nhu cầu của công tác

quản lý, các chủ thể quản lý ban hành các Quyết định để giải quyết các cấp thiết.

Đây là sản phẩm đặc biệt và sáng tạo của chủ thể quản lý và có ở tất cả các cấp

quản lý; tuy nhiên đây mới chỉ là điểm khởi đầu của cả quá trình quản lý.

42

Giai đoạn tiếp theo của quá trình quản lý chính là việc thực hiện và

kiểm tra việc thực hiện quyết định. Trong giai đoạn này, chủ thể quản lý phải

thực hiện một chuỗi các công việc như: công khai, lập kế hoạch tổ chức thực

hiện và cuối cùng là kiểm tra và tổng kết tình hình thực hiện quyết định. Kiểm

tra là hoạt động rất quan trọng ở giai đoạn này bởi nó có nhiệm vụ phát hiện

những thiếu sót, bất cập so với yêu cầu cũng như tình hình thực tế tại thời

điểm thực hiện quyết định. Thông qua hoạt động kiểm tra, chủ thể quản lý có

thể tìm ra nguyên nhân của những bất cập, hạn chế và trên cơ sở đó đề ra

những giải pháp phù hợp đảm bảo công tác quản lý đạt hiệu quả cao nhất.

Trong một số hoàn cảnh, trường hợp nhất định, hoạt động kiểm tra có

thể đáp ứng được yêu cầu cơ bản của công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, ở

cấp độ cao hơn, công tác quản lý nhà nước đòi hỏi một phương pháp kiểm

chứng không chỉ là phát hiện sai phạm mà còn phải tìm ra nguyên nhân, vấn

đề mang tính bản chất và xác định chính xác trách nhiệm của từng cơ quan, tổ

chức, cá nhân.

Hoạt động thanh tra ra đời với tư cách là một phương thức kiểm tra và

là công cụ hữu hiệu trọng công tác quản lý nhà nước. Khác với kiểm tra,

thanh tra đã đáp ứng những yêu cầu mới của thực tiễn quản lý nhà nước như

thu thập và xử lý; nhận xét và đánh giá, phân tích tổng hợp nguyên nhân, dữ

liệu, số liệu nhiều hơn, phức tạp hơn. Thanh tra việc thực hiện các quyết định

mình đã ban hành là một công đoạn không thể thiếu trong quá trình thực hiện

chức năng quản lý nhà nước của các chủ thể quản lý. Chính vì vậy, thanh tra

được xác định là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước.Tuy nhiên, để xác

định Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi

hành án dân sự, cần xác định rõ một số nguyên tắc sau:

Thứ nhất, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và pháp luật.

Căn cứ quy định tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật,

43

Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị cao nhất. Trong hệ thống pháp luật

nói chung và hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng, các văn bản

pháp luật luôn tồn tại trong mối quan hệ phụ thuộc và quy định lẫn nhau.

Những văn bản pháp luật và dưới luật phụ thuộc vào Hiến pháp và được ban

hành trên cơ sở Hiến pháp.Đó chính là quá trình cụ thể hóa Hiến pháp và

đương nhiên, không có quá trình này những quy định của Hiến pháp sẽ khó đi

vào đời sống xã hội.

Đây là nguyên tắc mang tính tất yếu, khách quan đảm bảo tính thống

nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển và

ngày càng hoàn thiện làm cơ sở để củng cố và tăng cường pháp chế.

Nguyên tắc này cũng là điều kiện đảm bảo hoạt động lập pháp, lập quy

được đúng đắn, kịp thời, đúng thẩm quyền, thể hiện được ý chí và quyền lực

của Nhà nước trong tổ chức và điều hành hoạt động xã hội. Khi thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của mình, cơ quan nhà nước cấp dưới phải phục tùng cơ quan

nhà nước cấp trên và đương nhiên các văn bản do các cơ quan cấp dưới ban

hành không chỉ phù hợp với Hiến pháp, luật mà còn phải tuân theo các văn bản

của cơ quan cấp trên. Đây chính là tính phụ thuộc giữa cơ quan nhà nước các

cấp mà Lê-nin đã từng nhấn mạnh: “Bất cứ quyết định nào của các cơ quan

hành chính địa phương nào cũng không được đi ngược lại pháp luật”.

Thứ hai, tôn trọng, đề cao sự thỏa thuận của các đương sự và sự tự

nguyện của người phải thi hành án

Xuất pháp từ nguyên tắc tôn trọng thoả thuận của các đương sự trong

các quan hệ dân sự, pháp luật về thi hành án dân sự cũng tôn trọng và đề cao

sự thỏa thuận của các đương sự nếu những thỏa thuận đó không trái với quy

định của pháp luật và đạo đức xã hội. Trong những trường hợp này cơ quan

thi hành án dân sự chỉ sử dụng quyền lực do nhà nước trao khi thỏa thuận đó

không được tôn trọng và bên bị vi phạm có đơn yêu cầu. Điều 6 Luật Thi

44

hành án dân sự quy định như sau về việc thỏa thuận thi hành án như sau:

1. Đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả

thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo

đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thoả thuận được công nhận.

Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng

kiến việc thoả thuận về thi hành án; 2. Trường hợp đương sự không

thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án

dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung

bản án, quyết định.

Ngoài ra, pháp luật về thi hành án dân sự cũng khuyến tinh thần tự

nguyện thi hành án của đương sự. Cơ quan thi hành án dân sự chỉ áp dụng các

biện pháp cưỡng chế trong những trường hợp thật sự cần thiết nhằm đảm bảo

việc thi hành án đạt hiệu quả cao, ít tốn kém. Điều 9 Luật Thi hành án dân sự

quy định: “1. Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án; 2.

Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành

thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”. Thời hạn tự

nguyện thi hành án là 15 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được

hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án [37, Điều 45, Khoản 1].

Thứ ba, bảo đảm sự phối hợp hành động giữa các cơ quan thi hành án

dân sự với các cấp chính quyền, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội

trong quá trình tổ chức thi hành án.

Khác với các hoạt động thực hiện pháp luật khác, hiệu quả của hoạt

động thi hành án dân sự không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của các cơ quan thi

hành án dân sự, các Chấp hành viên mà trong nhiều trường hợp còn phụ thuộc

vào sự tham gia của chính quyền địa phương, của các cơ quan, tổ chức và cá

nhân có liên quan đặc biệt là lực lượng công an.Trong quá trình tổ chức thi

hành án, chính quyền cơ sở đóng vai trò là đơn vị giúp Chấp hành viên hoàn

45

thành nhiệm vụ xác minh về nhân thân, gia đình và hoàn cảnh kinh tế của

người phải thi hành án; giúp đỡ về chủ trương, lực lượng, phương tiện để

cưỡng chế thi hành án. Lực lượng công an nhân dân đóng vai trò quan trọng

trong việc giữ gìn trật tự, ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối trong

quá trình cưỡng chế thi hành án.

Chính vì vậy, thanh tra là chức năng thiết yếu trong việc quản lý nhà nước

nói chung và quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng.

Ở một khía cạnh khác, hoạt động thanh tra, xét đến cùng, chính là quá

trình đánh giá, nhận xét tình hình và các kết quả thực hiện quyết định quản lý,

để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất lượng quản lý. Thông qua kết quả

thanh tra, quyết định quản lý của cơ quan quản lý nhà nước có thể bị sửa đổi,

bổ sung thậm chí hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ. Trong trường hợp nội dung

và chất lượng quyết định quản lý được thực tế kiểm nghiệm là đúng là phù

hợp nhưng đối tượng thi hành vẫn không tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh

thì khi đó hoạt động thanh tra, kiểm tra phải phục vụ cho việc làm rõ nguyên

nhân, xác định rõ trách nhiệm để chấn chỉnh hoặc xử lý.

Với ý nghĩa đó, thanh tra không chỉ là một trong những phương thức

đảm bảo các quyết định quản lý được tuân thủ một cách nghiêm túc mà còn

góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước; trong đó

có quản lý nhà nước về thi hành án dân sự [44, tr. 3, 8].

1.2.2.2. Thanh tra là phương thức bảo đảm tuân thủ pháp luật trong thi

hành án dân sự và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.

Để hoạt động thanh tra là một phương thức bảo đảm tuân thủ pháp luật

trong lĩnh vực thi hành án dân sự, trước hết phải xác định vai trò của hoạt

động thi hành án dân sự, thể hiện qua những nguyễn tắc sau:

Thứ nhất, đảm bảo các Bản án, Quyết định được thi hành trên thực tế.

46

Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa

án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn

trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.

Tuy nhiên, như đã trình bày, việc thi hành án không chỉ dừng lại ở việc bảo

đảm các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân được thực thi trên thực tế

mà còn bao gồm các Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và

Trọng tài thương mại theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự. Về

bản chất, quá trình tác nghiệp của Chấp hành viên thực chất là việc áp dụng

các biện pháp thi hành án để đảm bảo nội dung hiến định đồng thời hướng tới

mục tiêu bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như quyền, lợi ích hợp pháp cho

các cá nhân và tổ chức khác.

Tuy nhiên, với tính chất đặc thù của một hoạt động liên quan đến quyền

con người, quyền sở hữu tài sản, thi hành án dân sự cũng chính là một trong

những hoạt động tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến việc xâm phạm quyền con

người, quyền công dân. Chính vì thế, Nhà nước cần phải có quy định về cơ

chế giám sát, kiểm tra đối với hoạt động thi hành án dân sự. Theo quy định

của pháp luật hiện nay, việc kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án được

giao cho rất nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức như: Quốc hội, Hội đồng nhân

dân, Mặt trận Tổ quốc, Ban chỉ đạo thi hành án.... Đối với cơ quan Bộ Tư

pháp, công tác thanh tra, kiểm tra cũng được lãnh đạo Bộ đặc biệt quan tâm.

Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh Thi

hành án dân sự năm 2004 và Luật Thi hành án dân sự năm 2008, công tác

thanh tra, kiểm tra lĩnh vực thi hành án dân sự được quy định cụ thể sau:

+ Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (nay là Tổng cục THADS)

thực hiện việc kiểm tra định kỳ theo kế hoạch hoặc kiểm tra đột xuất công tác

thi hành án dân sự, đồng thời thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo

thẩm quyền đối với các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.

+ Thanh tra Bộ tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc

47

thanh tra theo kế hoạch trong lĩnh vực nghiệp vụ thi hành án dân sự đối với

các cơ quan thi hành án dân sự địa phương (Kế hoạch thanh tra được Bộ

trưởng phê duyệt trên cơ sở đề xuất của Thanh tra Bộ). Ngoài ra, Thanh tra

Bộ còn thực hiện việc thanh tra đột xuất đối với các cơ quan thi hành án,

Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án trong trường hợp phát

hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Đồng thời, Thanh tra Bộ còn tham mưu

cho Bộ trưởng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.

Tuy nhiên, hiện nay theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 thì Thanh tra Bộ không còn thực

hiện chức năng thanh tra theo kế hoạch về lĩnh vực nghiệp vụ thi hành án mà

chỉ thực hiện chức năng thanh tra đột xuất đối với các cơ quan thi hành án dân

sự địa phương trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và

thực hiện việc thanh tra xác minh để tham mưu cho Bộ trưởng trong việc giải

quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.

Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động bảo vệ quyền lợi của người

được thi hành án được xác định trong bản án, quyết định

Quyền lợi của người được thi hành án được bảo vệ bằng dưới hai hình

thức: do các đương sự tự thỏa thuận thực hiện hoặc được nhà nước bảo đảm

bằng quyền lực nhà nước.Như đã trình bày ở phần trên, các quy định của pháp

luật tôn trọng sự tự nguyện và cho phép các đương sự được quyền thỏa thuận

trong thi hành án. Xuất phát từ nguyên tắc “Vấn đề dân sự, thương sự cốt ở

hai bên”, trong mọi giai đoạn của quá trình thi hành án, các đương sự đều có

quyền thỏa thuận, định đoạt các vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền và

nghĩa vụ trong bản án, quyết định.Và nhà nước tôn trọng sự thỏa thuận

đó.Pháp luật tôn trọng việc tự giải quyết giữa các bên có tác dụng làm giảm

gánh nặng của cơ quan thi hành án, làm tăng tình đoàn kết giữa hai bên và

phù hợp với truyền thống của người Việt Nam khuyến khích hòa giải ở bất kỳ

48

giai đoạn nào.

Mặt khác trong trường hợp các đương sự không tự nguyện thi hành án

hoặc không tôn trọng sự thỏa thuận trước đó, Nhà nước mà đại diện ở đây là

cơ quan thi hành án và Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành sử dụng

quyền lực nhà nước như một công cụ hữu hiệu để bảo vệ pháp chế xã hội chủ

nghĩa và quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khác với nhiều nước trên

thế giới, ở Việt Nam, Tòa án nhân dân không được giao nhiệm vụ thi hành án

mà công việc này được trao cho cơ quan thi hành án dân sự các cấp tuy nhiên

điểm chung trong pháp luật các nước, đó là đảm bảo kiểm soát việc sử dụng

biện pháp chế tài trong thi hành án dân sự bằng các biện pháp cưỡng chế.

Nhân danh Nhà nước, các cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên thực

hiện quyền lực này. Áp dụng các biện pháp cưỡng chế đương nhiên là quyền

chuyên biệt của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên; do đó, mọi cá nhân,

tổ chức khác không được phép sử dụng quyền lực để buộc người khác thực

hiện nghĩa vụ của họ nếu pháp luật không cho phép.

