BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

-----------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Kinh tế

HOÀNG ĐỨC NAM

Hà Nội - 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

-----------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 8380107

Học viên cao học : Hoàng Đức Nam

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Nguyễn Thị Mơ

Hà Nội - 2019

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của

tôi. Các tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn có trích nguồn rõ ràng, đầy đủ, các

kết quả nghiên cứu là xác thực và trung thực của tác giả.

Tác giả luận văn

Hoàng Đức Nam

ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn trân thành nhất tới sự hướng dẫn hết sức nhiệt

tình của GS. TS Nguyễn Thị Mơ, trường Đại học Ngoại thương

Tôi cũng xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới các cán bộ, giảng viên của

Cơ sở Quảng Ninh, Khoa Luật, Khoa sau đại học của Nhà trường, về sự tận tình,

tận tâm giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn.

Do thời gian và trình độ còn hạn chế, tác giả rất mong nhận được sự góp ý

của các thầy cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.

Trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận văn

Hoàng Đức Nam

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM KẾT ......................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii

DANH MỤC BẢNG ............................................................................................... vii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ .............. viii

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ

PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ........................................................... 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của thi hành án dân sự .......................... 7

1.1.1.Khái niệm về thi hành án dân sự ............................................................. 7

1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự ......................................................... 10

1.1.3. Nội dung của thi hành án dân sự ......................................................... 12

1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thi hành án dân sự ..................... 16

1.2. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của pháp luật về thi hành án dân sự .. 23

1.2.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự ......................................... 23

1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về thi hành án dân sự ................................... 25

1.2.3. Nội dung của pháp luật thi hành án dân sự ........................................ 31

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ........................................................................... 33

2.1. Một số nét về tỉnh Quảng Ninh .................................................................... 33

2.1.1.Về điều kiện tự nhiên ............................................................................. 33

2.1.2. Về phát triển kinh tế .............................................................................. 34

2.1.3. Về văn hóa - xã hội ................................................................................ 35

2.1.4. Công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh .............................. 35

2.2. Thực trạng công tác tổ chức việc thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh37

2.2.1. Thực trạng về cơ cấu tổ chức và hiện trạng đội ngũ cán bộ của cơ

quan thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh .............................................. 37

2.2.2. Thực trạng thực thi pháp luật trong tổ chức việc thi hành án dân sự

tại tỉnh Quảng Ninh ........................................................................................ 39

iv

2.2.3. Các kết quả cụ thể trong tổ chức việc thi hành án dân sự tại tỉnh

Quảng Ninh ..................................................................................................... 40

2.2.4. Nhận xét về thực trạng công tác tổ chức việc thi hành án dân sự tại

tỉnh Quảng Ninh .............................................................................................. 43

2.3. Thực trạng hoạt động cƣỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh .. 44

2.3.1. Tiếp tục gia tăng các vụ việc bị cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh

Quảng Ninh ..................................................................................................... 44

2.3.2. Nguyên nhân của việc gia tăng sự cưỡng chế thi hành án dân sự tại

tỉnh Quảng Ninh .............................................................................................. 46

2.4. Thực trạng hoạt động miễn, giảm thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng

Ninh ....................................................................................................................... 47

2.4.1. Kết quả hoạt động miễn, giảm thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng

Ninh .................................................................................................................. 47

2.4.2. Một số bất cập trong hoạt động miễn, giảm thi hành án dân sự tại tỉnh

Quảng Ninh ..................................................................................................... 48

2.5. Thực trạng hoạt động hoãn thi hành án dân sự tại địa bàn tỉnh Quảng

Ninh ....................................................................................................................... 49

2.5.1. Các trường hợp được hoãn thi hành án dân sự tại địa bàn Quảng

Ninh .................................................................................................................. 49

2.5.2. Kết quả hoạt động hoãn thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh ..... 50

2.6. Nhận xét chung về thực trạng thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Ninh ... 51

2.6.1. Một số khó khăn, hạn chế ..................................................................... 51

2.6.2. Một số bất cập trong thực hiện quy định của pháp luật về thi hành án

dân sự ............................................................................................................... 54

2.6.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập .......................................... 57

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ............................................... 63

3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự ...................... 63

3.1.1. Mở rộng phạm vi bản án, quyết định được thi hành án dân sự ......... 63

v

3.1.2. Cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Điều 72 Luật

Thi hành án dân sự về việc lập Kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự ... 65

3.1.3. Sửa đổi bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục thi hành quyết định

giám đốc thẩm .................................................................................................. 66

3.1.4. Bổ sung các quy định về thi hành án dân sự đối với các bản án liên

quan đế tài sản hình thành trong tương lai ................................................... 67

3.1.5. Bổ sung, sửa đổi cách diễn đạt một số điều luật theo hướng cụ thể

hơn, chi tiết hơn ............................................................................................... 68

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trên

địa bàn tỉnh Quảng Ninh ..................................................................................... 69

3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cơ quan thi hành án dân sự .......................... 69

3.2.2. Các giải pháp đối với cán bộ thi hành án dân sự ................................ 73

3.2.3. Các giải pháp khác ................................................................................ 77

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 85

vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

STT Ký hiệu viết tắt Nội dung viết tắt

Toà án TA 1

Toà án nhân dân TAND 2

Nghiên cứu khoa học NCKH 3

Xã hội chủ nghĩa XHCN 4

Dân sự DS 5

THADS Thi hành án dân sự 6

Hội đồng nhân dân HĐND 7

Uỷ ban nhân dân UBND 8

Bộ luật dân sự BLDS 9

BLTTDS Bộ luật tố tụng dân sự 10

LTHADS Luật thi hành án dân sự 11

vii

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự về việc từ năm 2014-2018 ....................... 41

Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về tiền từ năm 2014-2018 ....................... 42

Bảng 2.3. Số liệu về vụ việc phải cƣỡng chế thi hành án dân sự từ tháng 10/2016-tháng 10/2018 ............................................................................................ 45

viii

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN THẠC SĨ

Đề tại luận văn: “Thực trạng công tác thi hành án dân sự và giải pháp nâng

cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh”.

1. Kết quả đạt đƣợc của Luận văn

- Luận văn đã phân tích và làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến các quy

định của pháp luật về thi hành án dân sự như: khái niệm và đặc điểm của thi hành

án dân sự;nội dung của thi hành án dân sự; các yếu tố ảnh hưởng đến thi hành án

dân sự; khái niệm và đặc điểm của pháp luật thi hành án dân sự;

- Luận văn đã phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản của pháp luật về thi

hành án dân sự, bào gồm: (i). Tổ chức việc thi hành án dân sự; (ii). Cưỡng chế thi hành

án dân sự; (iii). Miễn, giảm thi hành án dân sự; (iv). Hoãn thi hành án dân sự;

- Luận văn đã phân tích và làm rõ thực tiễn thực thi pháp luật về thi hành án

dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh; chỉ ra những bất cập của pháp luật và những

vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật về thi hành án dân sự;

- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật

và giải pháp nhằm nâng cao khả năng thực thi pháp luật về thi hành án dân sự trên

địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

2. Khả năng ứng dụng thực tiễn của Luận văn

- Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức

trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về

công tác thi hành án dân sự.

- Luận văn là tài liệu có tính ứng dụng trong công tác thi hành án dân sự trên

địa bàn tỉnh Quảng Ninh nói riêng và cũng là tài liệu tham khảo cho các cơ quan

trung ương nói chung trong việc lập kế hoạch và tổ chức thực hiện công tác thi hành

án dân sự tại Việt Nam.

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động làm cho các bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật của Tòa án (TA) được thực hiện. Nếu như kết quả của hoạt

động xét xử là đưa ra các phán quyết trên cơ sở áp dụng các điều luật cụ thể thì kết

quả của hoạt động thi hành án là làm cho các phán quyết đó được thực hiện trên

thực tế. Do vậy, thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng có vai trò

quan trọng trong hoạt động tư pháp và đặc biệt là trong quá trình giải quyết vụ án.

Bản án, quyết định của TA chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên thực tế. Hoạt

động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết định của TA

được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã

hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước,

góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ

máy Nhà nước. Để khẳng định tầm quan trọng của hoạt động thi hành án, Điều 106

Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân

có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ

chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành.”

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác thi hành án và yêu cầu cải cách

tư pháp, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm đáp ứng cho công cuộc hội nhập

quốc tế và khu vực. Đảng và Nhà nước ta chủ trương

Để thực thi Hiến pháp năm 1993, Pháp lệnh THADS được ban hành và được

sửa đổi năm 2004; sau đó 4 năm, Luật THADS năm 2008 lần đầu tiên ra đời nhằm

điều chỉnh các vấn đề liên quan đến THADS. Cùng với đó, Quốc hội thông qua

Nghị quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật THADS, theo đó Luật THADS

có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009. Sau một thời gian áp dụng Luật

THADS 2008, nhận thức được tầm quan trọng của công tác THADS và yêu cầu cải

cách tư pháp, hoàn thiện các quy định pháp luật nhằm đáp ứng cho công cuộc hội

nhập quốc tế và khu vực, Quốc Hội tiếp tục ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật THADS(có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015). Nhờ vậy, công tác thi

2

hành án dân sự trong những năm qua đạt được nhiều kết quả, đặc biệt là hệ thống cơ

quan THADS được hình thành trên phạm vi cả nước, công tác THADS đã được

triển khai và hoạt động bước đầu có hiệu quả.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, công tác THADS hiện vẫn đang gặp khó khăn với

nhiều vấn đề còn tồn tại, quy định của pháp luật chưa cụ thể và mang tính bao quát;

nghiệp vụ của cán bộ và Chấp hành viên thi hành án còn hạn chế; hiệu quả công tác

THADS chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và sự quan tâm của Đảng,

Nhà nước và nhân dân; hoạt động thi hành án chưa triệt để, không thật sự bảo đảm

được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Tình trạng này tồn tại trên

phạm vi cả nước, trong đó thể hiện khá rõ nét ở tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh là một tỉnh có diện tích đất rộng, dân số đông, số lượng các bản

án phải được thi hành hàng năm tương đối lớn. Trong thực tế những năm qua, công

tác thi hành án dân sự ở Quảng Ninh đã đạt được những kết quả nhất định: Nhiều vụ

việc phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ chức thi hành dứt điểm; một số bản án

lớn, có tính chất phức tạp, có ảnh hưởng lớn về kinh tế, trật tự an toàn xã hội cũng

đã được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo. Kết quả đạt được nói trên phản ánh

sự cố gắng, nỗ lực của toàn ngành tư pháp nói chung, cũng như đội ngũ cán bộ

THADS nói riêng, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp ủy đảng, chính quyền

địa phương; sự phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu quan trong công tác THADS

của tỉnh Quảng Ninh.

Mặc dù vậy, công tác THADS ở Quảng Ninh vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém,

chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lượng án tồn đọng qua

các năm còn lớn. Nhiều bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật

nhưng chưa được tổ chức thi hành. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên,

trong đó có nguyên nhân liên quan đến quy định pháp luật, nguyên nhân liên quan

đến việc tổ chức thực hiện việc THADS, nguyên nhân đến ý thức pháp luật của

người dân. Ở một số nơi, cấp ủy, chính quyền các cấp chưa nhận thức đầy đủ trách

nhiệm của mình trong việc thực hiện tổ chức, chỉ đạo THADS theo quy định của

pháp luật… Thực tế này đòi hỏi cần có những giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành

án dân sự ở Quảng Ninh nhằm đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới.

3

Với những lý do trên, người viết đã lựa chọn vấn đề “Thực trạng công tác thi

hành án dân sự và giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài cho Luận văn Thạc sĩ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tácTHADS,

đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:

Năm 1998, Cục quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp đã chủ trì thực

hiện đề tài NCKH cấp Bộ với đề tài: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành

án” (mã số 96-98-207/ĐT). Trong 13 chuyên đề nghiên cứu, đề tài đã trình bày các

vấn đề như lịch sử hình thành và phát triển của công tác thi hành án, pháp luật thi

hành án và thực trạng công tác thi hành án trong các lĩnh vực như hình sự, dân sự -

kinh tế... Đây có thể coi là công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về công tác

thi hành án tại Việt Nam. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của đề tài này là vấn đề

thi hành án nói chung, nên việc đánh giá thực trạng pháp luật THADS chưa được

phân tích sâu. Ngoài ra, đề tài cũng không phân tích công tác thi hành án dân sự ở

tỉnh Quảng Ninh.

Đề tài NCKH cấp Nhà nước:“Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi

mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” do Viện

nghiên cứu khoa học pháp lí thuộc Bộ Tư pháp chủ trì (được nghiệm thu năm

2003). Đề tài đã phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động thi hành

án, thực trang tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam cũng như đề

xuất một số kiến nghị đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án tại Việt

Nam. Song đề tài này cũng chưa có những giải pháp cụ thể cho công tác THADS.

Đặc biệt là thời gian thực hiện đề tài này đã từ rất lâu, không liên quan đến thực

trạng THADS tại Quảng Ninh.

Năm 2015, tác giả Hoàng Thế Anh bảo vệ thành công Luận án tiến sĩ Luật

học tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội với đề tài"Giám sát thi hành án dân

sự". Luận án đã nhấn mạnh cơ sở lý luận và thực tiễn về công tác giám sát thi hành

án dân sự, thực trạng giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam và các giải pháp đảm

4

bảo giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam. Luận án không phân tích thực trạng

THADS và công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh.

Năm 2016, tác giả Nguyễn Thị Mai trong Luận văn Thạc sĩ Luật học bảo vệ

tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội về“Thực trạng thi hành án dân sự tại tỉnh

Ninh Bình”đã khái quát một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự ở Việt Nam,

thực trạng thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình và phương hướng, giải pháp nâng

cao chất lượng thi hành án dân sự tại tỉnh Ninh Bình.

Ngoài ra, có thể kể đến một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học như:

“Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật Thi hành án dân sự”, của Nguyễn

Thị Khanh(Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 05/2010); “Công tác cán bộ thi hành

án dân sự - Một số vấn đề từ thực tiễn” của Đinh Duy Bằng(Tạp chí Dân chủ và

Pháp luật, số 09/2010); “Vướng mắc trong hoạt động thi hành án dân sự” của Ngọc

Biên(Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 09/2011); “Một số khó khăn sau hai năm áp

dụng Luật Thi hành án dân sự” của Lạc Phong(Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số

02/2012); “Nguyên nhân của tình trạng án dân sự tồn đọng” của Hoàng Thế

Anh(Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 06/2012)…Các công trình nêu trên đã nghiên

cứu về thi hành án dân sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Các

công trình nghiên cứu trên cũng đã phân tích những vấn đề chung về THADS cũng

như thực trạng THADS ở Việt Nam nói chung và ở một số địa phương.

Tuy nhiên, chưa có Luận văn Thạc sĩ Luật học nghiên cứu dưới góc độ lý

luận và thực tiễn về công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Ninh và đặc biệt sau

khi Luật sửa đổi bổ sung Luật THADS năm 2014 được ban hành. Đây là Luận văn

Thạc sĩ Luật học đầu tiên nghiên cứu thực trạng công tác THADS và giải pháp nâng

cao hiệu quả của công tác THADS tại tỉnh Quảng Ninh.

3, Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác

THADS ở tỉnh Quảng Ninh nhằm chỉ ra những bất cập, yếu kém còn tồn tại. Bên

5

cạnh đó, đề tài luận giải và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác

THADS tại tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau

đây:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự, như khái niệm, đặc

điểm, bản chất và nội dung của THADS và pháp luật về THADS.

- Phân tích những bất cập của pháp luật về thi hành án dân sự.

- Đánh giá thực trạng về công tác THADS ở tỉnh Quảng Ninh và chỉ ra

những kết quả, yếu kém và nguyên nhân của những yếu kém trong hoạt động

THADS tại tỉnh Quảng Ninh.

- Đề xuất các giải pháp sửa đổi, bổ sung pháp luật về THADS và giải pháp nâng

cao hiệu quả công tác THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.

4, Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề liên quan đến THADS

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Đối tượng nghiên cứu của đề tài còn bao gồm các

quy định của pháp luật về THADS và thực tiễn thực thi pháp luật về THADS tại

tỉnh Quảng Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về thời gian: Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian của Luận văn là

giai đoạn từ năm 2008 – năm ban hành Luật THADS đầu tiên của Việt Nam cho

đến nay. Khi đề xuất giải pháp, luận văn đề xuất giải pháp tăng cường công tác

THADS tại Quảng Ninh từ nay cho đến năm 2020 và xa hơn là đến năm 2023.

- Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu công tác thi hành án dân sự

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

- Phạm vi về nội dung: Thi hành án dân sự là hoạt động bao gồm nhiều quy

trình, thủ tục đan xen với những yêu cầu khác nhau. Trong khuôn khổ của luận văn

6

thạc sĩ, nội dung nghiên cứu được giới hạn ở 4 nội dung là: (1) Công tác tổ chức và

thực hiện công tác THADS; (2) Công tác cưỡng chế THADS; (3) Công tác hoãn

THADS; (4) Công tác miễn giảm THADS.

5, Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu truyền thống như:

Phương pháp hệ thống hóa, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương

pháp tổng hợp. Ngoài ra, vì là Luận văn thạc sĩ Luật học, luận văn còn sử dụng

phương pháp so sánh luật học để phân tích các quy phạm pháp luật nhằm chỉ ra

những tiến bộ của pháp luật Việt Nam về THADS. Các phương pháp này được sử

dụng cụ thể, xuyên suốt trong toàn bộ luận văn, trong đó:

Chương 1 của luận văn sử dụng phương pháp hệ thống hóa và phương pháp

phân tích nhằm làm rõ các vấn đề liên quan đến THADS và pháp luật về

THADS.Cũng trong Chương 1, phương pháp so sánh Luật học cũng được sử dụng để

chỉ ra những thay đổi, những tiến bộ của pháp luật Việt Nam về thi hành án dân sự.

Trong Chương 2, luận văn sử dụng phương pháp phân tích và thống kê nhằm

đánh giá thực trạng công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh, đồng thời phân

tích các thông tin và các số liệu về THADS tại tỉnh Quảng Ninh để chỉ ra những kết

quả và bất cập.

Chương 3 sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm luận giải cho

các giải pháp được đề xuất trong Luận văn.

6, Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự và pháp luật về thi

hành án dân sự

Chương 2: Thực trạng công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và nâng cao

hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

7

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ

PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của thi hành án dân sự

1.1.1.Khái niệm về thi hành án dân sự

Xét trong mối quan hệ với quyền lập pháp và quyền hành pháp thì quyền tư

pháp thực hiện xoay quanh trục của hoạt động xét xử, là quá trình đi tìm chân lý để

áp dụng công lý và phán quyết của sự công bằng theo quy định của pháp luật. Toàn

bộ hoạt động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tư pháp khác đều nhằm mục

đích phục vụ công tác xét xử để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà

nước, cơ quan, tổ chức và của công dân. Song, quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ

án mới chỉ là những giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự. Kết thúc giai đoạn xét xử, TA đưa ra những phán quyết về nội dung

vụ án, về người vi phạm pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của các bên. Bản án của

TA thể hiện quyền lực tối cao của Nhà nước trong việc quản lý xã hội, nhằm mục

đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và các chủ thể khác, đảm bảo

trật tự xã hội. Chỉ khi những phán quyết, quyết định, bản án của TA được thực thi

trên thực tế, thì quyền tư pháp của Nhà nước mới được thực hiện một cách trọn vẹn,

công lý mới trở thành hiện thực và trật tự pháp luật mới thực sự được bảo vệ. Chính

vì vậy, Điều 106 Hiến pháp 2013 quy định: “Bản án, quyết định của Toà án nhân

dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan,

tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”.Đây cũng chính là

nguyên tắc mang tính chỉ đạo, xuyên suốt trong mọi hoạt động của các cơ quan nhà

nước. Để bảo đảm tính thượng tôn của pháp luật, đặc biệt trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân,

dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, có thể nói, vấn đề đảm bảo hiệu lực

bản án, quyết định của TA là yêu cầu tất yếu khách quan trong hoạt động Nhà nước,

là nguyên tắc hiến định chỉ đạo toàn bộ tổ chức và hoạt động thi hành án của nước

ta từ nhiều năm nay. Suốt từ năm 1945 tới nay, công tác THADS luôn được coi là

hoạt động của Nhà nước, là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong

chức năng đối nội của Nhà nước ta.

8

Kết thúc quá trình giải quyết các tranh chấp về dân sự. TA ra các bản án,

quyết định, trong đó xác định các quan hệ pháp lý, sự kiện pháp lý, buộc người phải

thi hành án có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc nhiều việc vì

lợi ích của người được thi hành án. Việc thi hành bản án, quyết định của TA là một

giai đoạn độc lập, tiếp theo sau giai đoạn xét xử. Theo luật THADS năm 2008 (sửa

đổi bổ sung năm 2014), đối với hoạt động THADS, các nghĩa vụ phải thi hành liên

quan đến tiền và tài sản – phần “dân sự” trong các bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật.

Hiện nay, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau khi nói về THADS. Do

vậy, khái niệm THADS vẫn chưa được hiểu một cách thống nhất.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, THADS là một hoạt động tư pháp độc lập với

hoạt động tố tụng dân sự (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007, tr.11). Theo quan

điểm này thì có xét xử sẽ phải có thi hành án. Thi hành án chính là việc củng cố kết

quả của công tác xét xử, đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định dân sự của TA

nên thi hành án là giai đoạn độc lập với hoạt động tố tụng. Vì vậy, THADS cũng là

một hoạt động chấp hành nhưng là chấp hành bản án, quyết định dân sự của TA.

Quan điểm thứ hai cho rằng: THADS là một thủ tục hành chính. Theo đó,

quá trình tố tụng chỉ do TA thực hiện(Nguyễn Quang Khải, 2005, tr. 43). Tố tụng là

quá trình tiến hành giải quyết các vụ án theo quy định của pháp luật; quá trình này

sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn, song các giai đoạn ấy lại có mối liên hệ mật thiết

với nhau trong một thể thống nhất chung và xét xử là giai đoạn cuối cùng của quá

trình tố tụng. Vì vậy, bản án, quyết định chính là kết quả đánh dấu sự kết thúc của

quá trình tố tụng đó.

Quan điểm thứ ba lại cho rằng: THADS là một thủ tục hành chính – tư pháp

(Lê Minh Tâm, 2001, tr.22). Tác giả này cho rằng vì THADS có mục đích và bản

chất khác với mục đích và bản chất của tố tụng. Mục đích của tố tụng DS là xác

định chứng cứ để lập lại trạng thái ban đầu của sự việc. Với mục đích đó, toàn bộ

quá trình tố tụng DS được diễn ra theo một quá trình hết sức chặt chẽ và khi có

quyết định giải quyết vụ việc của TA thì quá trình tố tụng DS kết thúc. Trong khi

9

đó, THADS có mục đích là thực thi bản án, quyết định của TA. Quá trình này do các

chủ thể thi hành án tự giác thi hành hoặc do cơ quan có thẩm quyền sử dụng quyền lực

Nhà nước bắt buộc thi hành bằng các biện pháp cưỡng chế. Về bản chất, THADS là

dạng hoạt động chấp hành, quản lý và tiến hành theo phương pháp hành chính. Vì vậy,

THADS phải thuộc chức năng của quyền hành pháp. Tuy nhiên, THADS cũng là một

dạng hoạt động tư pháp vì căn cứ để thi hành án là các bản án, quyết định của TA. Hơn

nữa, THADS còn được thực hiện bởi các cơ quan tư pháp (theo nghĩa rộng). Do đó,

THADS cần được hiểu là một thủ tục hành chính - tư pháp.

Các quan điểm trên xuất phát từ những lý do khác nhau và đều có tính hợp

lý. Tuy nhiên, tác giả ủng hộ quan điểm thứ nhất, theo đó cho rằng, THADS là một

hoạt động tư pháp, độc lập với hoạt động tố tụng dân sự. Bởi lẽ, thi hành án cũng có

những đặc điểm đặc trưng của hoạt động tố tụng dân sự, như là hoạt động bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự vì thông qua thi hành án dân sự, các tổ chức,

cá nhân có hành vi trái pháp luật phải chấm dứt hành vi đó và thực hiện các nghĩa

vụ của mình theo đúng quyết định của TA. Nhờ đó mà quyền và lợi ích hợp pháp

của các chủ thể bị xâm phạm được khôi phục, đảm bảo thực hiện mục đích của tố

tụng DS là bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân. Bên cạnh đó, THADS còn mang tính độc lập, để đảm bảo việc tổ chức thi hành

đúng đắn các bản án, quyết định của TA thì trong quá trình thi hành án các cơ quan

THADS và những người chịu trách nhiệm tổ chức thi hành án phải được độc lập với

các cơ quan, tổ chức và cá nhân khác. Hơn nữa, TA chỉ là một trong những cơ quan

tư pháp mà không phải là cơ quan tư pháp duy nhất nên không thể coi THADS là

một dạng của hoạt động hành chính vì THADS không do TA tổ chức thực hiện.

Từ những phân tích trên đây, tác giả cho rằng: Thi hành án dân sự là hoạt

động của cơ quan thi hành án và của các chủ thể khác theo trình tự, thủ tục nhất

định nhằm tổ chức thực hiện thi hành án bản án, quyết định theo quy định của pháp

luật về thi hành án dân sự.

Thi hành án dân sự là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước, nhằm thực

hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của TA trong thực tiễn. Với ý nghĩa là giai

đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, chỉ khi nào việc thi hành án

10

được giải quyết xong thì quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan Nhà nước, tổ chức

xã hội, công dân mới được đảm bảo, phán quyết của TA mới được thực thi trong

thực tiễn đời sống. Nếu như bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật mà

không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm chỉnh đồng nghĩa với việc trật tự

kỉ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem thường.

Để đảm bảo thi hành các bản án, quyết định về “dân sự” nhằm khôi phục lại tình

trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, pháp luật quy định cơ quan

THADS là cơ quan có thẩm quyền tổ chức thi hành và Chấp hành viên là người có

thẩm quyền tổ chức công tác thi hành án. Trong quá trình thi hành án, Chấp hành viên

và cơ quan THADS phải thực hiện đúng các trình tự, thủ tục pháp luật quy định, đồng

thời đảm bảo quyền tự định đoạt và thỏa thuận của các đương sự.

1.1.2. Đặc điểm của thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự có những đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, THADS là một hoạt động diễn ra sau quá trình xét xử của TA. Các

bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở để tiến hành các hoạt

động THADS. Do đó, có thể khẳng định rằng, không có kết quả của hoạt động xét

xử thì không thể có hoạt động THADS. Song, THADS là một dạng hoạt động tư

pháp, mà không phải là hoạt động tố tụng DS, bởi lẽ xét về mặt bản chất của vấn đề,

THADS hoàn toàn khác với tố tụng DS. Bản chất và mục đích của tố tụng DS là xác

định sự thật của các vụ việc để trên cơ sở đó giải quyết từng trường hợp theo đúng

các quy định của pháp luật. Toàn bộ quá trình tố tụng DS diễn ra theo một trình tự

hết sức chặt chẽ, tuân thủ các nguyên tắc bình đẳng, công khai, dân chủ, tôn trọng

quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Khi có phán quyết của TA,

nghĩa là khi sự thật đã được khẳng định và việc áp dụng pháp luật đã hoàn thành thì

quá trình tố tụng kết thúc. Nếu hình dung bằng hình ảnh thì có thể nói rằng, tố tụng

DS là quá trình đi tìm chân lý để áp dụng công lý (pháp luật), còn THADS là quá

trình thực thi chân lý bằng công lý.

