ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ XUÂN HÒA
VAI TRß CñA THANH TRA Bé T¦ PH¸P
TRONG QU¶N Lý NHµ N¦íC VÒ THI HµNH ¸N D¢N Sù
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
LÊ XUÂN HÒA
VAI TRß CñA THANH TRA Bé T¦ PH¸P
TRONG QU¶N Lý NHµ N¦íC VÒ THI HµNH ¸N D¢N Sù
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Mã số: 8380101.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN HOÀNG ANH
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của cá
nhân tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn.
Trân trọng cảm ơn!
Người cam đoan
Lê Xuân Hòa
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THANH TRA BỘ TƢ PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................................................ 7 1.1. Thi hành án dân sự và quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự ....... 7 1.1.1. Định nghĩa thi hành án dân sự ............................................................. 7 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự .......................... 10 1.1.3. Vai trò của hoạt động thi hành án dân sự ........................................... 12 1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ........ 17 1.1.5. Chủ thể quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ............................... 18 1.1.6. Nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ............................. 23 1.1.7. Hình thức quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự ......... 29
1.2. Thanh tra Bộ Tƣ pháp và vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp
trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự.............................. 31
1.2.1. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh
tra Bộ Tư pháp.................................................................................... 31
1.2.2. Vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi
hành án dân sự .................................................................................... 42
1.3. Các điều kiện đảm bảo vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp
trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự.............................. 56
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA THANH TRA BỘ TƢ PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ............................................. 59
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ
Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự .............. 59
2.1.1. Về quản lý công tác tổ chức cán bộ ................................................... 60 2.1.2. Về quản lý chuyên môn, nghiệp vụ.................................................... 61 2.1.3. Về khen thưởng và xử lý vi phạm ...................................................... 64 2.1.4. Về công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo ........................ 64
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự và những hạn chế, tồn tại ..................................................................... 67 2.2.1. Trong lĩnh vực công tác tổ chức cán bộ ............................................. 67 2.2.2. Trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ ............................................. 69 2.2.3. Trong lĩnh vực khen thưởng, xử lý vi phạm ...................................... 72 2.2.4. Trong lĩnh vực thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo ................... 76 2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại ...................................... 78 2.3.1. Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật ........................................... 78 2.3.2. Các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy ......................................... 81 2.3.3. Các vấn đề liên quan đến chất lượng công chức ................................ 83
2.4. Quan điểm và mục tiêu bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ
Tƣ pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự .............. 84
2.4.1. Quan điểm bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự ............................................. 85
2.4.2. Mục tiêu bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản
lý nhà nước về thi hành án dân sự ...................................................... 89
2.5. Giải pháp bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong
quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự ........................................ 91 2.5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật ........................................................... 91 2.5.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ Tư pháp ....................... 93 2.5.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức Thanh tra Bộ Tư pháp ....... 94 2.5.4. Đổi mới phương thức hoạt động ........................................................ 95 2.5.5. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo ....................................................................... 95
KẾT LUẬN .................................................................................................... 97 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 100
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bàn về ý nghĩa, vị trí, vai trò của công tác thi hành án dân sự, Giáo sư
James F Harrigan, chuyên gia tư vấn pháp lý cho cơ quan thi hành án San
Francisco, California, Hoa Kỳ cho rằng:
Việc thi hành các bản án của quốc gia là yếu tố quan trọng nhất
trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Tất cả các hệ thống pháp luật
đều dựa vào các Tòa án để giải thích pháp luật bằng cách áp dụng
pháp luật để giải quyết tranh chấp liên quan đến cá nhân, tổ chức
và nhà nước. Việc thực hiện các quyết định đã xem xét của Tòa án
đạt được bằng nỗ lực pháp luật và sự tham gia của các bên tranh
chấp chỉ được công nhận trong việc thi hành các bản án của Tòa
án được đưa ra để giải quyết các tranh chấp. Việc thi hành đó, tiếp
theo quá trình, là một phần không kém quan trọng. Nếu bản án
không được thi hành, có nghĩa pháp luật mà bản án căn cứ vào
không có ý nghĩa trên thực tế. Vì lý do đó, có một khái niệm riêng
giữa hệ thống luật chung và Luật Dân sự khác là bản án phải được
coi là chung thẩm, có giá trị ràng buộc, và có thể thi hành ngay sau
khi ban hành, và việc thi hành án là quyền ưu tiên cao nhất của
một hệ thống pháp luật [32, tr.3].
Việc thi hành án dân sự tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của Nhà
nước, của các cá nhân và tổ chức có liên quan. Trong bối cảnh hội nhập sâu,
rộng của nước ta hiện nay, thông qua việc tác động đến quyền, lợi ích của các
chủ thể trong xã hội, hoạt động thi hành án dân sự trong một chừng mực nhất
định có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình chính trị, kinh tế, xã hội và đặc
1
biệt là lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước, pháp luật. Do đó,
vấn đề quản lý nhà nước về thi hành án dân sự luôn luôn được Bộ Tư pháp
quan tâm, hoàn thiện và nâng cao chất lượng nhằm góp phần trong việc bảo
vệ pháp chế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của, Nhà nước, công dân và duy
trì kỷ cương phép nước.
Với tư cách là cơ quan tham mưu của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Thanh tra
Bộ Tư pháp (Sau đây gọi chung là Thanh tra Bộ) đóng vai trò quan trọng
trong việc giúp Bộ trưởng thực hiện việc quản lý nhà nước về thi hành án dân
sự; đảm bảo công tác này luôn theo đúng định hướng. Tuy nhiên, việc quản lý
nhà nước trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng số lượng khiếu
nại, tố cáo trong lĩnh vực này chiếm 90% số lượng đơn, thư Bộ Tư pháp giải
quyết hàng năm. Công tác thanh tra trong lĩnh vực này cũng còn hạn chế, ví
dụ: Theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án
dân sự năm 2014, Thanh tra Bộ không tiến hành thanh tra theo kế hoạch đối
với lĩnh vực nghiệp vụ thi hành án dân sự, mà chỉ thực hiện chức năng này
thông quá việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và thanh tra đột xuất trong trường
hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật theo quy định tại khoản 2 Điều
19 Luật Thanh tra năm 2010. Như vậy, mặc dù Bộ Tư pháp là cơ quan giúp
Chính phủ quản lý nhà nước toàn diện trong lĩnh vực thi hành án dân sự
nhưng lại không có chức năng thực hiện công tác thanh tra theo kế hoạch đối
với nghiệp vụ thi hành án dân sự là một trong những bất cập lớn của việc
quản lý nhà nước. Thực tiễn cho thấy, từ việc không thực hiện chức năng
thanh tra theo kế hoạch đối với nghiệp vụ thi hành án dân sự dẫn đến tình
trạng khó khăn trong việc phòng ngừa, chấn chỉnh và xử lý đối với những vi
phạm của cơ quan thi hành án dân sự và các công chức làm công tác thi hành
án dân sự. Để công tác thi hành án dân sự có bước chuyển mình thật sự mạnh
mẽ, cần tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự; đặc biệt
2
cần nâng cao vai trò của Thanh tra Bộ. Về mặt lý luận, dù đã có các nghiên
cứu về thi hành án dân sự và về thanh tra, nhưng chưa có công trình nghiên
cứu kết hợp cả hai lĩnh vực này. Do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Vai trò
của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự”.
2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành án dân sự là một trong các lĩnh vực nhận được sự quan tâm
của các cơ quan và các nhà luật học trong nước thể hiện ở số lượng các công
trình nghiên cứu trong khoảng hai mươi năm trở lại đây. Viện Nghiên cứu
Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp phối hợp với Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí
Minh đã có đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Những cơ sở lý luận và thực
tiễn về chế định Thừa phát lại”, mã số 95-98-114/ĐT; Cục Quản lý Thi hành
án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ:
“Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án”, mã số: 96-98-027/ĐT;
Bộ Tư pháp chủ trì đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: “Luận cứ khoa
học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai
đoạn mới”; tác giả Nguyễn Công Long có công trình: “Các biện pháp cưỡng
chế thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2000); tác giả Nguyễn Thanh Thủy có công trình: “Hoàn thiện pháp luật
thi hành án dân sự”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2001); tác giả Lê Kim Dung có công trình: “Civil Execution in Việt
Nam; Reality Problems and Suggestion Towrds a WellFunctioning System”
(Thi hành án dân sự Việt Nam; thực trạng, vấn đề và những gợi ý hướng tới
một hệ thống hoàn thiện), (Luận văn thạc sĩ Luật học, 2002); tác giả Lê Xuân
Hồng có công trình: “Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự”, (Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002); tác giả Trần Anh
Tuấn có công trình: “Thi hành quyết định trọng tài tại Việt Nam”, (Luận văn
thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002); tác giả Nguyễn Quang
3
Thái có công trình: “Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt
Nam”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
2003); tác giả Lê Anh Tuấn có công trình: “Đổi mới thủ tục thi hành án dân
sự Việt Nam”, (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2004). Bên cạnh đó, không thể không đề cập tới những bài viết, nghiên cứu
trao đổi đã được đăng tải trên các tạp chí có uy tín của ngành tư pháp như Tạp
chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học,
Bản tin Thi hành án dân sự về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án
dân sự ở Việt Nam hiện nay.
Về cơ bản các Luận văn và bài viết nêu trên đã nêu toàn cảnh công tác
thi hành án dân sự, đã nêu lên được những khó khăn, vướng mắc qua đó đã
đóng góp một phần không nhỏ về vấn đề lý luận cũng như thực tiễn, giúp hoạt
động thi hành án dân sự dần đi vào nề nếp và tháo gỡ được những khó khăn
vướng mắc. Tuy nhiên, hầu hết các Luận văn nêu trên đều chưa nêu và đánh
giá về vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài nhằm đánh giá được thực trạng công tác
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, qua đó làm rõ vai trò của Thanh tra
Bộ trong lĩnh vực này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của
Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, luận văn đưa ra
một số giải pháp nâng cao vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về
thi hành án dân sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước về thi
hành án dân sự, vị trí, vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi
4
hành án dân sự.
- Đánh giá thực trạng của công tác quản lý nhà nước của Thanh tra Bộ
về thi hành án dân sự trên cả hai phương diện: quy định của pháp luật và thực
tiễn quản lý trong giai đoạn hiện nay.
- Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực trạng hiện nay, đưa ra các
quan điểm, yêu cầu, giải pháp để bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ trong công
tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Các vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh
vực thi hành án dân sự của Thanh tra Bộ.
4.2. Phạm vi
Luận văn nghiên cứu thực tiễn hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh
vực Thi hành án dân sự tại cơ quan Thanh tra Bộ trong giai đoạn từ khi Luật
Thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực ngày 01/7/2009) đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê nin, quan điểm duy vật lịch sử, duy vật biện chứng và đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng một số phương
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp và một số phương pháp luận khác
để lựa chọn những vấn đề cần thiết đưa vào nội dung nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý
nhà nước về thi hành án dân sự.
Đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về vai trò của
Thanh tra Bộ trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, làm rõ những mặt
được, những mặt còn hạn chế, vướng mắc bất cập trong quản lý nhà nước về
5
thi hành án dân sự và nêu các nguyên nhân và bài học kinh nghiệm.
Phân tích các yêu cầu, quan điểm và đề xuất các giải pháp để nâng cao
hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
7. Bố cục của luận văn
Gồm có phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo,
luận văn bao gồm 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp
trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ
6
Tư pháp trong quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA THANH TRA BỘ TƢ
PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Thi hành án dân sự và quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự
1.1.1. Định nghĩa thi hành án dân sự
Hiện nay, dựa trên các quan điểm, nhận thức pháp luật khác nhau, các
chuyên gia, các nhà nghiên cứu luật học đã đưa ra hai quan niệm cơ bản về
hoạt động thi hành án dân sự; cụ thể như sau:
Quan niệm thứ nhất cho rằng, thi hành án là một giai đoạn của tố tụng,
vì: “Có xét xử thì phải có thi hành án, thi hành án dựa trên cơ sở của của
công tác xét xử. Xét xử và thi hành án là hai mặt thống nhất của quá trình bảo vệ lợi ích của đương sự” [2, tr.43-44]. Quan điểm này thừa nhận “không
phải mọi hoạt động trong quá trình thi hành án và quyết định của tòa án đều
nằm trong phạm vi điều chỉnh của Luật tố tụng...” nhưng lại cho rằng thi
hành án “thực chất là hoạt động tố tụng của tòa án, của các cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền nhằm bảo đảm cho bản án và quyết định của tòa án được thi
hành một cách chính xác, kịp thời” [53, tr.282].
Hoạt động thi hành án dân sự được coi là một giai đoạn tố tụng dân
sự, là giai đoạn tiếp theo của hoạt động xét xử để đảm bảo Bản án và Quyết
định của Tòa án được thi hành kịp thời và đúng pháp luật. Tương tự như các
hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, hoạt động thi hành án dân sự hướng
đến mục tiêu chung là bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp cho nhà
nước và nhân dân.
Do vậy, tuy được đặt trong hệ thống cơ quan hành chính nhưng xét về
bản chất, cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
7
nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân.
Đối lập với quan điểm thứ nhất, quan niệm thứ hai lại cho rằng, thi
hành án là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Theo quan niệm này
thì tố tụng là quá trình tiến hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp
luật; quá trình này trải qua nhiều giai đoạn nhưng các giai đoạn có liên quan
mật thiết với nhau trong thể thống nhất và xét xử là giai đoạn cuối cùng của
quá trình tố tụng cho nên bản án, quyết định của toà án là kết quả cuối cùng
đánh dấu sự kết thúc của quá trình tố tụng [2, tr.43-44].
Hay nói cách khác, theo quan điểm thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước, có bản chất là hoạt động hành chính -
tư pháp vì những lý do sau [2, tr.43-44]:
- Thứ nhất, tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng về bản chất là
việc áp dụng các trình tự, thủ tục luật định để xác minh sự thật của các sự kiện
đã diễn ra trên thực tế và giải quyết vụ việc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của Nhà nước và của các cá nhân, tổ chức khác. Trong khi đó, thi hành
án dân sự chỉ đơn thuần là quá trình tiến hành các hoạt động nghiệp vụ nhằm
thực hiện các Bản án và Quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Bên cạnh đó,
quá trình thi hành án dân sự tôn trọng sự thỏa thuận, tự nguyện thi hành án
của các đương sự. Cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên trực tiếp tổ
chức thi hành chỉ thực hiện quyền lực nhà nước khi các bên đương sự không
tự nguyện thi hành. Vì vậy, có thể nói rằng quá trình tố tụng là quá trình đi
tìm sự thật để áp dụng pháp luật; còn thi hành án là quá trình có sự xen kẽ
giữa việc chấp hành pháp luật và áp dụng pháp luật.
- Thứ hai, trong lĩnh vực thi hành án dân sự có sự xen kẽ giữa các quan
hệ mang tính chất tố tụng và quan hệ mang tính hành chính - tư pháp nhưng
các quan hệ mang tính chất hành chính - tư pháp chiếm tỷ lệ cao hơn. Ngoài
ra, việc tổ chức thi hành án là hoạt động của cơ quan nhà nước và người có
8
thẩm quyền nhưng ở một số lĩnh vực Nhà nước có thể ban hành các quy định
để xã hội hóa hoạt động này. Các hoạt động liên quan đến lĩnh vực thừa phát
lại là ví dụ cụ thể cho luận điểm này. Đây cũng chính là một điểm khác biệt
cơ bản so với hoạt động tố tụng nói chung bởi hoạt động tố tụng mang tính
chất quyền lực nhà nước thuần túy. Theo quy định tại Điều 3 Nghị định số
61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của thừa phát lại
thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh, Thừa phát lại được làm những
công việc sau đây:
1. Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc Cơ quan
thi hành án dân sự; 2. Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức; 3. Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của
đương sự; 4. Trực tiếp tổ chức thi hành án các bản án, quyết định
của Tòa án theo yêu cầu của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức
thi hành án các bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ quan
thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án.
Trên sự ghi nhận của Quốc hội về kết quả đạt được trong việc thực hiện
chế định thừa phát lại tại Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 của
Quốc hội và sự phân công của Chính phủ, Bộ Tư pháp hiện đang xây dựng
Nghị định về tổ chức và hoạt động thừa phát lại. Điều 3 Dự thảo Nghị định
quy định về các công việc thừa lại được làm bao gồm:
1. Tống đạt theo yêu cầu của Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự
các cấp, đương sự trong vụ việc dân sự, hành chính, cơ quan nhà
nước và các tổ chức hành nghề bổ trợ tư pháp trên địa bàn tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương nơi đặt Văn phòng Thừa phát lại;
tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến hoạt động tương trợ tư
pháp theo quy định của pháp luật; 2. Lập vi bằng theo yêu cầu của
cá nhân, cơ quan, tổ chức; 3. Xác minh điều kiện thi hành án theo
9
yêu cầu của đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; 4.
Tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu
của đương sự. Thừa phát lại không tổ chức thi hành án các bản án,
quyết định thuộc diện Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự chủ
động ra quyết định thi hành án theo quy định của pháp luật về thi
hành án dân sự.
- Thứ ba, theo quy định của pháp luật hiện hành, cơ quan thi hành án
dân sự áp dụng các trình tự, thủ tục về thi hành án dân sự không chỉ đối với
các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân mà còn bao gồm cả Quyết định
xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi hành án của
Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài thương mại.
Tóm lại, mỗi quan điểm về thi hành án dân sự nêu trên đều có những cơ
sở khoa học và hạt nhân hợp lý riêng. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân của
mình, tôi cho rằng quan điểm thứ hai là hợp lý hơn cả; thi hành án dân sự
không chỉ là hoạt động hành chính hay tư pháp đơn thuần cũng không phải là
một giai đoạn của quá trình tố tụng. Xét về bản chất, thi hành án dân sự nên
được coi là hoạt động hành chính - tư pháp.
Từ những căn cứ nêu trên, theo quan điểm cá nhân của tác giả: thi hành
án dân sự là hoạt động hành chính - tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm đảm bảo Bản án,
Quyết định của Tòa án hoặc các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền
được thực thi trên thực tế.
1.1.2. Đặc trưng cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự
- Thứ nhất, trong hoạt động thi hành án dân sự luôn luôn tồn tại ba
chủ thể bắt buộc; bao gồm: cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên trực
tiếp tổ chức thi hành và các đương sự. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
10
Luật Thi hành án dân sự năm 2014, đương sự bao gồm người được thi hành
án, người phải thi hành án và những người có quyền, nghĩa vụ liên quan.
Trong quan hệ này, cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên là những
chủ thể thực hiện quyền lực Nhà nước, có quyền áp dụng các biện pháp luật
định để đảm bảo các Bản án, Quyết định được thực thi trên thực tế một các
nghiêm chỉnh nhất nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước; quyền và lợi ích hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân.
- Thứ hai, trong hoạt động thi hành án dân sự, tính chủ động, độc lập
của Chấp hành viên trong quá trình tác nghiệp cũng được đề cao và tôn trọng.
Trong quá trình thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên tuân
theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được bảo vệ tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Kể từ thời điểm được phân công tổ chức thi
hành án, Chấp hành viên có quyền chủ động đối với phần lớn các hoạt động
nghiệp vụ của mình trừ một số việc thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự như: ban hành quyết định ủy thác, quyết định trả đơn,
đình chỉ, tạm đình chỉ, hoãn thi hành án.
- Thứ ba, trong một chừng mực nhất định thi hành án dân sự là hoạt
động mang tính quyền lực nhà nước. Cơ quan thi hành án dân sự và Chấp
hành viên sử dụng quyền lực nhà nước để bảo đảm Bản án, Quyết định của
Tòa án và các quyết định dân sự khác theo quy định của pháp luật được thực
thi trên thực tế. Do đó, việc không chấp hành hoặc chấp hành không nghiêm
chỉnh các quy định về thi hành án đều dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất
định và có thể bị xử phạt bằng chế tài tùy mức độ nghiêm trọng của hành vi.
Căn cứ theo quy định của Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư
pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015
11
của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị định 110/2013/NĐ-CP,
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp khắc phục
hậu quả được giao cho các chức danh sau: Chấp hành viên trực tiếp tổ chức
thi hành, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự, Cục trưởng Cục Thi
hành án dân sự, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, Thanh tra
viên Thanh tra Bộ và Chánh Thanh tra Bộ với hình phạt chính là cảnh cáo và
phạt từ tiền từ 500.000 đồng đến 30.000.000 đồng. Ngoài ra, người có hành vi
vi phạm có thể phải thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc khôi phục
lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi. Bên cạnh đó, hoạt động thi hành án dân
sự cũng được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ đảm bảo sự công
bằng trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của các đương sự.
- Thứ tư, khác với thi hành án hình sự, trong thi hành án dân sự,
phương pháp giáo dục, thuyết phục có ý nghĩa quan trọng và trong nhiều
trường hợp mang tính quyết định; đây cũng là phương pháp đặc thù trong lĩnh
vực này. Nhà nước cho phép và bảo hộ việc các đương sự tự thỏa thuận với
nhau về việc thi hành án nếu sự thỏa thuận đó không vi phạm pháp luật,
không trái đạo đức xã hội hay xâm phạm đến lợi ích Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của người thứ ba.
1.1.3. Vai trò của hoạt động thi hành án dân sự
Thứ nhất, đảm bảo các Bản án, Quyết định được thi hành trên thực tế.
Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa
án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Tuy nhiên, như đã trình bày, việc thi hành án không chỉ dừng lại ở việc bảo
đảm các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân được thực thi trên thực tế
mà còn bao gồm các Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và
Trọng tài thương mại theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự:
12
“Những bản án, quyết định được thi hành theo Luật này bao gồm:
1. Bản án, quyết định quy định tại Điều 1 của Luật này đã có hiệu
lực pháp luật:
a) Bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định của Toà án cấp sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm;
b) Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm;
c) Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Toà án;
d) Bản án, quyết định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của
Trọng tài nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận và cho
thi hành tại Việt Nam;
đ) Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh mà sau 30 ngày kể từ ngày có hiệu lực pháp luật đương
sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại Toà án;
e) Quyết định của Trọng tài thương mại.
2. Những bản án, quyết định sau đây của Toà án cấp sơ thẩm được
thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị:
a) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động,
trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động
hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tổn thất về tinh
thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
b) Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Về bản chất, quá trình tác nghiệp của Chấp hành viên thực chất là việc
áp dụng các biện pháp thi hành án để đảm bảo nội dung hiến định đồng thời
hướng tới mục tiêu bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như quyền, lợi ích hợp
pháp cho các cá nhân và tổ chức khác.