Thứ ba, góp phần nâng cao chất lượng của bản án, quyết định

Các Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự

phải được tôn trọng và thi hành. Ngược lại, chính hoạt động thi hành án cũng

góp phần củng cố, hoàn thiện công tác xét xử. Thông qua việc áp dụng các

biện pháp thi hành án, nếu có sai sót trong bản án, quyết định được thi hành,

cơ quan thi hành án sẽ có những kiến nghị thích hợp, giúp cho cơ quan ra bản

án, quyết định có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm trong việc áp

dụng pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng của bản án, quyết định. Điểm đ

Khoản 1 Điều 23 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng cơ quan thi

hành án dân sự (Cục trưởng và Chi cục trưởng) có nhiệm vụ, quyền hạn trong

việc “Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm

hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật”.

Thứ tư, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân

49

Khác với thi hành án hình sự, cơ chế tự thỏa thuận trong thi hành án

dân sự có tác động tích cực đến quyền, lợi ích của các bên đương sự, cụ thể:

người được thi hành án sớm khôi phục lại quyền lợi của mình; người phải thi

hành án có thể giảm được một phần nghĩa vụ theo bản án, quyết định đặc biệt

giảm được các thiệt hại về vật chất so với trường hợp cơ quan thi hành án tổ

chức thi hành như chi phí cưỡng chế thi hành án, lãi suất chậm thi hành án.

Những quy định như vậy sẽ thúc đẩy các đương sự ý thức tự nguyện trong

việc thi hành án, cũng như thái độ, ý thức khi thỏa thuận với nhau trong việc

thực hiện quyền, nghĩa vụ trong bản án, quyết định. Việc quy định rõ ràng về

quyền tự thỏa thuận giữa các đương sự là một công cụ quan trọng trong việc

phổ biến, giáo dục pháp luật đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật

trong nhân dân.

Với tư cách là chức năng quản lý, thanh tra chính là hoạt động xem xét

tính hợp pháp trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Phòng ngừa, phát hiện, xử lý những vi phạm pháp luật, bảo đảm để các cơ

quan, tổ chức, cá nhân tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ và

nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước là mục đích tối thượng của công tác thanh

tra. Trong trường hợp các đối tượng bị quản lý thực hiện chưa đúng các quy

định của pháp luật, cơ quan thanh tra chính là đơn vị giúp họ sửa chữa, khắc

phục hoặc có chế tài xử lý vi phạm trong trường hợp cần thiết.

Tuy nhiên, trên thực tế không ít trường hợp vi phạm pháp luật có

nguyên nhân bắt nguồn từ sự thiếu trách nhiệm dẫn đến vi phạm hoặc cố tình

vi phạm. Những trường hợp đó đòi hỏi cơ quan thanh tra phải có hình thức xử

lý nghiêm khắc, mạnh mẽ và tương xứng với hành vi để cho đối tượng quản

lý phải sửa chữa những vi phạm pháp luật và việc xử lý đó còn có tác dụng

lâu dài đến đối tượng quản lý đó cũng như mang tính chất răn đe đối với các

đối tượng quản lý khác.

Tóm lại, sự vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là một thực tế với

50

nhiều lý do khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, chủ thể quản lý còn có thể

áp dụng nhiều biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Các biện

pháp đó đều được thực hiện thông qua công tác thanh tra. Công tác thanh tra

góp phần đánh giá được việc chấp hành pháp luật và mức độ vi phạm của cơ

quan, tổ chức, cá nhân và từ đó, đề ra những biện pháp xử lý thích hợp. Trong

lĩnh vực thi hành án dân sự, Thanh tra Bộ xác định là một lĩnh vực phức tạp

của ngành, do vậy định kỳ hàng năm đề thực hiện việc khảo sát kỹ lưỡng tại địa

phương để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch thanh tra trình Bộ trưởng phê

duyệt, sao cho phù hợp với tình hình an ninh, chính trị tại địa phương.

Đối với các trường hợp thanh tra đột xuất trong trường hợp phát hiện

có dấu hiệu vi phạm pháp luật, hoặc thực hiện việc thanh tra theo chỉ đạo của

Lãnh đạo Bộ Tư pháp, thì trong quá trình thanh tra, Thanh tra Bộ cũng xem

xét, đánh giá một các kỹ lưỡng và khách quan các tình tiết của vụ việc đối

chiếu với các văn bản quy phạm pháp luật và tính chất đặc thù của địa phương

để ban hành kết luận thanh tra.

Sau khi ban hành Kết luận thanh tra, Thanh tra Bộ cũng chú trọng đến vấn

đề thực hiện kết luận thanh tra theo quy định tại Nghị định số 33/2015/NĐ-CP

ngày 27/3/2015 quy định về việc thực hiện kết luận thanh tra. Việc đôn đốc

các đối tượng được thanh tra nghiêm túc, khẩn trương thực hiện đúng nội

dung của kết luận thanh tra và thực hiện việc giám sát, kiểm tra sau thanh tra

là phương thức bảo đảm tuân thủ pháp luật trong thi hành án dân sự. Thông

qua hoạt động thanh tra đã kiến nghị các cấp có thẩm quyền xử lý nhiều vi

phạm pháp luật, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách phù hợp với yêu cầu thực

tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.

1.2.2.3. Thanh tra là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn

và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự

Vai trò quan trọng nhất của công tác thanh tra không phải là phát

hiện và xử lý các hành vi vi phạm mà thanh tra đóng vai trò như một biện

51

pháp phòng ngừa hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật. Tính phòng ngừa

của thanh tra đối với các hành vi vi phạm pháp luật được thể hiện ở những

khía cạnh sau:

Một là, thanh tra cùng với các phương thức kiểm tra, giám sát luôn luôn

là hiện thân của kỷ cương pháp luật. Chính sự hiện diện của các cơ quan

thanh tra, kiểm tra, giám sát đã là một sự nhắc nhở thường xuyên, đối với tất

cả các đối tượng chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát rằng: pháp luật cần phải

được tuân thủ. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát định kỳ, thường xuyên hay

đột xuất luôn luôn tạo ra một sức ép thường trực lên các đối tượng và nhờ đó,

nó đã hạn chế sự vi phạm pháp luật.

Thanh tra không chỉ có chức năng bảo đảm pháp chế mà còn có chức

năng tìm hiểu, giúp đỡ, hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định

của pháp luật. Điều này sẽ càng trở nên quan trọng nếu chúng ta quan niệm về

một nhà nước làm dịch vụ công. Khi đó các cơ quan chức năng tham gia kiểm

tra, giám sát sẽ thực sự trở thành một trong những địa chỉ mà các cơ quan,

đơn vị, doanh nghiệp, công dân… trong cậy để có thể nhận được những

khuyến nghị, những chỉ dẫn bảo đảm cho hoạt động của mình đúng pháp luật.

Hai là, thanh tra, kiểm tra, giám sát luôn là cách thức phân tích, mổ xẻ

một cách sâu sắc đầy đủ nhất về nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất,

mức độ của hành vi vi phạm. Do vậy, các giải pháp (các khuyến nghị, kiến

nghị, yêu cầu, quyết định xử lý về thanh tra…) được đưa ra từ hoạt động

thanh tra, kiểm tra, giám sát không chỉ hướng vào việc xử lý hành vi vi phạm

pháp luật mà nó phát hiện được mà nó còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở

của chính, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những vi phạm

pháp luật tương tự xảy ra ở một nơi khác hoặc vào một thời điểm khác.

Ba là, thanh tra luôn có tính định hướng và tính xây dựng. Vai trò phòng

52

ngừa của thanh tra được đề cập ở đây là vai trò phòng ngừa mang tính chủ

động. Trong rất nhiều trường hợp, qua thanh tra mà có thể dự báo được một

hành vi vi phạm sẽ xảy ra trong tương lai nếu không có sự chấn chỉnh, không

có sự định hướng lại cho các đối tượng một các kịp thời.

Với bản chất dân chủ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân,

do dân và vì dân; pháp luật là để thể hiện ý chí của nhân dân cho nên thanh tra

góp phần tăng cường pháp chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà ước

và ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật cũng chính

là góp phần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa [44, tr.3, 8].

Để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự, từ tháng 7/2011 đến 05/2017,

Thanh tra Bộ đã tiến hành 99 cuộc thanh tra, trong đó gồm: 68 cuộc thanh tra

hành chính theo kế hoạch và 31 cuộc thanh tra đột xuất, qua thanh tra đã phát

hiện những tồn tại, thiếu sót, vi phạm [49].

Trong năm 2018, Thanh tra Bộ đã triển khai 10 cuộc thanh tra hành

chính theo kế hoạch; 10 Tổ/Đoàn xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo; và 22

cuộc thanh tra xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo [46].

Qua thanh tra đã phát hiện những tồn tại, vi phạm trong công tác phòng,

chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác tổ chức cán bộ; việc

quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công của các cơ quan THADS như:

+ Việc giới thiệu cán bộ vào quy hoạch còn khép kín trong hệ thống

các cơ quan THADS địa phương, chưa đưa vào quy hoạch những cán bộ,

công chức có đủ điều kiện, tiêu chuẩn và triển vọng đang công tác ở các cơ

quan, đơn vị khác tại địa phương;

+ Đối với công tác xây dựng cơ bản, Chủ đầu tư - cơ quan thi hành án

dân sự nơi xây dựng trụ sở chưa sát sao trong việc giám sát đối với đơn vị thi

công công trình do không có kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng nên một số

53

hạng mục công trình chưa đảm bảo kỹ thuật;

+ Công tác quản lý trong lĩnh vực được giao, các đơn vị chưa thực hiện

nghiêm túc, còn để lại một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục;

+ Việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công vẫn còn thiếu sót, một

số văn bản, chứng từ thanh toán vẫn chưa hoàn thiện đầy đủ;

+ Trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng cơ quan thi

hành án dân sự địa phương còn một số hạn chế như chưa ban hành, niêm yết

và công bố trên trang thông tin điện tử của Cục đối với Quy trình tiếp công

dân và Quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định tại

khoản 1 Điều 19 Luật Tiếp công dân; tài liệu trong các hồ sơ giải quyết khiếu

nại, tố cáo chưa được sắp xếp gọn gàng, khoa học, một số vụ việc giải quyết

khiếu nại, tố cáo thực hiện còn chậm so với quy định.

Qua các cuộc thanh tra nói trên, Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp đã ban

hành 09 Quyết định thu hồi tiền về ngân sách nhà nước với tổng số tiền là

1.592.233.757 đồng.

Đối với công tác thanh tra đột xuất và thanh tra xác minh giải quyết

khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Bộ đã phát hiện, xử lý và kiến nghị xử lý đối với

nhiều hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhiều tổ chức, cá nhân, cụ thể:

+ Việc ban hành Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu khi thời hiệu

yêu cầu thi hành án đã hết và người được thi hành án không chứng minh được

trở ngại khách quan. Qua thanh tra đã kết luận rõ việc ban hành Quyết định

khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án và Quyết định thi hành án theo đơn

yêu cầu của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự là vi phạm pháp luật, qua đó

đã tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định giải quyết

khiếu nại lần thứ hai, có nội dung: “Chấp nhận nội dung khiếu nại và hủy bỏ

Quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án và Quyết định thi hành án

54

theo đơn yêu cầu của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự”.

+ Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của

người phải thi hành án là quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm. Đây là

loại tài sản Chấp hành viên không được quyền kê biên, mà chỉ được quyền

kê biên tài sản gắn liền trên đất. Tuy nhiên, một số Chấp hành viên vẫn cố

tình hợp thức hóa hồ sơ, thậm trí làm giả, sửa chữa các Quyết định về thi

hành án để kê biên, bán đấu giá tài sản, gây thiệt hại nhiều tỷ đồng của

người phải thi hành án và người có quyền, lợi ích liên quan. Thanh tra Bộ,

đã kết luận rõ các hành vi vi phạm pháp luật, qua đó đã kiến nghị Bộ trưởng

chỉ đạo Tổng cục Thi hành án dân sự hủy bỏ kết quả thi hành án và tổ chức

thi hành án lại, thậm trí có trường hợp do có động cơ do trục lợi, thiếu trách

nhiệm, nên Thanh tra Bộ đã thực hiện chuyển cơ quan điều tra có thẩm

quyền để khởi tố vụ án điều tra các hành vi vi phạm pháp luật của Chấp

hành viên và công chức thi hành án được quy định tại Khoản 5 Điều 1

Thông tư liên tịch số 03/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP-TTCP ngày

18/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc

phòng và Thanh tra Chính phủ quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra,

Viện kiểm sát, cơ quan thanh tra trong việc trao đổi thông tin về tội phạm và

giải quyết kiến nghị khởi tố được phát hiện qua hoạt động thanh tra.

+ Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên và bán đấu giá

tài sản là khoáng sản, hiện Ngân hàng đang nhận thế chấp. Qua thanh tra, đã

kết luận rõ việc Chấp hành viên đã có một số vi phạm như: không xác minh

điều kiện thi hành án, không ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án nơi

có tài sản để giải quyết và quan trọng là Chấp hành viên chỉ ban hành Quyết

định thu giữ tài sản nhưng không thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên tài

sản mà đã định giá và bán đấu giá, gây thiệt hại tài sản của bên nhận thế chấp.

Qua thanh tra, Thanh tra Bộ đã kiến nghị xử lý kỷ luật Chấp hành viên và Lãnh

55

đạo cơ quan thi hành án, đồng thời kết luận cơ quan thi hành án thực hiện việc

bồi thường thiệt hại số tiền hơn 12 tỷ đồng, do hành vi của Chấp hành viên gây

ra, theo quy định tại Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

+ Chấp hành viên không trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án tại

nơi có tài sản và không xác minh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với

các loại tài sản buộc phải đăng ký là vi phạm Điều 6 Nghị định số 58/NĐ-CP

ngày 13/7/2009 của Chính phủ [23, Điều 6, Khoản 4]. Do không xác minh

điều kiện thi hành án trực tiếp tại nơi có tài sản và không xác minh điều kiện

thi hành án tại cơ quan có thẩm quyền nên Chấp hành viên đã áp dụng biện

pháp cưỡng chế kê biên và bán đấu giá tài sản của người phải thi hành án,

trong đó có loại tài sản không được kê biên (ngôi mộ của dòng họ). Qua thanh

tra, Thanh tra Bộ đã kết luận rõ sai phạm, đồng thời kiến nghị xử lý kỷ luật

Chấp hành viên và yêu cầu Chấp hành viên khởi kiện ra Tòa án để hủy kết

quả bán đấu giá tài sản theo quy định tại Khoản Điều 102 Luật Thi hành án dân sự [41, Điều 102, Khoản 2].

