BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Kinh tế
VŨ ĐÌNH TÚ
Hà Nội - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự - Nghiên cứu
thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8380107
Họ và tên: Vũ Đình Tú
Người hướng dẫn: PGS.TS Bùi Ngọc Sơn
Hà Nội - 2020
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình do tôi tự nghiên cứu kết hợp với
sự hướng dẫn khoa học của PGS, TS Bùi Ngọc Sơn. Số liệu nêu trong luận văn được
thu thập từ nguồn thực tế, được công bố trên các báo cáo của các cơ quan nhà nước;
được đăng tải trên các tạp chí, báo chí, các website hợp pháp. Những thông tin và nội
dung nêu trong đề tài đều dựa trên nghiên cứu thực tế và hoàn toàn đúng với nguồn
trích dẫn.
Hà Nội, ngày 03 tháng 11 năm 2019
Tác giả luận văn
Vũ Đình Tú
ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới PGS, TS Bùi
Ngọc Sơn là người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn tôi cả chuyên
môn, phương pháp nghiên cứu và chỉ bảo tôi nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực
hiện đề tài.
Xin được chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Luật, Khoa Đào tạo
sau đại học, trường Đại học Ngoại Thương đã tạo những điều kiện tốt nhất để tác giả
thực hiện luận văn. Xin trân trọng cảm ơn các chuyên gia trong các lĩnh vực liên quan
dã đóng góp những thông tin vô cùng quý báu và những ý kiến xác đáng, để tác giả
có thể hoàn thành nghiên cứu này.
Mặc dù với sự cố gắng của bản thân, luận văn vẫn còn những thiếu sót. Tôi
mong nhận được sự góp ý chân thành của các Thầy Cô, đồng nghiệp và bạn bè để
luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 03 tháng 11 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vũ Đình Tú
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... vi
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................................ vii
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ .................................................................................................................... 11
1.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về thi hành án dân sự ....................... 11
1.1.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự ............................................ 11
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về thi hành án dân sự ....................................... 13
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về thi hành án dân sự ............................. 15
1.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về thi hành án dân sự .................. 15
1.2.1. Quy định về tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên
.......................................................................................................................... 15
1.2.2. Quy định pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự .................................. 16
1.2.3. Quy định về khiếu nại, tố cáo và kháng nghị về thi hành án dân sự ...... 17
1.2.4. Quy định về xứ lý vi phạm về thi hành án dân sự .................................. 22
1.3. Các yếu tố tác động đến việc hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự
............................................................................................................................... 25
1.3.1. Yếu tố khách quan .................................................................................. 25
1.3.2. Yếu tố chủ quan ...................................................................................... 27
1.4. Kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự của một số nước 27
1.4.1. Kinh nghiệm của Indonesia .................................................................... 27
1.4.2. Kinh nghiệm của Singapore ................................................................... 28
1.4.3. Kinh nghiệm của Liên bang Nga ............................................................ 28
1.4.4. Các bài học rút ra cho Việt Nam ............................................................ 29
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở
VIỆT NAM - NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NINH .......... 31
iv
2.1. Lược sử về sự hình thành và phát triển của pháp luật về thi hành án dân sự
ở Việt Nam ............................................................................................................. 31
2.1.1. Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989 ................................................. 31
2.1.2. Giai đoạn từ 01/01/1990 đến 30 tháng 6 năm 1993 ............................... 33
2.1.3. Giai đoạn từ 1993 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm
2004 .................................................................................................................. 34
2.1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đến
trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008 .............................................. 35
2.1.5. Giai đoạn từ năm 2008 cho đến nay ....................................................... 35
2.2. Phân tích thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam và thực
tiễn tại tỉnh Quảng Ninh ...................................................................................... 36
2.2.1. Thực trạng các quy định về tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự
.......................................................................................................................... 36
2.2.2. Thực trạng quy định của pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự .......... 39
2.2.3. Thực trạng quy định về khiếu nại và tố cáo, kháng nghị về thi hành án dân
sự....................................................................................................................... 46
2.2.4. Thực trạng quy định về xứ lý vi phạm trong thi hành án dân sự ........... 49
2.3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về thi
hành án dân sự ở Việt Nam và thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh ........................ 51
2.3.1. Yếu tố khách quan .................................................................................. 51
2.3.2. Yếu tố chủ quan ...................................................................................... 54
2.4. Đánh giá thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự tại Việt Nam ........ 56
2.4.1. Kết quả đạt được..................................................................................... 56
2.4.2. Các mặt hạn chế ..................................................................................... 60
2.4.3. Nguyên nhân ........................................................................................... 61
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM .................................................................. 65
3.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ............ 65
3.1.1. Giải pháp hoàn thiện vấn đề về thời hạn và cách tính thời hạn ............. 65
v
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện về nội dung đã tuyên với các bản án, quyết định của
Tòa án cần tuyên rõ ràng, cụ thể, có thể thi hành trên thực tế ......................... 68
3.1.3. Giải pháp hoàn thiện về một số quy định của Luật thi hành án dân sự.. 69
3.1.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ........................................................................... 72
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ................. 73
3.2.1. Kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về thi hành án dân
sự ...................................................................................................................... 73
3.2.2. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật .......................................................... 78
3.2.3. Kiến nghị về việc kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao trách nhiệm cho
đội ngũ Chấp hành viên trong quá trình thực thi pháp luật thi hành án dân sự.
.......................................................................................................................... 79
3.2.4. Kiến nghị việc nâng cao nhận thức của các chủ thể thực hiện pháp luật về
thi hành án dân sự cũng như nâng cao ý thức trong công tác thi hành án dân sự
tại các địa phương. ............................................................................................ 80
3.2.5. Kiến nghị việc tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát việc xử lý vi
phạm pháp luật thi hành án dân sự ................................................................... 82
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 86
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Tiếng Việt
BTTH Bồi thường thiệt hại
CHV Chấp hành viên
CQTHADS Cơ quan thi hành án dân sự
CQTHA Cơ quan thi hành án
NN Nhà nước
QLNN Quản lý Nhà nước
TA Tòa án
TAND Tòa án nhân dân
THA Thi hành án
THADS Thi hành án dân sự
UBND Ủy ban nhân dân
VKSND Viện kiểm sát nhân dân
XHCN Xã hội chủ nghĩa
XLVPPL Xử lý vi phạm pháp luật
BLHS Bộ luật hình sự
BLDS Bộ luật dân sự
BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự
BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự
vii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Luận văn thạc sĩ với đề tài “Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự -
Nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh”, thuộc ngành Luật học, chuyên ngành
Luật kinh tế được thực hiện đúng tiến độ nhà trường đã qui định. Luận văn đã đạt
được một số kết quả về lý luận và thực tiễn, đồng thời có khả năng ứng dụng trong
thực tiễn, cụ thể:
1. Kết quả đạt được của Luận văn
Về lý luận, luận văn làm rõ được khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của
pháp luật về thi hành án dân sự tại Việt Nam; Những nội dung cơ bản của pháp luật
về thi hành án dân sự tại Việt Nam như quy định về tổ chức bộ máy cơ quan thi hành
án dân sự, chấp hành viên, quy định pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự, quy định
về khiếu nại, tố cáo và kháng nghị thi hành án dân sự, quy định về xử lý vi phạm
trong thi hành án dân sự; Các yếu tố tác động đến việc hoàn thiện pháp luật về thi
hành án dân sự và kinh nghiệm của một số nước về hoàn thiện pháp luật thi hành án
dân sự.
Về thực tiễn, Luận văn phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về thi hành
án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh theo bốn nội dung như sau: Thực trạng các quy định
về tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh; Thực trạng quy
định của pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự; Thực trạng quy định về khiếu nại,
tố cáo và kháng nghị về thi hành án dân sự; Thực trạng quy định về xử lý vi phạm
trong thi hành án dân sự.
Trên cơ sở phân tích thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng
Ninh chỉ ra nhưng bất cập và nguyên nhân của những bất cập là: (1) Luật THADS
chưa xác định hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là hoạt động tố tụng,
là khâu cuối cùng thực hiện kết quả hoạt động của quyền tư pháp, do đó, có sự cắt
khúc, tách rời giữa hoạt động xét xử với hoạt động thi hành án; (2) Một số quy định
về quyền, trách nhiệm của các bên trong thi hành án còn bất cập; (3) Một số quy định
của Luật THADS về trình tự, thủ tục thi hành án còn bất cập;(4) Việc xác định trách
nhiệm của chính quyền địa phương trong phối hợp thực hiện một số nhiệm vụ công
viii
tác THADS trên địa bàn còn chưa cụ thể. Luận văn cũng nêu ra nguyên nhân của
vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về THADS của cơ quan THADS do hệ
thống các quy định pháp luật về công tác thực hiện quy định về THADS chưa thật sự
chặt chẽ và hoàn thiện.
2. Khả năng ứng dụng thực tiễn của Luận văn
Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong
quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện chính sách và pháp luật về thi hành án
dân sự tại Việt Nam. Một số phương hướng, giải pháp và kiến nghị trong luận văn có
giá trị tham khảo đối với các cơ quan lập pháp khi sửa đổi các quy định của pháp luật
về thi hành án dân sự.
Luận văn là tài liệu có khả năng nghiên cứu để ứng dụng trong thực tiễn thi
hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh nói riêng.
Luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học có nghiên
cứu hoặc học tập môn pháp luật về thi hành án dân sự nói chung và các môn học khác
có liên quan.
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Thi hành án là một trong những hoạt động thể hiện sự nghiêm minh của pháp
luật, tính uy nghiêm của nhà nước. Hoạt động thi hành án là hoạt động đưa các bản
án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Bản án,
quyết định của tòa án nhân danh nhà nước khi được chấp hành nghiêm chỉnh có tác
động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt động thi hành
án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước, củng cố
pháp chế và trật tự pháp luật, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế.
Ở Việt Nam để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa, ngoài chức năng của cơ quan công an, viện kiểm sát, tòa án thì
cơ quan thi hành án dân sự giữ một vai trò đặc biệt và là một mắt xích không thể thiếu
của quá trình tố tụng. Mọi phán quyết của Tòa án chỉ là những quyết định trên giấy
và không thể phát huy hết hiệu quả trên thực tế nếu không được thi hành đúng và đầy
đủ, nhất là trong lĩnh vực thi hành án dân sự. Trong điều kiện kinh tế phát triển như
hiện nay, khi nước ta đang xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, vô số các quan hệ giao dịch được phát sinh dẫn đến các tranh chấp cũng
nhiều hơn, số lượng công việc mà các cơ quan tư pháp phải giải quyết vì thế cũng
ngày càng tăng, và tính chất cũng phức tạp hơn. Đòi hỏi tất yếu đặt ra là các cơ quan
tư pháp nói chung và cơ quan thi hành án dân sự nói riêng phải hoạt động sao cho đạt
hiệu quả cao nhất nhằm đảm bảo pháp luật được thực thi.
Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008 và có hiệu
lực thi hành ngày 1/7/2009 là cơ sở pháp lý quan trọng cho tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự. Qua năm năm thi hành luật, công tác thi hành án dân sự đã từng bước
đi vào nề nếp và có những chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, quá trình thi hành Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cũng cho
thấy nhiều nội dung, quy định của Luật không còn phù hợp với thực tiễn, tạo ra trở
lực cho quá trình thi hành án, chưa thực sự đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân. Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự 2014 đã được Quốc
2
hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015, có nhiều điểm mới về thủ tục thi
hành án dân sự.
Quảng Ninh là một tỉnh có số lượng án bàn giao và thụ lý hàng năm tương đối
lớn. Trong những năm qua, công tác thi hành án dân sự ở Quảng Ninh đã đạt được
những kết quả đáng ghi nhận, luôn hoàn thành tốt chỉ tiêu Quốc hội và Chính phủ
giao cho. Nhiều vụ việc khó khăn, phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ chức thi
hành dứt điểm. Kết quả đạt được nói trên phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của toàn ngành
tư pháp nói chung, cũng như đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự nói riêng, sự quan
tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương; sự phối hợp đồng
bộ, chặt chẽ của các ngành hữu quan trong việc thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng như nhiều tỉnh trên cả
nước, thực trạng thi hành án dân sự ở Quảng Ninh vẫn còn bộc lộ nhiều vấn đề tồn
tại, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới hiện
nay. Lượng án tồn đọng qua các năm còn rất lớn. Tình trạng trên có nhiều nguyên
nhân khác nhau như: pháp luật thi hành án dân sự hiện hành còn thiếu tính khả thi,
nhiều điểm còn chưa rõ ràng, bất cập; một số cán bộ thi hành án nhất là đội ngũ chấp
hành viên còn thiếu trách nhiệm trong công việc, có thái độ hách dịch, vòi vĩnh khiến
cho quần chúng nhân dân bức xúc; ở một số nơi cấp ủy, chính quyền các cấp chưa
nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc thực hiện tổ chức, chỉ đạo thi hành
án dân sự theo quy định của pháp luật. Thực tế đó, đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật
thi hành án dân sự, đảm bảo cho các các quyết định và bản án dân sự có hiệu lực pháp
luật được thi hành trong thực tế trở nên cấp thiết.
Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật về thi hành án
dân sự - Nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân
sự như:
3
- Tài liệu giảng dạy "Kỹ năng thi hành án dân sự" của Học viện Tư pháp năm
2005. Công trình đã phân tích, tổng hợp những quy định cơ bản và kỹ năng, nghiệp
vụ trong thi hành án dân sự rút ra từ thực tiễn thi hành án dân sự như: kỹ năng kiểm
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự; kỹ năng tiếp công dân; kỹ
năng xác minh điều kiện thi hành án.
- Sách "Sổ tay chấp hành viên" của tác giả Lê Thu Hà xuất bản năm 2009.
Công trình khái quát quy định pháp luật về thi hành án dân sự trên cơ sở Luật Thi
hành án dân sự 2008, theo đó phân tích các quy định pháp luật về thi hành án dân sự
và các kỹ năng cần thiết cho chấp hành viên trong quá trình thực hiện các trình tự,
thủ tục thi hành án dân sự.
- Sách "Xử lý tình huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về
thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Lê Thị Kim Dung, sách xuất
bản năm 2010. Công trình phân tích, tổng hợp các tình huống phát sinh trong thực
tiễn thi hành án dân sự đòi hỏi có sự nhận thức thống nhất trong cách hiểu và áp dụng
các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó chủ yếu là quy
định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Sách "Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam"
của tác giả Lê Thu Hà, sách xuất bản năm 2011. Nội dung cơ bản của công trình là
phân tích, hệ thống hóa khái quát quá trình hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở
nước ta từ năm 1945 đến năm 2011, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng những vướng
mắc, bất cập của pháp luật thi hành án dân sự theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008
và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế
định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý -
Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện. Đề tài đã chỉ
rõ những quy định về thừa phát lại và vấn đề áp dụng trong thực tiễn ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
- Luận án tiến sĩ "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
nay" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy được hoàn thành năm 2006. Luận án đã phân
4
tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự như khái
niệm, bản chất, đặc điểm thi hành án dân sự; nội dung, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn
thiện pháp luật thi hành án dân sự.
- Luận án tiến sĩ "Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân
sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Nguyễn Quang Thái hoàn thanh năm 2008. Luận
án đã phân tích yêu cầu, phương hướng, giải pháp đảm bảo tính pháp chế trong hoạt
động thi hành án dân sự.
- Luận án tiến sĩ "Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt
Nam" của tác giả Đặng Đình Quyền được hoàn thành năm 2012. Luận án đã phân
tích cơ sở lý luận về hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam,
trong đó nêu bật các tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả áp dụng
pháp luật trong công tác thi hành án dân sự.
- Luận văn thạc sĩ "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp" của tác giả Trần Phương Hồng được hoàn thành năm 2012. Tác giả
luận văn đã phân tích một số vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân
sự như: khái niệm, vai trò, đặc điểm pháp luật thi hành án dân sự để từ đó đánh giá thực
trạng hệ thống pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp.
- Luận văn thạc sỹ của Lê Anh Tuấn về "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự
ở Việt Nam" năm 2014. Bên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở
những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Ở một số công trình cũng đã đề cập
đến vấn đề thực trạng và giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về thi hành án dân
sự, nhưng kể từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được ban hành cho tới nay
- Luận văn thạc sĩ "Đánh giá các quy định pháp luật về thi hành án dân sự hiện
hành trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật" của tác giả Lê Thị Hoàng Thanh được
viết năm 2012. Công trình của tác giả đã phân tích những vướng mắc, bất cập của mô
hình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam, qua đó kiến nghị các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật
có liên quan, đặc biệt là các quy định nhằm nâng cao tính minh bạch trong việc quản
lý tài sản, thu nhập của cá nhân nhằm đảm bảo hiệu quả thi hành án dân sự.
5
- Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
nay” Trần Mạnh Quân Khoa Luật: Trình bày cơ sở lý luận về khái niệm, đặc điểm,
vai trò và nội dung của pháp luật thi hành án dân sự. Đánh giá đúng đắn về thực trạng
pháp luật thi hành án dân sự hiện hành và trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật
nói chung. Đưa ra những giải pháp và kiến nghị để hoàn thiện pháp luật thi hành án
dân sự Việt Nam.
- Bài viết “. Bàn về biện pháp phong tỏa tài sản tài khoản trong công tác thi
hành án dân sự hiện nay/ Thanh Hương // Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng
02/2013. - H.; 2013. - tr.23-26; 32. Bài viết trình bày tình hình phong tỏa tài khoản
và những khó khăn, bất cập trong công tác thi hành án dân sự, đồng thời đưa ra giải
pháp kịp thời đối với việc áp dụng các biện pháp phong tỏa tài khoản
- Bài viết “Trao đổi về một số vướng mắc trong công tác thi hành án dân sự/
Huỳnh Minh Khánh” đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số 1(250)/tháng 01/2013.
- H.; 2013. - tr.46-51. Thi hành án là 1 trong những hoạt động thể hiện sự nghiêm
minh của pháp luật, tính uy nghiêm của nhà nước. Hoạt động thi hành án là hoạt động
đưa các bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực
tế. Bài viết đưa ra ý kiến trao đổi về 1 số vướng mắc trong công tác thi hành án dân
sự, thông qua 1 số vụ việc cụ thể.
- Bài viết “Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc thi hành án dân
sự/ Nguyễn Mạnh Hùng // Kiểm sát số Tân xuân/tháng 01/2013. - H.; 2013. - tr.24-
27.Trình bày 1 số giải pháp nâng cao chát lượng kiểm sát việc thi hành án dân sự:
Cần tiếp tục quán triệt những nội dung của luật thi hành án dân sự, kiện toàn bộ máy,
viện kiểm sát nhân dân cần chủ động phối hợp với các ngành hữu quan,..
- Bài viết "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự
hiện nay" của tác giả Lê Hùng Cường được viết năm 2017 đăng trên website http//:
thads.moj.gov.vn. Công trình tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập phát sinh
từ thực tiễn trong quá trình thi hành Luật Thi hành án dân sự năm 2014 và các văn
bản hướng dẫn thi hành, cụ thể như: vướng mắc, bất cập về xác minh điều kiện thi
hành án; thực hiện thông báo thi hành án; miễn, giảm trong thi hành án dân sự… Từ
6
đó, tác giả đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án
dân sự.
- Bài viết "Tìm hiểu về tổ chức thi hành án của nước Cộng hòa Pháp" của tác
giả Điền Đức Thành được viết năm 2010, đăng trên website:
http://hcmcbar.org/NewsDetail.aspx?CatPK=4&NewsPK=130. Trong công trình
này, tác giả thông tin về thẩm quyền của Thừa phát lại đối với việc thi hành án dân
sự, trong đó có thẩm quyền cưỡng chế tài sản để thi hành án.
- Bài viết "Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số nước trên thế
giới" của Chu Thị Hoa được hoàn thành năm 2012 đăng trên tạp chí TẠP CHÍ NGHỀ
LUẬT SỐ 1 NĂM 2007. Trong công trình này, tác giả tổng hợp và thông tin về mô
hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một số nước, trong đó cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền thi hành án được quyền thực hiện các biện pháp thi hành án và cưỡng chế
thi hành án để thi hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Tòa án.
- Sách "Sổ tay nghiệp vụ thi hành án dân sự" của tác giả Nguyễn Văn Luyện,
Nguyễn Thanh Thủy được xuất bản năm 2012. Công trình này phân tích, tổng hợp
các quy định pháp luật và kỹ năng thực tiễn giúp cho chấp hành viên, công chức thi
hành án dân sự có thể áp dụng, nâng cao hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ thi hành án
dân sự được giao, trong đó có các vấn đề lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự.
- Luận án tiến sỹ Luật học "Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay",
của tác giả Hoàng Thế Anh hoàn thành năm 2015. Luận án đã nghiên cứu một số vấn
đề lý luận về giám sát thi hành án dân sự, theo đó đã làm rõ giám sát thi hành án dân
sự với góc độ là một cơ chế, biện pháp để đảm bảo thực thi quyền lực nhà nước đối
với hoạt động thi hành án dân sự nhằm tổ chức thi hành có hiệu quả các bản án, quyết
định dân sự có hiệu lực thi hành.
- Luận án tiến sỹ Luật học "Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu" của tác giả Lại Anh Thắng hoàn thành năm 2010. Tác giả luận
văn phân tích một số vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự như
khái niệm, vai trò, đặc điểm của thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự. Trên cơ
sở đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn cụ thể là
7
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tác giả luận văn đã đưa ra các giải nhằm tăng cường kỷ cương
và nâng cao chất lượng hiệu quả công tác thi hành án dân sự và xã hội hóa về thi hành
án dân sự; nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự các cấp ở
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu…
Ngoài ra trên sách báo pháp lý, các diễn đàn pháp luật từ 2009 đến nay cũng
có rất nhiều bài nghiên cứu, trao đổi về thi hành án dân sự.
Cũng có thể kể đến những nghiên cứu khác như cuốn sách tham khảo như:
“Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật Thi hành án dân sự Việt Nam”- Tác
giả Tiến sỹ Lê Thu Hà - Học viện Tư Pháp, xuất bản năm 2011.
Các bài viết trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề về thi hành án dân
sự các tháng 2/2012, tháng 4/2012, tháng 12/2012, tháng 03/2014; số chuyên đề tháng
6/2012 về thi hành án dân sự tồn đọng; số chuyên đề tháng 12/2013 về thực hiện Luật
thi hành án dân sự … và rất nhiều các bài viết khác trong các sách báo, tạp chí nghiên
cứu về thủ tục thi hành án dân sự như Tạp chí Nghề Luật của Học viện Tư pháp, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp,…
Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp, Bộ tư pháp đã ban hành Luật
sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự. Luật đã được Quốc hội thảo luận, cho ý
kiến tại kỳ họp thứ 7( tháng 5/2014) và được biểu quyết thông qua vào kỳ họp thứ 8
ngày 25/11/2014, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015 vừa qua.
Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề mang tính
tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của thi hành án dân sự.
Nhưng đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào dưới góc độ lý luận và thực trạng
pháp luật, lý giải các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng pháp luật, đề ra các giải
pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Ninh.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu, các bài viết,
đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và những hiểu biết của mình, tác giả trình bày
trong luận văn cơ sở lý luận, nội dung pháp luật thi hành án dân sự, đánh giá thực tiễn
thi hành pháp luật từ đó liên hệ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, đưa ra nhóm giải pháp
hoàn thiện các văn bản pháp luật đã ban hành trong lĩnh vực thi hành án dân sự, đáp
8
ứng vấn đề cấp bách của thực tiễn công tác thi hành án dân sự.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Cho đến nay ở nước ngoài chưa có công trình nào được công bố có liên quan
trực tiếp đến đề tài nói trên.
Từ việc tham khảo một số công trình nghiên cứu về thi hành án dân sự của
trong nước và các nước trên thế giới chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể về
Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự - Nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Quảng
Ninh. Vì vậy, đề tài đã chọn không trùng lắp với các công trình đã công bố ở trong
và ngoài nước.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Để đạt được mục đích đó, đề tài cần giải quyết các mục tiêu sau:
- Làm rõ những vấn đề chung về pháp luật thi hành án dân sự.
- Làm rõ thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam. Nghiên cứu
thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh.
- Làm rõ các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự tại
Việt Nam.
Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi đề tài phải
giải quyết các vấn đề sau:
- Đề tài có nhiệm vụ hệ thống hóa những vấn đề lý luận về Thi hành án dân sự
theo quy định của Hiến pháp và Luật thi hành án dân sự hiện hành..
- Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng quy định về THADS trong thực tế tại tỉnh
Quảng Ninh qua quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Qua đó, tìm
hiểu các thành tựu, hạn chế và các nguyên nhân của hoạt động THADS tại đơn vị;
Đề xuất những giải pháp nâng cao vai trò THADS của trong hệ thống Cơ quan
THADS nói chung và Cục THADS tỉnh Quảng Ninh nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn của Pháp
luật về thi hành án dân sự, trong đó, phần thực tiễn chủ yếu nghiên cứu tại tỉnh Quảng
Ninh. Đối tượng nghiên cứu về hoạt động thi hành án do các chủ thể theo Luật
THADS ban hành. Đối tượng nghiên cứu là hoạt động THADS theo quy định của
Luật thi hành án dân sự hiện hành.
Kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ở một số nước như:
Indonesia, Singapore, Liên bang Nga cũng là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về thời gian: phần thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự được
nghiên cứu chủ yếu từ năm 2013 đến năm 2018, các giải pháp được đề xuất cho giai
đoạn từ năm 2020 đến 2025.
- Phạm vi về không gian: các vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu chủ yếu diễn
ra ở Việt Nam, đặc biệt là ở tỉnh Quảng Ninh. Đề tài cũng nghiên cứu một số vấn đề
liên quan ở các nước như Indonesia, Singapore và Liên bang Nga.
- Phạm vi về nội dung: Trong khuôn khổ đề tài này, luận văn tập trung nghiên
cứu các nội dung cụ thể của pháp luật về thi hành án dân sự như tổ chức bộ máy cơ
quan thi hành án, thủ tục thi hành án dân sự, khiếu nại tố cáo, xử lý vi phạm trong
THADS ở Việt Nam theo quy định pháp luật hiện hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như sau:
- Phương pháp thu thập thông tin: Thu thập, phân tích và khai thác thông tin
từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các Văn kiện, Nghị
quyết của Đảng; Luật, Nghị định của Chính phủ; các quy định của bộ ngành ở Trung
ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài liệu thống kê của
chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
10
tới thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở nước ta nói chung và tỉnh Quảng Ninh
nói riêng.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu
là trong Chương 1 và Chương 2 để phân tích các cơ sở lý luận, đánh giá các quy định
pháp luật hiện hành của Việt Nam về thi hành án dân sự.
- Phương pháp thống kê: Là phương pháp thu thập, tổng hợp, trình bày số liệu,
tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân
tích, đánh giá về kết quả thi hành pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Ninh
hiện nay.
- Phương pháp khái quát hóa đối tượng nghiên cứu.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được bố
cục thành 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về pháp luật thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam. Nghiên
cứu thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự tại
Việt Nam.
11
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự
Trước hết, để làm rõ khái niệm pháp luật thi hành án dân sự, cần tìm hiểu thi
hành án là gì? Thi hành án được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền được tiến hành theo thủ tục trình tự pháp luật quy định, nhằm thực hiện các
bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án.
Thi hành án dân sự là giai đoạn kết thúc của tố tụng dân sự mà trong đó cơ
quan thi hành án đưa các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành ra thi hành nhằm
bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Bản chất của thi hành án dân sự là
thi hành các quyết định của Tòa án tuyên trong bản án, quyết định mà không giải
quyết lại nội dung vụ án và là giai đoạn bảo vệ quyền lợi cho các đương sự về mặt
thực tế. Thi hành án dân sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng đó là bảo đảm bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực thực tế trong cuộc sống, bảo đảm quyền lợi của
đương sự bên cạnh đó thông qua việc thi hành án, Cơ quan thi hành án phát hiện sai
sót của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật từ đó kiến nghị Tòa án có thẩm quyền
kịp thời chỉ đạo công tác xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và kiến nghị trong việc
lập pháp.
Các bản án, quyết định được thi hành án không chỉ là các bản án, quyết định
được ban hành bởi tòa án, của hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và của trọng tài
thương mại trong nước mà còn là những phán quyết được ban hành bởi Tòa án nước
ngoài và quyết định của Trọng tài nước ngoài nhưng được tòa án Việt Nam công nhận
và cho thi hành trên lãnh thổ Việt Nam. Như vậy, trên cơ sở đó có thể đưa ra khái
niệm như sau: Thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành những bản án, quyết định
về phần dân sự của các cơ quan có thẩm quyền được thực hiện bởi cơ quan thi hành
án dân sự theo trình tự thủ tục chặt chẽ theo qui định của pháp luật về thi hành án
dân sự, nhằm đảm bảo quyền và lơi ích hợp pháp theo các quyết định trong các bản
án, quyết định đã tuyên.
12
Theo quy định tại Điều 1 và 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008( sửa đổi, bổ
sung năm 2014), THADS là hoạt động của nhiều tổ chức và cá nhân, bao gồm cả cơ
quan THADS trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, Hội
đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại. Các bản án, quyết định được
THADS bao gồm: bản án, quyết định về dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy
thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân
sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính
của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi
hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại hoặc những bản án, quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành án ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo,
kháng nghị. Hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được thực hiện theo
nguyên tắc và trình tự, thủ tục theo quy định của Luật THADS, các văn bản hướng
dẫn thi hành và các văn bản quy phạm phát luật có liên quan.
Như vậy, Thi hành án dân sự là hoạt động của nhiều tổ chức và cá nhân được
thực hiện theo nguyên tắc và trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật THADS và
pháp luật có liên quan trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của
Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài thương mại.
Các quan hệ xã hội cụ thể phát sinh trong quá trình thi hành và chấp hành hình
phạt như: Việc đưa bản án ra thi hành, chỉ định cơ quan tổ chức thi hành, tổ chức lực
lượng, cơ sở vật chất đảm bảo cho việc thi hành án; Luật Thi hành án dân sự năm
2008( sửa đổi, bổ sung năm 2014) ngoài những quy định trên còn qui định về quyền
và nghĩa vụ của người chấp hành án; nghĩa vụ của cơ quan nhà nước hữu quan... do
pháp luật hành chính - tư pháp, hay nói cách khác, do pháp luật thi hành án dân sự
điều chỉnh.
Pháp luật thi hành án dân sự là một bộ phận cấu thành hệ thống pháp luật Việt
Nam. Pháp luật THADS được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các văn bản
quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành có chứa đựng
các quy phạm pháp luật từ Hiến pháp, BLHS, BLDS, BLTTHS, BLTTDS đến các
13
văn bản chuyên ngành về THADS như Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng
dẫn thi hành…thì đều coi là pháp luật THADS. Quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật THADS tuy còn nhiều tồn tại nhất định, nhưng pháp luật THADS đã được
chuyển hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, ý chí của nhân dân và đồng thuận
của xã hội để tạo nền tảng cho hoạt động của cơ quan THADS. Trên cơ sở đó, có thể
đưa ra khái niệm pháp luật THADS như sau: Pháp luật THADS là hệ thống các quy
tắc xử sự chung( quy phạm pháp luật) thể chế hóa đường lối của Đảng, thể hiện ý chí
của nhân dân, do các cơ quan nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở
giáo dục, thuyết phục, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
thi hành án dân sự. Pháp luật thi hành án dân sự được cấu thành bởi hệ thống quy
phạm pháp luật được quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau như:
Hiến pháp, Luật cho đến những văn bản hướng dẫn thi hành do Chính phủ, các Bộ,
ban ngành hay chính quyền địa phương ban hành.
1.1.2. Đặc điểm của pháp luật về thi hành án dân sự
Pháp luật thi hành án dân sự có những đặc điểm sau:
- Thời điểm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, được diễn ra ngay sau khi
bản án quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, có thể nói không có
kết quả của hoạt động xét xử thì cũng không có hoạt động thi hành án. Tuy nhiên, thi
hành án lại không phải là giai đoạn tố tụng; bản án và quyết định của tòa án đã có
hiệu lực pháp luật không phải là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt động thi hành
án; thi hành án đòi hỏi những nguyên tắc, thủ tục và cách thức hoạt động riêng. Ví
dụ, để có thể tiến hành các hoạt động thi hành án thì phải có quyết định thi hành án
và phải dựa trên những quy định cụ thể về thi hành án...
- Pháp luật thi hành án dân sự có tính chấp hành, vì thi hành án chỉ được tiến
hành trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm thực hiện các các bản án và quyết
định của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, ở đây tính chất chấp hành trong
thi hành án có những nét riêng thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, nó chủ yếu do cơ quan tư
pháp ( theo nghĩa rộng) hay đối tượng phải thi hành án tiến hành; thứ hai, cơ sở để
tiến hành các hoạt động thi hành án bao gồm các quy định của pháp luật(được thể
14
hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật) và bản án, quyết định của toà án(văn bản
áp dụng pháp luật) đã có hiệu lực pháp luật; thứ ba, mục đích cuối cùng của hoạt động
thi hành án là bảo đảm cho các nội dung của các bản án, quyết định của toà án đã có
hiệu lực pháp luật được thực thi chứ không phải là ra các văn bản áp dụng pháp luật
hoặc các quyết định có tính điều hành, nét đặc trưng của cơ quan hành chính.
- Pháp luật thi hành án dân sự có tính quản lí vì thi hành án luôn đòi hỏi các
yếu tố kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lí... nhằm tác động tới các đối tượng
phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi
hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định của toà án, phải tuân
theo các quy định của pháp luật; giáo dục họ có ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng
lợi ích của cá nhân, tôn trọng kỉ luật nhà nước và trở thành người lương thiện (đối với
những người bị kết án phạt tù). Ở đây, tính chất quản lí cũng có đặc trưng riêng về
chủ thể quản lí, đối tượng và khách thể quản lí; phạm vi và phương pháp quản lý...
- Pháp luật thi hành án dân sự kết hợp giữa phương pháp thuyết phục, giáo
dục và cưỡng chế, mệnh lệnh bắt buộc. Trong thi hành án, phương pháp thuyết phục,
giáo dục có ý nghĩa quan trọng nhưng phương pháp mệnh lệnh, bắt buộc phải thi hành
có tính chất đặc thù. Điều này xuất phát từ tính chất của thi hành án như đã nêu ở
trên. Ngay cả trong trường hợp người phải thi hành án tự nguyện thực thi hành nghĩa
vụ của mình thì cũng là vì họ hiểu rằng toà án đã phán xét, sự thực đã được làm sáng
tỏ( nghĩa là trước đó họ đã không tự nguyện) và nếu không thi hành thì họ sẽ phải
chịu các biện pháp cưỡng chế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Chủ thể tham gia pháp luật thi hành án dân sự bao gồm nhiều cơ quan chức
năng, trên cơ sở quy định của pháp luật. Có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình thi
hành án, nhất là trong việc tổ chức thi hành các bản án và quyết định của toà án có
những nội dung phức tạp. Thực tế đã cho thấy rõ, trong thi hành án vai trò của các cơ
quan tư pháp là rất quan trọng, nhất là các cơ quan thi hành án nhưng trong nhiều
trường hợp nếu không có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp với cơ quan
hành pháp và có sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng thì việc thi hành các bản án phức
tạp khó đạt được kết quả tốt.
15
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về thi hành án dân sự
Pháp luật thi hành án dân sự là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm
đưa một bản án, quyết định của Tòa án ra thi hành trên thực tế. Đây là một công việc
có nhiều khó khăn, phức tạp nhằm thực thi công lý, đem lại công bằng cho xã hội,
bảo vệ an ninh quốc gia. Nếu mục đích của thi hành án dân sự không đạt được thì
mọi bản án, quyết định của Tòa án cũng chỉ nằm trên giấy tờ. Chính vì vậy, ý nghĩa
của hoạt động thi hành án dân sự được thể hiện qua mấy điểm sau:
Một là, bảo đảm bản án, quyết định Tòa án có lực được thi hành một cách
nghiêm chỉnh, đúng pháp luật. Từ đó có thể bảo đảm công lý, công bằng cho xã hội,
bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác trong xã hội.
Hai là, ngoài tính bắt buộc, thi hành án dân sự còn có ý nghĩa giáo dục, cải tạo
người bị thi hành án để họ không có hành vi vi phạm mới và trở thành người có ích
cho xã hội. Điều mang ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác thi hành án dân sự
, chính vì vậy cần thiết phải có sự vào cuộc của tất cả các sở, ban, ngành địa phương,
gia đình và toàn thể cộng đồng xã hội.
Ba là, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân để nhằm phòng ngừa hàng vi
vi phạm pháp luật khuyến khích nhân dân tham gia vào công cuộc đấu tranh phòng,
chống hành vi phạm tội. Ngoài ra, hạn chế sự kì thị của người dân với những người
chấp hành xong án phạt trở về và làm việc.
1.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về thi hành án dân sự
1.2.1. Quy định về tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên
1.2.1.1. Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự
Vấn đề về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân sự có ý nghĩa rất quan
trọng, quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, nên việc quy định nguyên
tắc về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân sự trong Luật, nhất là phân định rõ
cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự trong hệ thống tổ
chức là cần thiết, tạo cơ sở cho Chính phủ quy định cụ thể mô hình tổ chức cơ quan
thi hành án dân sự.
16
Pháp luật về hệ thống tổ chức thi hành án dân sự quy định những nội dung cụ
thể sau:
+ Về hệ thống cơ quan quản lý thi hành án dân sự;
+ Về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự;
+ Về biên chế, kinh phí, cơ sở vật chất của cơ quan thi hành án dân sự, trang
phục, phù hiệu, chế độ đối với công chức làm công tác thi hành án dân sự.
1.2.1.2. Chấp hành viên
Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án,
quyết định theo quy định. Để khắc phục những vướng mắc trong thời gian qua trong
việc tuyển dụng, bố trí sử dụng, điều động, luân chuyển Chấp hành viên, Luật thi
hành án dân sự quy định như sau về chấp hành viên:
+ Ngạch chấp hành viên;
+ Tiêu chuẩn bổ nhiệm chấp hành viên;
+ Điều kiện miễn nhiệm chấp hành viên
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của chấp hành viên;
+ Những việc chấp hành viên không được làm.
1.2.2. Quy định pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự
1.2.2.1. Thủ tục thi hành án dân sự
Có quan điểm cho rằng thi hành án dân sự không phải là một thủ tục tố tụng
mà là một hoạt động mang tính chấp hành và điều hành quyết định của tòa án - cơ
quan tư pháp - mang tính chất của hoạt động quản lý hành chính - tư pháp… Thi hành
án không mang tính tố tụng thuần túy mà có nhiều tính chất của giai đoạn mang tính
hành chính - tư pháp. Thủ tục THADS do pháp luật quy định, chấp hành viên cũng
không được đặt ra trình tự, thủ tục và không tùy tiện trong quá trình tổ chức thực hiện
THA mà phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Quá trình THADS thực hiện
thông qua nhiều thủ tục và theo một trình tự nhất định. Thủ tục THA bao gồm nhiều
bước để đưa một bản án, quyết định của tòa án ra thi hành.
17
1.2.2.2. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Điều 66 Luật thi hành án dân sự 2008, được sửa đổi bổ sung năm 2014, quy
định về các biện pháp bảo đảm thi hành án:
1. Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của
đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán,
huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành
án, Chấp hành viên không phải thông báo trước cho đương sự.
2. Người yêu cầu Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật về yêu cầu của mình. Trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp
bảo đảm không đúng mà gây thiệt hại cho người bị áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc
cho người thứ ba thì phải bồi thường.
3. Các biện pháp bảo đảm thi hành án bao gồm:
a) Phong toả tài khoản;
b) Tạm giữ tài sản, giấy tờ;
c) Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.
1.2.2.3. Cưỡng chế thi hành án dân sự
Điều 46 Luật Thi hành án dân sự quy định cưỡng chế thi hành án như sau:
1. Hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải thi hành
án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế.
2. Không tổ chức cưỡng chế thi hành án trong thời gian từ 22 giờ đến 06 giờ
sáng ngày hôm sau, các ngày nghỉ, ngày lễ theo quy định của pháp luật và các trường
hợp đặc biệt khác do Chính phủ quy định.
1.2.3. Quy định về khiếu nại, tố cáo và kháng nghị về thi hành án dân sự
Khiếu nại và tố cáo là hình thức đặc biệt để nhân dân lao động trực tiếp tham
gia vào hoạt động quản lý nhà nước và quản lý xã hội nói chung, pháp luật thi hành
án dân sự nói riêng. Cùng với quyền tố cáo thì quyền khiếu nại là một trong những
quyền chính trị pháp lý của công dân. Vì vậy, quy định về khiếu nại và giải quyết
18
khiếu nại đóng vai trò to lớn trong việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, góp phần tích cực vào việc tăng cường và bảo đảm pháp
chế.
Pháp luật thi hành án dân sự quy định về nội dung khiếu nại, tố cáo về thi hành
án dân sự quy định những nội dung cụ thể như sau:
+ Thời hiệu khiếu nại về thi hành án dân sự;
+ Thời hạn giải quyết khiếu nại theo từng loại hành vi khác nhau;
+ Tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án dân sự.
1.2.3.1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án dân sự
Theo quy định tại Điều 143 Luật Thi hành án dân sự, trong hệ thống cơ quan
thi hành án dân sự do Bộ Tư pháp quản lý có 4 chức danh có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, tố cáo là: (1) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện( Chi Cục
trưởng Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện); (2) Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh( Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh), (3) Thủ trưởng cơ
quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp( Tổng cục trưởng Tổng cục Thi
hành án dân sự) và (4) Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Theo quy định trên thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân
sự chỉ là người có thẩm quyền chứ không bao gồm cả cơ quan, tổ chức như quy định
trong Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo. Một điểm khác nữa về thẩm quyền so với quy
định của Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo là trong lĩnh vực thi hành án dân sự, Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự chỉ có quyền giải quyết khiếu nại về quyết định, hành vi
của cấp dưới chứ không có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành
vi của chính mình; thẩm quyền này thuộc về thủ trưởng cơ quan cấp trên.
Điều 157 Luật Thi hành án dân sự quy định người bị tố cáo thuộc thẩm quyền
quản lý của cơ quan, tổ chức nào thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức đó có trách
nhiệm giải quyết. Quy định này cho thấy, tố cáo trong thi hành án dân sự có sự khác
biệt so với Luật Tố cáo năm 2011. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật Tố cáo
năm 2011, “Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công
19
vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức do người đứng
đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ chức đó giải quyết”. Theo quy
định của Luật Thi hành án dân sự thì Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự giải
quyết tố cáo đối với Phó Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự, Cục trưởng Cục
Thi hành án dân sự giải quyết tố cáo đối với Phó Cục trưởng Cục thi hành án dân sự.
Có sự khác biệt trên là do hoạt động thi hành án là hoạt động tư pháp, các hoạt động
của Thủ trưởng cơ quan thi hành án, Chấp hành viên cơ quan thi hành án đều được
giám sát bởi Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án
đồng thời là Chấp hành viên, thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Chấp hành viên.
Mặt khác, Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án thuộc thẩm quyền quản lý của người
đứng đầu cơ quan đó nên người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết tố
cáo.
Việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong thi hành án dân sự không những nhằm bảo đảm quyền khiếu nại, tố
cáo của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà còn bảo đảm cho quá
trình giải quyết khiếu nại, tố cáo được khách quan, tránh tình trạng khiếu nại, tố cáo
tràn lan, hoặc đùn đẩy trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo…
* Tại các Điều 28, 30 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Điều
12, Điều 160 Luật Thi hành án dân sự( sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định về ban
hành kiến nghị, kháng nghị đối với Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành
viên, cơ quan tổ chức, cá nhân; nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc
ban hành kết luận kiểm sát, thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị; nội dung kiến
nghị; đối tượng, thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát… Theo quy định tại Điều 34
Quy chế công tác Kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính( Ban hành kèm
Quyết định 810/QĐ-VKSTC năm 2016) thì nội dung này được quy định như sau:
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị đối với quyết định và
hành vi của Thủ trưởng, CHV Cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới, Thừa phát lại
khi có vi phạm pháp Luật nghiêm trọng, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành án dân sự và trong
20
giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự để yêu cầu đình chỉ việc thi hành
án, thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định có vi phạm pháp Luật trong việc thi hành
án và trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án; chấm dứt hành vi vi phạm
pháp Luật theo Điều 28 và Điều 30 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014,
Điều 12 và Điều 160 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Kháng nghị phải bảo đảm đúng thời hạn theo quy định tại Điều 160 Luật Thi
hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014); phải bằng văn bản theo mẫu quy định,
do lãnh đạo Viện ký. Nội dung kháng nghị phải nêu rõ tên cơ quan bị kháng nghị;
chức vụ, chức danh của cá nhân bị kháng nghị; quyết định hoặc hành vi vi phạm pháp
Luật bị kháng nghị; các yêu cầu cần thực hiện, thời hạn trả lời kháng nghị. Khi nêu
các vi phạm, cần viện dẫn đầy đủ các quy định của pháp Luật làm căn cứ xác định vi
phạm. Kháng nghị được gửi cho đối tượng bị kháng nghị, cho cơ quan chủ quản của
họ và cho Viện kiểm sát cấp trên để báo cáo.
Viện kiểm sát đã kháng nghị có trách nhiệm theo dõi việc trả lời và thực hiện
kháng nghị theo quy định tại Điều 161 Luật Thi hành án dân sự( sửa đổi, bổ sung
năm 2014). Khi cần thiết thì tổ chức phúc tra việc thực hiện các yêu cầu trong kháng
nghị; hoặc thông qua trực tiếp kiểm sát định kỳ để phúc tra việc thực hiện kháng nghị.
1.2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án
dân sự
Quyền và nghĩa vụ của người tố cáo
1. Người tố cáo có các quyền sau đây:
a) Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật;
b) Được giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác
của mình;
c) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý
giải quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải
quyết, thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
21
d) Tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà
tố cáo không được giải quyết;
đ) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả
thù, trù dập;
e) Được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
2. Người tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:
a) Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình;
b) Trình bày trung thực về nội dung tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên
quan đến nội dung tố cáo mà mình có được;
c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo của mình;
d) Bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự thật của mình gây ra.
1.2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án
dân sự
1. Người bị tố cáo có các quyền sau đây:
a) Được thông báo về nội dung tố cáo;
b) Đưa ra chứng cứ để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;
c) Nhận thông báo kết luận nội dung tố cáo;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo
sai sự thật, người cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật;
đ) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được xin lỗi, cải
chính công khai, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không
đúng gây ra.
2. Người bị tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:
a) Giải trình bằng văn bản về hành vi bị tố cáo; cung cấp thông tin, tài liệu liên
quan khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
22
b) Chấp hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có
thẩm quyền;
c) Bồi thường, bồi hoàn thiệt hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
1.2.3.4. Trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án dân sự
Trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự, người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo phải tuân theo các quy định mang tính chất
khung trong Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, đồng thời phải áp dụng đúng các quy định
cụ thể tại các điều từ Điều 143 đến Điều 158 Luật Thi hành án dân sự, Điều 38 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự và Thông tư số 02/2016/TT-
BTP ngày 01/02/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn
khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự. Đây là những
quy định pháp luật quan trọng nhất, mang tính trung tâm trong cả hệ thống quy phạm
pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự. Bao gồm các quy
định về hoạt động cụ thể của quá trình giải quyết khiếu nại, tố cáo (như đối thoại với
đương sự, xác minh, giám định, kết luận, ra quyết định giải quyết kiếu nại, kết luận
nội dung tố cáo…); trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại lần đầu và lần hai; trình tự
thủ tục giải quyết tố cáo, xem xét lại Kết luận nội dung tố cáo của cấp dưới; thời hạn
giải quyết khiếu nại, tố cáo… Gắn liền đó là quyền và nghĩa vụ cụ thể của người
khiếu nại, tố cáo người bị khiếu nại, tố cáo, người giải quyết khiếu nại, tố cáo và cá
nhân, tổ chức có liên quan.
* Trình tự kháng nghị: được thực thực hiện theo Quy chế công tác Kiểm sát
thi hành án dân sự, thi hành án hành chính (ban hành kèm Quyết định 810/QĐ-
VKSTC năm 2016).