Thứ hai,THADS là hoạt động có tính chấp hành, vì THADS chỉ được tiến

hành trong khuôn khổ pháp luật quy định nhằm thực hiện các bản án, quyết định

11

của TA. Tuy vậy, tính chấp hành trong THADS có những nét đặc thù riêng, bởi lẽ

đây là hoạt động chủ yếu do cơ quan tư pháp (hiểu theo nghĩa rộng) thực hiện. Mặt

khác, cơ sở để tiến hành các hoạt động THADS bao gồm các quy định của pháp luật

và các bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật. Hơn nữa, mục đích cuối

cùng của hoạt động THADS là đảm bảo cho các nội dung của các bản án, quyết

định của TA đã có hiệu lực pháp luật được thực thi mà không phải là ra các văn bản

áp dụng pháp luật hoặc các quyết định có tính chất điều hành như trong hoạt động

của các cơ quan hành chính.

Thứ ba,THADS là hoạt động có tính quản lý, bởi THADS đòi hỏi các yếu tố

kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lý… nhằm tác động tới các đối tượng phải

thi hành án để họ tự nguyện thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi

hành nghĩa vụ đã được xác định trong các bản án, quyết định của TA. Qua đó, giáo

dục họ và những người xung quanh về ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích

tập thể và cá nhân, tôn trọng trật tự, kỷ cương, lỷ luật Nhà nước và đoàn thể…

Trong trường hợp này, tính chất quản lý cũng có những đặc trưng riêng về chủ thể,

đối tượng và khách thể quản lý, phạm vi và phương pháp quản lý.

Thứ tư ,các biện pháp THADS mang tính mệnh lệnh. Cụ thể, mặc dù các

phương pháp giáo dục, thuyết phục có vai trò hết sức cần thiết, nhưng phương pháp

mệnh lệnh, bắt buộc thi hành lại có tính chất đặc trưng. Ngay cả việc tự nguyện thi

hành của người phải THADS cũng dựa trên cơ sở họ nhận thức được tính bắt buộc

và sự cưỡng chế trong việc các cơ quan THADS thực thi bản án, quyết định của TA

đã có hiệu lực pháp luật.

Thứ năm, THADS đòi hỏi phải có sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan.

Do vậy, THADS không chỉ là hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ đơn thuần mà còn

có ý nghĩa chính trị, xã hội rộng lớn, đòi hỏi phải có sự tham gia của nhiều cấp,

ngành, cơ quan khác nhau.

Xuất phát từ những đặc điểm trên đây, có thể hiểu vì sao nói bản chất của

THADS chính là hoạt động hành chính tư pháp mang tính quyền lực Nhà nước, do

các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật

12

quy định, nhằm buộc các cá nhân, tổ chức phải thực hiện các nghĩa vụ theo bản án,

quyết định của TA.

1.1.3. Nội dung của thi hành án dân sự

1.1.3.1. Tổ chức thực hiện việc thi hành án dân sự

Tổ chức thực hiện việc THADS là tổ chức việc thực hiện quyết định THADS

của Thủ trưởng cơ quan THADS theo quy định của pháp luật về THADS. Sau khi

kết thúc quá trình giải quyết các tranh chấp về dân sự, TA ra các bản án, quyết định,

trong đó xác định các quan hệ pháp lý, sự kiện pháp lý, buộc người phải thi hành án

có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc không thực hiện một hoặc nhiều việc vì lợi ích của

người được thi hành án. Trên cơ sở bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật do TA

chuyển giao hoặc đơn yêu cầu thi hành án của đương sự, cơ quan THADS quyết

định thi hành án và thụ lý, tổ chức việc thi hành án. Thủ tục này độc lập với các thủ

tục khác trong việc giải quyết vụ án hoặc vụ kiện trọng tài. Việc THADS là quá

trình diễn ra sau quá trình xét xử của TA, còn bản án, quyết định đã có hiệu lực là

cơ sở để tiến hành thực hiện các thủ tục thi hành án. Như vậy, việc thi hành bản án,

quyết định của TA là một giai đoạn độc lập, tiếp theo sau giai đoạn xét xử.

Tổ chức thực hiện việc THADS bao gồm việc THADS có điều kiện thi hành

và việc THADS chưa có điều kiện thi hành. Căn cứ để phân loại việc thi hành án có

điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi hành chính là các điều kiện để thi hành

án. Thông qua hoạt động xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án,

cơ quan thi hành án sẽ tập trung thời gian, nhân lực, chi phí cho những việc thi hành

án có điều kiện thi hành; đồng thời tiết kiệm công sức, tiền bạc dành cho các việc

thi hành án chưa có điều kiện thi hành. Do đó, có thể nói, việc xác định và phân loại

việc tổ chức thực hiện THADS có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công

tác THADS, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác THADS; giảm

án tồn đọng, đồng thời giảm áp lực đối với cơ quan THADS.

1.1.3.2. Cưỡng chế thi hành án dân sự

Cưỡng chế là việc dùng quyền lực Nhà nước bắt buộc cá nhân, tổ chức thực

hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định trái với ý muốn của họ. Cưỡng

13

chế gắn liền với hoạt động quản lý Nhà nước và là phương pháp thường xuyên được

áp dụng trong quản lý Nhà nước, trong đó có quản lý THADS. Khoản 2 Điều 9 Luật

THADS năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014) quy định: “Người phải thi hành án

có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành thì bị cưỡng chế thi hành án

theo quy định của Luật này.” Như vậy, người phải thi hành án phải tự nguyện thi

hành án khi có điều kiện, nếu không tự nguyện thì chủ thể có thẩm quyền thi hành

án sẽ ra quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế.

Vì vậy, có thể hiểu cưỡng chế THADS là biện pháp cưỡng chế của cơ quan

thi hành án do chủ thể có thẩm quyền quyết định, bắt buộc đương sự phải thực hiện

những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của TA đã có hiệu

lực pháp luật. Hiệu quả hoạt động cưỡng chế THADS ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu

quả công tác thi hành án. Do vậy, cưỡng chế THADS được áp dụng trong trường

hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi

hành trong thời hạn do Chấp hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần ngăn

chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản. Cưỡng chế THADS là biện

pháp nghiêm khắc nhất dành cho người phải THADS, do đó, Chấp hành viên trong

quá trình tổ chức thi hành án không được áp dụng một cách tùy tiện mà phải tuân

thủ những nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc đó bao gồm:

Thứ nhất, chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế được pháp luật quy định, các

biện pháp đó bao gồm: (1) Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ

có giá của người phải thi hành án. (2) Trừ vào thu nhập của người phải THADS. (3)

Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba

chiếm giữ. (4) Khai thác tài sản của người phải thi hành án. (5) Buộc chuyển giao

vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ. (6) Buộc người phải thi hành án thực hiện

hoặc không được thực hiện công việc nhất định.

Thứ hai, chỉ được áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS sau khi đã hết thời

hạn tự nguyện thi hành án, trừ trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có

hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Theo đó, thời

hạn tự nguyện thi hành án là 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được

quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Ngoài ra,

14

cơ quan THADS không tổ chức cưỡng chế thi hành án có huy động lực lượng trong

thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày truyền thống đối với các

đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án. Quy định này xuất phát từ

mục đích nhân đạo của Nhà nước đối với người phải THADS

Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp

cưỡng chế THADS. Việc tổ chức cưỡng chế phải tương ứng với nghĩa vụ của người

phải thi hành án và các chi phí cần thiết khác. Chấp hành viên phải ước tính giá trị

tài sản để làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS. Trường hợp

người phải thi hành án chỉ có một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều so với nghĩa vụ

phải thi hành án mà tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia sẽ làm

giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp

bảo đảm, cưỡng chế thi hành án.

Thứ tư, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải căn cứ vào bản án, quyết

định và từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể trong quá trình tiến hành công tác thi hành

án dân sự. Nguyên tắc này đòi hỏi rất cao về mặt chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh

nghề nghiệp, đạo đức của Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế THADS có

thuận lợi hay không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình hình an ninh,

chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay không tùy

thuộc vào việc có áp dụng thống nhất nguyên tắc này trên thực tế hay không. Thực

tiễn cho thấy, đối với những vụ việc có giá trị lớn, người phải THADS hầu như

không tự nguyện thi hành, buộc cơ quan THADS phải tổ chức cưỡng chế theo quy

định của pháp luật, song nếu tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành án

không đúng, không thành công sẽ gây ra nhiều hậu quả tiêu cực đối với xã hội.

1.1.3.3. Hoãn thi hành án dân sự

Về nguyên tắc, khi bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật thì tổ

chức, cá nhân được thi hành án có thể làm đơn yêu cầu Cơ quan THADS thi hành

án. Tuy nhiên, để đảm bảo vụ việc được xem xét cẩn trọng, đảm bảo quyền và lợi

ích của nhà nước, của công dân thì trong một số trường hợp theo quy định của pháp

luật, cơ quan THADS được quyền ra quyết định hoãn THADS. Do vậy, hoãn

15

THADS là việc cơ quan THADS quyết định chưa tổ chức thi hành bản án, quyết

định khi có căn cứ mà pháp luật quy định. Khi ra quyết định hoãn THADS, cần xác

định các căn cứ hoãn thi hành án và hậu quả pháp lý của việc hoãn thi hành án. Có

thể phân chia căn cứ để cơ quan thi hành án ra quyết định hoãn THADS thành hai

trường hợp như sau:

Thứ nhất, thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định hoãn thi hành án vì lý

do khách quan như: Người phải THADS bị ốm nặng, bị mất hoặc bị hạn chế năng

lực hành vi dân sự theo quyết định của TA; Chưa xác định được địa chỉ của người

phải thi hành án; Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; Tài sản để thi hành án đã được

TA thụ lý để giải quyết... Luật không quy định thời hạn hoãn đối với quyết định

hoãn của Thủ trưởng cơ quan THADS trong những trường hợp này.

Thứ hai, thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định hoãn THADS khi nhận

được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị. Đối với

trường hợp này, pháp luật quy định rõ về thời điểm tiếp nhận yêu cầu cũng như thời

hạn hoãn. Theo đó, thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định hoãn ít nhất là 24 giờ

trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết định cưỡng chế.

Đối với trường hợp cơ quan THADS nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người

có thẩm quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã được ấn định

trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì thủ trưởng cơ quan THADS có quyền

quyết định hoãn thi hành án khi xét thấy cần thiết.

1.1.3.4. Miễn, giảm thi hành án dân sự

Miễn THADS là trường hợp người phải thi hành được TA có thẩm quyền

quyết định không phải nộp toàn bộ số tiền hoặc phần còn lại của số tiền mà họ phải

nộp đối với khoản thu ngân sách Nhà nước. Giảm nghĩa vụ THADS là trường hợp

người phải thi hành khoản thu nộp ngân sách Nhà nước được TA có thẩm quyền

quyết định chỉ phải nộp một số tiền thấp hơn số tiền mà đáng lẽ họ phải nộp cho

ngân sách Nhà nước.

Miễn, giảm THADS là một quy định mang tính nhân đạo của Nhà nước, chỉ

được áp dụng trong những trường hợp do pháp luật quy định. Việc đề nghị miễn

16

giảm nghĩa vụ THADS do cá nhân người phải thi hành án hoặc các cơ quan

THADS làm hồ sơ thủ tục để xét miễn giảm THADS khi họ có đủ điều kiện. Đối

với trường hợp đương sự trực tiếp đề nghị xin được miễn, giảm thì trong thời hạn

10 ngày kể từ ngày nhận được đơn, Chấp hành viên được giao thi hành vụ việc phải

xác minh, nếu đủ điều kiện để xét miễn, giảm thì lập hồ sơ xét miễn, giảm thi hành

án theo quy định. Đối với trường hợp chưa đủ điều kiện xét miễn, giảm thi hành án

thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn, Chấp hành viên

được giao thi hành vụ việc phải thông báo bằng văn bản cho người có đơn đề nghị

xét miễn, giảm thi hành án biết. Đối với trường hợp các các cơ quan thực hiện

THADS làm hồ sơ thủ tục để xét miễn giảm THADS thì Chấp hành viên được giao

thi hành vụ việc tiến hành xác minh, lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án và

báo cáo thủ trưởng cơ quan THADS về văn bản đề nghị TA có thẩm quyền xét

miễn, giảm thi hành án.

1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thi hành án dân sự

Việc THADS hiệu quả hay không hiệu quả phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong

đó các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến công tác THADS là 8 yếu tố sau đây:

1.1.4.1. Sự đồng bộ, sự phù hợp giữa pháp luật thi hành án dân sự với pháp luật

khác

Sự đồng bộ phù hợp giữa pháp luật THADS với pháp luật khác là một trong

những yếu tố có sự ảnh hưởng nhất định tới công tác THADS. Nhờ có sự phù hợp

và đồng bộ giữa các quy định của pháp luật THADS và các pháp luật chuyên ngành

khác, quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định của TA diễn ra nhanh chóng,

thuận lợi, chính xác, đúng với các quy định pháp luật từ khâu tiếp nhận đơn yêu cầu

thi hành án đến quá trình xác minh, đôn đốc tổ chức thi hành, miễn giảm nghĩa vụ

và cuối cùng là kết thúc thi hành án. Nếu bản án, quyết định của TA chỉ nằm trên

giấy, không được thực thi trên thực tế thì không những không thể hiện được nguyên

tắc thượng tôn pháp luật mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp

của nhà nước, tổ chức, công dân, dẫn đến việc khiếu nại, tố cáo, bức xúc kéo dài

của đương sự và những người có quyền và lợi ích liên quan.

17

Nếu thiếu sự phù hợp và đồng bộ giữa pháp luật THADS với các luật khác,

hệ quả trực tiếp nhất chính là sự tác động tiêu cực đến công tác THADS, thể hiện rõ

nét nhất trong quá trình tổ chức thi hành án. Một khi mỗi khâu, mỗi thủ tục có sự

chênh nhau giữa Luật thi hành án và những Luật chuyên ngành khác, thì Bản án,

quyết định của TA rất khó thi hành hoặc thậm chí không thể thi hành trên thực tế.

Liên quan đến việc xử lý tài sản của người phải thi hành án là các quy định của

pháp luật thương mại về thủ tục bán đấu giá tài sản, hay như quy đình của pháp luật

đất đai về thủ tục hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên thực tế đã gây nhiều

khó khăn trong quá trình tổ chức thi hành án của cơ quan THADS. Như một hệ lụy

tất yếu, kết quả thi hành án đạt thấp, số lượng việc và tiền tồn đọng từ năm này sang

năm khác, có những vụ việc có điều kiện thi hành nhưng không thể thu hồi và giải

quyết, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của không chỉ các cá nhân, tổ chức

mà còn xâm phạm đến lợi ích nhà nước. Và nếu tình trạng đó kéo dài, chắc chắn sẽ

làm giảm niềm tin của nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật và sự quản

lý của nhà nước, xa hơn thậm chí có thể làm mất trật tự an ninh xã hội.

1.1.4.2. Nguồn nhân lực thực hiện công tác thi hành án dân sự

Hiệu quả, tính đúng đắn của việc THADS phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ,

nguồn nhân lực thực hiện công tác THADS, bởi họ là những người tiến hành các

thủ tục, trình tự cần thiết để thực hiện công tác thi hành án. Cán bộ THADS đóng

vai trò quyết định trong việc thúc đẩy hoặc kìm hãm hoạt động thi hành án dân sự,

đặc biệt là đội ngũ Chấp hành viên, thư ký thi hành án. Họ là những người trực tiếp

tiến hành các hoạt động thi hành án, như ra quyết định thi hành án; xác minh tài sản,

điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án

hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác

liên quan đến thi hành án; quyết định áp dụng biện pháp đảm bảo thi hành án; lập kế

hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án; yêu cầu cơ quan công an

tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo quy định của pháp luật; lập biên bản

về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm

quyền; đồng thời kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kỉ luật, xử phạt

18

vi phạm hành chính hoặc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền,

tài sản đã chi trả cho đương sự không đúng theo quy định của pháp luật; thu phí thi

hành án và các khoản lệ phí khác. Như vậy, có thể thấy, yêu cầu đối với số lượng và

chất lượng đội ngũ cán bộ THADS cần được coi trọng hơn, bởi chất lượng đội ngũ

cán bộ THADS luôn được đặt ra bởi đây chính là yếu tố có tính quyết định đối với

chất lượng và hiệu quả của công tác THADS.

1.1.4.3. Sự phối hợp tổ chức của chính quyền các cấp đối với công tác thi hành án

dân sự

Tại các Điều 173, 174, 175 của Luật THADS năm 2008 (sửa đổi bổ sung

năm 2014) đã quy định cụ thể về nhiệm vụ quyền hạn của UBND các cấp đối với

các công tác THADS. Vai trò của UBND các cấp và chính quyền địa phương đối

với công tác THADS có ý nghĩa quan trọng đối với kết quả của công tác THADS.

Vì vậy, sự phối hợp tích cực của các ban ngành đoàn thể, chính quyền, các cấp

trong THADS từ tỉnh đến huyện, việc xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của

người phải thi hành án; xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến

thi hành án sẽ đạt được hiệu quả và giảm thiểu đáng kể thời gian cũng như công sức

trong quá trình thực hiện của Chấp hành viên. Ngược lại, nếu thiếu sự phối hợp giữa

các cơ quan, chính quyền các cấp trong công tác THADS thì hiệu quả của của hoạt

động THADS sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.

Đối với hoạt động nghiệp vụ của Chấp hành viên, thực tế việc thi hành án

cho thấy, để thi hành một bản án, quyết định của TA có tính phức tạp, Chấp hành

viên, phải thực hiện nhiều thủ tục, liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, từ các

thông báo, tống đạt các loại giấy tờ, quyết định thi hành, xác minh điều kiện nhân

thân, tài sản của các đương sự và áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng

chế để thi hành án. Chỉ một trong các khâu phối hợp thực hiện thông tốt sẽ ảnh

hưởng đến tiến độ giải quyết của toàn bộ quá trình thi hành án. Do vậy, Chấp hành

viên và Cơ quan THADS rất cần đến sự phối hợp có trách nhiệm của các cơ quan

hữu quan, các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị để công tác THADS đem

lại hiệu quả cao hơn nữa trên thực tế, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và sự mong đợi của

toàn xã hội.

19

1.1.4.4. Sự phối hợp của các cơ quan hữu quan trong tổ chức thi hành án dân sự

Công tác THADS là hoạt động mang tính thực tiễn xã hội rộng rãi, có liên

quan trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và các cá nhân, tổ chức

có liên quan. Do đó, công tác THADS có tác động không nhỏ đến đời sống xã hội

nói chung. Chính vì vậy, sự sự phối hợp tích cực giữa công tác THADS và nhiều cõ

quan nhà nýớc khác nhau nhý Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, các cơ quan liên

quan đến Thuế, Tài chính, Tài nguyên môi trường, Xây dựng, Ngân hàng, Kho bạc,

Bảo hiểm sẽ có tác động tích cực đến hoạt động tổ chức THADS.

Với sự gia tăng không những về số lượng mà còn về mức độ phức tạp của

các việc thi hành án hàng năm, để hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt là đối với các việc

thi hành án phức tạp, Chấp hành viên thường xuyên phải thực hiện nhiều thủ tục,

liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau, từ các thông báo, tống đạt các loại giấy tờ,

quyết định thi hành, xác minh điều kiện nhân thân, tài sản của các đương sự và áp

dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để thi hành án. Chỉ một trong

các khâu phối hợp thực hiện thông tốt sẽ ảnh hưởng đến tiến độ của toàn bộ quá

trình giải quyết thi hành án. Chính vì vậy, sự phối hợp có trách nhiệm của các cơ

quan hữu quan, các tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị sẽ có một vai trò quan

trọng để công tác THADS đem lại hiệu quả cao hơn nữa trên thực tế.

Chính sự phối kết hợp nhịp nhàng giữa Cơ quan THADS và các cơ quan hữu

quan trong việc thực hiện pháp luật THADS khiến cho việc thi hành án trở nên

thuận lợi, nghiêm túc và nhanh chóng. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và

các quyết định khác thuộc thẩm quyền thi hành của Cơ quan THADS là một khâu

quan trọng nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Để công tác THADS đạt

hiệu quả cao, trong giai đoạn hiện nay, cơ quan thi hành án không thể hoạt động

một cách biệt lập mà đòi hỏi phải liên tục đổi mới và có sự phối hợp chặt chẽ với

các cơ quan, ban ngành, tổ chức, cá nhân có liên quan. Đồng thời, các cơ quan ban

ngành, tổ chức, cá nhân có liên quan cũng có trách nhiệm chủ động trong việc phối

hợp hỗ trợ, giúp đỡ cho Cơ quan THADS trong việc thi hành án. Chính sự tác động,

hỗ trợ qua lại giữa các cơ quan ban ngành, tổ chức chính trị và các cơ quan thi hành

án sẽ tạo nên sự gắn kết, không chỉ nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án mà

20

còn tăng cường sự phối hợp và phát triển toàn bộ hệ thống cơ quan nhà nước trong

giai đoạn hiện nay.

Ở Việt Nam, cơ quan THADS là cơ quan thuộc hệ thống cơ quan hành pháp

do Chính phủ thống nhất quản lý. Trong quá trình tổ chức thi hành án, Cơ quan thi

hành án phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan ban ngành, tổ chức, cá nhân có liên

quan mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Mặt khác, trong phạm vi chức

năng nhiệm vụ quyền hạn trách nhiệm của mình, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác

cũng có trách nhiệm phối hợp hỗ trợ, giúp đỡ cho Cơ quan thi hành án và Chấp

hành viên trong việc thi hành án theo các quy định của pháp luật. Thực hiện tốt

công tác phối hợp giữa các ngành góp phần giải quyết việc THADS đạt hiệu quả

cao, tiết kiệm được thời gian, công sức và chi phí phát sinh không cần thiết trong

quá trình thi hành án.

1.1.4.5. Chất lượng của các Bản án, quyết định của TA

Thực tiễn cho thấy khi xét xử, việc TA đưa ra các Bản án, quyết định công

bằng, đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức cá

nhân, có ý nghĩa quan trọng đối với việc THADS trên thực tế. Tuy nhiên, để có thể

đưa ra được những phán quyết, những Bản án, quyết định công bằng, đúng pháp

luật thì bên cạnh những yêu cầu như phải xét xử đúng người, đúng tội, tuân thủ

đúng theo các quy định của pháp luật, đòi hỏi Thẩm phán phải cân nhắc đến khả

năng chấp hành của đương sự để quyết định những nghĩa vụ về tài chính phù hợp

với tình hình thực tế của họ, đồng thời áp dụng biện pháp bảo đảm việc thi hành án

sau này. Bởi nếu mức phạt nằm ngoài khả năng tài chính của đương sự thì kết quả

cuối cùng chỉ là một phán quyết nằm trên giấy, mục đích bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của các cá nhân, tổ chức có liên quan không đạt được. Nói cách khác, việc

bản án, quyết định có nội dung liên quan đến nghĩa vụ tài chính phải thực hiện của

các đương sự vượt quá khả năng tài chính của họ sẽ khiến cho việc thực thi Bản án

gặp nhiều khó khăn, kéo theo hiệu quả của hoạt động thi hành án giảm sút, bởi lẽ,

cùng một Bản án, quyết định đối với một vụ việc, nhưng đội ngũ Chấp hành viên

phải thực hiện nhiều lần, trong thời gian kéo dài, phát sinh lãng phí về các loại chi

21

phí đối với hoạt động nghiệp vụ của Chấp hành viên, mà thực chất chính là lãng phí

ngân sách Nhà nước.

1.1.4.6. Tính chất phức tạp của vụ việc

Kết quả công tác THADS cao hay thấp, quá trình tổ chức thi hành án nhanh

hay chậm, phụ thuộc một phần vào tính chất của vụ việc đưa ra thi hành. Vì vậy,

tính chất phức tạp của vụ việc cũng là yếu tố tác động đến công tác THADS. Đối

với những vụ việc đơn giản thì việc tổ chức thi hành của cơ quan thi hành án được

diễn ra nhanh chóng, chính xác. Tuy nhiên, đối với những vụ việc có tính chất phức

tạp, có số người phải thi hành án nhiều hoặc số tiền phải thi hành lớn hay khi tổ

chức thi hành án có thể ảnh hưởng đến kinh tế và chính trị, trật tự an toàn xã hội thì

sẽ gây rất nhiều khó khăn cho cơ quan thi hành án và Chấp hành viên trong quá

trình tổ chức thi hành. Có những vụ việc sau nhiều năm đưa ra thi hành nhưng

không đạt được kết quả, dẫn đến tình trạng việc và tiền tồn đọng kéo dài từ năm này

sang năm khác. Thực tiễn công tác THADS những năm gần đây cho thấy, ngày

càng nhiều vụ án kinh tế đặc biệt nghiêm trọng với số tiền phải thu lớn, có nhiều

người phải thi hành án và các đối tượng phải chịu mức án cao trong khi họ không

còn tài sản để thi hành. Chính vì vậy, tính chất phức tạp của vụ việc là một yếu tố

khách quan có ảnh hường đến kết quả của công tác THADS.

1.1.4.7. Cơ chế quản lý thông tin về thu nhập và tài sản của chủ thể phải thi hành

án

Hiệu quả của công tác THADS chịu sự tác động của cơ chế quản lý thông tin

về thu nhập và tài sản của người phải thi hành án. Việc quản lý chặt chẽ thông tin

này tạo điều kiện cho các Chấp hành viên có thể quản lý và xem xét về khả năng thi

hành của đương sự trong từng vụ việc, góp phần đẩy nhanh tiến độ khi các cơ quan

thi hành án tổ chức thực hiện thi hành án. Pháp luật THADS quy định người bị thi

hành án có nghĩa vụ cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án như địa chỉ, tình

trạng, tài sản, thu nhập, hoàn cảnh kinh tế. Tuy nhiên, trong thực tế, quy định này

chưa khả thi vì hiện nay cơ chế đăng ký quyền sở hữu tài sản còn nhiều bất cập.

Bên cạnh đó, thực tế hiện nay chưa có quy định truy tìm nguồn gốc thu nhập, tài

22

sản, làm cho công tác thi hành án còn gặp nhiều khó khăn trong việc xác minh điều

kiện thi hành án, ngăn chặn việc tẩu tài sản và cưỡng chế thi hành án.