1.3. Các điều kiện đảm bảo vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp

trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự

Tương tự như hoạt động quản lý nhà nước nói chung, trong lĩnh vực thi

hành án dân sự, để công tác quản lý nhà nước của Thanh tra Bộ đạt hiệu quả

cao nhất, cần đảm bảo bốn điều kiện như sau:

Thứ nhất, điều kiện về thể chế. Đây chính là tiền đề và căn cứ pháp lý

cần thiết cho hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự của Thanh tra

Bộ. Căn cứ quy định của Luật Thanh tra, Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số

96/2017/NĐ-CP và Quyết định số 285/QĐ-BTP, Thanh tra Bộ giúp Bộ trưởng

Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực thuộc thẩm

quyền quản lý của Bộ; trong đó có lĩnh vực thi hành án dân sự.

Thứ hai, điều kiện về tổ chức bộ máy. Hoạt động của các cơ quan hành

56

chính nói chung và của Thanh tra Bộ nói riêng chịu sự tác động của rất nhiều

yếu tố các nhau như cơ cấu tổ chức, chức năng của các phòng và đội ngũ

công chức. Các yếu tố này cũng có mối quan hệ chặt chẽ, có tác động chi

phối lẫn nhau. Do đó, việc có một bộ máy tổ chức hợp lý sẽ tránh được sự

chồng chéo, vướng mắc, tạo nên sự hài hòa, phối hợp nhuẫn nhuyễn, tiết

kiệm thời gian thực hiện nhiệm vụ được giao mà vẫn đảm bảo được hiệu quả

của công tác quản lý.

Thứ ba, điều kiện về con người. Chất lượng nguồn nhân lực luôn là yếu

tố quyết định hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Nguồn nhân lực của Thanh

tra Bộ được hình thành từ hai nguồn là thi tuyển và xét tuyển. Dù được tuyển

dụng theo hình thức nào thì công chức Thanh tra Bộ cũng phải đáp ứng các

điều kiện sau [36, Điều 36, Khoản 1]:

- Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam

- Đủ 18 tuổi trở lên;

- Có đơn dự tuyển; có lý lịch rõ ràng;

- Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp;

- Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;

- Đủ sức khoẻ để thực hiện nhiệm vụ;

- Các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí dự tuyển.

Bên cạnh các tiêu chuẩn chung như đã nêu ở trên, công chức Thanh

tra Bộ đòi hỏi phải có một số kỹ năng khác như kỹ năng nghiên cứu và xử

lý tình huống; đặc biệt đối với những công chức làm công tác tiếp công dân

thường xuyên.

Thứ tư, điều kiện về tài chính và cơ sở vật chất, kỹ thuật. Những điều

kiện đảm bảo về mặt tài chính và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động

quản lý nhà nước phụ thuộc phần lớn vào yêu cầu quản lý. Đối với công tác

quản lý nhà nước về thi hành án dân sự của Thanh tra Bộ, Nhà nước đảm

57

bảo điều kiện về tài chính thông qua việc phê duyệt quyết toán hàng năm.

Thực tế hiện nay, để thực hiện công tác quản lý nhà nước nói chung và trong

lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng, Thanh tra Bộ đã có sự đầu tư tương

đối đầy đủ và bài bản về cơ sở vật chất, kỹ thuật. Thanh tra Bộ đã trang bị xe

ô tô, máy tính xách tay, các thiết bị ghi âm, ghi hình và các thiết bị thu, phát

tín hiệu khác để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước nói chung và trong

58

lĩnh vực thi hành án nói riêng.

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA

THANH TRA BỘ TƢ PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC

VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ

pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự

Theo quy định của pháp luật hiện hành, Thanh tra Bộ không phải là cơ

quan trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. Tuy

nhiên, căn cứ vào vị trí, chức năng của Thanh tra Bộ cũng như thực tiễn hoạt

động hiện nay, có thể khẳng định Thanh tra Bộ đóng góp một phần quan trọng

trong hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự với tư cách là cơ quan

tham mưu, giúp Bộ trưởng trong công tác quản lý nhà nước nói chung.

Cụ thể, căn cứ Khoản 12 Điều 3 Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày

26/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định việc phân cấp quản lý công

chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ

quan thi hành án dân sự, quy định về Thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp:

Quyết định thanh tra, kiểm tra đối với Tổng Cục trưởng Tổng cục

Thi hành án dân sự và Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện các nội dung

được phân cấp quy định tại Thông tư này; giải quyết khiếu nại, tố

cáo; huỷ bỏ quyết định của Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án

dân sự về quản lý công chức, viên chức, người lao động có nội

dung không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc trái thẩm

quyền đã được phân cấp [10].

Trong thực tế thời gian qua, Thanh tra Bộ đã tham gia sâu, rộng đối với

59

đa số những nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự để tham mưu

giúp Bộ trưởng nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước; trở thành một

nhân tố không thể thiếu trong công tác này.

2.1.1. Về quản lý công tác tổ chức cán bộ

Theo quy định tại Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 của

Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức,

người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án

dân sự, quy định cụ thể về thẩm quyền như sau:

Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn

nhiệm đối với các chức danh Tổng cục trưởng, Phó Tổng cục trưởng, Vụ

trưởng và tương đương thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự; Cục trưởng Cục

Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phó Cục trưởng

Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; Công

chức, viên chức chuyên môn giữ ngạch chấp hành viên cao cấp và tương đương

thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự.

Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền bổ nhiệm,

bổ nhiệm lại, miễn nhiệm đối với các chức danh Phó Vụ trưởng và tương

đương thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự; Phó Cục trưởng Cục Thi hành án

dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (trừ Phó Cục trưởng Cục Thi

hành án dân sự thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh); Chi cục trưởng

Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương; Công chức, viên chức chuyên môn và người

lao động từ ngạch thẩm tra viên chính và tương đương trở xuống thuộc Tổng

cục Thi hành án dân sự;

Mặc dù Thông tư số 09/2015/TT-BTP nêu trên không quy định cụ thể

về chức năng, vị trí và vai trò của Thanh tra Bộ. Tuy nhiên, Khoản 12 Điều 3

60

Thông tư nêu trên đã quy định về thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp:

Quyết định thanh tra, kiểm tra đối với Tổng Cục trưởng Tổng cục

Thi hành án dân sự và Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện các nội dung

được phân cấp quy định tại Thông tư này; giải quyết khiếu nại, tố

cáo; huỷ bỏ quyết định của Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án

dân sự về quản lý công chức, viên chức, người lao động có nội dung

không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc trái thẩm quyền đã

được phân cấp; ngoài ra, điểm c Khoản 6 Điều 3 của Thông tư này

quy định: Cho ý kiến đối với quy hoạch chức danh Phó Vụ trưởng và

tương đương thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, Phó Cục trưởng

Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

(trừ Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội và

thành phố Hồ Chí Minh) trước khi Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi

hành án dân sự quyết định phê duyệt quy hoạch,

do vậy trong quá trình xem xét, giải quyết việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại

và miễn nhiệm đối với các chức danh này đều có sự tham gia của Thanh tra

Bộ. Cụ thể, Tổng cục Thi hành án dân sự là đơn vị chủ trì có trách nhiệm xin

ý kiến của Thanh tra Bộ về điều kiện bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đặc biệt đối với

chức danh Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương. Đồng thời, Thanh tra Bộ tiến hành việc thanh tra

đột xuất hoặc thanh tra xác minh để tham mưu cho Bộ trưởng xem xét, giải

quyết khiếu nại, tố cáo

2.1.2. Về quản lý chuyên môn, nghiệp vụ

Khoản 1 Điều 14 Luật Thi hành án dân sự quy định về nhiệm vụ, quyền

hạn của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh như sau:

1. Quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, thành

61

phố trực thuộc trung ương, bao gồm:

a) Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật

trong hoạt động thi hành án dân sự;

b) Chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án

dân sự cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự cho

Chấp hành viên, công chức khác của cơ quan thi hành án dân sự

trên địa bàn;

c) Kiểm tra công tác thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án

dân sự cấp huyện;

d) Tổng kết thực tiễn thi hành án dân sự; thực hiện chế độ thống kê,

báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự theo hướng

dẫn của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.

Bên cạnh đó, với tư cách là cơ quan quản lý, Tổng cục Thi hành án dân

sự cũng thực hiện việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ thông qua hình thức

công văn, các cuộc họp và qua các cuộc kiểm tra trực tiếp tại địa phương.

Thông thường, Thanh tra Bộ tham gia công tác quản lý về mặt chuyên môn

nghiệp vụ dưới hình thức tham gia các cuộc họp và các đoàn công tác liên

ngành tại địa phương theo chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp bằng việc chỉ

đạo Thanh tra Bộ phối hợp với Tổng cục Thi hành án dân sự.

Đối với việc hướng dẫn nghiệp vụ thông qua các cuộc họp cũng như

các đoàn công tác tại địa phương; thông thường đây là những vụ việc tương

đối phức tạp, liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành hoặc giá trị tài sản phải thi

hành án lớn tiềm ẩn nguy cơ phát sinh khiếu nại, tố cáo hoặc gây mất ổn định

về chính trị tại địa phương. Do đó, việc tham gia của Thanh tra Bộ là rất cần

thiết hướng tới mục tiêu hạn chế đơn khiếu nại, tố cáo kéo dài.

Liên quan đến nội dung này, trước khi Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014 có hiệu lực, thực hiện quy định tại

62

Điểm e Khoản 1 Điều 167 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 Bộ Tư pháp có

trách nhiệm: “…e) Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm trong

công tác thi hành án dân sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân

sự”. Với tư cách là cơ quan tham mưu của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Thanh tra

Bộ thực hiện thanh tra nghiệp vụ đối với các cơ quan thi hành án trên phạm vi

cả nước. Thông qua quá trình thanh tra, Thanh tra Bộ đã phát hiện ra các sai

sót, vi phạm của các Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành và của

Thủ trưởng cơ quan thi hành án trong việc chỉ đạo, điều hành và kiến nghị

người có thẩm quyền xử lý trong trường hợp cần thiết. Nhưng quan trọng hơn

hết và trên hết, thông qua thanh tra đặc biệt là trong các buổi đối thoại giữa

Đoàn Thanh tra và các Chấp hành viên, Thanh tra Bộ đã kịp thời cung cấp

một cái nhìn toàn cảnh, một cách hiểu đúng đắn về pháp luật thi hành án dân

sự hướng đến mục tiêu giảm thiểu oan, sai trong thi hành án dân sự và giảm

bớt số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong lĩnh vực

này. Tuy nhiên, chức năng thanh tra theo kế hoạch đối với nghiệp vụ thi hành

án dân sự hiện nay đã không còn theo quy định tại Khoản 43 Điều 1 Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014:

Sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 1 Điều 167 như sau: Thanh tra

việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, thực

hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người lao

động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải

quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công

tác thi hành án dân sự.

Đây cũng là một quy định bất cập của Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014. Việc hạn chế thanh tra nghiệp vụ thi

hành án theo kế hoạch, dẫn đến nội dung quản lý nhà nước của Bộ trưởng

không được hiệu quả, nhiều vi phạm pháp luật nghiêm trọng không được phát

63

hiện xử lý, dẫn đến khiếu nại, tố cáo vượt cấp kéo dài.

2.1.3. Về khen thưởng và xử lý vi phạm

Tương tự như các nội dung quản lý nhà nước khác, các quy định của

pháp luật hiện hành không có quy định trực tiếp về nhiệm vụ, quyền hạn và

trách nhiệm của Thanh tra Bộ. Công tác khen thưởng và xử lý vi phạm do

các cơ quan thi hành án dân sự và Tổng cục Thi hành án dân sự với tư cách

là cơ quan quản lý thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế trong công tác xử lý vi

phạm đặc biệt đối với các chức danh do Bộ trưởng và Tổng cục trưởng quản

lý trực tiếp đều có sự tham gia của Thanh tra Bộ. Việc tham gia này được

thể hiện dưới hai hình thức: qua công văn góp ý hoặc là thành viên Hội đồng

xử lý kỷ luật.

Bên cạnh đó, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Thanh tra

Bộ đã phát hiện không ít những hành vi vi phạm pháp luật của công chức

trong khi thực hiện nhiệm vụ. Trên cơ sở Báo cáo kết quả thanh tra và Kết

luận thanh tra, Thanh tra Bộ đã kiến nghị những hình thức xử lý kỷ luật

nghiêm minh đối với những công chức đã có hành vi vi phạm pháp luật làm

ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân và lợi ích của Nhà nước.

Quan trọng hơn cả việc kiến nghị xử lý kỷ luật của Thanh tra Bộ góp phần

củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật; đưa công tác

thi hành án dân sự vào đúng kỷ cương đường lối, phát triển đúng định hướng

của ngành thi hành án dân sự nói chung và toàn ngành Tư pháp nói riêng.

2.1.4. Về công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo

Riêng đối với lĩnh này, Thanh tra Bộ được giao nhiệm vụ, quyền hạn

cụ thể. Đối với công tác thanh tra, căn cứ Khoản 43 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ

sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014 quy định trách nhiệm

của Bộ trưởng Bộ Tư pháp như sau:

Sửa đổi, bổ sung Điểm e Khoản 1 Điều 167 như sau: e)Thanh tra

64

việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, thực

hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người lao

động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải quyết

khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác thi

hành án dân sự.

Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành và vị trí của Thanh tra

Bộ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao Thanh tra Bộ thực hiện thanh tra trong các

lĩnh vực: đầu tư xây dựng cơ bản; công tác tổ chức cán bộ, việc quản lý sử

dụng ngân sách và trách nhiệm thực hiện các quy định về giải quyết khiếu nại,

tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Đây đồng thời chính là nội dung thanh

tra hành chính được nêu rõ tại Kế hoạch thanh tra hàng năm của Thanh tra Bộ

được Bộ trưởng phê duyệt. Cụ thể, theo quy định của Luật Thanh tra, trước

ngày 25/11 hàng năm, Thanh tra Bộ trình Bộ trưởng ký ban hành Kế hoạch

thanh tra năm tiếp theo. Kế hoạch thanh tra hành chính nói riêng và Kế hoạch

thanh tra năm nói chung của Thanh tra Bộ được xây dựng dựa trên cơ sở khảo

sát, báo cáo của địa phương và những vấn đề nổi bật trong dư luận xã hội (nếu

có). Trong những năm gần đây, Thanh tra Bộ thực hiện khoảng 9 -10 đoàn

thanh tra hành chính mỗi năm chia đều cho tất cả các lĩnh vực. Công tác thanh

tra hành chính đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện quản lý nhà

nước về thi hành án dân sự của Bộ Tư pháp. Công tác thanh tra một mặt giúp

cơ quan quản lý nhà nước đánh giá đúng về hiệu quả của việc sử dụng vốn nhà

nước trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý sử dụng ngân sách nhà

nước; đảm bảo công khai, minh bạch và công bằng trong công tác tổ chức cán

bộ; mặt khác chấn chỉnh, nâng cao trách nhiệm, vai trò của Thủ trưởng cơ quan

thi hành án dân sự tại địa phương trong việc thực hiện các quy định của pháp

luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.

Ngoài công tác thanh tra theo kế hoạch, Thanh tra Bộ còn thực hiện

65

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đối với công tác này, Thanh tra Bộ đóng vai

trò là cơ quan đầu mối, tham mưu cho Bộ trưởng giải quyết các khiếu nại, tố

cáo thuộc thẩm quyền.

Căn cứ Khoản 1 Điều 140 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, quyền

khiếu nại về thi hành án thuộc về đương sự (người được thi hành án, người

phải thi hành án), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo đó, những cá

nhân này có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ

quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định,

hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Theo Khoản 4 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Bộ trưởng Bộ Tư

pháp có thẩm quyền giải quyết những khiếu nại sau:

- Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần thứ nhất của

Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự (Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem

xét, giải quyết khiếu nại lần thứ hai);

- Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại

quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành của Cục trưởng Cục

Thi hành án dân sự và Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự.

So với các quy định chung về khiếu nại, trong lĩnh vực thi hành án dân

sự, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền riêng là thẩm quyền xem xét lại các

Quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật

Đối với công tác giải quyết tố cáo, tương tự quy định của Luật Tố cáo,

Điều 154 Luật Thi hành án dân sự quy định về người có quyền tố cáo như sau:

Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm

quyền về hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi

hành án dân sự, Chấp hành viên và công chức khác làm công tác

thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi

ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ

66

quan, tổ chức.

Căn cứ theo quy định của Khoản 1 Điều 157 Luật Thi hành án dân sự,

Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với Tổng cục

trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự.

2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ

pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự và những hạn chế,

tồn tại

2.2.1. Trong lĩnh vực công tác tổ chức cán bộ

Thanh tra Bộ tham gia công tác tổ chức cán bộ trong lĩnh vực thi hành

án dân sự dưới rất nhiều hình thức. Liên quan đến công tác xây dựng văn

bản pháp luật, Thanh tra Bộ trực tiếp tham gia vào Ban Soạn thảo, Tổ Biên

tập các Thông tư về quản lý tổ chức cán bộ; cụ thể như sau: Thông tư liên

tịch số 02/2011/TTLT-BNV-BTP hướng dẫn việc chuyển xếp ngạch và xếp

lương đối với công chức ngạch chấp hành viên thi hành án dân sự; Thông tư

số 09/2012/TT-BTP quy định trình tự, thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ

chức, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức công chức lãnh đạo cấp Vụ thuộc

Tổng cục Thi hành án dân sự; lãnh đạo Cục, lãnh đạo các phòng chuyên môn

và tương đương thuộc Cục Thi hành án dân sự; lãnh đạo Chi cục Thi hành

án dân sự; Thông tư số 16/2012/TT-BNV Ban hành quy chế thi tuyển, xét

tuyển viên chức; quy chế thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên

chức và nội quy kỳ thi tuyển, thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với

viên chức; Thông tư số 13/2013/TT-BTP quy định tiêu chuẩn chức danh

công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc Cục Thi hành án dân sự và

Chi cục Thi hành án dân sự; Thông tư số 09/2015/TT-BTP quy định việc

phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục Thi

hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự. Việc tham gia của Thanh

tra Bộ trong lĩnh vực công tác này có sự phối kết hợp giữa sự hiểu biết về

67

mặt luật học, sự nghiên cứu về lý luận và việc đánh giá thực tiễn thông qua

hoạt động thanh tra. Việc đánh giá hiệu quả và sự tác động của các quy định

pháp luật đóng vai trò rất quan trọng trong công tác hoàn thiện thể chế và

đưa pháp luật vào cuộc sống.

Bên cạnh đó, được sự tin tưởng của Lãnh đạo Bộ, Thanh tra Bộ là

thành phần cốt yếu trong quá trình tuyển dụng, thi nâng ngạch và thi chuyển

ngạch của Tổng cục Thi hành án dân sự. Theo quy định hiện hành, việc thi

tuyển của ngành thi hành án dân sự do Tổng cục Thi hành án dân sự trực tiếp

quản lý và tổ chức thi. Ngoài việc cử người tham gia Ban coi thi, Thanh tra

Bộ còn là thành viên Ban giám sát, trực tiếp giám sát các hoạt động khác của

quá trình tuyển dụng như: ra đề thi, coi thi, niêm phong/bóc niêm phong bài

thi, dọc phách và chấm thi.

Thanh tra Bộ cũng là đơn vị có ý kiến trực tiếp đối với các trường hợp

bổ nhiệm, bổ nhiệm lại các chức danh Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương. Thông thường việc lấy ý kiến của

Thanh tra Bộ được thực hiện bằng văn bản. Trên cơ sở kết quả thanh tra của

Thanh tra Bộ và kết quả rà soát đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân,

Thanh tra Bộ có ý kiến trong việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại hoặc tạm dừng quy

trình đối với các chức danh này.

Tuy nhiên, trong công tác tổ chức cán bộ nói chung và việc tham gia ý

kiến đối với việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại chức danh lãnh đạo các cơ quan thi

hành án dân sự địa phương hiện nay còn một số vấn đề bất cập.

Thứ nhất, việc Thanh tra Bộ chỉ tham gia ý kiến đối với chức danh Cục

trưởng Cục Thi hành án dân sự là chưa tương xứng với vị trí, vai trò của

Thanh tra Bộ. Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện

tới cấp Chi cục. Do đó, khi bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đối với chức danh Chi cục

trưởng Chi cục Thi hành án dân sự cấp quận, huyện mà không có ý kiến của

Thanh tra Bộ là chưa toàn diện có trường hợp dẫn đến thiếu sót, vẫn được bổ

68

nhiệm lại khi có hành vi vi phạm đã được làm sáng tỏ qua công tác thanh tra.

Thứ hai, Thanh tra Bộ thường xuyên bị động khi nhận được văn bản

của Tổng cục Thi hành án dân sự xin ý kiến về vấn đề bổ nhiệm, bổ nhiệm lại

đối với chức danh Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự. Do đó, việc rà soát chỉ

được thực hiện tại thời điểm xin ý kiến dẫn đến tình trạng sau khi Thanh tra

Bộ đã có văn bản phúc đáp mới tiến hành thanh tra theo kế hoạch và phát hiện

ra sai phạm của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự. Đây là vấn đề rất khó

khắc phục và sửa chữa trong thực tế.

2.2.2. Trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ

Cần phải khẳng định rằng đây không phải nhiệm vụ chuyên môn của

Thanh tra Bộ; tuy nhiên, theo tình hình thực tế hiện nay, Thanh tra Bộ đóng

vai trò là cơ quan phối hợp cùng Tổng cục Thi hành án dân sự thực hiện việc

quản lý chuyên môn, nghiệp vụ trong một số trường hợp; đặc biệt là đối với

những vụ việc đã phát sinh hoặc tiềm ẩn nguy cơ phát sinh khiếu nại, tố cáo

kéo dài. Việc phối hợp quản lý chuyên môn, nhiệm vụ trong thi hành án dân

sự giữa Tổng cục Thi hành án dân sự và Thanh tra Bộ được thực hiện thông

qua ba hình thức: xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; tham gia các Đoàn

công tác và các cuộc họp liên ngành để hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ cho các

cơ quan thi hành án dân sự địa phương do Tổng cục Thi hành án dân sự chủ

trì, cụ thể như sau:

Thứ nhất, liên quan đến công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp

luật, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ đã phối

hợp với Tổng cục Thi hành án dân sự và một số đơn vị thuộc Bộ trực tiếp

tham gia xây dựng các văn bản sau:

+ Luật Thi hành án dân sự năm 2008; Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014.

+ Các Nghị định số: 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định chi tiết

69

và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án

dân sự; 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn một

số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ

quan thi hành án dân sự, công chức làm thi hành án dân sự; 61/2009/NĐ-CP

ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm

tại thành phố Hồ Chí Minh; 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ

tục thi hành án dân sự; 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự;

+ Các Thông tư: số 12/2001/TTLT-BTP-VKSTC ngày 26/2/2001

hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; số

144/2010/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng

phí thi hành án; số 04/2009/TTLT-BTP-BTC hướng dẫn bảo đảm tài chính từ

ngân sách nhà nước để thi hành án; số 22/2010/TT-BTP hướng dẫn về đăng

ký, cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc

kê biên tài sản thi hành án; số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC

hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành

trong thi hành án dân sự, số 03/2011/TT-BTP phân cấp quản lý tài chính, tài

sản, đầu tư xây dựng cơ bản cho Tổng cục Thi hành án dân sự và cơ quan thi

hành án dân sự; số 08/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 quy định về biểu mẫu

thống kê; số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 quy định về phân cấp công

chức, viên chức thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự; số 01/2016/TT-BTP

hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp

vụ trong thi hành án dân sự.

Thứ hai, tham gia các đoàn công tác:

Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi

70

hành án dân sự, ngoài việc định kỳ thực hiện việc kiểm tra nghiệp vụ thi hành

án dân sự, Tổng cục Thi hành án dân sự còn thành lập các Đoàn kiểm tra liên

ngành để kiểm tra xác minh phục vụ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và

hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ theo thẩm quyền. Các vụ việc này thường liên

quan đến các lĩnh vực mà Tổng cục Thi hành án dân sự không quản lý, như:

Bán đấu giá tài sản, Công chứng, Luật sư… nên rất khó khăn trong việc yêu

cầu cung cấp thông tin, tài liệu và làm việc đối thoại, do đó vai trò của Thanh

tra Bộ trong việc phối hợp liên ngành là rất cần thiết.

Thứ ba, tham gia các cuộc họp liên ngành:

Để có căn cứ trong việc hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự trong

toàn ngành và chống chồng chéo, vượt cấp, ngày 03/12/2014, Tổng cục trưởng

Tổng cục Thi hành án dân sự ban hành Quyết định số 824/QĐ-TCTHADS về

việc ban hành Quy chế hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự trong nội bộ

ngành thi hành án dân sự. Cụ thể, Điều 4 của Quy chế quy định:

1. Đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, nội dung quy định tại Quy

trình này. Chấp hành viên đề nghị Thủ trưởng đơn vị nơi mình công

tác hướng dẫn nghiệp vụ, Chi cục trưởng đề nghị Cục trưởng hướng

dẫn nghiệp vụ, Cục trưởng đề nghị Tổng cục trưởng hướng dẫn

nghiệp vụ. Không hướng dẫn nghiệp vụ vượt cấp.

2. Chỉ hướng dẫn nghiệp vụ khi thuộc một trong các trường hợp sau:

a) Việc tổ chức thi hành án gặp khó khăn do có những ý kiến, quan

điểm khác nhau về cách hiểu, cách vận dụng các quy định pháp

luật trong quá trình tổ chức thi hành án mà Chấp hành viên, cơ

quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành vụ việc không thể

quyết định được.

b) Có những tình huống pháp lý chưa được pháp luật quy định cụ

thể hoặc quy định ở nhiều văn bản khác nhau nhưng nội dung của

71

các quy định đó không thống nhất mà Chấp hành viên, cơ quan thi

hành án dân sự thấy cần phải đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ để có

biện pháp giải quyết.

c) Những vụ việc thi hành án khó khăn, phức tạp, có khiếu nại

gay gắt, kéo dài, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội ở

địa phương.

Như vậy, đối với các vụ việc do Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự

tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xin ý kiến thì Tổng cục Thi hành án

dân sự chủ trì mời các đơn vị thuộc Bộ trong đó Thanh tra Bộ.

Tại các cuộc họp liên ngành, Thanh tra Bộ đóng góp các ý kiến chuyên

môn, ý kiến của mình và chịu trách nhiệm trước Lãnh đạo Bộ Tư pháp trước

những ý kiến, quan điểm đã đưa ra.

2.2.3. Trong lĩnh vực khen thưởng, xử lý vi phạm

Đối với nội dung này, Thanh tra Bộ chỉ tập trung chủ yếu vào việc xây

dựng các quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi

hành án dân sự và thực hiện việc kiến nghị cơ quan hoặc người có thẩm

quyền xem xét xử lý kỷ luật đối với cá nhân có hành vi vi phạm.

