VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ VĨNH HÀ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẦU GIẤY,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, NĂM 2021

1

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ VĨNH HÀ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẦU GIẤY,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS PHÙNG NGỌC TẤN

HÀ NỘI, NĂM 2021

2

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành Luận văn này, tôi

đã nhận được sự hướng dẫn, sự quan tâm, hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình của các

Thầy giáo, Cô giáo, Cơ quan, đồng nghiệp và bạn bè.

Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Học viện khoa học xã hội; các

Thầy giáo, Cô giáo đã nhiệt tình giảng dậy, truyền đạt những kiến thức quý

báu cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu, đặc biệt là Tiến sỹ

Phùng Ngọc Tấn, người đã trực tiếp hướng dẫn và định hướng về kiến thức

nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm trong suốt quá trình hoàn thiện Luận văn.

Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy đã

tạo điều kiện về thời gian, công việc để tôi hoàn thành chương trình khóa học

và đã cung cấp số liệu thực tế để giúp tôi hoàn thành Luận văn này.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm,

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, học tập và hoàn thành Luận văn.

Trân trọng!

Tác giả Luận văn

Lê Thị Vĩnh Hà

3

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ

thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội là công trình nghiên cứu của riêng

tôi. Các số liệu, trích dẫn được sử dụng trong Luận văn đều trung thực, chính

xác và đảm bảo độ tin cậy, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của

Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tôi xin cam đoan những lời trên đây là hoàn toàn đúng sự thật và tôi xin

chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.

Tác giả Luận văn

Lê Thị Vĩnh Hà

4

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ…………………………………………………….………….7

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự…7

1.2. Nguyên tắc trong hoạt động thi hành án dân sự ………………...…………14

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự…………19

Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN

SỰ TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI ……………27

2.1. Quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự……..…..27

2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở quận Cầu Giấy……....38

2.2.1. Khái quát về quận Cầu giấy và cơ quan thi hành án dân sự quận Cầu Giấy..38

2.2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở quận Cầu Giấy…...41

2.2.3. Đánh giá nhận xét chung hoạt động thi hành án dân sự tại quận Cầu Giấy...51

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ

CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI QUẬN CẦU GIẤY,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI…………………………………………….……..………57

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự…57

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự………58

3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự….………58

3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

về thi hành án dân sự nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho các tổ chức, cá nhân..62

3.2.3. Nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề

nghiệp của cán bộ, công chức ngành thi hành án dân sự…………………….……64

3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự……..66

3.2.5. Hoàn thiện chế độ, chính sách khen thưởng đối với cán bộ, công chức ngành

thi hành án dân sự; ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những vi phạm trong hoạt

động thi hành án dân sự………………………………………………………………69

KẾT LUẬN……………………………………………………………………… 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………….……….……76

5

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chấp hành viên

CHV

Hội đồng nhân dân

HĐND

Mặt trận tổ quốc

MTTQ

Thi hành án

THA

Thi hành án dân sự

THADS

Thi hành án hình sự

THAHS

Ủy ban nhân dân

UBND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

6

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1. Tổng số việc thụ lý, ủy thác thi hành án qua các năm (từ năm

2016 đến năm 2020)

Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về việc, tỷ lệ đạt được qua các năm (từ năm

2016 đến năm 2020)

Bảng 2.3. Tổng số tiền thụ lý, ủy thác thi hành án qua các năm (từ năm

2016 đến năm 2020)

Bảng 2.4. Kết quả thi hành án về tiền, tỷ lệ đạt được qua các năm (từ năm

2016 đến năm 2020)

7

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thi hành án là hoạt động đưa các bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật ra thi hành để đảm bảo tính nghiêm minh

của pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước;

góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ

máy nhà nước. Chính vì vậy mà hoạt động thi hành án dân sự có vai trò quan trọng

trong hoạt động tư pháp và quá trình thực thi công lý trong Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa.

Đối với công tác Thi hành án nói chung, công tác Thi hành án dân sự nói riêng,

từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đưa ra nhiều chủ trương, định

hướng quan trọng tạo cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động

của các cơ quan thi hành án dân sự; tăng cường pháp chế trong hoạt động thi hành

án dân sự thể hiện trong Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị

về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,

định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính

trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và các văn kiện Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ X, XI, XII của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Hội đồng nhà nước trước đây,

nay là Ủy ban thường vụ Quốc hội đã lần lượt ban hành ba Pháp lệnh về thi hành án

dân sự, đó là Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thi hành án dân sự

năm 1993 và Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004. Đặc biệt, ngày 14/11/2008,

Quốc hội đã thông qua Luật thi hành án dân sự năm 2008, có hiệu lực thi hành từ

ngày 01/7/2009; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự được

Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 25/11/2014, có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015 đã

cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước.

Thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và

1

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự. Sau 05 năm thực hiện,

các quy định của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đã phát huy hiệu quả, tác động tích

cực đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước nói chung và kết quả công

tác thi hành án dân sự nói riêng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy Nghị định số

62/2015/NĐ-CP cũng đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập. Ngày 17/3/2020, Chính

phủ đã ban hành Nghị định số 33/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị

định số 62/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi

hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự.

Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng cho những thay đổi căn bản về tổ chức

và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, sau gần 6 năm triển khai

thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự cho thấy, bên cạnh những

kết quả đã đạt được, tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện

nói chung cũng như cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện tại quận Cầu Giấy, thành

phố Hà Nội nói riêng vẫn còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Để nâng cao hiệu

quả công tác thi hành án dân sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo Nghị quyết

số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị, thì việc hoàn thiện tổ chức và hoạt

động của cơ quan thi hành án dân sự các cấp là một yêu cầu cấp thiết. Vì vậy, việc

nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của

cơ quan thi hành án dân sự, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức

và hoạt động thi hành án dân sự tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội nói riêng là

một vấn đề có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn.

Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Tổ chức và hoạt động thi hành

án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội” để làm Luận văn Thạc

sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

Qua việc lựa chọn đề tài này, tác giả mong muốn đóng góp nhỏ bé về mặt lý

luận và thực tiễn trước yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân

sự hiện nay.

2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân

sự đến thời điểm hiện nay, tác giả được biết một số công trình nghiên cứu và xin kể

tên một số công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây:

- Đề tài “Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi

hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới” là đề tài cấp Nhà nước - Chủ nhiệm đề tài

TS. Nguyễn Đình Lộc, năm 2000. Đề tài đã khái quát thực trạng mô hình tổ chức và

hoạt động thi hành án; kiến nghị đổi mới công tác thi hành án, trong đó có hoàn thiện

pháp luật về mô hình tổ chức thi hành án tạo cơ sở cho việc tổ chức thi hành án nói

chung và cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng;

- Đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi

hành án Việt Nam” là đề tài cấp Nhà nước - Chủ nhiệm đề tài TS. Nguyễn Đình Lộc,

năm 2005.

- Đề tài “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” là luận

án tiến sĩ Luật học do Nguyễn Thanh Thủy thực hiện năm 2008. Đề tài đã nghiên

cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự, làm rõ khái niệm, bản chất,

đặc trưng của thi hành án dân sự và pháp luật thi hành án dân sự, đánh giá toàn diện

mức độ hoàn thiện của pháp luật thi hành án dân sự và nêu lên các yêu cầu, quan

điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự;

- Đề tài “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt

Nam hiện nay” là luận án tiến sĩ Luật học do Nguyễn Quang Thái thực hiện năm

2008. Đề tài đã làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản có tính lý luận về pháp chế xã hội

chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng và xác định phương

hướng, giải pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân

sự;

- Chuyên đề “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự

hiện nay” do Lê Hùng Cường thực hiện năm 2017. Bài viết tập trung phân tích những

vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn trong quá trình thi hành Luật Thi hành án

dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Từ đó, tác giả

đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.

3

Những phân tích và kiến nghị của tác giả có giá trị tham khảo cho việc nghiên cứu,

kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật thi hành án dân sự;

Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những khía cạnh, phạm vi

cụ thể khác nhau hoặc đã đề cập đến vấn đề mang tính tổng thể hoặc về tổ chức và

hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam, hoặc về một giai đoạn trong hoạt động tổ

chức thi hành án của các cơ quan thi hành án dân sự. Tuy nhiên, cho đến hiện nay,

chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức và hoạt động thi hành án

dân sự từ thực tiễn một Chi cục thi hành án dân sự tại một địa phương cụ thể khi

đang thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự. Do

vậy, phạm vi nghiên cứu, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là không

trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào trước đây.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi

hành án dân sự; các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thực trạng về tổ

chức bộ máy và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy (trong đó

tập trung là đánh giá những ưu điểm, hạn chế, bất cập và nguyên nhân); luận văn đề

xuất quan điểm, các phương hướng, giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành

án dân sự ở Chi cục Thi hành án quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội trước những yêu

cầu mới của công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, tác giả sẽ tập trung thực hiện nhiệm

vụ nghiên cứu các nội dung sau:

- Phân tích những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự

của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện.

- Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn Chi

cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, tìm ra những tồn tại, hạn

chế trong tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự.

- Đề xuất các phương hướng, giải pháp đổi mới về tổ chức và hoạt động thi

hành án dân sự nói chung và Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố

4

Hà Nội nói riêng đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động

thi hành án dân sự từ thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội dưới góc độ của

Luật Hiến pháp và Luật hành chính.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ

thực tiễn cơ quan thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, trực thuộc Cục thi hành án dân

sự thành phố Hà Nội, dựa trên cơ sở các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật thi hành án dân sự được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2014, có hiệu

lực thi hành từ ngày 01/7/2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, do

hạn chế trong khâu tìm số liệu nên tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài từ

thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.

Thời gian nghiên cứu và khảo sát của tác giả trong khoảng thời gian từ năm

2016 đến năm 2020.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận nghiên cứu

Luận văn được nghiên cứu một cách khách quan dựa trên phương pháp luận

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác – Lênin;

đồng thời dựa trên những quan điểm, chủ trương của Đảng và các chính sách, pháp

luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm đảm bảo tính khách

quan, tính khoa học và tính thực tiễn cấp thiết của đề tài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng trong Luận văn là: phương

pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê

và một số phương pháp khác để tiếp cận, nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung

của đề tài.

5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt

động thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; chỉ ra những tồn

tại, hạn chế; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và và hoạt động

thi hành án dân sự nói chung và Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành

phố Hà Nội nói riêng.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh

viên, cán bộ, công chức thi hành án dân sự trong quá trình hoạt động thực tiễn hoặc

góp phần nâng cao hiệu quả thực tiễn trong hoạt động thi hành án dân sự cho quận

Cầu Giấy, thành phố Hà Nội và một số địa phương khác.

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 03 chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự

Chương 2. Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn quận

Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Chương 3. Phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động

thi hành án dân sự tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự

1.1.1. Khái niệm về thi hành án dân sự

Khi các cá nhân, tổ chức phát sinh tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết,

phán quyết của Tòa án chỉ là kết quả về mặt pháp lý. Để bảo vệ quyền lợi của mình

trên thực tế, bên thắng kiện phải yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành

bản án, quyết định của Tòa án. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án

được gọi là thi hành án dân sự.

Xét về mặt thuật ngữ, thi hành án dân sự là một cụm từ ghép bao gồm hai vế

“thi hành án” và “dân sự”.

Theo Từ điển Luật học thì “thi hành án là giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng,

là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của tòa

án nhất định có hiệu lực pháp luật” [62, tr.464].

Xét trên phương diện lý luận và thực tiễn, thi hành án là hoạt động thiên về lĩnh

vực tư pháp, là giai đoạn “hậu tố tụng”, là giai đoạn/khâu tiếp nối quá trình tố tụng

để hiện thực hóa các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, do đó,

hoạt động thi hành án thường được quy định trong các luật về tố tụng. Do là hoạt

động tư pháp nên thi hành án là đối tượng bị kiểm sát.

Như vậy, có thể hiểu: Thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp của cơ quan

Nhà nước, do cơ quan thi hành án dân sự mà đại diện là Chấp hành viên trực tiếp tổ

chức thi hành các bản án, quyết định theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục được pháp

luật quy định.

Theo quy định tại Điều 1, Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Thi hành án dân

sự là thi hành những bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy

thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân

sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính

của Tòa án, quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, quyết định xử lý vụ việc cạnh

7

tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên phải thi

hành và phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại.

Cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm tổ chức thi hành các bản án, quyết

định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định của Tòa án

chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo

kháng nghị như: bản án, quyết định sơ thẩm về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao

động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi

thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần; nhận người lao động

trở lại làm việc; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

1.1.2. Khái niệm về tổ chức cơ quan thi hành án dân sự

Trong những chuyên ngành khoa học có giao thoa về đối tượng, phạm vi

nghiên cứu có những cách tiếp cận, cắt nghĩa khác nhau về “Tổ chức”, cụ thể là:

Theo lý thuyết quản trị công, để hình thành tổ chức phải có từ hai người trở

lên (điều kiện về chủ thể) và các hoạt động của họ được kết hợp với nhau một cách

có ý thức. Quản trị công nhấn mạnh đến hai yếu tố là chủ thể và nguyên tắc hoạt

động của tổ chức (sự kết hợp có ý thức của các chủ thể) khi nhận thức về khái niệm

tổ chức.

Luật học (khoa học luật dân sự) gọi tổ chức là pháp nhân để phân biệt với thể

nhân (con người) là các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Theo quy định tại

Điều 84 Bộ luật Dân sự thì một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các

điều kiện sau: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc

lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh

mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Luật học nhấn mạnh đến các

điều kiện thành lập tổ chức và các yêu cầu đảm bảo hoạt động của tổ chức.

Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với ý nghĩa hẹp là “tập thể của

con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm đạt tới một

mục tiêu xác định của tập thể đó”. Quan niệm về tổ chức theo Khoa học tổ chức và

quản lý có nhiều điểm tương đồng với Luật học, Quản trị công ở chỗ đều xác định

tổ chức thuộc về con người, là của con người trong xã hội; vì là tổ chức của con

8

người, có các hoạt động chung do vậy mục tiêu của tổ chức là một trong những điều

kiện quan trọng, không thể thiếu của tổ chức.

Trong cuốn “Sổ tay nghiệp vụ cán bộ làm công tác tổ chức nhà nước” định

nghĩa: “Tổ chức là một đơn vị xã hội, được điều phối một cách có ý thức, có

phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu chung

(của tổ chức). Quan niệm của những người làm công tác tổ chức nhà nước có nhiều

điểm tương đồng với khoa học quản lý, luật học trong đó nhấn mạnh tới mục tiêu

chung, nguyên tắc hoạt động của tổ chức (điều phối một cách có ý thức). Điểm mới

quan trọng của quan niệm này về tổ chức thể hiện ở ý nói về phạm vi của tổ chức,

mỗi tổ chức có phạm vi hoạt động khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố chức năng,

nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu, nguồn lực của tổ chức đó. Các yếu tố này là những

điều kiện của tổ chức.