1.2.4. Quy định về xứ lý vi phạm về thi hành án dân sự
Nội dung về xử ý vi phạm về thi hành án dân sự bao gồm những nội dung cụ
thể như:
23
1.2.4.1. Hành vi vi phạm trong thi hành án dân sự
Các hành vi vi phạm trong THADS có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức, có
thể kể đến một số hành vi vi phạm trong THADS như sau:
Thứ nhất, Lãnh đạo, Kế toán, Thủ quỹ Cơ quan Thi hành án dân sự, quản lý
biên lai, tang vật thi hành án lỏng lẻo, không kiểm tra, kiểm soát quỹ thi hành án theo
định kỳ và đột xuất theo quy định tại Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ
sung đối với công tác quản lý, kiểm tra tài chính, kiểm soát nguồn tiền, tang vật trong
kho Cơ quan Thi hành án dân sự, dẫn đến thất thoát tang vật vụ án; Chấp hành viên
dùng tang vật của vụ án thế chấp để vay tiền; Chấp hành viên thu tiền thi hành án
nhưng không nộp quỹ thi hành án, không chi trả cho công dân theo quy định của pháp
luật mà sử dụng cá nhân; tham ô tài sản; chiếm dụng, sử dụng trái phép tiền quỹ thi
hành án.
Thứ hai, Chấp hành viên Cơ quan Thi hành án dân sự thiếu trách nhiệm trong
việc xác minh điều kiện của người phải thi hành án, tài sản của người phải thi hành
án để tiến hành kê biên, cưỡng chế theo đúng quy định của pháp luật; cố tình kéo dài
thời gian giải quyết việc thi hành án dẫn đến người phải thi hành án tẩu tán tài sản
phải thi hành án, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thứ ba, thi hành án sai thẩm quyền; ra quyết định cưỡng chế thi hành án khi
chưa có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, sửa chữa hồ sơ thi
hành án; ra quyết định cưỡng chế giao nhà trong khi người phải thi hành án đã thi
hành xong; không giao nhà cho người mua trúng đấu giá mà lập biên bản giao nhà
cho người thuê nhà của người phải thi hành án; cố tình tổ chức thi hành án trái pháp
luật; chi trả tiền cho người được thi hành án không đúng quy định tại Điều 47 Luật
thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung, gây thiệt hại cho quyền và lợi ích hợp pháp
của người được thi hành án của công dân.
Thứ tư, Chấp hành viên Cơ quan thi hành án dân sự không thực hiện việc niêm
yết công khai thông báo bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật; kê biên, lập
khống biên bản xác minh điều kiện thi hành án; không thông báo cho các đồng sở
hữu biết đối với tài sản kê biên là tài sản chung; kê biên tài sản quy nhất của người
24
phải thi hành án; không đưa những người trong điều kiện thừa kế tham gia với tư cách
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; không thi hành quyết định việc áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân.
Thứ năm, ra quyết định cưỡng chế thuộc tài sản riêng, không thuộc tài sản của
người phải thi hành án gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; mặc dù
đã ký quyết định cưỡng chế giao nhà nhưng Cơ quan Thi hành án không tiến hành tổ
chức cưỡng chế giao nhà cho người mua trúng đấu giá, gây thiệt hại cho người trúng
đấu giá; kéo dài chủ tục, thời gian kê biên tạo điều kiện cho người phải thi hành án tẩu
tán, chuyển dịch tài sản; kê biên tài sản không đúng với nội dung bản án đã tuyên.
Thứ sáu, lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong quá trình tổ chức thi hành án, sách
nhiễu người được thi hành án để đòi tiền hối lộ; thu tiền đặt cọc xong không hướng
dẫn cho người đặt đọc làm thủ tục tham gia đấu giá, nhưng không làm thủ tục hoàn
trả số tiền đặt cọc theo quy định của Chính phủ theo quy định về đấu giá tài sản trong
thi hành án dân sự, gây thiệt hại cho người tham gia đấu giá.
Thứ bảy, Lãnh đạo, cán bộ Cơ quan Thi hành án dân sự lập, ký ban hành phiếu
trả lời xác minh bị án đã nộp tiền án phí không đúng với thục tế; lập biên bản khống
xác nhận sự việc đã thi hành xong bản án để tạo điều kiện cho phạm nhân được đặc xá.
1.2.4.2. Thẩm quyền xử lý vi phạm trong thi hành án dân sự
Chủ thể có thẩm quyền XLVPPL trong THADS được pháp luật quy định cụ
thể theo từng loại VPPL cơ quan, tổ chức quản lý về THADS; Thủ trưởng cơ quan
THA, Chấp hành viên; cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia phối hợp giải quyết việc
THA; các cơ quan tiến hành tố tụng.
1.2.4.3. Hình thức xử lý vi phạm trong thi hành án dân sự
Các hình thức xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự thể hiện trên
một số phương diện sau:
- XLVPPL hành chính trong THADS: là hoạt động quản lý nhà nước mang
tính chế tài, cưỡng chế hành chính của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền
25
nhân danh Nhà nước thực hiện theo quy định pháp luật đối với những hành vi vi phạm
hành chính trong THADS.
- Xử lý tội phạm hình sự trong THADS: là hoạt động truy cứu trách nhiệm
hình sự, kết tội và áp dụng hình phạt của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với
người đã thực hiện hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm các quan
hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực THADS.
- XLVPPL dân sự trong THADS: là hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án
hoặc chủ thể khác có thẩm quyền nhằm buộc những chủ thể thực hiện hành vi trái
pháp luật xâm hại những quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có liên quan đến tài sản,
quan hệ phi tài sản trong THADS phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định
pháp luật.
- Xử lý vi phạm kỷ luật trong THADS: là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền nhằm buộc cán bộ, công chức hoặc nhân viên THADS
khác phải chịu trách nhiệm kỷ luật theo quy định pháp luật do đã thực hiện hành vi
trái với những quy chế, quy tắc xác lập trật tự trong tổ chức và hoạt động THADS.
- Trách nhiệm BTTH khi có hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ
về THADS: là hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan THADS trong việc thực hiện
trách nhiệm bồi thường thiệt hại và buộc cán bộ, công chức THADS thực hiện nghĩa
vụ hoàn trả theo quy định của pháp luật do đã thực hiện hành vi trái pháp luật gây
thiệt hại trong khi thi hành công vụ.
- XLVPPL gây thiệt hại cho cơ quan THADS: là hoạt động áp dụng pháp luật
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm buộc cán bộ, công chức hoặc nhân viên
THADS khác bồi thường về tài sản do có hành vi trái pháp luật làm mất mát, hư hỏng
trang bị, thiết bị hoặc gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan THADS nhưng chưa đến
mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.3. Các yếu tố tác động đến việc hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự
1.3.1. Yếu tố khách quan
* Đường lối chính sách của Đảng về pháp luật thi hành án dân sự
26
Các chủ trương, chính sách của chính phủ, quy định pháp luật và chính trị: Các
nhân tố chính phủ, pháp luật và chính trị tác động đến tổ chức cũng như công tác thực
thi pháp luật THADS theo các hướng khác nhau. Chúng có thể tạo ra cơ hội nhưng
cũng có thể gây trở ngại, thậm chí là rủi ro thật sự cho tổ chức thực hiện trong thực tế.
* Nhu cầu quản lý đất nước hiện nay
Nhu cầu quản lý đất nước hiện nay, sự nhất quán về quan điểm chính sách sẽ
tạo điều kiện cho công tác đào tạo và phát triển được thực hiện một cách suôn sẻ hệ
thống pháp luật và yêu cầu của việc kiện toàn pháp luật THADS nói chung.
* Yếu tố văn hóa - xã hội
Mục tiêu phát triển của cơ quan THADS: trong thực tế khi tiến hành mọi hoạt
động của cơ quan THADS nói chung và đối với công tác tuyển dụng nói riêng thì nhà
quản trị đều phải căn cứ vào mục tiêu phát triển, chiến lược của cơ quan THADS qua
từng thời kỳ. Để theo đuổi mục tiêu và chiến lược này cơ quan THADS cần xác định
và lựa chọn thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao để đáp ứng các yêu cầu và đạt
được các mục tiêu đã đề ra.
* Trình độ và kỹ thuật lập pháp
Các chính sách của nhà nước đưa ra có ảnh hưởng trực tiếp đến xây dựng đội
ngũ chấp hành viên sơ cấp của cơ quan THADS đã được quy định rõ trong các văn
bản pháp luật. Hệ thống pháp luật về xây dựng đội ngũ chấp hành viên sơ cấp của cơ
quan THADS cần đảm bảo quy định rõ ràng, chi tiết và có hướng dẫn cụ thể về
phương thức, trình tự, thủ tục, đảm bảo thực hiện bằng các công cụ như thế nào…
Ngoài ra, hệ thống văn bản cần mang tính chất dự báo, các quy định mang tính chất
điều chỉnh, phạm vi điều chỉnh rộng..;
* Các tư tưởng, học thuyết pháp lý về thi hành án dân sự
Đối với vấn đề thi hành án dân sự nói riêng ở nước ta hiện nay đã và đang trở
thành vấn đề nhận được nhiều quan tâm của các cơ quan NN có thẩm quyền và toàn
xã hội trong, ngoài nước thông qua những tư tưởng về THADS trong thực tế. Nhận
thức được tầm quan trọng của lĩnh vực này, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước
27
cũng như điều chỉnh hiệu quả các quan hệ xã hội phát sinh thì pháp luật ngày càng
được sửa đổi, bổ sung một cách hoàn thiện hơn, trong đó có nội dung về đề xây dựng
Cơ quan THADS ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển.
* Bối cảnh hội nhập quốc tế
Hội nhập và phát triển kinh tế, quốc tế thì yêu cầu kiện toàn hành lang pháp lý
kinh tế nói chung và THADS nói riêng là điều kiện quan trọng nhằm thi hành các bản
án, quyết định của các cơ quan tư pháp trong và ngoài nước. Từ đó, đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp cho các đương sự trong quá trình yêu cầu THADS nói chung ở
nước ta hiện nay.
1.3.2. Yếu tố chủ quan
* Trình độ hiểu biết pháp luật của người dân
Ý thức pháp luật của các chủ thể của người dân là một trong những yếu tố đảm
bảo cho việc thi hành pháp luật về THADS trong thực tế. Ý thức pháp luật đầu tiên
là ý thức trong việc tuân thủ pháp luật của chính các chủ thể thực thi pháp luật về thi
hành án dân sự. Đó cũng là sự hiểu biết và tôn trọng pháp luật là cơ sở để mỗi cá nhân
hình thành ý thức tuân theo pháp luật. Do đó, các cơ quan nhà nước cần thực hiện tốt
các biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức tôn trọng các quy định về THADS ở nước
ta hiện nay.
* Trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của người thực thi pháp luật
Trong quá trình xây dựng đội ngũ Chấp hành viên sơ cấp của Cơ quan THADS
cũng góp phần quan trọng không thể tách rời trong hoạt động nói trên. Năng lực, trình
độ của đội ngũ cán bộ trong công tác quản lý nhà nước về pháp luật thi hành án dân
sự hiện nay ở nước ta luôn được quan tâm và trở thành một trong những điều kiện
then chốt của hoạt động thi hành pháp luật về thi hành án dân sự ở nước ta trong giai
đoạn mới.
1.4. Kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự của một số nước
1.4.1. Kinh nghiệm của Indonesia
Về Thi hành án dân sự ở Indonesia được thực hiện bởi Thẩm phán. Thẩm
28
quyền thi hành bản án của Thẩm phán thể hiện ngay ở tiêu đề của bản án ọvì công lý
dựa vào Thượng đế toàn năngú, tức là Thẩm phán được sử dụng sức mạnh cưỡng chế
của bộ máy nhà nước để thi hành bản án. Nếu người phải thi hành án không có hoặc
không đủ tài sản để thi hành, thì theo yêu cầu của bên thắng kiện, Chánh án Toà án
cấp quận, huyện có thể trao lệnh cho Thừa phát lại để bắt người phải thi hành án để
tạm giam. Người bị bắt có thể bị giam giữ trong thời hạn 3 năm.
1.4.2. Kinh nghiệm của Singapore
Pháp luật THADS của Singapore nổi bật lên quy định về việc kê biên tài sản
và bán đấu giá tài sản để thi hành án, nếu người phải thi hành án vắng mặt, chống đối
thì nhân viên thi hành án có thể phá khoá vào nhà để kê biên tài sản; Quyết định thực
hiện hoặc không thực hiện công việc nào đó (ví dụ: không được giao dịch trên thị
trường chứng khoán); Chuyển tài sản từ người này sang người khác để thi hành án;
Yêu cầu người phải thi hành án phải ra khỏi chỗ ở của họ; Chuyển trẻ em cho người
được nhận nuôi; cơ quan thi hành án có quyền kê biên bất cứ tài sản nào; trường hợp
người phải thi hành án thấy việc kê biên hết tài sản làm cho họ khó khăn thì có thể đệ
đơn lên Tòa án xem xét.
Vấn đề chúng ta có thể học hỏi qua kinh nghiệm các nước là pháp luật thi hành
án dân sự cần quy định nhiều biện pháp cưỡng chế mạnh mẽ và hiệu quả, với trình
tự, thủ tục tuy không phức tạp, kéo dài nhưng chặt chẽ. Bên cạnh đó, xuất phát từ
mục đích nhân đạo, pháp luật thi hành án dân sự cần quy định cụ thể các danh mục
tài sản không được kê biên để bảo đảm cho người phải thi hành án và gia đình họ có
cuộc sống ổn định. Về vấn đề này Claude Brenner nhận xét: “Có một giới hạn tương
đối phổ biến trong việc cưỡng chế thi hành án, đó là những tài sản và thu nhập đáp
ứng nhu cầu thiết yếu cho người phải thi hành án và gia đình thì không được kê biên,
bởi vì xã hội không được lợi gì nếu như các thành viên trong xã hội đó bị rơi vào cảnh
túng bấn”.
1.4.3. Kinh nghiệm của Liên bang Nga
Cục Thi hành án liên bang được tổ chức theo Luật liên bang về Chấp hành
viên, ở địa phương có các cơ quan thi hành án địa phương. Cục Thi hành án liên bang
29
do Chấp hành viên trưởng Liên bang Nga đứng đầu, là người được Tổng thống Liên
bang Nga bổ nhiệm và miễn nhiệm. Cục thi hành án liên bang được giao nhiệm vụ
bảo đảm trật tự tại Tòa án, thi hành văn bản thi hành án, áp dụng các biện pháp cưỡng
chế khác theo quy định của pháp luật và quyết định thi hành án; tổ chức việc kê biên
và bán tài sản kê biên; truy tìm con nợ và tài sản của họ; tham gia vào việc bảo vệ lợi
ích của Liên bang Nga với tư cách chủ nợ trong các vụ việc và vụ kiện phá sản.
1.4.4. Các bài học rút ra cho Việt Nam
Qua nghiên cứu mô hình tổ chức và những quy định pháp luật về thi hành án
dân sự ở một số nước trên thế giới như nêu trên, có thể rút ra một số nhận xét sau
đây:
Thứ nhất, nhìn chung tổ chức thi hành án dân sự các nước không giống nhau.
Tuy theo tình hình, đặc điểm kinh tế - xã hội, yếu tố truyền thống, tâm lý... mà tổ
chức thi hành án dân sự của mỗi nước thể hiện dưới hình thức công, bán công hoặc
do tư nhân đảm nhiệm.
Thứ hai, việc thi hành án chủ yếu căn cứ theo đơn yêu cầu của người được thi
hành án, thể hiện khá đầy đủ quyền tự định đoạt của đương sự. Các nước đều quy
định chế độ lệ phí thi hành án, nhìn chung các chi phí thi hành án do đương sự chịu,
nhà nước chỉ hỗ trợ trong chừng mực cần thiết.
Thứ ba, thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên được
pháp luật quy định khá rộng và đảm bảo hiệu lực thực thi.
Thứ tư, trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án được quy định hết sức chặt chẽ,
cụ thể bảo đảm hiệu lực thực thi bản án, quyết định, đồng thời lưu ý bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và người có liên quan.
Tiểu kết chương 1
Quy định về THADS là một chế định pháp lý quan trọng, là cơ sở cần thiết
trong việc thiết lập và hoàn chỉnh một hệ thống pháp luật về THADS ở nước ta hiện
nay. Việc xác định đặc điểm, vai trò, ý nghĩa trong việc THADS trong lĩnh vực này
sẽ hỗ trợ một phần lớn trong việc thiết lập các quy phạm pháp luật chặt chẽ nhằm
30
hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về THADS tại Việt Nam. Đây là nhiệm vụ
quan trọng đối với nước ta trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, đảm bảo
hài hoà giữa phát triển kinh tế và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp các chủ thể.
Đồng thời, còn bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể khi tham gia vào
quan hệ xã hội trong lĩnh vực THADS. Góp phần quan trọng trong hoạt động thi hành
các bản án trên thực tế. Cùng với thời gian thì những quy định về THADS đã được
thay đổi nhằm phù hợp hơn với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Qua đó, đảm
bảo hoạt động thực hiện pháp luật là quá trình đưa pháp luật vào đời sống, áp dụng
những quy định trong văn bản vào hiện thực, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh
của pháp luật. Chương I của Luận văn đã phân tích một cách khái quát cơ sở lý luận
của việc THADS ở nước ta hiện nay, bao gồm: Khái niệm và đặc điểm, vai trò và nội
dung quy định về THADS. Trên cơ sở lý luận về THADS ở Chương I, tác giả vận
dụng thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh, đánh giá tình hình thi hành pháp luật, kết quả đạt
được trong việc áp dụng và những hạn chế, khó khăn gặp phải trong quá trình thi
hành, từ đó tìm ra nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như nguyên nhân
của những hạn chế được trình bày trong Chương 2 của luận văn.
31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM - NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NINH
2.1. Lược sử về sự hình thành và phát triển của pháp luật về thi hành án dân sự ở
Việt Nam
Quá trình phát triển pháp luật thi hành án dân sự ở nước ta từ năm 1945 có thể
được khái quát qua các thời kỳ sau:
2.1.1. Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 1989, là giai đoạn mà tổ chức hoạt động thi hành án dân sự chưa
được dựa trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành, thậm chí có thời kỳ chỉ căn cứ vào Điều lệ tạm
thời về công tác Chấp hành án ban hành kèm theo Công văn số 827/CV ngày
23/10/1979 của Tòa án nhân dân tối cao. Công tác thi hành án dân sự đặt dưới sự chỉ
đạo trực tiếp của Toà án. Tuy nhiên, về vấn đề quản lý nhà nước, hình thức tổ chức
và pháp luật thi hành án dân sự có thể được chia thành các giai đoạn 1945 - 1949,
1950 - 1980, 1981 - 1989.
Giai đoạn 1945 đến 1949: Trước cách mạng tháng tám, ở nước ta đã tồn tại
chế định Thừa phát lại. Căn cứ Luật tố tụng dân sự ban hành theo Nghị định ngày
16/3/1910 của Toàn quyền Đông Dương. Thừa phát lại là công lại do Bộ trưởng Bộ
Tư pháp bổ nhiệm và quản lý, hành nghề trên cơ sở quy định của pháp luật, được
hưởng thù lao của khách hàng theo biểu giá quy định và không có quyền từ chối thi
hành nhiệm vụ khi được yêu cầu.
Có thể nói rằng, ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng, dù phải
đương đầu với biết bao khó khăn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ chính quyền
non trẻ trước sự tấn công của thù trong, giặc ngoài, nhà nước ta vẫn không ngừng
quan tâm xây dựng, kiện toàn tổ chức thi hành án dân sự. Bên cạnh đó đã từng bước
hình thành pháp luật thi hành án dân sự, xác định cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt
32
động thi hành án dân sự nhằm thể hiện bản chất của nền tư pháp nhân dân, công cụ
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Tuy còn ở những bước đi ban đầu
nhưng tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự đã có những đóng góp quan trọng vào
việc hình thành và phát triển của nền tư pháp mới thể hiện bản chất dân chủ của Nhà
nước dân chủ nhân dân. Tuy vậy, ở giai đoạn này, tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự vẫn còn rất sơ khai, pháp luật thi hành án dân sự chưa đầy đủ và còn nhiều
hạn chế, cần phải được tiếp tục củng cố, hoàn thiện trong giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn từ tháng 5 - 1950 đến năm 1980: Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về “Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng “tạo nên sự
thay đổi có tính chất bước ngoặt trong tổ chức và hoạt động tư pháp nói chung và tổ
chức hoạt động thi hành án dân sự nói riêng. Theo quy định này, việc thi hành án dân
sự do thừa phát lại và Ban tư pháp xã thực hiện trước đây được thay thế bằng thẩm
phán huyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chánh án. Sự kiện này đã làm thay đổi căn
bản cơ chế, tổ chức hoạt động thi hành án dân sự. Thi hành án dân sự từ chỗ căn cứ
vào yêu cầu của đương sự đã trở thành trách nhiệm của nhà nước. Tòa án chủ động
thi hành án dân sự mà không chờ yêu cầu của người được thi hành án.
Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1989: Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1980,
nhiều đạo luật về tổ chức của bộ máy nhà nước cũng được ban hành nhằm kiện toàn
bộ máy Nhà nước, phân định rõ chức năng của từng loại cơ quan, tăng cường hiệu
lực quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Điều 16 của Luật tổ chức TAND năm 1981 đã
giao cho Bộ Tư pháp (mới được thành lập lại sau hơn 20 năm giải thể) đảm nhiệm
công tác quản lý TAND địa phương về mặt tổ chức. Nghị định số 143 - HĐBT ngày
22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Bộ Tư pháp đã quy định: Bộ Tư pháp có chức năng quản lý TAND địa
phương về mặt tổ chức, trong đó bao gồm cả việc quản lý công tác THADS. Theo
Nghị định này Bộ Tư pháp có nhiệm vụ “trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành hoặc
ban hành theo thẩm quyền các quy chế chấp hành án”. TAND tối cao đã bàn giao
nhiệm vụ quản lý công tác THA trong phạm vi cả nước sang Bộ Tư pháp bắt đầu từ
ngày 01/01/1982. Ngày 18/7/1982, Bộ Tư pháp và TAND tối cao đã ký thông tư liên
ngành số 472 về “quản lý công tác THA trong thời kỳ trước mắt” quy định: ở địa
33
phương tại các TAND tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương có Phòng THA nằm
trong cơ cấu bộ máy và biên chế của TA để giúp Chánh án chỉ đạo công tác THA; ở
các TA huyện, quận, thị xã,thành phố thuộc tỉnh có CHV hoặc cán bộ làm công tác
THA dưới sự chỉ đạo của Chánh án.
2.1.2. Giai đoạn từ 01/01/1990 đến 30 tháng 6 năm 1993
Pháp lệnh THADS ngày 28/8/1989, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1990, một hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao, lần đầu tiên đã được ban
hành, đặt cơ sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động THADS.
Trên cơ sở đó, quy chế CHV đã được ban hành kèm theo nghị định số 68/HĐBT ngày
06/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của Pháp lệnh THADS năm 1989
và Quy chế CHV, thì chỉ có CHV là người được nhà nước giao trách nhiệm thi hành
các bản án quyết định của TA (trước đây việc THA, ngoài CHV còn có thể do cán bộ
TA thực hiện). Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định số lượng biên chế CHV, cán bộ THA
cho từng TA địa phương. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chấp hành viên do Bộ trưởng
Bộ Tư pháp quyết định theo đề nghị của Chánh án TAND địa phương.
Với Pháp lệnh THADS năm 1989, lần đầu tiên những quy định về THADS đã
được pháp điển hoá. Việc tập trung thống nhất những quy định về THADS vào một
hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực cao đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
pháp luật trong việc THADS, góp phần bảo đảm hiệu lực của các bản án, quyết định
về dân sự của TA, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và
công dân, góp phần tăng cường pháp chế XHCN.
Đầu những năm 1990, công cuộc đổi mới nói chung và cải cách bộ máy nhà
nước nói riêng đã được tiến hành một cách khá tích cực, khẩn trương. Hiến pháp năm
1992 và các Luật về tổ chức bộ máy nhà nước được Quốc hội khoá IX thông qua vào
tháng 10/1992, đã đặt ra những nguyên tắc nền tảng cho quá trình cải cách tư pháp,
trong đó công tác THADS được đổi mới một cách cơ bản. Khác với Luật Tổ chức
TAND năm 1981, Luật Tổ chức TAND năm 1992 không quy định thẩm quyền của
TAND trong việc THA. Trong khi đó Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992 lần đầu tiên
đã xác định việc “quản lý công tác THA” là một trong những nhiệm vụ và quyền hạn
34
của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp. Để thực hiện quy định
của các đạo luật trên đây về công tác THA, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX
ngày 6/10/1992 đã thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác THA từ TAND
các cấp sang các cơ quan của Chính phủ “chậm nhất vào tháng 6/1993”. Pháp lệnh
THADS ban hành ngày 21/4/1993, có hiệu lực ngày 01/6/1993 thay thế Pháp lệnh
THADS ban hành ngày 28/8/1989.