Thanh tra Bộ là đơn vị chủ trì xây dựng Nghị định về xử phạt vi phạm

hành chính trong đó bao gồm lĩnh vực thi hành án dân sự; cụ thể:

- Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi

hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã;

- Nghị định số 67/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị

định 110/2013/NĐ-CP;

Hiện nay, căn cứ vào yêu cầu thực tế, Thanh tra Bộ đang xây dựng

Nghị định thay thế 02 Nghị định trên. Đến thời điểm hiện tại, Bộ Tư pháp đã

có văn bản gửi Văn phòng chính phủ để thẩm định.

72

Ngoài ra, qua công tác thanh tra đã phát hiện ra nhiều sai phạm của

Lãnh đạo, Chấp hành viên qua đó đã kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý vi

phạm đối với các cá nhân, tổ chức bằng nhiều hình thức phù hợp đối với các

hành vi vi phạm, cụ thể:

+ Tháng 10/2012, Thanh tra Bộ thực hiện việc thanh tra theo kế hoạch

(đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt) trong lĩnh vực nghiệp vụ thi

hành án dân sự đối với Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền và Chi

cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Qua

thanh tra đã phát hiện các Chấp hành viên đã vi phạm trong quá trình tổ

chức thi hành án, cụ thể [14]:

Việc xác minh định kỳ điều kiện thi hành án của Chấp hành viên

đối với một số hồ sơ chưa có điều kiện thi hành án không đảm bảo

về thời hạn;

Một số hồ sơ thể hiện có điều kiện, nhưng Chấp hành viên phân

loại thành chưa có điều kiện thi hành làm ảnh hưởng đến số liệu

báo cáo và gây ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước và người

được thi hành án;

Việc chi, trả tiền cho người được thi hành án là doanh nghiệp, cơ

quan nhà nước, tổ chức xã hội hay tổ chức kinh tế xã hội bằng tiền

mặt của Cục THADS là không thực hiện đúng quy định tại Thông

tư số 91/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 của Bộ Tài chính;

Chi cục THADS chưa thực hiện nghiêm túc, đầy đủ việc thống kê báo

cáo định kỳ được quy định tại Quyết định số 02/2006/QĐ-BTP ngày

14/4/2006 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Chế độ báo

cáo thống kê Thi hành án dân sự. Việc điều chỉnh số liệu thống kê từ

82,7% lên 87% về việc theo chỉ đạo của Lãnh đạo Cục THADS thành

phố Hải Phòng để đảm bảo chỉ tiêu được giao là trái quy định;

73

Lãnh đạo Chi cục THADS chưa thật sự sát sao trong việc chỉ

đạo, điều hành chuyên môn, nghiệp vụ, dẫn đến việc để ngoài

báo cáo thống kê 1.614 việc là vi phạm nghiêm trọng về chế độ

thống kê báo cáo;

Chi cục trưởng Chi cục THADS chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm

giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn

chưa bảo đảm đúng quy trình, không thực hiện việc đối thoại, có

việc bỏ ngoài không đưa vào sổ theo dõi và thụ lý đầy đủ các đơn

khiếu nại, tố cáo.

Đối với Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng

đã chỉ đạo các một số Chi cục THADS điều chỉnh số liệu báo cáo

thống kê để đạt chỉ tiêu thi đua là vi phạm nghiêm trọng về chế độ

báo cáo thống kê; Lãnh đạo Cục THADS buông lỏng quản lý,

không kiên quyết trong việc chỉ đạo Chi cục THADS quận Ngô

Quyền đưa 1.614 vụ việc vào báo cáo thống kê.

Từ những vi phạm nêu trên, Thanh tra Bộ đã ban hành Kết luận thanh

tra và yêu cầu các đơn vị, cá nhân khẩn trương khắc phục các vi phạm, đồng

thời kiến nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thi hành kỷ luật đối với Cục trưởng

Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng trong việc buông lỏng quản lý,

chỉ đạo cấp dưới thiếu cơ sở đối với việc điều chỉnh báo cáo số liệu thống kê

dẫn đến việc báo cáo không trung thực và tổ chức họp kiểm điểm xác định

trách nhiệm đối với các cá nhân có vi phạm và đề xuất biện pháp xử lý kỷ

luật tương xứng.

+ Tháng 8/2013, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp,

Thanh tra Bộ đã tiến hành thanh tra đột xuất đối với Cục Thi hành án dân sự

tỉnh Lai Châu và một số Chi cục Thi hành án dân sự thuộc tỉnh [16].

Qua thanh tra, đã phát hiện Cục Thi hành án dân sự tỉnh và một số Chi

74

cục Thi hành án dân sự huyện có nhiều vi phạm như: quyết toán khống những

hạng mục không thi công trên thực tế (lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản); Cục

trưởng đã buông lỏng quản lý, dẫn đến việc một số Chi cục Thi hành án dân

sự không thuê kho để chứa vật chứng vụ án nhưng vẫn lập hồ sơ thuê kho

khống để rút tiền ngân sách nhà nước, lập chứng từ khống đối với một số

trường hợp không thuộc đối tượng được hưởng trợ cấp thu hút theo quy định

tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 21/12/2010 của Chính Phủ (lĩnh vực

quản lý, sử dụng kinh phí hành chính sự nghiệp).

Từ những kết quả trên, Thanh tra Bộ đã ban hành Kết luận thanh tra đối

với những hành vi vi phạm pháp luật và tiến hành thu hồi toàn bộ số tiền chi

sai nguyên tắc, đồng thời kiến nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thi hành kỷ luật

đối với Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu bằng hình thức

Giáng chức và các hình thức kỷ luật khác tương xứng với hành vi vi phạm đối

với các cá nhân có liên quan. Đồng thời, Thanh tra Bộ cũng đã kiến nghị Bộ

trưởng Bộ Tư pháp chỉ đạo Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự

xem xét, thi hành kỷ luật đối với Đoàn kiểm tra của Tổng cục Thi hành án dân

sự vì thiếu trách nhiệm trong quá trình kiểm tra, dẫn đến việc không phát hiện

ra các sai phạm.

+ Tháng 12/2013, Thanh tra Bộ tiến hành thanh tra đột xuất đối với Chi

cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải phòng, vì có dấu

hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án [15].

Kết quả thanh tra cho thấy, trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp

hành viên đã kê biên và bán đấu giá tài sản đối với 20.634 tấn quặng sắt, là tài

sản của Công ty cổ phận luyện gang Vạn Lợi đang thế chấp cho Ngân hàng

Thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển (BIDV) để vay tiền. Căn cứ vi

phạm nêu trên, Thanh tra Bộ đã báo cáo Lãnh đạo Bộ Tư pháp và tổ chức

nhiều cuộc họp liên Bộ, liên ngành để đi đến thống nhất kết luận: “Chi cục

75

Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng có trách nhiệm

bồi thường thiệt hại cho Ngân hàng BIDV giá trị của 20.634 tấn quặng sắt

(tương đương 12.580.000.000 đồng)”. Cũng tại Kết luận nêu trên, Thanh tra

Bộ đã kiến nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ đạo Tổng cục trưởng thi hành kỷ

luật đối với các cá nhân, Lãnh đạo có liên quan.

+ Ngoài một số việc điển hình nêu trên, Thanh tra Bộ còn tiến hành

nhiều cuộc thanh tra đột xuất theo quy định của pháp luật, kết luận rõ các

hành vi vi phạm pháp luật của Chấp hành viên, Lãnh đạo các đơn vị thi hành

án. Thông qua đó, Thanh tra Bộ đã kiến nghị hình thức xử lý kỷ luật tương

xứng đối với các cá nhân có hành vi vi phạm, thậm chí có một số trường hợp,

Thanh tra Bộ đã lập hồ sơ để chuyển Cơ quan điều tra để khởi tố vụ án điều

tra theo thẩm quyền.

2.2.4. Trong lĩnh vực thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo

Đây là nhiệm vụ công tác trọng tâm của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà

nước về thi hành án dân sự. Liên quan đến công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo, ngoài các nội dung về thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định tại

Điều 142 và Điều 157 Luật Thi hành án dân sự 2008, Thanh tra Bộ đã phối

hợp cùng Tổng cục Thi hành án dân sự xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ Tư

pháp ban hành Thông tư số 02/2016/TTBTP ngày 01/02/2016 quy định quy

trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi

hành án dân sự (có hiệu lực kể từ ngày 16 tháng 3 năm 2016).

Thông tư hướng dẫn việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đối với đơn khiếu

nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự của các cơ

quan thi hành án dân sự, cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư

pháp. Theo đó, việc xử lý đơn phải đảm bảo chính xác, khách quan, kịp thời,

đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về thi hành án

dân sự và pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp

của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến

76

việc thi hành án dân sự.

Tính từ năm 2015 đến tháng 4/2019, Thanh tra Bộ đã tiến hành 42 cuộc

thanh tra hành chính theo kế hoạch. Qua thanh tra, Thanh tra Bộ đã phát hiện

các sai phạm của đối tượng thanh tra và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý

đồng thời thu hồi cho ngân sách nhà nước số tiền 2.065.780.198 đồng. Cá biệt

trong năm 2018, Thanh tra Bộ thực hiện thu hồi số tiền 1.517.837.262 đồng.

Ngoài ra, việc xây dựng hệ thống Báo cáo, thống kê trong lĩnh vực này

đóng một vai trò quan trọng nhằm hướng đến mục đích dự báo số lượng đơn

thư và đề ra kế hoạch giải quyết trong năm tiếp theo. Bên cạnh đó, việc thống

kê số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự giúp Bộ Tư

pháp nói chung và Thanh tra Bộ, Tổng cục Thi hành án dân sự nói riêng đề ra

các biện pháp hạn chế, làm giảm số lượng đơn, thư tạo niềm tin trong nhân

dân đối với pháp luật và bộ máy nhà nước. Để thực hiện công tác này, các

công chức của Thanh tra Bộ đã tham gia Ban Soạn thảo và Tổ biên tập Thông tư

liên tịch số 01/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP-BTC-BNN&PTNT

ngày 05/4/2018 quy định phối hợp trong việc báo cáo, thông báo về công tác

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.

Về công tác xử lý đơn, thư, giải quyết khiếu nại, trong 09 tháng đầu

năm 2018, Thanh tra Bộ với tư cách là cơ quan đầu mối tham mưu cho Bộ

trưởng đã tiếp nhận và xử lý 734 đơn thuộc thẩm quyền; trong đó, có 431 đơn

khiếu nại và 135 đơn tố cáo; chiếm 46% tổng số đơn đã nhận. So với cùng kỳ

năm trước, số lượng đơn thư, khiếu nại tăng 37% [47].

Trong 6 tháng đầu năm 2019, Thanh tra Bộ phối hợp với các đơn vị

chức năng đã tiếp 175 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản

ánh. Trong đó có 83 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền

(chiếm 59%), 72 lượt công dân đến khiếu nại không thuộc thẩm quyền (chiếm

41%)). So với cùng kỳ năm trước, số lượt công dân đến Bộ Tư pháp khiếu

nại, tố cáo tăng 19 lượt công dân tương ứng với 12% (6 tháng đầu năm 2018,

77

có 156 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo).

Trong 6 tháng đầu năm 2019, (từ ngày 01/01/2019 đến 15/6/2019),

Thanh tra Bộ đã nhận được 936 đơn (886 đơn khiếu nại, 50 đơn tố cáo), trong

đó đơn thư thuộc thẩm quyền là 429 đơn khiếu nại, tố cáo (385 đơn khiếu nại,

44 đơn tố cáo), chiếm 45%, đơn thư không thuộc thẩm quyền là 507 đơn (501

đơn khiếu nại, 06 đơn tố cáo) chiếm 55%. So với năm trước, số lượng đơn thư

khiếu nại, tố cáo Thanh tra Bộ Tư pháp nhận được giảm 0,2% (6 tháng đầu

năm 2018, tiếp nhận 962 đơn thư khiếu nại, tố cáo).

Trong số 429 đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền có 363 đơn

thuộc lĩnh vực thi hành án dân sự gồm: 61 đơn khiếu nại, tái khiếu nại, tố cáo

thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng (51 đơn khiếu nại, 10 đơn tố cáo); 302 đơn

khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan Thi hành án dân sự địa

phương (283 đơn khiếu nại, 20 đơn tố cáo); lĩnh vực khác: 66 đơn (53 đơn

khiếu nại, 13 đơn tố cáo) [48].

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại

Trong những năm qua, vị trí, vai trò của Thanh tra Bộ trong việc quản

lý nhà nước về thi hành án dân sự đã được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên,

bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong một chừng mực nhất định, công

tác quản lý nhà nước của Thanh tra Bộ trong lĩnh vực này còn có một số

những hạn chế, tồn tại nhất định. Những hạn chế, tồn tại này xuất phát từ

những nguyên nhân chủ yếu như sau:

2.3.1. Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật

Luật Thanh tra quy định thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý

theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của

cơ quan, tổ chức, cá nhân [38, Điều 3, Khoản 1]. Với bản chất đó, thanh tra là

hoạt động của cơ quan nhà nước, luôn mang tính quyền lực và là một bộ phận

78

cấu thành không thể thiếu của quản lý nhà nước nói chung. Hay nói cách

khác, thanh tra là hoạt động được thực hiện rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực

của đời sống xã hội, trong đó có thi hành án dân sự theo nguyên tắc quản lý

nhà nước đến đâu thì thanh tra đến đó.

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng, Bộ Tư pháp là cơ quan

chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án

dân sự. Một trong những nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong công tác

quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp về thi hành án dân sự chính là hoạt động

nghiệp vụ thi hành án. Cơ quan chuyên trách quản lý chuyên môn về thi hành

án dân sự được trao cho Tổng cục thi hành án dân sự.