Trên phương diện ngôn ngữ: Tuỳ theo ngữ cảnh, tính chất, yêu cầu, mục

đích… có thể sử dụng các thuật ngữ: cơ quan, đơn vị, pháp nhân, công ty, hội…

thay thế thuật ngữ tổ chức.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt [38, tr.1662], “tổ chức” là “sắp xếp, bố trí thành

các bộ phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng chung”,

“tập hợp người được tổ chức theo cơ cấu nhất định để hoạt động vì mục tiêu

chung”. Theo từ điển Tiếng Việt và thực tế cho thấy trong từng hoàn cảnh cụ thể

mà “tổ chức” có thể được hiểu và thực hiện ở nghĩa danh từ “tổ chức” hoặc động từ

“tổ chức”, hay nói cách khác tùy vào mỗi công việc, ngành nghề, lĩnh vực… có

nhiều định nghĩa khác nhau về “tổ chức”. Tổ chức bao gồm hai nội dung cơ bản là

tổ chức cơ cấu và tổ chức quá trình.

Với thực tế như vậy, cần có tư duy biện chứng, kế thừa, không cứng nhắc, máy

móc, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của nhiệm vụ nghiên cứu về khái niệm “Tổ

chức”.

Từ các khái niệm “tổ chức” trên đây, có thể đưa ra khái niệm tổ chức cơ quan

thi hành án dân sự là: “Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự là việc sắp xếp, bố trí

các bộ phận cấu thành cơ quan thi hành án dân sự nhằm bảo đảm cho mỗi bộ phận

9

và cả hệ thống tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự đạt được hiệu suất tổng thể,

phối hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ quyền hạn được giao”.

1.1.3. Khái niệm hoạt động thi hành án dân sự

Để làm sáng tỏ khái niệm hoạt động thi hành án dân sự, cần làm rõ khái niệm

về hoạt động.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, hoạt động là “làm những việc khác nhau với mục

đích nhất định; là vận động, vận hành để thực hiện các chức năng nào hoặc tác động

nào đó” [38, tr. 827]. Trong đời sống hằng ngày, hoạt động thường được hiểu là quá

trình vận động, cử động của cá nhân hoặc tổ chức nhằm đạt mục đích nào đó, hoạt

động là thực hiện một chức năng nào đó trong một chỉnh thể hoặc tiến hành những

việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm mục đích chung trong lĩnh vực nhất

định.

Theo Từ điển Luật học, hoạt động thi hành án là: “Hoạt động của cơ quan nhà

nước có thẩm quyền được tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định

nhằm thực hiện các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án” [62, tr.

119]. Theo đó, giai đoạn thi hành án là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng,

nhằm hiện thực hóa các quyết định của Tòa án trên thực tế.

Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm về hoạt động thi hành án dân

sự như sau: Hoạt động thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp của Nhà nước, do

cơ quan thi hành án dân sự tiến hành theo thủ tục, trình tự được pháp luật quy định

nhằm đảm bảo cho bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy

thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân

sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành

chính của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của

bên phải thi hành án của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của Trọng

tài thương mại được thi hành theo đúng quy định của pháp luật.

1.1.4. Đặc điểm của hoạt động thi hành án dân sự

Hoạt động thi hành án dân sự (THADS) là hoạt động phức tạp, quyết định trực

tiếp đến quyền, nghĩa vụ của các bên có liên quan, đảm bảo tính thực thi của các bản án,

10

quyết định. Vì vậy, có thể khái quát một số đặc điểm của hoạt động thi hành án dân sự

như sau:

Thứ nhất, hoạt động THADS liên quan đến quyền lực nhà nước, nó bao gồm

hoạt động của nhiều chủ thể khác nhau nên đòi hỏi sự tham gia của chủ thể không

chỉ các cơ quan hành chính nhà nước mà cả các cơ quan tư pháp và bổ trợ tư pháp

cũng như của chính người có nghĩa vụ thi hành án. Do đó, như đã phân tích, việc

thực hiện quyền lực nhà nước trong THADS là sự “lưỡng tính” giữa quyền hành

pháp và quyền tư pháp. Tuy nhiên, khác với THAHS, THADS không hoàn toàn mang

tính quyền lực nhà nước do có sự tham gia của chủ thể không mang quyền lực nhà

nước, có hoạt động thực hiện các phán quyết của các chủ thể được nhà nước trao

quyền hoặc công nhận (phán quyết của trọng tài), cho phép tồn tại sự thỏa thuận giữa

các bên. Vì vậy THADS không hoàn toàn dùng các biện pháp cứng nhắc của quyền

lực nhà nước.

Thứ hai, hoạt động THADS là hoạt động có mục đích để thực hiện lợi ích của

người được thi hành án. Hoạt động THADS không chỉ nhằm mục đích giữ vững kỷ

cương, phép nước và giá trị của pháp luật mà còn nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của cá

nhân, tổ chức, nhà nước là đối tượng được thi hành án. Đồng thời hoạt động THADS

còn phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của những người có liên quan đến tài sản là đối

tượng trong các quyết định THADS.

Thứ ba, hoạt động THADS chủ yếu là hoạt động thi hành bản án, quyết định

của Toà án về tài sản nên tính chất dân sự mà tài sản mang lại có ý nghĩa rất lớn trong

việc xác định tính chất của quan hệ pháp luật dân sự. Tính tự nguyện, tự định đoạt từ

phía người được THADS được tôn trọng. Do đó, trong quá trình THADS, cơ quan

THADS luôn bảo đảm quyền tự nguyện, tự định đoạt và tự chịu trách nhiệm với sự

lựa chọn thực hiện hay không thực hiện của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa

vụ liên quan đến THA mà cơ quan THADS không được can thiệp.

Thứ tư, hoạt động THADS có ý nghĩa trong việc góp phần nâng cao chất lượng,

hiệu quả của hiệu lực xét xử.

Quá trình xét xử phải tuân thủ chặt chẽ các qui định của pháp luật về trình tự,

thủ tục tố tụng. Chủ thể tiến hành tố tụng đều là những người có uy tín, trình độ

11

chuyên môn nghiệp vụ cao nhưng xuất phát từ đặc điểm tính chất vụ án dân sự đa

dạng, phức tạp. Trong khi đó qui định của pháp luật về nội dung cũng như qui định

về thủ tục tố tụng nhiều khi còn chưa chặt chẽ, thiếu sót dẫn đến có những bản án,

quyết định tuyên không rõ ràng, không có tính khả thi ở thực tế. Cơ quan THADS,

Chấp hành viên (CHV) không chỉ làm cho các bản án hoặc phán quyết được tôn trọng

mà còn có thể phát hiện ra những sai lầm của bản án, quyết định của Toà án mà họ

đang thi hành và họ có quyền kiến nghị với người có thẩm quyền theo quy định của

pháp luật tố tụng để bản án hay quyết định đó được xét xử lại theo trình tự giám đốc

thẩm, tái thẩm. Như vậy, hoạt động THADS chính là giai đoạn kiểm nghiệm qua

thực tiễn những bản án, quyết định của Tòa án, phản ảnh trung thực, chất lượng và

hiệu quả của toàn bộ quá trình giải quyết vụ án. Từ thực tiễn thi hành án mà mỗi

Thẩm phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm nhân dân, thư ký Tòa án có thể rút ra bài học

kinh nghiệm khắc phục những thiếu sót để nâng cao chất lượng xét xử, bảo đảm tính

khả thi của bản án, quyết định của Tòa án.

Thứ năm, hoạt động THADS là hoạt động không mang tính áp đặt đơn phương

thuần túy như thi hành án hình sự. Hoạt động THADS có thể có sự hợp tác của các

chủ thể khác, điều này có thể thấy rất rõ khi các chủ thể có nghĩa vụ thi hành các bản

án đã tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình. Mặt khác, hoạt động THADS chỉ do

cơ quan thi hành án thực hiện khi có sự yêu cầu của người được thi hành bản án hoặc

người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và chủ động thi hành trong những trường hợp

pháp luật quy định như các khoản thi hành theo khoản 1, Điều 36 Luật THADS được

sửa đổi, bổ sung năm 2014 [48]. Ngay trong quá trình thi hành án, các chủ thể thi

hành án còn có nghĩa vụ thuyết phục các bên thỏa thuận hoặc hòa giải với nhau để

cho bản án được thực hiện một cách thuận lợi, đạt hiệu quả cao, đồng thời phải tôn

trọng sự thỏa thuận ấy mà không cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành

án. Vì vậy, không phải bao giờ hoạt động thi hành án cũng chỉ là thực hiện quyền lực

nhà nước một cách thuần túy để áp đặt cho các đương sự liên quan đến phán quyết.

1.1.5. Vai trò của hoạt động thi hành án dân sự

Hoạt động THADS có vai trò rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án

nói riêng và hoạt động tố tụng nói chung. Đó là giai đoạn cuối cùng của hoạt động

12

tố tụng, hoạt động THADS bảo đảm cho các bản án, quyết định của Tòa án được

chấp hành nghiêm chỉnh, góp phần tăng cường tính nghiêm minh của pháp luật, bảo

vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, thể hiện ở các khía

cạnh sau.

Một là, hoạt động THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được

thực hiện trong thực tế. Mọi bản án, quyết định của toà án và quyết định của cơ quan

có thẩm quyền chỉ thực sự có giá trị khi được thực hiện trong thực tế. Nếu không có

“giai đoạn” thi hành án, rất khó trông chờ vào sự tự nguyện chấp hành của các chủ

thể có liên quan, đặc biệt là đối với chủ thể bắt buộc phải thi hành án. Việc THADS

được thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước sẽ bảo đảm tính hiệu lực cho bản án, quyết

định của tòa án và các quyết định của cơ quan có thẩm quyền được thực hiện.

Hai là, hoạt động THADS bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá

nhân và Nhà nước góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội. Pháp luật là công cụ

để điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân. Việc bản án, quyết định của Tòa án và quyết định khác của cơ quan

có thẩm quyền được thi hành trong thực tế đồng nghĩa với việc quyền và lợi ích của

các chủ thể được thi hành án (THA) được bảo đảm, các chủ thể chấp hành thi hành

án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Thông qua việc thực hiện các trình

tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tiền, tài sản thu

lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản theo bản án, quyết định của tòa án đối với chủ

thể phải THA góp phần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng trong xã hội.

Ba là, hoạt động THADS tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước.

Hoạt động THADS được thực hiện bởi các chủ thể được Nhà nước trao quyền, thông

qua hoạt động của cơ quan THADS được tổ chức từ trung ương đến địa phương và

cơ quan thi hành án thuộc Bộ quốc phòng mà đảm bảo việc áp dụng thống nhất các

quy định của pháp luật, quản lý về mặt tổ chức, nhân sự, hoạt động trong thi hành án

dân sự góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trong

lĩnh vực thi hành án, góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội, tăng cường hiệu

lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước.

13

Bốn là, hoạt động THADS góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật.

Hoạt động THADS là một trong các quan hệ xã hội, là chế định quan trọng của tố

tụng dân sự, được pháp luật thừa nhận và điều chỉnh. Việc thực hiện đúng các quy

định pháp luật về THADS góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Tất

cả chủ thể tham gia trong các quan hệ này đều được điều chỉnh bởi pháp luật và phải

tuân thủ pháp luật. Do vậy, hoạt động THADS góp phần đảm bảo tính nghiêm minh

của pháp luật, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Năm là, hoạt động THADS góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho công dân.

Một trong những vai trò của hoạt động THADS chính là giáo dục ý thức pháp luật

trong cộng đồng, thông qua hoạt động THADS, đương sự bao gồm người được thi

hành án và người phải thi hành án, các cá nhân có liên quan và công dân một lần nữa

lại được hướng dẫn, giải thích các quy định pháp luật dân sự, quy định pháp luật về

THADS, qua đó nâng cao được hiểu biết của công dân về pháp luật.

Sáu là, hoạt động THADS góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong giai đoạn hiện nay khi mà hội nhập kinh tế quốc tế đang là vấn đề cấp

thiết đối với các quốc gia thì pháp luật của mỗi quốc gia đều phải có sự tương thích

với nhau dựa trên nguyên tắc chung, đảm bảo sự bình đẳng của các chủ thể tham gia

quan hệ kinh tế quốc tế trong quá trình hội nhập. Như vậy, việc phán quyết của cơ

quan tài phán ở quốc gia này cũng được thực thi tại quốc gia khác và phải được các

chủ thể ở các quốc gia khác tôn trọng và thực hiện. Đáp ứng yêu cầu đó, pháp luật

về THADS của nước ta đã quy định trình tự, thủ tục công nhận và cho thi hành các

bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước

ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam. Việc này

tạo ra niềm tin để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư, kinh doanh với các tổ

chức, cá nhân ở Việt Nam trong trường hợp có phát sinh tranh chấp liên quan đến

hoạt động THADS.

1.2. Nguyên tắc trong hoạt động thi hành án dân sự

Nguyên tắc trong hoạt động THADS là những tư tưởng chỉ đạo được ghi nhận

trong các đạo luật liên quan và các văn bản pháp luật về THADS làm nền tảng cho

14

hoạt động của cơ quan THADS. Hoạt động THADS của cơ quan THADS các cấp

được thực hiện theo nguyên tắc chung, thống nhất trên phạm vi cả nước.

Trong pháp luật về THADS hiện nay, nguyên tắc trong hoạt động THADS chưa

được quy định thành những nguyên tắc riêng, cụ thể. Tuy nhiên, căn cứ các quy định

được ghi nhận trong các đạo luật liên quan và các văn bản pháp luật về THADS,

chúng ta có thể thấy hoạt động THADS dựa trên những nguyên tắc sau:

1.2.1. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và

hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước. Trong hoạt động THADS luôn

thực hiện đúng nguyên tắc pháp chế này, bởi các yêu cầu cơ bản sau:

Pháp luật bảo đảm cho toàn bộ hoạt động THADS đều phải được thực hiện theo

khuôn khổ pháp luật, là cơ sở giải quyết các quan hệ dân sự phát sinh, trong qụá trình

THADS, là cơ sở hướng tới mục tiêu hiệu quả của hoạt động THADS.

Nguyên tắc này là cơ sở pháp lý quan trọng cho quá trình tổ chức và hoạt động

của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan THADS nói riêng. Nguyên tắc này

đòi hỏi, các quy định của pháp luật về THADS phải được tuân thủ, chấp hành nghiêm

chỉnh, thống nhất và đồng bộ trong toàn bộ hoạt động của cơ quan THADS, cán bộ,

công chức của cơ quan THADS, đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan,

không chấp nhận tính tùy tiện, vi phạm pháp luật trong hoạt động THADS.

1.2.2. Bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định

Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án là những tư tưởng,

quan điểm cơ bản đóng vai trò chỉ đạo định hướng cho việc xây dựng và tổ chức thực

hiện nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời các bản án quyết định của Tòa án. Khi giải quyết

vụ việc dân sự Toà án phải quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định

của pháp luật để bảo đảm cho việc THA; bản án, quyết định phải tuyên đầy đủ, rõ

ràng, chính xác tạo thuận lợi cho việc THA; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật phải được đưa ra thi hành trên thực tế và mỗi cá nhân, tổ chức có liên quan đến

thi hành bản án, quyết định của Tòa án đều phải chấp hành nghiêm túc. Mọi hành vi

chống lại và không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án đều bị xử lý theo quy

định pháp luật. Trong các giai đoạn THA nếu các cá nhân, tổ chức phải có nghĩa vụ

15

thi hành theo bản án, quyết định mà không tự nguyện THA thì phải chịu áp dụng các

biện pháp cưỡng chế cần thiết buộc họ thực hiện. Cơ quan, tổ chức, được giao nhiệm

vụ thi hành bản án, quyết định phải thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đúng nhiệm vụ,

quyền hạn của mình và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm

vụ đó; mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật. Đối với những tổ chức và cá nhân có hành vi trái pháp luật như cố

tình không chấp hành án, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào quá trình THADS v.v.

thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà có thể bị xử lí theo quy định của pháp luật. Đây là

nguyên tắc cơ bản trong tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước, yêu cầu các bản

án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được mọi công dân, cơ quan,

tổ chức tôn trọng và chấp hành nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời.