Với tính chất đặc thù của một hoạt động liên quan đến quyền con
người, quyền sở hữu tài sản, thi hành án dân sự cũng chính là một trong
13
những hoạt động tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến việc xâm phạm quyền con
người, quyền công dân. Chính vì thế, Nhà nước cần phải có quy định về cơ
chế giám sát, kiểm tra đối với hoạt động thi hành án dân sự. Theo quy định
của pháp luật hiện nay, việc kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án được
giao cho rất nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức như: Quốc hội, Hội đồng nhân
dân, Mặt trận Tổ quốc, Ban chỉ đạo thi hành án.... Đối với cơ quan Bộ Tư
pháp, công tác thanh tra, kiểm tra cũng được lãnh đạo Bộ đặc biệt quan tâm.
Theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008, công tác thanh tra, kiểm tra lĩnh vực
thi hành án dân sự được quy định cụ thể sau:
+ Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp thực hiện việc kiểm tra
định kỳ theo kế hoạch hoặc kiểm tra đột xuất công tác thi hành án dân sự,
đồng thời thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền đối với
các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.
+ Thanh tra Bộ là cơ quan tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực
hiện việc thanh tra theo kế hoạch đối với các cơ quan thi hành án dân sự địa
phương (Kế hoạch thanh tra được Bộ trưởng phê duyệt trên cơ sở đề xuất của
Thanh tra Bộ). Trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật,
Thanh tra Bộ thực hiện việc thanh tra đột xuất đối với các cơ quan thi hành
án, Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án theo quy định tại
khoản 2 Điều 19 Luật Thanh tra năm 2010. Ngoài ra, Thanh tra Bộ còn đóng
vai trò là cơ quan tham mưu cho Bộ trưởng trong việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo theo thẩm quyền và tham mưu cho Bộ trưởng trong việc xem xét lại đối
với các Quyết định giải quyết khiếu nại của Cục trưởng Cục Thi hành án dân
sự và Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự đã có hiệu lực thi hành
theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự năm 2008
(Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại quyết
định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành quy định tại khoản 2 và
14
khoản 3 Điều này).
Tuy nhiên, hiện nay theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014, Thanh tra Bộ không còn thực
hiện chức năng thanh tra theo kế hoạch về lĩnh vực nghiệp vụ thi hành án.
Việc thanh tra về nghiệp vụ thi hành án chỉ được thực hiện trong trường hợp
thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm hoặc theo yêu cầu của
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động bảo vệ quyền lợi của người
được thi hành án được xác định trong bản án, quyết định.
Quyền lợi của người được thi hành án được bảo vệ bằng dưới hai hình
thức: do các đương sự tự thỏa thuận thực hiện hoặc được nhà nước bảo đảm
bằng quyền lực nhà nước. Như đã trình bày ở phần trên, các quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự tôn trọng sự tự nguyện và cho phép các đương
sự được quyền thỏa thuận trong thi hành án. Xuất phát từ nguyên tắc “Vấn đề
dân sự, thương sự cốt ở hai bên”, trong mọi giai đoạn của quá trình thi hành
án dân sự, các đương sự đều có quyền thỏa thuận, định đoạt các vấn đề liên
quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ đã được quyết định trong các bản
án, quyết định. Nhà nước tôn trọng sự thỏa thuận đó. Việc pháp luật tôn trọng
sự tự giải quyết giữa các bên có tác dụng làm giảm gánh nặng của cơ quan thi
hành án, làm tăng tình đoàn kết giữa hai bên và phù hợp với truyền thống của
người Việt Nam khuyến khích hòa giải ở bất kỳ giai đoạn nào.
Mặt khác, trong trường hợp các đương sự không tự nguyện thi hành án
hoặc không tôn trọng sự thỏa thuận trước đó, Nhà nước mà đại diện ở đây là
cơ quan thi hành án và Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành sử dụng
quyền lực nhà nước như một công cụ hữu hiệu để bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa và quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khác với nhiều nước trên
thế giới, ở Việt Nam từ ngày 01/7/1993, Tòa án nhân dân không còn được
15
giao nhiệm vụ thi hành án dân sự mà công việc này được chuyển giao từ Toà
án nhân dân các cấp sang các cơ quan của Chính phủ [1], tuy nhiên điểm
chung trong pháp luật các nước, đó là đảm bảo kiểm soát việc sử dụng biện
pháp chế tài trong thi hành án dân sự bằng các biện pháp cưỡng chế. Nhân
danh Nhà nước, các cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên thực hiện
quyền lực này. Áp dụng các biện pháp cưỡng chế đương nhiên là quyền
chuyên biệt của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên; do đó, mọi cá nhân,
tổ chức khác không được phép sử dụng quyền lực để buộc người khác thực
hiện nghĩa vụ của họ nếu pháp luật không cho phép.
Thứ ba, góp phần nâng cao chất lượng của Bản án, quyết định
Các Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
phải được tôn trọng và thi hành. Ngược lại, chính hoạt động thi hành án cũng
góp phần củng cố, hoàn thiện công tác xét xử. Thông qua việc áp dụng các
biện pháp thi hành án, nếu có sai sót trong bản án, quyết định được thi hành,
cơ quan thi hành án sẽ có những kiến nghị thích hợp, giúp cho cơ quan có
thẩm quyền có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm trong việc áp dụng
pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng của bản án, quyết định. Điểm đ Khoản 1
Điều 23 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự (gồm Cục trưởng và Chi cục trưởng) có nhiệm vụ, quyền hạn trong
việc “Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật”.
Thứ tư, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân
Khác với thi hành án hình sự, cơ chế tự thỏa thuận trong thi hành án
dân sự có tác động tích cực đến quyền, lợi ích của các bên đương sự, cụ thể:
người được thi hành án sớm khôi phục lại quyền lợi của mình; người phải thi
hành án có thể giảm được một phần nghĩa vụ theo bản án, quyết định đặc biệt
giảm được các thiệt hại về vật chất so với trường hợp cơ quan thi hành án tổ
16
chức thi hành như chi phí cưỡng chế thi hành án, lãi suất chậm thi hành án.
Những quy định như vậy sẽ thúc đẩy các đương sự ý thức tự nguyện trong
việc thi hành án, cũng như thái độ, ý thức khi thỏa thuận với nhau trong việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ trong bản án, quyết định. Việc quy định rõ ràng về
quyền tự thỏa thuận giữa các đương sự là một công cụ quan trọng trong việc
phổ biến, giáo dục pháp luật đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
trong nhân dân.
1.1.4. Khái niệm quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước là toàn bộ hoạt động thực hiện chức
năng của Nhà nước với tư cách là một tổ chức đặc biệt do giai cấp thống trị
lập ra để quản lý xã hội. Nhà nước có quyền ban hành pháp luật, pháp luật do
nó ban hành có giá trị bắt buộc chung và được đảm bảo thực thi bằng các biện
pháp cưỡng chế do Nhà nước thực hiện. Ở đây, hoạt động quản lý nhà nước
cũng bao hàm cả hoạt động tài phán đối với các tranh chấp phát sinh bằng
pháp luật mà Nhà nước định ra. Nói cách khác, theo nghĩa rộng quản lý nhà
nước là toàn bộ hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của loại chủ thể đặc
biệt là Nhà nước, nó dùng để phân biệt với hoạt động quản lý của các chủ thể
khác trong xã hội.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước là nội dung hoạt động cơ bản của cơ
quan nhà nước. Loại cơ quan này có chức năng chuyên trách quản lý mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế, xã hội dựa trên các quy định của hệ thống pháp luật
do cơ quan lập pháp ban hành. Đó là hoạt động của cơ quan hành pháp hay
còn gọi là cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan quản lý nhà nước. Đặc
điểm của hoạt động quản lý theo nghĩa hẹp là nó chuyển hoá các quy định của
pháp luật vào đời sống xã hội bằng các biện pháp quản lý, tác động trực tiếp
đến hành vi ứng xử của các đối tượng quản lý. Hoạt động này hiện diện ở mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Đây cũng là hoạt động trực tiếp quản lý
17
tài nguyên, lao động, công sản, nền tài chính công và các nguồn lực của xã
hội. Nói cách khác, cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan có thực quyền. Hoạt
động của nó không chịu sự giám sát của nhiều thiết chế khác nhau như giám
sát của cơ quan lập pháp, của xã hội và nhân dân… mà bản thân nó phải có
các cơ chế thanh tra, kiểm tra để đảm bảo hiệu quả và tính hợp pháp của hoạt
động quản lý.
Từ những nhận thức, quan điểm chung nhất về quản lý nhà nước nói
chung, có thể định nghĩa về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân
sự là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước nhằm tác động có tổ chức đối với
tất cả các hoạt động trong lĩnh vực thi hành án dân sự do các cơ quan thi hành
án dân sự tiến hành để hiện thực hoá những Bản án, Quyết định của Toà án và
quyết định của cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định.
1.1.5. Chủ thể quản lý nhà nước về thi hành án dân sự
Ngày 13/3/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2013/NĐ-CP và
ngày 16/8/2017, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 96/2017/NĐ-CP,
quy định vị trí và chức năng của Bộ Tư pháp:
Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về: Xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự, thi
hành án hành chính, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, bồi thường
nhà nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công trong các lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ [29, Điều 1].
Việc xác định và hiểu rõ về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân
sự đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tăng cường, nâng cao hiệu quả
của công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.
18
Đồng thời, Điều 13 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và Luật Sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014, hệ thống các cơ
quan thi hành án dân sự được phân chia thành cơ quan quản lý thi hành dân sự
và các cơ quan thi hành án dân sự.
- Cơ quan quản lý thi hành án dân sự
Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực thi hành vào
ngày 01/7/2009) và Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật
Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành
án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, ở Trung ương:
Tổng cục Thi hành án dân sự là cơ quan quản lý thi hành án dân sự trực
thuộc Bộ Tư pháp [25, Điều 2, Khoản 1]. Ngày 06/11/2009, Bộ trưởng Bộ Tư
pháp ban hành Quyết định số: 2999/QĐ-BTP để công bố việc thành lập Tổng
cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp.
Ngày 30/10/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
61/2014/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành
án dân sự thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý
nhà nước về công tác thi hành án dân sự và thi hành án hành chính trong
phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự và thi
hành án hành chính theo quy định của pháp luật.
Ngày 13/3/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2013/NĐ-CP
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp
(nay được thay thế bằng Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017), thì
Tổng cục Thi hành án dân sự được thành lập và là cơ quan giúp Bộ trưởng Bộ
Tư pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân
19
sự và thi hành án hành chính. Cụ thể như sau:
+ Quản lý hệ thống tổ chức, biên chế và hoạt động của cơ
quan thi hành án dân sự; quyết định thành lập, giải thể các cơ quan
thi hành án dân sự;
+ Hướng dẫn, chỉ đạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Chấp hành viên,
Thẩm tra viên và công chức khác làm công tác thi hành án dân sự;
+ Hướng dẫn, bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý thi hành án
hành chính;
+ Quyết định kế hoạch phân bổ kinh phí, bảo đảm cơ sở vật
chất, phương tiện hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; bảo
đảm biên chế, cơ sở vật chất, phương tiện cho công tác quản lý nhà
nước về thi hành án hành chính theo quy định của pháp luật;
+ Ban hành và thực hiện chế độ thống kê về thi hành án dân
sự, thi hành án hành chính;
+ Báo cáo về công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành
chính theo quy định của pháp luật [30, Điều 2, Khoản 13].
Về cơ cấu tổ chức, Tổng cục Thi hành án dân sự có 08 đơn vị trục
thuộc; trong đó có 07 tổ chức hành chính có nhiệm vụ giúp Tổng cục trưởng
thực hiện chức năng quản lý nhà nước và 01 tổ chức sự nghiệp công lập. Cụ
thể như sau:
+ Vụ Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định dân sự,
kinh tế, lao động, hôn nhân gia đình, trọng tài thương mại (gọi tắt là Vụ
nghiệp vụ 1);
+ Vụ Quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành bản án, quyết định phá sản; phần
dân sự, tiền, tài sản, vật chứng trong bản án, quyết định hình sự và quyết định xử
lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản (gọi tắt là Vụ Nghiệp vụ 2);
+ Vụ Quản lý Thi hành án hành chính (gọi tắt là Vụ Nghiệp vụ 3);
20
+ Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo;
+ Vụ Tổ chức cán bộ;
+ Vụ Kế hoạch - Tài chính;
+ Văn phòng;
+ Trung tâm Thống kê, Quản lý dữ liệu và Ứng dụng công nghệ thông tin.
- Các cơ quan thi hành án dân sự địa phương
Theo Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tướng
Chính phủ, Cơ quan Thi hành án dân sự ở địa phương bao gồm Cục Thi
hành án dân sự ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là
Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh) trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và
Chi cục Thi hành án dân sự ở các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(gọi chung là Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện) trực thuộc Cục Thi
hành án dân sự cấp tỉnh.
- Về Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh, Điều 5 Quyết định số 61/2014/QĐ-
TTg quy định như sau:
Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh là cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi
hành án dân sự, thực hiện chức năng thi hành án dân sự, thi hành án
hành chính có nhiệm vụ giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành
án dân sự quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan
thi hành án dân sự địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền
hạn khác theo quy định của pháp luật.
Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh có Cục trưởng đồng thời là Thủ trưởng
cơ quan Thi hành án dân sự; Phó Cục trưởng đồng thời là Phó Thủ trưởng cơ
quan Thi hành án dân sự; Chấp hành viên sơ cấp; Chấp hành viên trung cấp;
Chấp hành viên cao cấp; Thẩm tra viên thi hành án; Thẩm tra viên chính thi
hành án; Thẩm tra viên cao cấp thi hành án (nếu có); Thư ký thi hành án và
công chức khác [51, Điều 5, Khoản 3].
Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước
21
Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự và trước pháp luật về toàn bộ
hoạt động của Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh. Phó Cục trưởng Cục Thi
hành án dân sự cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Cục trưởng Cục Thi hành án
dân sự cấp tỉnh và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công phụ
trách [51, Điều 5, Khoản 4].
Theo Điều 173 Luật Thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự cấp
tỉnh chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có trách nhiệm báo cáo
với Ủy ban nhân dân cùng cấp về chủ trương, biện pháp tăng cường công tác
thi hành án dân sự, công tác quản lý, đôn đốc thi hành án hành chính trên địa
bàn và thực hiện báo cáo công tác thi hành án dân sự, công tác quản lý, đôn
đốc thi hành án hành chính trước Hội đồng nhân dân cùng cấp theo quy định
của pháp luật.
- Về Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện, Điều 6 Quyết định số
61/2014/QĐ-TTg quy định như sau: “Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện
là cơ quan trực thuộc Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh, thực hiện chức năng
thi hành án dân sự, đôn đốc thi hành án hành chính và thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật”.
Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện có Chi cục trưởng đồng thời là
Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Phó Chi cục trưởng đồng thời là Phó
Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành
viên trung cấp, Thẩm tra viên thi hành án, Thư ký thi hành án và công chức
khác [51, Điều 6, Khoản 2].
Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện chịu trách nhiệm
trước Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và trước pháp luật về toàn
bộ hoạt động của Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện. Phó Chi cục trưởng
Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện chịu trách nhiệm trước Chi cục trưởng
Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện và trước pháp luật về lĩnh vực công tác
22
được phân công phụ trách [51, Điều 6, Khoản 3].
Căn cứ Điều 174 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Chi cục Thi hành
án dân sự cấp huyện chịu sự chỉ đạo và có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban
nhân dân cùng cấp về chủ trương, biện pháp tăng cường công tác thi hành án
dân sự, công tác đôn đốc thi hành án hành chính trên địa bàn và thực hiện báo
cáo công tác thi hành án dân sự, công tác đôn đốc thi hành án hành chính
trước Hội đồng nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp luật.
1.1.6. Nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự
Về bản chất, mục đích chính của công tác thi hành án dân sự là hướng
đến mục tiêu đảm bảo cho các phán quyết của Tòa án và các cơ quan có thẩm
quyền khác được thi hành trên thực tế. Để thực hiện có hiệu quả các mục tiêu
trên, song song với bộ máy trực tiếp làm công tác nghiệp vụ thi hành án cần
phải có một hệ thống để vận hành cơ chế quản lý về công tác thi hành án dân
sự, đảm bảo mọi hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự đều thuộc sự quản
lý của Nhà nước. Do vậy, quản lý nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân
sự tập trung vào những nội dung sau:
1.1.6.1. Quản lý về công tác tổ chức cán bộ
Hiện nay các cơ quan thi hành án dân sự được chia thành ba cấp như sau:
+ Tổng cục thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp: Tổng cục thi hành án
dân sự không phải là cơ quan trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, mà đơn
thuần là cơ quan tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc quản
lý nhà nước về thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước.
+ Cục Thi hành án dân sự ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
Khác với vị trí, vai trò và chức năng của Tổng cục Thi hành án dân sự, các
Cục Thi hành án dân sự ở địa phương bên cạnh việc thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương còn là cơ quan trực
tiếp thực hiện các hoạt động nghiệp vụ về thi hành án dân sự.
23
+ Chi cục Thi hành án dân sự ở các quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh: là các cơ quan thi hành án dân sự thuộc sự quản lý trực tiếp của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các Chi cục
Thi hành án dân sự có chức năng chính là tổ chức thi hành các bản án do Tòa
án nhân dân cùng cấp xét xử sơ thẩm và các bản án khác do các cơ quan thi
hành án trong phạm vi toàn quốc thực hiện việc ủy thác thi hành án theo quy
định pháp luật về thi hành án dân sự
Theo quy định tại Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 của
Bộ Tư pháp quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao
động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự,
việc quản lý về tổ chức cán bộ được giao cho những cá nhân có thẩm quyền
sau: Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự,
Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án
dân sự. Việc quản lý nhà nước về công tác tổ chức cán bộ được thực hiện theo
những nội dung sau [23, Điều 1]:
- Xây dựng chiến lược, quy hoạch, đề án kiện toàn đội ngũ công chức,
viên chức và người lao động.
- Quản lý vị trí việc làm, cơ cấu, biên chế công chức, số lượng viên
chức, người lao động theo quy định của pháp luật.
- Quản lý tiêu chuẩn đối với công chức, viên chức, người lao động
thuộc phạm vi quản lý.
- Tuyển dụng, tiếp nhận, sử dụng công chức, viên chức, người lao động
thuộc thẩm quyền quản lý.
- Đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức, người lao động.
- Điều động, luân chuyển, biệt phái, cho chuyển công tác, bổ nhiệm, bổ
nhiệm lại, miễn nhiệm, cho từ chức, cho thôi giữ chức vụ.
- Bổ nhiệm ngạch, thực hiện chế độ tiền lương, phụ cấp và các chế độ
chính sách đãi ngộ khác đối với công chức, viên chức, người lao động thuộc
24
thẩm quyền quản lý.
- Khen thưởng, kỷ luật hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng, kỷ
luật đối với công chức, viên chức, người lao động theo quy định của pháp luật.
- Cho thôi việc, nghỉ công tác hưởng chế độ hưu trí, nghỉ phép, nghỉ
công tác không hưởng lương, cử công chức, viên chức, người lao động đi
công tác, cho phép đi nước ngoài về việc riêng.
- Quản lý hồ sơ công chức, viên chức, người lao động.
- Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy định của pháp luật về công
chức, viên chức, người lao động.
- Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về thực hiện quy định của pháp
luật về công chức, viên chức, người lao động.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo phân cấp và theo quy định của
pháp luật.
- Các nội dung quản lý khác đối với công chức, viên chức, người lao
động theo quy định của pháp luật.
1.1.6.2. Quản lý về công tác kinh phí, ngân sách
Căn cứ Thông tư số 03/2011/TT-BTP ngày 17/01/2011 của Bộ Tư pháp
về phân cấp quản lý tài chính, tài sản, đâu tư xây dựng cơ bản cho Tổng cục
Thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự, việc quản lý ngân sách
được trao cho các cá nhân có thẩm quyền, bao gồm: Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, Cục trưởng Cục Thi hành án
dân sự và Chủ tài khoản của các đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách. Cũng
theo quy định tại Thông tư này, hệ thống quản lý ngân sách đối với thi hành
án dân sự được chia thành bốn cấp; bao gồm:
- Đơn vị dự toán cấp I: Bộ Tư pháp; trong đó, Bộ trưởng là chủ tài
khoản, Cục Kế hoạch - Tài chính là đơn vị tham mưu;
- Đơn vị dự toán cấp II: Tổng cục Thi hành án dân sự; trong đó, Tổng
cục trưởng là chủ tài khoản, Vụ Kế hoạch - Tài chính thuộc Tổng cục Thi
25
hành án dân sự là đơn vị tham mưu.
- Đơn vị dự toán cấp III: Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh; trong đó Cục
trưởng Cục Thi hành án dân sự là chủ tài khoản và Kế toán trưởng đóng vai
trò là người tham mưu (Hiện nay, về cơ bản các Cục Thi hành án dân sự tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Phòng Kế hoạch - Tài chính để
tham mưu giúp Cục trưởng trong công tác tài chính).
- Đơn vị dự toán trực tiếp sử dụng ngân sách là đơn vị có tổ chức bộ
máy kế toán độc lập, được giao nhiệm vụ thu, chi trực tiếp và không có đơn vị
dự toán cấp dưới trực thuộc; bao gồm: Văn phòng Tổng cục Thi hành án dân
sự (Chánh văn phòng là chủ tài khoản), Văn phòng Cục Thi hành án dân sự
(Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự là chủ tài khoản) và Chi cục Thi hành án
dân sự cấp huyện (Chi cục trưởng là chủ tài khoản).
Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự,
Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh và lãnh đạo các đơn vị dự toán trực
tiếp sử dụng ngân sách thực hiện việc quản lý tài chính, ngân sách dựa trên
nội dung phân cấp sau:
- Về quản lý tài chính, điều hành ngân sách
Nội dung quản lý này được phân cấp cho Tổng cục trưởng Tổng cục
Thi hành án dân sự và Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh. Theo
đó, người có thẩm quyền trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm tổng hợp, lập dự toán thu chi ngân sách; lập phương án
phân bổ, giao dự toán thu, chi ngân sách cho các đơn vị dự toán trực thuộc;
điều chỉnh dự toán kinh phí; quyết định phương án phân bổ điều hòa phí thi
hành án dân sự, phê duyệt dự toán, quyết toán; tổ chức kiểm tra quyết toán
và quyết định chi phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai hỏa hoạn trong
phạm vi dự toán.
- Về quản lý tài sản
26
Nội dung chủ yếu của nhiệm vụ này tập trung vào các vấn đề sau: mua
sắm tài sản công, thu hồi tài sản, điều chuyển, thanh lý tài sản nhà nước,
kiểm tra, tổng hợp nhu cầu mua sắm, thu hồi, điều chuyển và thanh lý tài
sản; phê duyệt kế hoạch bảo trì, sửa chữa tài sản trong phạm vi ngân sách
được giao; tổng hợp, lập kế hoạch mua sắm tài sản và thực hiện theo kế
hoạch phê duyệt của Bộ trưởng. Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân
sự, Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Thủ trưởng đơn vị trực tiếp sử
dụng ngân sách có trách nhiệm căn cứ vào quy định của pháp luật quy định
về chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình để thực hiện tốt các nội dung
quản lý nhà nước về tài sản.