Nhiều trường hợp Chấp hành viên mặc dù biết người thi hành án có tài sản,

có thu nhập nhưng đành bất lực không thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với họ

vì chưa có cơ quan, tổ chức nào theo dõi, quản lý tài sản, thu nhập của họ, đặc biệt

là những người làm công việc tự do, rất khó hoặc thậm chí là không thể xác định

chính xác thu nhập hàng tháng hoặc thu nhập theo năm của nhóm đối tượng này. Do

vậy, khi Cơ quan THADS xác minh điều kiện thi hành án thì có rất nhiều người ở

trong tình trạng không có tài sản để thi hành, kết quả là cơ quan thi hành án phải trả

đơn yêu cầu thi hành án cho người được thi hành án với lý do người phải thi hành

án chưa có điều kiện thi hành án.

1.1.4.8. Ý thức pháp luật của người dân

Ý thức pháp luật của người dân cũng là yếu tố tác động đến công tác

THADS. Ý thức pháp luật thể hiện nhận thức, thái độ, tình cảm của cá nhân đối với

pháp luật, quyết định hành vi của cá nhân là hợp pháp hay không hợp pháp. Người

có ý thức pháp luật cao là người luôn biết điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với

yêu cầu của pháp luật, có niềm tin đối với pháp luật và công lý, có thái độ kiên

quyết đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, trong lĩnh vực thi

hành án dân sự, nếu các bên đương sự, các cá nhân, tổ chức trong xã hội đều có ý

thức pháp luật, biết điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với những quy định của

pháp luật thì việc THADS trên thực tế sẽ dễ dàng, thuận lợi và mang lại hiệu quả.

Ngược lại, nếu ý thức pháp luật của người dân không cao thì hiệu quả của công tác

THADS cũng không thể cao.

Đối với người phải thi hành án, có thể vì những lý do khác nhau, họ có

những hành vi can thiệp vào quá trình giải quyết của Chấp hành viên với mục đích

kéo dài hoặc rút ngắn thời hạn thi hành án sao cho có lợi cho bản thân. Thậm chí c n

dùng vật chất để tác động, mua chuộc, làm cho Chấp hành viên giải quyết vụ việc

theo chiều hướng có lợi cho họ hơn so với thực tế trong bản án hoặc quyết định có

hiệu lực pháp luật. Nhiều trường hợp, do sự hiểu biết pháp luật thấp, đương sự đã có

23

những hành vi tiêu cực, chống đối một cách mù quáng đối với Chấp hành viên, cán

bộ thi hành án, thông thường là lăng mạ, sỉ nhục, vu khống Chấp hành viên nhằm

cản trở việc thi hành án. Có trường hợp, đương sự còn thuê người bao vây, tấn

công, tạo áp lực, nặng hơn là dùng những hành vi bạo lực như đe dọa, hành hung

cán bộ, chấp hành viên khi họ đang thực hiện công vụ. Đối với các đương sự có sự

hiểu biết pháp luật, họ tìm cách tẩu tán tài sản của mình hoặc gửi đơn thư khiếu nại

không có căn cứ nhằm cản trở, kéo dài thời hạn thi hành án trên thực tế với mục

đích gây khó dễ cho Chấp hành viên. Bên cạnh đó, ở nhiều địa phương, do tâm lý

“làng xã” vẫn còn tồn tại nên ngay cả một bộ phận cán bộ cơ quan nhà nước có

thẩm quyền cũng dễ đặt tình cảm lên trên việc chấp hành pháp luật, hoặc không

dám trực tiếp thi hành án đối với những đối tượng mà mình có quan hệ thân quen.

Có thể nói, ý thức pháp luật là một yếu tố có sự ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình

triển khai, tổ chức THADS trên thực tế.

1.2. Khái niệm, đặc điểm và nội dung của pháp luật về thi hành án dân sự

1.2.1. Khái niệm pháp luật về thi hành án dân sự

Học thuyết Mác Lênin về Nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong lịch sử đã

lý giải một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và những mối quan

hệ của nó với các hiện tượng xã hội khác nhau trong xã hội có giai cấp. Theo đó,

pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của Nhà nước và chỉ phát sinh, tồn tại, phát triển

trong xã hội có giai cấp. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước

ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, được Nhà nước đảm

bảo thực hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng chế, để điều chỉnh các quan hệ xã hội,

duy trì xã hội trong một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị.

Hệ thống pháp luật hình thành khi hệ thống các nước được tạo lập ở thế kỉ

XX. Trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và đề cao lợi ích xã hội, lợi

ích Nhà nước, hệ thống pháp luật được xây dựng và không ngừng phát triển theo

từng giai đoạn nhất định. Có thể định nghĩa pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự

chung, thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí toàn dân, được

Nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, cưỡng

24

chế, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội nhất định.Với vị trí là một bộ phận của hệ

thống pháp luật chung, pháp luật Việt Nam ra đời, tồn tại và phát triển cùng với sự

ra đời của Nhà nước Việt Nam DCCH (mà nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam),

mang những nét đặc trưng và chịu sự chi phối của các yếu tố kinh tế - chính trị, văn

hóa – xã hội và truyền thống, lịch sử dân tộc.

Pháp luật về THADS là một bộ phận cấu thành trong hệ thống pháp luật của

Việt Nam, có vai trò đảm bảo cho việc THADS có hiệu quả và nâng cao được ý

thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội. Như vậy, có thể hiểu, pháp luật

THADS bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ liên

quan đến THADS.

Trước đây, hoạt động THADS được xem là một dạng của hoạt động tố tụng

ds nên tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa cơ quan

THADS, cá nhân, cơ quan, tổ chức phát sinh trong quá trình THADS được coi là

chế định cơ bản của Pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, theo xu thế phát triển của

khoa học pháp lý ở Việt Nam, các ngành luật ngày càng được chia nhỏ hơn, quy

định cụ thể hơn và bám sát sự thay đổi, phát triển của cuộc sống, theo đó, tập hợp

các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong một lĩnh vực nhất

định cũng không nằm ngoài quy luật tất yếu này và trở thành một hệ thống quy

phạm pháp luật riêng. THADS có sự độc lập tương đối và có nhiệm vụ khác với các

việc giải quyết vụ việc dân sự như trong quá trình tố tụng dân sự. Trong THADS,

các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không xem xét lại vụ việc dân sự, không ra

quyết định giải quyết lại nội dung vụ việc dân sự mà chỉ áp dụng các biện pháp cần

thiết nhằm tổ chức thực hiện các quyết định trong Bản án, quyết định dân sự của

TAđược đưa ra thi hành. Các hành vi của cơ quan, tổ chức và cá nhân tham gia vào

quan hệ THADS cũng chỉ nhằm thực hiện các Bản án, quyết định DS đó và không

có mục đích làm sáng tỏ vụ việc như trong quá trình giải quyết các vụ việc DS, do

đó, tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa các cơ quan thi

hành án dân sự, Văn phòng thừa phát lại với đương sự, cá nhân, cơ quan và tổ chức

phát sinh trong quá trình THADS có thể trở thành một ngành luật độc lập mang tên

Pháp luật về thi hành án dân sự.

25

Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu Pháp luật về thi hành án dân sự là

tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ giữa Cơ quan thi hành án

dân sự, Văn phòng thừa phát lại với đương sự, các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên

quan đến việc thi hành án dân sự, phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự,

nhằm đảm bảo việc thi hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,

bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong xã hội.

1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về thi hành án dân sự

1.2.2.1. Đặc điểm về chủ thể

Chủ thể của pháp luật về THADS bao gồm hai loại là chủ thể có quyền thực

hiện THADS và chủ thể có nghĩa vụ thực hiện THADS.

Thứ nhất, về chủ thể có quyền thực hiện THADS, hiện nay, nhóm chủ thể

này bao gồm cơ quan THADS và Văn phòng Thừa phát lại. Cơ quan THADS là cơ

quan Nhà nước có chức năng tổ chức thực hiện việc THADS. Khoản 2 Điều 13

Luật THADS năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014) quy định, cơ quan THADS

gồm hai cấp là cơ quan thi hành án cấp tỉnh và cấp quận, huyện thị xã, thành phố

thuộc tỉnh. Ngoài ra, đối với những bản án quyết định của TA quân sự thì việc thi

hành án thuộc về thẩm quyền của cơ quan THADS cấp quân khu. Trong cơ quan

THADS có Chấp hành viên cao cấp, trung cấp, sơ cấp và cán bộ làm công tác thi

hành án, đứng đầu là thủ trưởng cơ quan THADS. Điều 13 đồng thời quy định về

nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THADS cấp tỉnh là quản lý, chỉ đạo về THADS

trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bao gồm các nhiệm vụ cụ thể

như: Bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong hoạt động

THADS; Chỉ đạo hoạt động THADS đối với cơ quan THADS cấp huyện; hướng

dẫn nghiệp vụ THADS cho Chấp hành viên, công chức khác của cơ quan thi

THADS trên địa bàn; Kiểm tra công tác THADS đối với cơ quan thi hành án cấp

huyện; Tổng kết thực tiễn THADS; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ

chức, hoạt động THADS theo hướng dẫn của cơ quan quản lý THADS thuộc Bộ Tư

pháp. Ngoài ra, cơ quan thi hành án cấp tỉnh còn trực tiếp tổ chức thi hành bản án,

quyết định theo quy định tại Điều 35 và lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ

26

THADS; phối hợp với cơ quan Công an trong việc lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm

chấp hành hình phạt tù và đặc xá cho người có nghĩa vụ thi hành án đang chấp hành

hình phạt tù. Đồng thời, tổ chức giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS thuộc thẩm

quyền. Đối với cơ quan thi hành án cấp huyện và cơ quan THADS cấp quân khu,

nhiệm vụ quyền hạn có phạm vi giới hạn hơn so với cơ quan THADS cấp tỉnh.

Chủ thể thứ hai được được Nhà nước trao quyền thực hiện hoạt động

THADS là Văn phòng Thừa phát lại, dựa trên cơ sở pháp lý là Nghị quyết số

107/2015/QH13 của Quốc hội ngày 26/11/2015 về việc thực hiện chế định Thừa

phát lại. Mặc dù Văn phòng Thừa phát lại hoạt động dưới mô hình doanh nghiệp,

không phải là cơ quan Nhà nước, nhưng phạm vi thẩm quyền của chủ thể này vẫn

tương đối rộng. Theo đó, Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền tống đạt văn bản

của cơ quan THADS và TA; xác minh điều kiện THADS và trực tiếp tổ chức thi

hành các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự.

Thứ hai, về chủ thể có nghĩa vụ thực hiện THADS, họ là đương sự trong các

bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực. Chủ thể phải thực hiện THADS có thể là

cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan phải thi hành án theo quyết định của TA, sau khi TA

đã xét xử và công bố bản án. Các đương sự có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện theo

phán quyết trong bản án, quyết định của TA. Tuy nhiên, không phải trong mọi

trường hợp đương sự đều tự nguyện thi hành, do vậy, Pháp luật THADS quy định

trình tự, thủ tục và các biện pháp thi hành bản án, quyết định của TA nhằm bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của chính đương sự và các chủ thể có quyền và lợi ích liên

quan đến việc THADS. Như vậy, đòi hỏi các chủ thể có quyền thực hiện THADS

cần nghiêm túc tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục

THADS đồng thời kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như giáo dục, thuyết

phục, cưỡng chế để đảm bảo sự thi hành của các chủ thể có nghĩa vụ THADS.

1.2.2.2. Đặc điểm về đối tượng điều chỉnh

Tham gia vào quá trình THADS, ngoài cơ quan THADS, Văn phòng thừa

phát lại, các đương sự, còn có các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác, vì vậy chủ thể

trong pháp luật về THADS rất đa dạng. Do đó, đối tượng điều chỉnh của pháp luật

27

THADS cũng vô cùng phong phú, bao gồm: Các quan hệ giữa các cơ quan THADS,

Văn phòng thừa phát lại với các đương sự; các quan hệ giữa Cơ quan THADS, Văn

phòng thừa phát lại với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc thi hành

án dân sự; các quan hệ giữa Cơ quan thi hành án dân sự, Văn phòng Thừa phát lại

với TA, Viện kiểm sát, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Trọng tài; các quan hệ

giữa Cơ quan THADS, Văn phòng Thừa phát lại với nhau và các quan hệ giữa Cơ

quan THADS, Văn phòng Thừa phát lại với cơ quan quản lý công tác thi hành án.

Ngoài ra, để thực hiện các Bản án, quyết định của TA trên thực tế, trong một số

trường hợp còn phát sinh các quan hệ khác như quan hệ giữa các đương sự với các

cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong các lĩnh vực khác nhau như: Thuế, tài

chính, Ngân hàng, Bảo hiểm…

Như những phân tích ở Mục 1.1, công tác THADS có bản chất khác với hoạt

động tố tụng dân sự, vì vậy, việc xác định đối tượng điều chỉnh của Pháp luật về

THADS là một tiêu chí cơ bản để phân biệt Pháp luật THADS với các quy định pháp

luật khác, trong đó có pháp luật về tố tụng dân sự. Các quan hệ thuộc đối tượng điều

chỉnh của Pháp luật THADS ở Việt Nam có một số đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Pháp luật THADS

phát sinh trong quá trình THADS từ khi đương sự thực hiện quyền yêu cầu thi hành

án cho đến khi kết thúc thi hành án. Đối với trường hợp Cơ quan THADS chủ động

thi hành án, quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật THADS phát sinh từ khi

TA chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan THADS.

Thứ hai, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia các quan

hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Pháp luật về THADS có tác động trực tiếp đối

với việc bản án quyết định được đưa ra thi hành.

Thứ ba, một bên chủ thể của quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Pháp

luật về THADS là cơ quan THADS hoặc Văn phòng Thừa phát lại, còn bên kia là

đương sự hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Các quan hệ thuộc đối tượng điều

chỉnh của Pháp luật THADS rất đa dạng, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của các

28

mối quan hệ này, có thể chia đối tượng điều chỉnh của pháp luật THADS thành 3

nhóm:

Nhóm thứ nhất bao gồm các quan hệ giữa Cơ quan THADS, Văn phòng thừa

phát lại với các đương sự.

Nhóm thứ hai bao gồm các quan hệ giữa Cơ quan THADS, Văn phòng thừa

phát lại với các cá nhân, cơ quan và tổ chức liên quan đến việc THADS.

Nhóm thứ ba bao gồm các quan hệ giữa Cơ quan THADS, Văn phòng thừa

phát lại với TA, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Viện kiểm sát.

Trong các nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của pháp luật THADS

nói trên thì nhóm quan hệ giữa Cơ quan THADS, Văn phòng thừa phát lại với các

đương sự là nhóm quan hệ mang tính chất phổ biến, bởi vì đương sự là người có

quyền và nghĩa vụ THADS còn Cơ quan THADS có nhiệm vụ và quyền hạn tổ

chức THADS.

1.2.2.3. Đặc điểm về phương pháp điều chỉnh

Phương pháp điều chỉnh của Pháp luật THADS là tổng hợp những cách thức

mà pháp luật THADS tác động lên các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của nó.

Do đối tượng điều chỉnh của pháp luật THADS khá đa dạng và đặc biệt, trong

THADS, các đương sự vẫn có quyền quyết định quyền lợi của họ nên Pháp luật về

THADS ở Việt Nam điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình THADS bằng

hai phương pháp là mệnh lệnh và định đoạt.

Phương pháp mệnh lệnh thể hiện ở những quy định cụ thể về địa vị pháp lý

của Cơ quan THADS, Văn phòng thừa phát lại hoàn toàn khác với địa vị pháp lý

của các chủ thể khác. Trong quá trình THADS, các chủ thể khác đều phải phục tùng

Cơ quan THADS và Văn phòng thừa phát lại. Những quyết định do cơ quan

THADS đưa ra trong quá trình thi hành công vụ có giá trị bắt buộc thi hành đối với

các chủ thể khác. Các chủ thể khác đều phải thực hiện nếu không sẽ bị cưỡng chế

thực hiện. Pháp luật THADS quy định các chủ thể khác phải nghiêm chỉnh thực

hiện quyết định của cơ quan thi hành án, Văn phòng thừa phát lại là xuất phát từ

chính yêu cầu của công tác thi hành án dân sự. Trong THADS việc can thiệp của

29

chủ thể nhân danh quyền lực Nhà nước hoặc được Nhà nước giao nhiệm vụ là rất

cần thiết và đó chính là yếu tố đảm bảo cho việc thực hiện thi hành án trên thực tế.

Thực tiễn đã chứng minh, trong nhiều trường hợp nếu không có mệnh lệnh của Cơ

quan THADS, Văn phòng Thừa phát lại thì việc THADS sẽ không thể thực hiện

được. Vì vậy, phương pháp điều chỉnh của Pháp luật về THADS chủ yếu dựa trên

phương pháp mệnh lênh. Do đó, trong nhóm quan hệ chính do luật THADS điều

chỉnh không có sự bình đẳng giữa Cơ quan THADS, Văn phòng Thừa phát lại với

đương sự có nghĩa vụ THADS.

Ngoài Phương pháp mệnh lệnh, Pháp luật THADS cũng điều chỉnh các quan

hệ phát sinh trong quá trình THADS bằng phương pháp định đoạt, theo đó, trong

quá trình THADS, các đương sự vẫn được tự quyết định quyền và lợi ích hợp pháp

của họ, đồng thời với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Khi bản án,

quyết định được thi hành, các đương sự có quyền tự quyết định việc THADS như

yêu cầu đương sự bên kia hoặc Cơ quan THADS tổ chức thi hành án. Trong quá

trình THADS, các đương sự vẫn có thể thương lượng, thỏa thuận về việc thi hành

án, tự thi hành án hoặc không yêu cầu thi hành án nữa. Sở dĩ pháp luật THADS điều

chỉnh các quan hệ bằng phương pháp định đoạt vì bản chất của THADS là việc các

đương sự thực hiện các quyền dân sự của họ. Trong các quan hệ dân sự, các đương

sự có quyền tự định đoạt, tự quyết định quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì khi

thực hiện quyền dân sự trong THADS, họ cũng phải có quyền tự quyết định quyền

và lợi ích hợp pháp của họ.

Như vậy, Pháp luật THADS điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình

thi hành án bằng các phương pháp mệnh lệnh và phương pháp định đoạt. Tuy nhiên,

do tính đặc thù của công tácTHADS nên phương pháp mệnh lệnh là phương pháp

được sử dụng chủ yếu hơn so với phương pháp định đoạt.

1.2.2.4. Đặc điểm về nguồn luật

Nguồn của Pháp luật THADS Việt Nam bao gồm các văn bản quy phạm

pháp luật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, có chứa đựng các quy

phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của Pháp

30

luật THADS. Các văn bản quy phạm pháp luật là nguồn của pháp luật THADS Việt

Nam bao gồm nhiều loại như Hiến pháp, BLTTDS, Luật tổ chức Viện kiểm sát

nhân dân, Luật THADS và các văn bản hướng dẫn thực hiện như Nghị quyết của

Quốc hội, Nghị định của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ,

Thông tư và Thông tư liên Bộ quy định về THADS.

Hiến pháp, với vai trò là đạo luật cơ bản của Nhà nước, là một trong những

nguồn quan trọng nhất của Pháp luật về THADS. Hiến pháp quy định về chế độ

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng - an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản

của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước,

thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản

lý. Các văn bản quy phạm pháp luật khác được Nhà nước ban hành nhằm cụ thể hóa

các quy định của Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 là nguồn luật quan trọng hiện

hành của Pháp luật về THADS ở Việt Nam. Trong Hiến pháp 2013 có các quy định

về nguyên tắc THADS như quy định về hiệu lực của bản án, quyết định của TAND

có hiệu lực pháp luật tại Điều 106 và quy định về trách nhiệm kiểm sát các hoạt

động tư pháp nói chung của Viện kiểm sát nhân dân tại Điều 107.

Bộ luật tố tụng dân sự chứa đựng các quy định về nguyên tắc, thẩm quyền,

trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự. Tuy vậy, trong BLTTDS năm 2015 có

Phần thứ chín bao gồm 9 Điều luật từ Điều 482 đến Điều 488 quy định các vấn đề

về THADS, như các bản án quyết định được thi hành, ghi nhận và giải thích về

quyền yêu cầu THADS và chuyển giao bản án, quyết định; giải thích, sửa chữa bản

án, quyết định của TA; giải quyết yêu cầu, kiến nghị đối với bản án, quyết định của

TA; thẩm quyền thủ tục xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp

ngân sách Nhà nước của TA... Đây là các quy định mang tính chất chung, thể hiện

nguyên tắc trong công tác THADS, do đó, BLTTDS là một trong các nguồn cơ bản

của pháp luật về THADS.

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân quy định về chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn và tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân; về Kiểm sát viên và các

chức danh khác trong Viện kiểm sát nhân dân; về bảo đảm hoạt động của Viện kiểm

sát nhân dân. Trong luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cũng có những quy định về

31

THADS, như quy định về kiểm sát các hoạt động THADS (Điều 6, Điều 28 Luật tổ

chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014). Theo đó, các văn bản quy phạm pháp luật

này cũng là một trong các nguồn luật của Pháp luật vềTHADS.

Luật Thi hành án dân sự là văn bản quy phạm pháp luật quy định trực tiếp và

hệ thống tất cả các vấn đề liên quan đến THADS như: Đối tượng, nguyên tắc thi

hành án dân sự; quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân

trong thi hành án dân sự; thời hiệu; thẩm quyền; thủ tục THADS hay các biện pháp

bảo đảm và biện pháp cưỡng chế trong thi hành án dân sự; khiếu nại tố cáo và xử lý

các hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự. Vì vậy, hiện nay, Luật

THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) là nguồn cơ bản và quan trọng nhất

của Pháp luật THADS.

Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định của Thủ

tướng Chính phủ, Thông tư của các Bộ và Thông tư liên tịch giữa các Bộ cũng là

một trong những nguồn luật của Pháp luật về THADS. Đây là các văn bản quy

phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật THADS. Nội dung của các văn bản này

bao gồm các quy định chi tiết hóa, cụ thể hóa các quy định của Luật THADS, nhằm

đảm bảo việc thực hiện đúng và có hiệu quả các quy định của Pháp luật về THADS.

Hệ thống các văn bản dưới luật này có vai trò quan trọng đối với sự vận dụng thống

nhất trong công tác thi hành án của đội ngũ Chấp hành viên, Thừa phát lại và cơ

quan thi hành án trên phạm vi cả nước.

1.2.3. Nội dung của pháp luật thi hành án dân sự

Nội dung của Pháp luật về THADS đề cập đến rất nhiều vấn đề, từ nguyên

tắc thi hành; Trình tự thủ tục THADS; Hoãn THADS; Miễn, giảm THADS; Cưỡng

chế THADS cho đến tổ chức thực hiện việc THADS; Quyền và nghĩa vụ của các

chủ thể trong quan hệ THADS và Chế tài xử lý vi phạm pháp luật về THADS. Mỗi

một nội dung này được Pháp luật về THADS quy định chi tiết, cụ thể, để tạo căn cứ

pháp lý rõ ràng cho công tác THADS trong thực tế.

Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một Luận văn Thạc sĩ, như đã nêu tại trang

5 về phạm vi nghiên cứu, Luận văn chỉ phân tích 04 vấn đề trong số các nội dung

32

của Pháp luật về THADS. Đó là vấn đề về tổ chức thực hiện việc THADS, vấn đề

về cưỡng chế THADS; vấn đề về hoãn THADS và vấn đề về miễn, giảm THADS.

Chương 2 của Luận văn sẽ nghiên cứu cụ thể 04 nội dung này khi đánh giá thực

trạng công tác THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

33

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN

ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Một số nét về tỉnh Quảng Ninh

2.1.1.Về điều kiện tự nhiên

Quảng Ninh có biên giới quốc gia và hải phận giáp giới nước Trung Quốc.

Trên đất liền, phía bắc của tỉnh (có các huyện Bình Liêu, Hải Hà và thành phố

Móng Cái) giáp huyện Phòng Thành và thị trấn Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, Trung

Quốc với 132,8 km đường biên giới; phía đông là vịnh Bắc Bộ; phía tây giáp các

tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương; phía nam giáp Hải Phòng. Bờ biển dài 250

km. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh Quảng Ninh là 611.081,3 ha. Trong đó, đất nông

nghiệp 243.833,2 ha, đất chuyên dùng 36.513 ha, đất ở 6.815,9 ha, đất chưa sử dụng

268.158,3 ha.

Quảng Ninh là tỉnh miền núi - duyên hải với hơn 80% đất đai là đồi núi và sở

hữu hơn hai nghìn hòn đảo nổi trên mặt biển. Vùng núi chia làm hai miền: Vùng núi

miền Đông từ Tiên Yên qua Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà đến Móng Cái. Vùng núi

miền tây từ Tiên Yên qua Ba Chẽ, Hoành Bồ, phía bắc thị xã Uông Bí và thấp dần

xuống ở phía bắc huyện Đông Triều. Vùng trung du và đồng bằng ven biển gồm

những dải đồi thấp bị phong hoá và xâm thực tạo nên những cánh đồng từ các chân

núi thấp dần xuống các triền sông và bờ biển. Ở các cửa sông, các vùng bồi lắng

phù sa tạo nên những cánh đồng và bãi triều thấp. Tuy có diện tích hẹp và bị chia

cắt nhưng vùng trung du và đồng bằng ven biển thuận tiện cho nông nghiệp và giao

thông nên đang là những vùng dân cư trù phú của Quảng Ninh.

Vùng biển và hải đảo của Quảng Ninh là một vùng địa hình độc đáo với hơn

hai nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo của Việt Nam, đảo trải dài theo đường ven

biển hơn 250 km chia thành nhiều lớp. Có hai huyện hoàn toàn là đảo là huyện Vân

Đồn và huyện Cô Tô. Vịnh Hạ Long và Bái Tử Long là địa điểm du lịch nổi tiếng

cả nước. Vùng ven biển và hải đảo Quảng Ninh ngoài những bãi bồi phù sa còn

những bãi cát trắng táp lên từ sóng biển.

34

2.1.2. Về phát triển kinh tế

Từng chỉ ở mức điểm trung bình (58 điểm) trong bảng xếp hạng Chỉ số năng

lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2007, mười năm sau đó, Quảng Ninh vươn mình

vượt qua Đà Nẵng với số điểm 70,69 và giữ vị số một trong PCI, cùng với những

kết quả tích cực về phát triển kinh tế trong nửa năm đầu 2018. Báo cáo tình hình

phát triển kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2018 của tỉnh Quảng Ninh cho thấy, bên

cạnh tăng trưởng kinh tế đạt mức kỷ lục 10,16% trong vòng sáu năm, thu ngân sách

còn tăng 17%; trong đó thu nội địa tăng 19% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 75%

tổng thu ngân sách.Theo số liệu thống kê của UBND tỉnh Quảng Ninh, thu ngân

sách nhà nước tháng 7 năm 2018 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đạt 3.248 tỷ đồng;

lũy kế 7 tháng đạt 24.515 tỷ đồng, đạt 67% dự toán, tăng 17% (so với năm 2017).