1.2.3. Bảo đảm quyền thỏa thuận thi hành án của đương sự

Thỏa thuận thi hành án là nguyên tắc đảm bảo và tôn trọng quyền con người,

quyền công dân trong hoạt động THADS. THADS là hoạt động liên quan trực tiếp

đến quyền con người đã được Hiến pháp quy định. Vì vậy, các cơ quan THADS phải

đảm bảo và tôn trọng các quyền đó. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận

là nguyên tắc đặc trưng của pháp luật dân sự, xuất phát từ tính độc lập về sở hữu,

tính tự chủ, tự định đoạt, tự chịu trách nhiệm về tài sản của các chủ thể. Đây là nguyên

tắc cơ bản bao trùm trong toàn bộ các quan hệ dân sự nói chung và quan hệ của các

chủ thể trong THADS nói riêng. Thỏa thuận THADS là sự tự nguyện của các đương

sự (người được THA, người phải THA) nhằm bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, trao đổi

để đi đến thống nhất thi hành một phần hay toàn bộ nội dung bản án, quyết định dân

sự trên cơ sở quyền và nghĩa vụ dân sự đã được xác lập theo bản án, quyết định dân

sự đó.

Khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Cá nhân, pháp nhân xác

lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện

cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật,

không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể

khác tôn trọng [50]. Nguyên tắc này cũng được áp dụng trong quá trình THADS và

được ghi nhận tại khoản 1 Điều 6 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014, cụ thể:

16

Đương sự có quyền thỏa thuận về việc thi hành án, nếu việc thỏa thuận đó không vi

phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Kết quả thi hành án theo

thỏa thuận được công nhận [48].

Thỏa thuận THA có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị, xã hội và pháp lý.

Thỏa thuận THA thành công không chỉ đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự

mà còn là biện pháp THA hiệu quả, bảo đảm mối quan hệ hài hòa giữa các đương

sự, nâng cao ý thức pháp luật của người dân.

1.2.4. Kết hợp tự nguyện thi hành án với cưỡng chế thi hành án

Đây là một nguyên tắc cơ bản trong THADS. Việc THADS luôn dành cho

người phải THA một thời hạn ấn định để tự nguyện thực hiện nghĩa vụ trong bản

án, quyết định. Hết thời hạn tự nguyện theo quy định, người phải THA không tự

nguyện thực hiện những nghĩa vụ cụ thể thì phải bị áp dụng các chế tài phù hợp là

các biện pháp cưỡng chế THA nếu người phải THA có điều kiện THA.

Việc người phải THA tự nguyện THA không những thuận lợi cho việc tổ chức

THA mà còn giảm thiểu chi phí cho cơ quan THA và các đương sự. Vì vậy, pháp

luật khuyến khích, tạo điều kiện để người phải THA tự nguyện THA và theo quy định

tại Điều 45 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm năm 2014 thì người phải THA có thời

hạn 10 ngày để tự nguyện THA. Hết thời hạn tự nguyện THA, người phải THA có

điều kiện THA nhưng không tự nguyện THA thì cơ quan THADS phải áp dụng các

biện pháp cưỡng chế THA theo quy định của pháp luật THADS. Việc áp dụng nguyên

tắc kết hợp biện pháp tự nguyện và cưỡng chế trong quá trình tổ chức THA thể hiện

tính nhân đạo nhưng vẫn đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp luật.

1.2.5. Bồi thường thiệt hại trong hoạt động thi hành án dân sự

Trong quá trình tổ chức THADS, cơ quan THADS, CHV, cá nhân, tổ chức có

liên quan đến việc tổ chức THADS phải đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện

quyền hạn, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, không được thực hiện các hành vi

trái pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được THA, người

phải THA và những người có quyền, lợi ích hợp pháp có liên quan. Trường hợp cơ

quan, tổ chức, cá nhân vi phạm quy định của Luật THADS mà gây thiệt hại thì phải

bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 10 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm

17

2014. Việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định trong Luật bồi

thường nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này.

1.2.6. Phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự

THADS là hoạt động mà khi triển khai và hiệu quả triển khai không chỉ phụ

thuộc vào các cơ quan THADS mà còn phụ thuộc sự vào sự tham gia của các cấp

chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước, các tổ chức và cá nhân khác.

Trách nhiệm phối hợp của cơ quan, tổ chức, cá nhân với cơ quan THADS,

CHV được quy định tại Điều 11 Luật THADS: “Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn, nghĩa vụ của mình, cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm phối hợp với

cơ quan thi hành án dân sự trong việc thi hành án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có

liên quan có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp

hành viên theo quy định của Luật này. Mọi hành vi cản trở, can thiệp trái pháp

luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên đều bị xử

lý theo quy định của pháp” [45] và không chỉ quy định trong Luật mà còn thể hiện

ở các văn bản hướng dẫn thi hành.

Từ quy định trên cho thấy, hiệu quả của hoạt động THADS không chỉ phụ thuộc

vào các cơ quan THADS mà còn phụ thuộc vào sự tham gia của các cá nhân, tổ chức,

cơ quan khác có liên quan. Công tác THADS gắn liền với người dân, gắn với địa bàn

cụ thể nơi đóng trụ sở của cơ quan THADS, nơi diễn ra hoạt động THADS, từ việc

thông báo THA, tống đạt trực tiếp hay niêm yết công khai, việc xác minh điều kiện

THA đến việc tổ chức cưỡng chế THA, giải quyết khiếu nại tố cáo về THA…Điều

đó, cho thấy được tầm quan trọng của Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm chỉ

đạo công tác phối hợp vào các giai đoạn của hoạt động THADS trên địa bàn được

Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định tại các Điều 173,174 và 175 [48]

về nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân dân (UBND) trong THADS cụ thể từng

cấp.

Vì vậy, ngoài việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình,

cơ quan THADS còn phải có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Nhà nước và các

tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội trong công tác giải quyết THADS tại địa bàn. Sự

chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương trong công tác phối hợp, xác minh, kê

18

biên, cưỡng chế THA tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của chấp hành viên, cơ

quan THADS đạt hiệu quả cao hơn.

1.2.7. Giám sát, kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự

Hoạt động THADS là hoạt động thực hiện quyền lực của Nhà nước trong việc

bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các nhân, tổ chức khác.

Hoạt động này phải tuân thủ theo các quy định pháp luật về THADS và các quy định

pháp luật khác có liên quan. Khoản 2, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định “Các

cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy

phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám

sát của Nhân dân, …”[46]. Quyền giám sát hoạt động của các cơ quan thi hành án

dân sự được quy định cụ thể tại Điều 12 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014.

Theo đó, Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) và Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt

Nam giám sát hoạt động của cơ quan THADS, người có thẩm quyền THADS và của

các cơ quan nhà nước khác trong hoạt động THADS theo quy định của pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân các cấp trong nhiệm vụ, quyền hạn của mình kiểm sát

việc tuân theo pháp luật của Tòa án, cơ quan THADS, Chấp hành viên, cơ quan, tổ

chức, cá nhân có liên quan trong việc THADS nhằm đảm bảo việc THA kịp thời, đầy

đủ, đúng pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị hành vi, quyết định của Thủ

trưởng cơ quan THADS, CHV cơ quan THADS cùng cấp và cấp dưới có vi phạm

pháp luật nghiêm trọng xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của

cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân.

Thủ trưởng cơ quan THADS phải có trách nhiệm trả lời kháng nghị của Viện kiểm

sát đối với quyết định về THADS của mình hoặc của CHV thuộc quyền quản lý.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự

1.3.1. Yếu tố về chính trị

Đây là một yếu tố rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của cơ quan

THADS. Trước hết, đó là sự ổn định chính trị trên địa bàn, thực tế cho thấy chỉ khi

nào trên địa bàn, an ninh chính trị được bảo đảm, trật tự an toàn xã hội được giữ vững

thì khi đó tổ chức, hoạt động của cơ quan THADS mới thuận lợi, đỡ vất vả và phát

19

huy được vai trò, tác dụng thiết thực. Để tập trung lãnh đạo đảm bảo giữ ổn định

chính trị, trật tự an toàn xã hội, Cấp ủy phải ban hành Chương trình hành động về

tăng cường lãnh đạo công tác khiếu nại tố cáo; Chương trình hành động thực hiện

kết luận hội nghị Trung ương lần thứ 9 - Khóa X về phòng chống tham nhũng, lãng

phí; đặc biệt Cấp ủy thường xuyên nghe Cơ quan quản lý nhà nước về THADS và

cơ quan THADS báo cáo các vụ việc phức tạp và cho ý kiến chỉ đạo, giải quyết kịp

thời; khi xuất hiện những điểm nóng thì các lãnh đạo chủ chốt của địa phương như

Ban thường vụ phải trực tiếp đối thoại với dân và giải quyết trực tiếp tại chỗ đảm bảo

quyền lợi cho dân và được nhân dân tin tưởng. Cấp ủy cần ban hành Chỉ thị về tăng

cường sự lãnh đạo các cấp ủy đảng, chính quyền trong tuyên truyền phổ biến pháp

luật cho cán bộ và nhân dân; trong công tác THADS ở địa phương.

Công tác THADS, có thể nói không thể thiếu vai trò của Ủy ban nhân dân các

cấp. Là cơ quan đóng tại địa phương, cơ quan THADS chịu sự quản lý song trùng

trực thuộc, theo nguyên tắc quản lý theo ngành kết hợp quản lý theo lãnh thổ. Mặt

khác, cơ quan THADS, với nhiệm vụ được giao có vai trò góp phần vào việc thực

thi pháp luật, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn.Với vai

trò là cơ quan hành chính cao nhất ở địa phương, Ủy ban nhân dân các cấp quản lý

toàn diện, mọi mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở địa phương trên phạm vi toàn

địa bàn. Trong thực tiễn công tác THADS, có thể nói rằng hầu hết các cơ quan, đơn

vị đều phối hợp tốt, giúp cho cơ quan THADS trong một số hoạt động THADS. Để

có sự phối hợp của các cơ quan hữu quan cũng như khi cần có sự chỉ đạo để phân

công, phân nhiệm, để phối hợp hiệu quả hơn giữa các cơ quan có liên quan trong

THADS, thì cơ quan THADS cần chủ động, kịp thời đề xuất, báo cáo Ủy ban nhân

dân, Ban chỉ đạo THADS để chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan có liên quan

trong THADS trên địa bàn; giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn phát sinh

trong việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong THADS; chỉ đạo việc tổ

chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính trị,

trật tự an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Thủ trưởng cơ quan THADS

cùng cấp. Cưỡng chế THA là hoạt động phức tạp, khó khăn nhất của cơ quan THADS

và cũng là hoạt động cần huy động nhiều lực lượng tham gia nhất như cơ quan công an,

20

chính quyền địa phương, các cơ quan chuyên môn khác trên địa bàn… Nếu hoạt động thi

hành án, đặc biệt là cưỡng chế THADS không được sự ủng hộ của Cấp ủy, chính quyền

địa phương và sự phối hợp chặt chẽ của cơ quan hữu quan thì cơ quan THADS gặp khó

khăn trong việc tổ chức cưỡng chế THADS, khó hiệu quả, an toàn và thành công.

Quy định về việc Ủy ban nhân dân có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm,

miễn nhiệm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan THADS cùng cấp thể hiện sự phối

hợp giữa trung ương và địa phương trong công tác tổ chức cán bộ để đảm bảo lựa

chọn lãnh đạo cơ quan THADS đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của ngành và địa phương.

Vì vậy, Ủy ban nhân dân các cấp có yếu tố ảnh hưởng rất lớn vào kết quả hoạt động

THADS, góp phần giúp cho cơ quan THADS hoàn thành nhiệm vụ.

Hoạt động năng động, tích cực của Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt

trận Tổ quốc trong việc tham gia quản lý nhà nước trong đó có hoạt động quản lý

nhà nước về THADS và hoạt động THADS. Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của

Mặt trận Tổ quốc có vị trí vai trò rất quan trọng, là cơ sở chính trị của chính quyền

nhân dân. Tuy nhiên, để Mặt trận Tổ quốc và các thành viên của Mặt trận hoạt động

đảm bảo được vai trò trên thì một mặt Mặt trận tổ quốc phải hoạt động trong khuôn

khổ Hiến pháp, pháp luật và mặt khác Chính quyền không được dùng quyền lực nhà

nước để can thiệp vào hoạt động theo Điều lệ của họ. Dân chủ hóa trên tất cả các

lĩnh vực của đời sống xã hội, khi dân chủ được thực hiện, nhân dân sẽ tạo điều kiện

giúp đỡ các cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan THADS phòng chống các hành vi

vi phạm pháp luật thông qua các tin báo, thông qua tố cáo các hành vi vi phạm của

cán bộ, công chức mà không sợ trù úm. Đó là những bảo đảm chính trị cho tổ chức

và hoạt động của Cơ quan THADS.

1.3.2. Yếu tố về pháp luật

Các quy định của pháp luật điều chỉnh công tác THADS cũng ảnh hưởng rất

lớn đến hiệu quả của hoạt động THADS. Sự ảnh hưởng của các quy định của pháp

luật đối với hiệu quả hoạt động THADS thể hiện cụ thể:

Thứ nhất, sự phù hợp của các quy định của pháp luật.

Sự phù hợp các quy định của pháp luật là tiền đề cơ bản cho việc thực thi có

hiệu quả công tác THADS. Các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động THADS

21

đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan và sự phát triển xã hội, mang lại lợi ích

thiết thực cho người được THA, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và

Nhà nước thì sẽ được sự thừa nhận, ủng hộ từ các bên, từ đó góp phần nâng cao hiệu

quả thực thi pháp luật; trái lại, sẽ không có được sự thừa nhận, ủng hộ của các bên.

Các quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động THADS đúng đắn, phù hợp thể

hiện ở sự đồng bộ, thống nhất và đầy đủ về nội dung dựa trên cơ sở lý luận và thực

tiễn đầy đủ.

Thứ hai, tính rõ ràng, cụ thể của các quy định của pháp luật.

Tính rõ ràng, cụ thể của các quy định của pháp luật về hoạt động THADS là

yếu tố then chốt để thực hiện có hiệu quả hoạt động THADS, là căn cứ cho việc thực

hiện các hoạt động THADS của các chủ thể có liên quan, cũng là cơ sở để tiến hành

đánh giá và giám sát quá trình thực hiện công tác THADS. Để hoạt động THADS

được thực thi một cách thuận lợi, các quy định của pháp luật điều chỉnh nội dung này

cần phải rõ ràng, cụ thể. Nếu các quy định của pháp luật về hoạt động THADS thiếu

rõ ràng, cụ thể sẽ dẫn đến sự khó khăn trong thực hiện, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến

hiệu quả của hoạt động THADS.