- Về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản
Đây là nội dung tương đối quan trọng trong việc quản lý về ngân sách
thuộc trách nhiệm của Bộ Tư pháp. Nhiệm vụ công tác này được phân cấp
cho Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự và các Cục trưởng Cục Thi
hành án dân sự với những nội dung cụ thể như sau: Lập kế hoạch đầu tư xây
dựng cơ bản hang năm; Quyết định đầu tư và phê duyệt quyết đoán các dự án
đầu tư xây dựng mới, cải tạo, sửa chữa trụ sở làm việc, kho vật chứng; tổng
hợp lập kế hoạch phân bổ vốn đầu tư, điều hòa, điều chỉnh vốn đầu tư cho các
dự án; thông báo và quyết toán vốn đầu tư.
1.1.6.3. Quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ
Đây là nội dung quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về thi hành
án dân sự. Ở Trung ương, Bộ Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm trước
Chính phủ về hoạt động thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước; trong đó,
Tổng cục Thi hành án dân sự đóng vai trò là cơ quan tham mưu, giúp Bộ
trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý về mặt chuyên môn, nghiệp vụ theo
quy định của pháp luật. Ở phạm vi địa phương, Cục Thi hành án dân sự cấp
tỉnh là cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý, chỉ đạo nghiệp vụ thi hành án dân
27
sự trên địa bàn tỉnh với những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong
hoạt động thi hành án dân sự;
- Chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân
sự cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự cho Chấp hành viên,
công chức khác của cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn;
- Kiểm tra công tác thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án dân
sự cấp huyện;
- Tổng kết thực tiễn thi hành án dân sự; thực hiện chế độ thống kê, báo
cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự theo hướng dẫn của cơ
quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
1.1.6.4. Quản lý về giải quyết khiếu nại, tố cáo
Khiếu nại và tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân; đã
được ghi nhận tại Điều 30 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền khiếu
nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Đây chính là một trong những cơ sở
pháp lý quan trọng và thiết yếu để công dân thực hiện quyền làm chủ của mình
đồng thời giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước góp phần làm trong
sạch bộ máy và phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo bên cạnh việc đảm bảo lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân cũng là một trong
những phương thức nâng cao hiểu biết pháp luật của người dân, góp phần
quan trọng trong việc bảo đảm ổn định chính trị tại địa phương.
Theo quy định hiện hành, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi
hành án dân sự được giao cho Chi cục trưởng, Cục trưởng, Tổng cục trưởng
Tổng cục Thi hành án dân sự và Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Trong đó, Thanh tra
Bộ đóng vai trò là cơ quan tham mưu, chủ trì giải quyết những khiếu nại, tố
28
cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Về nội bộ ngành thi hành án dân sự, công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo cũng được quan tâm đúng mực, thể hiện thông qua việc kiện toàn bộ máy,
nhân sự làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo từ trung ương đến địa
phương. Về tổ chức bộ máy có Vụ Giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc Tổng
cục Thi hành án dân sự và Phòng kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo
thuộc Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
1.1.7. Hình thức quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự
Hình thức quản lý nhà nước là hoạt động biểu hiện ra bên ngoài của các
chủ thể quản lý trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Nói
cách khác, hình thức quản lý hành chính nhà nước là biểu hiện có tính chất tổ
chức, pháp lý của những hoạt động cụ thể của các cơ quan hành chính nhà
nước nhằm thực hiện tác động quản lý. Do tính chất đa dạng của hoạt động
quản lý nhà nước nên việc xác định hình thức quản lý có hiệu quả phụ thuộc
nhiều vào các điều kiện khách quan, nội dung và tính chất của những vấn đề
cần giải quyết, những đặc điểm của đối tượng quản lý, yêu cầu cụ thể đặt ra
trước chủ thể quản lý. Đồng thời cần phải căn cứ vào các quy định của pháp
luật vì hoạt động quản lý nhà nước xét đến cùng chính là hoạt động tổ chức và
thực hiện pháp luật.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, các cơ quan nhà nước thực hiện
nhiệm vụ quản lý của mình thông qua những hình thức sau:
- Hình thức ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật; do đó, việc ban
hành văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất
của các cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện chức năng quản lý của
mình. Văn bản được ban hành trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của Bộ Tư pháp có hai loại như sau:
29
+ Các văn bản đề ra chủ trương, đường lối, chính sách lớn, nhiệm vụ
chung có tính chiến lược, định hướng cho hoạt động quản lý nhà nước. Đối
với các văn bản loại này, Bộ Tư pháp giữ vai trò là cơ quan tham mưu hoặc
thẩm định các văn bản Luật như Luật Thi hành án dân sự, Luật Đấu giá… và
các văn bản dưới luật như Nghị định số 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành
Luật Thi hành án dân sự…
+ Các văn bản nhằm cụ thể và chi tiết các văn bản của cơ quan nhà
nước cấp trên. Đối với loại này, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành các
Thông tư hoặc Thông tư liên tịch nhằm cụ thể hóa các quy định của pháp luật
thi hành án dân sự như Thông tư số 01/2016/TT-BTP hướng dẫn thực hiện
thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự,
Thông tư số 01/2017/TT-BTP quy định quản lý kho vật chứng, tài sản tạm giữ
trong thi hành án dân sự, Thông tư liên tịch số 07/2018/TTLT-BTP-
VKSNDTC-TANDTC quy định về việc phối hợp trong thi hành quyết định
của Tòa án giải quyết phá sản…
- Hình thức ban hành văn bản áp dụng pháp luật
Hình thức ban hành văn bản áp dụng pháp luật là việc các chủ thể quản
lý có thẩm quyền căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành để giải quyết
các vụ việc cá biệt phát sinh trong hoạt động quản lý nhà nước. Đây là một
hình thức hoạt động thường xuyên của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ
quan thi hành án dân sự nói riêng.
Nội dung cơ bản của hình thức này là áp dụng các quy phạm pháp luật
trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để giải quyết một hay một số vụ việc
nhất định. Việc ban hành những văn bản dạng này cũng làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật nhất định.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, việc bổ nhiệm, miễn nhiệm chấp hành
viên, khen thưởng, kỷ luật, nâng lương, nâng ngạch… đối với cán bộ, công chức,
30
viên chức và người lao động chính là biểu hiện cụ thể của hình thức này.
- Hình thức áp dụng các hoạt động mang tính chất pháp lý khác
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, áp dụng các hoạt động mang tính
chất pháp lý khác là một trong những hình thức quan trọng và phổ biến của
hoạt động quản lý nhà nước. Hình thức quản lý này phát sinh trong những
điều kiện đã được định trước trong văn bản quy phạm pháp luật nhưng không
cần ban hành các văn bản áp dụng pháp luật. Trong thi hành án dân sự, việc
cơ quan hoặc người có thẩm quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện
pháp bảo đảm chính là biểu hiện cụ thể của hình thức này.
1.2. Thanh tra Bộ Tƣ pháp và vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp
trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự
1.2.1. Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh
tra Bộ Tư pháp
1.2.1.1. Cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ Tư pháp
Ngày 16/8/2017, Chính phủ ban hành Nghị định số 96/2017/NĐ-CP
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.
Theo đó, Điều 1 của Nghị định này quy định như sau:
Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về: Xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự,
thi hành án hành chính, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, bồi
thường nhà nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công
trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
Về cơ cấu tổ chức, Bộ Tư pháp có 27 đơn vị trực thuộc; trong đó có 22 đơn
vị là các tổ chức hành chính giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà
nước và 05 tổ chức sự nghiệp phục vụ quản lý nhà nước thuộc Bộ. Thanh tra Bộ
31
là một trong 22 đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước.
Theo Quyết định số 285/QĐ-BTP ngày 13 tháng 2 năm 2018 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Thanh tra Bộ, Thanh tra Bộ là đơn vị thuộc Bộ Tư pháp, giúp Bộ
trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của
Bộ; tiến hành thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành; giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật và phân
cấp của Bộ và Thanh tra Bộ có con dấu và tài khoản riêng mở tại Kho bạc
Nhà nước theo quy định của pháp luật.
Căn cứ Quyết định số 285/QĐ-BTP ngày 13 tháng 2 năm 2018 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
1. Xây dựng, trình Bộ trưởng kế hoạch công tác dài hạn, 5 năm và
hàng năm của Thanh tra Bộ; tham gia xây dựng chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phát triển dài hạn, 5 năm và hàng năm của ngành
Tư pháp.
2. Chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra ngành Tư pháp,
các chương trình, đề án, kế hoạch về thanh tra, tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của Bộ để Bộ trưởng ban hành theo thẩm quyền
hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành; tham gia xây dựng,
thẩm định, góp ý đối với các dự án, dự thảo văn bản khác do Bộ
trưởng giao.
3. Tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, đề án,
chương trình, kế hoạch về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà
32
nước của Bộ.
4. Rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật về
thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống
tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định
của pháp luật.
5. Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ,
quyền hạn được giao của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền
quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp (thanh tra hành chính).
6. Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về
chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ
quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo
quy định của pháp luật (thanh tra chuyên ngành).
7. Thực hiện thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm
pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực
tiếp của Bộ Tư pháp; xác minh, giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc
phục vụ công tác quản lý nhà nước của Bộ trưởng Bộ Tư pháp theo
thẩm quyền.
8. Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc xây dựng và thực
hiện kế hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Cục Bổ trợ tư pháp,
Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực; hướng dẫn chuyên môn, nghiệp
vụ và tổ chức tập huấn nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành theo quy
định pháp luật và phân cấp của Bộ.
9. Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết
định xử lý sau thanh tra của Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Cục
trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh đối với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước
33
của Bộ theo quy định của pháp luật.
10. Thanh tra lại vụ việc đã được Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp,
Cục trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm
pháp luật khi được Bộ trưởng giao.
11. Chủ trì hoặc tham gia các Đoàn thanh tra liên ngành do các bộ,
ngành thành lập; trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị
có liên quan tham gia các đoàn thanh tra theo quy định của pháp luật.
12. Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc Bộ thực hiện các quy
định của pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo, phòng, chống tham nhũng; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, yêu
cầu các đơn vị thuộc Bộ xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc
thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo,
biện pháp xử lý tố cáo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Thủ trưởng
các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp.
13. Thực hiện tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng
ngừa, đấu tranh chống tham nhũng; chủ trì, phối hợp với các đơn vị
thuộc Bộ đề xuất các biện pháp giải quyết đối với các vụ việc khiếu
nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng theo quy
định của pháp luật và phân cấp của Bộ.
14. Xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử
lý vi phạm hành chính.
15. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ hoặc hủy
bỏ quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra.
16. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến
nghị, quyết định xử lý về thanh tra của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và
Chánh Thanh tra theo quy định của pháp luật.
34
17. Theo dõi tình hình, kết quả thực hiện, đề xuất sửa đổi, bổ sung các
chủ trương, chính sách, giải pháp, văn bản quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ.
18. Tổ chức sơ kết, tổng kết và thực hiện chế độ báo cáo, thống kê
về công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật.
19. Tham gia nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức; sử dụng, khai thác trang thông tin điện tử về thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; phổ biến, giáo
dục pháp luật thuộc phạm vi chức năng của Thanh tra Bộ và phân
cấp của Bộ.
20. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác
thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống
tham nhũng.
21. Thực hiện công tác thi đua - khen thưởng, quản lý đội ngũ công
chức, người lao động của Thanh tra Bộ theo quy định của pháp luật
và phân cấp của Bộ.
22. Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về thanh tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của
pháp luật và phân cấp của Bộ.
23. Thực hiện chế độ tài chính, kế toán, quản lý kinh phí, tài sản
của Thanh tra Bộ theo quy định của pháp luật.
24. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác do Bộ trưởng giao
hoặc theo quy định của pháp luật.
Về cơ cấu tổ chức, hiện tại, Thanh tra Bộ có 04 Lãnh đạo Thanh tra
(Trong đó; có 01 Chánh Thanh tra và 03 Phó Chánh Thanh tra) và 05 Phòng
35
trực thuộc; bao gồm: Phòng Tổng hợp - Hành chính; Phòng Thanh tra hành
chính; Phòng Thanh tra chuyên ngành; Phòng Tiếp công dân và Giải quyết
khiếu nại, tố cáo; Phòng Giám sát, kiểm tra và xử lý sau thanh tra. Hiện nay,
có 02 phòng trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành
án dân sự; bao gồm:
+ Phòng Thanh tra Hành chính thuộc Thanh tra Bộ: là đơn vị được giao
thực hiện chức năng thanh tra theo kế hoạch đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp
phê duyệt đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, cụ thể như: công tác tổ chức,
cán bộ; công tác đầu tư xây dựng cơ bản; công tác quản lý, sử dụng kinh phí
hành chính sự nghiệp và công tác phòng, chống tham nhũng.
+ Phòng Tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc Thanh tra
Bộ được thành lập theo Quyết định số 285/QĐ-BTP ngày 13/02/2018 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra
Bộ, Phòng Tiếp công dân Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong 05 Phòng
thuộc Thanh tra Bộ (sau khi đã thực hiện việc sáp nhập Phòng Tiếp công dân
và xử lý đơn thư và Phòng Giải quyết khiếu nại, tố cáo). Phòng Tiếp công dân
và giải quyết khiếu nại, tố cáo là đơn vị trực tiếp thực hiện các vụ việc thanh
tra đột xuất trong lĩnh vực thi hành án dân sự trong trường hợp phát hiện có
dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Ngoài ra, Phòng Tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo còn thực hiện
việc thanh tra xác minh để tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét,
giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền.
Về biên chế và cơ cấu công chức, Thanh tra Bộ hiện có 31 công chức
và người lao động gồm có 29 biên chế và 02 người lao động làm công tác văn
thư, lưu trữ và lái xe. Trong đó có 16 nam và 15 nữ; 29 đảng viên.
Theo ngạch công chức, trong số 29 biên chế, Thanh tra Bộ hiện có 12
Thanh tra viên chính (chiếm 41,4%); 11 Thanh tra viên (chiếm 38%) và 06
chuyên viên (chiếm 20,6%).
36
Về cơ cấu độ tuổi, trên 50 tuổi có 03 công chức (chiếm 10,3%), 13
công chức thuộc nhóm từ 40 đến 50 tuổi (chiếm 44,8%); 10 công chức và 01
nhân viên hợp đồng trong độ tuổi từ 30 đến 40 tuổi (chiếm 38%) và 04 người
dưới 30 tuổi (trong đó có 01 nhân viên hợp đồng, chiếm 6,9%).
Trong số 29 công chức, có 17 người vào ngành từ việc thu hút người
đang công tác tại các cơ quan, đơn vị khác; số còn lại được tuyển dụng
thông qua thi tuyển. Những công chức thu hút từ các cơ quan, đơn vị khác
như thi hành án dân sự, tòa án, kiểm sát, phòng tư pháp...đã bổ sung cho đơn
vị những cán bộ có kinh nghiệm thực tế trên các lĩnh vực khác nhau trong
các lĩnh vực thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành và giải quyết
khiếu nại, tố cáo.
Về cơ bản, cơ cấu tổ chức hiện nay của Thanh tra Bộ đáp ứng tương
đối tốt về yêu cầu công việc. Tuy nhiên, thực tiễn công việc trong thời gian
qua cũng đã bộc lộ một số hạn chế:
Đặc trưng của công tác thanh tra là thường xuyên phải đi công tác.
Điều này không thật sự phù hợp với phụ nữ đặc biệt là phụ nữ đang có bầu
hoặc nuôi con nhỏ trong khi đó, số lượng nữ giới của Thanh tra Bộ chiếm xấp
xỉ 50% tổng số biên chế của đơn vị.
Công tác thanh tra đặc biệt là giải quyết khiếu nại, tố cáo đòi hỏi việc
giải quyết công việc không theo lối mòn, cần có sự thay đổi theo từng hoàn
cảnh cụ thể, phù hợp với từng đối tượng thanh tra. Do đó, đội ngũ các thanh
tra viên nói chung và toàn bộ công chức làm công tác thanh tra cần có sự nhạy
bén, sự sáng tạo trong tư duy và sự mềm dẻo và linh hoạt trong hành động.
Đối chiếu với thực tế công chức Thanh tra Bộ trong giai đoạn hiện nay có thể
thấy được chưa có sự phù hợp giữa yêu cầu của công việc và cơ cấu tuổi. Cụ
thể, với yêu cầu công việc này cần những người có đủ độ chín về tuổi đời lẫn
tuổi nghề khoảng từ 40 tuổi trở lên. Độ tuổi này phù hợp để có sự thay đổi
37
linh hoạt cả trong tư duy lẫn hành động nhưng số lượng công chức trong độ
tuổi này còn tương đối ít. Tuy nhiên, trong khoảng 5 năm tới đây, Thanh tra
Bộ sẽ có đội ngũ kế cận tương đối đông đúc.
1.2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ Tư pháp
Tương tự như các đơn vị có chức năng quản lý nhà nước khác của Bộ
Tư pháp, Thanh tra Bộ có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong hầu hết các
nội dung quản lý nhà nước. Cụ thể như sau [11, Điều 2]:
- Quản lý về tổ chức cán bộ và cơ sở vật chất
Nội dung quản lý này của Thanh tra Bộ tập trung chủ yếu vào phần lớn
vào việc xây dựng chiến lược phát triển của ngành; xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật liên quan đến công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại tố
cáo; chú trọng đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng và phát triển con người. Để làm
tốt công tác trên, căn cứ vào đề xuất của Chánh thanh tra, Bộ trưởng Bộ Tư
pháp đã tin tưởng và giao Thanh tra Bộ những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Xây dựng, trình Bộ trưởng kế hoạch công tác dài hạn, 5 năm và hàng
năm của Thanh tra Bộ; tham gia xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển dài hạn, 5 năm và hàng năm của ngành Tư pháp;
- Chủ trì hoặc tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên
quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra ngành Tư pháp, các chương trình, đề
án, kế hoạch về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ để Bộ trưởng ban
hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành; tham gia
xây dựng, thẩm định, góp ý đối với các dự án, dự thảo văn bản khác do Bộ
trưởng giao;
- Tổ chức triển khai thực hiện văn bản quy phạm pháp luật, đề án, chương
trình, kế hoạch về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống tham nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ;
38
- Rà soát, hệ thống hoá, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật về thanh
tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật;
- Tham gia nghiên cứu khoa học, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức;
sử dụng, khai thác trang thông tin điện tử về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo và phòng, chống tham nhũng; phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc phạm vi
chức năng của Thanh tra Bộ và phân cấp của Bộ;
- Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác thanh tra,
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng.
- Quản lý về chuyên môn nghiệp vụ
Để công tác thanh tra của ngành tư pháp phát triển theo đúng lộ trình đã
đề ra và hạn chế đến mức thấp nhất số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo,
Thanh tra Bộ có trách nhiệm quản lý về mặt chuyên môn, nghiệp vụ đối với
Thanh tra các Sở Tư pháp, các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp nói chung và cơ quan
được giao chức năng thanh tra chuyên ngành nói riêng. Các nhiệm vụ cụ thể
của Thanh tra Bộ bao gồm:
- Hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc xây dựng và thực hiện kế
hoạch thanh tra thuộc trách nhiệm của Cục Bổ trợ tư pháp, Cục Hộ tịch, quốc
tịch, chứng thực; hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ và tổ chức tập huấn
nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành theo quy định pháp luật và phân cấp của Bộ;
- Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định
xử lý sau thanh tra của Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Cục trưởng Cục Hộ
tịch, quốc tịch, chứng thực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với vụ việc
thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật;
- Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị thuộc Bộ thực hiện các quy định của
pháp luật về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng,
chống tham nhũng; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, yêu cầu các đơn vị thuộc Bộ
39
xử lý, giải quyết khiếu nại, tố cáo và việc thực hiện quyết định giải quyết
khiếu nại, kết luận nội dung tố cáo, biện pháp xử lý tố cáo của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp và Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ Tư pháp;
- Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đình chỉ hoặc hủy bỏ
quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra;
- Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các kết luận, kiến nghị,
quyết định xử lý về thanh tra của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Chánh Thanh tra
theo quy định của pháp luật;
- Theo dõi tình hình, kết quả thực hiện, đề xuất sửa đổi, bổ sung các
chủ trương, chính sách, giải pháp, văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực
thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham
nhũng thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ;
- Tổ chức sơ kết, tổng kết và thực hiện chế độ báo cáo, thống kê về
công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống
tham nhũng theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế về thanh tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật và phân
cấp của Bộ.
- Thực hiện chế độ tài chính, kế toán, quản lý kinh phí, tài sản của
Thanh tra Bộ theo quy định của pháp luật.
- Về khen thưởng và xử lý vi phạm
Khen thưởng và xử lý vi phạm là một trong số những nội dung chính
của công tác quản lý nhà nước. Riêng đối với Thanh tra Bộ, ngoài việc thực
hiện công tác thi đua khen thưởng đơn thuần theo quy định của pháp luật và
phân cấp của Bộ, Thanh tra Bộ còn thực hiện việc xử phạt vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật. Đây là một trong những công việc tương
đối quan trọng trong hoạt động thanh tra của Thanh tra Bộ. Qua thanh tra,
40
khi phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra, căn
cứ vào quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản có liên
quan, Chánh Thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra và các thanh tra viên thực
hiện việc lập biên bản vi phạm hành chính và ban hành Quyết định xử phạt
theo thẩm quyền.
- Thực hiện thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
Thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo là công tác chủ yếu của
Thanh tra Bộ. Căn cứ vào khảo sát hàng năm, Thanh tra Bộ có trách nhiệm
trình Bộ trưởng Bộ Tư pháp để phê duyệt Kế hoạch thanh tra; trong đó tập
trung vào 02 mảng chính là thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Riêng đối với công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Bộ căn cứ vào
tình hình, số lượng đơn, thư năm trước và dự báo tình hình, xu hướng
tăng/giảm của vụ việc để trình Bộ trưởng dự kiến số lượng đoàn giải quyết
khiếu nại trong năm. Bên cạnh đó, trong phạm vi chức năng của mình,
Thanh tra Bộ còn có trách nhiệm trong việc thanh tra lại đối với các vụ việc
đã được Thủ trưởng cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành
của Bộ Tư pháp và Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh kết luận trong trường hợp
phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và được Bộ trưởng giao. Công tác
thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Bộ tập trung chủ yếu
vào những nhiệm vụ, công việc cơ bản sau:
- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền
hạn được giao của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp
của Bộ Tư pháp (thanh tra hành chính).
- Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về
chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức,
cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ theo quy định của pháp luật
(thanh tra chuyên ngành).
41
- Thực hiện thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của Bộ Tư
pháp; xác minh, giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc phục vụ công tác quản lý
nhà nước của Bộ trưởng Bộ Tư pháp theo thẩm quyền.
- Thanh tra lại vụ việc đã được Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Cục
trưởng Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Bộ
trưởng giao.
- Chủ trì hoặc tham gia các Đoàn thanh tra liên ngành do các bộ, ngành
thành lập; trưng tập công chức, viên chức của cơ quan, đơn vị có liên quan
tham gia các đoàn thanh tra theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng
ngừa, đấu tranh chống tham nhũng; chủ trì, phối hợp với các đơn vị thuộc
Bộ đề xuất các biện pháp giải quyết đối với các vụ việc khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng theo quy định của pháp luật và
phân cấp của Bộ.
1.2.2. Vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong quản lý nhà nước về
thi hành án dân sự
1.2.2.1. Thanh tra bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong
thi hành án dân sự
Có nhiều cách khác nhau để phân loại chức năng quản lý nhà nước tuy
nhiên về cơ bản, quản lý nhà nước có ba chức năng chính như sau: ra quyết
định quản lý, tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện quyết định.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật hiện hành và nhu cầu của công tác
quản lý, các chủ thể quản lý ban hành các Quyết định để giải quyết các cấp thiết.
Đây là sản phẩm đặc biệt và sáng tạo của chủ thể quản lý và có ở tất cả các cấp
quản lý; tuy nhiên đây mới chỉ là điểm khởi đầu của cả quá trình quản lý.
42
Giai đoạn tiếp theo của quá trình quản lý chính là việc thực hiện và
kiểm tra việc thực hiện quyết định. Trong giai đoạn này, chủ thể quản lý phải
thực hiện một chuỗi các công việc như: công khai, lập kế hoạch tổ chức thực
hiện và cuối cùng là kiểm tra và tổng kết tình hình thực hiện quyết định. Kiểm
tra là hoạt động rất quan trọng ở giai đoạn này bởi nó có nhiệm vụ phát hiện
những thiếu sót, bất cập so với yêu cầu cũng như tình hình thực tế tại thời
điểm thực hiện quyết định. Thông qua hoạt động kiểm tra, chủ thể quản lý có
thể tìm ra nguyên nhân của những bất cập, hạn chế và trên cơ sở đó đề ra
những giải pháp phù hợp đảm bảo công tác quản lý đạt hiệu quả cao nhất.
Trong một số hoàn cảnh, trường hợp nhất định, hoạt động kiểm tra có
thể đáp ứng được yêu cầu cơ bản của công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, ở
cấp độ cao hơn, công tác quản lý nhà nước đòi hỏi một phương pháp kiểm
chứng không chỉ là phát hiện sai phạm mà còn phải tìm ra nguyên nhân, vấn
đề mang tính bản chất và xác định chính xác trách nhiệm của từng cơ quan, tổ
chức, cá nhân.
Hoạt động thanh tra ra đời với tư cách là một phương thức kiểm tra và
là công cụ hữu hiệu trọng công tác quản lý nhà nước. Khác với kiểm tra,
thanh tra đã đáp ứng những yêu cầu mới của thực tiễn quản lý nhà nước như
thu thập và xử lý; nhận xét và đánh giá, phân tích tổng hợp nguyên nhân, dữ
liệu, số liệu nhiều hơn, phức tạp hơn. Thanh tra việc thực hiện các quyết định
mình đã ban hành là một công đoạn không thể thiếu trong quá trình thực hiện
chức năng quản lý nhà nước của các chủ thể quản lý. Chính vì vậy, thanh tra
được xác định là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước.Tuy nhiên, để xác
định Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
hành án dân sự, cần xác định rõ một số nguyên tắc sau:
Thứ nhất, bảo đảm tính tối thượng của Hiến pháp và pháp luật.
Căn cứ quy định tại Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
43
Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị cao nhất. Trong hệ thống pháp luật
nói chung và hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng, các văn bản
pháp luật luôn tồn tại trong mối quan hệ phụ thuộc và quy định lẫn nhau.
Những văn bản pháp luật và dưới luật phụ thuộc vào Hiến pháp và được ban
hành trên cơ sở Hiến pháp.Đó chính là quá trình cụ thể hóa Hiến pháp và
đương nhiên, không có quá trình này những quy định của Hiến pháp sẽ khó đi
vào đời sống xã hội.
Đây là nguyên tắc mang tính tất yếu, khách quan đảm bảo tính thống
nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển và
ngày càng hoàn thiện làm cơ sở để củng cố và tăng cường pháp chế.
Nguyên tắc này cũng là điều kiện đảm bảo hoạt động lập pháp, lập quy
được đúng đắn, kịp thời, đúng thẩm quyền, thể hiện được ý chí và quyền lực
của Nhà nước trong tổ chức và điều hành hoạt động xã hội. Khi thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình, cơ quan nhà nước cấp dưới phải phục tùng cơ quan
nhà nước cấp trên và đương nhiên các văn bản do các cơ quan cấp dưới ban
hành không chỉ phù hợp với Hiến pháp, luật mà còn phải tuân theo các văn bản
của cơ quan cấp trên. Đây chính là tính phụ thuộc giữa cơ quan nhà nước các
cấp mà Lê-nin đã từng nhấn mạnh: “Bất cứ quyết định nào của các cơ quan
hành chính địa phương nào cũng không được đi ngược lại pháp luật”.
Thứ hai, tôn trọng, đề cao sự thỏa thuận của các đương sự và sự tự
nguyện của người phải thi hành án
Xuất pháp từ nguyên tắc tôn trọng thoả thuận của các đương sự trong
các quan hệ dân sự, pháp luật về thi hành án dân sự cũng tôn trọng và đề cao
sự thỏa thuận của các đương sự nếu những thỏa thuận đó không trái với quy
định của pháp luật và đạo đức xã hội. Trong những trường hợp này cơ quan
thi hành án dân sự chỉ sử dụng quyền lực do nhà nước trao khi thỏa thuận đó
không được tôn trọng và bên bị vi phạm có đơn yêu cầu. Điều 6 Luật Thi
44
hành án dân sự quy định như sau về việc thỏa thuận thi hành án như sau:
1. Đương sự có quyền thoả thuận về việc thi hành án, nếu thoả
thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo
đức xã hội. Kết quả thi hành án theo thoả thuận được công nhận.
Theo yêu cầu của đương sự, Chấp hành viên có trách nhiệm chứng
kiến việc thoả thuận về thi hành án; 2. Trường hợp đương sự không
thực hiện đúng thoả thuận thì có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án
dân sự thi hành phần nghĩa vụ chưa được thi hành theo nội dung
bản án, quyết định.
Ngoài ra, pháp luật về thi hành án dân sự cũng khuyến tinh thần tự
nguyện thi hành án của đương sự. Cơ quan thi hành án dân sự chỉ áp dụng các
biện pháp cưỡng chế trong những trường hợp thật sự cần thiết nhằm đảm bảo
việc thi hành án đạt hiệu quả cao, ít tốn kém. Điều 9 Luật Thi hành án dân sự
quy định: “1. Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành án; 2.
Người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành
thì bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của Luật này”. Thời hạn tự
nguyện thi hành án là 15 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được
hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án [37, Điều 45, Khoản 1].
Thứ ba, bảo đảm sự phối hợp hành động giữa các cơ quan thi hành án
dân sự với các cấp chính quyền, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội
trong quá trình tổ chức thi hành án.
Khác với các hoạt động thực hiện pháp luật khác, hiệu quả của hoạt
động thi hành án dân sự không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của các cơ quan thi
hành án dân sự, các Chấp hành viên mà trong nhiều trường hợp còn phụ thuộc
vào sự tham gia của chính quyền địa phương, của các cơ quan, tổ chức và cá
nhân có liên quan đặc biệt là lực lượng công an.Trong quá trình tổ chức thi
hành án, chính quyền cơ sở đóng vai trò là đơn vị giúp Chấp hành viên hoàn
45
thành nhiệm vụ xác minh về nhân thân, gia đình và hoàn cảnh kinh tế của
người phải thi hành án; giúp đỡ về chủ trương, lực lượng, phương tiện để
cưỡng chế thi hành án. Lực lượng công an nhân dân đóng vai trò quan trọng
trong việc giữ gìn trật tự, ngăn chặn những hành vi cản trở, chống đối trong
quá trình cưỡng chế thi hành án.
Chính vì vậy, thanh tra là chức năng thiết yếu trong việc quản lý nhà nước
nói chung và quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng.
Ở một khía cạnh khác, hoạt động thanh tra, xét đến cùng, chính là quá
trình đánh giá, nhận xét tình hình và các kết quả thực hiện quyết định quản lý,
để kiểm nghiệm lại chính nội dung và chất lượng quản lý. Thông qua kết quả
thanh tra, quyết định quản lý của cơ quan quản lý nhà nước có thể bị sửa đổi,
bổ sung thậm chí hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ. Trong trường hợp nội dung
và chất lượng quyết định quản lý được thực tế kiểm nghiệm là đúng là phù
hợp nhưng đối tượng thi hành vẫn không tuân thủ và chấp hành nghiêm chỉnh
thì khi đó hoạt động thanh tra, kiểm tra phải phục vụ cho việc làm rõ nguyên
nhân, xác định rõ trách nhiệm để chấn chỉnh hoặc xử lý.
Với ý nghĩa đó, thanh tra không chỉ là một trong những phương thức
đảm bảo các quyết định quản lý được tuân thủ một cách nghiêm túc mà còn
góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý nhà nước; trong đó
có quản lý nhà nước về thi hành án dân sự [44, tr. 3, 8].
1.2.2.2. Thanh tra là phương thức bảo đảm tuân thủ pháp luật trong thi
hành án dân sự và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Để hoạt động thanh tra là một phương thức bảo đảm tuân thủ pháp luật
trong lĩnh vực thi hành án dân sự, trước hết phải xác định vai trò của hoạt
động thi hành án dân sự, thể hiện qua những nguyễn tắc sau:
Thứ nhất, đảm bảo các Bản án, Quyết định được thi hành trên thực tế.
46
Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Tòa
án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.
Tuy nhiên, như đã trình bày, việc thi hành án không chỉ dừng lại ở việc bảo
đảm các Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân được thực thi trên thực tế
mà còn bao gồm các Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và
Trọng tài thương mại theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự. Về
bản chất, quá trình tác nghiệp của Chấp hành viên thực chất là việc áp dụng
các biện pháp thi hành án để đảm bảo nội dung hiến định đồng thời hướng tới
mục tiêu bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như quyền, lợi ích hợp pháp cho
các cá nhân và tổ chức khác.
Tuy nhiên, với tính chất đặc thù của một hoạt động liên quan đến quyền
con người, quyền sở hữu tài sản, thi hành án dân sự cũng chính là một trong
những hoạt động tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến việc xâm phạm quyền con
người, quyền công dân. Chính vì thế, Nhà nước cần phải có quy định về cơ
chế giám sát, kiểm tra đối với hoạt động thi hành án dân sự. Theo quy định
của pháp luật hiện nay, việc kiểm tra, giám sát hoạt động thi hành án được
giao cho rất nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức như: Quốc hội, Hội đồng nhân
dân, Mặt trận Tổ quốc, Ban chỉ đạo thi hành án.... Đối với cơ quan Bộ Tư
pháp, công tác thanh tra, kiểm tra cũng được lãnh đạo Bộ đặc biệt quan tâm.
Theo quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 2004 và Luật Thi hành án dân sự năm 2008, công tác
thanh tra, kiểm tra lĩnh vực thi hành án dân sự được quy định cụ thể sau:
+ Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (nay là Tổng cục THADS)
thực hiện việc kiểm tra định kỳ theo kế hoạch hoặc kiểm tra đột xuất công tác
thi hành án dân sự, đồng thời thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo
thẩm quyền đối với các cơ quan thi hành án dân sự địa phương.
+ Thanh tra Bộ tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc
47
thanh tra theo kế hoạch trong lĩnh vực nghiệp vụ thi hành án dân sự đối với
các cơ quan thi hành án dân sự địa phương (Kế hoạch thanh tra được Bộ
trưởng phê duyệt trên cơ sở đề xuất của Thanh tra Bộ). Ngoài ra, Thanh tra
Bộ còn thực hiện việc thanh tra đột xuất đối với các cơ quan thi hành án,
Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án trong trường hợp phát
hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Đồng thời, Thanh tra Bộ còn tham mưu
cho Bộ trưởng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
Tuy nhiên, hiện nay theo quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 thì Thanh tra Bộ không còn thực
hiện chức năng thanh tra theo kế hoạch về lĩnh vực nghiệp vụ thi hành án mà
chỉ thực hiện chức năng thanh tra đột xuất đối với các cơ quan thi hành án dân
sự địa phương trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và
thực hiện việc thanh tra xác minh để tham mưu cho Bộ trưởng trong việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động bảo vệ quyền lợi của người
được thi hành án được xác định trong bản án, quyết định
Quyền lợi của người được thi hành án được bảo vệ bằng dưới hai hình
thức: do các đương sự tự thỏa thuận thực hiện hoặc được nhà nước bảo đảm
bằng quyền lực nhà nước.Như đã trình bày ở phần trên, các quy định của pháp
luật tôn trọng sự tự nguyện và cho phép các đương sự được quyền thỏa thuận
trong thi hành án. Xuất phát từ nguyên tắc “Vấn đề dân sự, thương sự cốt ở
hai bên”, trong mọi giai đoạn của quá trình thi hành án, các đương sự đều có
quyền thỏa thuận, định đoạt các vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ trong bản án, quyết định.Và nhà nước tôn trọng sự thỏa thuận
đó.Pháp luật tôn trọng việc tự giải quyết giữa các bên có tác dụng làm giảm
gánh nặng của cơ quan thi hành án, làm tăng tình đoàn kết giữa hai bên và
phù hợp với truyền thống của người Việt Nam khuyến khích hòa giải ở bất kỳ
48
giai đoạn nào.
Mặt khác trong trường hợp các đương sự không tự nguyện thi hành án
hoặc không tôn trọng sự thỏa thuận trước đó, Nhà nước mà đại diện ở đây là
cơ quan thi hành án và Chấp hành viên trực tiếp tổ chức thi hành sử dụng
quyền lực nhà nước như một công cụ hữu hiệu để bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa và quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự. Khác với nhiều nước trên
thế giới, ở Việt Nam, Tòa án nhân dân không được giao nhiệm vụ thi hành án
mà công việc này được trao cho cơ quan thi hành án dân sự các cấp tuy nhiên
điểm chung trong pháp luật các nước, đó là đảm bảo kiểm soát việc sử dụng
biện pháp chế tài trong thi hành án dân sự bằng các biện pháp cưỡng chế.
Nhân danh Nhà nước, các cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên thực
hiện quyền lực này. Áp dụng các biện pháp cưỡng chế đương nhiên là quyền
chuyên biệt của cơ quan thi hành án và Chấp hành viên; do đó, mọi cá nhân,
tổ chức khác không được phép sử dụng quyền lực để buộc người khác thực
hiện nghĩa vụ của họ nếu pháp luật không cho phép.
Thứ ba, góp phần nâng cao chất lượng của bản án, quyết định
Các Bản án, quyết định quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự
phải được tôn trọng và thi hành. Ngược lại, chính hoạt động thi hành án cũng
góp phần củng cố, hoàn thiện công tác xét xử. Thông qua việc áp dụng các
biện pháp thi hành án, nếu có sai sót trong bản án, quyết định được thi hành,
cơ quan thi hành án sẽ có những kiến nghị thích hợp, giúp cho cơ quan ra bản
án, quyết định có thể rút ra được những bài học kinh nghiệm trong việc áp
dụng pháp luật, nhằm nâng cao chất lượng của bản án, quyết định. Điểm đ
Khoản 1 Điều 23 Luật Thi hành án dân sự quy định Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự (Cục trưởng và Chi cục trưởng) có nhiệm vụ, quyền hạn trong
việc “Kiến nghị người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật”.
Thứ tư, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân
49
Khác với thi hành án hình sự, cơ chế tự thỏa thuận trong thi hành án
dân sự có tác động tích cực đến quyền, lợi ích của các bên đương sự, cụ thể:
người được thi hành án sớm khôi phục lại quyền lợi của mình; người phải thi
hành án có thể giảm được một phần nghĩa vụ theo bản án, quyết định đặc biệt
giảm được các thiệt hại về vật chất so với trường hợp cơ quan thi hành án tổ
chức thi hành như chi phí cưỡng chế thi hành án, lãi suất chậm thi hành án.
Những quy định như vậy sẽ thúc đẩy các đương sự ý thức tự nguyện trong
việc thi hành án, cũng như thái độ, ý thức khi thỏa thuận với nhau trong việc
thực hiện quyền, nghĩa vụ trong bản án, quyết định. Việc quy định rõ ràng về
quyền tự thỏa thuận giữa các đương sự là một công cụ quan trọng trong việc
phổ biến, giáo dục pháp luật đồng thời nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
trong nhân dân.
Với tư cách là chức năng quản lý, thanh tra chính là hoạt động xem xét
tính hợp pháp trong quá trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Phòng ngừa, phát hiện, xử lý những vi phạm pháp luật, bảo đảm để các cơ
quan, tổ chức, cá nhân tuân thủ và chấp hành một cách chính xác, đầy đủ và
nghiêm chỉnh pháp luật nhà nước là mục đích tối thượng của công tác thanh
tra. Trong trường hợp các đối tượng bị quản lý thực hiện chưa đúng các quy
định của pháp luật, cơ quan thanh tra chính là đơn vị giúp họ sửa chữa, khắc
phục hoặc có chế tài xử lý vi phạm trong trường hợp cần thiết.
Tuy nhiên, trên thực tế không ít trường hợp vi phạm pháp luật có
nguyên nhân bắt nguồn từ sự thiếu trách nhiệm dẫn đến vi phạm hoặc cố tình
vi phạm. Những trường hợp đó đòi hỏi cơ quan thanh tra phải có hình thức xử
lý nghiêm khắc, mạnh mẽ và tương xứng với hành vi để cho đối tượng quản
lý phải sửa chữa những vi phạm pháp luật và việc xử lý đó còn có tác dụng
lâu dài đến đối tượng quản lý đó cũng như mang tính chất răn đe đối với các
đối tượng quản lý khác.
Tóm lại, sự vi phạm pháp luật đã, đang và sẽ còn là một thực tế với
50
nhiều lý do khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, chủ thể quản lý còn có thể
áp dụng nhiều biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế. Các biện
pháp đó đều được thực hiện thông qua công tác thanh tra. Công tác thanh tra
góp phần đánh giá được việc chấp hành pháp luật và mức độ vi phạm của cơ
quan, tổ chức, cá nhân và từ đó, đề ra những biện pháp xử lý thích hợp. Trong
lĩnh vực thi hành án dân sự, Thanh tra Bộ xác định là một lĩnh vực phức tạp
của ngành, do vậy định kỳ hàng năm đề thực hiện việc khảo sát kỹ lưỡng tại địa
phương để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch thanh tra trình Bộ trưởng phê
duyệt, sao cho phù hợp với tình hình an ninh, chính trị tại địa phương.
Đối với các trường hợp thanh tra đột xuất trong trường hợp phát hiện
có dấu hiệu vi phạm pháp luật, hoặc thực hiện việc thanh tra theo chỉ đạo của
Lãnh đạo Bộ Tư pháp, thì trong quá trình thanh tra, Thanh tra Bộ cũng xem
xét, đánh giá một các kỹ lưỡng và khách quan các tình tiết của vụ việc đối
chiếu với các văn bản quy phạm pháp luật và tính chất đặc thù của địa phương
để ban hành kết luận thanh tra.
Sau khi ban hành Kết luận thanh tra, Thanh tra Bộ cũng chú trọng đến vấn
đề thực hiện kết luận thanh tra theo quy định tại Nghị định số 33/2015/NĐ-CP
ngày 27/3/2015 quy định về việc thực hiện kết luận thanh tra. Việc đôn đốc
các đối tượng được thanh tra nghiêm túc, khẩn trương thực hiện đúng nội
dung của kết luận thanh tra và thực hiện việc giám sát, kiểm tra sau thanh tra
là phương thức bảo đảm tuân thủ pháp luật trong thi hành án dân sự. Thông
qua hoạt động thanh tra đã kiến nghị các cấp có thẩm quyền xử lý nhiều vi
phạm pháp luật, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách phù hợp với yêu cầu thực
tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
1.2.2.3. Thanh tra là một biện pháp phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn
và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
Vai trò quan trọng nhất của công tác thanh tra không phải là phát
hiện và xử lý các hành vi vi phạm mà thanh tra đóng vai trò như một biện
51
pháp phòng ngừa hữu hiệu các hành vi vi phạm pháp luật. Tính phòng ngừa
của thanh tra đối với các hành vi vi phạm pháp luật được thể hiện ở những
khía cạnh sau:
Một là, thanh tra cùng với các phương thức kiểm tra, giám sát luôn luôn
là hiện thân của kỷ cương pháp luật. Chính sự hiện diện của các cơ quan
thanh tra, kiểm tra, giám sát đã là một sự nhắc nhở thường xuyên, đối với tất
cả các đối tượng chịu sự thanh tra, kiểm tra, giám sát rằng: pháp luật cần phải
được tuân thủ. Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát định kỳ, thường xuyên hay
đột xuất luôn luôn tạo ra một sức ép thường trực lên các đối tượng và nhờ đó,
nó đã hạn chế sự vi phạm pháp luật.
Thanh tra không chỉ có chức năng bảo đảm pháp chế mà còn có chức
năng tìm hiểu, giúp đỡ, hướng cho các đối tượng thực hiện đúng các quy định
của pháp luật. Điều này sẽ càng trở nên quan trọng nếu chúng ta quan niệm về
một nhà nước làm dịch vụ công. Khi đó các cơ quan chức năng tham gia kiểm
tra, giám sát sẽ thực sự trở thành một trong những địa chỉ mà các cơ quan,
đơn vị, doanh nghiệp, công dân… trong cậy để có thể nhận được những
khuyến nghị, những chỉ dẫn bảo đảm cho hoạt động của mình đúng pháp luật.
Hai là, thanh tra, kiểm tra, giám sát luôn là cách thức phân tích, mổ xẻ
một cách sâu sắc đầy đủ nhất về nguyên nhân, động cơ, mục đích, tính chất,
mức độ của hành vi vi phạm. Do vậy, các giải pháp (các khuyến nghị, kiến
nghị, yêu cầu, quyết định xử lý về thanh tra…) được đưa ra từ hoạt động
thanh tra, kiểm tra, giám sát không chỉ hướng vào việc xử lý hành vi vi phạm
pháp luật mà nó phát hiện được mà nó còn có tác dụng khắc phục các kẽ hở
của chính, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh những vi phạm
pháp luật tương tự xảy ra ở một nơi khác hoặc vào một thời điểm khác.