Trong đó, thu xuất nhập khẩu 6.320 tỷ đồng, đạt 105% dự toán năm, tăng 12%; thu

nội địa 18.189 tỷ đồng, đạt 60% dự toán, tăng 18%. Hoạt động xúc tiến, thu hút các

dự án đầu tư vào khu công nghiệp, khu kinh tế được đổi mới và tăng cường theo

hướng chủ động (UBND tỉnh Quảng Ninh, 2017, tr.21) Lũy kế từ đầu năm đến cuối

tháng 7, tổng vốn đầu tư thu hút vào các Khu Công nghiệp, Khu kinh tế đạt gần

6.000 tỷ đồng, bằng 24% kế hoạch năm và đạt 78,5% kế hoạch thu hút vốn FDI

năm 2018.

Quảng Ninh có thể kết nối với Hải Phòng phát triển thành cụm cảng quốc tế

phía Bắc, kết nối với Hà Nội và các tỉnh khác trong vùng thành trung tâm trung

chuyển hàng hóa xuất khẩu của miền Bắc ra các thị trường quốc tế rộng lớn. Quảng

Ninh với trên 500 di tích lịch sử danh lam thắng cảnh được xếp hạng, đặc biệt là

Vịnh Hạ Long – Di sản thiên nhiên, kỳ quan thiên nhiên thế giới; là danh thắng Yên

Tử - trung tâm Phật giáo của Việt Nam...

Quảng Ninh có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế du lịch như biển đảo,

sinh thái, văn hóa lịch sử, tâm linh... và các ngành công nghiệp giải trí, công nghiệp

văn hóa ở Quảng Ninh. Ở trong lòng đất, Quảng Ninh được thiên nhiên ưu ái ban

tặng một kho báu tài nguyên khoáng sản giàu có, dồi dào nhất là than đá, đá vôi, đất

sét. Đây là cơ hội tốt để phát triển một trung tâm khai khoáng, trung tâm nhiệt điện,

vật liệu xây dựng của cả nước. Hiện nay đã có những thương hiệu được thế giới biết

35

đến như Than antraxit, gạch ngói Giếng Đáy, ngói Hạ Long, gốm Viglacera - Hạ

Long; sứ nặng lửa Đông Triều...(UBND tỉnh Quảng Ninh, 2017, tr.26)

2.1.3. Về văn hóa - xã hội

Theo số liệu của Tổng cục thống kê về dân số và mật độ dân số phân theo

từng địa phương năm 2017,dân số toàn tỉnh Quảng Ninh đạt gần 1.258.100 người,

tăng 12.900 người (tương đương 1% so với năm 2016). Trong đó, dân số thành thị

chiếm 64,1%, tỉ lệ nam nữ không quá chênh lệch (cụ thể nam chiếm 50,5% dân số).

Tổng tỷ suất đạt 2,09 con/ phụ nữ, tiếp tục duy trì ở mức sinh thay thế. Tỷ suất sinh

thô là 16,0%, tỷ suất chết thô đạt 4,6%/. Tuổi thọ trung bình là 73 năm, trong đó

nam là 70 năm, nữ là 75,5 năm. Cũng theo thống kê này, hiện có 22 dân tộc khác

nhau cùng chung sống trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, song chỉ có 6 dân tộc chiếm

93% dân số cả tỉnh, trong đó, dân tộc Kinh chiếm 89,23%.

Quảng Ninh là một vùng đất có nền văn hóa lâu đời. Văn hóa Hạ Long đã

được ghi vào lịch sử như một mốc tiến hóa của người Việt. Về tôn giáo, Đạo Phật

đến với vùng đất này từ rất sớm, trước khi vua Trần Thái Tông (1220-1258) đến với

đạo Phật ở núi Yên Tử thì đã có nhiều các bậc chân tu nối tiếp tu hành ở đây. Sau

đó, vua Trần Nhân Tông (1279-1293) chọn Yên Tử là nơi xuất gia tu hành và lập

nên dòng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Từ thế kỷ 14, khu Yên Tử và Quỳnh Lâm

(Đông Triều) được coi là trung tâm của Phật giáo Việt Nam, là cái nôi đào tạo tăng

ni cho cả nước (UBND tỉnh Quảng Ninh, 2017, tr.29)

Quảng Ninh đứng đầu 63 tỉnh, thành phố về chỉ số cải cách hành chính (PAR

INDEX); đứng thứ 5 về chỉ số hài lòng của người dân (SIPAS); đứng vị trí thứ 32

về chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), tăng 30 bậc so với

năm 2016; đứng thứ 4 về chỉ số mức độ sẵn sàng cho phát triển và ứng dụng công

nghệ thông tin (ICT Index)(UBND tỉnh Quảng Ninh, 2018, tr. 17).

2.1.4. Công tác thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh

Các đặc điểm về tự nhiên, kinh tế, xã hội – văn hóa như phân tích ở trên có

tác động nhất định đến công tác THADS ở tỉnh Quảng Ninh cụ thể như sau:

36

Thứ nhất, Quảng Ninh là một tỉnh có diện tích lớn, dân số đông nhưng phân

bố không đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố có điều kiện xã hội cao như Hạ

Long, Cẩm Phả, Uông Bí. Địa hình khá phức tạp, có nhiều huyện miền núi, miền

biển, hải đảo. Đặc biệt, huyện Móng Cái có đường biên giới giáp với Trung Quốc

nên tình hình an ninh luôn trong trạng thái cần đặc biệt chú trọng. Mặc dù được

đánh giá là một tỉnh khá phát triển, tuy nhiên tại một số huyện như huyện Ba Chẽ,

Hải Hà, Bình Liêu, Tiên Yên, giao thông không thuận tiện, phương tiện di chuyển,

liên lạc và các điều kiện vật chất khác còn nhiều thiếu thốn khiến cho công tác lãnh

đạo, quản lý về THADS của cấp ủy, chính quyền cơ sở gặp nhiều khó khăn. Đặc

biệt, Chi cục THADS của các huyện, thị xã miền núi còn nhiều hạn chế về đội ngũ

cán bộ cũng như về cơ sở vật chất.

Thứ hai,dân số ở tỉnh Quảng Ninh có tỉ lệ người dân tộc thiểu số mặc dù chỉ

chiếm một tỉ trọng nhỏ 10,7%, tuy nhiên, việc phổ biến và tuyên truyền pháp luật

cho người dân còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh những rào cản về ngôn ngữ, trình

độ văn hóa, ý thức pháp luật chưa cao, phần lớn người dân không có khả năng thực

hiện nghĩa vụ bởi mức thu nhập thực tế còn thấp. Xuất phát từ sự thiếu hiểu biết,

nên các giao dịch dân sự của họ thường chỉ làm theo thói quen, hoặc dựa trên lòng

tin và sự quen biết mà không tuân thủ theo các quy định của pháp luật, nên khi phát

sinh tranh chấp, sau khi khởi kiện ra TA, rất ít người có ý thức chủ động tự nguyện

thực hiện nghĩa vụ của mình như trong bản án, quyết định của TA, nếu phán quyết

đó không có lợi cho họ. Do đó, chấp hành viên thi hành án rất khó để tiếp cận và

thực hiện công tác THADS. Nhiều trường hợp, họ không tự nguyện thực hiện nghĩa

vụ của mình và cố tình gây trở ngại, thậm chí chống đối cán bộ thi hành án.

Thứ ba, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh nhìn chung khá phát triển, với địa

thế đặc biệt, Quảng Ninh như cầu nối giao thương giữa các tỉnh khác trong khu vực

Đông Bắc Việt Nam. Vì vậy, các giao dịch dân sự nói riêng và quan hệ dân sự nói

chung diễn ra khắp mọi nơi trên địa bản của tỉnh, có xu hướng phát triển theo chiều

hướng phức tạp. Như một hệ quả tất yếu, các tranh chấp phát sinh cũng phức tạp và

việc THADS bị kéo dài do tính chất phức tạp của vụ việc. Và do đó, hiệu quả của

37

công tác THADS cũng bị ảnh hưởng trên thực tế bởi phát sinh thêm thời gian, gia

tăng chi phí và tốn công sức nhiều hơn.

Thứ ba, với những tiềm năng về kinh tế, Quảng Ninh thu hút một lượng lao

động lớn từ các địa phương khác đến làm việc và sinh sống. Bộ phận người dân này

phần lớn không có hộ khẩu thường trú tại Quảng Ninh, nhiều trường hợp, dù đã có

đăng kí thường trú tại Quảng Ninh nhưng tài sản thực tế vẫn nằm rải rác tại rất

nhiều nơi khác nhau. Do vậy, gây khó khăn và tốn kém chi phí, thời gian cho công

tác THADS của các cán bộ, Chấp hành viên trong hoạt động thông báo, tống đạt các

loại giấy tờ, quyết định thi hành, xác minh điều kiện nhân thân, tài sản của các

đương sự và áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để thi hành án

cũng bị cản trở.

2.2. Thực trạng công tác tổ chức việc thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh

2.2.1. Thực trạng về cơ cấu tổ chức và hiện trạng đội ngũ cán bộ của cơ quan thi

hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh

2.2.2.1. Về cơ cấu tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh

Là một tỉnh rộng lớn nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, Quảng Ninh hiện là

tỉnh có nhiều thành phố trực thuộc nhất cả nước, cụ thể, Quảng Ninh có 4 thành phố

là Hạ Long, Uông Bí, Cẩm Phả và Móng Cái; 2 thị xã là thị xã Quảng Yên và thị xã

Đông Triều; 8 huyện bao gồm: Ba Chẽ, Bình Liêu, Cô Tô, Đầm Hà, Hải Hà, Hoành

Bồ, Tiên Yên, Vân Đồn.

Tương ứng với cách phân chia theo đơn vị hành chính của tỉnh, cơ quan

THADS của tỉnh được thành lập và hoạt động trên mọi địa bàn thuộc phạm vi toàn

tỉnh. Cơ cấu tổ chức của Cơ quan THADS ở tỉnh Quảng Ninh bao gồm 01 Cục

THADS và 14 Chi cục THADS huyện, thị xã, thành phố: Hạ Long, Cẩm Phả, Uông

Bí, Quảng Yên, Đông Triều, Hoành Bồ, Móng Cái, Hải Hà, Đầm Hà, Bình Liêu, Ba

Chẽ, Tiên Yên, Cô Tô, Vân Đồn. Hiện nay, Cục THADS tỉnh Quảng Ninh có trụ sở

tại Khu đô thị Cao Xanh- Hà Khánh A, Phường Cao Xanh, thành phố Hạ Long.

Người viết cho rằng, với đặc thù của tỉnh Quảng Ninh về điều kiện tự nhiên,

kinh tế, và văn hóa – xã hội như đã nêu ở trên, cơ cấu tổ chức của cơ quan THADS

38

như vậy là gọn nhẹ và phù hợp. Bộ máy của cơ quan THADS không quá cồng kềnh

nhưng với 14 Chi cục THADS cấp huyện thì có thể phủ đều lên mọi địa bản trên

toàn tỉnh.

2.2.2.2. Về cơ cấu đội ngũ cán bộ của Cơ quan thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng

Ninh

Tính đến tháng 8 năm 2018, Cục THADS tỉnh Quảng Ninh được phân bổ

173 biên chế, hiện tại có mặt 174 biên chế. Cả tỉnh hiện có 79 Chấp hành viên (01

Chấp hành viên cao cấp, 14 Chấp hành viên trung cấp, 64 Chấp hành viên sơ cấp),

14 Thẩm tra viên, 20 Thư ký và 22 Kế toán và các công chức khác. Về trình độ

chuyên môn: Cử nhân luật có 120 người, (đạt 67%); cử nhân đại học và cao đẳng

khác: 31 người (đạt 33%). Về trình độ lý luận chính trị, đạt trình độ cao cấp chính

trị có 3 người, trình độ trung cấp có 90 người; trình độ quản lý Nhà nước cao cấp có

3 công chức; ngạch chuyên viên chính có 18 người (UBND tỉnh Quảng Ninh, 2018,

tr.9). Trong năm 2018, Cục đã làm quy trình tham mưu, thực hiện điều động, bổ

nhiệm 04 Chi cục trưởng; 08 Phó Chi cục trưởng; biệt phái 02 công chức.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng: Cử 02 công chức học lớp Chấp hành viên cao

cấp; 08 công chức học lớp Chấp hành viên trung cấp; 13 công chức học lớp Chấp

hành viên sơ cấp; 03 công chức đào tạo lớp thư ký thi hành án; 18 công chức đào

tạo lớp tập huấn kế toán hành chính sự nghiệp…và nhiều công chức tham gia các

lớp đào tạo, bồi dưỡng khác do ngành dọc và tỉnh tổ chức

Công tác tuyển dụng, bổ nhiệm mới, bổ nhiệm lại các chức danh lãnh đạo

cục, các Chi cục và điều động, luân chuyển biệt phái, tăng cường đều phát huy được

năng lực công tác và hướng phát triển của cán bộ. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ

THADS tỉnh Quảng Ninh xác định tư tưởng vững vàng, có tinh thần khắc phục khó

khăn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Những số liệu nêu trên cho thấy trình độ của đội ngũ cán bộ của cơ quan

THADS đã và đang từng bước đáp ứng được yêu cầu của công tác tổ chức và thực

hiện việc THADS. Tuy nhiên, còn tồn tại một số bất cập trong việc bổ nhiệm Chi

39

cục trưởng quản lý các Chi cục cấp huyện. Như vậy là chưa đáp ứng được yêu cầu

đối với công tác tổ chức và thực hiện việc THADS.

2.2.2. Thực trạng thực thi pháp luật trong tổ chức việc thi hành án dân sự tại

tỉnh Quảng Ninh

Trong giai đoạn năm 2014 – 2018, Cục THADS tỉnh Quảng Ninh đã tiếp tục

quán triệt và thống nhất thực hiện theo Nghị quyết số 111/2015/QH13 của Quốc

hội; Chương trình trọng tâm công tác THADS, các quyết định, giao chỉ tiêu, nhiệm

vụ, các văn bản chỉ đạo của Bộ Tư pháp, của Tổng cục THADS và của Tỉnh ủy,

HĐND, UBND tỉnh Quảng Ninh kịp thời đến các đơn vị thuộc Cục để triển khai

đến toàn thể cán bộ, công chức, người lao động trong tỉnh và chỉ đạo tổ chức thực

hiện. Hàng năm, Cục THADS tỉnh ban hành các Công văn về việc thực hiện nhiệm

vụ công tác và triển khai nhiệm vụ công tác THADS trong mỗi năm. Nhằm cụ thể

hóa công việc, Cục Thi hành án tỉnh tiếp tục ban hành Quyết định về việc giao chỉ

tiêu, nhiệm vụ THADS từng năm để chỉ đạo công tác thi hành án trên địa bàn toàn

tỉnh của 14 Chi cục Thi hành án huyện, thành phố.

Đồng thời, trên tinh thần tiếp tục triển khai thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật THADS năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành , Cục

THADS đã phổ biến nội dung của Luật này đến cán bộ, công chức, người lao động

của các cơ quan THADS trong toàn tỉnh; phối hợp với các cơ quan truyền thông

tuyên truyền, phổ biến đến các cơ quan, tổ chức và toàn thể các tầng lớp nhân dân;

nhằm nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm trong công tác THADS, đảm bảo

triển khai thi hành có hiệu quả Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.

Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2014 – 2018, Cục và các Chi cục THADS trên

địa bàn tỉnh tăng cường thường xuyên điều động, biệt phái. Các Chấp hành viên cho

các địa phương có số vụ việc phải thi hành lớn; chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật và

củng cố kiện toàn về công tác cán bộ; tập trung chỉ đạo quyết liệt đối với những địa

bàn có nhiều án; chỉ đạo tổ chức các đợt cao điểm THADS theo chỉ đạo của Tổng

cục; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các Chấp hành viên và Chi cục.

Ngoài ra, Cục còn ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về chuyên môn nghiệp vụ, đôn

40

đốc thực hiện; rà soát, phân loại án đảm bảo chính xác; tập trung giải quyết dứt

điểm các vụ việc có điều kiện thi hành, chú trọng giải quyết các vụ việc thi hành án

trọng điểm, các vụ việc liên quan đến tín dụng ngân hàng, thu hồi tiền, tài sản cho

nhà nước, dư luận xã hội quan tâm và các vụ việc có số tiền phải thi hành lớn...

Triển khai kế hoạch thực hiện chương trình hành động của Bộ Tư pháp, Kế

hoạch của UBND tỉnh về triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày

01/01/2017 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành

thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm

2017, Cục THADS tỉnh Quảng Ninh đã đề ra các biện pháp cụ thể trong giai đoạn

2017-2018, quán triệt và triển khai thực hiện trong phạm vi 14 Chi cục Thi hành án

huyện, thị xã trên địa bàn toàn tỉnh. Từ đó, đảm bảo nâng cao hiệu quả của công tác

THADS về việc và về tiền.

Việc thực hiện tốt công tác tổ chức việc THADS trong toàn tỉnh đã đem lại

kết quả cụ thể về THADS, trong đó nổi bật là hai mảng hoạt động cụ thể, đó là kết

quả THADS về việc và kết quả THADS về tiền.

2.2.3. Các kết quả cụ thể trong tổ chức việc thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng

Ninh

2.2.3.1. Kết quả thi hành án dân sự về việc

Kết quả THADS về việc được thể hiện qua số liệu trong Bảng 2.1 dưới đây:

41

Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân sự về việc từ năm 2014-2018

Số việc

Năm Tổng số việc thụ lý có điều kiện giải quyết Số việc giải quyết xong Số việc chƣa có điều kiện giải quyết Tỷ lệ % trên tổng số có điều kiện thi hành

2014 7.362 việc 1.839 việc 5.012 việc 68,07%

Tổng cộng: 9.201 việc; thụ lý mới: 6.182 việc; số cũ chuyển sang: 3019 việc

2015 8243 việc 1661 việc 6.002 việc 72,81%

Tổng cộng: 9.904 việc; thụ lý mới: 7.002 việc; số cũ chuyển sang: 2.702 việc

2016 8.412 việc 1.459 việc 6.709 việc 79,76%

cộng: 10.024 Tổng việc; thụ lý mới: 7.163 việc; số cũ chuyển sang: 2.861 việc

2017 8.000 việc 1.632 việc 6.448 việc 80,6%

Tổng cộng: 9.735 việc việc; thụ lý mới: 6.575 việc; số cũ chuyển sang: 3.160 việc

2018 8.931 việc 1.833 việc 7.380 việc 82,63%

cộng: 10.881 Tổng việc; thụ lý mới: 7.705 việc; số cũ chuyển sang: 3.183 việc

(Nguồn: Tác giả thống kê số liệu dựa từ Cục THADS tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo kết

quả công tác thi hành án dân sự qua các năm, từ năm 2014 đến năm 2018)

Qua các số liệu thống kê nêu trong bảng trên, có thể thấy một thực tế là số

lượng việc thụ lý mới, trong đó án năm trước chuyển qua là rất lớn. Mặc dù công

tác giải quyết án tồn đọng được chú trọng hơn, có nhiều chuyển biến, nhưng vẫn tồn

tại nhiều khó khăn, vướng mắc. Những việc tồn đọng chủ yếu là do người phải thi

hành án không có điều kiện thi hành, không có tài sản, sống phụ thuộc và gia đình,

đang phải chấp hành hình phạt tù giam; việc chưa đủ điều kiện xét miễn giảm nghĩa

42

vụ thi hành án theo quy định của pháp luật. Theo số liệu năm 2016, số vụ việc thụ

lý đến hết tháng 9/2015 có số án cũ chuyển sang là 2.861 việc; từ 01/10/2015 đến

30/9/2016, thụ lý mới 7.163 việc, tăng 551 việc (8,3%) so với năm 2015. Như vậy,

tổng số thụ lý năm 2016 là 10.024 việc, tăng 551 việc (5,8%) so với năm 2015.

Trong tổng số việc thụ lý, đã ủy thác 153 việc nên tổng số việc còn phải thi hành là

9.871 việc. Kết quả xác minh, phân loại có: 8.412 việc có điều kiện giải quyết

(85,2%), tăng 1.055 việc (14,3%) so với năm 2015 và 1.459 việc chưa có điều kiện

giải quyết (14,8%). Số việc thụ lý mới chỉ tương ứng với số lượng án thụ lý giải

quyết của TA hàng năm.

2.2.3.2. Kết quả THADS về tiền

Kết quả THADS về việc được thể hiện qua số liệu trong Bảng 2.1 dưới đây:

Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự về tiền từ năm 2014-2018

Tỷ lệ

giải quyết Số tiền Kết quả đã (trên số tiền thi hành đƣợc Năm có điều kiện Tổng số tiền phải thi hành (nghìn đồng) (nghìn đồng) có điều kiện thi hành (nghìn đồng) thi hành)

2014 1.181.535.768 702.939.229 218.014.560 31,01%

2015 1.234.959.932 715.213.972 236.234.327 33.02%

2016 1.481.285.698 739.584.205 278.054.730 37,62%

2017 1.573.254.712 774.599.581 341.872.349 44,13%

2018 1.670.026.973 604.477.608 236.448.159 39,12%

(Nguồn: Tác giảthống kê số liệu từ Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh theo

Báo cáo kết quả công tác thi hành án các năm)

Số liệu ở Bảng 2.2 cho thấy: Số tiền phải thi hành hàng năm lớn, trong khi số

tiền có điều kiện để thi hành chỉ đạt trên 60%. Đơn cử như năm 2017, tính đến hết

tháng 9/2016, số cũ chuyển sang là 902.854.886.000 đồng; từ 01/10/2016 đến

30/9/2017, thụ lý mới 670.399.826.000 đồng, giảm 148.915.808.000 đồng (18,2%)

43

so với năm 2016. Như vậy, tổng số tiền thụ lý là 1.573tỷ 254 triệu 712 nghìn đồng,

tăng 91.969.014.000 đồng (6,2%) so với năm 2016. Trong tổng số tiền thụ lý, đã ủy

thác 73.702.565.000 đồng nên tổng số tiền còn phải thi hành là 1.499.552.147.000

đồng. Kết quả xác minh, phân loại có: Số tiền 774.599.581.000 đồng có điều kiện

giải quyết (chiếm tỷ lệ 51,7%), tăng 35.015.376.000 đồng (4,7%) so với năm 2016

và 724.952.566.000 đồng chưa có điều kiện giải quyết (chiếm tỷ lệ 48,3 %). Theo

đó, số tiền chuyển kỳ sau 1.157.679.798.000 đồng, trong đó số tiền có điều kiện

nhưng chưa thi hành xong là 432.727.232.000 đồng, giảm 28.802.244.000 đồng

(6,2%) so với số việc có điều kiện thi hành năm 2016 chuyển sang năm 2017. Như

vậy, mặc dù đã giảm 28.802.244.000 đồng (6,2%) so với số việc có điều kiện thi

hành năm 2016 chuyển sang năm 2017, tuy nhiên, số tiền tồn đọng tiếp tục chuyển

sang năm 2018 vẫn dừng lại ở con số hơn 432 tỉ đồng, có thể nói, đây một số tiền

tồn đọng quá lớn chuyển sang mỗi năm.

2.2.4. Nhận xét về thực trạng công tác tổ chức việc thi hành án dân sự tại tỉnh

Quảng Ninh

Kết quả và thành công trong công tác THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh

có được là do nhiều nguyên nhân. Bên cạnh sự nỗ lực của toàn thể các cán bộ, Chấp

hành viên THADS, đây còn là kết quả của việc triển khai thực hiện Kế hoạch số

145/KH-CTTHADS về Cải cách hành chính trong công tác THADSnăm 2017 của

Cục THADS tỉnh Quảng Ninh ban hành ngày 20/02/2017. Thủ tục hành chính rườm

rà, phức tạp không chỉ tác động tiêu cực đến thời gian làm việc, hiệu quả làm việc

của đội ngũ công chức, cán bộ, chấp hành viên mà còn gây ra những lãng phí, tốn

kém trong hoạt động điều hành, quản lý và tổ chức công tác thi hành án. Mặt khác,

đánh giá từ góc độ của người dân, cải cách hành chính trong thủ tục THADS tạo

điều kiện cho người dân nâng cao tinh thần tự nguyện thi hành, dẹp bỏ tâm lý e ngại

khi làm việc với cơ quan Nhà nước.

Ngoài ra, công tác THADS của tỉnh Quảng Ninh cũng nhận được sự quan

tâm của Bộ Tư pháp, của Tổng cục THADS và của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh

Quảng Ninh. Ngay từ đầu năm 2014, Cục THADS đã quán triệt, triển khai và tổ

chức thực hiện đầy đủ kịp thời các văn bản chỉ đạo, các Chỉ thị, Kết luận và các

44

Quyết định giao chỉ tiêu, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS và xây dựng

Chương trình Kế hoạch công tác năm và chỉ đạo tổ chức thực hiện. Trong các năm

tiếp theo, công tác THADS của tỉnh Quảng Ninh, đã triển khai nhiều biện pháp để

thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ ngành, tập trung quán triệt và tổ chức thực hiện

các chủ trương của Đảng. Trong ba năm liên tiếp, từ năm 2016 đến 2018, ngành

THADS tỉnh không có cán bộ, công chức nào có hành vi tiêu cực, vi phạm đạo đức

nghề nghiệp, gây phiền hà, sách nhiễu với nhân dân trong thi hành công vụ và bị xử

lý kỷ luật từ cảnh cáo trở lên; công tác khác đều được lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức

thực hiện kịp thời, đầy đủ theo đúng quy định. Công tác thực hiện kỷ luật, kỷ cương

hành chính được siết chặt; công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức,

phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong THADS được quan tâm, chú trọng; việc

xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh được tăng cường; các mặt công tác khác cũng

được chỉ đạo và triển khai thực hiện tốt. Qua kết quả đã đạt được, đã góp phần giữ

gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của tỉnh.