2.1.3. Giai đoạn từ 1993 đến trước khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004
Ngày 20/7/1993, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ra Quyết định số 473/QĐ thành
lập Cục quản lý THADS thuộc Bộ Tư pháp với nhiệm vụ, quyền hạn: Giúp Bộ trưởng
Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý Nhà nước về công tác THADS trong phạm vi cả
nước; quản lý nghiệp vụ công tác THADS. Pháp lệnh THADS năm 1993 được ban
hành đã phục vụ cho việc thi hành Nghị quyết của Quốc hội về việc bàn giao công
tác THADS từ TA sang các cơ quan của Chính phủ. Do Pháp lệnh THADS năm 1993
còn giữ nguyên các quy định của Pháp lệnh năm 1989, chỉ sửa đổi phần nội dung liên
quan đến thẩm quyền của cơ quan quản lý công tác THA và thủ trưởng CQTHA. Mặt
khác, sau khi Pháp lệnh THA dân sự năm 1993 ra đời, nhà nước cũng đã ban hành
một loạt văn bản pháp luật mới có liên quan đến công tác THADS như Bộ luật dân
sự, Bộ luật lao động, Luật đất đai, Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật công ty... Đặc
biệt với việc ban hành Luật phá sản doanh nghiệp, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án kinh tế, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án lao động, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính, CQTHA đã được giao thêm các loại việc mới, có tính
đặc thù như thi hành quyết định tuyên bố phá sản, THA kinh tế, lao động, hành
chính... làm cho công tác THA không còn mang tính chất dân sự thuần tuý như trước
đây. Ngoài ra, các CQTHADS còn đang đứng trước những khó khăn về lực lượng
cán bộ, về cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động. Đồng thời các cơ sở pháp lý về tổ chức
và hoạt động THA đang đòi hỏi phải được hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đặt ra
trong công cuộc cải cách Tư pháp nói chung và đổi mới công tác THA nói riêng theo
tinh thần các Nghị quyết Trung ương đã đề ra.
35
2.1.4. Giai đoạn từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đến
trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008
Qua hơn 10 năm thi hành, Pháp lệnh THADS năm 1993 đã bộc lộ nhiều bất
cập trước những đòi hỏi của quá trình đổi mới, cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Nhiều vướng mắc về cơ chế quản lý, mô hình tổ chức, thủ tục THADS chưa được
tháo gỡ kịp thời, dẫn đến tình trạng án tồn đọng có xu hướng gia tăng, đòi hỏi pháp
luật THADS cần có sự bổ sung, hoàn thiện kịp thời để nâng cao hiệu quả công tác
THADS. Vì vậy, ngày 14/01/2004 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp
lệnh THADS sửa đổi thay thế Pháp lệnh THADS năm 1993.
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 đã có những bước tiến mới về lập
pháp, theo đó quy định cụ thể, đầy đủ hơn về tổ chức các cơ quan thi hành án và thủ
tục thi hành án.
Theo các quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 ngày 14/01/2004 của Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ thống nhất quản lý công tác THADS; các cơ
quan giúp Chính phủ quản lý nhà nước về công tác THADS bao gồm: Bộ Tư pháp,
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quận, huyện, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh. Theo chức năng được giao, Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ quản
lý nhà nước về công tác THADS và tổ chức việc THADS.
2.1.5. Giai đoạn từ năm 2008 cho đến nay
Thể chế hóa chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng về công tác THADS,
ngày 14/11/2008, lần đầu tiên Quốc hội đã thông qua Luật THADS. Trên cơ sở các
quy định của Luật. Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở
pháp lý, tạo điều kiện thúc đẩy công tác thi hành án dân sự ngày càng hiệu quả, ngày
14/11/2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Thi hành án dân sự năm 2008, văn
bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước tới nay. Theo đó, hệ thống các cơ quan thi
hành án dân sự được xác định rõ hơn theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất
theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện, với một vị thế mới, tương xứng với
nhiệm vụ chính trị được giao và phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp.
Để tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, ngày 25 tháng 11 năm
36
2014 tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật
Thi hành án dân sự, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2015, ngày 20
tháng 7 năm 2015, Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi
tiết hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân
sự, các văn bản này đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho công tác thi hành án dân
sự, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự trong thời gian tới.
2.2. Phân tích thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự ở Việt Nam và thực
tiễn tại tỉnh Quảng Ninh
2.2.1. Thực trạng các quy định về tổ chức bộ máy cơ quan thi hành án dân sự
Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự được quy định từ Điều 13 đến Điều 25.
2.2.1.1. Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự
Vấn đề về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân sự có ý nghĩa rất quan
trọng, quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự, nên việc quy định nguyên
tắc về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành án dân sự trong Luật, nhất là phân định rõ
cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi hành án dân sự trong hệ thống tổ
chức là cần thiết, tạo cơ sở cho Chính phủ quy định cụ thể mô hình tổ chức cơ quan
thi hành án dân sự.
Hệ thống tổ chức thi hành án dân sự bao gồm:1
a) Cơ quan quản lý thi hành án dân sự:
- Cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp;
- Cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng.
b) Cơ quan thi hành án dân sự:
- Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây
gọi chung là cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh);
- Cơ quan thi hành án dân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau
1 Luật THADS 2008, sửa đổi bổ sung
đây gọi chung là cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện);
37
- Cơ quan thi hành án quân khu và tương đương (sau đây gọi chung là cơ quan
thi hành án cấp quân khu).
* Hệ thống tổ chức Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh như sau:
+ Lãnh đạo gồm có 01 Cục trưởng và 03 phó Cục trưởng
+ Các phòng gồm có: phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án; phòng Tổ chức
cán bộ; phòng Kiểm tra; phòng Giải quyết khiếu nại tố cáo; phòng Tài chính kế toán.
+ Tỉnh Quảng Ninh có 14 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 4
thành phố, 2 thị xã và 8 huyện. Như vậy, Quảng Ninh có 14 chi cục THADS, bao
gồm: Chi cục THADS thành phố Hạ Long, Chi cục THADS thành phố Cẩm Phả, Chi
cục THADS thành phố Móng Cái, Chi cục THADS thành phố Uông Bí, Chi cục
THADS thị xã Đông Triều, Chi cục THADS thị xã Quảng Yên, Chi cục THADS
huyện Vân Đồn, Chi cục THADS huyện Tiên Yên, Chi cục THADS huyện Hoành
Bồ, Chi cục THADS huyện Hải Hà, Chi cục THADS huyện Cô Tô, Chi cục THADS
huyện Đầm Hà, Chi cục THADS huyện Bình Liêu, Chi cục THADS huyện Ba Chẽ.2
Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh đến nay được phân bổ 168 biên chế.
Cả tỉnh hiện có 81 chấp hành viên( 01 chấp hành viên cao cấp, 28 chấp hành viên
trung cấp, 52 chấp hành viên sơ cấp), 13 thẩm tra viên (03 Thẩm tra viên chính, 10
Thẩm tra viên), 32 Thư ký và 22 Kế toán và các công chức khác.3
2.2.1.2. Chấp hành viên4
a) Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án,
quyết định theo quy định. Để khắc phục những vướng mắc trong thời gian qua trong
việc tuyển dụng, bố trí sử dụng, điều động, luân chuyển Chấp hành viên, Luật thi
hành án dân sự quy định Chấp hành viên có 3 ngạch gồm Chấp hành viên sơ cấp,
Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp, đồng thời quy định việc bổ
nhiệm chấp hành viên phải thông qua thi tuyển và bỏ quy định hiện hành về việc bổ
2 Báo cáo tổng kết của Cục THADS tỉnh Quảng Ninh 2014-2018 3 Báo cáo tổng kết của Cục THADS tỉnh Quảng Ninh 2014-2018 4 Điều 18 Luật THADS 2008, sửa đổi bổ sung
nhiệm Chấp hành viên theo nhiệm kỳ.
38
b) Về tiêu chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên: Ngoài tiêu chuẩn chung phải là
công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có phẩm chất
đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn thành nhiệm vụ
được giao thì người được bổ nhiệm làm Chấp hành viên sơ cấp phải có thời gian làm
công tác pháp luật từ 03 năm trở lên, đã được đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự và
trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên sơ cấp. Người được bổ nhiệm làm Chấp
hành viên trung cấp phải có thời gian làm Chấp hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên
và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên trung cấp. Người được bổ nhiệm làm
Chấp hành viên cao cấp phải có thời gian làm Chấp hành viên trung cấp từ 05 năm
trở lên và trúng tuyển kỳ thi tuyển Chấp hành viên cao cấp. Người được bổ nhiệm
làm Chấp hành viên trong quân đội phải là sỹ quan quân đội tại ngũ.
Đối với người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên chuyển công
tác đến cơ quan thi hành án dân sự có thể được bổ nhiệm làm Chấp hành viên ở ngạch
tương đương mà không qua thi tuyển.
Trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người có đủ tiêu chuẩn chung,
đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 10 năm trở lên thì có thể được bổ nhiệm
Chấp hành viên trung cấp hoặc đã có thời gian làm công tác pháp luật từ 15 năm trở
lên thì có thể được bổ nhiệm Chấp hành viên cao cấp.
c) Chấp hành viên đương nhiên được miễn nhiệm trong trường hợp nghỉ hưu
hoặc chuyển công tác đến cơ quan khác.
Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định miễn nhiệm Chấp hành viên trong
các trường hợp: Do hoàn cảnh gia đình hoặc sức khỏe mà xét thấy không thể bảo đảm
hoàn thành nhiệm vụ Chấp hành viên. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ không bảo
đảm thực hiện nhiệm vụ Chấp hành viên hoặc vì lý do khác mà không còn đủ tiêu
chuẩn để làm Chấp hành viên.
d) Chấp hành viên có nhiệm vụ, quyền hạn: Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc
được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền. Thi hành đúng
nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ
tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự,
39
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức
nghề nghiệp Chấp hành viên. Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan để giải quyết việc thi hành án. Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để
xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có
liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án. Quyết
định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án; lập kế
hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án. Yêu cầu cơ quan Công an
tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật. Lập biên bản
về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm
quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm. Quyết định áp dụng biện
pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng quy định
của pháp luật, thu phí thi hành án và các khoản phải nộp khác. Được sử dụng công
cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của Chính phủ và thực hiện nhiệm
vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo
pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo
vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và uy tín.
đ) Chấp hành viên không được làm: Những việc mà pháp luật quy định công
chức không được làm. Tư vấn cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
dẫn đến việc thi hành án trái pháp luật. Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết
vụ việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách
nhiệm thi hành án.
2.2.2. Thực trạng quy định của pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự
2.2.2.1. Thủ tục thi hành án dân sự
Được quy định tại Chương III, từ Điều 26 đến Điều 65, Chương này có nhiều
nội dung mới, quan trọng.
40
Hướng dẫn quyền yêu cầu thi hành án dân sự, cấp và chuyển giao, nhận
bản án, quyết định. Điểm mới trong quy định về hướng dẫn quyền yêu cầu thi hành
án là khi ra bản án, quyết định, Toà án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài
thương mại phải giải thích cho đương sự, đồng thời ghi rõ trong bản án, quyết định
về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án.
Thời hiệu yêu cầu thi hành án
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 quy định thời hiệu yêu cầu thi hành
án là ba năm. Thực tiễn thi hành án dân sự thời gian qua cho thấy quy định thời hiệu
này là ngắn, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự. Vì vậy, Luật thi
hành án dân sự 2008 được (sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã quy định thời hiệu yêu cầu
thi hành án là năm năm
Thủ tục gửi và nhận đơn yêu cầu thi hành án
Người yêu cầu thi hành án tự mình hoặc uỷ quyền cho người khác yêu cầu thi
hành án bằng hình thức nộp đơn hoặc trực tiếp trình bày bằng lời nói tại cơ quan thi
hành án dân sự hoặc gửi đơn qua bưu điện. Ngày gửi đơn yêu cầu thi hành án được
tính từ ngày người yêu cầu thi hành án nộp đơn hoặc trình bày trực tiếp tại cơ quan
thi hành án dân sự hoặc ngày có dấu bưu điện nơi gửi. Khi nhận đơn yêu cầu thi hành
án, cơ quan thi hành án dân sự phải kiểm tra nội dung đơn và các tài liệu kèm theo,
vào sổ nhận đơn yêu cầu thi hành án và cấp giấy biên nhận cho người nộp đơn. Cơ
quan thi hành án dân sự từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án trong trường hợp người
yêu cầu thi hành án không có quyền yêu cầu thi hành án hoặc nội dung đơn yêu cầu
thi hành án không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định; cơ quan thi hành
án dân sự được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án hoặc hết thời hiệu yêu cầu
thi hành án. Tuy nhiên, cơ quan thi hành án dân sự từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành
án phải thông báo bằng văn bản cho người nộp đơn yêu cầu thi hành án.
Ra quyết định thi hành án và thu hồi, sửa đổi, bổ sung, huỷ quyết định về
thi hành án
a) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự chủ động ra quyết định thi hành đối
với phần bản án, quyết về hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án
41
phí; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ
vật chứng, tài sản; thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà
nước và quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định,
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án. Trong thời hạn
24 giờ, kể từ khi nhận được quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do Toà
án chuyển giao hoặc do đương sự giao trực tiếp, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự phải ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành.
Ngoài các trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự chỉ ra quyết định thi hành án khi có đơn yêu cầu thi hành án. Thời
hạn ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được đơn yêu cầu thi hành án.
Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định thi hành án, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành
quyết định thi hành án đó.
b) Người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án ra quyết định thu hồi
quyết định về thi hành án trong các trường hợp quyết định về thi hành án được ban
hành không đúng thẩm quyền; quyết định về thi hành án có sai sót làm thay đổi nội
dung vụ việc; căn cứ ra quyết định về thi hành án không còn và trường hợp tổ chức,
cá nhân được chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án.
Người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án, người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại có quyền ra quyết định sửa đổi, bổ sung hoặc yêu cầu sửa đổi, bổ
sung quyết định về thi hành án trong trường hợp quyết định về thi hành án có sai sót
mà không làm thay đổi nội dung vụ việc thi hành án.
Người có thẩm quyền ra quyết định về thi hành án, người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại có quyền ra quyết định huỷ hoặc yêu cầu huỷ quyết định về thi hành
án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới, Chấp hành viên thuộc quyền
quản lý trực tiếp trong các trường hợp phát hiện các trường hợp quy định tại các
khoản 1 và khoản 2 Điều này mà Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới,
42
Chấp hành viên thuộc quyền quản lý trực tiếp không tự khắc phục sau khi có yêu cầu
và quyết định về thi hành án có vi phạm pháp luật theo kết luận của cơ quan có thẩm
quyền.
Xác minh điều kiện thi hành án: Luật thi hành án dân sự quy định về xác
định điều kiện thi hành án theo hướng nâng cao trách nhiệm của người được thi hành
án trong việc chứng minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Theo đó,
trường hợp chủ động ra quyết định thi hành án, Chấp hành viên phải tiến hành xác
minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án.
Trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu, nếu người được thi hành án đã áp
dụng các biện pháp cần thiết mà không thể tự xác minh được điều kiện thi hành án
của người phải thi hành án thì có thể yêu cầu Chấp hành viên tiến hành xác minh.
Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản và phải ghi rõ các biện pháp đã được
áp dụng nhưng không có kết quả, kèm theo tài liệu chứng minh.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định thi hành án hoặc
kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh của người được thi hành án, Chấp hành viên
phải tiến hành việc xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời thì phải xác minh ngay.
Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng tổ dân
phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh.
Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác minh.
Thời hạn tự nguyện thi hành án
Trước đây, theo Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004, thì căn cứ vào quyết
định thi hành án, Chấp hành viên định cho người phải thi hành án thời hạn không quá
30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định thi hành án để tự nguyện thi hành.
Luật thi hành án dân sự quy định thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày,
kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định
thi hành án. Trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành vi tẩu tán, huỷ
hoại tài sản hoặc trốn tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên có quyền áp dụng
ngay các biện pháp bảo đảm hoặc cưỡng chế thi hành án.
43
Trong thực tế thì chính sách pháp luật thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh
cũng đã đề ra một số phương hướng những chủ trương về chính sách pháp luật thi
hành án dân sự. Đầu tiên là thực hiện tốt những đề án quan trọng của tỉnh ủy Quảng
Ninh về đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác triển khai, học tập, quán
triệt nghị quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, việc học tập nghiên cứu nghị
quyết của Đảng trên địa bàn tỉnh ngày càng đổi mới, chất lượng được nâng lên trong
hoạt động về chính sách pháp luật về thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh. Cấp ủy
các cấp chú trọng trong việc xây dựng chương trình hành động thực hiện nghị quyết
cụ thể, hiệu quả và thiết thực. Đội ngũ cán bộ được đào tạo cơ bản, trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, có những phương pháp dạy cụ thể nhằm đạt được hiệu quả trong
công tác chính sách pháp luật thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Những kết quả đó đã góp phần nâng cao nhận thức cho Cán bộ, Đảng viên và nhân
dân, tạo sự đồng thuận, thống nhất trong Đảng, trong xã hội, củng cố niềm tin vào sự
lãnh đạo của Đảng. các tổ chức đảng và đảng viên trưởng thành nhiều mặt, phẩm chất
chính trị, tư duy lý luận, năng lực lãnh đạo và công tác vận động quần chúng được
nâng lên, góp phần thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chính trị ở địa phương, đơn vị.
Đầu năm UBND tỉnh Quảng Ninh và tỉnh ủy luôn ban hành chủ trương, đường
lối thông qua việc xây dựng kế hoạch chính sách pháp luật thi hành án dân sự tại tỉnh
Quảng Ninh, qua đó, đã hình thành các quy định nhằm đảm bảo cho kế hoạch chính
sách pháp luật thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh để đạt được những kết quả
quan trọng nhất.
Như vậy, nhìn chung việc ban hành chủ trương, chính sách đối với vấn đề này
là vô cùng quan trọng hiệu quả. Thông qua chính sách pháp luật thi hành án dân sự
tại tỉnh Quảng Ninh, cung cấp thông tin, tạo sự thống nhất về ý chí và hành động
trong toàn đảng, toàn dân và toàn quân; tăng cường đấu tranh với các quan điểm sai
trái, thù địch, các biểu hiện lệch lạc trong nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo
trong quá trình áp dụng trong thực tế.
2.2.2.2. Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự
Hiện nay, các biện pháp bảo đảm thi hành án bao gồm:
44
- Phong toả tài khoản: Việc phong toả tài khoản được thực hiện trong trường
hợp cần ngăn chặn việc tẩu tán tiền trong tài khoản của người phải thi hành án. Khi
tiến hành phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải giao quyết định phong toả tài
khoản cho cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản của người phải thi hành án. Cơ
quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải thực hiện ngay quyết định của Chấp hành
viên về phong toả tài khoản. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết
định phong toả tài khoản, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng chế.
- Tạm giữ tài sản, giấy tờ: Chấp hành viên đang thực hiện nhiệm vụ thi hành
án có quyền tạm giữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ để tạm giữ tài sản,
giấy tờ mà đương sự đang quản lý, sử dụng. Việc tạm giữ tài sản, giấy tờ phải lập
biên bản có chữ ký của Chấp hành viên và đương sự. Trường hợp đương sự không
ký thì phải có chữ ký của người làm chứng. Biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ phải
được giao cho đương sự. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tạm giữ tài sản, giấy tờ,
Chấp hành viên ra một trong các quyết định sau đây: Áp dụng biện pháp cưỡng chế
thi hành án nếu xác định được tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc sở hữu của người phải
thi hành án; trả lại tài sản, giấy tờ tạm giữ cho đương sự trong trường hợp đương sự
chứng minh tài sản, giấy tờ tạm giữ không thuộc quyền sở hữu của người phải thi
hành án.
Trong thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến 2018 như sau: năm 2015 là 124 vụ; năm 2016 là
132 vụ; năm 2017 là 141 vụ, năm 2018 là 156 vụ.
Nhìn chung qua các số liệu trên cho thấy tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện nghiêm
túc và đầy đủ quy định về biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự trên địa bàn qua các
năm trong giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2018. Trình tự, thủ tục áp dụng các biện
pháp bảo đảm thi hành án được quy định trong Luật thi hành án dân sự nhanh chóng
về thời gian, đơn giản về thủ tục tạo thuận lợi cho Chấp hành viên có thể thực hiện
ngay việc phong tỏa tài sản hay tạm giữ tài sản. Kịp thời ngăn chặn hành vi hủy hoại
tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, đảm bảo cho cơ quan thi hành án áp dụng các
biện pháp cưỡng chế để thi hành án trong những trường hợp người phải thi hành án
45
không tự nguyện thi hành án. Mặc dù mức độ tác động của biện pháp bảo đảm thi
hành án không mạnh như biện pháp cưỡng chế nhưng tính chất đe dọa sẽ ảnh hưởng
đến uy tín, quyền tài sản, gây áp lực tâm lý của người phải thi hành án, làm cho người
phải thi hành án tự nguyện thi hành giúp cho quá trình thi hành án diễn ra nhanh
chóng, thuận lợi. Việc giả quyết nhanh gọn, đạt hiệu quả các việc thi hành án thực sự
mang ý nghĩa to lớn, tiết kiệm được thời gian, chi phí, công sức; góp phần ổn định
quan hệ xã hội, đồng thời nâng cao ý thức pháp luật của đương sự.
2.2.2.3. Cưỡng chế thi hành án dân sự
Các biện pháp cưỡng chế thi hành án gồm có 6 loại sau đây: Khấu trừ tiền
trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án. Trừ vào
thu nhập của người phải thi hành án. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành
án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ. Khai thác tài sản của người phải thi hành
án. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. Buộc người phải thi
hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định. Trước khi tiến
hành cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên phải lập kế hoạch cưỡng chế, trừ trường
hợp phải cưỡng chế ngay. Kế hoạch cưỡng chế thi hành án bao gồm các nội dung
chính sau đây: Biện pháp cưỡng chế cần áp dụng; thời gian, địa điểm cưỡng chế;
phương án tiến hành cưỡng chế; yêu cầu về lực lượng tham gia và bảo vệ cưỡng chế
và dự trù chi phí cưỡng chế.
Đa phần, các tổ chức, cá nhân có liên quan đều chủ động tuân thủ các quy định
về pháp luật cưỡng chế thi hành án dân sự cũng như tuân thủ việc thực hiện hoạt động
cường chế thi hành án dân sự... Phần lớn các chủ thể trong quan hệ pháp luật đã chủ động
tiếp cận, phối hợp và có sự đầu tư trong việc thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự. Tính đến thời điểm cuối năm 2017 thì việc cưỡng chế thi hành án dân sự đối
với các tổ chức, cá nhân đã có nhiều chuyển biến lớn.
Trong thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh từ năm 2014 đến 2018 như sau: năm 2014 là 301 vụ; năm 2015 là
345 vụ; năm 2016 là 358 vụ; năm 2017 là 361 vụ; năm 2018 là 378 vụ.
Từ số liệu những vụ cưỡng chế thi hành án dân sự từ năm 2014 đến 2018 cho
46
thấy việc áp dụng có hiệu quả quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được
sửa đổi, bổ sung 2014) trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong
giai đoạn hiện nay.
2.2.3. Thực trạng quy định về khiếu nại và tố cáo, kháng nghị về thi hành án dân sự
2.2.3.1. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án dân sự
Được quy định tại điều 142, điều 157 và điều 160 Luật THADS 2008 (được
sửa đổi bổ sung năm 2014).
Việc thực hiện quy định và đảm bảo hoạt động khiếu nại, tố cáo, kháng nghị
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã được thực hiện nghiêm túc. Về tổng thể, công tác
này phải được đặt ra là công việc thường xuyên, được quan tâm đặc biệt, có như vậy
mới thực sự mang lại hiệu quả.
Thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến năm 2018 tổng số vụ thụ lý khiếu
nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án dân sự là 157 vụ. Đến nay đã giải quyết xong.