Ba là, thanh tra luôn có tính định hướng và tính xây dựng. Vai trò phòng
52
ngừa của thanh tra được đề cập ở đây là vai trò phòng ngừa mang tính chủ
động. Trong rất nhiều trường hợp, qua thanh tra mà có thể dự báo được một
hành vi vi phạm sẽ xảy ra trong tương lai nếu không có sự chấn chỉnh, không
có sự định hướng lại cho các đối tượng một các kịp thời.
Với bản chất dân chủ, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân,
do dân và vì dân; pháp luật là để thể hiện ý chí của nhân dân cho nên thanh tra
góp phần tăng cường pháp chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà ước
và ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật cũng chính
là góp phần phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa [44, tr.3, 8].
Để phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự, từ tháng 7/2011 đến 05/2017,
Thanh tra Bộ đã tiến hành 99 cuộc thanh tra, trong đó gồm: 68 cuộc thanh tra
hành chính theo kế hoạch và 31 cuộc thanh tra đột xuất, qua thanh tra đã phát
hiện những tồn tại, thiếu sót, vi phạm [49].
Trong năm 2018, Thanh tra Bộ đã triển khai 10 cuộc thanh tra hành
chính theo kế hoạch; 10 Tổ/Đoàn xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo; và 22
cuộc thanh tra xác minh giải quyết khiếu nại, tố cáo [46].
Qua thanh tra đã phát hiện những tồn tại, vi phạm trong công tác phòng,
chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác tổ chức cán bộ; việc
quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công của các cơ quan THADS như:
+ Việc giới thiệu cán bộ vào quy hoạch còn khép kín trong hệ thống
các cơ quan THADS địa phương, chưa đưa vào quy hoạch những cán bộ,
công chức có đủ điều kiện, tiêu chuẩn và triển vọng đang công tác ở các cơ
quan, đơn vị khác tại địa phương;
+ Đối với công tác xây dựng cơ bản, Chủ đầu tư - cơ quan thi hành án
dân sự nơi xây dựng trụ sở chưa sát sao trong việc giám sát đối với đơn vị thi
công công trình do không có kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng nên một số
53
hạng mục công trình chưa đảm bảo kỹ thuật;
+ Công tác quản lý trong lĩnh vực được giao, các đơn vị chưa thực hiện
nghiêm túc, còn để lại một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục;
+ Việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công vẫn còn thiếu sót, một
số văn bản, chứng từ thanh toán vẫn chưa hoàn thiện đầy đủ;
+ Trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự địa phương còn một số hạn chế như chưa ban hành, niêm yết
và công bố trên trang thông tin điện tử của Cục đối với Quy trình tiếp công
dân và Quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo theo đúng quy định tại
khoản 1 Điều 19 Luật Tiếp công dân; tài liệu trong các hồ sơ giải quyết khiếu
nại, tố cáo chưa được sắp xếp gọn gàng, khoa học, một số vụ việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo thực hiện còn chậm so với quy định.
Qua các cuộc thanh tra nói trên, Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp đã ban
hành 09 Quyết định thu hồi tiền về ngân sách nhà nước với tổng số tiền là
1.592.233.757 đồng.
Đối với công tác thanh tra đột xuất và thanh tra xác minh giải quyết
khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Bộ đã phát hiện, xử lý và kiến nghị xử lý đối với
nhiều hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhiều tổ chức, cá nhân, cụ thể:
+ Việc ban hành Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu khi thời hiệu
yêu cầu thi hành án đã hết và người được thi hành án không chứng minh được
trở ngại khách quan. Qua thanh tra đã kết luận rõ việc ban hành Quyết định
khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án và Quyết định thi hành án theo đơn
yêu cầu của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự là vi phạm pháp luật, qua đó
đã tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định giải quyết
khiếu nại lần thứ hai, có nội dung: “Chấp nhận nội dung khiếu nại và hủy bỏ
Quyết định khôi phục thời hiệu yêu cầu thi hành án và Quyết định thi hành án
54
theo đơn yêu cầu của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự”.
+ Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của
người phải thi hành án là quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm. Đây là
loại tài sản Chấp hành viên không được quyền kê biên, mà chỉ được quyền
kê biên tài sản gắn liền trên đất. Tuy nhiên, một số Chấp hành viên vẫn cố
tình hợp thức hóa hồ sơ, thậm trí làm giả, sửa chữa các Quyết định về thi
hành án để kê biên, bán đấu giá tài sản, gây thiệt hại nhiều tỷ đồng của
người phải thi hành án và người có quyền, lợi ích liên quan. Thanh tra Bộ,
đã kết luận rõ các hành vi vi phạm pháp luật, qua đó đã kiến nghị Bộ trưởng
chỉ đạo Tổng cục Thi hành án dân sự hủy bỏ kết quả thi hành án và tổ chức
thi hành án lại, thậm trí có trường hợp do có động cơ do trục lợi, thiếu trách
nhiệm, nên Thanh tra Bộ đã thực hiện chuyển cơ quan điều tra có thẩm
quyền để khởi tố vụ án điều tra các hành vi vi phạm pháp luật của Chấp
hành viên và công chức thi hành án được quy định tại Khoản 5 Điều 1
Thông tư liên tịch số 03/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP-TTCP ngày
18/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc
phòng và Thanh tra Chính phủ quy định về phối hợp giữa cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, cơ quan thanh tra trong việc trao đổi thông tin về tội phạm và
giải quyết kiến nghị khởi tố được phát hiện qua hoạt động thanh tra.
+ Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên và bán đấu giá
tài sản là khoáng sản, hiện Ngân hàng đang nhận thế chấp. Qua thanh tra, đã
kết luận rõ việc Chấp hành viên đã có một số vi phạm như: không xác minh
điều kiện thi hành án, không ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án nơi
có tài sản để giải quyết và quan trọng là Chấp hành viên chỉ ban hành Quyết
định thu giữ tài sản nhưng không thực hiện biện pháp cưỡng chế kê biên tài
sản mà đã định giá và bán đấu giá, gây thiệt hại tài sản của bên nhận thế chấp.
Qua thanh tra, Thanh tra Bộ đã kiến nghị xử lý kỷ luật Chấp hành viên và Lãnh
55
đạo cơ quan thi hành án, đồng thời kết luận cơ quan thi hành án thực hiện việc
bồi thường thiệt hại số tiền hơn 12 tỷ đồng, do hành vi của Chấp hành viên gây
ra, theo quy định tại Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
+ Chấp hành viên không trực tiếp xác minh điều kiện thi hành án tại
nơi có tài sản và không xác minh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với
các loại tài sản buộc phải đăng ký là vi phạm Điều 6 Nghị định số 58/NĐ-CP
ngày 13/7/2009 của Chính phủ [23, Điều 6, Khoản 4]. Do không xác minh
điều kiện thi hành án trực tiếp tại nơi có tài sản và không xác minh điều kiện
thi hành án tại cơ quan có thẩm quyền nên Chấp hành viên đã áp dụng biện
pháp cưỡng chế kê biên và bán đấu giá tài sản của người phải thi hành án,
trong đó có loại tài sản không được kê biên (ngôi mộ của dòng họ). Qua thanh
tra, Thanh tra Bộ đã kết luận rõ sai phạm, đồng thời kiến nghị xử lý kỷ luật
Chấp hành viên và yêu cầu Chấp hành viên khởi kiện ra Tòa án để hủy kết
quả bán đấu giá tài sản theo quy định tại Khoản Điều 102 Luật Thi hành án dân sự [41, Điều 102, Khoản 2].
1.3. Các điều kiện đảm bảo vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp
trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự
Tương tự như hoạt động quản lý nhà nước nói chung, trong lĩnh vực thi
hành án dân sự, để công tác quản lý nhà nước của Thanh tra Bộ đạt hiệu quả
cao nhất, cần đảm bảo bốn điều kiện như sau:
Thứ nhất, điều kiện về thể chế. Đây chính là tiền đề và căn cứ pháp lý
cần thiết cho hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự của Thanh tra
Bộ. Căn cứ quy định của Luật Thanh tra, Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số
96/2017/NĐ-CP và Quyết định số 285/QĐ-BTP, Thanh tra Bộ giúp Bộ trưởng
Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực thuộc thẩm
quyền quản lý của Bộ; trong đó có lĩnh vực thi hành án dân sự.
Thứ hai, điều kiện về tổ chức bộ máy. Hoạt động của các cơ quan hành
56
chính nói chung và của Thanh tra Bộ nói riêng chịu sự tác động của rất nhiều
yếu tố các nhau như cơ cấu tổ chức, chức năng của các phòng và đội ngũ
công chức. Các yếu tố này cũng có mối quan hệ chặt chẽ, có tác động chi
phối lẫn nhau. Do đó, việc có một bộ máy tổ chức hợp lý sẽ tránh được sự
chồng chéo, vướng mắc, tạo nên sự hài hòa, phối hợp nhuẫn nhuyễn, tiết
kiệm thời gian thực hiện nhiệm vụ được giao mà vẫn đảm bảo được hiệu quả
của công tác quản lý.
Thứ ba, điều kiện về con người. Chất lượng nguồn nhân lực luôn là yếu
tố quyết định hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Nguồn nhân lực của Thanh
tra Bộ được hình thành từ hai nguồn là thi tuyển và xét tuyển. Dù được tuyển
dụng theo hình thức nào thì công chức Thanh tra Bộ cũng phải đáp ứng các
điều kiện sau [36, Điều 36, Khoản 1]:
- Có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam
- Đủ 18 tuổi trở lên;
- Có đơn dự tuyển; có lý lịch rõ ràng;
- Có văn bằng, chứng chỉ phù hợp;
- Có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt;
- Đủ sức khoẻ để thực hiện nhiệm vụ;
- Các điều kiện khác theo yêu cầu của vị trí dự tuyển.
Bên cạnh các tiêu chuẩn chung như đã nêu ở trên, công chức Thanh
tra Bộ đòi hỏi phải có một số kỹ năng khác như kỹ năng nghiên cứu và xử
lý tình huống; đặc biệt đối với những công chức làm công tác tiếp công dân
thường xuyên.
Thứ tư, điều kiện về tài chính và cơ sở vật chất, kỹ thuật. Những điều
kiện đảm bảo về mặt tài chính và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động
quản lý nhà nước phụ thuộc phần lớn vào yêu cầu quản lý. Đối với công tác
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự của Thanh tra Bộ, Nhà nước đảm
57
bảo điều kiện về tài chính thông qua việc phê duyệt quyết toán hàng năm.
Thực tế hiện nay, để thực hiện công tác quản lý nhà nước nói chung và trong
lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng, Thanh tra Bộ đã có sự đầu tư tương
đối đầy đủ và bài bản về cơ sở vật chất, kỹ thuật. Thanh tra Bộ đã trang bị xe
ô tô, máy tính xách tay, các thiết bị ghi âm, ghi hình và các thiết bị thu, phát
tín hiệu khác để thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước nói chung và trong
58
lĩnh vực thi hành án nói riêng.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA
THANH TRA BỘ TƢ PHÁP TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC
VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ
pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự
Theo quy định của pháp luật hiện hành, Thanh tra Bộ không phải là cơ
quan trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước về thi hành án dân sự. Tuy
nhiên, căn cứ vào vị trí, chức năng của Thanh tra Bộ cũng như thực tiễn hoạt
động hiện nay, có thể khẳng định Thanh tra Bộ đóng góp một phần quan trọng
trong hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự với tư cách là cơ quan
tham mưu, giúp Bộ trưởng trong công tác quản lý nhà nước nói chung.
Cụ thể, căn cứ Khoản 12 Điều 3 Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày
26/6/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định việc phân cấp quản lý công
chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ
quan thi hành án dân sự, quy định về Thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp:
Quyết định thanh tra, kiểm tra đối với Tổng Cục trưởng Tổng cục
Thi hành án dân sự và Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện các nội dung
được phân cấp quy định tại Thông tư này; giải quyết khiếu nại, tố
cáo; huỷ bỏ quyết định của Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án
dân sự về quản lý công chức, viên chức, người lao động có nội
dung không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc trái thẩm
quyền đã được phân cấp [10].
Trong thực tế thời gian qua, Thanh tra Bộ đã tham gia sâu, rộng đối với
59
đa số những nội dung quản lý nhà nước về thi hành án dân sự để tham mưu
giúp Bộ trưởng nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước; trở thành một
nhân tố không thể thiếu trong công tác này.
2.1.1. Về quản lý công tác tổ chức cán bộ
Theo quy định tại Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức,
người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án
dân sự, quy định cụ thể về thẩm quyền như sau:
Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn
nhiệm đối với các chức danh Tổng cục trưởng, Phó Tổng cục trưởng, Vụ
trưởng và tương đương thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự; Cục trưởng Cục
Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phó Cục trưởng
Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; Công
chức, viên chức chuyên môn giữ ngạch chấp hành viên cao cấp và tương đương
thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự.
Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền bổ nhiệm,
bổ nhiệm lại, miễn nhiệm đối với các chức danh Phó Vụ trưởng và tương
đương thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự; Phó Cục trưởng Cục Thi hành án
dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (trừ Phó Cục trưởng Cục Thi
hành án dân sự thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh); Chi cục trưởng
Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương; Công chức, viên chức chuyên môn và người
lao động từ ngạch thẩm tra viên chính và tương đương trở xuống thuộc Tổng
cục Thi hành án dân sự;
Mặc dù Thông tư số 09/2015/TT-BTP nêu trên không quy định cụ thể
về chức năng, vị trí và vai trò của Thanh tra Bộ. Tuy nhiên, Khoản 12 Điều 3
60
Thông tư nêu trên đã quy định về thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tư pháp:
Quyết định thanh tra, kiểm tra đối với Tổng Cục trưởng Tổng cục
Thi hành án dân sự và Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện các nội dung
được phân cấp quy định tại Thông tư này; giải quyết khiếu nại, tố
cáo; huỷ bỏ quyết định của Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án
dân sự về quản lý công chức, viên chức, người lao động có nội dung
không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc trái thẩm quyền đã
được phân cấp; ngoài ra, điểm c Khoản 6 Điều 3 của Thông tư này
quy định: Cho ý kiến đối với quy hoạch chức danh Phó Vụ trưởng và
tương đương thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, Phó Cục trưởng
Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
(trừ Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh) trước khi Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi
hành án dân sự quyết định phê duyệt quy hoạch,
do vậy trong quá trình xem xét, giải quyết việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại
và miễn nhiệm đối với các chức danh này đều có sự tham gia của Thanh tra
Bộ. Cụ thể, Tổng cục Thi hành án dân sự là đơn vị chủ trì có trách nhiệm xin
ý kiến của Thanh tra Bộ về điều kiện bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đặc biệt đối với
chức danh Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương. Đồng thời, Thanh tra Bộ tiến hành việc thanh tra
đột xuất hoặc thanh tra xác minh để tham mưu cho Bộ trưởng xem xét, giải
quyết khiếu nại, tố cáo
2.1.2. Về quản lý chuyên môn, nghiệp vụ
Khoản 1 Điều 14 Luật Thi hành án dân sự quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh như sau:
1. Quản lý, chỉ đạo về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, thành
61
phố trực thuộc trung ương, bao gồm:
a) Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật
trong hoạt động thi hành án dân sự;
b) Chỉ đạo hoạt động thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án
dân sự cấp huyện; hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự cho
Chấp hành viên, công chức khác của cơ quan thi hành án dân sự
trên địa bàn;
c) Kiểm tra công tác thi hành án dân sự đối với cơ quan thi hành án
dân sự cấp huyện;
d) Tổng kết thực tiễn thi hành án dân sự; thực hiện chế độ thống kê,
báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự theo hướng
dẫn của cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
Bên cạnh đó, với tư cách là cơ quan quản lý, Tổng cục Thi hành án dân
sự cũng thực hiện việc chỉ đạo, hướng dẫn nghiệp vụ thông qua hình thức
công văn, các cuộc họp và qua các cuộc kiểm tra trực tiếp tại địa phương.
Thông thường, Thanh tra Bộ tham gia công tác quản lý về mặt chuyên môn
nghiệp vụ dưới hình thức tham gia các cuộc họp và các đoàn công tác liên
ngành tại địa phương theo chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp bằng việc chỉ
đạo Thanh tra Bộ phối hợp với Tổng cục Thi hành án dân sự.
Đối với việc hướng dẫn nghiệp vụ thông qua các cuộc họp cũng như
các đoàn công tác tại địa phương; thông thường đây là những vụ việc tương
đối phức tạp, liên quan đến nhiều cấp nhiều ngành hoặc giá trị tài sản phải thi
hành án lớn tiềm ẩn nguy cơ phát sinh khiếu nại, tố cáo hoặc gây mất ổn định
về chính trị tại địa phương. Do đó, việc tham gia của Thanh tra Bộ là rất cần
thiết hướng tới mục tiêu hạn chế đơn khiếu nại, tố cáo kéo dài.
Liên quan đến nội dung này, trước khi Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014 có hiệu lực, thực hiện quy định tại
62
Điểm e Khoản 1 Điều 167 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 Bộ Tư pháp có
trách nhiệm: “…e) Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm trong
công tác thi hành án dân sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân
sự”. Với tư cách là cơ quan tham mưu của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Thanh tra
Bộ thực hiện thanh tra nghiệp vụ đối với các cơ quan thi hành án trên phạm vi
cả nước. Thông qua quá trình thanh tra, Thanh tra Bộ đã phát hiện ra các sai
sót, vi phạm của các Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành và của
Thủ trưởng cơ quan thi hành án trong việc chỉ đạo, điều hành và kiến nghị
người có thẩm quyền xử lý trong trường hợp cần thiết. Nhưng quan trọng hơn
hết và trên hết, thông qua thanh tra đặc biệt là trong các buổi đối thoại giữa
Đoàn Thanh tra và các Chấp hành viên, Thanh tra Bộ đã kịp thời cung cấp
một cái nhìn toàn cảnh, một cách hiểu đúng đắn về pháp luật thi hành án dân
sự hướng đến mục tiêu giảm thiểu oan, sai trong thi hành án dân sự và giảm
bớt số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong lĩnh vực
này. Tuy nhiên, chức năng thanh tra theo kế hoạch đối với nghiệp vụ thi hành
án dân sự hiện nay đã không còn theo quy định tại Khoản 43 Điều 1 Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014:
Sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 1 Điều 167 như sau: Thanh tra
việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, thực
hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người lao
động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công
tác thi hành án dân sự.
Đây cũng là một quy định bất cập của Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014. Việc hạn chế thanh tra nghiệp vụ thi
hành án theo kế hoạch, dẫn đến nội dung quản lý nhà nước của Bộ trưởng
không được hiệu quả, nhiều vi phạm pháp luật nghiêm trọng không được phát
63
hiện xử lý, dẫn đến khiếu nại, tố cáo vượt cấp kéo dài.
2.1.3. Về khen thưởng và xử lý vi phạm
Tương tự như các nội dung quản lý nhà nước khác, các quy định của
pháp luật hiện hành không có quy định trực tiếp về nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của Thanh tra Bộ. Công tác khen thưởng và xử lý vi phạm do
các cơ quan thi hành án dân sự và Tổng cục Thi hành án dân sự với tư cách
là cơ quan quản lý thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế trong công tác xử lý vi
phạm đặc biệt đối với các chức danh do Bộ trưởng và Tổng cục trưởng quản
lý trực tiếp đều có sự tham gia của Thanh tra Bộ. Việc tham gia này được
thể hiện dưới hai hình thức: qua công văn góp ý hoặc là thành viên Hội đồng
xử lý kỷ luật.
Bên cạnh đó, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Thanh tra
Bộ đã phát hiện không ít những hành vi vi phạm pháp luật của công chức
trong khi thực hiện nhiệm vụ. Trên cơ sở Báo cáo kết quả thanh tra và Kết
luận thanh tra, Thanh tra Bộ đã kiến nghị những hình thức xử lý kỷ luật
nghiêm minh đối với những công chức đã có hành vi vi phạm pháp luật làm
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân và lợi ích của Nhà nước.
Quan trọng hơn cả việc kiến nghị xử lý kỷ luật của Thanh tra Bộ góp phần
củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật; đưa công tác
thi hành án dân sự vào đúng kỷ cương đường lối, phát triển đúng định hướng
của ngành thi hành án dân sự nói chung và toàn ngành Tư pháp nói riêng.
2.1.4. Về công tác thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo
Riêng đối với lĩnh này, Thanh tra Bộ được giao nhiệm vụ, quyền hạn
cụ thể. Đối với công tác thanh tra, căn cứ Khoản 43 Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ
sung một số điều Luật Thi hành án dân sự năm 2014 quy định trách nhiệm
của Bộ trưởng Bộ Tư pháp như sau:
Sửa đổi, bổ sung Điểm e Khoản 1 Điều 167 như sau: e)Thanh tra
64
việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, thực
hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người lao
động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác thi
hành án dân sự.
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành và vị trí của Thanh tra
Bộ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao Thanh tra Bộ thực hiện thanh tra trong các
lĩnh vực: đầu tư xây dựng cơ bản; công tác tổ chức cán bộ, việc quản lý sử
dụng ngân sách và trách nhiệm thực hiện các quy định về giải quyết khiếu nại,
tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Đây đồng thời chính là nội dung thanh
tra hành chính được nêu rõ tại Kế hoạch thanh tra hàng năm của Thanh tra Bộ
được Bộ trưởng phê duyệt. Cụ thể, theo quy định của Luật Thanh tra, trước
ngày 25/11 hàng năm, Thanh tra Bộ trình Bộ trưởng ký ban hành Kế hoạch
thanh tra năm tiếp theo. Kế hoạch thanh tra hành chính nói riêng và Kế hoạch
thanh tra năm nói chung của Thanh tra Bộ được xây dựng dựa trên cơ sở khảo
sát, báo cáo của địa phương và những vấn đề nổi bật trong dư luận xã hội (nếu
có). Trong những năm gần đây, Thanh tra Bộ thực hiện khoảng 9 -10 đoàn
thanh tra hành chính mỗi năm chia đều cho tất cả các lĩnh vực. Công tác thanh
tra hành chính đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện quản lý nhà
nước về thi hành án dân sự của Bộ Tư pháp. Công tác thanh tra một mặt giúp
cơ quan quản lý nhà nước đánh giá đúng về hiệu quả của việc sử dụng vốn nhà
nước trong công tác đầu tư xây dựng cơ bản và quản lý sử dụng ngân sách nhà
nước; đảm bảo công khai, minh bạch và công bằng trong công tác tổ chức cán
bộ; mặt khác chấn chỉnh, nâng cao trách nhiệm, vai trò của Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự tại địa phương trong việc thực hiện các quy định của pháp
luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng.