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định về chức năng, nhiệm vụ

của Bộ Tư pháp như sau: “… Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm

trong công tác thi hành án dân sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án

dân sự”. Theo quy định này và được sự phân công, phân cấp của Bộ trưởng

Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ thực hiện việc thanh tra toàn diện đối với ngành thi

hành án dân sự; trong đó bao gồm cả thanh tra nghiệp vụ thi hành án. Như đã

phân tích ở trên, công tác thanh tra nghiệp vụ thi hành án là vô cùng cần thiết;

đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp đồng thời thực hiện đúng

tôn chỉ, mục đích của việc thanh tra đã được cụ thể hóa tại Luật Thanh tra

2004 và Luật Thanh tra năm 2010.

Tuy nhiên, sau khi Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi

hành án dân sự có hiệu lực, chức năng thanh tra trong lĩnh vực thi hành án dân

sự bị thu hẹp. Việc thanh tra chỉ được giới hạn ở một số lĩnh vực nhất định và

không bao gồm nghiệp vụ thi hành án dân sự; trong khi đó, đây là công tác

nghiệp vụ quan trọng nhất của các cơ quan thi hành án dân sự, ảnh hưởng trực

tiếp đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan tổ

chức cá nhân. Ngoài ra, hoạt động này cũng là một trong những hoạt động

79

tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện và gây mất ổn

định về tình hình chính trị tại địa phương. Cụ thể, Khoản 43 Điều 1 của Luật

này (sửa đổi điểm e khoản 1 Điều 167 Luật Thi hành án dân sự) quy định về

quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Tư pháp như sau:

Thanh tra việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản

lý, thực hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người

lao động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải

quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác

thi hành án dân sự.

Trong khi đó, theo Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của

Chính phủ (nay được sửa đổi bởi Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017)

quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của Bộ Tư Pháp lại

quy định rõ:

Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý

nhà nước về: Xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy

phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự,

thi hành án hành chính, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, bồi

thường nhà nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi

phạm hành chính; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công

trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.

Cũng tại Nghị định nêu trên, điểm a khoản 13 Điều 2 đã quy định về

nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, thi

hành án hành chính: “Quản lý hệ thống tổ chức, biên chế và hoạt động của cơ

quan thi hành án dân sự; quyết định thành lập, giải thể các cơ quan thi hành

án dân sự”.

Như vậy, sự thiếu thống nhất và thiếu đồng bộ giữa Luật Thanh tra,

Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định về chức năng, nhiệm

80

vụ, quyền hạn và cơ cấu của Bộ Tư Pháp với Luật Sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 dẫn đến lỗ hổng trong công tác

quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.

2.3.2. Các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy

Như đã nêu ở trên, số lượng biên chế như hiện nay của Thanh tra Bộ

chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc nếu xét trên khía cạnh số lượng lĩnh

vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (27 lĩnh vực theo

quy định tại Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017). Tuy nhiên, do

vấn đề biên chế, tổ chức, tính đến thời điểm hiện tại Thanh tra Bộ chưa có đủ

nhân lực để thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước nói chung và trong

lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng mà đa số chỉ thực hiện việc thanh tra

theo kế hoạch, đột xuất và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với một số lĩnh vực

chủ yếu như: Luật sư, Bán đấu giá, công chứng, hộ tịch, Con nuôi trong nước,

Con nuôi có yếu tố nước ngoài, trợ giúp pháp lý và thi hành án dân sự.

Đối với công tác thi hành án dân sự, khác với Tổng cục Thi hành án

dân sự, Thanh tra Bộ không có các cán bộ chuyên quản theo khu vực dẫn đến

tình trạng việc theo dõi công tác thi hành án của các cơ quan thi hành án dân

sự địa phương không có sự thống nhất, toàn diện. Một trong những lý do quan

trọng nhất của tình trạng này chính là vấn đề thiếu biên chế. Công tác thanh

tra theo kế hoạch trong lĩnh vực thi hành án dân sự (ngoại trừ kế hoạch về

nghiệp vụ thi hành án dân sự) được phân công cho một Phó chánh thanh tra

phụ trách và được trực tiếp thực hiện bởi phòng Thanh tra hành chính. Hiện

nay, phòng Thanh tra hành chính có bốn công chức, trong đó có một công

chức vừa được bổ nhiệm Thanh tra viên nhưng vẫn kiêm nhiệm nhiệm vụ kế

toán. Việc bố trí nhân lực như hiện tại chưa phù hợp với yêu cầu của công tác

thanh tra vì những lý do sau:

- Lĩnh vực thi hành án dân sự là lĩnh vực tương đối rộng (63 Cục và

khoảng hơn 700 Chi cục trên khắp cả nước) và nổi cộm vì những vấn đề

81

gai góc, xuất phát từ bản chất, đặc điểm của ngành, của chính các đương sự

và sự quan tâm của dư luận xã hội. Tuy nhiên, nhân lực phục vụ cho công

tác này tương đối ít ỏi khiến cho việc phân công theo địa bàn không thể

thực hiện được.

- Phòng Thanh tra hành chính hiện nay có 50% công chức là nữ và

đang trong độ tuổi sinh đẻ, dẫn đến nhiều hạn chế trong quá trình thanh tra;

đặc biệt là việc bố trí thời gian đi công tác xa nhà. Bản chất của hoạt động

thanh tra nói chung và công tác thanh tra trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói

riêng yêu cầu các Thanh tra viên và công chức thanh tra phải bố trí, sắp xếp

thời gian đi công tác tại địa phương trong thời gian tương đối dài (khoảng từ

10 – 15 ngày). Tuy nhiên, việc này là tương đối khó đối với các công chức nữ

do ảnh hưởng của việc cần phải thiên chức người phụ nữ.

Bên cạnh đó, thi hành án dân sự cũng là lĩnh vực xảy ra nhiều đơn

khiếu nại, tố cáo nhất trong mối tương quan so sánh với các lĩnh vực khác

thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Trong 09 tháng đầu

năm 2018, Thanh tra Bộ đã tiếp nhận và xử lý 734 đơn khiếu nại, tố cáo thuộc

thầm quyền; trong đó, có 377 đơn thuộc lĩnh vực thi hành án dân sự; chiếm

51,4% [47]. Tuy nhiên, số lượng công chức chuyên trách thực hiện việc thanh

tra, xác minh giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo còn hạn chế. Hiện nay, công tác

giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Thanh tra Bộ được giao cho một Phó chánh

thanh tra phụ trách và Phòng Tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo với

bảy công chức. Tuy nhiên, chỉ có ba công chức trực tiếp thực hiện việc thanh

tra xác minh để giải quyết khiếu nại tại địa phương. Tương tự như công tác

thanh tra theo kế hoạch, do số lượng biên chế ít nên việc phân chia công chức

theo địa bàn không thể thực hiện được. Ngoài ra, số lượng các vụ việc cần

tiến hành thanh tra xác minh ngày càng tăng trong điều kiện số lượng công

chức thực hiện còn hạn chế. Trong năm 2017, Thanh tra Bộ đã tiến hành

82

mười một cuộc thanh tra xác minh phục vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố

cáo (trong đó có hai đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại; sáu tổ công tác để

giải quyết khiếu nại, tố cáo; hai cuộc thanh tra do Thanh tra viên thực hiện

việc thanh tra độc lập và một đoàn giải quyết tố cáo). Tổng kết năm 2018,

Thanh tra Bộ đã triển khai 22 cuộc thanh tra xác minh giải quyết khiếu nại, tố

cáo; tăng 100% so với năm 2017. Con số này là minh chứng rõ ràng, cụ thể

nhất cho sự phức tạp của công tác thi hành án dân sự nói chung, của chính các

cơ quan thi hành án, các đương sự nói riêng và sự quan tâm của dư luận xã

hội đối với lĩnh vực này. Tuy nhiên, số lượng biên chế thực hiện công tác giải

quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Bộ chưa tương xứng với số lượng công

việc cần phải giải quyết đó là chưa kể đến những khiếu nại, tố cáo trong các

lĩnh vực khác thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

2.3.3. Các vấn đề liên quan đến chất lượng công chức

Bên cạnh các vấn đề liên quan đến số lượng, chất lượng của công chức

Thanh tra Bộ cũng là vấn đề cần được quan tâm trong giai đoạn hiện nay.

Kinh nghiệm là một trong những vấn đề còn thiếu và còn yếu của công chức

Thanh tra Bộ. Đại đa số công chức Thanh tra Bộ chưa có chuyên môn sâu,

rộng trong lĩnh vực thi hành án dân sự, các công chức trẻ mới được tuyển

dụng cũng không có kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực này. Đây là điều

khó khăn cho chính các công chức trong quá trình thanh tra bởi lẽ thi hành án

dân sự là một lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi có tính chất chuyên sâu, liên quan

đến nhiều lĩnh vực và do nhiều ngành luật điều chỉnh. Đây là điều khó khăn

cho chính các công chức trong quá trình thanh tra bởi lẽ thi hành án dân sự là

một lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi có tính chất chuyên sâu. Đối với những người

không có kinh nghiệm thực tiễn thì việc thanh tra; đặc biệt là thanh tra xác

minh phục vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo lại càng khó khăn.

Chất lượng công chức của Thanh tra Bộ chưa thực sự đồng đều. Trong

một chừng mực nhất định, các công chức không có tính cầu thị và hoàn thiện

83

bản thân. Nhiều công chức có tư duy theo lối mòn, làm việc chủ yếu theo

khuôn mẫu có sẵn, không tạo ra tính mới và sự sáng tạo trong công việc.

Một vấn đề quan trọng khác trong nội dung này lại nằm ở cách quản lý, chỉ

đạo, điều hành của lãnh đạo Thanh tra Bộ. Sự phân công công việc chưa thực

sự công bằng giữa các phòng và các Thanh tra viên. Cụ thể, phòng Tiếp công

dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo phải phụ trách và thực hiện quá nhiều

Đoàn thanh tra, xác minh (chiếm khoảng 50% số lượng các cuộc thanh tra của

Thanh tra Bộ). Ngoài ra, theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010, Thanh

tra viên có thẩm quyền thanh tra độc lập tuy nhiên việc phân công phần việc

này chưa được thực hiện rộng rãi dẫn đến tình trạng công việc còn tồn đọng

nhiều, không phát huy được tinh thần chủ động, sáng tạo của chính các thanh

tra viên trong quá trình thực hiện công việc.

2.4. Quan điểm và mục tiêu bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ

pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự

Trải qua quá trình lịch sử 70 năm xây dựng và trưởng thành, ngành

Thanh tra Việt Nam nói chung và Thanh tra Bộ Tư pháp nói riêng đã có

những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, Thanh tra Bộ Tư pháp luôn bám sát mọi

chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước để phấn đấu thực

hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị được giao. Bên cạnh những thành

tựu đã đạt được, tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tư pháp trong một

chừng mực nhất định chưa đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của

công tác quản lý nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực khó khăn, cam go và

nhiều thách thức như thi hành án dân sự.

Ngoài ra, việc thực thi Hiến pháp năm 2013 đã và đang đặt ra yêu

cầu tương đối cao đối với toàn ngành Thanh tra nói chung và Thanh tra Bộ

Tư pháp nói riêng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ về thanh tra,

84

tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng

góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền con người và quyền

công dân. Trên cơ sở những chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà

nước và Chiến lược phát triển ngành thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến

năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 08 tháng

12 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ, để Thanh tra Bộ phát triển đúng

định hướng và có trọng tâm, trọng điểm, cần đề ra, quán triệt và thực hiện

theo các quan điểm và mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể trong thời gian

trước mắt cũng như lâu dài.

2.4.1. Quan điểm bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong

quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

- Quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác

thanh tra, kiểm tra; thể chế hóa kịp thời tinh thần của Hiến pháp và các đạo luật

quan trọng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có liên quan

đến công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,

chống tham nhũng. Để làm được điều đó, Thanh tra Bộ đã xác định cụ thể sau:

Thứ nhất, hoạt động thanh tra, kiểm tra được xác định là một trong các

hoạt động quản lý quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự.

Việc thanh tra, kiểm tra được tiến hành thường xuyên theo kế hoạch đã được

Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt đối với các chuyên đề thanh tra Phòng chống

tham nhũng, công tác tổ chức cán bộ, công tác đầu tư xây dựng cơ bản và việc

quản lý, sử dụng kinh phí hành chính sự nghiệp. Ngoài ra, các hoạt động thanh

tra, kiểm tra đột xuất và kiểm tra liên ngành cũng được chú trọng thực hiện.

Thứ hai, Thanh tra Bộ thường xuyên phối hợp với Tổng cục Thi hành

án dân sự thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn nghiệp

vụ thi hành án dân sự.

Thứ ba, trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Bộ đã kịp

85

thời tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, giải quyết kịp thời, đúng

quy định các đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Quy trình giải quyết

khiếu nại, tố cáo được chấp hành nghiêm từ khâu tiếp công dân đến tiếp nhận

và xem xét giải quyết. Đối với các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài, lãnh

đạo và các cá nhân có thẩm quyền đã chú trọng khâu đối thoại trực tiếp, tìm

hiểu tâm tư, nguyện vọng của người tố cáo, khiếu nại để giải quyết triệt để. -

Xây dựng Thanh tra Bộ là cơ quan có thực quyền, hoạt động có hiệu lực, hiệu

quả dựa trên nguyên tắc khách quan, công bằng và từng bước được đổi mới

phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập hiện nay.

Công tác thanh tra, kiểm tra trong thời gian qua tuy đã có tiến bộ bước

đầu nhưng chưa thực sự phát huy được vai trò là công cụ đắc lực phục vụ

công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Kế hoạch thanh tra chưa sát với đối

tượng được thanh tra, việc thanh tra đôi lúc mang tính hình thức, chưa phát

hiện được nhiều sai sót trong quá trình quản lý.