2.3. Thực trạng hoạt động cƣỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh

2.3.1. Tiếp tục gia tăng các vụ việc bị cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh

Quảng Ninh

Với phương châm giáo dục, thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi

hành là chính. Vì vậy, cơ quan THADS tại tỉnh Quảng Ninh luôn nỗ lực hạn chế

việc cưỡng chế THADS. Trên thực tế, các Chấp hành viên từ Cục THADS tỉnh

Quảng Ninh cho đến các Chi cục đã cân nhắc trong việc áp dụng các biện pháp

cưỡng chế thi hành án. Các vụ cưỡng chế cần huy động lực lượng đều được Chấp

hành viên xây dựng kế hoạch cụ thể, thực hiện một cách thống nhất và có sự phối

hợp chặt chẽ với các cơ quan liên ngành. Những vụ việc mang tính chất nhạy cảm

ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội tại địa phương đều báo cáo xin ý kiến chỉ đạo

của Ban chỉ đạo THADS cùng cấp để có sự phối hợp thống nhất với cấp ủy, chính

quyền và các đoàn thể cùng cấp. Do vậy, có thể thấy, công tác cưỡng chế THADS

trong những năm qua đạt kết quả tốt. Mặc dù vậy, việc cưỡng chế THADS vẫn xảy

ra trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh (xem Bảng 2.3)

45

Bảng 2.3. Số liệu về vụ việc phải cƣỡng chế thi hành án dân sự từ tháng

10/2016-tháng 10/2018

Tổng số vụ Số vụ Số vụ cƣỡng chế Tỉ lệ số vụ

Năm áp dụng tự nguyện có huy động tự nguyện

cƣỡng chế thi hành lực lƣợng liên ngành thi hành

2016 68 2 5 0,03%

2017 83 33 14 39,75%

2018 79 8 13 10,12%

(Nguồn: Người viết tổng hợp số liệu từ các Báo cáo kết quả công tác thi hành án

các năm của Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh)

Từ những số liệu ở Bảng 2.3 nêu, có thể thấy số lượng các vụ việc mà cơ

quan THADS ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án tiếp tục gia

tăng trong 02 năm, từ năm 2016 đến năm 2017: Số trường hợp áp dụng biện pháp

cưỡng chế trong năm 2016 là 68 trường hợp, tăng 07 trường hợp so với năm 2015,

do có 02 trường hợp đương sự tự nguyện thi hành án, nên thực tế số việc phải tổ

chức cưỡng chế là 66 trường hợp; trong đó có 05 trường hợp cưỡng chế có huy

động các lực lượng liên ngành, các trường hợp tổ chức cưỡng chế đều an toàn,

thành công.

Trong tổng số các vụ án DS bị áp dụng cưỡng chế thi hành, số vụ tự nguyện

thi hành nhìn chung có xu hướng tăng, và đặc biệt tăng cao vào năm 2017, đạt tỉ lệ

lên tới 39,75%, điều này thể hiện ý thức pháp luật của các đương sự đã được cải

thiện rõ rệt, một tín hiệu đáng mừng đối với công tác THADS trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh. Mặc dù phần lớn các trường hợp tự nguyện thi hành thường có khối

lượng tài sản không lớn (khi so sánh trong tương quan với các trường hợp còn lại),

tuy nhiên, sự tự nguyện thi hành của các đương sự đã góp phần tăng hiệu quả của

công tác thi hành án nói chung và tiết kiệm thời gian, tiền bạc, và công sức của các

cán bộ, Chấp hành viên trên thực tế.

Trong hai năm 2017 và năm 2018, Cục THADS tỉnh Quảng Ninh tiếp tục

đẩy mạnh việc triển khai và thực hiện Kế hoạch số 160/KH-CTTHADS về triển

46

khai, thực hiện chủ đề năm của tỉnh Quảng Ninh về “Tăng cường kỷ luật, kỷ cương

hành chính, xây dựng nếp sống văn hóa văn minh” ban hành ngày 14/02/2017 của

Cục THADS tỉnh Quảng Ninh trên tinh thần Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.

Toàn tỉnh đã vào cuộc với sự quyết tâm cao độ của cả hệ thống chính trị nói chung

và ngành THADS của tỉnh nói riêng. Kết quả sau 6 tháng thực hiện, công tác

THADS tỉnh Quảng Ninh có nhiều chuyển biến mạnh mẽ, nổi bật là huyện Ba chẽ.

Nhờ những nỗ lực trong việc thay đổi cải cách thủ tục thi hành án, tỉ lệ số vụ thi

hành án phải áp dụng biện pháp cưỡng chế tại huyện Ba Chẽ trong năm 2017 là 0

vụ, trong khi đó, số vụ tự nguyện thi hành án là 10 vụ, gần bằng 1/3 tổng số trường

hợp tự nguyện thi hành án trên toàn tỉnh.

Theo báo cáo kết quả công tác THADS năm 2017 của Cục THADS tỉnh

Quảng Ninh, thành phố Hạ Long và thành phố Cẩm Phả là hai thành phố có số

lượng vụ án dân sự phải áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS nhiều nhất và chiếm

hơn 60% tổng số vụ phải cưỡng chế thi hành của toàn tỉnh Quảng Ninh. Theo đó,

phần lớn các vụ việc đều kết hợp áp dụng từ hai biện pháp cưỡng chế thi hành trở

lên, tuy nhiên vẫn đảm bảo sự phù hợp, tương ứng với nghĩa vụ của người phải

THADS và các chi phí cần thiết. Các biện pháp cưỡng chế chủ yếu được sử dụng là:

Kê biên, xử lý tài sản của đương sự (trong đó có 6 trường hợp tài sản do người thứ

ba nắm giữ); Trừ vào thu nhập của người phải THADS; Thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ

có giá của người phải THADS và Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền sử

dụng đất và tài sản gắn liền với đất.

2.3.2. Nguyên nhân của việc gia tăng sự cưỡng chế thi hành án dân sự tại tỉnh

Quảng Ninh

Kết quả nêu trên có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể đến

sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng có liên quan trong việc hỗ trợ

công tác THADS của Chấp hành viên được tăng cường đáng kể trong ba năm trở lại

đây. Cụ thể, trong năm 2017, có 14 trường hợp cưỡng chế có huy động các lực

lượng liên ngành, tăng 09 trường hợp so với cùng kỳ năm 2016, các trường hợp tổ

chức cưỡng chế đều an toàn, thành công và đạt kết quả tốt. Trước đây, có nhiều

trường hợp rất khó hoặc thậm chí không thể thi hành được bản án trên thực tế vì

47

thiếu sự hợp tác của các lực lượng liên ngành. Xuất phát từ tâm lý e ngại, tính chất

hoạt động cục bộ, thiếu sự liên kết, tạo dựng mạng lưới thông tin chung từ những

thói quen làm việc cũ, không chỉ công tác THADS, hoạt động của các bộ phận khác

trong hệ thống cơ quan Nhà nước chưa thực sự hiệu quả.

Một nguyên nhân khác dẫn đến sự gia tăng số vụ việc cưỡng chế THADS

đến từ việc gia tăng số lượng các Bản án, quyết định của TA có giá trị phần nghĩa

vụ về tiền phải THADS lớn, do đó khi thi hành các Bản án của TA liên quan đến tài

chính ngân hàng, cơ quan THADS đa số phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế.

Điều này xuất phát từ tính chất phức tạp của các vụ án dân sự hiện nay, là thực

trạng chung đối với toàn bộ ngành THADS. Hơn nữa, tỉnh Quảng Ninh được coi là

đầu mối của hoạt động nội thương và ngoại thương, nên các quan hệ dân sự phát

sinh liên tục, không ngừng phát triển theo chiều hướng mở rộng và phức tạp.

2.4. Thực trạng hoạt động miễn, giảm thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh

2.4.1. Kết quả hoạt động miễn, giảm thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh

Sau khi Luật số 64/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

THADS năm 2008 được ban hành sau đó là Thông tư liên tịch 12/2015/TTLT-BTP-

BTC-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành đối với

khoản thu, nộp ngân sách Nhà nước, Cục THADS và 14 Chi cục THADS huyện,

thành phố, thị xã đã làm tốt công tác lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm thi hành án.

Vấn đề xét miễn, giảm các khoản thu nộp ngân sách Nhà nước theo quy định mới

đã thể hiện sâu sắc hơn tính nhân đạo của Đảng, Nhà nước trong quá trình thực thi

pháp luật nói chung và trong lĩnh vực THADS nói riêng. Nhằm mục đích giải quyết

những vấn đề bức xúc cần phải giải quyết ngay, đó là tình trạng án tồn đọng kéo dài

từ năm này đến năm khác do đương sự không có điều kiện thi hành án. Chính vì

vậy, tăng cường việc miễn, giảm THADS đối với các đối tượng này đã góp phần

làm cho công tác THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có nhiều chuyển biến tích

cực so với những năm trước đây. Cụ thể:

Năm 2016, các cơ quan THADS tỉnh Quảng Ninh đã phối hợp với Viện

Kiểm sát nhân dân cùng cấp rà soát, lập hồ sơ và đề nghị TAND có thẩm quyền xét

48

miễn, giảm đối với 111 việc, tương ứng với số tiền 982.815.000 đồng. Kết quả năm

2016 cho thấy, tổng cộng đã thực hiện miễn, giảm được đối với 111 việc với số tiền

982.815.000 đồng, giảm 36 việc (24,5%) với số tiền 373.580.000 đồng (27,5%) so

với năm 2015.

Năm 2017, tổng cộng có 71 việc được miễn, giảm thi hành án, tương ứng với

số tiền 970.465.000 đồng. Kết quả: đã thực hiện miễn, giảm được 66 việc với số

tiền 941.255.000 đồng, giảm 45 việc (40,5%) với số tiền 41.560.000 đồng (4,2%) so

với năm 2016.

Năm 2018, tính đến 30/9/2018, sau khi rà soát hồ sơ và đề nghị TAND có

thẩm quyền xét miễn, giảm, kết quả có 91 việc được miễn giảm thi hành án, tương

ứng với số tiền 887.736.000 đồng. Kết quả: đã thực hiện miễn, giảm được 91 việc

với số tiền 887.736.000 đồng, tăng 25 việc (37,87%) và giảm 53.519.000 đồng

(5.68%) so với cùng kỳ năm 2017.

2.4.2. Một số bất cập trong hoạt động miễn, giảm thi hành án dân sự tại tỉnh

Quảng Ninh

Nhìn chung, hoạt động miễn, giảm THADS được thực hiện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, trong một số trường

hợp, khi TA xác định người phải THADS không có nơi cư trú rõ ràng, địa chỉ sống

lang thang, hay tại thời điểm xác minh điều kiện của người phải THADS, cơ quan

THADS mới phát hiện họ không còn cư trú ở địa phương. Việc họ đi đâu và làm gì

chính quyền địa phương không thể quản lý được vì khi rời khỏi hầu hết những

người này không thực hiện thủ tục khai báo tại chính quyền địa phương. Những

trường hợp này không đủ điều kiện xét, miễn nghĩa vụ THADS. Đó cũng là một

trong các lý do làm cho loại án chủ động (Loại việc mà người phải THADScó nghĩa

vụ nộp các khoản thu nộp ngân sách Nhà nước) tồn đọng ngày càng nhiều.

Bên cạnh đó, có một số trường hợp đương sự lợi dụng quy định về miễn,

giảm THADS để trốn tránh nghĩa vụ THADS, cố ý chủ động thi hành được một

phần án phí và ngụy tạo việc bản thân lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn

49

để được xét miễn, giảm THADS. Điều này xuất phát từ ý thức của đương sự nên cơ

quan THADS thực tế rất khó kiểm soát tình trạng này.

2.5. Thực trạng hoạt động hoãn thi hành án dân sự tại địa bàn tỉnh Quảng

Ninh

2.5.1. Các trường hợp được hoãn thi hành án dân sự tại địa bàn Quảng Ninh

Thủ trưởng các cơ quan THADS có thẩm quyền ra quyết định hoãn thi hành

án trong trường hợp đặc biệt như người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận

của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự

theo quyết định của Tòa án; Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án

hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực

hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định; Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc

đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của

đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải

chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác; Việc

thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định

và trả lời kiến nghị của cơ quan THADS theo quy định; Người được nhận tài sản,

người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản,

nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận; Tài sản kê biên không bán

được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại Khoản

3 Điều 104 của Luật THADS 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Ngoài ra, Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định hoãn thi hành án khi

nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có thẩm quyền kháng nghị ít nhất 24

giờ trước thời điểm cưỡng chế thi hành án đã được ấn định trong quyết định cưỡng

chế. Trường hợp cơ quan THADS nhận được yêu cầu hoãn thi hành án của người có

thẩm quyền kháng nghị ít hơn 24 giờ trước thời điểm cưỡng chế đã được ấn định

trong quyết định cưỡng chế thi hành án thì Thủ trưởng cơ quan THADS có quyền

quyết định hoãn thi hành án khi xét thấy cần thiết. Trường hợp vụ việc đã được thi

hành một phần hoặc đã được thi hành xong thì cơ quan THADS phải có văn bản

thông báo ngay cho người yêu cầu hoãn thi hành án. Người có thẩm quyền kháng

50

nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa

án chỉ được yêu cầu hoãn thi hành án một lần để xem xét kháng nghị nhằm tránh

hậu quả không thể khắc phục được. Thời hạn hoãn THADS theo yêu cầu của người

có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định không quá 03 tháng, kể từ ngày ra

văn bản yêu cầu hoãn thi hành án; trong thời gian hoãn THADS thì người phải

TTHADS không phải chịu lãi suất chậm thi hành án.

2.5.2. Kết quả hoạt động hoãn thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh

Quy định hoãn THADS thể hiện sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước đối với

người phải thi hành án khi họ không có điều kiện thi hành án vì những nguyên nhân

khách quan trong những trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, thực tế công tác THADS

tỉnh Quảng Ninh cho thấy có một số trường hợp đương sự cố tình lợi dụng quy định

này để kéo dài thời gian THADS.

Năm 2017, theo số liệu thống kê của Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, cả

tỉnh có 18 trường hợp hoãn THADS, trong đó có 10 trường hợp đương sự bị ốm

nặng, có xác nhận của cơ sở y tế cấp huyện; 02 trường hợp đương sự bị mất năng

lực hành vi dân sự có quyết định của TA, 06 việc bị hoãn do Chấp hành viên

THADS chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án (chiếm tỉ lệ 25%).

Năm 2018 (tính đến tháng 9), cả tỉnh có 16 việc THADS bị hoãn, trong đó có 10

trường hợp người phải THADS bị ốm nặng, 03 trường hợp người phải THADS bị

mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án, 03 việc bị

hoãn do chưa xác định được địa chỉ của người phải THADS (chiếm tỉ lệ 19%), còn

lại do Tòa án. Như vậy, có thể thấy, ngoài những lí do khách quan liên quan tới sức

khỏe của người phải THADS, các trường hợp hoãn THADS do Chấp hành viên

chưa xác định được địa chỉ của người phải THADS chiếm tỉ lệ tương đối cao.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc THA bị kéo dài, trong đó nguyên nhân chủ

yếu là ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận người dân và các bên có liên quan

chưa đầy đủ. Nhiều trường hợp có điều kiện THA nhưng bằng mọi cách chây ỳ, tẩu tán

tài sản, khiếu nại vượt cấp. Ngoài ra, một số quy định của Luật THADS chưa có tính

khả thi nhưng chưa kịp thời có văn bản hướng dẫn thi hành; cơ chế phối hợp trong

51

công tác THA chưa đồng bộ; việc truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành

án theo Điều 304 Bộ Luật hình sự chưa được hướng dẫn thực hiện.

Việc không xác định được địa chỉ của người phải THADS có thể xuất phát từ

nhiều lý do khác nhau như đương sự cố tình bỏ trốn để trốn tránh nghĩa vụ của mình,

đương sự chỉ đăng kí địa chỉ tạm trú, tạm vắng trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh và đã rời

đi địa phương khác và không làm thủ tục khai báo tạm trú, tạm vắng mới, hoặc cũng có

nhiều trường hợp, người phải THADS cố tình khai báo sai địa chỉ, thông báo địa chỉ

giả cho TA và cơ quan THADS để cố tình kéo dài thời gian THADS.

Bên cạnh lý do đương sự chây ỳ trốn tránh, cơ quan có liên quan không hợp

tác, thì việc phải hoãn THADS còn xuất phát từ lý do khác “nằm trong tay” các cơ

quan có thẩm quyền được hoãn (Tòa án, Viện kiểm sát). Đó là các trường hợp phải

đợi TA giải thích, tuy nhiên, sau một thời gian TA không giải thích, hoặc giải thích

vòng vo. Trong số liệu 3 năm gần nhất của Cục THADS tỉnh Quảng Ninh, toàn tỉnh

chỉ có tổng cộng 3 vụ việc THADS bị hoãn do TA yêu cầu. Do vậy, đòi hỏi cần

phải xây dựng quy chế phối hợp với các cơ quan tố tụng, đặc biệt là Tòa án, Viện

Kiểm sát trong việc hoãn THA. Nếu thời gian hoãn đã hết mà không có căn cứ thì

phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan THA để có cơ sở giải thích các vướng mắc

với các cơ quan có liên quan và dư luận trước khi tổ chức cưỡng chế.

2.6. Nhận xét chung về thực trạng thi hành án dân sự ở tỉnh Quảng Ninh

2.6.1. Một số khó khăn, hạn chế

So với các năm trước đây, THADS của tỉnh Quảng Ninh đã đạt được những kết

quả nhất định. Số lượng và chất lượng các vụ thi hành án được nâng lên, đáp ứng ngày

càng tốt hơn với yêu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, thực tế công tác

THADS trên địa bàn tỉnh vẫn còn rất nhiều hạn chế, khó khăn. Đó là:

Thứ nhất, số lượng án DS chưa có điều kiện thi hành chiếm tỉ lệ cao và đặc

biệt là số tiền cần phải thu bị tồn đọng hàng năm. Những việc tồn đọng chủ yếu là

do người phải thi hành án không có điều kiện thi hành, không có tài sản, sống phụ

thuộc và gia đình, đang phải chấp hành hình phạt tù giam hoặc đã chấp hành xong

hình phạt tù không có việc làm ổn định chưa có điều kiện thi hành; việc chưa đủ

52

điều kiện xét miễn giảm nghĩa vụ thi hành án theo quy định của pháp luật. Đến hết

tháng 9/2016, số cũ chuyển sang là 3.160 việc; từ 01/10/2016 đến 30/9/2017, thụ lý

mới 6.575 việc. Như vậy, có thể thấy, số vụ tồn đọng từ năm 2016 Năm 2017, trong

số có điều kiện, đã giải quyết xong 6.448 việc, đạt tỷ lệ 80,6% (so với chỉ tiêu được

Bộ Tư pháp giao năm 2017, vượt 10,6%). So với năm 2016 giảm 261 việc (3,9%).

Số việc chuyển kỳ sau là 3.184 việc, trong đó số việc có điều kiện nhưng chưa thi

hành xong là 1.552 việc, giảm 151 việc (8,9%) so với số việc có điều kiện thi hành

năm 2016 chuyển sang năm 2017. Đa phần số án chưa có điều kiện thi hành là phần

dân sự trong các bản án hình sự liên quan đến các khoản phạt tiền, án phí hoặc do

người phải thi hành án không có điều kiện về kinh tế để thi hành (năm 2016 là 1053

việc, năm 2017 là 1130 việc, năm 2018 là 1106 việc) như vậy, phần việc dân sự

trong án hình sự luôn chiếm tỉ lệ trên 65% tổng số việc chưa có điều kiện thi hành.

Có nhiều vụ việc người phải thi hành án phải tuyên ở mức hình phạt có thời hạn tù

10 năm, 20 năm, tù chung thân nhưng bản án, quyết định tuyên phạt bổ sung rất cao

từ 5 triệu đến 200 triệu.

Thứ hai, việc THADS đối với người phải thi hành án liên quan đến kiện đòi

nợ, tranh chấp tài sản, nhà đất có tổng số tiền lớn. Qua nghiên cứu và thống kê từ

một số bản án liên quan đến kiện đòi nợ và tranh chấp về quyền sử dụng đất của TA

tỉnh Quảng Ninh năm 2016, phần lớn đếu là những trường hợp người phải thi hành

án có nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền rất lớn nhưng thực tế tài sản ít, thậm chí

đã khánh kiệt hoặc có tài sản đã kê biên là quyền sử dụng đất nhưng lại có tranh

chấp nên không thể bán tài sản được. Trong nhiều trường hợp, người phải THADS

là các đương sự tham gia tranh chấp có mâu thuẫn gay gắt với nhau, thậm chí là thù

hằn nhau. Vì vậy, dù kết luận của bản án chỉ rõ một bên có nghĩa vụ thanh toán

khoản nợ và các chi phí thi hành án, thì bên có nghĩa vụ thi hành án vẫn có thái độ

chống đối quyết liệt, cản trở và gây khó khăn cho cơ quan THADS.

Thứ ba, công tác chỉ đạo, điều hành của một số lãnh đạo Chi cục chưa thực

sự quyết liệt dẫn đến tiến độ công việc của cơ quan THADS chưa thực sự hiệu quả,

kéo theo hệ quả là tỉ lệ thi hành án tuy vượt chỉ tiêu được giao nhưng vẫn được đánh

giá là một tỉ lệ chưa cao. Một số Chấp hành viên, công chức chưa thực sự tích cực

53

trong công tác dẫn đến có một số vụ việc tuy có điều kiện thi hành nhưng chưa

được thi hành một cách dứt điểm. Trình độ, năng lực của đội ngũ công chức, cán

bộ, chấp hành viên chưa đồng đều, đặc biệt là tại các Chi cục. Thư ký thi hành án

chưa mạnh dạn đề xuất các biện pháp, còn có thái độ trông chờ vào sự chỉ đạo của

Thủ trưởng cơ quan, đơn vị, dẫn đến chậm tiến độ thi hành án. Bên cạnh đó, công

tác giải quyết khiếu nại còn gặp nhiều khó khăn do ngày càng có nhiều đương sự lợi

dụng quyền công dân và các phương tiện thông tin đại chúng để khiếu nại nhiều lần,

đồng thời gửi đơn thư đến các cơ quan ban ngành với nội dung không chính xác

nhằm mục đích cản trở, kéo dài tiến độ giải quyết của đội ngũ Chấp hành viên.

Thứ tư, việc kiện toàn bộ máy nhân lực của các cơ quan THADS còn gặp

nhiều khó khăn. Đội ngũ cán bộ, Chấp hành viên tuy đã được tăng cường và bổ

sung, đào tạo bồi dưỡng thường xuyên song vẫn chưa đáp ứng được đối với khối

lượng việc thi hành án hàng năm tăng lên không ngừng. Ngoài ra, ở các Chi cục,

còn thiếu nhiều công chức làm công tác thống kê, tổng hợp nên chủ yếu các cán bộ

phải đa nhiệm thực hiện các công việc khác, thậm chí là Chấp hành viên phải kiêm

nhiệm cả công tác thống kê, tổng hợp. Thực tế cho thấy, việc tuyển dụng công chức

vào ngành THADS và bổ nhiệm các chức danh Chấp hành viên, Thẩm tra viên còn

chậm, không đáp ứng được đối với nhu cầu công việc hiện tại. Việc nâng cao năng

lực cho đội ngũ cán bộ, công chức là một việc làm thường xuyên, liên tục và mang

tính kế thừa. Thực tiễn cho thấy những năm qua, công tác THADS đã đạt được

những kết quả hết sức to lớn. Có được những thành tựu đó là do có sự đóng góp rất

lớn công sức, trí tuệ của đội ngũ cán bộ THADS. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới

và hội nhập quốc tế như hiện nay, một bộ phận cán bộ THADS còn chưa đủ năng

lực và khả năng gánh vác nhiệm vụ được giao.

Thứ năm, số lượng vụ việc hoãn thi hành án còn nhiều, phần lớn những vụ

việc này là những việc chưa có điều kiện thi hành. Đây là những vụ việc vì lý do

khách quan hoặc chủ quan, theo quy định của pháp luật, cơ quan Thi hành án phải

ra quyết định hoãn thi hành án và sẽ tổ chức thi hành tiếp khi điều kiện hoãn thi

hành án không còn. Do đó, những vụ việc thời hạn hoãn kéo dài từ kỳ báo cáo này

qua kỳ báo cáo khác hoặc từ năm báo cáo này qua năm báo cáo khác cũng là

54

nguyên nhân dẫn tới việc THADS tồn đọng. Số hoãn này bao gồm: Người phải thi

hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; chưa xác định

được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người

phải thi hành án không thể tự mình thực hiện được nghĩa vụ theo bản án, quyết

định; người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.

Thứ sáu, do đặc điểm địa hình, trình độ dân trí và công tác tuyên truyền, phổ

biến pháp luật THADS còn khó khăn. Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống, thực tế mới chỉ áp dụng được một phần

nhỏ nhu cầu cần được tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật của từng đơn vị

nói riêng và của ngành thi hành án nói chung. Sở tư pháp và các cơ quan báo chí và

truyền thông chưa làm tốt công tác này, bởi phần lớn chưa có sự phối hợp giữa Cục

và các Chi cục Thi hành án với bộ phận truyền thông, báo chí. HĐND các cấp tỉnh

Quảng Ninh cũng chưa thực sự giám sát một cách nghiêm túc và có hiệu quả hoạt

động tuyên truyền, giáo dục pháp luật THADS. Bên cạnh đó, kinh phí cho hoạt

động này còn hạn chế và chưa thể tương xứng đối với yêu cầu thực tiễn. Chính vì

vậy, thực trạng còn nhiều người dân, đặc biệt là bộ phận người dân tộc thiểu số,

thậm chí có cả cán bộ, công chức của một số cơ quan Nhà nước khác còn thiếu hiểu

biết ở mức cơ bản về những quy định của pháp luật về lĩnh vực THADS.

2.6.2. Một số bất cập trong thực hiện quy định của pháp luật về thi hành án dân

sự

Thứ nhất, phạm vi bản án, quyết định được thi hành theo quy định của

BLTTDS năm 2015 rộng hơn so với quy định của Luật THADS 2008 (sửa đổi bổ

sung năm 2014). Cụ thể, Luật THADS quy định về những bản án, quyết định của

TA cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị bao

gồm: (1) Bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi

việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về

tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc; (2)

Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời”.Trong khi đó, BLTTDS năm

2015 quy định, ngoài những bản án, quyết định của TA cấp sơ thẩm được thi hành

ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị như đã được quy định tại khoản 2

55

Điều 2 Luật THADS nên trên, còn bổ sung thêm một số trường hợp bản án, quyết

định của TA cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng

nghị như: Khoản về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, quyết

định về tính hợp pháp của cuộc đình công. Nhý vậy, giữa quy ðịnh mới của

BLTTDS nãm 2015 và quy ðịnh của Luật THADS về phạm vi bản án, quyết định

được thi hành đã có sự thiếu thống nhất (Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội, Tổng cục

THADS, 2017, tr.12). Sự thiếu thống nhất này đã gây khó khăn, trở ngại cho Chấp

hành viên và cơ quan THADS trong việc tiếp nhận và tổ chức thi hành những bản

án, quyết định mà chưa được liệt kê trong Luật THADS.

Thứ hai, Cưỡng chế THADS là một giai đoạn khó khăn, phức tạp nhất trong

quá trình giải quyết việc thi hành án. Do đó, trình tự, thủ tục tiến hành phải hết sức

chặt chẽ, đúng pháp luật, vì chỉ cần một sai sót nhỏ cũng có thể gây ra những hậu

quả khó lường và có thể phải hủy bỏ toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án. Việc lập

kế hoạch cưỡng chế theo quy định tại Điều 72 Luật THADS hiện nay vẫn chưa có

hướng dẫn cụ thể về các trường hợp phải lập kế hoạch cưỡng chế và những trường

hợp phải cưỡng chế ngay, không cần lập kế hoạch. Điều này đã dẫn đến bất cập là

trong thực tế có các cách hiểu khác nhau về việc lập kế hoạch cưỡng chế THADS.