Ngoài công tác thanh tra theo kế hoạch, Thanh tra Bộ còn thực hiện
65
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Đối với công tác này, Thanh tra Bộ đóng vai
trò là cơ quan đầu mối, tham mưu cho Bộ trưởng giải quyết các khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền.
Căn cứ Khoản 1 Điều 140 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, quyền
khiếu nại về thi hành án thuộc về đương sự (người được thi hành án, người
phải thi hành án), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo đó, những cá
nhân này có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định,
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Theo Khoản 4 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Bộ trưởng Bộ Tư
pháp có thẩm quyền giải quyết những khiếu nại sau:
- Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần thứ nhất của
Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự (Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem
xét, giải quyết khiếu nại lần thứ hai);
- Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại
quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành của Cục trưởng Cục
Thi hành án dân sự và Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự.
So với các quy định chung về khiếu nại, trong lĩnh vực thi hành án dân
sự, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền riêng là thẩm quyền xem xét lại các
Quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật
Đối với công tác giải quyết tố cáo, tương tự quy định của Luật Tố cáo,
Điều 154 Luật Thi hành án dân sự quy định về người có quyền tố cáo như sau:
Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền về hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự, Chấp hành viên và công chức khác làm công tác
thi hành án dân sự gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi
ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
66
quan, tổ chức.
Căn cứ theo quy định của Khoản 1 Điều 157 Luật Thi hành án dân sự,
Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với Tổng cục
trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự.
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ
pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự và những hạn chế,
tồn tại
2.2.1. Trong lĩnh vực công tác tổ chức cán bộ
Thanh tra Bộ tham gia công tác tổ chức cán bộ trong lĩnh vực thi hành
án dân sự dưới rất nhiều hình thức. Liên quan đến công tác xây dựng văn
bản pháp luật, Thanh tra Bộ trực tiếp tham gia vào Ban Soạn thảo, Tổ Biên
tập các Thông tư về quản lý tổ chức cán bộ; cụ thể như sau: Thông tư liên
tịch số 02/2011/TTLT-BNV-BTP hướng dẫn việc chuyển xếp ngạch và xếp
lương đối với công chức ngạch chấp hành viên thi hành án dân sự; Thông tư
số 09/2012/TT-BTP quy định trình tự, thủ tục bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, từ
chức, miễn nhiệm, cách chức, giáng chức công chức lãnh đạo cấp Vụ thuộc
Tổng cục Thi hành án dân sự; lãnh đạo Cục, lãnh đạo các phòng chuyên môn
và tương đương thuộc Cục Thi hành án dân sự; lãnh đạo Chi cục Thi hành
án dân sự; Thông tư số 16/2012/TT-BNV Ban hành quy chế thi tuyển, xét
tuyển viên chức; quy chế thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với viên
chức và nội quy kỳ thi tuyển, thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp đối với
viên chức; Thông tư số 13/2013/TT-BTP quy định tiêu chuẩn chức danh
công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý thuộc Cục Thi hành án dân sự và
Chi cục Thi hành án dân sự; Thông tư số 09/2015/TT-BTP quy định việc
phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục Thi
hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự. Việc tham gia của Thanh
tra Bộ trong lĩnh vực công tác này có sự phối kết hợp giữa sự hiểu biết về
67
mặt luật học, sự nghiên cứu về lý luận và việc đánh giá thực tiễn thông qua
hoạt động thanh tra. Việc đánh giá hiệu quả và sự tác động của các quy định
pháp luật đóng vai trò rất quan trọng trong công tác hoàn thiện thể chế và
đưa pháp luật vào cuộc sống.
Bên cạnh đó, được sự tin tưởng của Lãnh đạo Bộ, Thanh tra Bộ là
thành phần cốt yếu trong quá trình tuyển dụng, thi nâng ngạch và thi chuyển
ngạch của Tổng cục Thi hành án dân sự. Theo quy định hiện hành, việc thi
tuyển của ngành thi hành án dân sự do Tổng cục Thi hành án dân sự trực tiếp
quản lý và tổ chức thi. Ngoài việc cử người tham gia Ban coi thi, Thanh tra
Bộ còn là thành viên Ban giám sát, trực tiếp giám sát các hoạt động khác của
quá trình tuyển dụng như: ra đề thi, coi thi, niêm phong/bóc niêm phong bài
thi, dọc phách và chấm thi.
Thanh tra Bộ cũng là đơn vị có ý kiến trực tiếp đối với các trường hợp
bổ nhiệm, bổ nhiệm lại các chức danh Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương. Thông thường việc lấy ý kiến của
Thanh tra Bộ được thực hiện bằng văn bản. Trên cơ sở kết quả thanh tra của
Thanh tra Bộ và kết quả rà soát đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân,
Thanh tra Bộ có ý kiến trong việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại hoặc tạm dừng quy
trình đối với các chức danh này.
Tuy nhiên, trong công tác tổ chức cán bộ nói chung và việc tham gia ý
kiến đối với việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại chức danh lãnh đạo các cơ quan thi
hành án dân sự địa phương hiện nay còn một số vấn đề bất cập.
Thứ nhất, việc Thanh tra Bộ chỉ tham gia ý kiến đối với chức danh Cục
trưởng Cục Thi hành án dân sự là chưa tương xứng với vị trí, vai trò của
Thanh tra Bộ. Công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện
tới cấp Chi cục. Do đó, khi bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đối với chức danh Chi cục
trưởng Chi cục Thi hành án dân sự cấp quận, huyện mà không có ý kiến của
Thanh tra Bộ là chưa toàn diện có trường hợp dẫn đến thiếu sót, vẫn được bổ
68
nhiệm lại khi có hành vi vi phạm đã được làm sáng tỏ qua công tác thanh tra.
Thứ hai, Thanh tra Bộ thường xuyên bị động khi nhận được văn bản
của Tổng cục Thi hành án dân sự xin ý kiến về vấn đề bổ nhiệm, bổ nhiệm lại
đối với chức danh Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự. Do đó, việc rà soát chỉ
được thực hiện tại thời điểm xin ý kiến dẫn đến tình trạng sau khi Thanh tra
Bộ đã có văn bản phúc đáp mới tiến hành thanh tra theo kế hoạch và phát hiện
ra sai phạm của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự. Đây là vấn đề rất khó
khắc phục và sửa chữa trong thực tế.
2.2.2. Trong lĩnh vực chuyên môn, nghiệp vụ
Cần phải khẳng định rằng đây không phải nhiệm vụ chuyên môn của
Thanh tra Bộ; tuy nhiên, theo tình hình thực tế hiện nay, Thanh tra Bộ đóng
vai trò là cơ quan phối hợp cùng Tổng cục Thi hành án dân sự thực hiện việc
quản lý chuyên môn, nghiệp vụ trong một số trường hợp; đặc biệt là đối với
những vụ việc đã phát sinh hoặc tiềm ẩn nguy cơ phát sinh khiếu nại, tố cáo
kéo dài. Việc phối hợp quản lý chuyên môn, nhiệm vụ trong thi hành án dân
sự giữa Tổng cục Thi hành án dân sự và Thanh tra Bộ được thực hiện thông
qua ba hình thức: xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; tham gia các Đoàn
công tác và các cuộc họp liên ngành để hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ cho các
cơ quan thi hành án dân sự địa phương do Tổng cục Thi hành án dân sự chủ
trì, cụ thể như sau:
Thứ nhất, liên quan đến công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ đã phối
hợp với Tổng cục Thi hành án dân sự và một số đơn vị thuộc Bộ trực tiếp
tham gia xây dựng các văn bản sau:
+ Luật Thi hành án dân sự năm 2008; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014.
+ Các Nghị định số: 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định chi tiết
69
và hướng dẫn một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án
dân sự; 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn một
số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ
quan thi hành án dân sự, công chức làm thi hành án dân sự; 61/2009/NĐ-CP
ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm
tại thành phố Hồ Chí Minh; 125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về thủ
tục thi hành án dân sự; 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự;
+ Các Thông tư: số 12/2001/TTLT-BTP-VKSTC ngày 26/2/2001
hướng dẫn thực hiện một số quy định của pháp luật về thi hành án dân sự; số
144/2010/TTLT-BTC-BTP hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng
phí thi hành án; số 04/2009/TTLT-BTP-BTC hướng dẫn bảo đảm tài chính từ
ngân sách nhà nước để thi hành án; số 22/2010/TT-BTP hướng dẫn về đăng
ký, cung cấp thông tin trực tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc
kê biên tài sản thi hành án; số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC
hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành
trong thi hành án dân sự, số 03/2011/TT-BTP phân cấp quản lý tài chính, tài
sản, đầu tư xây dựng cơ bản cho Tổng cục Thi hành án dân sự và cơ quan thi
hành án dân sự; số 08/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 quy định về biểu mẫu
thống kê; số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 quy định về phân cấp công
chức, viên chức thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự; số 01/2016/TT-BTP
hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp
vụ trong thi hành án dân sự.
Thứ hai, tham gia các đoàn công tác:
Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
70
hành án dân sự, ngoài việc định kỳ thực hiện việc kiểm tra nghiệp vụ thi hành
án dân sự, Tổng cục Thi hành án dân sự còn thành lập các Đoàn kiểm tra liên
ngành để kiểm tra xác minh phục vụ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và
hướng dẫn chỉ đạo nghiệp vụ theo thẩm quyền. Các vụ việc này thường liên
quan đến các lĩnh vực mà Tổng cục Thi hành án dân sự không quản lý, như:
Bán đấu giá tài sản, Công chứng, Luật sư… nên rất khó khăn trong việc yêu
cầu cung cấp thông tin, tài liệu và làm việc đối thoại, do đó vai trò của Thanh
tra Bộ trong việc phối hợp liên ngành là rất cần thiết.
Thứ ba, tham gia các cuộc họp liên ngành:
Để có căn cứ trong việc hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự trong
toàn ngành và chống chồng chéo, vượt cấp, ngày 03/12/2014, Tổng cục trưởng
Tổng cục Thi hành án dân sự ban hành Quyết định số 824/QĐ-TCTHADS về
việc ban hành Quy chế hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự trong nội bộ
ngành thi hành án dân sự. Cụ thể, Điều 4 của Quy chế quy định:
1. Đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, nội dung quy định tại Quy
trình này. Chấp hành viên đề nghị Thủ trưởng đơn vị nơi mình công
tác hướng dẫn nghiệp vụ, Chi cục trưởng đề nghị Cục trưởng hướng
dẫn nghiệp vụ, Cục trưởng đề nghị Tổng cục trưởng hướng dẫn
nghiệp vụ. Không hướng dẫn nghiệp vụ vượt cấp.
2. Chỉ hướng dẫn nghiệp vụ khi thuộc một trong các trường hợp sau:
a) Việc tổ chức thi hành án gặp khó khăn do có những ý kiến, quan
điểm khác nhau về cách hiểu, cách vận dụng các quy định pháp
luật trong quá trình tổ chức thi hành án mà Chấp hành viên, cơ
quan thi hành án dân sự đang tổ chức thi hành vụ việc không thể
quyết định được.
b) Có những tình huống pháp lý chưa được pháp luật quy định cụ
thể hoặc quy định ở nhiều văn bản khác nhau nhưng nội dung của
71
các quy định đó không thống nhất mà Chấp hành viên, cơ quan thi
hành án dân sự thấy cần phải đề nghị hướng dẫn nghiệp vụ để có
biện pháp giải quyết.
c) Những vụ việc thi hành án khó khăn, phức tạp, có khiếu nại
gay gắt, kéo dài, ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự xã hội ở
địa phương.
Như vậy, đối với các vụ việc do Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xin ý kiến thì Tổng cục Thi hành án
dân sự chủ trì mời các đơn vị thuộc Bộ trong đó Thanh tra Bộ.
Tại các cuộc họp liên ngành, Thanh tra Bộ đóng góp các ý kiến chuyên
môn, ý kiến của mình và chịu trách nhiệm trước Lãnh đạo Bộ Tư pháp trước
những ý kiến, quan điểm đã đưa ra.
2.2.3. Trong lĩnh vực khen thưởng, xử lý vi phạm
Đối với nội dung này, Thanh tra Bộ chỉ tập trung chủ yếu vào việc xây
dựng các quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực thi
hành án dân sự và thực hiện việc kiến nghị cơ quan hoặc người có thẩm
quyền xem xét xử lý kỷ luật đối với cá nhân có hành vi vi phạm.
Thanh tra Bộ là đơn vị chủ trì xây dựng Nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong đó bao gồm lĩnh vực thi hành án dân sự; cụ thể:
- Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi
hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã;
- Nghị định số 67/2015/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định 110/2013/NĐ-CP;
Hiện nay, căn cứ vào yêu cầu thực tế, Thanh tra Bộ đang xây dựng
Nghị định thay thế 02 Nghị định trên. Đến thời điểm hiện tại, Bộ Tư pháp đã
có văn bản gửi Văn phòng chính phủ để thẩm định.
72
Ngoài ra, qua công tác thanh tra đã phát hiện ra nhiều sai phạm của
Lãnh đạo, Chấp hành viên qua đó đã kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý vi
phạm đối với các cá nhân, tổ chức bằng nhiều hình thức phù hợp đối với các
hành vi vi phạm, cụ thể:
+ Tháng 10/2012, Thanh tra Bộ thực hiện việc thanh tra theo kế hoạch
(đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt) trong lĩnh vực nghiệp vụ thi
hành án dân sự đối với Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền và Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. Qua
thanh tra đã phát hiện các Chấp hành viên đã vi phạm trong quá trình tổ
chức thi hành án, cụ thể [14]:
Việc xác minh định kỳ điều kiện thi hành án của Chấp hành viên
đối với một số hồ sơ chưa có điều kiện thi hành án không đảm bảo
về thời hạn;
Một số hồ sơ thể hiện có điều kiện, nhưng Chấp hành viên phân
loại thành chưa có điều kiện thi hành làm ảnh hưởng đến số liệu
báo cáo và gây ảnh hưởng đến quyền lợi của Nhà nước và người
được thi hành án;
Việc chi, trả tiền cho người được thi hành án là doanh nghiệp, cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội hay tổ chức kinh tế xã hội bằng tiền
mặt của Cục THADS là không thực hiện đúng quy định tại Thông
tư số 91/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 của Bộ Tài chính;
Chi cục THADS chưa thực hiện nghiêm túc, đầy đủ việc thống kê báo
cáo định kỳ được quy định tại Quyết định số 02/2006/QĐ-BTP ngày
14/4/2006 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc ban hành Chế độ báo
cáo thống kê Thi hành án dân sự. Việc điều chỉnh số liệu thống kê từ
82,7% lên 87% về việc theo chỉ đạo của Lãnh đạo Cục THADS thành
phố Hải Phòng để đảm bảo chỉ tiêu được giao là trái quy định;
73
Lãnh đạo Chi cục THADS chưa thật sự sát sao trong việc chỉ
đạo, điều hành chuyên môn, nghiệp vụ, dẫn đến việc để ngoài
báo cáo thống kê 1.614 việc là vi phạm nghiêm trọng về chế độ
thống kê báo cáo;
Chi cục trưởng Chi cục THADS chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm
giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo còn
chưa bảo đảm đúng quy trình, không thực hiện việc đối thoại, có
việc bỏ ngoài không đưa vào sổ theo dõi và thụ lý đầy đủ các đơn
khiếu nại, tố cáo.
Đối với Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng
đã chỉ đạo các một số Chi cục THADS điều chỉnh số liệu báo cáo
thống kê để đạt chỉ tiêu thi đua là vi phạm nghiêm trọng về chế độ
báo cáo thống kê; Lãnh đạo Cục THADS buông lỏng quản lý,
không kiên quyết trong việc chỉ đạo Chi cục THADS quận Ngô
Quyền đưa 1.614 vụ việc vào báo cáo thống kê.
Từ những vi phạm nêu trên, Thanh tra Bộ đã ban hành Kết luận thanh
tra và yêu cầu các đơn vị, cá nhân khẩn trương khắc phục các vi phạm, đồng
thời kiến nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thi hành kỷ luật đối với Cục trưởng
Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng trong việc buông lỏng quản lý,
chỉ đạo cấp dưới thiếu cơ sở đối với việc điều chỉnh báo cáo số liệu thống kê
dẫn đến việc báo cáo không trung thực và tổ chức họp kiểm điểm xác định
trách nhiệm đối với các cá nhân có vi phạm và đề xuất biện pháp xử lý kỷ
luật tương xứng.
+ Tháng 8/2013, thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp,
Thanh tra Bộ đã tiến hành thanh tra đột xuất đối với Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Lai Châu và một số Chi cục Thi hành án dân sự thuộc tỉnh [16].
Qua thanh tra, đã phát hiện Cục Thi hành án dân sự tỉnh và một số Chi
74
cục Thi hành án dân sự huyện có nhiều vi phạm như: quyết toán khống những
hạng mục không thi công trên thực tế (lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản); Cục
trưởng đã buông lỏng quản lý, dẫn đến việc một số Chi cục Thi hành án dân
sự không thuê kho để chứa vật chứng vụ án nhưng vẫn lập hồ sơ thuê kho
khống để rút tiền ngân sách nhà nước, lập chứng từ khống đối với một số
trường hợp không thuộc đối tượng được hưởng trợ cấp thu hút theo quy định
tại Nghị định số 116/2010/NĐ-CP ngày 21/12/2010 của Chính Phủ (lĩnh vực
quản lý, sử dụng kinh phí hành chính sự nghiệp).
Từ những kết quả trên, Thanh tra Bộ đã ban hành Kết luận thanh tra đối
với những hành vi vi phạm pháp luật và tiến hành thu hồi toàn bộ số tiền chi
sai nguyên tắc, đồng thời kiến nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp thi hành kỷ luật
đối với Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu bằng hình thức
Giáng chức và các hình thức kỷ luật khác tương xứng với hành vi vi phạm đối
với các cá nhân có liên quan. Đồng thời, Thanh tra Bộ cũng đã kiến nghị Bộ
trưởng Bộ Tư pháp chỉ đạo Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự
xem xét, thi hành kỷ luật đối với Đoàn kiểm tra của Tổng cục Thi hành án dân
sự vì thiếu trách nhiệm trong quá trình kiểm tra, dẫn đến việc không phát hiện
ra các sai phạm.
+ Tháng 12/2013, Thanh tra Bộ tiến hành thanh tra đột xuất đối với Chi
cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải phòng, vì có dấu
hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án [15].
Kết quả thanh tra cho thấy, trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp
hành viên đã kê biên và bán đấu giá tài sản đối với 20.634 tấn quặng sắt, là tài
sản của Công ty cổ phận luyện gang Vạn Lợi đang thế chấp cho Ngân hàng
Thương mại cổ phần Đầu tư và phát triển (BIDV) để vay tiền. Căn cứ vi
phạm nêu trên, Thanh tra Bộ đã báo cáo Lãnh đạo Bộ Tư pháp và tổ chức
nhiều cuộc họp liên Bộ, liên ngành để đi đến thống nhất kết luận: “Chi cục
75
Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng có trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cho Ngân hàng BIDV giá trị của 20.634 tấn quặng sắt
(tương đương 12.580.000.000 đồng)”. Cũng tại Kết luận nêu trên, Thanh tra
Bộ đã kiến nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp chỉ đạo Tổng cục trưởng thi hành kỷ
luật đối với các cá nhân, Lãnh đạo có liên quan.
+ Ngoài một số việc điển hình nêu trên, Thanh tra Bộ còn tiến hành
nhiều cuộc thanh tra đột xuất theo quy định của pháp luật, kết luận rõ các
hành vi vi phạm pháp luật của Chấp hành viên, Lãnh đạo các đơn vị thi hành
án. Thông qua đó, Thanh tra Bộ đã kiến nghị hình thức xử lý kỷ luật tương
xứng đối với các cá nhân có hành vi vi phạm, thậm chí có một số trường hợp,
Thanh tra Bộ đã lập hồ sơ để chuyển Cơ quan điều tra để khởi tố vụ án điều
tra theo thẩm quyền.
2.2.4. Trong lĩnh vực thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo
Đây là nhiệm vụ công tác trọng tâm của Thanh tra Bộ trong quản lý nhà
nước về thi hành án dân sự. Liên quan đến công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo, ngoài các nội dung về thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định tại
Điều 142 và Điều 157 Luật Thi hành án dân sự 2008, Thanh tra Bộ đã phối
hợp cùng Tổng cục Thi hành án dân sự xây dựng và trình Bộ trưởng Bộ Tư
pháp ban hành Thông tư số 02/2016/TTBTP ngày 01/02/2016 quy định quy
trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi
hành án dân sự (có hiệu lực kể từ ngày 16 tháng 3 năm 2016).
Thông tư hướng dẫn việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đối với đơn khiếu
nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự của các cơ
quan thi hành án dân sự, cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư
pháp. Theo đó, việc xử lý đơn phải đảm bảo chính xác, khách quan, kịp thời,
đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật về thi hành án
dân sự và pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
76
việc thi hành án dân sự.
Tính từ năm 2015 đến tháng 4/2019, Thanh tra Bộ đã tiến hành 42 cuộc
thanh tra hành chính theo kế hoạch. Qua thanh tra, Thanh tra Bộ đã phát hiện
các sai phạm của đối tượng thanh tra và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý
đồng thời thu hồi cho ngân sách nhà nước số tiền 2.065.780.198 đồng. Cá biệt
trong năm 2018, Thanh tra Bộ thực hiện thu hồi số tiền 1.517.837.262 đồng.
Ngoài ra, việc xây dựng hệ thống Báo cáo, thống kê trong lĩnh vực này
đóng một vai trò quan trọng nhằm hướng đến mục đích dự báo số lượng đơn
thư và đề ra kế hoạch giải quyết trong năm tiếp theo. Bên cạnh đó, việc thống
kê số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự giúp Bộ Tư
pháp nói chung và Thanh tra Bộ, Tổng cục Thi hành án dân sự nói riêng đề ra
các biện pháp hạn chế, làm giảm số lượng đơn, thư tạo niềm tin trong nhân
dân đối với pháp luật và bộ máy nhà nước. Để thực hiện công tác này, các
công chức của Thanh tra Bộ đã tham gia Ban Soạn thảo và Tổ biên tập Thông tư
liên tịch số 01/2018/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP-BTC-BNN&PTNT
ngày 05/4/2018 quy định phối hợp trong việc báo cáo, thông báo về công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.
Về công tác xử lý đơn, thư, giải quyết khiếu nại, trong 09 tháng đầu
năm 2018, Thanh tra Bộ với tư cách là cơ quan đầu mối tham mưu cho Bộ
trưởng đã tiếp nhận và xử lý 734 đơn thuộc thẩm quyền; trong đó, có 431 đơn
khiếu nại và 135 đơn tố cáo; chiếm 46% tổng số đơn đã nhận. So với cùng kỳ
năm trước, số lượng đơn thư, khiếu nại tăng 37% [47].