Thời gian qua, nhà nước ta đã không ngừng hoàn thiện thể chế về THADS, cụ

thể như:

Quốc hội đã ban hành Luật THADS năm 2008, Luật THADS được sửa đổi bổ

sung năm 2014, một số văn bản thực sự cần thiết cho người dân như Bộ luật Dân sự

(để người dân hiểu về quyền nghĩa vụ của các thể nhân, pháp nhân…); Bộ luật Tố

tụng dân sự (để người dân hiểu biết về quyền nghĩa vụ của người tham gia tố tụng,

người tiến hành tố tụng, Luật Đất đai ( để hiểu về chế độ sử dụng các loại đất, quyền

nghĩa vụ của người sử dụng đất, việc chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế quyền sử

dụng đất…), Luật Hôn nhân và Gia đình (để hiểu về quyền nghĩa vụ của các thành

viên trong gia đình, chế độ tài sản trong và ngoài hôn nhân… ), Luật Khiếu nại,

Luật Tố cáo ( để hiểu đúng về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu

nại tố cáo, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tố cáo, trình tự thủ tục giải

quyết khiếu nại tố cáo, hiệu lực của văn bản giải quyết khiếu nại tố cáo, việc tổ chức

thực hiện các quyết định giải quyết khiếu nại và các kết luận giải quyết tố cáo…).

22

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính

phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS; ngày

17/3/2020, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 33/2020/NĐ-CP về sửa đổi, bổ

sung một số điều của Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ

quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự,

có hiệu lực kể từ ngày 01/5/2020. Đồng thời, hệ thống các văn bản quy phạm pháp

luật về THADS đến nay cơ bản đã được xây dựng, ban hành khá đầy đủ, gồm Nghị

định, Thông tư, Thông tư liên tịch, hoặc các văn bản như Quyết định, Chỉ thị, Quy

chế phối hợp liên ngành, cụ thể như: Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 06/02/2017 của

Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác THADS; Quy chế liên ngành số

14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013 của Bộ Tư

pháp, Bộ Công an, TANDTC, VSKNDTC về phối hợp liên ngành trong công tác

THADS; Quyết định số 27/2012/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 của Thủ tướng Chính

phủ quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành viên, Công

chứng viên, Thẩm tra viên và Thư ký thi hành án; …

Ngoài ra, để nâng cao hiệu quả công tác THADS, Thủ tướng Chính phủ đã ký

ban hành Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 06/02/2017 về tăng cường công tác thi hành

án dân sự. Bộ Tư pháp đã ban hành các Chương trình công tác trọng tâm của Bộ Tư

pháp trong lĩnh vực THADS, hành chính từ năm 2016, 2017, 2018, 2019, 2020. Đến

nay, Bộ Tư pháp đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, toàn diện, quyết liệt để hoàn

thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS được giao, qua đó, góp phần tích cực bảo vệ

quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự,

an toàn xã hội, quyền con người, quyền công dân và phát triển kinh tế - xã hội của

đất nước.

Thứ ba, chất lượng của bản án, quyết định của Tòa án

Bản án, quyết định về dân sự là cơ sở pháp lý để ghi nhận quyền lợi và nghĩa

vụ của các bên liên quan. Vì vậy, để các bản án, quyết định về dân sự có thể thi hành

trên thực tế thì trước hết đòi hỏi các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án vừa

đảm bảo đúng pháp luật, cụ thể, rõ ràng, vừa có tính khả thi để thi hành trên thực tế.

Bản án của Tòa án bảo đảm các yếu tố trên thì việc thi hành trên thực tế không gặp

23

khó khăn. Ngược lại, nếu bản án của Tòa án không bảo đảm các yếu tố trên thì việc

thi hành sẽ gặp không ít khó khăn, người phải thi hành án không đồng tình dẫn đến

kéo dài quá trình THADS.

Do đó, chất lượng của bản án, quyết định của Tòa án có ảnh hưởng đến hiệu

quả của hoạt động THADS theo hướng thuận lợi hoặc không thuận lợi tùy thuộc vào

bản án đó có đúng pháp luật, cụ thể, rõ ràng và có tính khả thi hay không.

1.3.3. Yếu tố về nhận thức

Chủ thể của hoạt động THADS là người phải THA và người được THA cũng

có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động THADS. Hoạt động THADS có đạt

được mục đích đề ra hay không, không chỉ phụ thuộc vào chất lượng thể chế (các

quy định của pháp luật) và năng lực của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về

THADS, mà còn phụ thuộc vào trình độ, nhận thức của người phải THA và người

được THA trong hoạt động THADS. Theo đó, nếu trình độ, nhận thức, trách nhiệm

của người phải THA và người được THA càng cao thì hoạt động THADS sẽ càng

được thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Còn nếu trình độ, nhận thức, trách nhiệm của

người phải THA và người được THA còn hạn chế thì hoạt động THADS sẽ khó khăn,

ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của hoạt động THADS.

Hoạt động THADS, đối với người phải THA vừa là nghĩa vụ, vừa là trách nhiệm

do pháp luật quy định, đối với người được THA luôn gắn với quyền và lợi ích hợp

pháp của họ. Vì vậy, để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động THADS, cần nâng

cao trình độ, nhận thức của người phải THA và người được THA trong hoạt động

THADS để các bên hiểu đúng và thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình.

Theo đánh giá thì năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác THADS

ở một số nơi, một số cơ quan chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Nhìn chung vẫn còn

lúng túng, trình độ, nhận thức còn hạn chế, còn tâm lý ‘thờ ơ’ dẫn đến chậm tham

mưu hoặc tham mưu không đúng, không đầy đủ trong công tác chấp hành pháp luật

THADS. Ý thức chấp hành pháp luật THADS của người đứng đầu một số cơ quan

nhà nước, của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước vẫn còn hạn chế. Trình độ,

sự hiểu biết của người dân đối với công tác THADS ngày càng được nâng cao. Người

dân ngày càng nhận thức được quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong THADS,

24

tuy nhiên vẫn có trường hợp người dân vẫn chưa nhận thức được rõ quyền và lợi ích

hợp pháp của mình hoặc cố tình khiếu nại, kiến nghị, phản ánh vượt cấp các vụ việc

THADS.

1.3.4. Yếu tố về kinh tế, văn hóa và xã hội

Một nhân tố cũng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động THADS đó là, điều kiện

kinh tế, văn hóa và xã hội. Hoạt động THA nói chung và THADS nói riêng đều nằm

trong sự ảnh hưởng điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Điều kiện kinh tế,

chính trị, văn hóa và xã hội thích hợp sẽ có lợi cho hoạt động THADS. Điều kiện

kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội không thích hợp sẽ tạo ra sự khó khăn cho hoạt

động THADS. Cụ thể, nếu nền chính trị ổn định, trình độ kinh tế phát triển, nhất là

kinh tế thị trường phát triển càng có điều kiện cho cơ quan làm công tác THADS có

thêm nhiều nguồn lực như nguồn lực kinh phí, cơ sở vật chất, công nghệ thông tin

cho hoạt động THADS; nền văn hóa, trình độ văn hóa và sự hiểu biết của người dân

càng cao sẽ tạo thuận lợi cho hoạt động THADS và ngược lại; sự quan tâm của xã

hội đối với công tác THADS và “tiếng nói” của các tổ chức xã hội càng lớn sẽ ảnh

hưởng tích cực đến hoạt động THADS và ngược lại…

Ở nước ta, nhìn chung tình hình kinh tế ngày càng phát triển, tình hình chính

trị, xã hội luôn ổn định. Điều này là một trong những yếu tố, điều kiện thuận lợi để

nâng cao hiệu quả hoạt động THADS. Tuy nhiên, xét về mặt văn hóa ở nước ta hiện

nay, đối với người dân khi khởi kiện các quyết định hay hành vi hành chính vẫn còn

tâm lý cho rằng đây là việc “dân kiện quan”, “con kiến mà kiện cũ khoai” “người

dân thấp cổ bé họng”; đối với cơ quan nhà nước khi thua kiện, trở thành bên phải thi

hành án vẫn mang tâm lý “ấm ức”, “bề trên”, cho rằng cơ quan nhà nước không hề

sai nên chây ì, kéo dài việc thi hành án hành chính hoặc thi hành một cách chậm chạp

một phần do nền văn hóa nông nghiệp, lúa nước tạo ra.

25

Tiểu tiết chương 1

Chương 1, luận văn cơ bản giải quyết những vấn đề cơ sở lý luận về tổ chức và

hoạt động THADS như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức và hoạt động

THADS; nguyên tắc trong hoạt động THADS và các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức

và hoạt động THADS.

Trong giai đoạn hiện nay, hoạt động THADS ngày càng được Đảng và Nhà

nước ta quan tâm đặc biệt. Thông qua hoạt động THADS, các cơ quan THADS đã

bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, bảo đảm cho bản án, quyết định

của Tòa án được thực hiện trên thực tế. Với vai trò và trách nhiệm của mình, cơ quan

THA các cấp đã góp phần nâng cao vị thế của cơ quan THADS trong hệ thống các

cơ quan bảo vệ pháp luật của nước ta. Có thể khẳng định, hoạt động THADS đóng

vai trò to lớn trong thực hiện mục tiêu của cải cách hành chính - tư pháp, nhằm xây

dựng một nền hành chính tư pháp tiên tiến, hiện đại, hiệu quả, đáp ứng được hội nhập

quốc tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần bảo vệ trật tự, an

toàn, xã hội.

Trên cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động THADS đã được nghiên cứu, phân

tích, đánh giá ở trên, tác giả đã vận dụng vào thực tiễn tổ chức và hoạt động THADS

tại Chi cục THADS quận Cầu Giấy trong phần tiếp theo của Luận văn.

26

Chương 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

2.1. Quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự

2.1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về tổ

chức và hoạt động thi hành án dân sự

Trong hơn 73 năm xây dựng và trưởng thành, các cơ quan THADS đã từng bước

vượt qua khó khăn, có những đóng góp quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc. Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật Việt Nam về tổ chức và

hoạt động THADS, có thể chia ra làm hai giai đoạn với những dấu mốc quan trọng sau:

2.1.1.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám đến trước năm 1993

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946, trong

đó quy định: Ban Tư pháp xã có quyền “Thi hành những mệnh lệnh của các Thẩm

phán cấp trên”. Đây chính là văn bản pháp lý đầu tiên đánh dấu sự ra đời về tổ chức

và hoạt động của các cơ quan THADS trong chế độ mới.

Từ năm 1950 đến năm 1960, công tác THADS do Thừa phát lại và Ban Tư pháp

xã thực hiện. Từ năm 1960 đến năm 1980, trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và

Luật Tổ chức tòa án nhân dân, tại các Tòa án nhân dân đã có nhân viên chấp hành án

chuyên trách thực hiện nhiệm vụ THADS.

Ngày 28/8/1989, Pháp lệnh THADS đầu tiên được ban hành, tạo cơ sở pháp lý

quan trọng cho việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động THADS. Trên cơ sở đó, CHV là

người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án.

2.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay

Đây là giai đoạn công tác THADS được chuyển giao hoàn toàn từ Tòa án nhân

dân các cấp sang cơ quan thuộc Chính phủ. Quốc hội ban hành Pháp lệnh THADS

năm 1993 có hiệu lực kể từ ngày 17/4/1993, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

30/CP ngày 02/6/1993. Thời kỳ này đánh dấu bước ngoặt về cải cách công tác THADS,

theo Nghị định 30/CP, các cơ quan THADS gồm có Phòng Thi hành án thuộc Sở Tư

pháp, Đội Thi hành án thuộc Phòng Tư pháp; các Phòng Thi hành án cấp quân khu. Ở

Trung ương, Cục Quản lý thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, thực hiện chức

27

năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý Nhà nước về tổ chức và chỉ đạo

hoạt động THADS trong phạm vi toàn quốc.

Pháp lệnh THADS năm 2004 do Quốc hội ban hành với nhiều đổi mới quan trọng

về tổ chức của các cơ quan THADS và trình tự, thủ tục THADS. Chính phủ đã ban hành

Nghị định số 50/2005/NĐ-CP, từ đây các cơ quan THADS đã có những thay đổi căn

bản về tên gọi và vị thế. Cơ quan THADS cấp tỉnh, cấp huyện trở thành hệ thống cơ

quan tương đối độc lập, có tên gọi mới là THADS cấp tỉnh, THADS cấp huyện chịu

sự quản lý, chỉ đạo của Ngành dọc cấp trên về tổ chức, cán bộ, kinh phí và nghiệp

vụ; chịu sự quản lý, chỉ đạo của UBDN cùng cấp về mặt nhà nước theo quy định của

pháp luật.

Để tiếp tục củng cố và hoàn thiện về tổ chức, bộ máy và cơ sở pháp lý cho công

tác THADS ngày càng hiệu quả, ngày 14/11/2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua

Luật THADS năm 2008. Tiếp theo, ngày 09/9/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định

số 74/2009/NĐ-CP, theo đó hệ thống các cơ quan THADS được xác định rõ hơn theo

nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp huyện.

Từ năm 2009 cơ quan THADS gồm có: Tổng cục THADS, 63 Cục THADS cấp tỉnh và

710 Chi cục THADS cấp huyện.

Ngày 24/11/2010, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Tố tụng hành chính,

trong đó quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà

nước về THA hành chính. Tổng cục THADS giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà

nước về công tác THA hành chính trên phạm vi toàn quốc.

Để tiếp tục hoàn thiện thể chế về THADS, tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII

đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS ngày 25/11/2014. Ngày 20/7/2015,

Chính phủ ban hành Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Hai văn bản này đã tạo hành lang

pháp lý vững chắc, góp phần nâng cao hiệu quả về tổ chức và hoạt động THADS.

Để ghi nhận bề dày truyền thống, sự trưởng thành của hệ thống tổ chức THADS

và những nỗ lực, cố gắng của cán bộ, công chức trong các cơ quan THADS, ngày

05/3/2013 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 397/QĐ-TTg công nhận ngày

19/7 hàng năm là Ngày Truyền thống THADS.

28

2.1.2. Quy định pháp luật hiện hành về thủ tục thi hành án dân sự

2.1.2.1 Quy định về thủ tục cấp, chuyển giao bản án, quyết định của tòa án

Thực tiễn thấy rằng, thủ tục cấp, chuyển giao bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm cho Cơ quan THADS, nhiều trường hợp còn chậm

so với thời hạn mà pháp luật quy định. Từ đó, dẫn đến việc ban hành các quyết định

THA bị chậm trễ, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và

cá nhân có liên quan đến việc THA. Để khắc phục vi phạm nêu trên của Tòa án, cần

chú ý một số vấn đề sau:

- Quy định về cấp bản án, quyết định

Căn cứ Điều 375, Điều 380 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Luật THADS sửa

đổi, bổ sung năm 2014 quy định: Toà án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Trọng

tài thương mại đã ra bản án, quyết định được quy định tại Điều 2 của Luật THADS

sửa đổi, thì Toà án đã tuyên bản án, quyết định đó phải cấp cho người được THA và

người phải THA bản án hoặc quyết định đó có ghi “để thi hành”. Khi cấp bản án,

quyết định, Toà án phải giải thích cho người được THA, người phải THA về quyền

yêu cầu, thời hạn yêu cầu THA và nghĩa vụ THA theo quy định của pháp luật.