Từ kết quả trên cho thấy công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về
thi hành án dân sự đã và đang được quan tâm, khẳng định vai trò của công tác giải
quyết KNTC của THADS tỉnh Quảng Ninh. Từ đó, gắn với nhiệm vụ chính trị trong
giai đoạn mới, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý trong thực
tiễn về hoạt động này trên thực tế.
2.2.3.2. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án
dân sự
Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án dân
sự được thực hiện theo quy định của Luật khiếu nại 2011 và Luật tố cáo 2018 và các
văn bản hướng dẫn thi hành.
Theo khoản 1 Điều 160 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014“
Viện kiểm sát kháng nghị đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới
theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân” đồng thời, khoản 2 Điều 12
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 đã có sự bổ sung theo hướng rõ
47
ràng, cụ thể hơn so với Luật Thi hành án dân sự năm 2008, theo đó, một trong những
nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong thi hành án dân sự là: “Kháng
nghị hành vi, quyết định của Thủ trưởng, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự
cùng cấp, cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; yêu cầu đình chỉ việc
thi hành, thu hồi, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong
việc thi hành án, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật”.
2.2.3.3. Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án
dân sự
Người bị khiếu nại tố cáo, bị kháng nghị có quyền thực hiện theo quy định của
Luật Khiếu nại, Luật tố cáo, Luật Thi hành án dân sự và các băn bản hướng dẫn thi
hành được thực hiện nghiêm túc và được thực hiện nghiêm túc thông qua hoạt động
quy định quán triệt các văn bản này cho cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh trong thời gian qua.
2.2.3.4. Trình tự giải quyết khiếu nại, tố cáo, kháng nghị về thi hành án dân sự
Luật thi hành án dân sự quy định về khiếu nại và giải quyết khiếu nại về thi
hành án dân sự, trong đó có nhiều điểm đổi mới.
* Thời hiệu khiếu nại về thi hành án được phân chia cụ thể hơn, với những
giải đoạn của quá trình thi hành án như sau:
- Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng biện pháp bảo
đảm, biện pháp cưỡng chế là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết
được hành vi đó.
- Đối với quyết định về áp dụng biện pháp phong toả tài khoản là 03 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được quyết định.
Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm khác là 10 ngày,
kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày, kể
từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
48
- Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày,
kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó.
Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà người
khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hạn thì thời gian có
trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hạn khiếu nại.
Lần khiếu nại tiếp theo, thời hiệu là 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định
giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền.
* Thời hạn giải quyết khiếu nại theo từng loại hành vi khác nhau, như sau:
- Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng biện pháp bảo
đảm, biện pháp cưỡng chế, thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần
hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp phong toả tài khoản thì
thời hạn giải quyết khiếu nại là 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế là 30 ngày thì
thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày, lần hai là 45 ngày, kể từ ngày thụ lý
đơn khiếu nại.
Trường hợp cần thiết, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp thì thời hạn
giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn
giải quyết khiếu nại.
- Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thì thời
hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý
đơn khiếu nại.
* Trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự như sau:
Người khiếu nại gửi đơn khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng
cơ quan THADS cấp huyện, quyết định, hành vi trái pháp luật của Chấp hành viên
thuộc quyền quản lý của Cục THADS cấp tỉnh hoặc Phòng THA cấp quân khu nếu
có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của mình và các tài liệu liên quan( nếu có) tới Cục THADS cấp tỉnh hoặc
49
Phòng THA cấp quân khu.
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, công chức
nghiên cứu nội dung đơn khiếu nại, đề xuất người có thẩm quyền xử lý theo quy định
tại Điều 8 Thông tư số 02/2016/TT-BTP.
- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại lần
đầu, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải vào sổ thụ lý để giải quyết và
Thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại. Công chức được phân công có nhiệm
vụ lập hồ sơ giải quyết khiếu nại theo quy định của Luật thi hành án dân sự và Luật
Khiếu nại. Đối với đơn khiếu nại thuộc trường hợp không phải thụ lý để giải quyết
thì cơ quan nhận được đơn không có trách nhiệm thụ lý nhưng có văn bản chỉ dẫn,
trả lời người khiếu nại trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn.
- Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày Thông báo thụ lý, người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần đầu yêu cầu người bị khiếu nại báo cáo giải trình bằng
văn bản, cung cấp hồ sơ vụ việc. Thời hạn thực hiện báo cáo giải trình, cung cấp hồ
sơ, tài liệu theo quy định tại Điều 9 Thông tư số 02/2016/TT-BTP.
- Sau khi thụ lý đơn khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiến
hành xác minh, yêu cầu người bị khiếu nại giải trình, trong trường hợp cần thiết, có
thể trưng cầu giám định hoặc tổ chức đối thoại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu
của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại.
- Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra quyết định giải quyết khiếu nại
đối với khiếu nại thuộc thẩm quyền.
- Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định giải quyết khiếu
nại, quyết định phải được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, người khiếu nại,
người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan.
2.2.4. Thực trạng quy định về xứ lý vi phạm trong thi hành án dân sự
2.2.4.1. Hành vi vi phạm trong thi hành án dân sự
* Vi phạm việc theo dõi thi hành án
* Vi phạm việc lập hồ sơ thi hành án
50
* Việc ra các quyết định về thi hành án và thông báo thi hành án
* Việc xác minh điều kiện thi hành án
* Việc phân loại án
* Việc tổ chức thi hành án thiếu tích cực, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan tổ chức và của Nhà nước
* Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
* Việc thu chi tiền thi hành án, nghiệp vụ kế toán
* Việc thu phí thi hành án: Cơ quan Thi hành án dân sự địa phương vi phạm
trong lĩnh vực này chủ yếu là những vi phạm sau: Thu phí bán đấu giá không đúng
quy định; Thu phí thi hành án đối với trường hợp không phải chịu phí thi hành án.
* Vi phạm việc bảo quản tài sản thi hành án và xử lý vật chứng
* Việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
2.2.4.2. Thẩm quyền xử lý vi phạm trong thi hành án dân sự
Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự của từng chủ thể
Để thực hiện xử lý vi phạm hành chính đúng thì phải xác đinh đúng thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự. Thẩm quyền xử phạt vi
phạm hành chính trong thi hành án dân sự được trao cho nhiều người, như: Chánh
Thanh tra Bộ Tư pháp, Trường Đoàn Thanh tra Bộ Tư pháp, Thanh tra viên Bộ Tư
pháp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự, Chấp hành viên. Do đó, phải căn cứ từng trường hợp cụ thể để xác định thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính trong thi hành án dân sự.
Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh từ năm 2015 đến năm 2018 đã xử lý
23 trường hợp vi phạm.
2.2.4.3. Hình thức xử lý vi phạm trong thi hành án dân sự
* Hình thức xử lý vi phạm hành chính: Theo quy định của Luật xử phạt vi
phạm hành chính và văn bản hướng dẫn thi hành
* Hình thức xử lý vi phạm bằng hình sự: Theo quy định của BLHS 2015 và
văn bản hướng dẫn thi hành
51
* Hình thức xử lý bằng hình thức kỷ luật: Luật cán bộ, công chức.
2.3. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về thi hành
án dân sự ở Việt Nam và thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh
2.3.1. Yếu tố khách quan
* Đường lối chính sách của Đảng về pháp luật thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tố tụng nói chung và
quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Đây là công đoạn cuối cùng của hoạt động tố
tụng, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án được chấp hành nghiêm chỉnh, góp
phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân và Nhà nước, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội,
tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Điều này đã được thể hiện rõ
ràng tại Cục THADS tỉnh Quảng Ninh đã khẳng định, vai trò của công tác THADS
được nâng lên rõ rệt; công tác THADS nhận được sự quan tâm hơn của cấp ủy, chính
quyền địa phương thông qua việc các cơ quan THADS có trách nhiệm trực tiếp báo
cáo công tác THADS trước Hội đồng nhân dân cùng cấp; hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật cơ bản đã đầy đủ (06
Nghị định của Chính phủ, 06 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 20 thông tư, 15
thông tư liên tịch...); việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác THADS
theo quy định của Luật cơ bản đã được hoàn thành; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc
của các cơ quan THADS đã được cải thiện một bước, việc xây dựng trụ sở, kho vật
chứng các cơ quan THADS cũng đã được quan tâm thực hiện, cơ bản hoàn thành ở
cấp tỉnh; công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp ngày càng được tăng cường và
triển khai ngày càng bài bản. Trên cơ sở đó việc thực hiện chủ trương đường lối của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước là nền tảng cơ bản cho hoạt động THADS
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trên thực tế của nước ta trong thời kỳ hội nhập và phát
triển. Cục THADS tỉnh Quảng Ninh và các Chi cục có liên quan đã ban hành các
hướng dẫn về công tác THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian qua.
Đồng thời, hoạt động rút kinh nghiệm của Cục THADS tỉnh Quảng Ninh đã chỉ ra
những vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật về THADS trong thực tế. Đồng
52
thời, trong những năm qua, Cơ quan THADS các cấp đã coi trọng công tác sử dụng
và đánh giá cán bộ, công chức. Việc sử dụng cán bộ thực hiện theo phương châm “vì
việc để xếp người”, bố trí cán bộ, công chức một cách hợp lý trên cơ sở trình độ đào
tạo, năng lực sở trường, cơ cấu độ tuổi để bố trí công tác có hiệu quả đồng thời tạo
cơ hội cho cán bộ, công chức có độ tuổi trẻ để cống hiến và trưởng thành; việc sử
dụng cán bộ, công chức gắn với công tác quy hoạch có chất lượng. Việc thực hiện
công tác đánh giá cán bộ, công chức hàng năm được Cơ quan THADS các cấp thực
hiện theo quy trình.
* Nhu cầu quản lý đất nước hiện nay
Mục tiêu, chiến lược phát triển của đất nước bên cạnh việc phát triển nền kinh
tế thì hoàn thiện các quy định của pháp luật nói chung, THADS nói riêng đã trở thành
một trong những nhu cầu về tăng cường công tác QLNN ở nước ta hiện nay và tác
động mạnh mẽ đến đánh giá các yếu tố về phát triển nền kinh tế. Vấn đề THADS
không phải lúc nào cũng được quan tâm nhưng trên thực tế vấn đề này có nhu cầu rất
quan trọng trong hoạt động về nhu cầu QLNN hiện nay. Chính mục tiêu, chiến lược
quyết định hướng phát triển của đất nước, từ đó đặt ra những yêu cầu cho công việc
trong thời gian tới của hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và kỹ năng,
trình độ nguồn nhân lực cần có, sẽ quyết định hình thức đào tạo, phương pháp đào
tạo, số lượng đi đào tạo nhiều hay ít, bộ phận nào có người đi đào tạo, kinh phí đào
tạo,… Chúng ta muốn làm một cái gì đó cũng cần có kinh phí, do đó công tác này
cũng chịu ảnh hưởng của yếu tố tài chính, nếu kinh phí cho công tác THADS mà
nhiều thì các chương trình đào tạo được tiến hành thuận lợi hơn có thể đem lại kết
quả cao. Trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, cục THADS đã đề ra chiến lược nhằm đảm
bảo cho quá trình thực thi THADS trong thực tế.
* Yếu tố văn hóa - xã hội
Văn hóa xã hội đóng vai trò quan trọng vì đó là một trong những yếu tố quyết
định quá trình phát triển và thực hiện nghiêm túc các quy định về THADS hiện tại.
Yếu tố này quan trọng văn hóa - xã hội trong hoạt động lãnh đạo hay những vị trí chủ
chốt sẽ gặp khó khăn trong việc đa dạng hoá nền văn hoá và ngược lại nó sẽ làm thu
53
hẹp phạm vi áp dụng quy định về THADS trên thực tế. Chẳng hạn, nếu văn hóa - xã
hội để thực hiện cho hoạt động áp dụng các quy định trong hoạt động THADS trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh trên thực tế. Có nhiều cách để kéo gần khoảng cách giữa
môi trường văn hóa hiện tại của không phải quá khó khăn hay tốn kém. Tất cả những
gì cần làm để phát triển một môi trường văn hóa phù hợp là sẵn sàng quan sát và lắng
nghe, một chút sáng tạo, và cởi mở trước những ý tưởng mới.
*Bối cảnh hội nhập quốc tế
Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nói đang diễn ra ngày càng sâu
rộng và đi vào thực chất, liên tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu
hiện. Chúng tác động đến không chỉ ở phạm vi quốc gia, các cơ quan nhà nước mà
còn các doanh nghiệp và thậm chí cả mỗi một cá nhân. Trong những năm qua, cùng
với quá trình tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ban hành nhiều chính
sách, pháp luật tạo cơ chế thông thoáng để thu hút nguồn lực từ bên ngoài, đồng thời
có các giải pháp để cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia. Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, định
hướng xã hội chủ nghĩa khẳng định, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà
chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện là nền kinh tế hiện đại và hội nhập quốc tế; có
môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, mức độ minh bạch, ổn định cao; quyền
tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản được tôn trọng và bảo vệ hiệu quả, phù hợp
với thông lệ, nguyên tắc và chuẩn mực quốc tế. Cũng tại Nghị quyết này, thi hành án
dân sự được xác định là một trong các hoạt động, lĩnh vực cần tập trung triển khai
thực hiện nhằm góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Cùng với Nghị
quyết số 11-NQ/TW của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa XII, liên tục từ năm
2014 đến nay, hàng năm Chính phủ đều ban hành Nghị quyết về thực hiện những
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia( từ năm 2014 đến năm 2018 có chung số Nghị quyết 19/NQ-CP, riêng
năm 2019 là Nghị quyết số 02/NQ-CP). Tại tỉnh Quảng Ninh đã thể hiện rõ quyết
tâm không ngừng nỗ lực cải thiện các chỉ số nói trên để tạo ra một môi trường kinh
doanh năng động, bình đẳng, hiệu quả. Trong thực tiễn pháp luật, dù được nhìn nhận
54
dưới góc độ pháp luật quốc gia hay pháp luật quốc tế thì vai trò của công tác thi hành
án dân sự luôn được đề cao và coi trọng không chỉ như một trong những biện pháp
đảm bảo thực thi công lý, hiện thực hóa các phán quyết của Tòa án trong thực tiễn
của cuộc sống mà còn có một vai trò quan trọng trong hội nhập quốc tế.
2.3.2. Yếu tố chủ quan
* Trình độ hiểu biết pháp luật của người dân
Con người là yếu tố cấu thành nên tổ chức do đó tất cả các hoạt động trong tổ
chức đều chịu sử tác động của nhân tố này. Tuỳ từng hoạt động mà con người ảnh
hưởng nhiều hay ít, đối với công tác đào tạo và phát triển thì yếu tố con người ảnh
hưởng mạnh mẽ. Chúng ta đều nhận thấy, con người khác với động vật là biết tư duy,
do đó con người luôn có các nhu cầu khác nhau mà nhu cầu học tập và phát triển của
người lao động ngày càng được chú trọng hơn. Năng lực của chủ thể nhằm tăng cường
hoạt động hiểu biết pháp luật của người dân được hiểu là kiến thức, kỹ năng, sự hiểu
biết về các quy định của pháp luật ở một trình độ nhất định trở lên và phương pháp
truyền đạt tốt giúp người nghe, người học nắm được các quy định của pháp luật. Con
người là yếu tố tác động trực tiếp và thường xuyên đến hoạt động giáo dục pháp luật.
Hiệu quả giáo dục pháp luật tỉ lệ thuận với kiến thức pháp luật, ý thức và năng lực
pháp luật của chủ thể giáo dục pháp luật, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào khả năng
tiếp nhận của đối tượng được giáo dục là học sinh trung học phổ thông. Hoạt động
giáo dục pháp luật sẽ khó đảm bảo nếu nhận thức của các chủ thể giáo dục pháp luật
thấp hoặc đối tượng được giáo dục khó tiếp nhận những kiến thức được giáo dục.Một
yếu tố rất quan trọng của nhóm yếu tố con người tác động đến công tác đào tạo đó là
trình độ của người dân. Trình độ của họ ở mức độ nào, trình độ cao hay thấp, ý thức
học tập, ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm của người lao động như thế nào nó quyết
định đến các phương pháp đào tạo khác nhau, các chương trình và hình thức đào tạo
cho hợp lý với từng đối tượng.
* Trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của người thực thi pháp luật
Trong quá trình tăng cường hoạt động áp dụng pháp luật THADS cũng góp
phần quan trọng không thể tách rời trong hoạt động nói trên. Năng lực, trình độ của
55
đội ngũ cán bộ, môi trường làm việc, trình độ năng lực của các cán bộ, công chức, cơ
sở vật chất là những yếu tố căn bản cho việc tăng cường hoạt động áp dụng pháp luật
THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Môi trường làm việc tốt của cơ quan, người
tiến hành tố tụng trong tăng cường hoạt động áp dụng pháp luật THADS là một trong
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của cán bộ, công chức cũng như
quyết định đến chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong lĩnh
vực này nói riêng và thi hành pháp luật nói chung. Các chỉ tiêu về định lượng nhằm
đánh giá CHV trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã được thực hiện, các chỉ tiêu không
định lượng: Thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo chất lượng và thời gian
quy định là đạt điểm chuẩn của tiêu chí đó; không đảm bảo chất lượng, thời gian quy
định bị trừ điểm theo quy định. Không triển khai thực hiện các nhiệm vụ thuộc lĩnh
vực quản lý của cơ quan, đơn vị hoặc được cấp có thẩm quyền thì tính không hoàn
thành nhiệm vụ. Các chỉ tiêu định lượng: Nếu hoàn thành nhiệm vụ 100% so với kế
hoạch là đạt điểm chuẩn; cứ vượt 1% được công 1 điểm nhưng không quá điểm chuẩn
đó (ví dụ tiêu chí đó điểm chuẩn là 5 điểm thì được cộng tối đa thêm 5 điểm nữa nếu
vượt kế hoạch); không hoàn thành kế hoạch, cứ giảm 1% so với chỉ tiêu kế hoạch bị
trừ 02 điểm (không giới hạn điểm trừ).
Thực tế cho thấy không ít cơ quan, tổ chức, đơn vị có môi trường làm việc,
năng lực trình độ của các cán bộ, công chức không tốt dẫn đến những hậu quả có thể
nhìn thấy được như: chất lượng, hiệu quả làm việc kém; mất đoàn kết; thậm chí cán
bộ, công chức có trình độ, năng lực xin thôi việc hoặc chuyển công tác…Để xây dựng
một môi trường làm việc tốt, mỗi cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhất là đối với người phụ
trách phải xác định đây là một nhiệm vụ cần được ưu tiên hàng đầu song song với
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của từng lĩnh vực nói chung và trong vấn đề tăng
cường hoạt động áp dụng pháp luật THADS nói riêng. Việc bảo đảm điều kiện về cơ
sở vật chất như phòng làm việc, bàn, ghế, điện thoại, máy vi tính… và các văn phòng
phẩm khác phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Tùy theo điều kiện
thực tế của cơ quan, đơn vị để trang bị cho cán bộ, công chức nhưng phải đảm bảo
các yếu tố của một cơ quan, công sở. Ngoài ra, cần thực hiện đào tạo, bồi dưỡng theo
đúng yêu cầu tiêu chuẩn của mỗi chức danh, ngạch, bậc cán bộ, công chức và yêu cầu
56
nhằm phục vụ cho quá trình thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước có trách
nhiệm tăng cường hoạt động áp dụng pháp luật THADS. Quá trình xây dựng môi
trường làm việc cũng như nâng cao chất lượng trình độ cho các cán bộ, công chức
làm công tác trong lĩnh vực này là một trong những nội dung, nhiệm vụ hàng đầu mà
cơ quan, tổ chức hay đơn vị phải quan tâm thực hiện, đáp ứng với yêu cầu công việc,
nhiệm vụ đã được đề ra.
2.4. Đánh giá thực trạng pháp luật về thi hành án dân sự tại Việt Nam
2.4.1. Kết quả đạt được
Sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới ở nước ta với bước ngoặt đánh dấu
là sự thành công của Đại hội Đảng VI năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã ra từng
bước vượt ra khỏi khủng hoảng kinh tế, đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh, tăng
cường cơ sở vật chất và tạo tiền đề cho giai đoạn phát triển mới công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, phấn đấu
đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Và thực
tiễn cho thấy quá trình áp dụng pháp luật về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh đã đạt nhiều thành quả nhất định.
Đa phần, các tổ chức, cá nhân có liên quan đều chủ động tuân thủ các quy định
về pháp luật thực hiện quy định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
cũng như tuân thủ việc thực hiện hoạt động thực hiện quy định về thi hành án dân sự
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.... Phần lớn các chủ thể trong quan hệ pháp luật đã chủ
động tiếp cận, phối hợp và có sự đầu tư trong việc thực hiện pháp luật, thực hiện quy
định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Theo báo cáo đánh giá kết
quả công tác thi hành án dân sự từ năm 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh, cụ thể như sau:
Năm 2014, ngành Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh đã thực hiện đạt và
vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao (thi hành xong 6.583/6.205 việc có điều kiện thi
hành, đạt tỷ lệ 91%, so vói chỉ tiêu được giao vượt 3%; thi hành giải quyết xong được
252.392.802.000 đồng/297.033.313.000 đồng tiền có điều kiện thi hành, đạt tỷ lệ 85%
so với chỉ tiêu được giao vượt 8%; số việc tồn chuyển kỳ sau giảm 378 việc so với
57
năm 2013 chuyển sang năm 2014, giảm 12% so với chỉ tiêu được giao vượt 5%). Tuy
nhiên, số tiền có điều kiện thi hành chiếm tỷ lệ thấp trong tổng số tiền phải thi hành;
số tiền tồn chuyển sang năm 2015 còn nhiều.
- Năm 2015, về việc đã giải quyết xong trong số có điều kiện là 6.609 việc,
đạt tỷ lệ 89,8% (so với chỉ tiêu được Quốc hội giao, vượt 1,8%). So với cùng kỳ năm
2014, tăng 26 việc( 0,4%). Số việc chuyển kỳ sau là 2.864 việc, tăng 03 việc (0,1%)
so với số việc còn phải giải quyết của năm 2014 chuyển sang năm 2015; Về tiền đã
giải quyết xong trong số tiền có điều kiện là 407.783.449.000 đồng, đạt tỷ lệ 89,9%
(so với chỉ tiêu Quốc hội giao, vượt 12,9%). So với cùng kỳ năm 2014, tăng
155.309.647 đồng (61,6%). Số tiền chuyển kỳ sau là 662.041.521.000 đồng, tăng
206.791.643.000 đồng( 45,4%) so với số tiền còn phải giải quyết năm 2014 chuyển
sang năm 2015.
- Năm 2016, về việc đã giải quyết xong trong số có điều kiện là 6.709 việc,
đạt tỷ lệ 79,76% (so với chỉ tiêu Bộ tư pháp giao năm 2016, vượt 9,76%). So với năm
2015 tăng 100 việc (1,5%); Về tiền đã giửi quyết xong trong số tiền có điều kiện là
278.054.730.000 đồng, đạt tỷ lệ 37,6% (so với chỉ tiêu Bộ Tư pháp giao năm 2016,
vượt 7,6%). So với năm 2015 giảm 92.553.883.000 đồng (25%)
- Năm 2017, về việc đạt 80,6% (So với chỉ tiêu Bộ Tư pháp giao naqm 2017
vượt 10,6%, so với chỉ tiêu Tổng cục thi hành án dân sự giao vượt 7,6%); Về tiền đạt
44,1% (So với chỉ tiêu Bộ Tư pháp giao năm 2017 vượt 14,1% so với Tổng cục thi
hành án dân sự giao vượt 11,1%). Số chuyển kỳ sau: việc giảm 8,9%, về tiền giảm
6,2% trên số việc, tiền có điều kiện so với năm 2016 chuyển sang.
- Năm 2018, về việc đạt 82,63% (So với chỉ tiêu Bộ Tư pháp vượt 10,63%, so
với chỉ tiêu Tổng cục thi hành án dân sự giao vượt 9,63% năm 2018); Về tiền đạt
39,12% (So với chỉ tiêu Bộ Tư pháp giao vượt 7,12% so với Tổng cục thi hành án
giao vượt 7, 12%); giảm việc, tiền có điều kiện chuyển sang năm 2019 là giảm 0,
06% về việc và 14,95% về tiền (giảm tiền vượt 11,95%) so với năm 2017 chuyển
sang năm 2018 (Bộ Tư pháp giao năm 2018 giảm ít nhất 3% về việc và 3% về tiền)
Để đạt được kết quả như trên thì Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh đã
58
triển khai nhiều biện pháp để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, tập trung quán triệt
và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội, Chị thị,
Nghị quyết của Chính phủ, Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự và của tỉnh về
công tác thi hành án dân sự.