Trong 6 tháng đầu năm 2019, Thanh tra Bộ phối hợp với các đơn vị
chức năng đã tiếp 175 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh. Trong đó có 83 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền
(chiếm 59%), 72 lượt công dân đến khiếu nại không thuộc thẩm quyền (chiếm
41%)). So với cùng kỳ năm trước, số lượt công dân đến Bộ Tư pháp khiếu
nại, tố cáo tăng 19 lượt công dân tương ứng với 12% (6 tháng đầu năm 2018,
77
có 156 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo).
Trong 6 tháng đầu năm 2019, (từ ngày 01/01/2019 đến 15/6/2019),
Thanh tra Bộ đã nhận được 936 đơn (886 đơn khiếu nại, 50 đơn tố cáo), trong
đó đơn thư thuộc thẩm quyền là 429 đơn khiếu nại, tố cáo (385 đơn khiếu nại,
44 đơn tố cáo), chiếm 45%, đơn thư không thuộc thẩm quyền là 507 đơn (501
đơn khiếu nại, 06 đơn tố cáo) chiếm 55%. So với năm trước, số lượng đơn thư
khiếu nại, tố cáo Thanh tra Bộ Tư pháp nhận được giảm 0,2% (6 tháng đầu
năm 2018, tiếp nhận 962 đơn thư khiếu nại, tố cáo).
Trong số 429 đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền có 363 đơn
thuộc lĩnh vực thi hành án dân sự gồm: 61 đơn khiếu nại, tái khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng (51 đơn khiếu nại, 10 đơn tố cáo); 302 đơn
khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan Thi hành án dân sự địa
phương (283 đơn khiếu nại, 20 đơn tố cáo); lĩnh vực khác: 66 đơn (53 đơn
khiếu nại, 13 đơn tố cáo) [48].
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
Trong những năm qua, vị trí, vai trò của Thanh tra Bộ trong việc quản
lý nhà nước về thi hành án dân sự đã được cải thiện và nâng cao. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong một chừng mực nhất định, công
tác quản lý nhà nước của Thanh tra Bộ trong lĩnh vực này còn có một số
những hạn chế, tồn tại nhất định. Những hạn chế, tồn tại này xuất phát từ
những nguyên nhân chủ yếu như sau:
2.3.1. Sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật
Luật Thanh tra quy định thanh tra là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý
theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan, tổ chức, cá nhân [38, Điều 3, Khoản 1]. Với bản chất đó, thanh tra là
hoạt động của cơ quan nhà nước, luôn mang tính quyền lực và là một bộ phận
78
cấu thành không thể thiếu của quản lý nhà nước nói chung. Hay nói cách
khác, thanh tra là hoạt động được thực hiện rộng khắp trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó có thi hành án dân sự theo nguyên tắc quản lý
nhà nước đến đâu thì thanh tra đến đó.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng, Bộ Tư pháp là cơ quan
chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về thi hành án
dân sự. Một trong những nội dung cơ bản và quan trọng nhất trong công tác
quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp về thi hành án dân sự chính là hoạt động
nghiệp vụ thi hành án. Cơ quan chuyên trách quản lý chuyên môn về thi hành
án dân sự được trao cho Tổng cục thi hành án dân sự.
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định về chức năng, nhiệm vụ
của Bộ Tư pháp như sau: “… Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm
trong công tác thi hành án dân sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án
dân sự”. Theo quy định này và được sự phân công, phân cấp của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp, Thanh tra Bộ thực hiện việc thanh tra toàn diện đối với ngành thi
hành án dân sự; trong đó bao gồm cả thanh tra nghiệp vụ thi hành án. Như đã
phân tích ở trên, công tác thanh tra nghiệp vụ thi hành án là vô cùng cần thiết;
đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp đồng thời thực hiện đúng
tôn chỉ, mục đích của việc thanh tra đã được cụ thể hóa tại Luật Thanh tra
2004 và Luật Thanh tra năm 2010.
Tuy nhiên, sau khi Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi
hành án dân sự có hiệu lực, chức năng thanh tra trong lĩnh vực thi hành án dân
sự bị thu hẹp. Việc thanh tra chỉ được giới hạn ở một số lĩnh vực nhất định và
không bao gồm nghiệp vụ thi hành án dân sự; trong khi đó, đây là công tác
nghiệp vụ quan trọng nhất của các cơ quan thi hành án dân sự, ảnh hưởng trực
tiếp đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan tổ
chức cá nhân. Ngoài ra, hoạt động này cũng là một trong những hoạt động
79
tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện và gây mất ổn
định về tình hình chính trị tại địa phương. Cụ thể, Khoản 43 Điều 1 của Luật
này (sửa đổi điểm e khoản 1 Điều 167 Luật Thi hành án dân sự) quy định về
quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Tư pháp như sau:
Thanh tra việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản
lý, thực hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người
lao động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác
thi hành án dân sự.
Trong khi đó, theo Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của
Chính phủ (nay được sửa đổi bởi Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017)
quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của Bộ Tư Pháp lại
quy định rõ:
Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý
nhà nước về: Xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy
phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, thi hành án dân sự,
thi hành án hành chính, bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, bồi
thường nhà nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính; quản lý nhà nước các dịch vụ sự nghiệp công
trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.
Cũng tại Nghị định nêu trên, điểm a khoản 13 Điều 2 đã quy định về
nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp đối với lĩnh vực thi hành án dân sự, thi
hành án hành chính: “Quản lý hệ thống tổ chức, biên chế và hoạt động của cơ
quan thi hành án dân sự; quyết định thành lập, giải thể các cơ quan thi hành
án dân sự”.
Như vậy, sự thiếu thống nhất và thiếu đồng bộ giữa Luật Thanh tra,
Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định về chức năng, nhiệm
80
vụ, quyền hạn và cơ cấu của Bộ Tư Pháp với Luật Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 dẫn đến lỗ hổng trong công tác
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự.
2.3.2. Các vấn đề liên quan đến tổ chức bộ máy
Như đã nêu ở trên, số lượng biên chế như hiện nay của Thanh tra Bộ
chưa đáp ứng được yêu cầu của công việc nếu xét trên khía cạnh số lượng lĩnh
vực thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (27 lĩnh vực theo
quy định tại Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017). Tuy nhiên, do
vấn đề biên chế, tổ chức, tính đến thời điểm hiện tại Thanh tra Bộ chưa có đủ
nhân lực để thực hiện đầy đủ chức năng quản lý nhà nước nói chung và trong
lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng mà đa số chỉ thực hiện việc thanh tra
theo kế hoạch, đột xuất và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với một số lĩnh vực
chủ yếu như: Luật sư, Bán đấu giá, công chứng, hộ tịch, Con nuôi trong nước,
Con nuôi có yếu tố nước ngoài, trợ giúp pháp lý và thi hành án dân sự.
Đối với công tác thi hành án dân sự, khác với Tổng cục Thi hành án
dân sự, Thanh tra Bộ không có các cán bộ chuyên quản theo khu vực dẫn đến
tình trạng việc theo dõi công tác thi hành án của các cơ quan thi hành án dân
sự địa phương không có sự thống nhất, toàn diện. Một trong những lý do quan
trọng nhất của tình trạng này chính là vấn đề thiếu biên chế. Công tác thanh
tra theo kế hoạch trong lĩnh vực thi hành án dân sự (ngoại trừ kế hoạch về
nghiệp vụ thi hành án dân sự) được phân công cho một Phó chánh thanh tra
phụ trách và được trực tiếp thực hiện bởi phòng Thanh tra hành chính. Hiện
nay, phòng Thanh tra hành chính có bốn công chức, trong đó có một công
chức vừa được bổ nhiệm Thanh tra viên nhưng vẫn kiêm nhiệm nhiệm vụ kế
toán. Việc bố trí nhân lực như hiện tại chưa phù hợp với yêu cầu của công tác
thanh tra vì những lý do sau:
- Lĩnh vực thi hành án dân sự là lĩnh vực tương đối rộng (63 Cục và
khoảng hơn 700 Chi cục trên khắp cả nước) và nổi cộm vì những vấn đề
81
gai góc, xuất phát từ bản chất, đặc điểm của ngành, của chính các đương sự
và sự quan tâm của dư luận xã hội. Tuy nhiên, nhân lực phục vụ cho công
tác này tương đối ít ỏi khiến cho việc phân công theo địa bàn không thể
thực hiện được.
- Phòng Thanh tra hành chính hiện nay có 50% công chức là nữ và
đang trong độ tuổi sinh đẻ, dẫn đến nhiều hạn chế trong quá trình thanh tra;
đặc biệt là việc bố trí thời gian đi công tác xa nhà. Bản chất của hoạt động
thanh tra nói chung và công tác thanh tra trong lĩnh vực thi hành án dân sự nói
riêng yêu cầu các Thanh tra viên và công chức thanh tra phải bố trí, sắp xếp
thời gian đi công tác tại địa phương trong thời gian tương đối dài (khoảng từ
10 – 15 ngày). Tuy nhiên, việc này là tương đối khó đối với các công chức nữ
do ảnh hưởng của việc cần phải thiên chức người phụ nữ.
Bên cạnh đó, thi hành án dân sự cũng là lĩnh vực xảy ra nhiều đơn
khiếu nại, tố cáo nhất trong mối tương quan so sánh với các lĩnh vực khác
thuộc thẩm quyền quản lý của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Trong 09 tháng đầu
năm 2018, Thanh tra Bộ đã tiếp nhận và xử lý 734 đơn khiếu nại, tố cáo thuộc
thầm quyền; trong đó, có 377 đơn thuộc lĩnh vực thi hành án dân sự; chiếm
51,4% [47]. Tuy nhiên, số lượng công chức chuyên trách thực hiện việc thanh
tra, xác minh giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo còn hạn chế. Hiện nay, công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Thanh tra Bộ được giao cho một Phó chánh
thanh tra phụ trách và Phòng Tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo với
bảy công chức. Tuy nhiên, chỉ có ba công chức trực tiếp thực hiện việc thanh
tra xác minh để giải quyết khiếu nại tại địa phương. Tương tự như công tác
thanh tra theo kế hoạch, do số lượng biên chế ít nên việc phân chia công chức
theo địa bàn không thể thực hiện được. Ngoài ra, số lượng các vụ việc cần
tiến hành thanh tra xác minh ngày càng tăng trong điều kiện số lượng công
chức thực hiện còn hạn chế. Trong năm 2017, Thanh tra Bộ đã tiến hành
82
mười một cuộc thanh tra xác minh phục vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo (trong đó có hai đoàn thanh tra giải quyết khiếu nại; sáu tổ công tác để
giải quyết khiếu nại, tố cáo; hai cuộc thanh tra do Thanh tra viên thực hiện
việc thanh tra độc lập và một đoàn giải quyết tố cáo). Tổng kết năm 2018,
Thanh tra Bộ đã triển khai 22 cuộc thanh tra xác minh giải quyết khiếu nại, tố
cáo; tăng 100% so với năm 2017. Con số này là minh chứng rõ ràng, cụ thể
nhất cho sự phức tạp của công tác thi hành án dân sự nói chung, của chính các
cơ quan thi hành án, các đương sự nói riêng và sự quan tâm của dư luận xã
hội đối với lĩnh vực này. Tuy nhiên, số lượng biên chế thực hiện công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra Bộ chưa tương xứng với số lượng công
việc cần phải giải quyết đó là chưa kể đến những khiếu nại, tố cáo trong các
lĩnh vực khác thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
2.3.3. Các vấn đề liên quan đến chất lượng công chức
Bên cạnh các vấn đề liên quan đến số lượng, chất lượng của công chức
Thanh tra Bộ cũng là vấn đề cần được quan tâm trong giai đoạn hiện nay.
Kinh nghiệm là một trong những vấn đề còn thiếu và còn yếu của công chức
Thanh tra Bộ. Đại đa số công chức Thanh tra Bộ chưa có chuyên môn sâu,
rộng trong lĩnh vực thi hành án dân sự, các công chức trẻ mới được tuyển
dụng cũng không có kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực này. Đây là điều
khó khăn cho chính các công chức trong quá trình thanh tra bởi lẽ thi hành án
dân sự là một lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi có tính chất chuyên sâu, liên quan
đến nhiều lĩnh vực và do nhiều ngành luật điều chỉnh. Đây là điều khó khăn
cho chính các công chức trong quá trình thanh tra bởi lẽ thi hành án dân sự là
một lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi có tính chất chuyên sâu. Đối với những người
không có kinh nghiệm thực tiễn thì việc thanh tra; đặc biệt là thanh tra xác
minh phục vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo lại càng khó khăn.
Chất lượng công chức của Thanh tra Bộ chưa thực sự đồng đều. Trong
một chừng mực nhất định, các công chức không có tính cầu thị và hoàn thiện
83
bản thân. Nhiều công chức có tư duy theo lối mòn, làm việc chủ yếu theo
khuôn mẫu có sẵn, không tạo ra tính mới và sự sáng tạo trong công việc.
Một vấn đề quan trọng khác trong nội dung này lại nằm ở cách quản lý, chỉ
đạo, điều hành của lãnh đạo Thanh tra Bộ. Sự phân công công việc chưa thực
sự công bằng giữa các phòng và các Thanh tra viên. Cụ thể, phòng Tiếp công
dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo phải phụ trách và thực hiện quá nhiều
Đoàn thanh tra, xác minh (chiếm khoảng 50% số lượng các cuộc thanh tra của
Thanh tra Bộ). Ngoài ra, theo quy định của Luật Thanh tra năm 2010, Thanh
tra viên có thẩm quyền thanh tra độc lập tuy nhiên việc phân công phần việc
này chưa được thực hiện rộng rãi dẫn đến tình trạng công việc còn tồn đọng
nhiều, không phát huy được tinh thần chủ động, sáng tạo của chính các thanh
tra viên trong quá trình thực hiện công việc.
2.4. Quan điểm và mục tiêu bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ
pháp trong quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự
Trải qua quá trình lịch sử 70 năm xây dựng và trưởng thành, ngành
Thanh tra Việt Nam nói chung và Thanh tra Bộ Tư pháp nói riêng đã có
những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, Thanh tra Bộ Tư pháp luôn bám sát mọi
chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước để phấn đấu thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị được giao. Bên cạnh những thành
tựu đã đạt được, tổ chức và hoạt động của Thanh tra Bộ Tư pháp trong một
chừng mực nhất định chưa đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của
công tác quản lý nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực khó khăn, cam go và
nhiều thách thức như thi hành án dân sự.
Ngoài ra, việc thực thi Hiến pháp năm 2013 đã và đang đặt ra yêu
cầu tương đối cao đối với toàn ngành Thanh tra nói chung và Thanh tra Bộ
Tư pháp nói riêng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ về thanh tra,
84
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng
góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo vệ quyền con người và quyền
công dân. Trên cơ sở những chủ trương, định hướng lớn của Đảng và Nhà
nước và Chiến lược phát triển ngành thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 2213/QĐ-TTg ngày 08 tháng
12 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ, để Thanh tra Bộ phát triển đúng
định hướng và có trọng tâm, trọng điểm, cần đề ra, quán triệt và thực hiện
theo các quan điểm và mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể trong thời gian
trước mắt cũng như lâu dài.
2.4.1. Quan điểm bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự
- Quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về công tác
thanh tra, kiểm tra; thể chế hóa kịp thời tinh thần của Hiến pháp và các đạo luật
quan trọng về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước có liên quan
đến công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng. Để làm được điều đó, Thanh tra Bộ đã xác định cụ thể sau:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra, kiểm tra được xác định là một trong các
hoạt động quản lý quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự.
Việc thanh tra, kiểm tra được tiến hành thường xuyên theo kế hoạch đã được
Bộ trưởng Bộ Tư pháp phê duyệt đối với các chuyên đề thanh tra Phòng chống
tham nhũng, công tác tổ chức cán bộ, công tác đầu tư xây dựng cơ bản và việc
quản lý, sử dụng kinh phí hành chính sự nghiệp. Ngoài ra, các hoạt động thanh
tra, kiểm tra đột xuất và kiểm tra liên ngành cũng được chú trọng thực hiện.
Thứ hai, Thanh tra Bộ thường xuyên phối hợp với Tổng cục Thi hành
án dân sự thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến và hướng dẫn nghiệp
vụ thi hành án dân sự.
Thứ ba, trong lĩnh vực giải quyết khiếu nại, tố cáo, Thanh tra Bộ đã kịp
85
thời tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, giải quyết kịp thời, đúng
quy định các đơn thư khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền. Quy trình giải quyết
khiếu nại, tố cáo được chấp hành nghiêm từ khâu tiếp công dân đến tiếp nhận
và xem xét giải quyết. Đối với các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài, lãnh
đạo và các cá nhân có thẩm quyền đã chú trọng khâu đối thoại trực tiếp, tìm
hiểu tâm tư, nguyện vọng của người tố cáo, khiếu nại để giải quyết triệt để. -
Xây dựng Thanh tra Bộ là cơ quan có thực quyền, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả dựa trên nguyên tắc khách quan, công bằng và từng bước được đổi mới
phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập hiện nay.
Công tác thanh tra, kiểm tra trong thời gian qua tuy đã có tiến bộ bước
đầu nhưng chưa thực sự phát huy được vai trò là công cụ đắc lực phục vụ
công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành. Kế hoạch thanh tra chưa sát với đối
tượng được thanh tra, việc thanh tra đôi lúc mang tính hình thức, chưa phát
hiện được nhiều sai sót trong quá trình quản lý.
Để khắc phục tình trạng trên, Thanh tra Bộ ngày càng hoàn thiện về
biên chế, kiện toàn bộ máy Lãnh đạo và nâng cao chất lượng của công chức
làm công tác thanh tra sao cho đáp ứng được khối lượng công việc, cũng như
nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, hiện nay điểm e khoản 1 Điều 167
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Thi hành án dân sự 2014:
Thanh tra việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản
lý, thực hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người
lao động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác
thi hành án dân sự.
Việc quy định nêu trên đã loại bỏ chức năng thanh tra nghiệp vụ tổ
86
chức thi hành án dân sự là một điều bất cập. Hiện nay, nội dung nêu trên chỉ
được thực hiện thông qua công tác kiểm tra của Tổng cục Thi hành án dân sự
và việc kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Khoản 1, khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013 quy định:
Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp
luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa,bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Điểm g khoản 2 Điều 6 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 cũng quy định một trong những công tác của Viện kiểm sát nhân dân
khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm sát việc thi hành
án dân sự, thi hành án hành chính.
Qua công tác kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân các cấp thường ban
hành các Quyết định kháng nghị hoặc kiến nghị đối với các các cơ quan thi
hành án dân sự nếu phát hiện có vi phạm trong quá trình tổ chức thi hành án.
Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều Luật Thi hành án dân sự 2014 lại quy định về quyền của cơ quan thi
hành án dân sự có quyền “chấp nhận, chấp nhận một phần hoặc không chấp
nhận” đối với quyết định kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân.
Như vậy, có thể thấy vai trò của Viện kiểm sát nhân dân các cấp mặc
dù là nguyên tắc hiến định, nhưng trong một chừng mực nào đó trong quá
trình thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan
thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, thì chỉ dừng lại
ở nội dung kiểm sát đối với nghiệp vụ thi hành án và kiểm sát đối với hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự (đây là một trong
87
những nội dung của công tác kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động tư pháp). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc kiểm sát thi
hành án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân các cấp thường gặp khó khăn đối với
các trường hợp có nhiều lĩnh vực liên quan trong việc thi hành án mà ngành
kiểm sát không thực hiện việc quản lý nhà nước (hoạt động bán đấu giá tài
sản và công chứng). Đồng thời, Viện kiểm sát nhân dân các cấp cũng không
có thẩm quyền kiểm sát trong một số lĩnh vực liên quan đến hoạt động thi
hành án dân sự, như: đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý, sử dụng kinh phí,
phòng chống tham nhũng…
Do vậy, để xây dựng cơ quan thanh tra có thực quyền cần sửa đổi quy
định này sao cho phù hợp để thanh tra phải được sử dụng như một công cụ có
hiệu quả trong quá trình quản lý.- Phát triển Thanh tra Bộ với lộ trình cụ thể,
từng bước vững chắc, phù hợp với quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cải
cách hành chính, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
bộ máy nhà nước, phòng, chống tham nhũng và hội nhập quốc tế.
Thanh tra được xác định là chức năng thiết yếu của quản lý nhà
nước. Thanh tra Tư pháp luôn gắn liền với hoạt động quản lý nhà nước của
ngành Tư pháp. Thanh tra Bộ giúp chủ thể quản lý (Bộ Tư pháp) đánh giá
đúng tình hình thực hiện những nhiệm vụ thuộc phạm vi quản lý nhà nước
của ngành Tư pháp.
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, Thanh tra Bộ ngày càng hoạt động
có hiệu quả trong công tác thanh tra đối với các chuyên đề như, tổ chức cán
bộ, quản lý, sử dụng kinh phí hành chính sự nghiệp, phòng chống tham
nhũng, đầu tư xây dựng cơ bản và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Qua công tác
thanh tra, đã phòng ngừa được những vi phạm của các Chấp hành viên,
người làm công tác thi hành án dân sự. Đồng thời, đã xử lý các vi phạm
nghiêm trọng của công chức thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi
88
hành các bản án.
2.4.2. Mục tiêu bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tư pháp trong
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự
2.4.2.1. Mục tiêu chung
Xác lập địa vị pháp lý của Thanh tra Bộ phù hợp với chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn về thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng; tăng cường tính tập trung, thống nhất, chủ động và
tự chịu trách nhiệm trong tổ chức và hoạt động; xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức thanh tra chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm
chính nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế [52].
Trong lĩnh vực thi hành án dân sự, sự hiện diện của cơ quan thanh tra là
sự nhắc nhở thường xuyên đối với tất cả các đối tượng thanh tra, đối tượng
chịu sự quản lý. Hoạt động thanh tra thường xuyên hay đột xuất luôn tạo ra
một yêu cầu thường trực cho các đối tượng chịu sự quản lý nếu vi phạm pháp
luật sẽ bị xử lý, do đó, luôn luôn phải cảnh giác tuân thủ pháp luật và nhờ đó
đã hạn chế các hành vi vi phạm pháp luật, góp phần phòng ngừa tham nhũng,
đồng thời, nâng cao trách nhiệm trong việc tổ chức thi hành án, cũng như
nâng cao trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng các cơ quan
thi hành án dân sự.
Ngoài ra, qua công tác thanh tra đã phát hiện những quy định bất cập,
những kẽ hở của chính sách, pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự, từ đó
kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉnh sửa hoặc bãi bỏ để hoàn
thiện hệ thống chính sách, pháp luật.
Thực tế ngành Tư pháp đã chứng minh, trong nhiều trường hợp, công
tác thanh tra đóng vai trò quan trọng trong việc dự báo được những hành vi vi
phạm pháp luật sẽ phát sinh trong tương lai nếu không có sự điều chỉnh, định
89
hướng kịp thời từ phía các cơ quan quản lý nhà nước.