Cách hiểu không thống nhất này không chỉ có ở cơ quan THADS, mà ngay cả Viện

kiểm sát nhân dân cũng có những quan điểm khác nhau. Từ những bất cập và các

cách hiểu khác nhau về lập kế hoạch cưỡng chế, cần phải có những quy định hướng

dẫn cụ thể để thi hành Điều 72 trong việc lập kế hoạch cưỡng chế một cách cụ thể,

rõ ràng hơn và thống nhất cách hiểu, cách áp dụng giữa các cơ quan trong việc lập

kế hoạch và phối hợp cưỡng chế thi hành án dân sự.

Thứ ba, thiếu các quy định cần thiết hướng dẫn thực hiện THADS liên quan

đến việc thi hành án đối với tài sản hình thành trong tương lai, mặc dù khái niệm

“tài sản hình thành trong tương lai” và các chế định pháp lý có liên quan đã được

quy định tại BLDS năm 2015 và đặc biệt là các văn bản pháp luật mới được ban

hành như như Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của

Chính phủ về giao dịch bảo đảm đã quy định tài sản hình thành trong tương lai gồm

56

tài sản được hình thành từ vốn vay; tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc

đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; tài sản đã

hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng sau thời điểm giao

kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật.

Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất (khoản 2 Điều

1). Các văn bản pháp luật mới được ban hành quy định về tài sản hình thành trong

tương lai, điển hình như Luật Nhà ở năm 2014, có hiệu lực thi hành kể từ ngày

01/7/2015, quy định về thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở

hình thành trong tương lai (Điều 147); về điều kiện thế chấp dự án đầu tư xây dựng

nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai (Điều 148) và xử lý tài sản nhà

ở, dự án đầu tư xây dựng nhà ở thế chấp (Điều 149). Luật Kinh doanh bất động sản

năm 2014, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015 quy định về quyền kinh doanh

bất động sản hình thành trong tương lai (Điều 54); về điều kiện của bất động sản

hình thành trong tương lai được đưa vào kinh doanh (Điều 55) và bảo lãnh trong

bán, cho thuê mua nhà ở hình thành trong tương lai (Điều 56). Thông tư số

26/2015/TT-NHNN ngày 09/12/2015 của Ngân hàng Nhà nước đã hướng dẫn cụ

thể về trình tự, thủ tục thế chấp và giải chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở,

nhà ở hình thành trong tương lai.

Trước đây, BLDS năm 2005 chỉ có 04 điều liên quan đến tài sản hình thành

trong tương lai như phạm vi bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (khoản 2 Điều

319), vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (khoản 2 Điều 320), thế chấp tài sản

(khoản 1 Điều 342), quyền của bên nhận thế chấp tài sản trong trường hợp nhận thế

chấp bằng tài sản hình thành trong tương lai (khoản 6 Điều 351). BLDS năm 2015

bổ sung thêm nhiều quy định mới liên quan trực tiếp đến tài sản hình thành trong

tương lai, cụ thể tại các Điều 105, 108, 293, 294, 295, 336. Theo đó, BLDS năm

2015 ngoài kế thừa khái niệm “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các

quyền tài sản” như quy định tại Điều 163 BLDS năm 2005 còn bổ sung thêm một

điểm mới, đó là “Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động

sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Tiếp theo, Điều

108 BLDS năm 2015 bổ sung quy định mới về khái niệm tài sản hiện có và tài sản

57

hình thành trong tương lai. Cụ thể, tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể

đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập

giao dịch. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm tài sản chưa hình thành; tài

sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài sản sau thời điểm xác lập

giao dịch. Ngoài ra, các quy định mới khác có liên quan đến các chế định pháp lý về

tài sản hình thành trong tương lai được quy định tại Bộ luật này như quy định về

phạm vi nghĩa vụ được bảo lãnh (Điều 293); bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong

tương lai (Điều 294); tài sản bảo đảm (Điều 295) và phạm vi bảo lãnh (Điều 336).

Việc có nhiều văn bản pháp luật mới quy định về quyền và nghĩa vụ của các

bên trong các giao dịch dân sự, thương mại, kinh tế đặc biệt là các giao dịch liên

quan đến bất động sản, tín dụng, ngân hàng đã thúc đẩy các giao dịch có liên quan

đến tài sản hình thành trong tương lai phát triển, đồng thời cũng phát sinh những

tranh chấp và kết quả tranh chấp được thể hiện bằng những bản án, quyết định của

TA hoặc quyết định giải quyết của trọng tài thương mại có liên quan đến tài sản

hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục và các nội dung có tính đặc

thù để tổ chức thi hành các loại án này lại chưa được luật hóa trong Luật THADS,

cùng với việc thiếu sự xác minh trên thực tiễn về sự tồn tại của tài sản hình thành

trong tương lai trước khi ban hành các bản án, quyết định của TA đã gây ra không ít

khó khăn cho các cơ quan THADS khi phải xử lý các vấn đề có liên quan đến tài

sản hình thành trong tương lai trong thời gian qua.

2.6.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

2.6.3.1. Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh liên tục thay đổi và ban

hành mới. Sau khi Luật THADS năm 2008 được ban hành, tính đến hết năm 2015

Chính phủ ban hành 07 Nghị định, 18 Thông tư liên tịch và 25 Thông tư về thi hành

án dân sự. Tuy nhiên, qua quá trình thực tiễn triển khai áp dụng, các quy định này

cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nên Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung nhiều văn

bản nghị định: Nghị định số 125/2013/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định số

58/2009/NĐ-Chính phủ ngày 13/07/2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

58

một số điều của Luật THADS về thủ tục THADS; Nghị định số 135/2013/NĐ-CP

sửa đổi, bổ sung Nghị định số 61/2009/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động

của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh… Đặc biệt, Chính

phủ đã xây dựng và trình Quốc hội khóa VIII thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một

số điều của Luật THADS 2008, có hiệu lực từ ngày mùng 01/07/2015 để thi hành

Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014. Ngày 18/07/2015, Chính phủ ban hành

Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật THADS

(sau đây gọi là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP). Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày

01/09/2015 và thay thế Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/09/2009 của Chính

phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS về cơ

quan quản lý THADS, cơ quan THADS và công chức làm công tác THADS; Nghị

định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/07/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật THADS về thủ tục THADS; Nghị định số

125/2013/NĐ-CP ngày 14/10/ 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của

Nghị định số 58/2009/NĐ-Chính phủ. Việc hướng dẫn cụ thể các văn bản quy phạm

pháp luật của cơ quan Nhà nước chưa thực sự kịp thời. Nhiều quy định của pháp

luật được xây dựng chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống. Nhiều văn bản ban hành

nhưng khi áp dụng vào thực tiễn còn thiếu hoặc có những trường hợp không thống

nhất giữa văn bản hướng dẫn và quy định trong Luật THADS.

Thứ hai, việc tuân thủ của một số tổ chức, cá nhân liên quan đến việc

THADS còn kém là nguyên nhân lớn gây ra tình trạng tồn đọng án. Đối với công

tác thi hành các bản án, quyết định dân sự có hiệu lực pháp luật, việc xác định chính

xác địa chỉ, trụ sở của cá nhân, pháp nhân có ý nghĩa rất quan trọng. Tuy nhiên,

nhiều trường hợp đương sự không có địa chỉ rõ ràng, hoặc cơ quan, tổ chức, doanh

nghiệp đã giải thể và ngừng hoạt động. Ngoài ra, người phải THADS còn cố tình

chống đối, tìm mọi biện pháp trì hoãn, trốn tránh việc thi hành án, cố tình cản trở quá

trình thi hành án dù họ có tài sản, có điều kiện thi hành chỉ vì tâm lý thù ghét bên có

quyền trong bản án, quyết định của TA. Thực tế có nhiều trường hợp đương sự bỏ trốn

khỏi địa phương, không đăng kí tạm trú tạm vắng tại địa phương khác hoặc có địa chỉ

tại địa phương nhưng lại không rõ nơi cư trú; hoặc người phải thi hành án đang chấp

59

hành hình phạt tù, mặc dù có tài sản để thi hành (thường là các tội phạm về ma túy,

buôn lậu, trộm cắp tài sản…) nhưng người thân của họ cố tình che giấu tài sản của họ

và cản trở quá trình kê biên tịch thu tài sản của Chấp hành viên.

Thứ ba, xuất phát từ điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. Để

đảm bảo thi hành các nghĩa vụ về tài sản hay nghĩa vụ về hành vi thì điều kiện tiên

quyết là người đó phải có điều kiện thi hành án. Do đó, nếu đương sự không có điều

kiện thi hành án thì việc thi hành án không thể tiến hành. Mặt khác, một bộ phận

người dân sinh sống ở các huyện miền núi, hải đảo của Quảng Ninh chủ yếu làm

nông nghiệp và lâm nghiệp nên kinh tế khó khăn hoặc vì trình độ kém, thường lao

động tự do nên rời khỏi địa phương ngày càng nhiều. Những đối tượng này thường có

tiền án, tiền sự,thậm chí phạm tội nhiều lần hoặc phạm tội ma túy nên rất khó khăn

trong việc thi hành các khoản tiền phải nộp theo bản án TA đã tuyên. Theo số liệu từ

Báo cáo kết quả công tác thi hành án năm 2017 của Cục THADS tỉnh Quảng Ninh Cục

THADS tỉnh Quảng Ninh và các Chi cục còn phải thi hành 453 việc đối với người

đang chấp hành án phạt tù, bằng 15.65% tổng số việc phải thi hành năm 2017.

Thực tế có nhiều nguyên nhân xuất phát từ việc người phải thi hành án

không có tài sản, không có thu nhập hợp pháp để thi hành án hoặc không xác định

được nơi cư trú của đương sự, đặc biệt đối với trường hợp người phải thi hành án

đang chấp hành hình phạt tù, không có tài sản; người phải thi hành án có tài sản

nhưng giá trị nhỏ không đáng kể để thi hành án; người phải thi hành án chỉ có tài

sản đã kê biên, phát mãi nhưng không bán được, mà người được thi hành án không

đồng ý nhận để trừ vào số tiền được thi hành án và người phải thi hành án không

còn tài sản nào khác; người phải thi hành nghĩa vụ giao vật đặc định mà vật đó đã bị

mất, hư hỏng mà hai bên không thỏa thuận được về phương thức thanh toán, cơ

quan thi hành án đã hướng dẫn các đương sự khởi kiện yêu cầu TA giải quyết việc

bồi thường, nhưng chưa có quyết định giải quyết của TA; việc thi hành nghĩa vụ

gắn liền với nhân thân, nếu do điều kiện khách quan (ốm đau, đi công tác...) mà

người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện được các nghĩa vụ đó hoặc chưa

xác định được địa chỉ của người phải thi hành án.

60

Ngoài ra, việc thi hành án đối với người phải thi hành án liên quan đến kiện

đòi nợ, tranh chấp tài sản, nhà đất có tổng số tiền lớn. Theo thống kê từ một số bản

án năm 2016, phần lớn đều là những trường hợp người phải thi hành án có nghĩa vụ

thanh toán một khoản tiền rất lớn nhưng thực tế tài sản ít hoặc có tài sản đã kê biên

là quyền sử dụng đất nhưng lại có tranh chấp nên không thể bán tài sản được. Trong

nhiều trường hợp, người phải thi hành án là các đương sự tham gia tranh chấp có

mâu thuẫn gay gắt với nhau, thậm chí là thù hằn nhau. Vì vậy, dù kết luận của bản

án chỉ rõ một bên có nghĩa vụ thanh toán khoản nợ và các chi phí thi hành án, thì

bên có nghĩa vụ thi hành án vẫn có thái độ chống đối quyết liệt, cản trở và gây khó

khăn cho cơ quan thi hành án.

Thứ tư, tình trạng quá tải công việc của đội ngũ cán bộ, công chức, Chấp

hành viên thi hành án cũng ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng của công tác thi

hành án. Số lượng việc và số tiền thụ lý ngày càng nhiều, năm cao sau hơn năm

trước, nhiều việc có giá trị rất lớn (đặc biệt là các việc liên quan đến tín dụng và

ngân hàng). Tài sản thế chấp của các việc này thường là nhà xưởng, dây chuyền,

máy móc đã cũ, lạc hậu nên giá trị thực tế thấp hơn nhiều so với số tiền phải thi

hành. Vì vậy, Chấp hành viên đã kê biên và đưa ra đấu giá nhiều lần nhưng vẫn

chưa bán được. Cá biệt, có một số vụ việc, tài sản thế chấp là quyền khai thác mỏ

đá, mỏ than nên quá trình giải quyết đối với các việc này rất phức tạp, liên quan đến

nhiều cấp, nhiều ngành luật khác nhau, trong khi sự phối hợp giữa các tổ chức có

liên quan như UBND, hay Ngân hàng nhận thế chấp vay tài sản này thực tế chưa

tốt. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, các bên còn có đơn khiếu nại lên các cấp

chính quyền gây khó khăn cho cơ quan thi hành án và Chấp hành viên trong quá

trình giải quyết vụ án.

Thứ năm, do hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không ngừng mở rộng, Việt

Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và Cộng đồng

kinh tế ASEAN (AEC), cùng với rất nhiều các hiệp định thương mại song phương,

đa phương trong khu vực và trên thế giới. Với những cam kết quốc tế trong lĩnh vực

thương mại, dịch vụ và sở hữu theo cơ chế thị trường, chính sự hội nhập và phát

triển kinh tế đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp lớn và nhỏ xuất

61

hiện ngày càng nhiều. Theo đó, các quan hệ dân sự không bị giới hạn trong phạm vi

lãnh thổ Việt Nam mà còn mở rộng ra các quốc gia khác. Các giao dịch dân sự có

yếu tố nước ngoài đó phần lớn thường phức tạp và khi phát sinh tranh chấp, việc thi

hành bán, quyết định có hiệu lực của TA cũng rất phức tạp, bởi tài sản của các bên

không tập trung tại một địa phương mà rải rác khắp các tỉnh thành trên cả nước,

thậm chí có những trường hợp tài sản của đương sự là bất động sản nằm ở nước

ngoài. Chính vì vậy, những tác động từ nền kinh tế thị trường và sự hội nhập kinh tế

có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của công tác THADS nói chung và của tỉnh

Quảng Ninh nói riêng.

2.6.3.2. Nguyên nhân chủ quan

Thứ nhất, công tác chỉ đạo, điều hành của một số Chi cục còn chưa thật sự

được quan tâm sát sao, chưa có biện pháp chỉ đạo thực sự quyết liệt, toàn diện. Tinh

thần trách nhiệm của một số Chấp thành viên, cán bộ chưa cao trong việc xác minh

điều kiện của người thi hành án. Đặc biệt trong việc đôn đốc và áp dụng các biện

pháp cần thiết để thi hành dứt điểm những bản án, quyết định có điều kiện giải

quyết. Nhiều trường hợp, đội ngũ công chức có năng lực còn hạn chế, chưa có

nhiều kinh nghiệm, ý thức kỷ luật lập thấp nên công tác tổ chức thi hành án chậm và

hiệu quả chưa cao; chưa mạnh dạn chủ động đề xuất các biện pháp mang tính đột

phá trong công tác, còn trông chờ vào sự chỉ đạo của Thủ trưởng đơn vị nên phần

nào ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Chấp hành viên chưa thực sự tích cực gặp

gỡ gia đình, thân nhân của người phải thi hành án để đôn đốc, động viên, giáo dục,

thuyết phục họ có trách nhiệm và nhận thức đúng đối với việc thi hành án của người

thân trong gia đình. Nhiều trường hợp có chấp hành nhưng không làm tròn chức

trách, không xác định rõ mức độ nghiêm trọng của từng vụ việc dẫn đến số lượng

các việc bị tồn đọng từ năm này sang năm khác không ngừng gia tăng. Đây là

nguyên nhân chủ quan của phần lớn các việc chưa có điều kiện thi hành trên địa bàn

tỉnh Quảng Ninh.

Thứ hai, các cấp, các ngành có những quan điểm chưa thống nhất để xử lý

một số vụ việc phức tạp. Việc phối hợp trách nhiệm trong THADS chưa được thực

hiện đúng theo quy định của pháp luật. Trong nhiều trường hợp, bản án quyết định

62

có hiệu lực pháp luật đã được đưa ra thi hành hoặc đã thi hành xong hoàn toàn

nhưng sau đó lại có yêu cầu hoãn hoặc kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm, tái

thẩm của cơ quan có thẩm quyền. Mặc dù pháp luật quy định việc thi hành án

không chỉ là nhiệm vụ của riêng Cơ quan thi hành án mà còn là nhiệm vụ chung của

các ngành, các cấp trong toàn xã hội, nhưng thực tế cho thấy, nhiều trường hợp, sự

phối hợp của các cấp chính quyền, các tổ chức xã hội chưa thực sự tốt. Đặc biệt là

lực lượng cảnh sát, nhiều khi còn e ngại và né tránh trong việc bảo vệ cưỡng chế thi

hành án, coi việc thi hành án là nhiệm vụ của riêng Cơ quan thi hành án mà không

phải nhiệm vụ của ngành Cảnh sát nên việc hợp tác chưa đáp ứng được yêu cầu

thực tế.

Thứ ba, hoạt động của TA cũng tác động trực tiếp đến hiệu quả của công tác

thi hành án dân sự. Nhiều trường hợp, án tuyên đối với những đối tượng trong vụ

việc ma túy, trộm cắp tài sản thường là những đối tượng lêu lổng, không nghề

nghiệp, sống phụ thuộc nên không thể có tài sản để thi hành theo như mức phạt tiền

bổ sung mà TA đã tuyên trong các bản án đối với các tội phạm ma túy, trộm cắp tài

sản. Vì vậy, sau khi bản án, quyết định có hiệu lực được chuyển giao từ TA sang Cơ

quan thi hành án và được rà soát, phân loại thì chỉ “nằm trong tủ kính”, vì được xếp

vào việc không có điều kiện giải quyết. Nhiều quy định của pháp luật liên quan đến

hình phạt tiền trong Bộ luật hình sự chưa phù hợp với thực tiễn, không mang tính

khả thi như: việc tuyên các đương sự phạm tội về ma túy đến 20 triệu đồng. Trên

thực tế, để răn đe người phạm tội luật quy định mức hình phạt nghiêm khắc, nhưng

điều này làm cho tính khả thi của hình phạt không đạt được, vì hầu hết đối tượng

này là người có hoàn cảnh khó khăn, không có tài sản.

Trên đây là những nguyên nhân khách quan và chủ quan trực tiếp hoặc gián

tiếp ảnh hưởng đến công tác THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Đứng trước

những đòi hỏi của việc bảo đảm bản án, quyết định của TA có hiệu lực trên thực tế

cũng như những yêu cầu trong việc giảm lượng thi hành án tồn đọng, kéo dài qua

các năm, giảm sự bức xúc trong xã hội thì yêu cầu bức thiết đặt ra là phải đưa ra các

giải pháp cụ thể để tăng cường thực thi công tác THADS. Chương 3 của Luận văn

sẽ đưa ra các giải pháp cụ thể.

63

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH

3.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự

3.1.1. Mở rộng phạm vi bản án, quyết định được thi hành án dân sự

Luật THADS là văn bản pháp luật chuyên ngành trong lĩnh vực THADS, do

đó, các điều khoản quy định về phạm vi bản án, quyết định được thi hành trong văn

bản luật này có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở pháp lý cho Chấp hành viên tổ chức thi

hành bản án, quyết định của TA trên thực tế. Trước đây, phạm vi bản án, quyết định

được thi hành trong các văn bản pháp luật về THADS (Pháp lệnh THADS năm

1989, Pháp lệnh THADS năm 1993 và Pháp lệnh THADS năm 2004) ngoài việc liệt

kê các loại bản án, quyết định được thi hành, còn bổ sung thêm một ý mở, đó là

“bản án, quyết định khác do pháp luật quy định”. Tuy nhiên, kể từ khi Luật

THADS năm 2008 được ban hành và sau này được sửa đổi, bổ sung năm 2014, đã

không còn đưa thêm ý “bản án, quyết định khác do pháp luật quy định” vào trong

phạm vi các bản án, quyết định được thi hành. Thực tế là, các văn bản luật mới

được ban hành (ban hành sau Luật THADS), ví dụ BLTTDS, Luật Nhà ở, Luật

Kinh doanh bất động sản, pháp luật về tín dụng, ngân hàng, đăng ký giao dịch bảo

đảm..., đã bổ sung thêm phạm vi bản án, quyết định được thi hành hoặc bổ sung

thêm các chế định pháp lý mới ngoài phạm vi bản án, quyết định được thi hành theo

quy định của Luật THADS nên việc tổ chức thi hành đối với các loại bản án, quyết

định loại này đối với Chấp hành viên cơ quan THADS hiện tại đang gặp những khó

khăn, lúng túng. Nhiều trường hợp, Chấp hành viên không linh động, xuất hiện tâm

lý e ngại đối với việc thi hành những bản án “nằm ngoài” phạm vi của Luật

THADS, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường của Nhà

nước. Vì vậy, tác giả đưa ra giải pháp là cần mở rộng về phạm vi bản án, quyết định

được THADS.

Để thực hiện giải pháp này, tác giả kiến nghị bổ sung vào Luật THADS các

quy định về vấn đề này. Việc nghiên cứu, bổ sung quy định về phạm vi bản án,

64

quyết định được thi hành trong Luật THADS cần được thay đổi theo hướng mở, tức

là ngoài việc liệt kê cụ thể các bản án, quyết định được thi hành theo quy định

truyền thống, nên bổ sung thêm một quy định có tính chất mở vào Luật THADS

năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), đó là “các bản án, quyết định khác theo

quy định của pháp luật”.Qua đó, tạo cơ sở pháp lý cho Chấp hành viên thực

hiệnnghiêp vụ THADS một cách thuận lợi, tránh xảy ra tình trạng từ chối đơn yêu

cầu thi hành án của người được thi hành án với lý do bản án, quyết định này nằm

ngoài phạm vi mà Chấp hành viên có thẩm quyền thi hành.

Ngoài ra, để bảo đảm tính ổn định của Luật THADS, không bị lạc hậu khi có

Luật mới được ban hành thì cần phải chú trọng nghiên cứu, bổ sung vào Luật

THADS việc thi hành các kết quả giải quyết tranh chấp ngoài TA hoặc Trọng tài.

Nội dung này đã được quy định mới tại Chương XXXIII BLTTDS năm 2015 và

đây cũng là một bước thể chế hóa các nhiệm vụ về cải cách tư pháp của Đảng. Nghị

quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định “khuyến khích việc giải quyết một số

tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; TA hỗ trợ bằng quyết định

công nhận việc giải quyết đó”. Chủ trương này của Đảng cũng phù hợp với thông lệ

và xu hướng giải quyết tranh chấp trên thế giới. Ví dụ, các hướng dẫn để thực hiện

tốt hơn các kiến nghị hiện hành của Hội đồng châu Âu về THADS đã được thông

qua bởi Ủy ban châu Âu về tính hiệu quả của hoạt động tư pháp tại phiên họp toàn

thể lần thứ 14 đã khuyến nghị rằng, “nên ưu tiên giải quyết tranh chấp giữa các bên

đương sự thông qua sự thỏa thuận để việc thi hành án được thực hiện thuận lợi

trong một khoảng thời gian hợp lý theo quy định. Khi mà thỏa thuận giữa các bên

đã đạt được về một khoảng thời gian thi hành án hợp lý thì sau đó bất kỳ một thủ

tục tố tụng nào của các quốc gia thành viên cũng không nên cản trở hiệu lực thi

hành của những thỏa thuận đã đạt được này” (European Commission on the

Efficiency of Justice, 2009) Ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi mà cơ chế tố tụng,

thi hành án chưa thực sự hiệu quả và đạt mức độ tin tưởng cần thiết thì việc thương

lượng, hòa giải ngoài TA giữa các bên cũng là một lựa chọn hợp lý giữa các bên

65

tranh chấp nhằm giảm thiểu các chi phí tố tụng và thời gian tố tụng không cần thiết

(Ngân hàng thế giới, 2011, tr.27).

3.1.2. Cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Điều 72 Luật Thi

hành án dân sự về việc lập Kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự

Xuất phát từ thực trạng của công tác cưỡng chế THADS tại các Chi cục

THADS sự huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, có thể thấy, cưỡng chế

THADS là một giai đoạn khó khăn, phức tạp nhất trong quá trình giải quyết việc thi

hành án. Khó khăn không chỉ vì Chấp hành viên phải đối mặt với sự bất hợp tác của

người phải thi hành án mà còn phức tạp trong công tác phối hợp với các cơ quan, tổ

chức có liên quan để việc thực hiện cưỡng chế trên thực tế đạt hiệu quả và ít ảnh

hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác. Do đó, yêu cầu đặt ra

đối với trình tự, thủ tục tiến hành phải hết sức chặt chẽ, đúng pháp luật, vì chỉ cần

một sai sót nhỏ cũng có thể gây ra những hậu quả khó lường và có thể phải hủy bỏ

toàn bộ quá trình tổ chức THADS.

Một trong số các thủ tục đầu tiên, mang tính chất quyết định sự thành công

của công tác cưỡng chế là việc lập kế hoạch cưỡng chế theo quy định tại Điều 72

Luật Thi hành án dân sự. Tuy nhiên, sau khi Luật THADS 2008 ra đời và tiếp tục

Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS năm 2014 được ban hành, cho đến hiện nay vẫn

chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về các trường hợp phải lập kế hoạch cưỡng chế

và những trường hợp phải cưỡng chế ngay, không cần lập kế hoạch. Điều này đã

dẫn đến bất cập là trong thực tế có các cách hiểu khác nhau về việc lập kế hoạch

cưỡng chế thi hành án. Cách hiểu không thống nhất này không chỉ có ở cơ quan thi

hành án dân sự, mà ngay cả Viện kiểm sát nhân dân cũng có những quan điểm khác

nhau. Từ những bất cập và các cách hiểu khác nhau về lập kế hoạch cưỡng chế,

người viết đề xuất giải pháp khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để

thi hành Điều 72 nêu trên trong việc lập kế hoạch cưỡng chế. Việc lập kế hoạch

cưỡng chế cần được hướng dẫn một cách cụ thể, rõ ràng hơn và thống nhất cách

hiểu, cách áp dụng giữa các cơ quan trong việc lập kế hoạch. Qua đó, đưa ra các

phương án phối hợp cưỡng chế THADS hiệu quả.

66

3.1.3. Sửa đổi bổ sung các quy định về trình tự, thủ tục thi hành quyết định giám

đốc thẩm

Ngày 25/11/2015, Quốc hội khóa XIII tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua BLTTDS

năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 thay cho BLTTDS số 24/2004/QH11

và Luật số 65/2011/QH12. BLTTDS 2015 bao gồm các quy định về những nguyên tắc

cơ bản trong tố tụng dân sự; trình tự, thủ tục khởi kiện để TANDgiải quyết các vụ án về

tranh chấp dân sự và nhiều điểm mới cập nhật. Một trong những sửa đổi, bổ sung quan

trọng trong BLTTDS năm 2015 là việc mở rộng thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám

đốc thẩm, cụ thể: Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền “Sửa một phần hoặc toàn

bộ bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật”.Tuy nhiên, việc bổ sung quy

định này đã tạo cho cơ quan THADS lúng túng trong việc tổ chức thi hành quyết định

của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm.