- Phân loại các bản án, quyết định, từ đó xác định thời hạn chuyển giao đối với

từng nhóm bản án, quyết định.

Thời hạn chuyển giao bản án, quyết định cho cơ quan THADS được quy định

tại Điều 28 Luật THADS và Điều 485 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Theo Điều

28 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định về thời hạn chuyển giao bản

án, quyết định của Tòa án cho Cơ quan THADS đối với từng nhóm bản án, quyết

định như sau:

Các bản án, quyết định Tòa án phải chuyển giao cho Cơ quan Thi hành án dân

sự trong thời hạn 30 ngày kể từ khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bao

gồm: Các bản án, quyết định hoặc phần bản bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ

thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; Bản án, quyết định

của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; Bản

án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài

29

đã được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; Quyết định của

Tòa án giải quyết phá sản.

Các bản án, quyết định Tòa án phải chuyển giao cho Cơ quan Thi hành án dân

sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ban hành bản án, quyết định bao gồm: Các bản

án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp

mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức

khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc.

Quyết định Tòa án phải chuyển giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự ngay sau

khi ban hành là quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

- Quy định thủ tục giao nhận bản án, quyết định giữa Tòa án và Cơ quan

THADS

Điều 29 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng quy định cụ thể về thủ

tục nhận bản án, quyết định. Theo đó, việc giao nhận bản án, quyết định phải được

kiểm tra; vào sổ giao nhận bản án, quyết định ghi rõ thời gian giao nhận, số, ngày,

tháng, năm của bản án, quyết định, có chữ ký của hai bên giao và nhận. Trường hợp

giao nhận bằng đường bưu điện thì Cơ quan THADS phải có thông báo bằng văn

bản về việc đã nhận bản án, quyết định.

Có thể nói, thủ tục cấp, chuyển giao bản án, quyết định của Tòa án cho Cơ quan

THADS hết sức quan trọng và cần thiết nhằm góp phần đảm bảo cho bản án, quyết

định có hiệu lực được thi hành đầy đủ, kịp thời, đúng pháp luật.

2.1.2.2. Quy định về việc tiếp nhận, từ chối yêu cầu thi hành án dân sự

Quyền yêu cầu THADS là quyền của đương sự trong hoạt động THADS, việc

đảm bảo quyền yêu cầu THADS của đương sự là một trong những nội dung thực hiện

nguyên tắc “Bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan” được ghi nhận tại Điều 5 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu THA, cơ quan

THADS phải tiến hành nghiên cứu, xem xét yêu cầu THA cùng các tài liệu kèm theo

của đương sự để ra một trong các văn bản: Thông báo về việc từ chối yêu cầu THADS

hoặc ra quyết định THADS; văn bản xử lý yêu cầu THA được gửi cho Viện kiểm sát

cùng cấp để thực hiện hoạt động kiểm sát theo luật định.

30

Theo quy định của Luật THADS, thời hiệu yêu cầu THA là thời hạn mà người

được THA, người phải THA có quyền yêu cầu cơ quan THADS tổ chức THA. Theo

đó, thời hiệu yêu cầu THA được quy định tại Điều 30 Luật THADS năm 2008 là 05

năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Luật THADS quy định kết quả xử lý yêu cầu THA gồm: Tiếp nhận yêu cầu thi

hành án (thể hiện bằng việc ra quyết định THA) hoặc từ chối yêu cầu THA; phải đảm

bảo quyền yêu cầu THA, thời hiệu yêu cầu THA, nội dung yêu cầu THA, thủ tục

thực hiện quyền yêu cầu THA, thẩm quyền tiếp nhận hoặc từ chối yêu cầu THA theo

đúng quy định của Điều 31 Luật THADS năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014;

Điều 4 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ để bảo đảm việc

tiếp nhận hoặc từ chối yêu cầu thi hành án có căn cứ.

Tiếp nhận yêu cầu THA được quy định tại Điều 31 Luật THADS sửa đổi, bổ

sung năm 2014 như sau: Đương sự tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu

THA bằng hình thức trực tiếp nộp đơn hoặc trình bày bằng lời nói hoặc gửi đơn qua

bưu điện. Người yêu cầu phải nộp bản án, quyết định, tài liệu khác có liên quan[57].

Từ chối yêu cầu THA được quy định tại khoản 5 Điều 31 Luật THADS sửa đổi

bổ sung năm 2014, cơ quan THA thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu THA

trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu THA trong các trường

hợp sau đây:

- Người yêu cầu không có quyền yêu cầu THA hoặc nội dung yêu cầu không

liên quan đến nội dung của bản án, quyết định; bản án, quyết định không làm phát

sinh quyền, nghĩa vụ của các đương sự theo quy định của Luật này;

- Cơ quan THADS được yêu cầu không có thẩm quyền THA;

- Hết thời hiệu yêu cầu THA.

Đối với tiêu chí: Nội dung yêu cầu không liên quan đến nội dung của bản án,

quyết định; bản án, quyết định không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các đương

sự theo quy định của Luật THADS. Trước đây, khoản 4 Điều 6 Nghị định số

62/2015/NĐ-CP quy định hướng dẫn đối với trường hợp này như sau: Cơ quan

THADS từ chối yêu cầu thi hành án theo quy định tại Điểm a khoản 5 Điều 31 Luật

31

THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 trong trường hợp bản án, quyết định không xác

định cụ thể người phải THA và nghĩa vụ phải THA.

Tuy nhiên khi áp dụng quy định nêu trên còn gặp phải một số vướng mắc. Thực

tiễn cho thấy nhiều vụ việc chỉ cần một tiêu chí “không xác định được người phải thi

hành án” hoặc “không xác định được nghĩa vụ phải thi hành án” là đã không tổ chức

THA được. Nhưng do Luật quy định đồng thời cả hai điều kiện nói trên dẫn đến việc

các cơ quan THADS gặp nhiều khó khăn khi tiếp nhận hoặc từ chối yêu cầu THA.

Khắc phục hạn chế này, khoản 4 Điều 7 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP (được

sửa đổi, bổ sung tại khoản 5 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP) đã quy định cụ

thể hơn: Cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi hành án đối với bản án,

quyết định không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các đương sự theo quy định tại

điểm a khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự trong trường hợp bản án, quyết

định không xác định rõ khoản phải thi hành hoặc không xác định rõ người phải

THA[33].

Về việc yêu cầu THA khi đã hết thời hiệu, Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-

CP quy định về trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan dẫn

đến việc không thể yêu cầu THA trong thời hiệu theo quy định tại khoản 1 Điều 30

Luật THADS năm 2008 thì đương sự có quyền đề nghị Thủ trưởng cơ quan THADS

có thẩm quyền xem xét, quyết định về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu

THA quá hạn.

Nghị định số 33/2020/NĐ-CP đã khắc phục những điểm mà trong Nghị định số

62/2015/NĐ-CP quy định chưa rõ về trở ngại khách quan dẫn đến việc không thể

yêu cầu THA trong thời hiệu cụ thể như: Trở ngại khách quan là trường hợp đương

sự không nhận được bản án, quyết định mà không phải do lỗi của họ; đương sự đi

công tác ở vùng biên giới, hải đảo mà không thể yêu cầu THA đúng hạn; tai nạn, ốm

nặng đến mức mất khả năng nhận thức hoặc đương sự chết mà chưa xác định được

người thừa kế; tổ chức hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, chuyển đổi hình thức,

chuyển giao bắt buộc, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp mà chưa xác

định được tổ chức, cá nhân mới có quyền yêu cầu THA theo quy định của pháp luật

hoặc do lỗi của cơ quan xét xử, cơ quan THA hoặc cơ quan, cá nhân khác dẫn đến

32

việc đương sự không thể yêu cầu THA đúng hạn. Theo đó Nghị định số 33/2020/NĐ-

CP đã bổ sung thêm các đối tượng là tổ chức chuyển đổi hình thức, chuyển giao bắt

buộc, chuyển nhượng toàn bộ cổ phần, phần vốn góp mà chưa xác định được tổ chức,

cá nhân mới có quyền yêu cầu THA thay cho trước đây chỉ quy định đối với trường

hợp người phải THA là tổ chức thực hiện cổ phần hóa.

Có thể thấy rằng, vấn đề tiếp nhận hay từ chối yêu cầu THA là nội dung có ý

nghĩa quan trọng đối với việc xác định đương sự có hay không có quyền yêu cầu

THADS; là căn cứ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của đương sự, đặc biệt là

của người được THA và đồng thời để đảm bảo việc áp dụng pháp luật được đầy đủ

và thống nhất, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động THADS.

2.1.2.3. Quy định về hoạt động ra quyết định thi hành án

Quyết định THA là văn bản do Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền ban

hành để thi hành một hoặc nhiều khoản của những bản án, quyết định dân sự được

thi hành theo trình tự, thủ tục THADS. Quyết định THA là căn cứ cho CHV lập hồ

sơ THA và tổ chức việc THA, nhằm đảm bảo lợi ích của người được THA, của nhà

nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự tham gia vào hoạt động

THA.

Để đảm bảo “Ra quyết định thi hành án đúng thời hạn đối với 100% các bản

án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực theo đúng quy định của pháp luật’’, cơ quan

THADS phải thực hiện theo quy định như sau:

Thứ nhất, xác định thẩm quyền của cơ quan THADS ra quyết định THA

Trước hết, cần bám sát quy định của pháp luật tố tụng và THADS để xác định

cơ quan THADS có thẩm quyền tổ chức thi hành hay không. Việc xác định bản án,

quyết định của Tòa án có thuộc thẩm quyền thi hành của cơ quan THADS hay không,

cần đối chiếu vào bản án, quyết định để xác định loại vụ việc, tòa án (cơ quan có

thẩm quyền) đã giải quyết, nội dung của phán quyết và căn cứ vào Điều 1, Điều 2

Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014.

Trường hợp xác định thẩm quyền cơ quan THADS nơi nào và cấp nào có thẩm

quyền tổ chức thi hành án cần căn cứ Khoản 1, 2, 3 Điều 35 Luật THADS sửa đổi,

bổ sung năm 2014 và các quy định pháp luật có liên quan. Nguyên tắc cơ bản để xác

33

định thẩm quyền tổ chức THA của cơ quan THADS là bản án, quyết định của Tòa

án cấp nào, nơi nào ra bản án sơ thẩm thì cơ quan THADS cấp đó, nơi đó có thẩm

quyền tổ chức THA.

Thứ hai, xác định hiệu lực pháp luật của bản án, quyết định để đưa ra thi hành

Để có thẩm quyền tổ chức THA, việc xác định bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật hay thuộc diện án chưa có hiệu lực nhưng được đưa ra thi hành mặc dù

có thể bị kháng cáo, kháng nghị cần bám sát quy định liên quan của pháp luật tố tụng

và quy định tại Điều 2 Luật THADS năm 2008. Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh

tranh, Trọng tài thương mại đã ra bản án, quyết định phải cấp cho đương sự bản án,

quyết định có ghi “Để thi hành” theo quy định tại Điều 27 Luật THADS và chuyển

giao cho cơ quan THADS bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đủ điều kiện

để được đưa ra thi hành.

Thứ ba, xác định thời hiệu yêu cầu thi hành án

Đối với việc ra quyết định THA theo yêu cầu, thời hiệu yêu cầu THA là vấn đề

quan trọng. Thời hiệu yêu cầu THA là thời hạn mà người được THA, người phải

THA có quyền yêu cầu cơ quan THADS tổ chức THA; hết thời hạn đó thì mất quyền

yêu cầu cơ quan THADS tổ chức THA theo quy định của Luật THADS. Để xác định

thời hiệu yêu cầu THA, cơ quan THADS cần căn cứ vào Điều 30 Luật THADS sửa

đổi, bổ sung năm 2014; Khoản 2 Điều 147, Điều 148 Bộ luật dân sự năm 2015 và

Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS. Về nguyên tắc, Khoản 1

Điều 30 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định thời hiệu yêu cầu thi hành

án là 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Thứ tư, xác định người có quyền yêu cầu thi hành án

Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng mà cơ quan THADS phải

lưu ý khi tiếp nhận đơn yêu cầu THA để ra quyết định THA. Để xác định chính xác

những người có quyền yêu cầu THA, cơ quan THADS cần căn cứ vào Điều 3 Luật

THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 để áp dụng, theo đó người có quyền yêu cầu

THA gồm:

34

- Người được THA là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích hợp

pháp trong bản án, quyết định được thi hành.

- Người phải THA là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải có trách nhiệm thực hiện

nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành.

Ngoài ra, Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC

ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân

tối cao có quy định người có quyền yêu cầu THA gồm: Người đại diện theo pháp

luật của đương sự là pháp nhân hoặc là người chưa thành niên, bị hạn chế năng lực

hành vi dân sự; Người giám hộ của đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự

hoặc là người chưa thành niên không còn cha mẹ, người bị Toà án hạn chế quyền

của cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành

niên; Người được uỷ quyền.

Thứ năm, xác định thời hạn ra quyết định thi hành án

Thời hạn ra quyết định THA được quy định tại Điều 36 Luật THADS sửa đổi

bổ sung năm 2014 đều là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định

hoặc nhận được yêu cầu THA, ngoại trừ trường hợp: Đối với quyết định áp dụng

biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải ra ngay quyết định thi hành án; Đối với quyết

định của Tòa án giải quyết phá sản thì phải ra quyết định thi hành án trong thời hạn

03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định.

Thứ sáu, xác định phạm vi ra quyết định thi hành án

Theo quy định tại Khoản 2 Điều 36 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 thì

Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền chủ động ra quyết định THA đối với

phần bản án, quyết định sau: Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án

phí, lệ phí Tòa án; Trả lại tiền, tài sản cho đương sự; Tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch

thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho nhà nước; Thu hồi quyền sử

dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước; Quyết định áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời; Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.

Các khoản thu khác cho Nhà nước được hướng dẫn cụ thể tại Khoản 3 Điều 6

Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, bao gồm: khoản truy

thu thuế; khoản viện trợ cho Nhà nước và các khoản bồi thường cho Nhà nước trong

35

các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham nhũng thuộc loại tội phạm đặc biệt

nghiêm trọng; các khoản thu khác nộp trực tiếp vào ngân sách Nhà nước.

Ngoài các khoản THA chủ động thì cơ quan THA lựa chọn ra quyết định THA

theo yêu cầu. Theo quy định tại khoản 1 Điều 36 Luật THADS sửa đổi bổ sung năm

2014, Thủ trưởng cơ quan THADS chỉ ra quyết định THA đối với các khoản thuộc

diện theo yêu cầu THA khi có yêu cầu THA của đương sự. Phạm vi ra quyết định

THA theo yêu cầu phải phù hợp với bản án, quyết định và nội dung yêu cầu THA.

Thứ bảy, soạn thảo quyết định thi hành án

Soạn thảo quyết định THA là khâu cuối cùng trong quy trình ra quyết định

THA. Khi soạn thảo quyết định THA cơ quan THADS cần đảm bảo các yêu cầu như:

không được sao chép nguyên văn phần quyết định của bản án, quyết định; không

được làm sai lệch nội dung bản án, quyết định; nội dung các khoản cho thi hành cần

được nêu rõ, cụ thể và sử dụng đúng biểu mẫu quyết định THA.

Quyết định THA sau khi được soạn thảo thì phải được Thủ trưởng cơ quan

THADS ký duyệt để ban hành quyết định THA. Thủ trưởng cơ quan THADS có thể

ủy quyền cho Phó Thủ trưởng ký duyệt quyết định THA theo Khoản 2 Điều 23 Luật

THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.