Để khắc phục tình trạng trên, Thanh tra Bộ ngày càng hoàn thiện về

biên chế, kiện toàn bộ máy Lãnh đạo và nâng cao chất lượng của công chức

làm công tác thanh tra sao cho đáp ứng được khối lượng công việc, cũng như

nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước.

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, hiện nay điểm e khoản 1 Điều 167

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự 2014:

Thanh tra việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản

lý, thực hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người

lao động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải

quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác

thi hành án dân sự.

Việc quy định nêu trên đã loại bỏ chức năng thanh tra nghiệp vụ tổ

86

chức thi hành án dân sự là một điều bất cập. Hiện nay, nội dung nêu trên chỉ

được thực hiện thông qua công tác kiểm tra của Tổng cục Thi hành án dân sự

và việc kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.

Khoản 1, khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định:

Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt

động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp

luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội

chủ nghĩa,bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất.

Điểm g khoản 2 Điều 6 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm

2014 cũng quy định một trong những công tác của Viện kiểm sát nhân dân

khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm sát việc thi hành

án dân sự, thi hành án hành chính.

Qua công tác kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân các cấp thường ban

hành các Quyết định kháng nghị hoặc kiến nghị đối với các các cơ quan thi

hành án dân sự nếu phát hiện có vi phạm trong quá trình tổ chức thi hành án.

Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều Luật Thi hành án dân sự 2014 lại quy định về quyền của cơ quan thi

hành án dân sự có quyền “chấp nhận, chấp nhận một phần hoặc không chấp

nhận” đối với quyết định kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân.

Như vậy, có thể thấy vai trò của Viện kiểm sát nhân dân các cấp mặc

dù là nguyên tắc hiến định, nhưng trong một chừng mực nào đó trong quá

trình thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan

thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, thì chỉ dừng lại

ở nội dung kiểm sát đối với nghiệp vụ thi hành án và kiểm sát đối với hoạt

động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự (đây là một trong

87

những nội dung của công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong

hoạt động tư pháp). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc kiểm sát thi

hành án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân các cấp thường gặp khó khăn đối với

các trường hợp có nhiều lĩnh vực liên quan trong việc thi hành án mà ngành

kiểm sát không thực hiện việc quản lý nhà nước (hoạt động bán đấu giá tài

sản và công chứng). Đồng thời, Viện kiểm sát nhân dân các cấp cũng không

có thẩm quyền kiểm sát trong một số lĩnh vực liên quan đến hoạt động thi

hành án dân sự, như: đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý, sử dụng kinh phí,

phòng chống tham nhũng…

Do vậy, để xây dựng cơ quan thanh tra có thực quyền cần sửa đổi quy

định này sao cho phù hợp để thanh tra phải được sử dụng như một công cụ có

hiệu quả trong quá trình quản lý.- Phát triển Thanh tra Bộ với lộ trình cụ thể,

từng bước vững chắc, phù hợp với quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cải

cách hành chính, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của

bộ máy nhà nước, phòng, chống tham nhũng và hội nhập quốc tế.

Thanh tra được xác định là chức năng thiết yếu của quản lý nhà

nước. Thanh tra Tư pháp luôn gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước của

ngành Tư pháp. Thanh tra Bộ giúp chủ thể quản lý (Bộ Tư pháp) đánh giá

đúng tình hình thực hiện những nhiệm vụ thuộc phạm vi quản lý nhà nước

của ngành Tư pháp.

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, Thanh tra Bộ ngày càng hoạt động

có hiệu quả trong công tác thanh tra đối với các chuyên đề như, tổ chức cán

bộ, quản lý, sử dụng kinh phí hành chính sự nghiệp, phòng chống tham

nhũng, đầu tư xây dựng cơ bản và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Qua công tác

thanh tra, đã phòng ngừa được những vi phạm của các Chấp hành viên,

người làm công tác thi hành án dân sự. Đồng thời, đã xử lý các vi phạm

nghiêm trọng của công chức thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi

88

hành các bản án.

2.4.2. Mục tiêu bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong

quản lý nhà nước về thi hành án dân sự

2.4.2.1. Mục tiêu chung

Xác lập địa vị pháp lý của Thanh tra Bộ phù hợp với chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và

phòng, chống tham nhũng; tăng cường tính tập trung, thống nhất, chủ động và

tự chịu trách nhiệm trong tổ chức và hoạt động; xây dựng đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức thanh tra chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm

chính nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng

yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế [52].

Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, sự hiện diện của cơ quan thanh tra là

sự nhắc nhở thường xuyên đối với tất cả các đối tượng thanh tra, đối tượng

chịu sự quản lý. Hoạt động thanh tra thường xuyên hay đột xuất luôn tạo ra

một yêu cầu thường trực cho các đối tượng chịu sự quản lý nếu vi phạm pháp

luật sẽ bị xử lý, do đó, luôn luôn phải cảnh giác tuân thủ pháp luật và nhờ đó

đã hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần phòng ngừa tham nhũng,

đồng thời, nâng cao trách nhiệm trong việc tổ chức thi hành án, cũng như

nâng cao trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng các cơ quan

thi hành án dân sự.

Ngoài ra, qua công tác thanh tra đã phát hiện những quy định bất cập,

những kẽ hở của chính sách, pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự, từ đó

kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉnh sửa hoặc bãi bỏ để hoàn

thiện hệ thống chính sách, pháp luật.

Thực tế ngành Tư pháp đã chứng minh, trong nhiều trường hợp, công

tác thanh tra đóng vai trò quan trọng trong việc dự báo được những hành vi vi

phạm pháp luật sẽ phát sinh trong tương lai nếu không có sự điều chỉnh, định

89

hướng kịp thời từ phía các cơ quan quản lý nhà nước.

2.4.2.2. Mục tiêu cụ thể

- Giai đoạn từ nay đến năm 2020: Kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế;

chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ

cán bộ, công chức, viên chức; nâng cao chất lượng các mặt công tác, đặc biệt

là tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi

hành án dân sự [52].

Để đạt được mục tiêu trên, Thanh tra Bộ chủ động khảo sát và báo cáo

Lãnh đạo Bộ Tư pháp phê duyệt một số nội dung trong công tác thanh tra liên

quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự, như: tăng số lượng các Đoàn thanh tra

về công tác tổ chức, cán bộ; công tác đầu tư xây dựng cơ bản; công tác quản

lý, sử dụng kinh phí hành chính sự nghiệp; công tác phòng chống tham

nhũng. Ngoài việc tăng số lượng đoàn thanh tra nói trên, Thanh tra Bộ cũng

yêu cầu các Đoàn thanh tra nâng cao chất lượng thanh tra, hoạt động có hiệu

quả, tránh việc thanh tra hình thức và bao che cho những vi phạm pháp luật.

Đồng thời, Thanh tra Bộ cũng chú trọng đến công tác tiếp dân và tham

mưu cho Bộ trưởng xem xét, giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo trong

lĩnh vực thi hành án dân sự.

- Giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030: Xây dựng và tăng cường tính

hệ thống của Thanh tra Bộ theo hướng quản lý tập trung, thống nhất về tổ

chức, biên chế; nâng cao vai trò của các cơ quan thanh tra trong quản lý nhà

nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tăng cường

tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính của đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức [52].

Thanh tra Bộ tiếp tục khẳng định vai trò trong hoạt động quản lý nhà

nước và tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh

vực thi hành án dân sự.

90

Ngoài ra, sẽ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về thi hành án

dân sự và Luật Thi hành án dân sự để tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp

báo cáo trình Quốc Hội đưa Luật Thi hành án dân sự vào chương trình xây

dựng Luật, pháp lệnh. Trong đó, nội dung cơ bản để sửa đổi Luật Thi hành án

dân sự là quy định chức năng thanh tra theo kế hoạch đối với nghiệp vụ thi

hành án dân sự của Bộ Tư pháp, để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả

công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

2.5. Giải pháp bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong

quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự

Để đảm bảo nâng cao vị trí, vai trò của Thanh tra Bộ nói chung và

trong công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự nói riêng; đảm bảo

thực hiện có trọng tâm, trọng điểm mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể trong

thời gian tới theo các chương trình, định hướng đã đề ra cần phải thực hiện

đồng bộ các giải pháp có tính chất tổng quát như trình bày dưới đây.

2.5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật

2.5.1.1. Sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự

Thanh tra là một khâu quan trọng trong công tác quản lý nhà nước nói

chung và lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng. Nhiệm vụ, mục đích của công

tác thanh tra không chỉ bó hẹp trong phạm vi tìm và xử lý những sai phạm mà

còn tập trung vào việc phát hiện những nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng

trên. Đặc biệt, công tác thanh tra được xem như một công cụ để kiểm nghiệm

tính đúng đắn của các quyết định quản lý nhà nước; từ đó có những sự điều

chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, vai trò của Thanh tra Bộ trong

quản lý nhà nước về thi hành án dân sự chưa thực sự tương xứng với vị trí cũng

như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này. Thực trạng này xuất

phát trước hết và trên hết từ sự thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Do đó,

91

việc hoàn thiện thể chế là điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010 đã định

nghĩa về Thanh tra như sau:

Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình

tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền

hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm

thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.

Hiểu theo cách khác, phạm vi của công tác thanh tra được xác định và

giới hạn phụ thuộc vào phạm vi quản lý nhà nước. Tuy nhiên, theo quy định

hiện hành của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự,

công tác thanh tra nghiệp vụ thi hành án không thuộc thẩm quyền của Bộ Tư

pháp trong khi Bộ Tư pháp chính là cơ quan quản lý và chịu trách nhiệm

trước Chính phủ về công tác này. Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật

Thi hành án dân sự quy định về nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về thanh tra, kiểm

tra trong lĩnh vực thi hành án dân sự như sau:

Thanh tra việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản

lý, thực hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người

lao động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải

quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác

thi hành án dân sự.

Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự theo hướng trao

trả cho Bộ Tư pháp thẩm quyền thanh tra đối với công tác nghiệp vụ thi hành

án dân sự là rất cần thiết

2.5.1.2. Sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh

tra Bộ Tư pháp

Tương ứng với việc sửa đổi Luật Thi hành án dân sự, điều cốt yếu tiếp

92

theo là sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ.

Nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung vào việc Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao

Thanh tra Bộ thực hiện chức năng thanh tra nghiệp vụ thi hành án dân sự.

Việc này là rất cần thiết; một mặt giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp có cái nhìn toàn

diện về công tác thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước mặt khác góp phần

hoàn thiện công tác quản lý nhà nước trong thi hành án dân sự; đánh giá đúng

thực trạng của công tác này hướng đến mục tiêu hoàn thiện thể chế, chính

sách, pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

Ngoài ra, Thanh tra Bộ cần được bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn trong công tác tham mưu về tổ chức cán bộ và quản lý về chuyên môn

nghiệp vụ. Cụ thể, kiến nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp có sự thay đổi trong các

quy định liên quan đến việc tham vấn ý kiến trong lĩnh vực tổ chức cán bộ và

quản lý chuyên môn thi hành án dân sự theo hướng ý kiến của Thanh tra Bộ

có giá trị bắt buộc trong chỉ đạo, điều hành thay vì giá trị tham khảo như hiện

nay. Trường hợp không nhất trí, Tổng cục Thi hành án dân sự thực hiện việc

báo cáo tới Lãnh đạo Bộ phụ trách. Việc này liên quan đến tính chủ động và

kết quả thanh tra tại các cơ quan thi hành án địa phương nhằm hướng đến mục

tiêu hạn chế đến mức tối đa những tiêu cực trong bổ nhiệm, bộ nhiệm lại các

chức danh lãnh đạo, tăng cường vị thế cho ngành thi hành án dân sự.

Tăng cường sự phối hợp giữa Thanh tra Bộ và Tổng cục Thi hành án

dân sự trong công tác kiện toàn bộ máy tổ chức của các cơ quan thi hành án

dân sự địa phương. Nội dung này tập trung vào việc Tổng cục Thi hành án

dân sự cần thông báo, thống kê về danh sách các chức vụ lãnh đạo được dự

kiến bổ nhiệm và bổ nhiệm lại trong vòng 02 năm tiếp theo kể từ thời điểm

báo cáo. Thanh tra Bộ sẽ căn cứ vào báo cáo, thống kê của Tổng cục Thi hành

án dân sự để lập Kế hoạch thanh tra. Qua đó, Thanh tra Bộ chủ động trong

việc rà soát và cho ý kiến đối với các trường hợp bổ nhiệm và bổ nhiệm lại.

2.5.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ Tư pháp

93

Căn cứ tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban

Chấp hành Trung Ương về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,

công chức, viên chức, việc bổ sung biên chế trong giai đoạn này tương đối

khó khăn nhưng tác giả vẫn mạnh dạn đề xuất, đối với các trường hợp tuyển

dụng mới, Thanh tra Bộ cần ưu tiên nam giới, đặc biệt là những người đã có

kinh nghiệm trong công tác thi hành án dân sự. Việc này có thể vấp phải sự

phản đối của một số chuyên gia về lao động do có sự phân biệt đối xử trong lao

động giữa nam và nữ; giữa những người có kinh nghiệm và sinh viên mới ra

trường, tiềm ẩn nguy cơ bất bình đẳng về cơ hội việc làm. Tuy nhiên, trong giai

đoạn hiện nay, đối với Thanh tra Bộ, việc này là rất cần thiết do đặc thù công

việc, nghề nghiệp của ngành cần có những người có kinh nghiệm và có thể

tham gia các đoàn công tác xa nhà trong một khoảng thời gian tương đối dài.