Khoản 3 Điều 49 Luật THADS 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014) quy định

về việc ra quyết định tiếp tục thi hành án không bao gồm trường hợp quyết định của

Hội đồng xét xử giám đốc thẩm “Hủy một phần bản án, quyết định của TA đã có

hiệu lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục

phúc thẩm” và trường hợp quyết định của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm “Sửa

một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật”.

Mặt khác, theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 50 Luật THADS thì Thủ

trưởng cơ quan THADS phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp:

Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ, trừ trường hợp quy định tại khoản

2 Điều 103 của Luật THADS. Đồng thời, Luật THADS chỉ quy định về trình tự thủ

tục thi hành quyết định giám đốc thẩm trong một số trường hợp sau:

i) Thi hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên giữ nguyên bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật;

ii) Thi hành quyết định giám đốc thẩm tuyên giữ nguyên bản án, quyết định

đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc bị sửa;

iii) Thi hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm tuyên huỷ bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật.

67

Như vậy, các quy định của pháp luật về THADS chưa có quy định về tổ chức

thi hành án đối với quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm có nội dung “Sửa một

phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật” và cũng

chưa có quy định về việc tổ chức thi hành đối với phần quyết định của bản án, quyết

định của TA đã có hiệu lực nhưng không bị sửa trong trường hợp “Hủy một phần

bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét

xử phúc thẩm lại”.

Chính vì vậy, tác giả đề xuất giải pháp là cần nhanh chóng sửa đổi, bổ sung

các quy định của Luật THADS về trình tự, thủ tục thi hành quyết định giám đốc

thẩm trong trường hợp tuyên hủy một phần bản án, quyết định của TA đã có hiệu

lực pháp luật để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc

thẩm và tuyên sửa một phần bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật.

Kiến nghị cụ thể cho vấn đề này, theo tác giả là trong trường hợp này, do việc

THADS đang bị tạm đình chỉ thi hành án nên cơ quan THADS cần áp dụng tương

tự Khoản 3 Điều 49 Luật THADS để ban hành quyết định tiếp tục thi hành án đối

với 02 trường hợp nêu trên. Đối với trường hợp quyết định của Hội đồng xét xử

giám đốc thẩm “Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của TA đã có hiệu

lực pháp luật” thì vận dụng Điều 37 Luật THADS để ra quyết định sửa đổi, bổ sung

quyết định thi hành án đã ban hành phù hợp với nội dung quyết định mới và kết quả

giải quyết hậu quả của việc THADS theo quy định tại khoản 2 Điều 347

BLTTDSnăm 2015 “trường hợp bản án, quyết định của TA đã thi hành được một

phần hoặc toàn bộ thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải giải quyết hậu quả của

việc thi hành án”.

3.1.4. Bổ sung các quy định về thi hành án dân sự đối với các bản án liên quan

đế tài sản hình thành trong tương lai

Theo quy định tại Điều 108 BLDS năm 2015, tài sản hiện có là tài sản đã

hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước

hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm: tài

sản chưa hình thành; tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài

sản sau thời điểm xác lập giao dịch.

68

Pháp luật THADS còn thiếu các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thi hành

đối với bản án, quyết định có liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai, đồng

thời thiếu sự liên kết, ràng buộc chặt chẽ giữa pháp luật THADS với các lĩnh vực

pháp luật chuyên ngành có liên quan đến tài sản hình thành trong tương lai nên việc

tổ chức thi hành đối với các loại bản án, quyết định này còn gặp nhiều khó khăn,

vướng mắc. Do đó, tác giả đề xuất giải pháp, cần sớm bổ sung các quy định của

Luật THADS về trình tự, thủ tục và những quy định pháp lý đặc thù cần thiết liên

quan đến việc tổ chức thi hành các loại bản án, quyết định liên quan đến tài sản hình

thành trong tương lai. Ngoài ra, cần quan tâm hơn nữa đến công tác tuyên truyền,

phổ biến pháp luật đặc biệt là các quy định về tài sản hình thành trong tương lai cho

các Chấp hành viên và các cơ quan THADS để trang bị cho Chấp hành viên và các

cơ quan THADS những kiến thức cần thiết về tài sản hình thành trong tương lai,

đáp ứng được yêu cầu khách quan và đòi hỏi thực tế công tác THADS hiện nay.

3.1.5. Bổ sung, sửa đổi cách diễn đạt một số điều luật theo hướng cụ thể hơn, chi

tiết hơn

Thứ nhất, cần sửa đổi, bổ sung câu 1 Khoản 1 Điều 17 Luật THADS năm

2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) theo hướng mở. Cụ thể, thay vì quy định: “Chấp

hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định

theo quy định tại Điều 2 của Luật này”, nên được sửa đổi lại như sau: “Chấp hành

viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành tất cả các bản án, quyết định

của TA; phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại được quy định tại Luật

Thi hành án dân sự, các văn bản pháp luật khác có liên quan và các bản án, quyết

định khác do pháp luật quy định”.

Thứ hai, các Điều 27, Điều 28 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung

năm 2014 cũng cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, ví dụ, Điều 27

về cấp bản án, quyết định quy định: “Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh,

Trọng tài thương mại đã ra bản án, quyết định được quy định tại Điều 2 của Luật

này phải cấp cho đương sự bản án, quyết định có ghi “Để thi hành”” nên được sửa

đổi, bổ sung lại thành “TA, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng tài thương

69

mại đã ra bản án, quyết định được quy định tại Luật Thi hành án dân sự và các luật

khác có liên quan phải cấp cho đương sự bản án, quyết định có ghi “Để thi hành””

Thực tế, Luật THADS không thể luôn được sửa đổi, bổ sung cùng với việc

sửa đổi hoặc ban hành mới của các luật khác, do đó, những quy định về phạm vi

bản án, quyết định được thi hành trong Luật THADS phải là quy định mở và có tính

ổn định cao để bảo đảm luôn có sự thống nhất giữa Luật THADS với các luật mới

được ban hành và luôn bảo đảm mọi bản án, quyết định được ban hành đều có căn

cứ pháp lý chặt chẽ để cơ quan THADS tổ chức thi hành. Đây cũng là một trong

những nhiệm vụ quan trọng về cải cách tư pháp đã được xác định tại Nghị quyết số

49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020, đó là “xây dựng cơ chế bảo đảm mọi bản án của TA có hiệu

lực pháp luật phải được thi hành”

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh

3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cơ quan thi hành án dân sự

3.2.1.1. Cục thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ninh cần đổi mới và kiện toàn tổ

chức, bộ máy cơ quan thi hành án dân sự

Hiệu quả của công tác THADS phụ thuộc trực tiếp vào phương thức hoạt

động, tổ chức và quản lý của bộ máy cơ quan THADS. Chính vì vậy, Cục THADS

tỉnh Quảng Ninh cần tiếp tục nâng cao công tác quản lý và kiện toàn mạnh mẽ đội

ngũ cán bộ cả về số lượng và chất lượng trong toàn tỉnh. Việc tuyển dụng, tiếp

nhận, đào tạo, luân chuyển, bổ nhiệm và bố trí cán bộ, công chức phải khách quan,

công khai theo quy định của pháp luật và hướng dẫn cụ thể của ngành. Bên cạnh đó,

cần chấn chỉnh kỉ cương, kỷ luật trong hoạt động THADS và giáo dục nâng cao

phẩm chất chính trị, đạo đức và chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ công chức, cán

bộ, Chấp hành viên. Lên kế hoạch đào tạo cán bộ nguồn, cán bộ trẻ để đáp ứng

được yêu cầu và nhiệm vụ của công tác THADS không ngừng tăng lên. Duy trì và

thực hiện tốt cuộc vận động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh”, chuyển trọng tâm từ học tập sang làm theo tấm gương đạo đức của Bác. Bên

70

cạnh đó, tãng cường củng cố bộ máy cơ quan THADS theo quy định, đồng thời

nghiên cứu, đề xuất các phương án đổi mới cơ cấu bộ máy thi hành án phù hợp với

thực tế và sự thay đổi của công tác THADS.

Cục THADS tỉnh Quảng Ninh cần tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, trong

đội ngũ công chức làm công tác THADS đủ về số lýợng, đảm bảo về chất lượng,

nhất là những huyện xa trung tâm như huyện Bình Liêu, Ba Chẽ, Huyện Cô Tô,

huyện Hải Hà. Do vậy, tác giả kiến nghị giải pháp đối với Cục THADS tỉnh Quảng

Ninh, đó là lên kế hoạch cụ thể và chi tiết về chế độ đãi ngộ, kinh nghiệm làm việc

để thu hút được nguồn cán bộ, Chấp hành viên có năng lực về công tác tại các

huyện này. Làm tốt công tác tham mưu cho Ban Chỉ đạo THADS các cấp trong việc

chỉ đạo phối hợp công tác liên ngành trong lĩnh vực THADS. Tiếp tục duy trì mối

quan hệ phối hợp với các cơ quan, nhất là các cơ quan khối nội chính, kịp thời tháo

gỡ khó khăn, vướng mắc trong công tác THADS.

Cùng với sự nỗ lực, đổi mới trong cơ chế quản lý, chỉ đạo, điều hành theo

hướng sâu sát, cụ thể, quyết liệt với phương châm hướng về cơ sở, tác giả đề xuất

giải pháp: Cục THADS tỉnh Quảng Ninh cần tăng cường công tác kiểm tra đột xuất

và đôn đốc toàn bộ đội ngũ cán bộ, Chấp hành viên đang công tác tại các Chi cục

THADS trên địa bàn tỉnh. Đồng thời nêu cao trách nhiệm người đứng đầu cơ quan,

đơn vị và Chấp hành viên tại các Chi cục trong thực hiện nhiệm vụ theo chương

trình, kế hoạch đề ra của năm. Bên cạnh đó, Cục THADS tỉnh tiếp tục cần liên tục

triển khai và thực hiện đồng bộ các mặt công tác khác như: công tác thực hiện cơ

chế một cửa, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ

năng, nghiệp vụ của công chức, người lao động trong các cơ quan THADS, công

tác kiểm tra, chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động chuyên môn, trong công

tác báo cáo thống kê, phân loại án.

3.2.1.2. Cục thi hành án dân sự cần tăng cường công tác rà soát, phân loại các bản

án dân sự

Xuất phát từ thực trạng phân loại án còn nhiều tồn tại gây trở ngại, chậm trễ

trong quá trình tổ chức THADS, một trong những nguyên nhân chính dẫn đến án

71

tồn đọng gia tăng. Vì vậy, việc tăng cường kiểm sát việc phân loại án để xử lý theo

quy định của pháp luật là việc làm thường xuyên và hết sức cần thiết.

Mục tiêu của kiểm sát việc loại án là thúc đẩy cơ quan THADS thi hành kịp

thời đưa những việc có điều kiện thi hành án; quyết định các việc chưa có điều kiện

thi hành án theo đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Luật THADS; phối hợp

giải quyết các vướng mắc trong thực tế hoạt động THADS; đề xuất biện pháp đối

với các cơ quan Tư pháp trung ương và địa phương xử lý, góp phần giải quyết các

tồn tại, nhất là án tồn đọng của cơ quan THADS, bảo đảm hiệu lực bản án, quyết

định của TA.

Chính vì lý do công tác rà soát, phân loại án có ý nghĩa to lớn trong việc thúc

đẩy hoặc kìm hãm việc THADS, tác giả đề xuất giải pháp: Cục THADS và các Chi

cục THADS của tỉnh Quảng Ninh phải thường xuyên rà soát công tác xác minh,

phân loại án để có biện pháp thi hành đạt hiệu quả và đánh giá đúng thực trạng về

công tác THADS trên địa bàn tỉnh. Khi tiến hành công tác rà soát, phân loại hồ sơ

thi hành án cần xác định:

Thứ nhất, luôn sàng lọc án bằng hình thức phân loại theo mức độ và tính chất

phức tạp để tính toán các biện pháp, tập trung sự chỉ đạo, tổ chức THADS cho từng

loại. Từ kết quả sàng lọc, lên kế hoạch cụ thể, chi tiết để có được phương án tối ưu

và kịp thời thi hành dứt điểm vụ việc khi đối tượng phát sinh điều kiện thi hành.

Thứ hai, phải sắp xếp theo thứ tự cũ - mới, khó - dễ… để chỉ đạo đôn đốc

hay thiết lập hồ sơ cưỡng chế. Kết quả sắp xếp không để lọt, không quên, không sót

việc; sắp xếp không được chồng chéo để luôn đáp ứng khi có yêu cầu phát sinh, kể

cả phục vụ công tác phối hợp với cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và TA trong việc

tác nghiệp.

3.2.1.3. Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và các Chi cục Thi hành án cấp huyện đẩy

mạnh cải cách hành chính và tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công

tác thi hành án dân sự

Xuất phát từ thực trạng hoạt động THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, số

lượng các việc THADS cần sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan có

72

xu hướng tăng trong ba năm trở lại đây. Do đó, để đảm bảo các yêu cầu đối với việc

quản lý công tác THADS, đồng thời tạo thuận lợi, minh bạch cho các cá nhân, tổ

chức có liên quan, việc thường xuyên cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ

thông tin để hỗ trợ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Đối với hệ thống THADS, trong thời gian qua, công tác cải cách hành chính và

ứng dụng công nghệ thông tin đã góp phần nâng cao hiệu quả của công tác chỉ đạo,

điều hành trong việc quản lý, đồng thời tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp.

Cụ thể, trong Hệ thống THADS đã xây dựng được Trang thông tin điện tử THADS của

Cục THADS tỉnh Quảng Ninh. Trên đó, đảm bảo đăng tải thông tin của người phải

THADS án chưa có điều kiện thi hành, công khai các thủ tục hành chính trong thi

THADS; nhiều phần mềm đã được ứng dụng trong hệ thống như phần mềm Kế toán

nghiệp vụ thi hành án, phần mềm quản lý công văn đi/ đến tại các Chi cục THADS;

Phần mềm lưu trữ dùng cho hệ thống tổ chức các cơ quan THADS; phần mềm quản lý

cán bộ và chức danh tư pháp... Bên cạnh đó, công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân

lực phục vụ việc ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS cần được đặc biệt quan

tâm trong thời gian tới. Tiếp tục đầu tư hạ tầng kỹ thuật trong toàn bộ hệ thống

THADS được thực hiện đồng bộ, nhất là tại các cơ quan THADS; công tác xây dựng

quản lý sử dụng cơ sở dữ liệu điện tử vẫn còn tình trạng cắt khúc, chưa tạo lập được cơ

sở dữ liệu tập trung, nhất là tích hợp cơ sở dữ liệu của từng địa phương thành cơ sở dữ

liệu chung thống nhất của toàn bộ hệ thống THADS.

Không chỉ dừng lại ở việc nâng cấp hệ thống cơ sở thông tin và ứng dụng

khoa học công nghệ, việc đào tạo kỹ năng, trình độ chuyên môn, đặc biệt là khả

năng ứng dụng công nghệ thông tin của một số bộ phận Chấp hành viên, cán bộ,

công chức cần đặc biệt chú trọng, nhất là tại các Chi cục THADS tại huyện, thị xã

xa trung tâm.

Đánh giá chung có thể thấy rằng, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào

công tác THADS tuy có chuyển biến tích cực nhưng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu

của công tác THADS hiện nay. Vì vậy, tác giả kiến nghị Cục THADS và các Chi

cục THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cần tiếp tục đổi mới và đẩy mạnh cải

cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý THADS

73

trong thời gian tới. Tổng cục THADS và các cơ quan THADS cần sớm triển khai

Phần mềm quản lý quá trình thụ lý, tổ chức THADS và báo cáo thống kê THADS

theo chế độ báo cáo thống kê THADS tăng cường sử dụng văn bản điện tử, sử dụng

chữ ký số trong chỉ đạo, điều hành trên môi trường mạng; ưu tiên, bố trí kinh phí

đầu tư phát triển công nghệ thông tin cho những nhiệm vụ trọng tâm có phạm vi ảnh

hưởng rộng… nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các ứng dụng công

nghệ thông tin trong hệ thống THADS.

3.2.2. Các giải pháp đối với cán bộ thi hành án dân sự

3.2.2.1. Các cán bộ thi hành án dân sự cần tích cực chủ động nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ về thi hành án dân sự

Để kiện toàn, nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực, trình độ của đội ngũ

Chấp hành viên, cán bộ, công chức trong hệ thống THADS từ Cục cho đến Chi cục,

cần thường xuyên tự mình đánh giá chất lượng của bản thân cũng như đội ngũ Chấp

hành viên, cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ Chấp hành viên, Thẩm tra viên để

từ đó có sự điều động, phân công hợp lí trong việc thực thi nhiệm vụ THADS. Đồng

thời, Cục THADS tỉnh cần tăng cường hơn nữa công tác chỉ đạo, điều hành, kiểm

tra, giám sát để ngăn ngừa những thiếu sót và vi phạm pháp luật trong hoạt động

THADS. Trong đó, cần tập trung chỉ đạo, kiểm tra các Chi cục THADS có số lượng

các việc thi hành án lớn để đảm bảo cho Chấp hành viên thực hiện đúng quy định

của pháp luật trong việc xác minh, phân loại án, xử lý tài sản để thi hành án. Đặc

biệt, cần có sự trao đổi, hướng dẫn thường xuyên về nghiệp vụ và chia sẻ cách thức,

biện pháp thi hành dứt điểm các vụ việc có giá trị thi hành án lớn.

Bên cạnh đó, để có được đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ, công chức có năng

lực chuyên môn cao và tâm huyết với công tác thi hành án dân sự, Cục THADS tỉnh

nói riêng và Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp nói chung cần kiến nghị lên Chính phủ

quan tâm hơn nữa đến chế độ cũng như chính sách đãi ngộ cho đội ngũ Chấp hành

viên, cán bộ, công chức làm công tác THADS; bổ sung biên chế và có kế hoạch đào

tạo, bồi dưỡng thường xuyên đối với đội ngũ công chức. Hướng tới mục tiêu không

chỉ nâng cao trình độ đội ngũ công chức mà còn nâng cao bản lĩnh nghề nghiệp, tạo

74

nguồn nhân lực để bổ nhiệm Chấp hành viên và các chức danh khác trong các cơ

quan THADS nói chung.

Bên cạnh đó, lãnh đạo Cục THADS tỉnh Quảng Ninh và các Chi cục THADS

cáp huyện cần tổ chức các khóa học ngắn hạn về nghiệp vụ THADS, mời các cán bộ có

kinh nghiệm lâu năm và nghiệp vụ giỏi về giảng dạy và cử các cán bộ ở đơn vị mình

theo học. Việc tổ chức các khóa học này cần được thực hiện thường xuyên với những

nội dung đào tạo khác nhau như đào tạo về pháp luật THADS; đào tạo về kỹ năng

cưỡng chế THADS; đào tạo về cách thuyết phục đương sự tự nguyện THADS.

3.2.2.2. Các Chấp hành viên cần kết hợp hài hòa, hiệu quả giữa biện pháp giáo

dục, thuyết phục, tự nguyện thi hành án và cưỡng chế thi hành án

Công tác THADS không chỉ là công tác chuyên môn, mà còn là nghiệp vụ

mang tính quyền lực Nhà nước, thông qua biện pháp cưỡng chế thi hành án. Do

vậy, việc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS là một hoạt động không

thể thiếu đối với các đương sự cố tình không chấp hành bản án, quyết định của TA.

Song, nếu áp dụng biện pháp cưỡng chế ngay khi đương sự có biểu hiện không hợp

tác trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình, có thể gây ra những hậu quả không tốt

cho cả người phải THADS, người thân của họ và người được THADS, cũng như

làm khó khăn vất vả thêm cho cơ quan THADS. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra là Chấp

hành viên cần coi trọng việc giáo dục, thuyết phục, tạo điều kiện cho các đương sự

thỏa thuận để người phải THADS tự nguyện thi hành. Tuy nhiên, việc thuyết phục

để người phải THADS tự nguyện thi hành trên thực tế là là một việc làm rất khó,

đòi hỏi Chấp hành viên phải có kỹ năng và nghiệp vụ tinh thông, có tấm lòng yêu

nghề và khả năng nắm bắt tâm lý, đặc biệt là khả năng thuyết phục đương sự và đưa

ra những giải thích, lập luận hợp tình, hợp lí.

3.2.2.3. Chi cục trưởng các cơ quan thi hành án dân sự xây dựng chế độ khen

thưởng kịp thời và xử lý kỉ luật nghiêm minh

Vấn đề chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, Chấp hành viên làm công

tác THADS có tác động không nhỏ tới hiệu quả và chất lượng làm việc của đội ngũ

cán bộ, chấp hành viên. Trong công tác THADS, do tính chất công việc của cơ quan

75

THADS rất phức tạp, thực tế có nhiều trường hợp Chấp hành viên và cán bộ

THADS án đã bị đương sự đe dọa, đánh đập, hành hung gây thương tích. Chính vì

thế, đối với một số Chấp hành viên làm việc lâu năm, sự nhiệt tình trong công việc

thường tỉ lệ nghịch với thời gian công tác. Chế độ đãi ngộ hiện tại không khuyến

khích được sự nhiệt tình, tinh thần hăng say trong việc thực hiện công tác THADS

của cán bộ, chấp hành viên. Vì thế, cần hoàn thiện chính sách đãi ngộ không chỉ với

những cán bộ đã gắn bó lâu năm mà cả những cán bộ có thành tích tốt trong công

việc. Cụ thể, tác giả đề xuất các giải pháp như sau: Chi cục trưởng của các cơ quan

THADS cần thường xuyên quan tâm chăm lo về cơ sở vật chất, hỗ trợ chi phí phát

sinh trong quá trình thực hiện công tác THADS, của cán bộ, Chấp hành viên nhằm

tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho cán bộ, công chức THADS để họ yên tâm

công tác, phấn đấu cống hiến cho ngành. Bên cạnh đó, Chi cục trưởng của cơ quan

THADS cần xây dựng chế độ khen thưởng rõ ràng đối với các cán bộ, Chấp hành

viên với nhiều mức độ khác nhau như đã hoàn thành khối lượng công việc, đã vượt

chỉ tiêu 10%, 20%... số vụ THADS được giao, hay đã có sáng kiến đột phá trong

quá trình giải quyết các vụ THADS tồn đọng của các năm trước. Muốn thực hiện

được giải pháp này, vấn đề đặt ra là phải tạo một quỹ khen thưởng riêng. Việc lập

quỹ này có thể trích từ một phần nguồn thu của Cơ quan THADS trước khi nộp vào

ngân sách Nhà nước. Đi đôi với việc khen thưởng thoả đáng đối với những người có

thành tích trong công tác THADS thì phải cương quyết áp dụng các biện pháp kỷ

luật thích đáng đối với những cán bộ thoái hóa, biến chất, có hành vi tiêu cực nhũng

nhiễu trong quá trình THADS. Ngoài ra, cơ quan chức năng có thẩm quyền của Nhà

nước phải tiến hành xử lý nghiêm đối với những cá nhân có chức vụ và những tổ

chức, cơ quan có biểu hiện gây cản trở cho công tác THADS.

3.2.2.4. Cán bộ lãnh đạo cần đổi mới và tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo,

kiểm tra tiến độ thi hành án dân sự

Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo quản lý của người đứng đầu là thủ trưởng

cơ quan THADS nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính chủ động của Chấp

hành viên, cán bộ làm công tác THADS trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao.

Lãnh đạo Cục THADS tỉnh cần thường xuyên lên kế hoạch kiểm tra từng Chi cục

76

THADS cấp huyện. Những huyện nhiều án, có nhiều vụ việc khó khăn phức tạp, ít

Chấp hành viên, lãnh đạo Cục cần theo dõi sát sao và đưa ra những phương án giải

quyết phù hợp như cử Chấp hành viên tỉnh tăng cường cùng Chấp hành viên của chi

cục để tiến hành đôn đốc và cưỡng chế thi hành án đối với những vụ việc khó khăn,

phức tạp.

Cục trưởng Cục THADS tỉnh và các chi cục trưởng chi cục THADS cấp

huyện cần tập trung chỉ đạo và tổ chức việc thực hiện rà soát, phân loại hồ sơ thi

hành án, bảo đảm chính xác về số án có điều kiện và số án không có điều kiện, kiên

quyết không để tình trạng phân loại án không chính xác, việc THADS có điều kiện

thi hành chuyển sang việc không có điều kiện thi hành; tổ chức các đợt cao điểm về

THADS, nhất là việc tổ chức dứt điểm đối với các vụ việc phức tạp, kéo dài, đồng

thời hoàn thiện hồ sơ đủ điều kiện xét miễn, giảm.

3.2.2.5. Cục và các Chi cục Thi hành án dân sự cần tăng cường tổ chức phát động,

tổng kết phong trào thi đua trong ngành

Trong những năm gần đây, Cục THADS tỉnh Quảng Ninh và các Chi cục

THADS cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh đã tổ chức tốt công tác thi đua

nhằm tạo động lực thúc đẩy cho cán bộ, công chức trong cơ quan hăng say, hoàn

thành tốt nhiệm vụ. Ngoài phong trào thi đua thường xuyên theo kế hoạch của Bộ

Tư pháp và của Tổng cục THADS phát động, Cục THADS tỉnh cần phát động

phong trào thi đua vào các đợt cao điểm để giảm số lượng án tồn đọng, chào mừng

các ngày lễ lớn trong năm, mỗi đợt từ 2 đến 3 tháng. Ngoài ra, để động viên và thúc

đẩy tinh thần hăng hái thi đua của đội ngũ Chấp hành viên, Cục và các Chi cục

THADS cần sớm lên kế hoạch cụ thể về các phần thưởng dành cho Chấp hành viên

có thành tích tốt nhất trong mỗi đợt thi đua. Sau mỗi đợt phát động phong trào thi

đua, cần tổng kết và lên danh sách biểu dương những cán bộ, Chấp hành viên có số

lượng việc THADS được giải quyết dứt điểm và đăng tải trên Trang thông tin điện

tử của Cục THADS tỉnh.

Cán bộ làm công tác thi đua tại các Cục và Chi cục THADS tỉnh Quảng Ninh

cần tập trung nghiên cứu, quyết liệt tham mưu đổi mới để đưa ra nội dung, tiêu chí

77

thi đua cụ thể, thuận lợi cho quá trình đánh giá. Đặc biệt chú trọng vào việc phát

huy sáng kiến của Chấp hành viên trong quá trình giải quyết các vụ việc THADS đã

tồn đọng nhiều năm, những việc THADS phức tạp, cần sự kết hợp của các cơ quan

liên ngành. Bên cạnh đó, không khen thưởng đối với những cán bộ, Chấp hành viên

chưa thật sự tiêu biểu, chưa đủ điều kiện, tiêu chí, không có thành tích nổi bật. Có

như vậy thì phong trào thi đua mới thực sự phát huy được vai trò thúc đẩy tinh thần

phấn đấu của các cán bộ, Chấp hành viên THADS.