2.1.2.4. Quy định về hoạt động tổ chức thực hiện quyết định thi hành án dân sự

Cơ quan THADS có nhiều hoạt động khác nhau nhằm thực hiện chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Nhà nước được pháp luật quy định. Một trong

những hoạt động đó là việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo trình tự, thủ

tục mà pháp luật quy định để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động THADS.

Việc tổ chức thực hiện quyết định THADS phải tuân thủ đúng và đầy đủ các quy

định của pháp luật về trình tự, thủ tục THADS nhằm đảm bảo đảm bảo tính nghiêm

minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà

nước. Việc vi phạm về trình tự, thủ tục THADS được pháp luật quy định có thể xảy

ra hậu quả nghiêm trọng, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,

tổ chức và công dân. Có thể khái quái quy định của pháp luật hiện nay về tổ chức

thực hiện quyết định THADS như sau:

36

- Thông báo về thi hành án: Thông báo về THA là việc người có thẩm quyền

hoặc các chức danh khác trong cơ quan THADS được pháp luật cho phép thực hiện

việc chuyển giao giấy tờ chứa đựng thông tin về THA như Quyết định về THA, giấy

báo, giấy triệu tập và các văn bản khác có liên quan đến việc THA cho người được

thông báo theo trình tự, thủ tục nhất định nhằm đảm bảo hoạt động THADS đúng

quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự tham

gia vào hoạt động THADS.

- Xác minh điều kiện thi hành án: Xác minh điều kiện THA là việc công chức

trong cơ quan THADS thực hiện điều tra, tìm kiếm thông tin về người phải THA để

làm rõ người phải THA có điều kiện để thực hiện việc nghĩa vụ trong quyết định

THA hay không. Đây là nghĩa vụ của CHV, công chức làm công tác THA, nghĩa vụ

của cơ quan THADS. Kết quả xác minh để làm cơ sở cho việc thi hành quyết định

về THA, áp dụng biện pháp bảo đảm THA, cưỡng chế THA phù hợp hoặc là căn cứ

để xác định việc chưa có điều kiện THA, hoãn THA hay đình chỉ THA….

- Ủy thác thi hành án dân sự: Ủy thác THA là việc cơ quan THADS có thẩm

quyền THA chuyển giao quyền tiếp tục ra quyết định THA và tổ chức THA đến cơ

quan THADS nơi người phải THA có tài sản, làm việc, cư trú hoặc nơi có trụ sở để

đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự tham gia vào hoạt động THA.

- Thỏa thuận thi hành án: Thỏa thuận THA là sự tự nguyện của các đương sự

nhằm bàn bạc, trao đổi để đi đến thống nhất một phần hay toàn bộ nội dung bản án,

quyết định dân sự trên cơ sở quyền nghĩa vụ dân sự đã được xác lập nhưng không

được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Việc các đương sự thỏa thuận với nhau trong

giai đoạn THADS có ý nghĩa hết sức quan trọng, rút ngắn thời gian, đỡ tốn kém công

sức, rút ngắn thời gian THA.

- Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án và cưỡng chế thi hành án.

Biện pháp bảo đảm và cưỡng chế THA được CHV áp dụng để thực hiện nghĩa

vụ của người phải THA trong quyết định THA. Ngoài 03 biện pháp bảo đảm THA

mà CHV được phép áp dụng, pháp luật về THADS còn có các quy định về cưỡng

chế THA chung và quy định cụ thể đối với từng trường hợp cưỡng chế THA cụ thể

như: cưỡng chế THA đối với tài sản là tiền; cưỡng chế THA đối với tài sản là giấy

37

tờ có giá; cưỡng chế THA đối với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ; cưỡng chế THA đối

với tài sản là vật; cưỡng chế khai thác đối với tài sản; cưỡng chế đối với tài sản là

quyền sử dụng đất; cưỡng chế trả vật, giấy tờ, chuyển quyền sử dụng đất; cưỡng chế

thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện hoặc không thực hiện công việc nhất định.

- Ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án, hoãn thi hành án, tạm

đình chỉ, đình chỉ thi hành án: Hoãn THA, tạm đình chỉ THA là việc cơ quan THADS

tạm thời ngừng quá trình thi hành bản án, quyết định khi có căn cứ và trong thời hạn

được pháp luật về THADS quy định. Đình chỉ THA là việc cơ quan THADS chấm

dứt hoàn toàn quá trình thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa

án khi có căn cứ được pháp luật THADS quy định.

- Kết thúc thi hành án, xác nhận kết quả thi hành án: Kết thúc việc THA, xác

nhận kết quả THA là việc cơ quan THADS chấm dứt việc thi hành quyết định thi

hành án khi có căn cứ theo quy định của pháp luật. Mỗi quyết định THA là một việc

THA, bắt đầu từ khi có quyết định THA và chỉ được kết thúc khi có đủ căn cứ pháp

luật quy định các bên đã thực hiện xong nghĩa vụ của mình hoặc có quyết định đình

chỉ THA.

Như vậy, kết thúc THA, xác nhận kết quả THA là khâu cuối cùng của quá trình

tổ chức thi hành một quyết định THA. Là việc cơ quan THADS kết thúc một hồ sơ

THA và thực hiện việc chuyển đưa hồ sơ vào lưu trữ theo quy định của pháp luật.

2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở quận Cầu Giấy,

thành phố Hà Nội

2.2.1. Khái quát về Quận Cầu giấy và cơ quan thi hành án dân sự quận Cầu

Giấy, thành phố Hà Nội

Quận Cầu Giấy là một quận nội thành nằm ở phía Tây thủ đô Hà Nội, được

thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/9/1997, với diện tích tự nhiên

12,04 km2 và dân số hơn 27 vạn người. Toàn quận có 8 đơn vị hành chính cấp phường

và trên 300 cơ quan, đơn vị của trung ương, thành phố, các trường đại học, cao đẳng,

các trường thuộc hệ thống giáo dục đóng trên địa bàn quận. Đặc biệt, Khu công nghệ

thông tin tập trung của quận thu hút được gần 400 doanh nghiệp, trong đó có nhiều

tập đoàn lớn của thế giới. Đây là khu công nghiệp tập trung đầu tiên của Hà Nội do

38

cấp quận đầu tư, quản lý, mỗi năm khu này đóng góp cho ngân sách từ 4.000 – 5.000

tỷ đồng, thu hút khoảng 10.000 lao động. Hệ thống chợ, siêu thị, trung tâm thương

mại ngày càng nhiều. Quận Cầu Giấy đang trên đà phát triển để trở thành một trong

những trung tâm Thương mại - Dịch vụ - Hành chính - Giáo dục của Thủ đô với các

ngành dịch vụ hiện đại về Tài chính - Tin học - Viễn Thông. Thu ngân sách tăng từ

gần 35 tỷ đồng năm 1998 lên hơn 8.638 tỷ đồng năm 2019 (tăng gần 247 lần).

Cơ quan THADS quận Cầu Giấy được thành lập theo Quyết định số 300/QĐ-

TP-THA ngày 29/7/1997 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp với tên gọi là Đội thi hành án

thuộc Phòng tư pháp quận Cầu Giấy, đi vào hoạt động từ tháng 10/1997. Khi mới

thành lập, Đội THA được giao 07 biên chế gồm 03 CHV, 01 kế toán, 01 chuyên viên,

02 cán sự; trong đó có 01 lãnh đạo là Quyền Đội trưởng Đội THA, trụ sở của Đội

THA nằm trong khối các cơ quan UBND quận Cầu Giấy.

Pháp lệnh THADS năm 2004 và Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005

được ban hành với nhiều đổi mới quan trọng về THADS, trong đó có cả đổi mới về tổ

chức bộ máy, cơ quan THADS đã có những thay đổi căn bản về tên gọi và vị thế.

Ngày 04/5/2005, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 735/QĐ-BTP về việc thay đổi

tên gọi của cơ quan THA từ Đội THA quận Cầu Giấy sang tên mới là Thi hành án dân

sự quận Cầu Giấy. Thời kỳ này đơn vị đã được giao 11 biên chế gồm 05 CHV, 01 kế

toán, 05 chuyên viên; trong đó bộ máy lãnh đạo đã có 02 người, 01 Trưởng THA và 01

Phó trưởng THA.

Sau khi Luật THADS năm 2008 và Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày

09/9/2009 được ban hành, hệ thống các cơ quan THADS các cấp được xác định rõ hơn

theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ Trung ương đến cấp

huyện. Ngày 05/11/2009, Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2400/QĐ-BTP về

việc thành lập Chi cục thi hành án dân sự quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, Theo quyết

định này, THADS quận Cầu Giấy chuyển tên thành Chi cục THADS quận Cầu Giấy là

cơ quan trực thuộc Cục THADS thành phố Hà Nội, thực hiện nhiệm vụ THADS và chịu

sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân quận Cầu Giấy theo quy định của pháp luật.

Năm 2009 là giai đoạn có nhiều đổi mới quan trọng trong công tác tổ chức bộ máy

của Chi cục. Biên chế được tăng cường, đơn vị đã được giao 13 biên chế gồm 06 CHV,

39

01 kế toán, 06 chuyên viên đều có trình độ đại học; trong đó bộ máy lãnh đạo đã có

02 người, 01 Chi cục trưởng và 01 Phó chi cục trưởng. Được sự quan tâm của Bộ Tư

pháp về kinh phí xây dựng và UBND quận Cầu Giấy cấp đất, năm 2009 trụ sở của Chi

cục THADS quận Cầu Giấy đang được xây dựng tại Khu đô thị mới của quận Cầu

Giấy sắp đến giai đoạn hoàn thành.

Từ năm 2010 đến nay, Chi cục THADS quận Cầu Giấy là cơ quan trực thuộc

Cục THADS thành phố Hà Nội có nhiệm vụ: trực tiếp tổ chức thi hành các bản án,

quyết định theo quy định Luật THADS; giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS

thuộc thẩm quyền; thực hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phương

tiện hoạt động được giao; thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động

THA theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Cục THADS thành phố Hà Nội; lập

hồ sơ đề nghị xét miễn giảm nghĩa vụ THADS. Chi cục THADS quận Cầu Giấy giúp

UBND quận Cầu Giấy thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cùng cấp theo quy

định tại Điều 174 Luật THADS; đồng thời báo cáo công tác THADS trước HĐND,

UBND theo quy định của pháp luật.

Chi cục THADS sự quận Cầu Giấy có tư cách pháp nhân, con dấu hình Quốc

huy, tài khoản riêng và trụ sở riêng tại Khu đô thị mới quận Cầu Giấy, thành phố Hà

Nội [13]. Từ khi thành lập đến nay, Chi cục THADS quận Cầu Giấy luôn nhận được

sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Quận ủy, HĐND, UBND quận Cầu Giấy và Ngành

dọc cấp trên nên tổ chức bộ máy của Chi cục THADS quận Cầu Giấy được củng cố và

kiện toàn. Tính đến nay Chi cục THADS quận Cầu Giấy có 14 biên chế (công chức)/15

biên chế được giao và 04/04 lao động hợp đồng không xác định thời hạn theo Nghị

định 68 NĐ/CP; trong 14 công chức có: 03 CHV trung cấp, 07 CHV sơ cấp, 01 thẩm

tra viên, 02 thư ký THA, 01 kế toán. Về trình độ, 14/14 công chức có trình độ cử nhân

luật trở lên, trong đó có 03 thạc sỹ luật; 02 đồng chí có trình độ cao cấp lý luận chính

trị, 02 đồng chí có trình độ trung cấp lý luận chính trị. Trong 04 lao động hợp đồng

có: 02 bảo vệ, 01 lái xe và 01 tạp vụ.

Cấp ủy Chi bộ có 03 đồng chí, Chi bộ có 12 đảng viên. Lãnh đạo Chi cục có 01

Chi cục trưởng và 03 Phó chi cục trưởng.

40

Chi cục trưởng là Thủ trưởng cơ quan THADS thực hiện quản lý về chuyên

môn và quản lý, chỉ đạo, điều hành toàn bộ hoạt động THADS tại Chi cục.

Các Phó chi cục trưởng là Phó thủ trưởng cơ quan THADS thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn theo sự phân công hoặc ủy quyền của Thủ trưởng cơ quan THADS. Ngoài

công tác quản lý và chỉ đạo, điều hành theo mảng công việc được phân công, các Phó

chi cục trưởng còn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của CHV là tổ chức THA các vụ

việc được phân công theo quy định.

Những năm trở lại đây, là địa bàn cửa ngõ trung tâm thành phố, thời gian qua

quận Cầu Giấy có bước chuyển mạnh mẽ trong quá trình đô thị hóa, tuy nhiên bên

cạnh đó là những nét đặc thù phức tạp của tình hình tội phạm và các tranh chấp dân

sự, kinh tế, lao động…. số lượng án giải quyết tăng nhanh ảnh hưởng trực tiếp đến

hoạt động và chất lượng của công tác tư pháp nói chung và công tác THADS nói

riêng.

Đó cũng chính là nguyên nhân làm phát sinh nhiều số việc và số tiền phải THA

của Chi cục THADS quận Cầu Giấy tăng lượng việc phức tạp, khó thi hành, làm ảnh

hưởng lớn đến hiệu quả công tác THADS. Với chỉ tiêu, nhiệm vụ giao hàng năm của

Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp, nếu không có các giải pháp kịp thời nâng cao hiệu

quả hoạt động THADS trên địa bàn quận, trong những năm tới công tác THADS tại

quận Cầu Giấy có thể sẽ khó hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ được giao.