2.4.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Giai đoạn từ nay đến năm 2020: Kiện toàn tổ chức bộ máy, biên chế;
chuẩn hóa, nâng cao phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức; nâng cao chất lượng các mặt công tác, đặc biệt
là tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
hành án dân sự [52].
Để đạt được mục tiêu trên, Thanh tra Bộ chủ động khảo sát và báo cáo
Lãnh đạo Bộ Tư pháp phê duyệt một số nội dung trong công tác thanh tra liên
quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự, như: tăng số lượng các Đoàn thanh tra
về công tác tổ chức, cán bộ; công tác đầu tư xây dựng cơ bản; công tác quản
lý, sử dụng kinh phí hành chính sự nghiệp; công tác phòng chống tham
nhũng. Ngoài việc tăng số lượng đoàn thanh tra nói trên, Thanh tra Bộ cũng
yêu cầu các Đoàn thanh tra nâng cao chất lượng thanh tra, hoạt động có hiệu
quả, tránh việc thanh tra hình thức và bao che cho những vi phạm pháp luật.
Đồng thời, Thanh tra Bộ cũng chú trọng đến công tác tiếp dân và tham
mưu cho Bộ trưởng xem xét, giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo trong
lĩnh vực thi hành án dân sự.
- Giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2030: Xây dựng và tăng cường tính
hệ thống của Thanh tra Bộ theo hướng quản lý tập trung, thống nhất về tổ
chức, biên chế; nâng cao vai trò của các cơ quan thanh tra trong quản lý nhà
nước về giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tăng cường
tính chuyên nghiệp, trách nhiệm, kỷ cương, liêm chính của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức [52].
Thanh tra Bộ tiếp tục khẳng định vai trò trong hoạt động quản lý nhà
nước và tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong lĩnh
vực thi hành án dân sự.
90
Ngoài ra, sẽ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về thi hành án
dân sự và Luật Thi hành án dân sự để tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp
báo cáo trình Quốc Hội đưa Luật Thi hành án dân sự vào chương trình xây
dựng Luật, pháp lệnh. Trong đó, nội dung cơ bản để sửa đổi Luật Thi hành án
dân sự là quy định chức năng thanh tra theo kế hoạch đối với nghiệp vụ thi
hành án dân sự của Bộ Tư pháp, để góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
2.5. Giải pháp bảo đảm vai trò của Thanh tra Bộ Tƣ pháp trong
quản lý nhà nƣớc về thi hành án dân sự
Để đảm bảo nâng cao vị trí, vai trò của Thanh tra Bộ nói chung và
trong công tác quản lý nhà nước về thi hành án dân sự nói riêng; đảm bảo
thực hiện có trọng tâm, trọng điểm mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể trong
thời gian tới theo các chương trình, định hướng đã đề ra cần phải thực hiện
đồng bộ các giải pháp có tính chất tổng quát như trình bày dưới đây.
2.5.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
2.5.1.1. Sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự
Thanh tra là một khâu quan trọng trong công tác quản lý nhà nước nói
chung và lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng. Nhiệm vụ, mục đích của công
tác thanh tra không chỉ bó hẹp trong phạm vi tìm và xử lý những sai phạm mà
còn tập trung vào việc phát hiện những nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng
trên. Đặc biệt, công tác thanh tra được xem như một công cụ để kiểm nghiệm
tính đúng đắn của các quyết định quản lý nhà nước; từ đó có những sự điều
chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, vai trò của Thanh tra Bộ trong
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự chưa thực sự tương xứng với vị trí cũng
như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan này. Thực trạng này xuất
phát trước hết và trên hết từ sự thiếu đồng bộ trong hệ thống pháp luật. Do đó,
91
việc hoàn thiện thể chế là điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật Thanh tra năm 2010 đã định
nghĩa về Thanh tra như sau:
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Hiểu theo cách khác, phạm vi của công tác thanh tra được xác định và
giới hạn phụ thuộc vào phạm vi quản lý nhà nước. Tuy nhiên, theo quy định
hiện hành của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự,
công tác thanh tra nghiệp vụ thi hành án không thuộc thẩm quyền của Bộ Tư
pháp trong khi Bộ Tư pháp chính là cơ quan quản lý và chịu trách nhiệm
trước Chính phủ về công tác này. Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
Thi hành án dân sự quy định về nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về thanh tra, kiểm
tra trong lĩnh vực thi hành án dân sự như sau:
Thanh tra việc sử dụng ngân sách, việc tuyển dụng, sử dụng, quản
lý, thực hiện chế độ chính sách đối với công chức, viên chức, người
lao động trong hệ thống tổ chức thi hành án dân sự; kiểm tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác
thi hành án dân sự.
Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự theo hướng trao
trả cho Bộ Tư pháp thẩm quyền thanh tra đối với công tác nghiệp vụ thi hành
án dân sự là rất cần thiết
2.5.1.2. Sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh
tra Bộ Tư pháp
Tương ứng với việc sửa đổi Luật Thi hành án dân sự, điều cốt yếu tiếp
92
theo là sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ.
Nội dung sửa đổi, bổ sung tập trung vào việc Bộ trưởng Bộ Tư pháp giao
Thanh tra Bộ thực hiện chức năng thanh tra nghiệp vụ thi hành án dân sự.
Việc này là rất cần thiết; một mặt giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp có cái nhìn toàn
diện về công tác thi hành án dân sự trên phạm vi cả nước mặt khác góp phần
hoàn thiện công tác quản lý nhà nước trong thi hành án dân sự; đánh giá đúng
thực trạng của công tác này hướng đến mục tiêu hoàn thiện thể chế, chính
sách, pháp luật trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Ngoài ra, Thanh tra Bộ cần được bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn trong công tác tham mưu về tổ chức cán bộ và quản lý về chuyên môn
nghiệp vụ. Cụ thể, kiến nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp có sự thay đổi trong các
quy định liên quan đến việc tham vấn ý kiến trong lĩnh vực tổ chức cán bộ và
quản lý chuyên môn thi hành án dân sự theo hướng ý kiến của Thanh tra Bộ
có giá trị bắt buộc trong chỉ đạo, điều hành thay vì giá trị tham khảo như hiện
nay. Trường hợp không nhất trí, Tổng cục Thi hành án dân sự thực hiện việc
báo cáo tới Lãnh đạo Bộ phụ trách. Việc này liên quan đến tính chủ động và
kết quả thanh tra tại các cơ quan thi hành án địa phương nhằm hướng đến mục
tiêu hạn chế đến mức tối đa những tiêu cực trong bổ nhiệm, bộ nhiệm lại các
chức danh lãnh đạo, tăng cường vị thế cho ngành thi hành án dân sự.
Tăng cường sự phối hợp giữa Thanh tra Bộ và Tổng cục Thi hành án
dân sự trong công tác kiện toàn bộ máy tổ chức của các cơ quan thi hành án
dân sự địa phương. Nội dung này tập trung vào việc Tổng cục Thi hành án
dân sự cần thông báo, thống kê về danh sách các chức vụ lãnh đạo được dự
kiến bổ nhiệm và bổ nhiệm lại trong vòng 02 năm tiếp theo kể từ thời điểm
báo cáo. Thanh tra Bộ sẽ căn cứ vào báo cáo, thống kê của Tổng cục Thi hành
án dân sự để lập Kế hoạch thanh tra. Qua đó, Thanh tra Bộ chủ động trong
việc rà soát và cho ý kiến đối với các trường hợp bổ nhiệm và bổ nhiệm lại.
2.5.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy của Thanh tra Bộ Tư pháp
93
Căn cứ tinh thần Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban
Chấp hành Trung Ương về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức, việc bổ sung biên chế trong giai đoạn này tương đối
khó khăn nhưng tác giả vẫn mạnh dạn đề xuất, đối với các trường hợp tuyển
dụng mới, Thanh tra Bộ cần ưu tiên nam giới, đặc biệt là những người đã có
kinh nghiệm trong công tác thi hành án dân sự. Việc này có thể vấp phải sự
phản đối của một số chuyên gia về lao động do có sự phân biệt đối xử trong lao
động giữa nam và nữ; giữa những người có kinh nghiệm và sinh viên mới ra
trường, tiềm ẩn nguy cơ bất bình đẳng về cơ hội việc làm. Tuy nhiên, trong giai
đoạn hiện nay, đối với Thanh tra Bộ, việc này là rất cần thiết do đặc thù công
việc, nghề nghiệp của ngành cần có những người có kinh nghiệm và có thể
tham gia các đoàn công tác xa nhà trong một khoảng thời gian tương đối dài.
Để thu hút được lao động có kinh nghiệm, trong thời gian tới, Thanh
tra Bộ nói riêng và Bộ Tư pháp nói chung cần đổi mới phương thức tuyển
dụng công chức; cụ thể, tập trung vào các vấn đề liên quan đến tư duy nhận
thức và kỹ năng thay vì kiến thức pháp luật thuần túy như hiện nay. Song
song với đó, cần sớm xây dựng chính sách thu hút người tài, trong đó tập
trung vào việc cải thiện môi trường làm việc và có chế độ đãi ngộ, chế độ
dưỡng liêm một cách hợp lý.
2.5.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức Thanh tra Bộ Tư pháp
Tập trung vào phát triển con người chính là vấn đề cốt yếu trong sự
thành, bại khi thực hiện một công việc nhất định và công tác quản lý nhà
nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự không phải là một ngoại lệ. Trong
giai đoạn tới cần tập trung và đầu tư vào công tác giáo dục, đào tạo nâng cao
trình độ cho các Thanh tra viên, chú trọng việc giáo dục chính trị - tư tưởng,
nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho các bộ, công chức thanh tra có đạo đức,
có văn hóa, cần, kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Bên cạnh đó, cần chú
trọng các kỹ năng mềm khác để phục vụ công việc như kỹ năng tin học, kỹ
94
năng tổng hợp, phân tích.
2.5.4. Đổi mới phương thức hoạt động
Đứng trước yêu cầu của tình hình mới, việc hoạt động theo lối mòn, tư
duy cũ đã không còn phù hợp; thay vào đó, để đạt được những mục tiêu ngắn
và dài hạn việc cấp thiết của cơ quan Thanh tra Bộ chính là đổi mới phương
thức hoạt động trên những mặt cơ bản sau:
- Tăng cường thanh tra trách nhiệm của Cục trưởng Cục Thi hành án
dân sự và Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự trong việc thực hiện
pháp luật về phòng, chống tham nhũng và tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo.
- Tăng cường công tác giám sát hoạt động của Đoàn thanh tra, thẩm
định kết luận thanh tra, công khai kết quả, quyết định xử lý về thanh tra. Tập
trung xem xét tính hợp pháp, chính xác của các kết luận thanh tra nhằm phát
hiện dấu hiệu vi phạm pháp luật để tiến hành thanh tra lại hoặc kiến nghị biện
pháp xử lý theo quy định.
- Hoàn thiện và đẩy mạnh việc triển khai các quy định về bảo đảm
việc thực hiện kết luận, kiến nghị xử lý sau thanh tra theo hướng tăng cường
trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước và các biện pháp xử lý
trách nhiệm.
- Ngoài ra, phân công công việc hợp lý; nâng cao tinh thần trách nhiệm
của Thanh tra viên trong việc tiến hành thanh tra độc lập cũng là một hình
thức cần được cân nhắc trong thời gian tới. Hiện nay, số lượng vụ việc do
thanh tra viên tiến hành thanh tra độc lập chiếm tỷ lệ tương đối ít, dẫn đến
tình trạng số lượng vụ việc còn tồn đọng, kéo dài.
2.5.5. Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo
Đây là công việc hết sức quan trọng, đảm bảo hiệu quả cho của công
tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thời kỳ hiện nay. Liên quan
95
đến vấn đề này, trong thời gian tới, Thanh tra Bộ cần xây dựng và đưa vào sử
dụng hệ thống cơ sở dữ liệu về việc xử lý đơn, thư và giải quyết khiếu nại, tố
cáo và phòng chống tham nhũng trên phạm vi toàn quốc. Việc này góp phần
làm công tác quản lý nhà nước của Thanh tra Bộ nói chung trở nên khoa học
hơn đồng thời cũng cung cấp cái nhìn toàn diện về công tác thi hành án dân
sự trên phạm vi toàn quốc. Thông qua đó, việc tổng kết, rút kinh nghiệm trong
lĩnh vực này trở nên thuận lợi hơn. Song song với đó, Thanh tra Bộ cần bổ
96
sung công chức chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, công tác thi hành án dân sự trong trên phạm vi toàn quốc
trong những năm qua đã có sự chuyển biến tích cực, khả quan với kết quả cao
năm sau hơn so với năm trước. Qua việc tổng kết, đánh giá kết quả công tác
thi hành án dân sự hàng năm Bộ Tư pháp đã giao các cơ quan Thi hành án dân
sự đã tập trung quán triệt và triển khai thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ công
tác năm do các cơ quan cấp trên giao; hoạt động chỉ đạo, điều hành trong nội
bộ ngành bám sát kế hoạch và có trọng tâm, trọng điểm.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác thi hành án dân sự hiện
nay vẫn còn những hạn chế, khó khăn và vướng mắc. Nguyên nhân của việc
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như sự thiếu đồng bộ của hệ thống pháp
luật, các vấn đề liên quan đến kỹ thuật và con người. Trong số những nguyên
nhân này thì vấn đề con người với tư duy, nhận thức pháp luật chưa thực sự
chính xác là vấn đề cốt yếu. Thanh tra chính là phương thức truyền thống và
hiệu quả nhất để giải quyết triệt để những nguyên nhân nêu trên.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích vai trò của Thanh tra Bộ trong
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự trong thời gian tới là rất quan
trọng và cần thiết.
Qua việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý
nhà nước về thi hành án dân sự”, tác giả rút ra một số kết luận sau:
Thi hành án dân sự là hoạt động của Nhà nước, để những bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền khác
được thi hành trên thực tế nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, công dân... Hoạt động thi hành án nói chung, Thi hành án dân sự nói
riêng kém hiệu quả sẽ không bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của các
97
bên đương sự, tính nghiêm minh của pháp luật sẽ không được đảm bảo trên
thực tế, sẽ dẫn đến những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội. Trong những
năm qua, thực tế hoạt động Thi hành án dân sự còn nhiều hạn chế trở thành
vấn đề được quan tâm của cơ quan quản lý và trở thành nỗi lo, bức xúc của
toàn xã hội. Trong điều kiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện
nay việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý và cơ quan
thi hành án dân sự là đòi hỏi mang tính tất yếu và khách quan.
Nhà nước cần tăng cường công tác quản lý nhà nước trong thi hành án
dân sự và từng bước cải cách hoạt động này, cụ thể ở các mặt như: thể chế hoạt
động, tổ chức bộ máy, chất lượng cán bộ, cơ sở vật chất, xây dựng và hoàn thiện
thể chế… để nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
Qua thực tiễn hoạt động thi hành án dân sự trên toàn quốc, tác giả đã sử
dụng phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích, đánh giá trên cơ sở
thực tiễn, cơ sở lý luận của vai trò của Thanh tra Bộ trong hoạt động thi hành
án dân sự. Vai trò của Thanh tra Bộ trong quản lý Nhà nước về thi hành án
dân sự ngày càng được củng cố, tăng cường, do đó công tác thi hành án dân
sự có nhiều chuyển biến tích cực, uy tín, vị thế và hiệu quả của công tác thi
hành án dân sự ngày càng đạt nhiều thành tích.
Để tiếp tục hoàn thiện hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
hành án dân sự, tác giả tập trung phân tích một số tồn tại, hạn chế của hoạt
động quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi hành án dân sự nhằm khắc phục
những tồn tại, hạn chế, bất cập, góp phần cải cách hoạt động quản lý nhà nước
trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Do thời gian nghiên cứu có hạn và được giới hạn trong khuôn khổ của
Luận văn thạc sĩ Luật học, những vấn đề tác giả nêu trong Luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót, tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và hoàn
98
thiện trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp một phần nhỏ cho các nhà
quản lý, hoạch định chính sách về thi hành án dân sự xem xét, tham khảo cho
việc xây dựng chính sách pháp luật để điều chỉnh toàn diện và hiệu quả hơn
trong hoạt động thi hành án dân sự trong thời gian tới.
Tác giả xin được trân trọng gửi lời cảm ơn đến Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, Thanh tra Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự và Phó
Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Anh đã giúp đỡ tác giả hoàn thành Luận văn
99
thạc sỹ Luật học.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ - Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp - Ngân
hàng Nhà nước - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (1993), Thông tư liên
tịch số 01/TTLN ngày 26/5/1993 về hướng dẫn bàn giao công tác thi
hành án, Hà Nội.
2. Nguyễn Công Bình (1998), “Mấy vấn đề về thi hành án dân sự trong
việc soạn thảo bộ luật tố tụng dân sự”, Tạp chí luật học, (5), tr.43-44.
3. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư số 10/2010/TT-BNV ngày 28/10/2010 quy
định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức Chấp hành viên
và Thư ký THA, Hà Nội.
4. Bộ Tài chính (2010), Thông tư 91/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 Hướng
dẫn kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự, Hà Nội.
5. Bộ Tài Chính - Bộ Tư pháp (2008), Thông tư liên tịch số 68/2008/TTLT-
BTC-BTP ngày 21/7/2008 hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng phí thi hành án, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính - Bộ Tư pháp (2010), Thông tư liên tịch 144/2010/TTLT-
BTC-BTP Hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi
hành án dân sự, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính (2010), Thông tư liên tịch 04/2009/TTLT-
BTP-BTC Hướng dẫn bảo đảm tài chính từ ngân sách nhà nước để thi
hành án, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp (2010), Thông tư số 23/TT-BTP quy định chi tiết và hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 về bán đấu
giá tài sản, Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp (2011), Thông tư 03/2011/TT-BTP phân cấp quản lý tài
chính, tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản cho Tổng cục Thi hành án dân sự
100
và cơ quan thi hành án dân sự, Hà Nội.
10. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự, Hà Nội.
11. Bộ Tư pháp (2018), Quyết định số 285/QĐ-BTP ngày 12/2/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ Tư pháp, Hà Nội.
12. Bộ Tư pháp chủ trì, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
13. Bộ Tư pháp và Viện KSNDTC (2001), Thông tư 12/2001/TTLT-BTP- VKSTC ngày 26/2/2001 hướng dẫn thực hiện một số quy định pháp luật về thi hành án dân sự, Hà Nội.
14. Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp (2012), Quyết định thanh tra số 22/QĐ-
TTR ngày 30/10/2012, Hà Nội.
15. Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp (2013), Kết luận thanh tra số 23/KL-TTR
ngày 25/12/2013, Hà Nội.
16. Chánh Thanh tra Bộ Tư pháp (2013), Quyết định thanh tra số 11/QĐ-
TTR ngày 06/5/2013, Hà Nội.
17. Chính phủ (2004), Nghị định 164/2004/NĐ-CP ngày 14/9/2004 về kê
biên đấu giá quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án, Hà Nội.
18. Chính phủ (2004), Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày 30/9/2004 quy định thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự, Hà Nội.
19. Chính phủ (2005), Nghị định 05/2005/NĐ-CP ngày 18/1/2005 của
Chính phủ quy định về bán đấu giá tài sản, Hà Nội.
101
20. Chính phủ (2005), Nghị định 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 về cơ quan quản lý Thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
21. Chính phủ (2006), Nghị định số 74/2006/NĐ-CP ngày 01/8/2006 quy
định về tổ chức và hoạt động của Thanh tra Tư pháp, Hà Nội.
22. Chính phủ (2008), Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, Hà Nội.
23. Chính phủ (2009), Nghị định số 58/NĐ-CP ngày 13/7/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, Hà Nội.
24. Chính phủ (2009), Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 quy
định xử phạt hành chính trong lĩnh vực tư pháp, Hà Nội.
25. Chính phủ (2009), Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của luật thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
26. Chính phủ (2010), Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 về bán
đấu giá tài sản, Hà Nội.
27. Chính phủ (2011), Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/09/ 2011 quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra, Hà Nội.
28. Chính phủ (2012), Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 09/2/2012 Quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành, Hà Nội.
29. Chính phủ (2017), Nghị định số 96/2017/NĐ-CP ngày 16/8/2017 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ tư pháp, Hà Nội.
30. Chính phủ (2017), Nghị định số 97/2017/NĐ-CP sửa đổi một số điều của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
102
31. Hội đồng Nhà nước (1989), Pháp lệnh THADS, Hà Nội.
32. James F. Harrigan (2005), Báo cáo và các đề xuất của Star Việt Nam về
dự thảo Bộ luật thi hành án.
33. Quốc hội (1999), Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Quốc hội (2004), Luật Thanh tra, Hà Nội.
35. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
36. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức ngày 13/11/2008, Hà Nội.
37. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
38. Quốc hội (2010), Luật Thanh tra, Hà Nội.
39. Quốc hội (2011), Luật khiếu nại, Hà Nội.
40. Quốc hội (2011), Luật tố cáo, Hà Nội.
41. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thi hành án
dân sự 2014, Hà Nội.
42. Quốc hội, Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; và các Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004, 2005, Hà Nội.
43. Quốc hội, Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung) được thông qua
tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII và Hệ thống pháp luật Việt Nam về
Tố tụng dân sự và Thi hành án dân sự, Nxb Lao động.
44. Tài liệu ôn thi Thanh tra viên Chính (Chuyên đề 1 Công tác thanh tra
trong hoạt động quản lý nhà nước).
45. Nguyễn Quang Thái, Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở
Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật học.
46. Thanh tra Bộ (2018), Số liệu tổng kết công tác, Hà Nội.
47. Thanh tra Bộ Tư pháp (2018), Báo cáo kết quả công tác giải quyết khiếu
103
nại, tố cáo Quý III/2018 và 09 tháng đầu năm 2018, Hà Nội.
48. Thanh tra Bộ Tư pháp, Báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo 06
tháng đầu năm, Hà Nội.
49. Thanh tra Bộ, Số liệu tổng kết 06 năm thực hiện Luật thanh tra, Hà Nội.
50. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định 1777/QĐ-TTg ngày 11/6/2007 ban hành danh sách các cơ quan thi hành án dân sự tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải đảo được tuyển chọn người có trình độ làm cử nhân luật không qua thi tuyển, Hà Nội.
51. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, Hà Nội.
52. Thủ tướng Chính phủ (2015), Chiến lược phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định 2213/QĐ-TTg ngày 08/12/2015, Hà Nội.
53. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb CAND, Hà Nội.
54. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh THADS, Hà Nội.
55. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh về xử lý vi phạm hành
chính số 44/UBTVQH10 ngày 02/7/2002, Hà Nội.
104
56. Uỷ ban thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.