3.2.3. Các giải pháp khác

3.2.3.1. Các cấp ủy Đảng cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác thi

hành án dân sự

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác THADS, đáp ứng yêu cầu cải

cách tư pháp trong tình hình mới, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể cần tăng cường vai trò chỉ đạo đối với công tác THADS trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh. Cụ thể, tác giả kiến nghị một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, các cấp ủy Đảng, chính quyền cần tăng cường hơn nữa công tác

lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của cơ quan THADS các cấp trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh; xác định công tác THADS là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, gắn công tác

THADS với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh

trật tự trên phạm vi toàn tỉnh. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo kiện toàn về tổ

chức, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đoàn thể, tạo

điều kiện để cơ quan THADS hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, đáp

ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của tỉnh Quảng Ninh; phối hợp chặt chẽ với cơ quan

quản lý THADS cấp trên trong công tác quản lý, quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng cán

bộ, công chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan THADS có bản lĩnh

chính trị vững vàng, giỏi về nghiệp vụ và có tinh thần trách nhiệm cao, đáp ứng yêu

cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới.

Thứ hai,các cấp ủy Đảng, chính quyền xây dựng phương án chỉ đạo các cơ

quan Công an, Tòa án, Viện kiểm sát và các cơ quan liên quan phối hợp chặt chẽ

với cơ quan THADS trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án

78

có hiệu lực pháp luật. Đối với các vụ, việc phức tạp có ảnh hưởng đến tình hình an

ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, yêu cầu cơ quan THADS phải chủ động báo

cáo nội dung vụ, việc và công tác chuẩn bị lực lượng của cơ quan chức năng với cấp

ủy, chính quyền địa phương trước khi tiến hành tổ chức cưỡng chế. Bên cạnh đó,

các cấp ủy Đảng, chính quyền hàng năm cần lên kế hoạch hỗ trợ kinh phí cho các

cơ quan THADS trong việc đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc.

Thứ tư, Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trên

địa bàn tỉnh Quảng Ninh cần tăng cường vai trò giám sát đối với công tác THADS

của tỉnh; chú trọng giám sát việc chấp hành pháp luật, đạo đức nghề nghiệp của

Chấp hành viên công chức và hỗ trợ trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về công

tác THADS, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với những cán bộ, công

chức có hành vi vi phạm trong việc thực thi nhiệm vụ.

3.2.3.2. Cục và Chi cục Thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Ninh cần tăng cường

công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự

Từ thực trạng quản lý THADS tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay, có thể

thấy, việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS và nâng cao

ý thức pháp luật của người dân là một giải pháp quan trọng đảm bảo nâng cao hiệu

quả công tác thi hành án dân sự. Công tác tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, giảm

cưỡng chế được Cục THADS tỉnh Quảng Ninh và các Chi cục THADS huyện, xã

thành phố trong tỉnh xác định là biện pháp trọng tâm và phải được ưu tiên thực hiện

bằng nhiều biện pháp khác nhau như thông qua Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh

Quảng Ninh, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật THADS, thông qua hoạt

động trực tiếp của Chấp hành viên với đương sự và gia đình đương sự... Tuy nhiên,

khi tuyên truyền, phổ biến về pháp luật THADS cần lưu ý:

Thứ nhất, xác định rõ đối tượng cần tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục

(nhân dân, người phải THADS, người được THADS, gia đình của người phải

THADS …) để có phương án tuyên truyền phù hợp;

79

Thứ hai, công tác phối hợp giữa đơn vị THADS và các ban, ngành, đặc biệt

là chính quyền cơ sở phải chặt chẽ, tạo cơ sở cho công tác tuyên truyền, giáo dục,

thuyết phục THADS.

Thứ ba, Chấp hành viên phải hiểu rõ nội dung vụ việc, bản án đã tuyên, cần

có uy tín, tâm huyết, không ngại khó khăn tìm hiểu kỹ hoàn cảnh người phải thi

hành án để có thể giải thích và đưa ra cách thức tuyên truyền, thuyết phục phù hợp.

Thứ tư, thực hiện thường xuyên, liên tục và kiên trì, để công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật THADS có hiệu quả lâu dài và được thực hiện trên diện rộng.

Bởi vì việc tuyên truyền, giáo dục nhằm mục đích tác động tới ý thức pháp luật của

người dân, mà ý thức con người rất khó, thậm chí không thể thay đổi và nâng cao

trong một thời gian ngắn.

Thứ năm, đa dạng và tránh lặp lại các hình thức tuyên truyền, giáo dục. Việc

đa dạng hình thức tuyên truyền nhằm tạo sự lôi cuốn cho công tác tuyên truyền,

tránh sự lặp lại dẫn đến nhàm chán và ít người quan tâm tham dự các buổi tuyên

truyền. Bên cạnh một số hình thức phổ biến như tuyên truyền qua loa truyền thanh,

tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật thi hành án dân sự… Chấp hành viên cần

phối hợp cùng với Tổ trưởng tổ dân phố và Hội trưởng hội phụ nữ… đến thuyết

phục người phải THADS và gia đình họ tự nguyện thi hành án...

Việc thường xuyên làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật về THADS sẽ nâng cao ý thức pháp luật của công dân về tầm quan trọng của

việc chấp hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Để từ đó,

các cá nhân, tổ chức hiểu và nhận thức đúng về trách nhiệm, nghĩa vụ THADS. Từ

đó chủ động và tự nguyện thi hành án, giảm thiểu sự chống đối và tạo sự ủng hộ của

cộng đồng đối với công tác THADS. Song song với đó, Chi cục THADS huyện,

thành phố, thị xã trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh phải nghiên cứu, đánh giá cụ thể

từng trường hợp để từ đó có sự phối hợp đúng với các cơ quan, tổ chức cá nhân có

liên quan như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, HĐND, các tổ chức chính trị, tổ chức

chính trị xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp tại địa phương có liên quan chặt chẽ

với người phải thi hành án để vận động, thuyết phục họ tự nguyện THADS. Ngược

80

lại, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể cần tích cực chủ động phối hợp với

Hội đồng Phổ biến giáo dục pháp luật làm tốt công tác tuyên truyền pháp luật, nhất

là Luật THADS đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, hội viên và nhân dân

nhằm nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật, để mọi công dân nhận thức

đầy đủ về trách nhiệm, nghĩa vụ đối với công tác THADS, bảo đảm bản án có hiệu

lực phải được chấp hành nghiêm chỉnh theo đúng quy định của pháp luật góp phần

ngăn chặn và hạn chế vi phạm.

3.2.3.2. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan thi hành án với các cơ

quan hữu quan trong công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh

Xuất phát từ thực trạng tỉnh Quảng Ninh, có thể thấy công tác thi hành án luôn

gặp rất nhiều khó khăn, bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Mặc dù không thể

phủ nhận vai trò tích cực và quyết định vẫn nằm ở chính cơ quan THADS, nhưng việc

THADS án có hiệu quả, đạt kết quả cao hay không còn rất cần đến sự quan tâm, chỉ

đạo của các cấp ủy Đảng và sự phối hợp đồng bộ, thống nhất giữa các cơ quan THADS

với các cơ quan, tổ chức có liên quan. Đặc biệt là sự phối hợp giữa các ngành trong

khối Tư pháp, bao gồm TA, Viện Kiểm sát và Công an, các cơ quan này cần thường

xuyên họp giao ban hàng quý để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá

trình công tác của mỗi ngành. Phối hợp với TA để giải thích những nội dung mà Bản

án tuyên không rõ. Phối hợp với Viện kiểm sát thống nhất xem xét những kiến nghị về

sai sót trong bản án cần kháng nghị. Đồng thời, kết hợp với Công an tỉnh, thành phố

trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh tổ chức giao nhận vật chứng, tài sản đảm bảo đúng luật

định, đặc biệt là trong công tác cưỡng chế THADS.

Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả công tác THADS, cần đề cao vai trò của Ban

chỉ đạo THADS các cấp – đầu mối chỉ đạo, phối hợp các ngành, các địa phương

trong việc tổ chức THADS. Đồng thời, chỉ đạo, định hướng những vụ án khó, phức

tạp, qua đó nâng cao hiệu quả công tác thi hành những bản án, quyết định đó. Để

nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo THADS, các cấp ủy Đảng, cần

thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của các Ban chỉ đạo THADS

sự; kịp thời tháo gỡ hoặc đề xuất với Trung ương các vướng mắc về cơ chế chính

sách mà bản thân UBND các cấp và Ban chỉ đạo THADS không giải quyết được.

81

Đặc biệt là, Ban chỉ đạo THADS cần tăng cường chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các Cục

và Chi cục THADS trên địa bàn tỉnh trong việc thực hiện các quy định của pháp

luật về THADS. Bên cạnh đó, tham mưu cho cấp ủy Đảng, Chủ tịch UBND cùng

cấp và cấp trên tăng cường việc chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan hữu quan xử lý

những khó khăn, vướng mắc trong công tác THADS, nhất là việc xử lý về hình sự

đối với những cá nhân cố tình trì hoãn, không chấp hành, chống đối bằng các tẩu

tán tài sản thi hành án… theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung

năm 2017 như: Tội không chấp hành án (Điều 380), Tội cản trở việc thi hành án

(Điều 381) và Tội vi phạm niêm phong, kê biên tài sản (Điều 385).

3.2.3.3. Cán bộ thanh tra của Bộ Tư pháp cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm

tra công tác thi hành án dân sự của các Cục và Chi cục Thi hành án dân sự trên địa

bàn tỉnh Quảng Ninh

Thanh tra, kiểm tra là công cụ quan trọng trong quản lý Nhà nước, đây là

một cơ chế kiểm soát, đánh giá thông tin về thực trạng của công tác THADS cả ở

góc độ thể chế và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về THADS. Do đó,

cùng với việc hoàn thiện pháp luật về THADS, cải cách thủ tục hành chính thì Cục

THADS tỉnh Quảng Ninh và các Chi cục cần xác định và nhận thức rõ vai trò nòng

cốt của mình đồng thời chủ động, tích cực hơn nữa trong việc tham mưu, đề xuất

với cấp có thẩm quyền và các cơ quan tổ chức có liên quan tăng cường công tác

thanh tra, kiểm tra để đánh giá đúng ưu điểm, tồn tại cũng như hạn chế của công tác

THADS trên địa bàn tỉnh. Từ đó, kịp thời đưa ra các biện pháp, giải pháp phù hợp

để nâng cao hiệu quả công tác THADS.

Để tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong hoạt động THADS, tác giả

đề xuất giải pháp là đổi mới phương thức, hình thức thanh tra, kiểm tra và thực hiện

thanh tra, kiểm tra đột xuất để đảm bảo mục đích phòng ngừa, điều chỉnh những

chiêu trò che giấu hành vi vi phạm, thiếu sót khi tiến hành kiểm tra. Cụ thể như tăng

cường vai trò của Thủ trưởng Cục THADS đối với các Chấp hành viên; tiến hành

kiểm tra chéo giữa các Chi cục THADS trên địa bàn và ngoài địa bàn tỉnh Quảng

Ninh…

82

Cùng với việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, cần chú trọng công

tác giải quyết khiếu nại, tố cáo để ngăn ngừa các trường hợp lợi dụng các quy định

của pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo nhằm trì hoãn, kéo dài thời gian

THADS. Để đảm bảo hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo, Cục THADS tỉnh

Quảng Ninh và các Chi cục cần bố trí các cán bộ có đủ năng lực, trình độ, phẩm

chất để đảm nhiệm chức năng tiếp dân và có đủ khả năng xử lý các vấn đề phát sinh

về khiếu nại, tố cáo, đồng thời giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo theo đúng

quy định pháp luật để việc THADS không bị trì hoãn, kéo dài.

83

KẾT LUẬN

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,vai trò của pháp luật luôn

được đề cao, pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý và điều chỉnh các quan hệ xã

hội, vì vậy, pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước thông qua

nhiều biện pháp khác nhau, đòi hỏi Nhà nước, cơ quan, tổ chức phải chấp hành

nghiêm chỉnh các phán quyết nhân danh công lý mà Tòa án và các cơ quan có thẩm

quyền đã tuyên. Thông qua hoạt động THADS, những bản án, quyết định của Tòa

án và của cơ quan có thẩm quyền được thực thi, quyền và lợi ích hợp pháp của công

dân và tổ chức được bảo vệ, từ đó công bằng xã hội được bảo đảm. Phán quyết của

TA nhân danh quyền lực hà nước sẽ chỉ là quyết định trên giấy nếu không được tổ

chức thi hành hoặc thi hành không đầy đủ trên thực tế. Hoạt động THADS kém hiệu

quả sẽ làm vô hiệu hóa toàn bộ hoạt động của các cơ quan tố tụng ở giai đoạn trước,

gây tổn hại đến trật tự, kỷ cương làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào tính

nghiêm minh của pháp luật. Vì vậy, THADS có vai trò rất lớn trong việc góp phần

xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Việc nghiên cứu về công tác THADS và pháp luật về THADS có ý nghĩa

quan trọng cả về lý luận và thực tế, bởi chỉ khi hiểu rõ nội dung, đặc điểm,bản chất,

và các yếu tố ảnh hưởng đến công tác THADS và Pháp luật về THADS thì mới có

thể đề xuất và thực hiện các giải pháp phù hợp và cụ thể nhằm tăng cường công tác

THADS trên thực tế. Ngoài ra, mỗi địa phương lại có những đặc điểm về tự nhiên,

kinh tế, xã hội, văn hóa khác nhau, do vậy, để công tác THADS trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh thực sự có hiệu quả, đòi hỏi phải gắn công tác THADS phù hợp với

đặc điểmchung của tỉnh Quảng Ninh cũng như những đặc điểm riêng của từng

thành phố, huyện, thị xã nhất định trên địa bàn tỉnh.

Thời gian qua, cùng với những thành tựu của công cuộc cải cách tư pháp, cải

cách hành chính, tổ chức và hoạt động THADStrên địa bàn tỉnh Quảng Ninh cũng

đã có nhiều tiến bộ và ngày càng được tăng cường. Tuy nhiên, bên cạnh những

thành tựu đã đạt được thì hoạt động của các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh

Quảng Ninh, đặc biệt là một số Chi cục THADS chưa thật sự đáp ứng yêu cầu thực

tế đặt ra. Số lượng án còn tồn đọng chưa được thi hành chiếm tỷ lệ đáng kể, nhiều

84

tổ chức và cá nhân cố tình chống đối, không thi hành bản án, tỉ lệ các vụ THADS có

đương sự tự nguyện thi hành chiếm tỉ lệ rất thấp, tình trạng việc có điều kiện thi

hành nhưng vẫn thi hành dang dở và chưa thi hành chiếm tỉ lệ cao, hoạt động cưỡng

chế THADS có chiều hướng gia tăng, việc miễn, giảm THADS chưa đạt được hiệu

quả như mong đợi, cơ quan THADS gặp nhiều khó khăn trong quá trình kết hợp với

các cơ quan liên ngành trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Điều đó đã được chứng minh

trong thực trạng THADS ở tỉnh Quảng Ninh như đã phân tích ở trên. Ngoài ra, còn

tổn tại những hạn chế về số lượng việc chưa có điều kiện thi hành, về người phải

THADS, về đội ngũ cán bộ, Chấp hành viên… trong công tác THADS của tỉnh

Quảng Ninh. Chính những hạn chế này đã đặt ra yêu cầu bức thiết phải sớm có

những giải pháp nhằmtăng cường công tác THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.

Để tăng cường công tác THADS ở tỉnh Quảng Ninh, đáp ứng được các yêu cầu

trong giai đoạn hiện nay và khắc phục những hạn chế còn tồn tại, Luận văn trên cơ sở

nghiên cứu về đặc điểm, nội dung, bản chất của công tác THADSvà pháp luật về

THADS, đồng thời phân tích thực trạng của công tác THADS trên địa bàn tỉnh Quảng

Ninh, chỉ rõ bất cập, hạn chế của công tác THADS còn tồn tại để từ đó đề xuất những

giải pháp cụ thể. Tuy nhiên, do trình độ nghiên cứu và phân tích, tổng hợp còn hạn chế,

Luận văn chắc chắn không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự

bình luận, đóng góp ý kiến của các nhà khoa học để Luận văn hoàn chỉnh hơn và có

tính khả thi áp dụng vào công tác THADS của tỉnh Quảng Ninh.

85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Các văn bản quy phạm pháp luật

1. Quốc hội, Hiến pháp năm 2013.

2. Quốc hội, BLDS năm 2015.

3. Quốc hội, BLTTDS năm 2015.

4. Quốc hội, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

5. Quốc hội, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014.

6. Quốc hội, Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014.

7. Quốc hội, Nghị quyết 107/2015/QH13 của Quốc hội về thực hiện chế định

Thừa phát lại.

8. Quốc hội, Quyết định 73/2007/QĐ-TTg về thực hiện chế độ bồi dưỡng đối với

những người trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án dân sự.

9. Quốc hội, Quyết định 73/2007/QĐ-TTg về thực hiện chế độ bồi dưỡng đối

với những người trực tiếp tham gia cưỡng chế thi hành án dân sự.

10. Chính phủ, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 của Chính phủ về

sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày

29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.

11. Chính phủ, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa

IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

12. Chính phủ, Nghị quyết số 111/2015/QH13 của Quốc hội về công tác phòng,

chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Việt Kiểm sát nhân dân,

của TANDvà công tác thi hành án năm 2018 và các năm tiếp theo.

13. Chính phủ, Nghị quyết số 01/NQ-Chính phủ ngày 01/01/2017 của Chính phủ

về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch

phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2017.

14. Chính phủ, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/07/2015 quy định chi tiết

và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự.

15. Chính phủ, Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/07/2009 quy định về tổ

chức và hoạt động của thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí

86

Minh và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung

Nghị định số 61/2009/NĐ-CP.

16. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định 27/2012/QĐ-TTg chế độ phụ cấp trách

nhiệm theo nghề đối với Chấp hành, Công chứng, Thẩm tra viên và Thư ký thi

hành án.

17. Bộ tư pháp, Bộ quốc phòng, Thông tư liên tịch số 24/2011/TTLT-BTP-BQP

ngày 15/12/2011hướng dẫn thực hiện trách nhiệm bồi thường nhà nước trong

thi hành án dân sự.

18. Bộ tư pháp, Công văn 4967/BTP-TCTHADS năm 2014 hướng dẫn nghiệp vụ

thi hành án dân sự.

19. Bộ tư pháp, Công văn 2423/BTP-THA năm 2015 hướng dẫn thực hiện Luật

sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự trong giai đoạn

chuyển tiếp.

20. Bộ tư pháp, Tổng cục thi hành án dân sự, Công văn 3823/BTP-TCTHADS

năm 2015 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.

21. Bộ tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Thông

tư liên tịch 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC Quy định vấn đề về

thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự.

22. Bộ tư pháp, Bộ Công an, Thông tư liên tịch 03/2012/TTLT-BTP-BCA quy

định phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong thi hành án dân sự.

23. Bộ tư pháp, Bộ tài chính, TANDtối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

Thông tư liên tịch 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC hướng

dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu, nộp ngân sách

nhà nước.

24. Bộ nội vụ, Bộ tài chính, Thông tư 04/2009/TTLT-BNV-BTC hướng dẫn thực

hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ, công chức đã được xếp

lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành thi hành án dân sự.

25. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Quyết định 810/QĐ-VKSTC năm 2016 Quy

chế công tác Kiểm sát thi hành án dân sự, thi hành án hành chính.

87

26. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo số 220/BC-UBND về Tình hình

kinh tế - xã hội và công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh năm 2017, kế

hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018.

27. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Tài liệu tại Hội nghị Tập huấn kỹ năng phổ

biến, giáo dục pháp luật cho Báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh và cán bộ pháp

chế năm 2018 của tỉnh Quảng Ninh ngày 21 tháng 8 năm 2018.

28. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Công văn số 677/CTHADS-VP về việc triển

khai hỗ trợ trực tuyến THADS và cơ chế một cửa tại các cơ quan THADS.

29. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh,Quyết định số 16/QĐ-CTHADSvề việc

thành lập Ban biên tập Trang thông tin điện tử Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Quảng Ninh.

30. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Công văn số 882/CTHADS về việc thực

hiện niêm yết công khai thủ tục hành chính.

31. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Công văn số 963/CTHADS-VP về việc triển

khai Công điện số 2573/CĐ-TCTHADS ngày 14/7/2017 của Tổng cục trưởng

Tổng cục THADS.

32. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 682/QĐ-CTHADS về việc

thành lập Bộ phận hỗ trợ trực tuyến, tiếp nhận và trả kết quả Cục Thi hành án

dân sự tỉnh Quảng Ninh.

33. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Công văn số 1328 /CTHADS-VP về việc

triển khai nhiệm vụ công tác năm 2016, 2017, 2018.

34. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Công văn số 1444/CTHADS-VP về việc

thực hiện nhiệm vụ công tác các năm 2016, 2017, 2018.

35. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Kế hoạch 410 /KH-CTHADS phổ biến, giáo

dục pháp luật về thi hành án năm 2017.

36. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Kế hoạch 232 /KH-CTHADS phổ biến,

giáo dục pháp luật về thi hành án năm 2018.

37. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Quyết định số 1746/QĐ-CTHADS về việc

giao chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự năm 2018.

38. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Báo cáosố 931/BC-THADS kết quả công

tác thi hành dân sự năm 2015 và Phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2016.

88

39. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo số 928/BC-THADS kết quả công

tác thi hành dân sự năm 2016 và Phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2017.

40. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Báo cáo số 1368 /BC-THADS kết quả công

tác thi hành dân sự năm 2017 và Phương hướng nhiệm vụ công tác năm 2018.

41. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Công văn số 410/CTHADS-VP về việc chỉ

đạo tập trung thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ công tác thi hành án dân sự 6 tháng

cuối năm 2017.

42. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Kế hoạch số 145/KH-CTHADS Cải cách

hành chính trong công tác thi hành án dân sự năm 2017.

43. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Kế hoạch số 160/KH-CTHAD triển khai,

thực hiện chủ đề năm của tỉnh Quảng Ninh về “Tăng cường kỷ luật, kỷ cương

hành chính; xây dựng nếp sống văn hóa văn minh”.

44. Cục thi hành án tỉnh Quảng Ninh, Công văn số 159/KH-CTHADS về kế

hoạch thực hiện Chương trình hành động của Bộ Tư pháp, của UBND tỉnh về

triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2017 của Chính phủ

về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch

phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2017.

II. Các sách tham khảo, công trình, bài viết

45. Bùi Đức Long (2008) “Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về công tác kiểm sát

THADS”, Tạp chí kiểm sát, số 1/2008, tr. 21 - 26.

46. Chúc Linh (2009), “Quản lí thi hành án các mô hình và kinh nghiệm quốc tế”,

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 2/2009, tr. 61 - 62.

47. Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội, Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp

(2017), Chuyên đề: “Khái quát chung về pháp luật thi hành án dân sự tại Việt

Nam, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự”,

Tài liệu hội thảo: Trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực thi hành án dân sự giữa

Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội và Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp, Hà

Nội.

48. European Commission on the Efficiency of Justice, (2009), Guidelines for a

better Implementation of the Existing Council of Europe’s Recommendation

89

on Enforcement, adopted by the CEPEJ at its 14th plenary meeting

(Strasbourg, 09-10 December 2009), Strasbourg, 17 December 2009.

49. Học viện tư pháp (2007), Giáo trình luật tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội.

50. Học viện tư pháp(2005), Giáo trình kĩ năng thi hành án dân sự, Nxb Thống kê,

Hà Nội.

51. Hoàng Thọ Khiêm - chủ biên (2006), Đổi mới tổ chức cơ quan thi hành án,

Nxb. Tư pháp, Hà Nội.

52. Hoài Thuận (2009), “Thi hành án liên quan đến đất đai – khó khăn do phần lớn

các bản án tuyên chưa rõ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 09/2009, tr. 58.

53. Hoàng Quốc Vận (2010), “Xác minh thi hành án những vấn đề đặt ra”, Tạp chí

Dân chủ và Pháp luật, số 03/2010, tr. 43 – 45.

54. Học viện Tư pháp, (2013), Tài liệu bồi dưỡng ngạch Thư ký thi hành án dân

sự, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

55. Lê Minh Tâm(2001), Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án; Tạp chí luật

học số 2/2001; tr.22.

56. Lưu Trùng Khánh (2010), “Bàn thêm về chương VIII luật thi hành án dân sự

năm 2008”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 05/2010, tr. 55 - 56.

57. Ngân hàng thế giới, (2011), Hướng dẫn giải quyết tranh chấp thay thế , tr.27

58. Nguyễn Thị Phíp, (2009) “Hoàn thiện địa vị pháp lí của chấp hành viên”, Luận

văn thạc sĩ luật học, Học viện chính trị-hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà

Nội.

59. Nguyễn Thanh Thuỳ, (2008) “Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu

quả công tác thi hành án dân sự”, Tạp chí kiểm sát, số 10/2008, tr. 11 – 17.

60. Nguyễn Ngọc Kiện, (2009), “Bàn về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm

thời trong tố tụng dân sự và những vướng mắc, bất cập khi thi hành theo thủ

tục thi hành án dân sự”, Tạp chí toà án nhân dân, số 19/2009, tr. 15 – 19.

61. Nguyễn Quang Khải, (2005), Một số quan niệm về thi hành án và thi hành án

dân sự ở Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 5/2005; tr.43.

62. Nguyễn Công Bình (chủ biên), (2012), Luật thi hành án dân sự Việt Nam

những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. CAND, Hà Nội, 2012.

90

63. Nguyễn Công Bình (chủ biên), (2010), Luật thi hành án dân sự Việt Nam

những vấn đề lí luận và thực tiễn, NNguyễn Thị Khanh, “Những vướng mắc

từ thực tiễn thi hành luật thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số

05/2010, tr. 13 - 16.

64. Nguyễn Thị Khanh, (2009), “Về một bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng

không được thi hành”, Tạp chí kiểm sát, số 07/2009, tr. 43 - 44.

65. Nguyễn Thị Khanh, (2009), “Vì sao bản án đã có hiệu lực nhưng không thi hành

được”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề tháng 03/2009, tr. 7, 12.

66. Phạm Văn Hưng, (2010), “Về nghĩa vụ của người được thi hành án trong

trường hợp cơ quan thi hành án tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế”, Tạp

chí Dân chủ và Pháp luật, số 02/2010, tr. 46 - 47.

67. Phạm Cao Khải, (2010), “Vướng mắc trong việc thi hành quyết định công

nhận sự thoả thuận của các đương sự”, Tạp chí toà án nhân dân, số 08/2010,

tr. 27 - 28.

68. Phạm Xuân Linh, (2010), “Một số vấn đề về nhận đơn yêu cầu thi hành án”,

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 05/2010, tr. 2 – 5.

69. Phan Tấn Pháp, (2010), “Bàn về xác minh thi hành án theo quy định của pháp luật

về thi hành án dân sự”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 07/2010, tr. 53 – 56.