Công tác thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính được siết chặt; công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong
thi hành án dân sự được quan tâm, chú trọng; việc xây dựng nếp sống văn hóa, văn
minh được tăng cường; các mặt công tác khác cũng được chỉ đạo và triển khai thực
hiện tốt. Qua kết quả đã đạt được, đã góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội của tỉnh Quảng Ninh.
Thực tiễn thi hành pháp luật về thực hiện quy định về thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã thu được nhiều kết quả không nhỏ, cụ thể là:
Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về thực hiện quy định về thi hành
án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cũng như áp dụng có hiệu quả trong thực tiễn
tại địa phương trong những năm vừa qua. Những văn bản điều chỉnh những hành vi
vi phạm pháp luật về thực hiện quy định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh cũng như các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh Quảng Ninh được xem là kim chỉ
nam cho các hoạt động thực hiện quy định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh . Việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật dựa trên nền tảng là quy
định của Hiến pháp và pháp luật là việc làm cần thiết. Đây thực sự là sự cố gắng lớn
của các cơ quan, đơn vị trong quá trình áp dụng những quy định về thực hiện quy
định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cũng như các cấp, ban ngành
trên địa bàn UBND tỉnh Quảng Ninh trong những năm trở lại đây.
Cùng với sự ra đời và áp dụng vào thực tiễn pháp luật về thực hiện quy định
về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tăng cường công tác kiểm tra,
thanh tra trong lĩnh vực THADS đã góp phần hình thành các cơ quan nhà nước về
quản lý và thực thi pháp luật về lĩnh vực này. UBND tỉnh Quảng Ninh hằng năm có
nhiệm vụ quản lý và báo cáo tình hình lên cơ quan cấp trên. Sự ra đời của các cơ quan
chuyên trách nói trên đã góp phần quan trọng trong việc đưa các văn bản pháp luật
về thực hiện quy định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh áp dụng
59
vào thực tiễn tại địa phương nói riêng và cả nước nói chung trong thời gian qua. Tiếp
tục công tác học tập và tích lũy kinh nghiệm cũng như tăng cường hoạt động phối kết
hợp với các cơ quan chức năng như Cơ quan tư pháp trong công tác thực hiện quy
định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trên địa bàn trong giai đoạn
hiện nay.
Ngoài ra các văn bản pháp luật điều chỉnh về lĩnh vực thực hiện quy định về
thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh góp phần quan trọng trong việc hoàn
thiện cơ bản hệ thống pháp luật về THADS ở Việt Nam. Vì thế việc xây dựng hệ
thống văn bản pháp luật về thực hiện quy định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh là việc làm cần thiết. Pháp luật Việt Nam quy định về thực hiện quy định
về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được thể hiện trong các văn bản
về THADS và một số văn bản hướng dẫn là kết quả của việc làm này. Đây thực sự là
sự cố gắng lớn lao của các cơ quan, đơn vị trong quá trình áp dụng những quy định
của thực hiện quy định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh vào hoàn
cảnh thực tiễn ở trong hoạt động của CCTHADS. Góp phần hoàn thiện hơn hệ thống
pháp luật về THADS của Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa.
Cơ chế quản lý và thực thi pháp luật về thực hiện quy định về thi hành án dân
sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh . Theo quy định tại Hiến pháp 2013 theo quy định
tại Điều 54. Đồng thời, thành lập và quy định tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn cụ thể của cơ quan quản lý về THADS và các đơn vị trực thuộc
Ngoài ra, việc tuyên truyền pháp luật về THADS nói chung và thực hiện quy
định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ở nước ta đã được phổ biến
đến tận từng các nhân, tổ chức trong và ngoài nước góp phần đưa pháp luật về thực
hiện quy định về thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đưa vào áp dụng
một cách có hiệu quả nhất.
Bên cạnh đó, nhằm hoàn thiện về pháp luật thực hiện quy định về thi hành án
dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng thì các cơ quan chức năng đã tổ chức
lấy ý kiến thông qua những buổi tọa đàm về pháp luật thực hiện quy định về thi hành
án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh . Thông qua đó đã phần nào đã chỉ ra những
60
khó khăn, hạn chế của pháp luật về thực hiện quy định về thi hành án dân sự trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.4.2. Các mặt hạn chế
- Thứ nhất, Luật THADS chưa xác định hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh là hoạt động tố tụng, là khâu cuối cùng thực hiện kết quả hoạt động của
quyền tư pháp, do đó, có sự cắt khúc, tách rời giữa hoạt động xét xử với hoạt động
thi hành án. Trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án đối với việc thi hành các bản án,
quyết định của mình còn hạn chế, nhất là việc giải quyết những hệ quả, vướng mắc
trong trường hợp kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án hay
của Viện kiểm sát dẫn đến thay đổi nội dung các bản án đã có hiệu lực đang được thi
hành hoặc đã thi hành xong; trách nhiệm theo dõi, thống kê việc thi hành các bản án,
quyết định cũng chưa được Tòa án quan tâm thực hiện; thẩm quyền kiểm sát, thanh
tra đối với công tác THADS chưa được phân định rõ ràng.
- Thứ hai, một số quy định về quyền, trách nhiệm của các bên trong thi hành
án còn bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn, đặc biệt là việc Luật quy định người được
thi hành án có trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án, gây khó khăn cho người
được thi hành án, nhất là việc xác minh tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức tín
dụng. Bên cạnh đó việc quy định trong trường hợp người được thi hành án yêu cầu
Chấp hành viên tiến hành xác minh thì phải chịu chi phí, gây tốn kém cho người dân.
- Thứ ba, một số quy định của Luật THADS về trình tự, thủ tục thi hành án
còn bất cập, thiếu thống nhất, chưa đồng bộ với pháp luật có liên quan trong các lĩnh
vực đất đai, nhà ở, tài chính, ngân hàng, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính..., nhất là
các quy định về kê biên, phong tỏa tài khoản thi hành án, đấu giá tài sản thi hành án,
xử lý tài sản thi hành án trong trường hợp là tài sản cầm cố, thế chấp; chưa quy định
chặt chẽ về xử lý tài sản thi hành án không có người tham gia đấu giá, trả trả, bán đấu
giá không thành.
- Thứ tư, Luật THADS đã có quy định về miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối
với khoản thu nộp ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, quy định này còn chưa sát với
thực tiễn, nhất là đối với số án tồn trước 01/7/2009, trong đó có những việc mà các
61
cơ quan THADS đã thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục và áp dụng các biện pháp
cần thiết theo quy định của pháp luật để tổ chức thi hành trong nhiều năm nhưng
không có kết quả dẫn đến tốn kém công sức, kinh phí từ ngân sách nhà nước và những
khoản thu đối với người đã bị kết án về hành vi phạm tội trước đây, nhưng nay hành
vi phạm tội này đã được miễn chấp hành hình phạt theo Nghị quyết số 32/1999/QH10
ngày 21 tháng 12 năm 1999 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật hình sự và Nghị
quyết số 33/2009/QH12 ngày 19/6/2009 của Quốc hội về việc thi hành Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự. Để khắc phục tình trạng này, Chính phủ đã
xây dựng Đề án về việc miễn thi hành án đối với một số khoản thu cho ngân sách nhà
nước không có điều kiện thi hành để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội.
Tuy nhiên, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã có ý kiến cần đưa vấn đề này vào nội dung
sửa đổi, bổ sung Luật THADS để tạo điều kiện cho việc xét miễn, giảm thi hành án
có căn cứ luật định.
- Thứ năm, việc xác định trách nhiệm của chính quyền địa phương trong phối
hợp thực hiện một số nhiệm vụ công tác THADS trên địa bàn còn chưa cụ thể.
Để khắc phục nguyên nhân gây ra những bất cập, hạn chế như đã báo cáo ở
trên, bảo đảm thực hiện nghiêm quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó, bản án,
quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành,
đồng thời thực hiện Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị liên quan đến quản lý
công tác thi hành án theo hướng tăng cường trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án nhân
dân và Ủy ban nhân dân địa phương trong công tác THADS, việc sửa đổi, bổ sung
Luật THADS là rất cần thiết.
2.4.3. Nguyên nhân
- Nguyên nhân của những vướng mắc trong việc áp dụng các quy định về
THADS của cơ quan THADS do hệ thống các quy định pháp luật về công tác thực
hiện quy định về THADS chưa thật sự chặt chẽ và hoàn thiện. Xuất phát những hạn
chế trong hệ thống pháp luật ở Việt Nam là do pháp luật về tăng cường hoạt động
QLNN về THADS nói chung ra đời trong bối cảnh chúng ta mặc dù đã có kinh
62
nghiệm trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật nhưng hoạt động về vấn đề này
trong thực tế đã và đang chưa có tính chất dự báo. Việc tiếp thu pháp luật của các
nước tiên tiến trên thế giới vào pháp luật nội địa chưa được chuẩn bị kỹ về mọi mặt
trong quá trình xây dựng và thực hiện. Đồng thời, cũng như cấu trúc hệ thống văn
bản pháp luật trong pháp luật Việt Nam có những khác biệt so với pháp luật các nước.
Kỹ năng lập pháp của nước ta chưa được hoàn thiện đã làm cho việc xây dựng những
quy định trong lĩnh vực này còn gặp nhiều hạn chế.
- Nguyên nhân của việc thực thi các quy định về thi hành án của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh thiếu kinh nghiệm trong việc đấu
tranh với các vụ việc có liên quan đến các công tác thực hiện quy định về THADS.
Quá trình quản lý, kiểm tra giám sát chưa thật sự đạt hiệu quả cao. Cơ quan NN có
thẩm quyền chưa chủ động sử dụng các công cụ chính sách hợp lệ được pháp luật cho
phép để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình. Sự liên kết giữa các cơ quan NN
với nhau trong quá trình thực hiện chưa thật sự được chú trọng. Điều này thể hiện khi
xảy ra các hành vi vi phạm đa phần là do người dân trình báo, chưa chủ động thực
hiện chức năng, nhiệm vụ của mình theo đúng quy định của pháp luật. Đây chính là
một trong những nguyên nhân để xảy ra tình trạng công tác thực hiện quy định về
THADS chưa được hiệu quả trong thực tiễn thi hành.
- Nguyên nhân của tình trạng thực thi quy định về THADS của cơ quan
THADS thực hiện những quy định về công tác thực hiện quy định về THADS còn
nhiều hạn chế. Các lực lượng chưa được cung cấp trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ
thuật cũng như phương tiện đầy đủ để có thể thực hiện tốt các công việc theo yêu cầu.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác hoạt động
áp dụng về công tác thực hiện quy định về THADS còn hạn chế; phương tiện kỹ thuật
phục vụ công tác kiểm tra chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn.
- Nguyên nhân của việc áp dụng quy định về THADS trong quá trình thi hành
bản án, quyết định của TAND do công tác thực hiện quy định về THADS thì cần có
sự liên kết của nhiều cơ quan hữu quan trên thực tế thì rất phức tạp và tốn nhiều thời
gian. Ngoài ra, một số cán bộ chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, kiến thức, năng
63
lực, trình độ còn hạn chế ảnh hưởng đến quá trình thực hiện trong thực tế. Lực lượng
cán bộ chuyên trách còn ít chưa đáp ứng yêu cầu, đơn cử như việc quản lý công tác
thực hiện quy định về THADS chưa đáp ứng với yêu cầu trên thực tế. Vấn đề về
quyền hạn pháp lý chưa thực sự đủ mạnh, nên đã hạn chế hiệu quả hoạt động nắm
tình hình, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các công tác thực hiện quy định về THADS
có sai phạm. Cơ sở pháp lý, chế tài xử phạt đối vừa thiếu, vừa chưa đủ mạnh, dẫn đến
hạn chế tác dụng giáo dục, phòng ngừa, răn đe. Ngoài ra, tình hình kiểm tra, giám sát
hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực hành vi vi phạm pháp luật hoạt
động áp dụng về công tác thực hiện quy định về THADS còn gặp nhiều khó khăn.
Công tác quản lý chưa thật sự hiệu quả, những trường hợp gây nên hậu quả về chưa
được phát hiện nhanh chóng và kịp thời đã gây ra nhiều thiệt hại cho người dân.
- Nguyên nhân của việc kiểm tra, giám sát thực hiện hoạt động áp dụng về
công tác thực hiện quy định về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cả
nước nói chung chưa đạt hiệu quả cao. Chưa quan tâm đúng mức giáo dục các chủ
thể trong hoạt động về THADS. Các cơ quan NN có thẩm quyền chưa quan tâm đúng
mức đối với công tác thực hiện quy định về THADS chưa được tiến hành thường
xuyên. Hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về hoạt động áp dụng về
công tác thực hiện quy định về THADS tại tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cả nước nói
chung trong thực tế chưa được quan tâm đúng mức và còn nhiều hạn chế, thiếu sót.
Từ công tác chỉ đạo điều hành đến việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ
cán bộ chuyên trách còn yếu, tinh thần trách nhiệm trong công tác chưa cao dẫn đến
tình trạng kiểm tra, giám sát tại một số địa phương còn sơ sài. Sau thanh tra, kiểm tra
không tiến hành phúc tra lại các lỗi vi phạm từ đó ảnh hưởng đến quá trình khắc phục
những vi phạm của đơn vị được kiểm tra, làm giảm hiệu quả công tác thi hành pháp
luật về công tác thực hiện quy định về THADS trong thực tế chưa đạt hiệu quả cao.
Tựu chung lại, công tác công tác thực hiện quy định về THADS đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Song song với đó, công tác này còn những hạn chế nhất
định như đã nêu ở trên. Tuy nhiên, việc thực hiện công tác thực hiện quy định về
THADS đã góp phần đảm bảo vụ án được thực hiện quy định về thi hành án dân sự
trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh , khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật;
64
đảm bảo quyền con người, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được
ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác được bảo vệ bảo pháp luật
hình sự tránh khỏi sự xâm phạm của các hành vi phạm tội.
Tiểu kết chương 2
Trong những năm gần đây, các lực lượng chức năng, các cơ quan có thẩm
quyền đã tiến hành các quy định về thực hiện công tác thực hiện quy định về THADS
đối với các tổ chức, cá nhân có xu hướng ngày càng tăng trong giai đoạn hiện nay.
Vấn đề đặt ra là cần phải đảm bảo quản lý, kiểm tra, giám sát thực hiện đạt hiệu quả
theo yêu cầu đề ra, đúng với ý nghĩa và mục đích mà pháp luật về THADS đã ban
hành. Việc thi hành và công tác thực hiện quy định về THADS đã đạt được những
kết quả khả quan, đem lại lợi ích cho xã hội nói chung và cho cộng đồng nói riêng.
Tuy nhiên, trong công tác công tác thực hiện quy định về THADS trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh vẫn còn tồn tại những hạn chế và bất cập trong công tác công tác thực
hiện quy định về THADS . Các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này chưa được
cấp có thẩm quyền triển khai trong quá trình thực hiện pháp luật công tác thực hiện quy
định về THADS. Ở một số địa phương, sự phối hợp giữa các cơ quan có thẩm thẩm
quyền như Uỷ ban nhân dân các cấp, và bản thân các chủ thể chưa thực sự đạt hiệu
quả; công tác quản lý còn lỏng lẻo, chưa thực sự quan tâm tới công tác tuyên truyền và
phổ biến pháp luật đến quần chúng nhân dân. Nguyên nhân là do hệ thống các quy định
pháp luật về xử công tác thực hiện quy định về THADS chưa thật sự chặt chẽ và hoàn
thiện; cơ quan, tổ chức thực hiện kiểm tra, giám sát, xử lý theo quy định của pháp luật
về vấn đề này; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng chưa đồng bộ. Chương 3 dưới
đây tác giả sẽ đưa ra một số phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
thực hiện quy định về THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
65
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI VIỆT NAM
3.1. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự
3.1.1. Giải pháp hoàn thiện vấn đề về thời hạn và cách tính thời hạn
* Căn cứ của giải pháp: Công tác áp dụng pháp luật về THADS trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh đã phát sinh những khó khăn vướng mắc có nguyên nhân bắt nguồn
từ ngừng bất cập về pháp luật THADS. Quá trình thực hiện hoạt động thi hành án dân
sự thì kinh nghiệm của Indonesia trong quá trình thực hiện các giải pháp về THADS
trong thực tiễn ở nước ta.
* Mục tiêu của giải pháp: Hoàn thiện pháp luật về THADS để công tác
THADS đạt kết quả cao. Thông qua việc thực hiện và hoàn thiện pháp luật về thời
hạn THADS sẽ tạo tiền đề cho quá trình áp dụng của pháp luật ở nước ta hiện nay.
Điều luật chưa quy định việc ấn định thời hạn để người được thi hành án có đơn xin
nhận tài sản. Do đó cần ấn định một khoảng thời gian nhất định để cho hoạt động
THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh được thực hiện một cách có hiệu quả và cụ thể.
Theo đó, thời hạn có thể tính theo năm, theo tháng và theo giờ, ví dụ: thời hạn tính
theo năm (trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật,
người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan THADS
có thẩm quyền ra quyết định thi hành án); tính theo tháng (trường hợp người phải thi
hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06 tháng một lần, chấp hành viên
phải xác minh điều kiện thi hành án); thời hạn tính theo ngày(trong thời hạn 10 ngày,
kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành thì chấp hành viên tiến hành xác minh); thời hạn tính theo giờ (Thủ
trưởng cơ quan THADS ra quyết định hoãn thi hành án khi nhận được yêu cầu hoãn
thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít nhất 24 giờ trước thời điểm cưỡng
chế thi hành án....” (khoản 2 Điều 48 Luật THADS). Các mốc thời điểm bắt đầu và
kết thúc thời hạn để tổ chức thi hành án có ý nghĩa rất quan trọng đối với chấp hành
viên và các bên đương sự. Việc vi phạm các quy định về thời hạn thi hành án có thể
dẫn đến khiếu nại, tố cáo hoặc trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thậm chí là trách
66
nhiệm hình sự. Luật THADS quy định nhiều thời hạn khác nhau cho các thủ tục tác
nghiệp của chấp hành viên, tuy nhiên một số quy định về thời hạn còn chưa phù hợp.
Theo Điều 39 Luật THADS, việc thông báo phải thực hiện trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán,
hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.Tuy nhiên, đa số quan điểm cho rằng việc
ấn định thời hạn 3 ngày làm việc để thực hiện thông báo là quá ngắn, nhất là đối với
những chấp hành viên phụ trách số lượng án lớn, với nhiều đương sự và người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Do đó đề nghị xem xét tăng thêm thời hạn này thành 5
ngày làm việc để tạo thuận lợi hơn cho Chấp hành viên khi tổ chức thi hành án.
Theo quy định tại Điều 101 Luật THADS, đương sự có quyền thỏa thuận về
tổ chức bán đấu giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày định giá.
Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản với tổ chức bán đấu giá do
đương sự thỏa thuận. Quy định trên chỉ phù hợp cho trường hợp chấp hành viên trực
tiếp thực hiện việc định giá. Còn trong trường hợp thẩm định giá thông qua tổ chức
thẩm định giá tài sản thì việc quy định tính thời hạn tính từ thời điểm “kể từ ngày
định giá” là chưa thực sự hợp lý.
Thời điểm “kể từ ngày định giá” sẽ được xác định như thế nào? Bởi vì, thông
thường sau khi ký hợp đồng thẩm định giá thì thời gian để tổ chức thẩm định giá ban
hành chứng thư thẩm định cũng mất khoảng thời gian trung bình là 7 ngày làm việc.
Nếu xem ngày chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá là ngày
“định giá” thì không phù hợp với thực tế. Còn lấy ngày mà tổ chức thẩm định giá trực
tiếp tiến hành xem xét tài sản để định giá cũng không hợp lý. Do vậy, nên xem xét
sửa lại quy định trên theo hướng “Đương sự có quyền thỏa thuận về tổ chức bán đấu
giá trong thời hạn không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày được thông báo hợp lệ về
giá tài sản kê biên”
Theo Điều 104 Luật THADS , trường hợp người được thi hành án đồng ý nhận
tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận
được thông báo về việc không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá
không thành thì chấp hành viên thông báo cho người phải thi hành án biết. Điều luật
67
chưa quy định việc ấn định thời hạn để người được thi hành án có đơn xin nhận tài
sản. Do đó cần ấn định một khoảng thời gian nhất định để người được thi hành án
nhận tài sản và sửa đổi mốc thời điểm “kể từ ngày nhận được thông báo về việc không
có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành” thành : Trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đồng ý nhận tài sản của người được thi
hành án thì chấp hành viên thông báo cho người phải thi hành án biết .
* Nội dung giải pháp:
Thứ nhất, rà soát các chính sách, quy định về thi hành án dân sự theo quy định
của pháp luật về vấn đề này trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng trong giai đoạn
hiện nay. Đối với công tác này thì đặt ra yêu cầu các cơ quan chuyên môn cần, rà soát
và bổ sung quy định của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về thi hành án dân sự.
Thông qua công tác này thì sẽ loại bỏ những điểm chồng chéo giữa các văn bản của
các bộ, ngành khác nhau, những quy định không hoặc ít có tính khả thi được ban hành
và điều chỉnh hoạt động về thi hành án dân sự ở nước ta nói chung và trên địa bàn
các địa phương nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, tiến hành xây dựng và ban hành các quy định về thi hành án dân sự có
liên quan. Từ đó, xây dựng một cách đồng bộ các quy trình, quy phạm trong thi hành
án dân sự trong lĩnh vực THADS. Đặc biệt, cần hợp lý hoá các văn bản luật, chính
sách và quy định về thi hành án dân sự để nâng cao tính thực thi của chúng như ban
hành các quy định chi tiết, xuất bản các sách hướng dẫn thi hành. Nghiên cứu xây
dựng và ban hành các tiêu chí để thực hiện thi hành án dân sự đạt hiệu quả cao nhất.
* Chủ thể thực hiện: Để thực hiện hoạt động này trong thực tế thì việc tiến
hành sửa chữa các quy định về thời hạn thông qua quy định của Luật thi hành án dân
sự thì cần có sự phối hợp của cơ quan có thẩm quyền sửa đổi luật là Quốc Hội. Tuy
nhiên, Bộ tư pháp phối hợp với Tổng cục THADS tiến hành tập hợp và làm tờ trình
trình Chính Phủ và kiến nghị Quốc Hội tiến hành sửa đổi Luật. Sau đó, Chính Phủ
trên cơ sở đó thì ban hành văn bản hướng dẫn thi hành về thời hạn trong thực tế,
* Điều kiện thực hiện: Trên cơ sở các báo cáo, kiến nghị đề xuất sửa đổi bổ
sung các quy định pháp luật về THADS của các Cục THADS của địa phương và các
cơ quan có liên quan
68
* Kết quả dự kiến thực hiện: Hoàn thiện pháp luật về THADS về thời hạn sẽ
tạo điều kiện áp dụng các quy định về THADS trong thực tế đạt kết quả cao.
3.1.2. Giải pháp hoàn thiện về nội dung đã tuyên với các bản án, quyết định của
Tòa án cần tuyên rõ ràng, cụ thể, có thể thi hành trên thực tế
* Căn cứ của giải pháp: Khó khăn trong công tác thi hành án dân sự của tỉnh
Quảng Ninh nói riêng và nước ta nói chung trong giai đoạn hiện nay. Song trên thực
tế vẫn còn một số bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ ràng, có sai sót hoặc
nhầm lẫn, không sát với thực tế. Những án này thường thuộc về tranh chấp nhà ở,
quyền sử dụng đất, phần không gian bên trên hoặc về ranh giới đất liền kề. Khi được
Tòa án xem xét giải quyết thì không phù hợp với thực tế, là nguyên nhân dẫn đến đơn
thư khiếu nại nhiều, dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án không được thi hành.
* Mục tiêu của giải pháp: Để bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn thi hành
án dân sự và đạt hiệu quả cao, không chỉ nhờ vào sự phối hợp hỗ trợ nhiệt tình của
các cơ quan, ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội, chính quyền địa phương và ý thức
chấp hành nghiêm của các bên đương sự mà cần phải có sự ra đời của một phần quyết
định đúng đắn của Tòa án, thì bản án, quyết định của Tòa án mới được thi hành xong.