2.2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở quận Cầu Giấy,

thành phố Hà Nội

2.2.2.1. Một số kết quả đạt được trong hoạt động thi hành án dân sự

Thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội và chỉ đạo của Bộ Tư pháp về công tác

THADS, trên cơ sở Quyết định giao chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS của Tổng cục, Cục

THADS hàng năm, Chi cục THADS quận Cầu Giấy đã có nhiều cố gắng trong hoạt

động THADS, tổ chức thực hiện quyết liệt chỉ tiêu thi hành án xong về việc và về tiền,

một số chỉ tiêu khác về THADS theo Nghị quyết số 37/2012/QH13, Nghị quyết số

111/2015/QH13, Nghị quyết số 96/2019/QH14 của Quốc hội cũng được quan tâm thực

hiện nên kết quả công tác THADS đã đạt những kết quả quan trọng như: Ra quyết định

THA đúng quy định của pháp luật đối với 100% bản án, quyết định đã nhận; bảo đảm

41

xác minh điều kiện THA, phân loại việc có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi

hành chính xác. Số liệu đã thi hành xong về số việc và số tiền năm sau cao hơn năm

trước về giá trị. Kết quả THA về việc từ năm 2016 đến năm 2020 được thể hiện qua

các bảng sau:

Bảng 2.1. Tổng số việc thụ lý, ủy thác thi hành án qua các năm

Đơn vị tính: việc

Năm Số việc năm trước Số việc thụ lý Tổng số việc thụ Số ủy thác

chuyển sang trong năm lý

195 1.415 1.610 86 2016

270 1.292 1.562 68 2017

2018 365 1.560 1.925 109

2.318

96

2019 488 1.830

Tổng số việc thụ lý 5 năm = 9.486

2020 621 1.450 2.071 128

(Nguồn: Chi cục Thi hành án dân sự quận Cầu Giấy)

Bảng 2.2. Kết quả thi hành án về việc, tỷ lệ đạt được qua các năm

Đơn vị tính: việc

Tỷ lệ giải Tổng số phải Số việc có Số việc chưa Số việc giải quyết xong / Năm thi hành điều kiện thi có điều kiện quyết xong số có điều hành thi hành kiện thi hành

1.524 1.375 149 1254 91,2% 2016

1.494 1.283 211 1129 88% 2017

1.816 1.570 246 1328 84,59% 2018

2.222 1.917 305 1.472 76,79 % 2019

1.943 1.638 303 1.364 83,27% 2020

(Nguồn: Chi cục Thi hành án dân sự quận Cầu Giấy)

Kết quả THA về tiền từ năm 2016 đến năm 2020 được thể hiện qua bảng sau:

42

Bảng 2.3. Tổng số tiền thụ lý, ủy thác thi hành án qua các năm

Đơn vị tính: 1.000 đồng

Số việc năm trước Số việc thụ lý Tổng số việc thụ Năm Số ủy thác chuyển sang trong năm lý

2016 76.249.252 875.996.301 952.245.553 733.336.095

2017 171.248.243 481.402.188 652.650.431 217.006.589

348.796.360

1.004.727.589

131.939.780

2018 1.353.523.949

2019 1.107.816.776 932.278.093 2.040.094.872 322.594.652

Tổng số việc thụ lý 5 năm = 7.941.597.359

2020 1.354.551.502 1.588.531.052 2.943.082.554 460.470.080

(Nguồn: Chi cục Thi hành án dân sự quận Cầu Giấy)

Bảng 2.4. Kết quả thi hành án về tiền, tỷ lệ đạt được qua các năm

Đơn vị tính: 1.000 đồng

Tỷ lệ giải Tổng số phải Số việc có điều Số việc chưa Số việc giải quyết xong / Năm thi hành kiện thi hành có điều kiện quyết xong số có điều thi hành kiện thi hành

30,32%

2016 218.909.458 157.218.160 61.691.298 47.661.215

34,89%

2017 438.687.558 257.653.147 181.034.411 89.891.198

12,4%

2018 1.221.584.169 917.407.229 304.176.940 113.767.393

2019 1.717.500.220 856.235.321 861.264.899 288.891.191 33,74 %

60,48%

2020 2.482.612.474 1.508.397.309 974.215.165 912.257.247

(Nguồn: Chi cục Thi hành án dân sự quận Cầu Giấy)

Qua số liệu thống kê ở trên, có thể thấy các chỉ tiêu THA về việc đã đạt được

những kết quả nhất định. Tổng số thụ lý THA (gồm năm 2015 chuyển sang + thụ lý

mới của 5 năm = 9.486 việc). Tuy có biến động nhưng xu hướng chung có tăng qua

43

các năm. Năm 2019, tổng số thụ lý tăng 393 việc so với năm 2018 chiếm tỉ lệ 16,9%

và cũng là năm có số thụ lý tăng cao nhất trong vòng 5 năm từ năm 2016 đến năm

2020. Tổng số việc từ năm trước chuyển sang năm sau còn nhiều, tăng theo các năm.

Hàng năm, số việc tồn đọng chuyển sang năm sau còn chiếm tỷ lệ lớn, trong đó có

nhiều vụ tồn đọng kéo dài nhiều năm do chưa có điều kiện THA, có nhiều vụ việc có

điều kiện nhưng vì những lý do khác nhau vẫn không thể thi hành dứt điểm.

Tổng thụ lý về tiền đều tăng dần qua các năm THA được thống kê. Trong 5 năm,

tổng số tiền thụ lý mỗi năm đều rất cao, từ năm 2018 đến 2020, mỗi năm đều thụ lý

gần hoặc hơn 1.000 tỷ đồng. Kết quả số tiền giải quyết xong qua các năm có tăng, năm

2020 là năm đạt chỉ tiêu cao nhất 60,48%, năm thấp nhất là 2018 với 12,4%, số tiền tồn

đọng chuyển sang năm sau còn lớn và tăng đều. Năm 2020, Cầu Giấy đã thi hành xong

912 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 60,48%, vượt 27,48% so với chỉ tiêu được Bộ Tư pháp giao

(giao 33%).

Trong những năm qua, hoạt động THADS tại quận Cầu Giấy đã có những

chuyển biến tích cực, ngày càng đi vào nề nếp, số việc THA thi hành xong với số

tiền và tài sản thu được năm sau luôn cao hơn năm trước, nhiều vụ việc THA phức

tạp đã được giải quyết dứt điểm, góp phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, giữ vững tính nghiêm minh của pháp luật. Tuy

nhiên, hoạt động THADS hiện vẫn đang đứng trước những khó khăn, thử thách với

nhiều vấn đề tồn tại, bất cập đang đặt ra cần được giải quyết. Hiệu quả hoạt động

THADS tuy có nhiều chuyển biến nhưng chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu nhiệm

vụ, sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Thực tế hiện nay hoạt động THADS trên cả nước cũng như tại Cầu Giấy vẫn

còn nhiều khó khăn, với những tồn tại và hạn chế: Không giảm được tỷ lệ án tồn

đọng, số lượng án thụ lý tăng cao; số lượng cán bộ biên chế không tăng, thậm chí

còn bị giảm; việc tổ chức THA trong nhiều vụ việc còn chưa kịp thời, gặp khó khăn,

vướng mắc, trong đó có những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên không

rõ ràng, thiếu khả thi nhưng việc trả lời của Tòa án đối với yêu cầu của cơ quan THA

về giải thích bản án còn chậm, nhiều trường hợp dẫn đến khiếu nại, tố cáo gay gắt, kéo

dài; việc chấp hành pháp luật của người phải THA chưa nghiêm, cố tình chây ỳ,

44

không tự nguyện THA nhằm kéo dài việc THA; việc phối hợp với cấp ủy, chính

quyền địa phương trong hoạt động THADS còn thiếu chủ động, hiệu quả chưa cao;

đặc biệt là trong việc phối hợp với các cơ quan chức năng trong THA còn gặp rất

nhiều khó khăn, mặc dù trách nhiệm phối hợp của các ngành đã được quy định cụ

thể trong Luật.

Như vậy, có thể nói rằng, nhiệm vụ của Chi cục THADS quận Cầu Giấy vẫn

còn nhiều khó khăn, thách thức, với những thực trạng được nêu ở phần trên đã một

phần tác động đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, nhiệm vụ chuyên môn được

giao của đơn vị.

2.2.2.2. Công tác chỉ đạo việc tổ chức phối hợp các cơ quan trong hoạt động

thi hành án dân sự

Những năm vừa qua, Chi cục THADS quận Cầu Giấy luôn nhận được sự quan

tâm rất lớn của các Cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong việc đổi mới, kiện

toàn và củng cố tổ chức bộ máy của đơn vị để ngày càng không ngừng đáp ứng yêu

cầu nhiệm vụ. Sự quan tâm chỉ đạo của Cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương chính

là việc ban hành các văn bản chỉ đạo quan trọng về THA, cụ thể, Quận ủy Cầu Giấy

đã có Chỉ thị số 45-CT/TU ngày 23/9/2015 về việc tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo

công tác THADS tại địa phương; UBND Quận ban hành Quyết định số 7391/QĐ-

UBND ngày 24/12/2016, Quyết định số 2102/QĐ-UBND ngày 17/8/2018 về việc kiện

toàn Ban chỉ đạo THADS quận Cầu Giấy. Quận ủy, UBND quận Cầu Giấy thường

xuyên quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo cơ quan THADS thực hiện tốt nhiệm vụ THADS

trên địa bàn, làm tốt công tác xây dựng đội ngũ công chức có phẩm chất chính trị vững

vàng, có đạo đức và kiến thức chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.

Ban Chỉ đạo THADS quận Cầu Giấy được Chủ tịch UBND quận Cầu Giấy ra

Quyết định số 2102/QĐ-UBND ngày 17/8/2018 về việc kiện toàn Ban chỉ đạo

THADS quận Cầu Giấy theo Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT-BTP-BCA-BTC-

TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn hoạt động của Ban chỉ đạo THADS 13 thành viên.

Thành phần tham gia Ban chỉ đạo gồm: Phó chủ tịch UBND quận là Trưởng Ban chỉ

đạo, Chi cục trưởng Chi cục THADS là Phó trưởng Ban thường trực; lãnh đạo các

phòng, ban như: Tư pháp, Thanh tra, Công an, Tài chính, Tài nguyên và Môi trường,

45

Bảo hiểm xã hội, Chi cục Thuế, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân,

UBMTTQVN quận làm Ủy viên Ban Chỉ đạo và thường xuyên được kiện toàn phù

hợp, xây dựng Quy chế hoạt động và hoạt động theo đúng quy định.

Nhờ có sự quan tâm của Quận Uỷ, HĐND, UBND, Ban Chỉ đạo THADS quận

Cầu Giấy đã chỉ đạo công tác phối hợp giữa các cơ quan trong giải quyết những vụ

việc khó khăn, phức tạp nên tình hình phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ

quan, ban, ngành hữu quan trong công tác THADS trong thời gian qua đã có nhiều

thuận lợi. Chi cục THADS đã có sự phối hợp tốt với các cơ quan Viện kiểm sát, Công

an, Tòa án, Tư pháp, Tài chính, Tài nguyên môi trường, Bảo hiểm xã hội, Chính

quyền các phường, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai, Chi cục Thuế... trong hoạt

động THADS.

Ngoài ra Viện kiểm sát nhân dân Quận định kỳ kiểm tra và thường xuyên phối

hợp rất sát sao trong nhiều vụ việc với Lãnh đạo Chi cục và CHV trong công tác

THADS của Chi cục.

Tuy nhiên ngoài những thuận lợi trên, trong công tác phối hợp với các cơ quan

ban ngành còn gặp một số vướng mắc như sau:

- Công tác phối hợp với Ngân hàng: khi tiến hành phối hợp xác minh tài khoản

của người phải THA, CHV theo thẩm quyền có quyền yêu cầu Ngân hàng cung cấp

số dư và thực hiện phong toả hoặc yêu cầu giữ nguyên số tiền trong tài khoản. Khi

nhận được yêu cầu của CHV nhưng phía Ngân hàng không kịp thời cung cấp, cung

cấp chậm làm cho biến động tài khoản không còn số dư tạo điều kiện cho đương sự

tẩu tán tài sản, trốn tránh việc THA.

- Công tác phối hợp xác minh, xác định mốc giới, vị trí thửa đất giữa UBND

phường: xảy ra trường hợp tại trường hợp Giấy chứng nhận quyền sở hữu chưa ghi

nhận được mốc giới, vị trí thửa đất, CHV đề nghị UBND phường phối hợp xác định

để thuận lợi trong việc phát mãi chính xác tài sản THA, nhưng có vụ việc sau hơn 06

tháng vẫn chưa nhận được kết quả, vì vậy dẫn đến việc THA kéo dài.

- Hoạt động phối hợp xác minh đề nghị cung cấp thông tin dữ liệu về quyền sở

hữu đối với tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của Chi nhánh

văn phòng đăng ký đất đai Quận, mà nhất là Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai

46

thành phố Hà Nội được phối hợp rất chậm không theo quy định, dẫn đến việc cưỡng

chế, xử lý tài sản THA là nhà, đất là tài sản đảm bảo cho nghĩa vụ của người phải

THA bị chậm kéo dài làm ảnh hưởng đến tiến độ THA.

2.2.2.3. Công tác quản lý và chỉ đạo, điều hành hoạt động thi hành án dân sự

của lãnh đạo Chi cục và hoạt động thi hành án dân sự của Chi cục

Thời gian qua, công tác quản lý và chỉ đạo, điều hành hoạt động THADS tại

quận Cầu Giấy đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Có được những kết quả đó

là do công tác quản lý và chỉ đạo, điều hành đã đi vào nề nếp, sâu sát, quyết liệt hơn.

Chi cục trưởng đã kịp thời chỉ đạo xây dựng kế hoạch công tác và giao chỉ tiêu,

nhiệm vụ cho CHV ngay từ đầu năm, có phương án mang tính khả thi để tổ chức,

điều hành và kiểm soát toàn bộ hoạt động THADS của Chi cục; nhận thức đầy đủ về

vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu đơn vị; đã đề ra nhiều giải pháp trong quản

lý và chỉ đạo, điều hành góp phần tháo gỡ khó khăn, nâng cao hiệu quả hoạt động

THADS như:

- Về triển khai nhiệm vụ trọng tâm của ngành: Chi cục trưởng đã thực hiện

nghiêm túc việc xây dựng kế hoạch công tác, giao chỉ tiêu cụ thể cho từng CHV. Đề

ra các giải pháp nhằm nâng cao chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao; phát động các đợt thi

đua và đợt thi đua cao điểm tới toàn thể cán bộ, công chức nhằm động viên toàn thể

công chức, trong đó có đội ngũ CHV, thư ký THA phấn đấu, nỗ lực nâng cao chất

lượng cũng như hiệu quả giải quyết hồ sơ THA.

- Về hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ: Thường xuyên quan tâm đôn đốc và cho ý

kiến chỉ đạo nghiệp vụ kịp thời đối với các hồ sơ có khó khăn, vướng mắc của CHV.

Chỉ đạo các CHV xây dựng kế hoạch chi tiết và cho ý kiến phê duyệt để tổ chức THA

đối với các việc THA trọng điểm, án liên quan đến tín dụng, ngân hàng, việc thu hồi

tài sản cho Nhà nước. Đã thành lập Hội đồng CHV để giải quyết những khó khăn

vướng mắc trong hoạt động THADS theo Quy trình hướng dẫn nghiệp vụ THADS.

Đơn vị không phát sinh vụ việc THA hành chính nào trong 5 năm qua.

- Về xác minh, phân loại điều kiện THA : Nhận thức được việc rà soát, phân

loại hồ sơ THA là một công việc hết sức quan trọng để CHV đưa ra những biện pháp

tổ chức THA thích hợp đối với từng hồ sơ. Do vậy lãnh đạo đơn vị thường xuyên

47

quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc công tác rà soát phân loại án. Việc xác minh, rà

soát phân loại án được diễn ra thường xuyên. Hầu hết các hồ sơ được xác minh đúng

thời hạn, vì vậy việc phân loại án chưa điều kiện hay có điều kiện đảm bảo chính

xác. Báo cáo kịp thời số liệu thống kê hàng tháng, đăng tải việc chưa có điều kiện

trên trang thông tin của Cục THADS thành phố Hà Nội đầy đủ theo quy định.

- Về tổ chức cưỡng chế THA: Để đảm bảo việc việc thu ngân sách nhà nước,

đảm bảo quyền, lợi ích của đương sự, trong 5 năm qua, Chi cục đã ban hành 249

Quyết định cưỡng chế THA đối với những trường hợp có điều kiện THA nhưng

không tự nguyện. Trong số 249 Quyết định cưỡng chế có 12 quyết định cưỡng chế

phải huy động lực lượng. Đối với 12 việc cưỡng chế phải huy động lực lượng, có 7

việc đương sự đã tự nguyện ngay trước thời điểm cưỡng chế; 05 việc phải tổ chức

cưỡng chế đều thành công, an toàn và đạt kết quả cao do làm tốt công tác phối hợp.