Để thu hút được lao động có kinh nghiệm, trong thời gian tới, Thanh

tra Bộ nói riêng và Bộ Tư pháp nói chung cần đổi mới phương thức tuyển

dụng công chức; cụ thể, tập trung vào các vấn đề liên quan đến tư duy nhận

thức và kỹ năng thay vì kiến thức pháp luật thuần túy như hiện nay. Song

song với đó, cần sớm xây dựng chính sách thu hút người tài, trong đó tập

trung vào việc cải thiện môi trường làm việc và có chế độ đãi ngộ, chế độ

dưỡng liêm một cách hợp lý.

2.5.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức Thanh tra Bộ Tư pháp

Tập trung vào phát triển con người chính là vấn đề cốt yếu trong sự

thành, bại khi thực hiện một công việc nhất định và công tác quản lý nhà

nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự không phải là một ngoại lệ. Trong

giai đoạn tới cần tập trung và đầu tư vào công tác giáo dục, đào tạo nâng cao

trình độ cho các Thanh tra viên, chú trọng việc giáo dục chính trị - tư tưởng,

nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho các bộ, công chức thanh tra có đạo đức,

có văn hóa, cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Bên cạnh đó, cần chú

trọng các kỹ năng mềm khác để phục vụ công việc như kỹ năng tin học, kỹ

94

năng tổng hợp, phân tích.

2.5.4. Đổi mới phương thức hoạt động

Đứng trước yêu cầu của tình hình mới, việc hoạt động theo lối mòn, tư

duy cũ đã không còn phù hợp; thay vào đó, để đạt được những mục tiêu ngắn

và dài hạn việc cấp thiết của cơ quan Thanh tra Bộ chính là đổi mới phương

thức hoạt động trên những mặt cơ bản sau:

- Tăng cường thanh tra trách nhiệm của Cục trưởng Cục Thi hành án

dân sự và Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự trong việc thực hiện

pháp luật về phòng, chống tham nhũng và tiếp công dân, giải quyết khiếu

nại, tố cáo.

- Tăng cường công tác giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra, thẩm

định kết luận thanh tra, công khai kết quả, quyết định xử lý về thanh tra. Tập

trung xem xét tính hợp pháp, chính xác của các kết luận thanh tra nhằm phát

hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật để tiến hành thanh tra lại hoặc kiến nghị biện

pháp xử lý theo quy định.

- Hoàn thiện và đẩy mạnh việc triển khai các quy định về bảo đảm

việc thực hiện kết luận, kiến nghị xử lý sau thanh tra theo hướng tăng cường

trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước và các biện pháp xử lý

trách nhiệm.

- Ngoài ra, phân công công việc hợp lý; nâng cao tinh thần trách nhiệm

của Thanh tra viên trong việc tiến hành thanh tra độc lập cũng là một hình

thức cần được cân nhắc trong thời gian tới. Hiện nay, số lượng vụ việc do

thanh tra viên tiến hành thanh tra độc lập chiếm tỷ lệ tương đối ít, dẫn đến

tình trạng số lượng vụ việc còn tồn đọng, kéo dài.

2.5.5. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác thanh tra, giải

quyết khiếu nại, tố cáo

Đây là công việc hết sức quan trọng, đảm bảo hiệu quả cho của công

tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời kỳ hiện nay. Liên quan

95

đến vấn đề này, trong thời gian tới, Thanh tra Bộ cần xây dựng và đưa vào sử

dụng hệ thống cơ sở dữ liệu về việc xử lý đơn, thư và giải quyết khiếu nại, tố

cáo và phòng chống tham nhũng trên phạm vi toàn quốc. Việc này góp phần

làm công tác quản lý nhà nước của Thanh tra Bộ nói chung trở nên khoa học

hơn đồng thời cũng cung cấp cái nhìn toàn diện về công tác thi hành án dân

sự trên phạm vi toàn quốc. Thông qua đó, việc tổng kết, rút kinh nghiệm trong

lĩnh vực này trở nên thuận lợi hơn. Song song với đó, Thanh tra Bộ cần bổ

96

sung công chức chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này.

KẾT LUẬN

Nhìn chung, công tác thi hành án dân sự trong trên phạm vi toàn quốc

trong những năm qua đã có sự chuyển biến tích cực, khả quan với kết quả cao

năm sau hơn so với năm trước. Qua việc tổng kết, đánh giá kết quả công tác

thi hành án dân sự hàng năm Bộ Tư pháp đã giao các cơ quan Thi hành án dân

sự đã tập trung quán triệt và triển khai thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ công

tác năm do các cơ quan cấp trên giao; hoạt động chỉ đạo, điều hành trong nội

bộ ngành bám sát kế hoạch và có trọng tâm, trọng điểm.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thi hành án dân sự hiện

nay vẫn còn những hạn chế, khó khăn và vướng mắc. Nguyên nhân của việc

này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp

luật, các vấn đề liên quan đến kỹ thuật và con người. Trong số những nguyên

nhân này thì vấn đề con người với tư duy, nhận thức pháp luật chưa thực sự

chính xác là vấn đề cốt yếu. Thanh tra chính là phương thức truyền thống và

hiệu quả nhất để giải quyết triệt để những nguyên nhân nêu trên.

Chính vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích vai trò của Thanh tra Bộ trong

quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn

thiện hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự trong thời gian tới là rất quan

trọng và cần thiết.

Qua việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý

nhà nước về thi hành án dân sự”, tác giả rút ra một số kết luận sau:

Thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước, để những bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác

được thi hành trên thực tế nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,

cá nhân, công dân... Hoạt động thi hành án nói chung, Thi hành án dân sự nói

riêng kém hiệu quả sẽ không bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của các

97

bên đương sự, tính nghiêm minh của pháp luật sẽ không được đảm bảo trên

thực tế, sẽ dẫn đến những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội. Trong những

năm qua, thực tế hoạt động Thi hành án dân sự còn nhiều hạn chế trở thành

vấn đề được quan tâm của cơ quan quản lý và trở thành nỗi lo, bức xúc của

toàn xã hội. Trong điều kiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện

nay việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý và cơ quan

thi hành án dân sự là đòi hỏi mang tính tất yếu và khách quan.

Nhà nước cần tăng cường công tác quản lý nhà nước trong thi hành án

dân sự và từng bước cải cách hoạt động này, cụ thể ở các mặt như: thể chế hoạt

động, tổ chức bộ máy, chất lượng cán bộ, cơ sở vật chất, xây dựng và hoàn thiện

thể chế… để nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.

Qua thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự trên toàn quốc, tác giả đã sử

dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích, đánh giá trên cơ sở

thực tiễn, cơ sở lý luận của vai trò của Thanh tra Bộ trong hoạt động thi hành

án dân sự. Vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý Nhà nước về thi hành án

dân sự ngày càng được củng cố, tăng cường, do đó công tác thi hành án dân

sự có nhiều chuyển biến tích cực, uy tín, vị thế và hiệu quả của công tác thi

hành án dân sự ngày càng đạt nhiều thành tích.

Để tiếp tục hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi

hành án dân sự, tác giả tập trung phân tích một số tồn tại, hạn chế của hoạt

động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự nhằm khắc phục

những tồn tại, hạn chế, bất cập, góp phần cải cách hoạt động quản lý nhà nước

trong lĩnh vực thi hành án dân sự.

Do thời gian nghiên cứu có hạn và được giới hạn trong khuôn khổ của

Luận văn thạc sĩ Luật học, những vấn đề tác giả nêu trong Luận văn không

tránh khỏi những thiếu sót, tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn

98

thiện trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình.

Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp một phần nhỏ cho các nhà

quản lý, hoạch định chính sách về thi hành án dân sự xem xét, tham khảo cho

việc xây dựng chính sách pháp luật để điều chỉnh toàn diện và hiệu quả hơn

trong hoạt động thi hành án dân sự trong thời gian tới.

Tác giả xin được trân trọng gửi lời cảm ơn đến Khoa Luật - Đại học

Quốc gia Hà Nội, Thanh tra Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự và Phó

Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Anh đã giúp đỡ tác giả hoàn thành Luận văn

99

thạc sỹ Luật học.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ - Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp - Ngân

hàng Nhà nước - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1993), Thông tư liên

tịch số 01/TTLN ngày 26/5/1993 về hướng dẫn bàn giao công tác thi

hành án, Hà Nội.

2. Nguyễn Công Bình (1998), “Mấy vấn đề về thi hành án dân sự trong

việc soạn thảo bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí luật học, (5), tr.43-44.

3. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư số 10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010 quy

định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức Chấp hành viên

và Thư ký THA, Hà Nội.

4. Bộ Tài chính (2010), Thông tư 91/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 Hướng

dẫn kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự, Hà Nội.

5. Bộ Tài Chính - Bộ Tư pháp (2008), Thông tư liên tịch số 68/2008/TTLT-

BTC-BTP ngày 21/7/2008 hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử

dụng phí thi hành án, Hà Nội.

6. Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp (2010), Thông tư liên tịch 144/2010/TTLT-

BTC-BTP Hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi

hành án dân sự, Hà Nội.

7. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính (2010), Thông tư liên tịch 04/2009/TTLT-

BTP-BTC Hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi

hành án, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp (2010), Thông tư số 23/TT-BTP quy định chi tiết và hướng

dẫn thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 về bán đấu

giá tài sản, Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp (2011), Thông tư 03/2011/TT-BTP phân cấp quản lý tài

chính, tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản cho Tổng cục Thi hành án dân sự

100

và cơ quan thi hành án dân sự, Hà Nội.

10. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự, Hà Nội.

11. Bộ Tư pháp (2018), Quyết định số 285/QĐ-BTP ngày 12/2/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ Tư pháp, Hà Nội.

12. Bộ Tư pháp chủ trì, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới.

13. Bộ Tư pháp và Viện KSNDTC (2001), Thông tư 12/2001/TTLT-BTP- VKSTC ngày 26/2/2001 hướng dẫn thực hiện một số quy định pháp luật về thi hành án dân sự, Hà Nội.

14. Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp (2012), Quyết định thanh tra số 22/QĐ-

TTR ngày 30/10/2012, Hà Nội.

15. Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp (2013), Kết luận thanh tra số 23/KL-TTR

ngày 25/12/2013, Hà Nội.

16. Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp (2013), Quyết định thanh tra số 11/QĐ-

TTR ngày 06/5/2013, Hà Nội.

17. Chính phủ (2004), Nghị định 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 về kê

biên đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án, Hà Nội.

18. Chính phủ (2004), Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 quy định thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự, Hà Nội.

19. Chính phủ (2005), Nghị định 05/2005/NĐ-CP ngày 18/1/2005 của

Chính phủ quy định về bán đấu giá tài sản, Hà Nội.

101

20. Chính phủ (2005), Nghị định 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 về cơ quan quản lý Thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.

21. Chính phủ (2006), Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 01/8/2006 quy

định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp, Hà Nội.

22. Chính phủ (2008), Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, Hà Nội.

23. Chính phủ (2009), Nghị định số 58/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, Hà Nội.

24. Chính phủ (2009), Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy

định xử phạt hành chính trong lĩnh vực tư pháp, Hà Nội.

25. Chính phủ (2009), Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.

26. Chính phủ (2010), Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 về bán

đấu giá tài sản, Hà Nội.

27. Chính phủ (2011), Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/09/ 2011 quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra, Hà Nội.

28. Chính phủ (2012), Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 09/2/2012 Quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành, Hà Nội.

29. Chính phủ (2017), Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ tư pháp, Hà Nội.

30. Chính phủ (2017), Nghị định số 97/2017/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.

102

31. Hội đồng Nhà nước (1989), Pháp lệnh THADS, Hà Nội.

32. James F. Harrigan (2005), Báo cáo và các đề xuất của Star Việt Nam về

dự thảo Bộ luật thi hành án.

33. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

34. Quốc hội (2004), Luật Thanh tra, Hà Nội.

35. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

36. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức ngày 13/11/2008, Hà Nội.

37. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.

38. Quốc hội (2010), Luật Thanh tra, Hà Nội.

39. Quốc hội (2011), Luật khiếu nại, Hà Nội.

40. Quốc hội (2011), Luật tố cáo, Hà Nội.

41. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thi hành án

dân sự 2014, Hà Nội.

42. Quốc hội, Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; và các Luật sửa đổi, bổ

sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004, 2005, Hà Nội.

43. Quốc hội, Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung) được thông qua

tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII và Hệ thống pháp luật Việt Nam về

Tố tụng dân sự và Thi hành án dân sự, Nxb Lao động.

44. Tài liệu ôn thi Thanh tra viên Chính (Chuyên đề 1 Công tác thanh tra

trong hoạt động quản lý nhà nước).

45. Nguyễn Quang Thái, Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở

Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật học.

46. Thanh tra Bộ (2018), Số liệu tổng kết công tác, Hà Nội.

47. Thanh tra Bộ Tư pháp (2018), Báo cáo kết quả công tác giải quyết khiếu

103

nại, tố cáo Quý III/2018 và 09 tháng đầu năm 2018, Hà Nội.

48. Thanh tra Bộ Tư pháp, Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 06

tháng đầu năm, Hà Nội.

49. Thanh tra Bộ, Số liệu tổng kết 06 năm thực hiện Luật thanh tra, Hà Nội.

50. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định 1777/QĐ-TTg ngày 11/6/2007 ban hành danh sách các cơ quan thi hành án dân sự tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo được tuyển chọn người có trình độ làm cử nhân luật không qua thi tuyển, Hà Nội.

51. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, Hà Nội.

52. Thủ tướng Chính phủ (2015), Chiến lược phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định 2213/QĐ-TTg ngày 08/12/2015, Hà Nội.

53. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt

Nam, Nxb CAND, Hà Nội.

54. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh THADS, Hà Nội.

55. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành

chính số 44/UBTVQH10 ngày 02/7/2002, Hà Nội.

104

56. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.