Công tác thi hành án lúc đó đạt hiệu quả và hạn chế được đơn thư khiếu nại, tố cáo
kéo dài.
* Nội dung giải pháp:
Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS gặp nhiều khó khăn, kéo dài
một phần do nhiều bản án, quyết định của Tòa án các cấp tuyên không rõ ràng, khó
thi hành trên thực tế. Có trường hợp, chấp hành viên được giao giải quyết vụ việc khi
tiếp nhận phát hiện ra và phải làm văn bản đề nghị Tòa án giải thích làm kéo dài việc
thi hành án. Thậm chí, có trường hợp phức tạp hơn khi tổ chức cưỡng chế mới phát
sinh vướng mắc, không thi hành được do Tòa án tuyên không rõ, đặc biệt là các vụ
án về tranh chấp thừa kế, tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ, cổ phần trong doanh
nghiệp… Vấn đề này vừa gây khó khăn cho cơ quan THADS, vừa kéo dài vụ việc
gây thiệt hại cho người được và người phải thi hành án, giảm lòng tin của nhân dân
với pháp luật và chính quyền. Vì vậy, khi quyết định nghĩa vụ của đương sự, Tòa án
69
phải nêu cụ thể, chi tiết, thi hành được; đặc biệt phải làm rõ hậu quả pháp lý các nghĩa
vụ này phát sinh (như: Giấy tờ đăng ký quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử
dụng, giấy phép, giấy chứng nhận quyền sở hữu trí tuệ…).
Xây dựng, ban hành đầy đủ, kịp thời các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn
thi hành luật; ban hành các thông tư liên tịch phối hợp các ngành liên quan; các quy
chế phối hợp liên ngành... Đặc thù của hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh liên quan đến rất nhiều ngành, lĩnh vực, nhất là việc cưỡng chế đòi hỏi tham gia
của nhiều lực lượng phối hợp. Nếu có hành lang pháp lý quy định rõ ràng trách nhiệm,
nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan sẽ dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, tất cả
đổ dồn lên đầu cơ quan THADS và chấp hành viên. Bên cạnh đó, nhiều văn bản pháp
luật khác liên quan cũng cần hoàn thiện thống nhất, tránh chồng chéo để cơ quan
THADS thuận lợi khi áp dụng các biện pháp cưỡng chế như: Luật Nhà ở, Luật Công
chứng, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Đất đai…
* Chủ thể thực hiện: Tòa án nhân dân, VKSND trong quá trình xét xử, ban
hành quyết định phải tuân thủ quy định của pháp luật nhằm đảm bảo ra một bản án
đáp ứng cho hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đạt kết quả cao. Đối
với hoạt động thi hành án, cần thiết phải có sự phối hợp quan trọng đảm bảo cho việc
thi hành bản án, quyết định tuân thủ đúng các quy định pháp luật hiện hành.
* Điều kiện thực hiện: Thông qua hoạt động giải quyết các vụ án hình sự, dân
sự nói chung để đảm bảo cho quá trình áp dụng trong thực tế đạt kết quả cao hơn,
* Kết quả dự kiến thực hiện: Tạo điều kiện để thực thi các bản bán, quyết
định của TAND đạt kết quả cao.
3.1.3. Giải pháp hoàn thiện về một số quy định của Luật thi hành án dân sự
* Căn cứ của giải pháp: Theo kinh nghiệm của Indonesia, Singapore và Liên
Bang Nga đã các đang tạo điều kiện quan trọng cho hoạt động áp dụng quy định về
thi hành án dân sự tại các quốc gia nói trên để đạt kết quả cao trong quá trình thực
hiện
* Mục tiêu của giải pháp: Tăng cường công tác kiện toàn pháp luật về
THADS để công tác THADS của Tổng cục THADS đạt kết quả cao. Thông qua việc
70
thực hiện và hoàn thiện pháp luật về THADS sẽ tạo tiền đề cho quá trình áp dụng của
pháp luật ở nước ta hiện nay.
* Nội dung giải pháp
Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo THADS các địa
phương. Luật Thi hành án dân sự và nghị định hướng dẫn của Chính phủ quy định rõ
chức năng, nhiệm vụ, thành phần của Ban chỉ đạo THADS ở địa phương nhằm tập
trung chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn cho cơ quan THADS và phối hợp tổ chức cưỡng chế
những vụ án phức tạp. Tuy nhiên, nhiều địa phương do thiếu sự quan tâm của Trưởng
Ban chỉ đạo THADS nên hoạt động của Ban không thường xuyên, mang tính hình
thức. Do đó, nhiều vụ việc phức tạp, đòi hỏi có sự vào cuộc tích cực của các ban,
ngành địa phương chưa được đôn đốc kịp thời, cơ quan THADS chưa tổ chức cưỡng
chế theo đúng quy định, việc thi hành án kéo dài. Thậm chí có nơi do sự thiếu quyết
đoán của Ban chỉ đạo nên khi cơ quan THADS đưa ra họp bàn phối hợp cưỡng chế,
các đơn vị khác đều kêu khó, trì hoãn nhiều năm trời, gây thiệt hại cho đương sự và
bức xúc dư luận. Vì vậy, mỗi địa phương cần quan tâm duy trì hoạt động của Ban chỉ
đạo THADS đi vào thực chất, chỉ đạo quyết liệt thi hành các vụ án phức tạp, có giá
trị lớn, cưỡng chế với các vụ án đương sự chống đối, kéo dài nhiều năm hoặc có liên
quan đến cán bộ địa phương.
Để các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực được tôn trọng một cách
triệt để, được thi hành hoàn toàn trên thực tế cũng như hoàn thiện pháp luật về vấn
đề này, chúng tôi cho rằng cần sửa đổi, thống nhất một số nội dung:
Sửa đổi Điều 110 Luật THADS theo hướng thêm quy định Chấp hành viên có
quyền kê biên tài sản là quyền sử dụng đất để THA thuộc các trường hợp được cấp
GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp
luật về đất đai.
Bổ sung Điều 74 Luật THADS, trường hợp quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia
đình mà người phải THA là người đại diện hộ đứng tên trên GCNQSDĐ và cả trường
hợp người phải THA là thành viên trong hộ gia đình thì Chấp hành viên vẫn thực hiện
việc kê biên và thông báo cho các thành viên trong hộ tiến hành khởi kiện để phân
71
chia tài sản thuộc quyền sử dụng của hộ. Nếu hết thời hạn 30 ngày mà không có ai
khởi kiện phân chia tài sản thuộc quyền sử dụng của hộ thì xem như tài sản này thuộc
quyền sở hữu, sử dụng của cá nhân người phải THA, Chấp hành viên tiến hành các
bước tiếp theo như định giá, bán đấu giá tài sản đó để THA.
Bổ sung Điều 111 Luật THADS trường hợp kê biên nhà ở gắn liền với đất
thuộc quyền sử dụng của người khác thì Chấp hành viên vẫn tiến hành kê biên nhà ở
và quyền sử dụng đất để thi hành án kể cả trường hợp người có quyền sử dụng đất
đồng ý hay không đồng ý. Khi bán tài sản kê biên thì thanh toán lại giá trị quyền sử
dụng đất cho chủ sử dụng.
Sửa đổi Điều 93 Luật nhà ở theo hướng quy định đồng nhất thời điểm xác định
quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất vào thời điểm đăng ký tại cơ quan có thẩm
quyền, phù hợp với quy định về thời điểm xác lập quyền sở hữu tại Điều 168 và 692
Bộ luật dân sự để tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực
đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cũng như trong công tác xác minh, làm
rõ điều kiện THA để thực hiện Luật THADS một cách hiệu quả.
* Chủ thể thực hiện: Ở cấp trung ương, các Bộ liên quan cần tăng cường phối
hợp với Bộ Tư pháp về lĩnh vực THADS thông qua việc ký kết các Quy chế phối hợp
liên ngành nhằm tháo gỡ khó khăn khi tổ chức cưỡng chế. Trong đó, giữa Bộ Tư pháp
và các ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an cần thường xuyên trao đổi thông tin, giải
quyết kịp thời những phát sinh trong THADS nói chung và cưỡng chế nói riêng, tránh
tình trạng né tránh, nể nang kéo dài việc THADS. Hiện nay, giữa các đơn vị này đã
ký kết Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT ngày 26/7/2010, số 14/2011/TTLT ngày
11/7/2011, số 03/2012/TTLT ngày 30/3/2012, Quy chế phối hợp liên ngành số
14/2013/QCLN ngày 09/10/2013… Tuy nhiên, để các quy định này được áp dụng
thuận lợi, mỗi địa phương cần ban hành quy chế phối hợp cụ thể giữa các đơn vị
nhằm phù hợp với đặc điểm thực tiễn THADS trên địa bàn mình.
* Điều kiện thực hiện: Các cơ quan THADS cần thực hiện đồng bộ nhiều giải
pháp khác, như đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền pháp luật về thi hành án dân sự để
nhân dân hiểu và tự giác chấp hành, hạn chế việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế;
72
nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức cán bộ, công chức ngành thi hành án; xử lý
nghiêm những hành vi tham nhũng, tiêu cực khi thi hành công vụ...
* Kết quả dự kiến thực hiện: Hoàn thiện pháp luật về THADS để tạo điều
kiện áp dụng các quy định về THADS trong thực tế đạt kết quả cao.
3.1.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh
* Căn cứ của giải pháp: Quá trình áp dụng pháp luật THADS trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh còn nhiều vướng mắc
* Mục tiêu của giải pháp: Hoạt động thực thi quy định về THADS phải đảm
bảo các quy định của pháp luật THADS vào thực tiễn.
* Nội dung giải pháp
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2019, Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh quyết tâm tập trung mọi nguồn lực đẩy mạnh tiến
độ giải quyết án, tăng cường hướng về cơ sở, tiếp tục duy trì tổ công tác, do đồng chí
Phó Cục trưởng làm tổ trưởng, thành lập tổ chỉ đạo cưỡng chế thi hành án, trực tiếp
chỉ đạo giải quyết thi hành án đối với những vụ việc có điều kiện thi hành. Đặc biệt
là các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng, Bảo hiểm xã hội, các vụ việc phức
tạp, kéo dài, các vụ việc có số tiền phải thi hành lớn, các vụ việc thu hồi tiền, tài sản
cho Nhà nước, trong các vụ án về kinh tế, chức vụ, tham nhũng..., dư luận xã hội quan
tâm; giải quyết các tài sản, khoản tiền tạm thu trên tài khoản tạm gửi theo chỉ đạo của
Tổng cục.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, nhất là
phát huy vai trò người đứng đầu; Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, lề lối
làm việc; chú trọng giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, ý thức trách
nhiệm của đội ngũ cán bộ công chức, nhất là đối với đội ngũ lãnh đạo, quản lý, chức
danh pháp lý; xử lý nghiêm những trường hợp nhũng nhiễu, gây phiền hà, vi phạm
đạo đức, lối sống và chuyên môn nghiệp vụ.
73
Đẩy mạnh cải cách hành chính, triển khai có hiệu quả phần mền thụ lý và thống
kê thi hành án theo đúng chỉ đạo của Tổng cục; tổ chức thực hiện có hiệu quả Bộ
phận một cửa và hỗ trợ trực tuyến yêu cầu thi hành án tại Cục và các Chi cục; tăng
cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo, điều hành và chuyên
môn nghiệp vụ thi hành án dân sự; tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử, văn bản
điện tử, thực hiện chữ ký số.
Kịp thời chỉ đạo, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của các Chấp hành viên
và Chi cục, kiên quyết tổ chức cưỡng chế thi hành các trường hợp có điều kiện nhưng
đương sự cố tình chây ỳ, chống đối không chịu thi hành án. Hy vọng, với sự chỉ đạo
quyết liệt, sâu sát, cùng với sự nỗ lực, cố gắng, của toàn thể cán bộ, công chức, chấp
hành viên, cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh sẽ vượt khó, hoàn thành xuất sắc
chỉ tiêu nhiệm vụ được giao.
* Chủ thể thực hiện: Cục THADS tỉnh Quảng Ninh phối hợp với Các chi cục
THADS các địa phương
* Điều kiện thực hiện: Thực hiện tốt quy định pháp luật về THADS trên địa bàn
* Kết quả dự kiến thực hiện: Đạt các chỉ tiêu đã đề ra.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự
3.2.1. Kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về thi hành án dân sự
Trên phương diện lý luận và thực tiễn thì cần thiết phải hoàn thiện pháp luật
về thi hành án dân sự, cụ thể là:
Một là, thông qua việc hoàn thiện các quy định về thi hành án dân sự sẽ thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về vấn đề này. Những quy định của pháp luật trong
quá trình thực hiện chức năng về quản lí nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân
sự chính là những cơ sở pháp lí cơ bản của quy định cơ cấu tổ chức của các cơ quan
quản lí nhà nước trong lĩnh vực THADS. Có thể thấy pháp luật THADS có một vai
trò quan trọng đối với lĩnh vực THADS. Việc hình thành hệ thống cơ quan quản lí
THADS nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung và được tổ chức thống nhất
từ cấp Trung ương xuống địa phương. Thông qua việc quy định chức năng của mình
74
thì các cơ quan trên thực hiện hoạt động kiểm tra giám sát thường xuyên các chủ thể
tham gia vào quan hệ pháp luật về THADS nói chung, kịp thời ngăn chặn, phát hiện
và xử lý những vi phạm đối với lĩnh vực mà mình quản lý.
Hai là, trong vấn đề về QLNN thì vấn đề thi hành án dân sự có vai trò, ý nghĩa
quan trọng, góp phần trong việc đảm bảo thực hiện các quy định về thực thi các quyết
định, bản án của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật
rên thực tế trong quá trình phát triển của đất nước và xã hội của mỗi quốc gia. Bằng
việc quy định cụ thể về vấn đề thi hành án dân sự tại các văn bản pháp lý hiện hành
là điều kiện bảo đảm an toàn đối lĩnh vực THADS ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Ba là, đối với xã hội thì vấn đề quy định về thi hành án dân sự có vai trò to lớn
đối với quá trình phát triển bền vững của mỗi một quốc gia. Do đó, việc ban hành các
quy phạm pháp luật trong quản lí nhà nước đối với lĩnh vực thi hành án dân sự
THADS là cơ sở pháp lí cho việc cơ quan nhà nước thực hiện chức năng thanh tra,
kiểm tra, giám sát và thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự. Việc thanh tra, giám
sát được thực hiện thường xuyên, định kì hàng năm hoặc kiểm tra đột xuất dựa vào
các văn bản pháp luật do nhà nước ban hành.
Bốn là, vì vấn đề thi hành án dân sự là một vấn đề quan trọng nên hoạt động
QLNN về vấn đề này có tác động đến kinh tế và xã hội. Việt Nam hiện nay đang thực
hiện công cuộc xây dựng và phát triển đất nước nên cùng với quá trình xây dựng thì
việc thi hành án dân sự ngoài ý nghĩa kinh tế còn có ý nghĩa chính trị, xã hội rất quan
trọng. Đặt hoạt động QLNN về thi hành án dân sự trong quá trình xây dựng và phát
triển lên hàng đầu và trở thành chiến lượng với ý nghĩa là vô cùng phù hợp với quá
trình hội nhập trong khu vực và trên trường quốc tế trong những năm trở lại đây.
Năm là, quy định về pháp luật thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong
việc nâng cao nhận thức của xã hội về lĩnh vực này. Những quy định về thi hành án
dân sự có vai trò trong việc giáo dục, truyền thông để từ đó góp phần nâng cao nhận
thức của xã hội về công tác tuân thủ các quy định pháp luật. Góp phần quan trọng
trong việc phát triển nền kinh tế - xã hội một cách bền vững ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay.
75
Thi hành án dân sự là nhiệm vụ trọng tâm trong lãnh đạo của cấp ủy, chính
quyền các cấp. Từ những tồn tại, hạn chế trong việc thi hành án dân sự tại địa bàn
tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cả nước nói chung có thể thấy rằng yêu cầu nâng cao
hiệu quả x thi hành án dân sự đã và đang trở nên cấp thiết. Cùng với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng đã đặt ra yêu cầu hoàn thiện hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về thi hành án dân sự nhằm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ THADS,
đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Phương hướng hoàn thiện
việc đảm bảo thi hành án dân sự của các chủ thể đến từ những yếu tố khác nhau.
Trong đó, sự cần thiết đó cần được hoàn thiện cụ thể dưới các góc độ như sau:
Một là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự chính là
việc thể chế hoá quan điểm, chủ trương phát triển của Đảng,. Quá trình xây dựng các
quy định của pháp luật về thi hành án dân sự cần xuất phát và nằm trong tổng thể các
chính sách, định hướng mang tính quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội. Sửa đổi, bổ
sung các quy định hiện hành về thi hành án dân sự nhằm áp dụng có hiệu quả trong
thực tiễn. Đồng thời chính sách, pháp luật phải có tính nhất quán, tăng phạm vi điều
chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Ban hành văn bản mới để điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong
lĩnh vực THADS. Từ đó, bảo đảm sự hài hoà giữa phát triển kinh tế và yêu cầu thực
hiện quy định THADS đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội trong tình
hình mới.
Hai là, hoàn thiện các quy định về thi hành án dân sự trong pháp luật THADS
góp phần trong việc quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan NN có thẩm quyền
trong thực tiễn. Đồng thời, trong quá trình áp dụng cần có sự kiểm tra, giám sát có
hiệu quả từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Đối với các cơ quan áp dụng
pháp luật cần có sự thống nhất trong công tác quản lý nhà nước từ trung ương đến địa
phương. Đầu tư các trang thiết bị hoàn chỉnh, đáp ứng với quá trình xử lý các hành
vi vi phạm trong pháp luật THADS có hiệu quả ở nước ta hiện nay.
Ba là, thông qua việc hoàn thiện các quy định pháp luật, nâng cao chất lượng
hiệu quả thi hành án dân sự sẽ tạo tiền đề cơ bản để nước ta thực hiện các cam kết về
76
THADS trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, góp phần chủ động
hội nhập quốc tế. Đồng thời, với việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh
vực này tạo tiền đề để hoàn chỉnh pháp luật THADS nói riêng và hệ thống pháp luật
nước ta nói chung, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Tăng
đầu tư hạ tầng tương xứng với tiềm năng và định hướng phát triển THADS trên địa
bàn tỉnh Quảng Ninh nói chung.
Ngoài ra, cần quan tâm và hoàn thiện các chế độ chính sách chung cho công
chức làm công tác THADS và thi hành án dân sự. Thực tế hiện nay công chức làm
trong cơ quan thi hành án dân sự thì được hưởng theo chế độ lực lượng Công an nhân
dân với chế độ ưu đãi đặc biệt, nếu hợp nhất lại thì họ được hưởng theo chế độ lực
lượng công an hay theo chế độ công chức THADS. Đây chính là bài toán khó giải
khi mà quyền và lợi ích của họ không được đảm bảo;
Đối với yêu cầu để tăng chất lượng, hiệu quả THADS cần xây dựng các quy
chế phối hợp liên ngành giữa cơ quan THADS với các ngành, cấp liên quan mật thiết
với cơ quan THADS để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc giữa các ngành, nhằm
thực hiện có hiệu quả trong công tác THADS nói chung và kê biên QSDĐ nói riêng.
Quan tâm hình thành các chính sách đãi ngộ, thu hút nhân tài, đổi mới tư duy, cách
thức tuyển dụng, thực hiện quy trình thi tuyển Chấp hành viên một cách nghiêm túc
với phương châm lấy chất lượng hơn số lượng nhằm mục tiêu xây dựng đội ngũ công
chức làm công tác thi hành án tinh nhuệ, chuyên nghiệp đáp ứng được yêu cầu đổi
mới của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Mở rộng phạm vi THADS đối với hợp đồng có công chứng, chứng thực và
biên bản hòa giải thành: Theo đó, bên có quyền được yêu cầu thi hành theo thủ tục
THADS đối với hợp đồng có công chứng hoặc chứng thực, biên bản hòa giải thành
mà khi hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ nhưng bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực
hiện. Hợp đồng và biên bản hòa giải thành nêu trên được thi hành theo thủ tục THADS
thì cũng tương đồng với pháp luật về THADS Việt Nam hiện nay là thi hành quyết
định của Trọng tài thương mại và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và cũng tương
đối giống với thi hành dân sự ở Nhật Bản.
77
Nâng cao vị thế, vai trò và trách nhiệm của cơ quan THADS: Theo đó, trao
mạnh hơn quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị cho hệ thống THADS bằng các
quy định về mở rộng chủ thể có quyền THADS quy định ở Trung ương cũng có cơ
quan THADS, nghĩa là trao quyền cho Tổng cục THADS có thẩm quyền trực tiếp tổ
chức THADS và bổ nhiệm Chấp hành viên ở Tổng cục THADS để tiến hành thi hành
án đối với những vụ việc có giá trị rất lớn, có yếu tố nước ngoài, liên quan đến nhiều
địa phương.
Tổng cục THADS trực thuộc Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp giúp Chính phủ quản
lý thống nhất về công tác THADS trong phạm vi toàn quốc. Bổ sung nhiệm vụ, quyền
hạn của Chấp hành viên để kịp thời trấn áp, xử lý hành vi chây ỳ, chống đối thi hành
án như: quyền ra quyết định bắt giữ người, khám xét địa điểm, phương tiện liên quan
đến việc thi hành án. Mặt khác, quy định chức danh Thẩm phán thi hành án để hỗ trợ
Chấp hành viên trong THADS, trao cho Thẩm phán thi hành án một số quyền hạn
trong THADS, gắn kết chặt chẽ trách nhiệm, quyền hạn của Tòa án trong THADS.
Đồng thời, tăng cường vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương trong công
tác THADS. Xác định THADS là thủ tục tố tụng thi hành các bản án, quyết định và
văn bản khác về dân sự theo quy định của pháp luật. Vì thế, phải hoàn thiện trình tự,
thủ tục thi hành án với các giai đoạn, các bước chặt chẽ, khuôn mẫu mang tính mực
thước, từ khởi động đến tiến hành, dừng, thay đổi và kết thúc tiến trình thi hành án.
Quy định cụ thể các biện pháp hỗ trợ THADS, như chế tài nghiêm khắc hơn
đối với hành vi vi phạm THADS. Thủ tục buộc người phải thi hành án tập trung lao
động bắt buộc và tính toán tiền công cho phạm nhân khi họ tập trung cải tạo. Cơ chế
ưu tiên cho người bị cưỡng chế giao nhà, trả nhà không có nơi ở được mua, thuê nhà
ở xã hội. Hợp tác quốc tế về THADS. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin
trong THADS. Theo đó, quy định hình thức thông báo về thi hành án trên phương
tiện thông tin điện tử (Cổng, Trang, Báo điện tử), kể cả mạng xã hội của cơ quan thi
hành án tạo lập. Cơ chế thu chi, thanh toán tiền thi hành án bằng giao dịch điện tử;
hiệu lực của văn bản sử dụng chữ ký số đối với cá nhân, tổ chức ngoài cơ quan thi
hành án. Kết nối liên thông chia sẻ thông tin, dữ liệu điện tử giữa các cơ quan, tổ
chức, nhất là Tòa án, Ngân hàng với cơ quan THADS. Sử dụng hồ sơ thi hành án điện
78
tử; tăng cường các phần mềm; xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về THADS.
Chú trọng đến việc tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện, công cụ hỗ
trợ bảo vệ cưỡng chế trong công tác THADS để tránh sự lệ thuộc vào các cơ quan
khác. Đồng thời giúp cho Nhà nước giảm chi phí chi cho hoạt động của cả hệ thống
các cơ quan THADS từ Trung ương xuống địa phương.
3.2.2. Kiến nghị về hoàn thiện pháp luật
* Căn cứ của kiến nghị: Văn bản pháp luật về thi hành án dân sự còn nhiều
vướng mắc, gây ảnh hưởng đến quá trình thực hiện trong thực tế.
* Mục tiêu của kiến nghị: Hoàn thiện pháp luật về THADS để công tác
THADS đạt kết quả cao.
* Nội dung kiến nghị:
Hoàn thiện pháp luật về THADS để tạo điều kiện áp dụng các quy định về
THADS trong thực tế đạt kết quả cao.
Kiến nghị với Bộ Tư pháp và các cơ quan có liên quan cần đẩy nhanh tiến độ
ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự và các Nghị định của
Chính phủ quy định chi tiết Luật THADS, trong đó tập trung vào các văn bản sau
đây:
Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Công an hướng dẫn trại
giam, trại tạm giam thu, nộp, quản lý và sử dụng tiền thi hành án.
Thông tư liên tịch giữa Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn bảo vệ cưỡng chế
thi hành án.
Thông tư liên tịch giữa Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp hướng dẫn cơ chế quản
lý tài chính về kinh phí tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự.
Tiếp tục rà soát, đánh giá các quy định của Luật thi hành án dân sự và các văn
bản hướng dẫn thi hành, các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác thi hành án
dân sự để tổng hợp và kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền
xem xét và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
79
* Kết quả dự kiến thực hiện: Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
* Chủ thể thực hiện: Bộ tư pháp phối hợp với Tổng cục THADS.
* Điều kiện thực hiện: Trên cơ sở kiến nghị đề xuất sửa đổi bổ sung các quy
định pháp luật về THADS của các Cục THADS của địa phương và các cơ quan có
liên quan.
3.2.3. Kiến nghị về việc kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao trách nhiệm cho đội
ngũ Chấp hành viên trong quá trình thực thi pháp luật thi hành án dân sự.
* Căn cứ của kiến nghị : Quá trình áp dụng THADS của Chấp hành viên còn
chưa đạt kết quả cao, còn nhiều vướng mắc và sai phạm. Căn cứ vào kinh nghiệm của
Indonesia, Singapore và Liên Bang Nga về bổ nhiệm, sử dụng và quản lý các Chấp
hành viên.
* Mục tiêu của kiến nghị: Hoàn thiện bộ máy THADS, công tác cán bộ để
hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đạt kết quả cao.
* Nội dung kiến nghị
Thứ nhất, đối với cán bộ, công chức bên cạnh yêu cầu lựa chọn đúng chuyên
ngành, cần xác định chuyên ngành cơ bản và các ngành bổ sung để có tỷ lệ tuyển
dụng hợp lý nhằm đa dạng hóa chuyên môn và nguồn tuyển dụng, trong đó ưu tiên
cán bộ đào tạo chuyên ngành, có chuyên môn cơ bản nhằm đáp ứng với yêu cầu của
công tác quản lý, đảm bảo cho hoạt động thi hành án dân sự đạt hiệu quả cao. Tiếp
tục hoàn thiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho cán bộ nhằm
phát triển năng lực cho đội ngũ cán bộ nói trên.
Thứ hai, cần hoàn thiện đồng bộ cơ chế bố trí sử dụng cán bộ, xây dựng cơ
chế đặc thù riêng cho cán bộ, công chức trong quá trình sử dụng nói chung nhằm
khuyến khích nhân sự chất lượng cao, linh hoạt đáp ứng với yêu cầu của công tác
trong lĩnh vực này. Đảm bảo tính linh hoạt, dự báo cho các chính sách.
Ba là, xây dựng cơ chế chi trả lương hợp lý, các chế độ ưu tiên làm việc nhằm
tạo động lực làm việc, thu hút, sử dụng người có tài, có đức trong công tác quản lý nhà
nước thông qua xã hội hóa việc xây dựng chính sách, tổ chức đấu thầu dự án ban hành
80
văn bản pháp luật. Có phương hướng đào tạo cán bộ, công chứng có năng lực trong
công tác THADS đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là ở cấp huyện, xã. Qua đó, thực hiện thống
nhất quản lý Nhà nước ở cả Trung ương và địa phương trong lĩnh vực THADS, thi
hành án dân sự, phát huy được sức mạnh tổng thể của cả hệ thống. Đồng thời, kiện toàn
tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực trong công tác THADS. Đổi mới mạnh mẽ, một
cách đồng bộ tác phong và tư duy làm việc của các cán bộ, công chức, cơ quan có thẩm
quyền, đổi mới phong cách lãnh đạo và nề nếp làm việc trì trệ của đội ngũ cán bộ công
chức trong công tác thực hiện pháp luật về môi trường ở nước ta hiện nay.
Bốn là, tiếp tục kiện toàn, củng cố tổ chức hệ thống thi hành án dân sự, với
những biện pháp cụ thể để đảm bảo sức mạnh của tổ chức hệ thống thi hành án dân
sự, theo đó tiếp tục bổ sung biên chế, tập trung tìm nguồn và bổ nhiệm đầy đủ lãnh
đạo các đơn vị trong hệ thống thi hành án dân sự. Hoàn thành việc chuyển ngạch, thi
tuyển và bổ nhiệm Chấp hành viên theo quy định của Luật Thi hành án dân sự, đảm
bảo đủ Thẩm tra viên, thư ký thi hành án dân sự.
* Kết quả dự kiến thực hiện: Hoàn thiện bộ máy và CHV về THADS để tạo
điều kiện áp dụng đạt kết quả tốt.
* Chủ thể thực hiện: Bộ tư pháp phối hợp với Tổng cục THADS.
* Điều kiện thực hiện: Trên cơ sở kiến nghị đề xuất sửa đổi bổ sung các quy
định pháp luật về THADS của các Cục THADS của địa phương và các cơ quan có
liên quan.
3.2.4. Kiến nghị việc nâng cao nhận thức của các chủ thể thực hiện pháp luật về
thi hành án dân sự cũng như nâng cao ý thức trong công tác thi hành án dân sự
tại các địa phương.
* Căn cứ của kiến nghị: Áp dụng THADS chưa đạt kết quả cao
* Mục tiêu của kiến nghị: Nâng cao ý thức về thi hành án dân sự trong thực
tế
* Nội dung kiến nghị
Việc áp dụng các biện pháp nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật của chủ thể
81
cũng như ý thức pháp luật của cộng đồng trong vấn đề thi hành án dân sự. Có thể
thấy, tuyên truyền pháp luật là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất để nâng cao
hiểu biết và ý thức pháp luật cho các chủ thể. Hoạt động tuyên truyền có thể thực hiện
qua nhiều cách thức khác nhau như tổ chứa giảng dạy khi học tập ở các trường, phổ
biến, tuyên truyền pháp luật…; thông qua việc tổ chức hội nghị phổ biến, cập nhật
nội dung các văn bản pháp luật mới, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật với
nội dung liên quan đến thi hành án dân sự, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về
THADS…Đối với CHV khi thực hiện các quy định thi hành án dân sự cần nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật của lực lượng này cần tuyên truyền để các chủ thể nhận
thức được lợi ích, vai trò quan trọng khi thực hiện đúng các quy định của pháp luật
về thi hành án dân sự, các quy định của pháp luật khi có hành vi vi phạm không chỉ
là bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt động trong xã
hội.
Từ thực trạng về công tác tuyên truyền, thông tin cho thấy kiến thức pháp lý
về thi hành án dân sự đối với cộng đồng, người dân còn quá xa lạ. Để khắc phục
nhược điểm này, công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục là một biện pháp hữu hiệu
nhất. Tuy vậy, không thể tuyên truyền một cách chung chung mà cần xác định rõ nội
dung, hình thức và biện pháp tuyên truyền cho phù hợp với từng đối tượng. Các cơ
quan có thẩm quyền thực thi pháp luật về thi hành án dân sự, các quy định của pháp
luật xử lý các hành vi vi phạm cần xây dựng kế hoạch tuyên truyền căn cứ trên tình
hình áp dụng thực tế pháp luật về THADS giúp cho các cá nhân, tổ chức, doanh
nghiệp trong và ngoài nước phải thực hiện khi tham gia vào quan hệ pháp luật đã
được quy định. Trong công tác này, các cơ quan cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với
các cơ quan hữu quan như Chi cục Thi hành án dân sự, Cơ quan Công an, Uỷ ban
nhân dân các cấp… Thông qua nhiều hình thức, phương tiện khác nhau như hệ thống
Đài phát thanh, truyền hình, báo chí... tổ chức hội nghị, tọa đàm chuyên đề hoặc lồng
ghép vào nội dung của các hội nghị nhằm thực hiện phổ biến kiến thức về THADS.
Tạo điều kiện để pháp luật về THADS đi vào thực tiễn, giúp cho các chủ thể bảo vệ
được quyền và lợi ích chính đáng của mình trước hành vi vi phạm pháp luật thi hành
án dân sự ở nước ta hiện nay.
82
* Kết quả dự kiến thực hiện: Nâng cao ý thức của người dân khi chấp hành
pháp luật.
* Chủ thể thực hiện: Bộ tư pháp phối hợp với Tổng cục THADS
* Điều kiện thực hiện: Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về
THADS của các Cục THADS của địa phương và các cơ quan có liên quan.
3.2.5. Kiến nghị việc tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát việc xử lý vi phạm
pháp luật thi hành án dân sự
* Căn cứ của kiến nghị: Áp dụng THADS chưa đạt kết quả cao.
* Mục tiêu của kiến nghị: Nâng cao ý thức về THADS trong thực tế.
* Nội dung kiến nghị
Đối với quá trình kiểm tra, giám sát việc xử lý vi phạm pháp luật thi hành án
dân sự cần có cơ sở pháp lý để đánh giá trình độ của cơ quan, cán bộ, công chức, lực
lượng có thẩm quyền. Có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ cho lực lượng này. Đồng thời nghiêm khắc xử lý những trường hợp các đối tượng
thực hiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật THADS lợi dụng quyền hạn của mình
để làm lợi bất hợp pháp. Thường xuyên tiến hành kiểm tra tình hình thực hiện pháp
luật về thi hành án dân sự theo quy định của Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ
sung 2014. Ngoài ra, tăng cường rà soát, sửa đổi bổ sung, hoàn thiện chính sách pháp
luật theo hướng ổn định; kế thừa những quy định đã đi vào cuộc sống; nghiên cứu,
lược bỏ những quy định không phù hợp, xa rời thực tế, hạn chế quy định mang tính
thủ tục hành chính không cần thiết, giảm phiền hà cho doanh nghiệp nhưng vẫn đảm
bảo quản lý chặt chẽ, hiệu quả.
Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa công tác THADS. Đồng thời, tiến hành hoạt
động công khai thông tin vi phạm về THADS trên các phương tiện thông tin đại chúng
để tạo áp lực buộc các chủ thể phải phải tuân thủ nghiêm túc quy định về THADS.
Thường xuyên tổ chức những đợt tập huấn, triển khai Luật THADS 2014 và các văn
bản hướng dẫn thi hành cho cơ quan quản lý các cấp và doanh nghiệp, đẩy mạnh công
tác truyền thông về môi trường với hình thức và nội dung đa dạng, phong phú để từng
83
bước nâng cao nhận thức cho cộng đồng về THADS.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, quá trình THADS phải tiến hành có trọng tâm,
trọng điểm, giải quyết dứt điểm những nội dung, thông qua đó cập nhật những quy
định mới về THADS. Bên cạnh việc hoàn thiện quy định pháp luật, tạo hành lang
pháp lý cần thiết cho hoạt động thanh tra, kiểm tra chủ động, linh hoạt, cần có cơ chế
sàng lọc đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, thanh tra có tâm, đủ tầm, trong sạch,
bản lĩnh, hiểu biết pháp luật để vận dụng, xử lý tốt các tình huống cụ thể trong công
tác kiểm soát hoạt động THADS.
* Kết quả dự kiến thực hiện: Nâng cao ý thức chấp hành về pháp luật
THADS.
* Chủ thể thực hiện: Bộ tư pháp phối hợp với Tổng cục THADS.
* Điều kiện thực hiện: Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật.
Tiểu kết chương 3
Để công tác thi hành các quy định của pháp luật về THADS trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh đạt kết quả tốt, nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, trên cơ sở lý luận và
thực tiễn, tác giả đã xây dựng một số giải pháp. Giải pháp cơ bản nhất là hoàn thiện
pháp luật về THADS, tăng cường sự lãnh đạo và phát huy năng lực của các chủ thể
trong quá trình thi hành pháp luật. Một số giải pháp quan trọng khác như tăng cường
công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong
quá trình thi hành, phối hợp hoạt động của các cơ quan có trách nhiệm áp dụng pháp
luật và công tác tuyên truyền, phổ biến cho các chủ thể về pháp luật THADS cũng
như các quy định về THADS trong lĩnh vực này. Hi vọng những giải pháp trên sẽ góp
phần khắc phục những hạn chế trong công tác thi hành các quy định của pháp luật về
THADS nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện tại. Từ đó, đáp ứng với yêu cầu
của công cuộc cải cách nền tư pháp của nước ta đáp ứng với yêu cầu hội nhập và phát
triển giai đoạn mới.
84
KẾT LUẬN
THADS nói chung và là một trong những lĩnh vực quan trọng trong hệ thống
pháp luật nước ta. Đông thời có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng góp phần hoàn thiện
các quy định pháp luật, đáp ứng với chương trình cải cách tư pháp trong tình hình
mới. Pháp luật - công cụ quản lý xã hội của nhà nước cũng phát huy tốt ý nghĩa của
mình trong việc THA. Nhìn chung Luật thi hành án dân sự hiện hành cũng như các
văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định tương đối đầy đủ, hợp lý những vấn đề cần
thiết, là cơ sở pháp lý quan trọng để tiến hành thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trong
thực tế, khi triển khai, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các quy định thi hành án dân
sự chưa thực sự được áp dụng phổ biến, nhiều vi phạm về vấn đề này đã có những
tác động không nhỏ đến cộng đồng, đồng thời những ảnh hưởng của các hành vi đã
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người được thi hành án trong thực tế.
Cùng với quá trình phát triển đất nước Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
đòi hỏi sự tôn trọng pháp luật từ mọi chủ thể, ngược lại quyền và lợi ích của mọi cá
nhân, tổ chức cần phải được bảo đảm tối đa bằng pháp luật. Khi quyền và lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền gửi đơn đến Tòa án để yêu cầu
giải quyết, hoạt động xét xử phải kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật. Đồng thời,
các phán quyết của Tòa án phải được thi hành nghiêm chỉnh, triệt để, kịp thời mới
bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự. Công tác thi hành án dân
sự nói chung và các thi hành án dân sự nói riêng cũng chỉ nhằm mục đích chung nói
trên.
Thực tiễn ban hành và thực thi pháp luật về THADS ở nước ta đã đạt được
nhiều kết quả, điều đó đã góp phần hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về kinh tế trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Bên cạnh những ưu điểm nổi bật,
thì quy định về THADS nói chung và thi hành án dân sự nói riêng ở nước ta còn bộc
lộ nhiều hạn chế, thiếu sót. Công tác tổ chức thực hiện còn vướng mắc đã làm cho
pháp luật về lĩnh vực này không được vận dụng và phát huy hết khả năng vốn có ở
nước ta hiện nay. Cùng với phát triển đất nước thì chính sách về THADS cần hoàn
thiện hơn, đáp ứng với nhu cầu trong nước. Hy vọng bằng những giải pháp tích cực
85
sẽ tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc, thông suốt, phát huy tính tích cực, khắc
phục những hạn chế của các quy định về THADS. Mặt khác, nâng cao hiệu quả công
tác tổ chức thực hiện pháp luật THADS và pháp luật ở nước ta hiện nay, đưa hoạt
động thực thi pháp luật vào quỹ đạo thống nhất, tạo điều kiện cho Nhà nước bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp các chủ thể được thi hành án dân sự góp phần vào công
cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hội
nhập và phát triển.
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội năm 2005.
2. Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Hà Nội năm 1992
3. Quốc hội, Luật 32/2001/QH10 ngày 25/12/2001 về Tổ chức Chính phủ, Hà Nội
năm 2001.
4. Chính phủ, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/của Chủ tịch nước về cải cách bộ máy
tư pháp và luật tố tụng, Hà Nội năm 1950.
5. Chính phủ, Nghị định số 69/CP quy định về thủ tục thi hành án dân sự, Hà Nội
năm 1993.
6. Chính phủ, Nghị định số 30/CP quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của
cơ quan quản lý công tác thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và
chấp hành viên, Hà Nội năm 1993.
7. Chính phủ, Chỉ thị số 266/1993/CT-TTg ngày 02/6 của Thủ tướng Chính phủ về
triển khai bàn giao và tăng cường công tác thi hành án dân sự trong tình hình
trước mắt, Hà Nội năm 1993.
8. Chính phủ, Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường
và hiệu quả công tác thi hành án dân sự, Hà Nội năm 2001.
9. Chính phủ, Báo cáo số 77/CP-PC về công tác thi hành án dân sự., Hà Nội năm
2003.
10. Chính phủ, Tờ trình số 1087/CP-PC về Dự thảo pháp lệnh thi hành án dân sự (
sửa đổi), Hà Nội năm 2003.
11. Chính phủ, Dự thảo Nghị định quy định về thủ tục cưỡng chề và xử phạt vi phạm
hành chính trong thi hành án dân sự( sửa đổi), Hà Nội năm 2003.
12. Chính phủ, Dự thảo Nghị định quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
quan thi hành án dân sự, chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành án
dân sự( sửa đổi), Hà Nội năm 2004.
13. Quốc hội, Luật 33/2002/QH10 ngày 02/4/2002 về tổ chức Tòa án nhân dân, Hà
Nội năm 2002.
14. Quốc hội, Luật 34/2002/QH10 ngày 02/4/2002 về tổ chức Viện kiểm sát nhân
87
dân, Hà Nội năm 2002.
15. Quốc hội, Luật 11/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về tổ chức Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân, Hà Nội năm 2003
16. Quốc hội, Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Hà Nội năm 2013
17. Quốc hội, Luật 26/2008/QH12 ngày 14/11/2008 Luật thi hành án dân sự, Hà
Nội năm 2008.
18. Quốc Hội, Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 về việc thi hành luật
thi hành án dân sự,Hà Nội năm 2008.
19. Quốc hội, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, Hà
Nội năm 2014.
20. Tổng cục thi hành án dân sự, Quyết định số 1675/QĐ-TCTHA ngày 17/6/2010
về hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự, Hà Nội năm 2010.
21. Tổng cục thi hành án dân sự, Quy trình hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân
sự( Ban hành kèm theo Quyết định số 1675/QĐ-TCTHA ngày 17/6/2010 về
hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự),Hà Nội 2010.
22. Thông tư số 14/2010/TTLT-BTP-VKSNDTC-TANDTC hướng dẫn một số vấn
đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên nghành trong thi hành án dân
sự, Hà Nội năm 2010.
23. Chính phủ, Nghị Định 58/2009/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, Hà Nội
năm 2009.
24. Chính phủ, Nghị định 125/2013/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị
định số 58/2013/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục
thi hành án dân sự, Hà Nội năm 2013.
25. Chính phủ, Nghị Định 166/2013/NĐ-CP quy định về cưỡng chế thi hành quyết
định xử phạt vi phạm hành chính, Hà Nội năm 2013.
26. Chính phủ, Nghị định 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thi hành án dân sự, Hà
Nội năm 2015.
27. Quốc hội, Bộ Luật tố tụng dân sự, Hà Nội năm 2015.
88
28. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thi hành án dân sự, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội năm 2010.
29. Bộ Văn hóa - Thông tin, Quản lý nhà nước về di sản văn hóa và giáo dục truyền
thống ở cơ sở, Tài liệu học tập lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý ngành Văn hóa
- Thông tin, Chuyên đề 11, Hà Nội 2004, tr.153-164.
30. Bùi Văn Yên, Trao đổi về bài vấn đề cưỡng chế đối với người thứ ba Tạp chí
Dân chủ và pháp luật số 5/2010, Hà Nội năm 2010.
31. Hoàng Thọ Khiêm - Nguyễn Khắc Hiếu - Nguyễn Thanh Thủy - Nguyễn Thanh
Phương-Lê Anh Tuấn, Tìm hiểu pháp luật THADS, Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, Hà Nội năm 1999.
32. Cục thi hành án dân sự, Báo cáo công tác thi hành án dân sự, Quảng Ninh năm
2014.
33. Cục thi hành án dân sự, Báo cáo công tác thi hành án dân sự, Quảng Ninh năm
2015.
34. Cục thi hành án dân sự, Báo cáo công tác thi hành án dân sự, Quảng Ninh năm
2016.
35. Cục thi hành án dân sự, Báo cáo công tác thi hành án dân sự, Quảng Ninh năm
2017.
36. Cục thi hành án dân sự, Báo cáo công tác thi hành án dân sự, Quảng Ninh năm
2018.
37. Lê Anh Tuấn, Những điểm mới về cưỡng chế THADS, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2015.
38. Nguyễn Thanh Thủy và Lê Thị Kim Dung, Xử lý tình huống trong THADS và
các văn bản pháp luật về THADS, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2010.
39. Phạm Đức Thành và Nguyễn Văn Nghĩa, Cơ quan THADS trong nhà nước pháp
quyền, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, In tại Công ty TNHH in và thương mại
Sông Nam, Hà Nội năm 2011.
40. Phan Huy Hiếu, Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ,
Hà Nội năm 2011.
41. Nguyễn Công Long, Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp
89
dụng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học luật Hà
Nội, Hà Nội năm 2000.
42. Nguyễn Thanh Thủy, Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ
luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội năm 2001.
43. Lê Xuân Hồng, Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội năm 2002.
44. Nguyễn Quang Thái, Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội năm 2003.
45. Lê Anh Tuấn, Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ
luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội năm 2004.
46. Nguyễn Việt, Quyết định kê biên quyền sử dụng đất ra thời điểm nào? trên Tạp
chí Dân chủ và Pháp luật. Bộ Tư pháp, Số chuyên đề 4/2008, Hà Nội năm 2008.
47. Nguyễn Tất Bắc, Chấp hành viên có được kê biên quyền sử dụng đất của người
phải thi hành án đã được chuyển nhượng cho người khác trước khi có bản án
của tòa án địa phương trên tạp chí Kiểm sát. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Số 17/2014, Hà Nội năm 2014.
48. Nguyễn Minh Hằng và Cao Đức Phong, Kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng
đất để thi hành án thực tiễn và vấn đề trao đổi trên wesite Ban nội chính Trung
ương và Pháp luật Số 7/2008, Hà Nội năm 2008.
49. Đỗ Văn Thịnh, Cưỡng chế thi hành án kê biên, kê biên khẩn cấp tạm thời, giải
toả kê biên trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật Số 12/2010, Hà Nội năm 2010.
50. Hồ Quân Chính, Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch cưỡng chế thi hành
án dân sự trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
51. Bộ tư pháp, Tài liệu Hội nghị sơ kết 2 năm thi hành Luật thi hành án dân sự
năm 2008, Hà nội năm 2011.
52. Bộ tư pháp,Quyết định 141/QĐ/QLTA-THA về phân cấp quản lý về mặt tổ chức
các Tòa án nhân dân, quận, huyện, thị xã thành phố trực thuộc tỉnh và Phòng
thi hành án, Đội thi hành án, Hà Nội năm 2009.
53. Bộ tư pháp, Báo cáo số 10/2003/BC-THA ngày 25/10/2003 về một số tồn tại
90
trong công tác thi hành án dân sự và giải pháp kiên nghị, Hà Nội năm 2003.
54. Bộ tư pháp, Báo cáo số 361/BC-BTP về tổng kết 10 năm công tác thi hành án
dân sự, Hà Nội năm 2003.
55. Ban thường vụ tỉnh ủy, Chỉ thị 07/2011/CT-TU ngày 29/6/2011 về tăng cường
công tác chỉ đạo công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh, Quảng Ninh
năm 2011.
56. Ủy ban nhân dân tỉnh, Chỉ thị số 13/CT-UBND ngày 08/8/2008 về việc tăng
cường nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự, Quảng Ninh năm 2008.
57. Ủy ban nhân dân tỉnh, Quyết định số 2239/2012/QĐ-UBND ngày 04/9/2012 về
việc ban hành quy định về chính sách khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
,công chức và thu hút nhân tài, Quảng Ninh năm 2012.
58. Ủy ban nhân dân tỉnh, Quyết định số 350/2009/QĐ-UBND ngày 13/02/2009 về
việc ban hành kế hoạch thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, Quảng Ninh
năm 2009.
59. Ủy ban nhân dân tỉnh, Quyết định số 3797/2009/QĐ-UBND ngày 26/11/2009
về việc thành lập Ban chỉ đạo thi hành án dân sự, Quảng Ninh năm 2009.
60. Lê Anh Tuấn, Những điểm mới về cưỡng chế THADS, Tạp chí Dân chủ và pháp
luật, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội năm 2015.