2.2.2.4. Công tác kiểm tra, công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo

- Về công tác kiểm tra: Hàng năm Chi cục đã xây dựng và thực hiện Kế hoạch

kiểm tra và tự kiểm tra toàn diện đối với các nội dung liên quan đến việc thực hiện

nhiệm vụ, chỉ tiêu theo Nghị quyết của Quốc hội và ngành dọc cấp trên, công tác thụ

lý, phân loại án, công tác thống kê và kết quả THA, trong đó tập trung kiểm tra toàn

diện, kiểm tra về công tác quản lý, sử dụng biên lai; công tác kế toán nghiệp vụ; quản

lý, sử dụng nguồn kinh phí cưỡng chế, tình hình thu, nộp phí thi hành án; hồ sơ THA,

đặc biệt những hồ sơ chậm THA có liên quan đến tổ chức tín dụng ngân hàng, khiếu

nại, tố cáo, phản ánh của đương sự... Qua kiểm tra đã kịp thời phát hiện, chỉ đạo chấn

chỉnh và khắc phục sai phạm, thiếu sót.

- Về công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo: Công tác tiếp công

dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn được xác định là một trong những nhiệm vụ

trọng tâm của Chi cục. Công tác tiếp công dân được thực hiện nghiêm túc theo quy

định pháp luật và Quy chế tiếp công dân, đảm bảo đúng trình tự, thủ tục pháp luật

quy định. Chi cục đã xây dựng Nội quy, Quy chế tiếp công dân; triển khai thực hiện

nghiêm túc các quy định của Luật Tiếp công dân, Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính

trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân và giải quyết

khiếu nại, tố cáo.

48

Nhìn chung công tác tiếp dân tại đơn vị đã được tổ chức khoa học, thuận tiện

cho công dân, cá nhân, tổ chức khi đến làm việc. Lãnh đạo đơn vị đã phân công một

đồng chí Thẩm tra viên kiêm công tác văn phòng tiếp nhận đơn thư giải quyết khiếu

nại, tố cáo. Lãnh đạo đơn vị trực tiếp tiếp dân định kỳ vào thứ 5 hàng tuần. Ngoài ra

tại Chi cục thường xuyên có các Lãnh đạo trực để tiếp công dân theo yêu cầu và

nhiệm vụ đột xuất.

Trong 5 năm qua, đơn vị nhận được 17 đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải

quyết, không nhận được đơn tố cáo nào. Hàng năm, đơn vị đã thụ lý và giải quyết

dứt điểm vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền, đạt tỷ lệ 100%, vượt 10% so với chỉ

tiêu được giao. Đến nay, đơn vị không còn việc khiếu nại, tố cáo nào còn tồn đọng

phải giải quyết. Từ khi thành lập đến nay, đơn vị chưa có ai bị khiếu nại về phẩm

chất đạo đức và chưa có ai bị kỷ luật.

2.2.2.5. Công tác quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt

động của cơ quan thi hành án dân sự theo hướng dẫn chỉ đạo Ngành dọc

- Về công tác quản lý công chức, cán bộ: Chi cục thực hiện nghiêm túc từ khâu

đánh giá, quy hoạch, bổ nhiệm các chức danh quản lý, chức danh tư pháp đặc biệt là

chức danh CHV nhằm tiếp tục củng cố, kiện toàn các chức danh lãnh đạo đáp ứng

yêu cầu công việc trong tình hình mới. Thực hiện quản lý công chức hiệu quả thông

qua việc phân công, phân nhiệm cụ thể công việc từ thủ trưởng, phó thủ trưởng đến

tất cả các công chức trong đơn vị theo hướng rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm. Quan

tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm hoàn thiện tiêu chuẩn và nâng cao chất

lượng đội ngũ công chức.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng về chính trị và chuyên môn nghiệp vụ tại Chi cục

luôn được quan tâm và thực hiện đúng quy định của Nhà nước và yêu cầu của Quận

ủy, Ngành dọc cấp trên. Hàng năm, Đơn vị đã phối hợp với Cấp ủy thường xuyên rà

soát và tạo điều kiện cho CHV, công chức tham gia học tập các lớp bồi dưỡng về lý

luận chính trị, về chuyên môn nghiệp vụ (các lớp CHV trung cấp, CHV sơ cấp, thẩm

tra viên, thư ký THA, thạc sỹ Luật, tập huấn các lớp nghiệp vụ theo yêu cầu), về bồi

dưỡng các chức danh quy hoạch Cấp ủy và lớp bồi dưỡng lãnh đạo quản lý cấp

phòng; cử công chức dự thi nâng ngạch khi đủ tiêu chuẩn.

49

Trong 05 năm qua, Đơn vị đã cử 02 đồng chí đi học lớp Trung cấp chính trị, 05

đồng chí đi học lớp bồi dưỡng các chức danh quy hoạch Cấp ủy, 05 đồng chí đi học

lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, 04 đồng chí đi học lớp bồi dưỡng đảng viên mới;

Cử 06 đồng chí đi học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ CHV trung cấp, 03 đồng chí đi học

lớp bồi dưỡng nghiệp vụ CHV, 01 đồng chí đi học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm tra

viên, 02 đồng chí đi học lớp bồi dưỡng thư ký THA, 04 đồng chí học lớp thạc sỹ

Luật, 03 đồng chí đi học lớp bồi dưỡng lãnh đạo quản lý cấp phòng.

Trong năm 2020, đã lập danh sách đề nghị Quận ủy cho 03 đồng chí CHV được

tham dự lớp Trung cấp chính trị do Quận dự kiến tổ chức năm 2021.

- Về quản lý kinh phí, cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ hoạt động THADS:

được thực hiện nghiêm túc, đúng quy định của pháp luật về quản lý tài chính, đảm bảo

kinh phí, phương tiện đáp ứng hoạt động của cơ quan THADS; trong đó tập trung công

tác quản lý sử dụng biên lai; công tác quản lý kế toán nghiệp vụ, kế toán hành chính;

quản lý, sử dụng nguồn kinh phí hành chính, kinh phí cưỡng chế, tiền tài sản THA,

tiền phí THA theo đúng quy định. Các nguồn kinh phí của đơn vị luôn được chú trọng

đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc, bảo đảm công khai, minh bạch và hợp lý.

Trong thời gian qua, việc quản lý kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết

bị phục vụ cho hoạt động THA của Chi cục nhìn chung được thực hiện đúng quy

định, hạn chế được tình trạng tiêu cực, lãng phí trong hoạt động của đơn vị. Các quy

chế như: Quy chế chi tiêu nội bộ, Quy chế quản lý tài sản công do đơn vị tự xây dựng

phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành. Đơn vị thực hiện ghi chép đầy đủ

các loại sổ sách, biểu mẫu kế toán và lưu trữ chứng từ theo đúng quy định hiện hành.

Hàng năm, các đơn vị đều thực hiện công tác quyết toán ngân sách và báo cáo số

lượng quyết toán kinh phí cho Cục THADS thành phố Hà Nội để báo cáo cho Đoàn

kiểm toán và Tổng cục THADS.

Từ năm 2006 đến nay, Chi cục THADS quận Cầu Giấy đã được đầu tư trang

thiết bị và phương tiện làm việc thiết yếu để phục vụ công tác như: các phương tiện

đi lại (xe ô tô chuyên dùng, xe máy); các trang thiết bị, phương tiện làm việc (máy

vi tính, máy in, máy photocopy, máy fax,…); các công cụ, phương tiện hỗ trợ công

tác thi hành án (loa pin cầm tay, máy ảnh, máy ghi âm, gậy điện).

50

Đầu năm 2010, Chi cục THADS quận Cầu Giấy đã có trụ sở làm việc khang

trang, nhưng do trụ sở chưa được thiết kế đồng bộ kho lưu trữ và kho vật chứng nên

Chi cục đã bố trí 02 phòng làm việc lớn nhất để làm kho lưu trữ và kho vật chứng,

do 02 phòng này vẫn nhỏ so với nhu cầu thực tế nên tang vật là xe máy và ô tô vẫn

phải bố trí để ở hành lang tầng 1 và một phần sân của trụ sở, điều này ảnh hưởng

không nhỏ đến việc quản lý, bảo quản tang tài vật của Chi cục.

- Về thực hiện chế độ thống kê, báo cáo: thực hiện báo cáo kết quả THA theo

định kỳ và đột xuất theo yêu cầu của Tổng cục THADS và Cục THADS thành phố Hà

Nội. Mặc dù, lượng công việc rất nhiều, nhưng CHV, cán bộ, công chức Chi cục luôn

phấn đấu thực hiện tốt việc thống kê, báo cáo định kỳ và đột xuất theo đúng yêu cầu

của Cấp trên, kể cả việc tổng hợp báo cáo việc THADS trọng điểm.

2.2.2.6. Về báo cáo công tác thi hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân quận

Trong những năm qua, tại quận Cầu Giấy, Ban pháp chế HĐND quận đều thực

hiện hoạt động giám sát công tác THA, thường là mỗi năm hai lần hoặc yêu cầu báo

cáo đối với những vụ việc THA có khiếu nại, phức tạp. Chi cục THADS quận luôn

thực hiện tốt việc báo cáo công tác THADS theo yêu cầu của Hội đồng nhân dân

quận. Nhiều vụ việc THA khó khăn, vướng mắc đã được giải quyết dứt điểm sau khi

Ban pháp chế thực hiện việc giám sát theo quy định.

2.2.3. Đánh giá nhận xét chung hoạt động thi hành án dân sự tại quận Cầu

Giấy, thành phố Hà Nội

2.2.3.1. Những ưu điểm

Công tác tổ chức và hoạt động THADS tại quận Cầu Giấy trải qua gần 23 năm

xây dựng và trưởng thành đã đạt được những thành tích quan trọng, từng bước khẳng

định được vị thế của mình đối với các cơ quan, ban ngành hữu quan và Cấp ủy, chính

quyền địa phương. Trong 05 năm gần đây, kết quả THADS tại quận Cầu Giấy hàng

năm đều đạt và vượt chỉ tiêu về tỷ lệ việc và tiền THA, tỷ lệ phân loại án chính xác,

không chạy theo thành tích.

Một là, Chi cục THADS quận Cầu Giấy đã có bộ máy tổ chức tương đối hoàn

chỉnh gồm 04 lãnh đạo trong đó có 03 CHV trung cấp và 07 CHV sơ cấp, 01 Thẩm

tra viên THA, 02 Thư ký THA và các chức danh khác.

51

Hai là, công tác quản lý, điều hành của lãnh đạo Chi cục THADS quận Cầu

Giấy từng bước được đổi mới, cụ thể và quyết liệt hơn.

Ba là, công tác trực tiếp tổ chức THA thu được những kết quả tích cực, trong

giai đoạn 2016 đến năm 2020, Chi cục THADS quận Cầu Giấy đã thực hiện đạt và

vượt chỉ tiêu thi đua do Bộ Tư pháp giao.

Bốn là, đội ngũ công chức THADS đã thực hiện tốt việc xây dựng tập thể đoàn

kết, cùng nỗ lực vượt qua khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đội ngũ

lãnh đạo, CHV, Thẩm tra viên, thư ký THA có trình độ chuyên môn tốt, có bản lĩnh

nghề nghiệp và có kinh nghiệm thực tiễn, thực hiện có hiệu quả từ khâu thụ lý, rà

soát, xác minh, phân loại án, qua đó đưa ra các biện pháp xử lý việc THA đúng với

quy định của pháp luật; trong quá trình tổ chức THA đều tuân thủ trình tự, thủ tục

THA; làm tốt công tác tự kiểm tra và kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện, khắc phục,

sửa chữa những sai sót, vi phạm trong hoạt động THA.

Năm là, công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo đang dần đi vào nề nếp và

ngày càng hiệu quả, hạn chế được đơn khiếu nại vượt cấp, kéo dài.

Sáu là, mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan THADS với các cơ quan, tổ chức

hữu quan ngày càng chặt chẽ và đạt hiệu quả cao hơn.

Đạt được các kết quả nêu trên, bên cạnh sự cố gắng, nỗ lực của đội ngũ công

chức trong đơn vị, sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo của Tổng cục THADS, Cục

THADS thành phố Hà Nội và Cấp ủy, chính quyền địa phương, sự phối hợp có hiệu

quả của các ngành hữu quan thì một trong những nguyên nhân chủ yếu, giữ vai trò

quyết định là việc Quốc hội kịp thời ban hành Luật THADS với nhiều điểm mới quan

trọng, trong đó đặc biệt là những quy định mới về hệ thống tổ chức THADS và công

chức làm công tác THADS. Với việc quy định hệ thống tổ chức THADS được tổ

chức và quản lý tập trung, thống nhất, theo ngành dọc từ Trung ương xuống địa

phương, đồng thời phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cấp ở

Trung ương và địa phương trong quản lý nhà nước về THADS đã tạo ra cơ chế tương

đối thích hợp, giúp cho hoạt động THADS được thống nhất trong toàn quốc, góp

phần thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương. Bên cạnh đó, với việc quy định

cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức trong THADS sự tại Chương VIII

52

của Luật THADS sửa đổi bổ sung năm 2014 đã khắc phục được những hạn chế,

vướng mắc trước đây về cơ chế phối hợp và mối quan hệ công tác giữa cơ quan

THADS với các cơ quan, tổ chức hữu quan, giúp cho cơ quan THADS có điều kiện

thuận lợi hơn để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ngoài ra, trình tự, thủ tục THADS cũng

được pháp luật về THADS sửa đổi và bổ sung thêm nhiều quy định mới, chẳng hạn

như thời hiệu yêu cầu THA, các biện pháp bảo đảm THA, biện pháp và thủ tục cưỡng

chế THA, thủ tục định giá và bán đấu giá tài sản kê biên… đã tạo điều kiện thuận lợi

cho CHV trong hoạt động tác nghiệp, nâng cao hiệu quả công tác THADS tại quận

Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, góp phần bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà

nước, tổ chức và cá nhân, giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội trên

địa bàn Quận.

2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế

Trong hoạt động THADS trên địa bàn quận Cầu Giấy trong những năm qua đã

thu được kết quả nhất định, nhưng trên thực tế còn có một số tồn tại, hạn chế sau:

- Kết quả THADS nhìn chung đạt chỉ tiêu của Quốc hội nhưng còn có năm

không đạt được chỉ tiêu về tiền và chỉ tiêu giảm án tồn đọng. Còn những sai sót trong

hoạt động chuyên môn nghiệp vụ mặc dù đã được hạn chế nhưng vẫn còn tình trạng

vi phạm, thiếu sót trong thực hiện trình tự, thủ tục THADS.

- Năng lực trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của một số công chức

chưa cao.

- Công tác kiểm tra chưa phát huy hết vai trò là công cụ đắc lực phục vụ công

tác quản lý và chỉ đạo, điều hành trong nội bộ.

- Công tác phối hợp với Ngân hàng trong việc cung cấp thông tin tài khoản, xử

lý các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng hiệu quả chưa cao. Công tác phối

hợp liên ngành với một số cơ quan, tổ chức trong THA còn có khó khăn mặc dù trách

nhiệm phối hợp của các ngành đã được quy định cụ thể trong Luật.

- Mặc dù đã được Bộ Tư pháp, ngành dọc cấp trên và Quận rất quan tâm nhưng

điều kiện cơ sở vật chất vẫn còn khó khăn. Trụ sở của Chi cục THADS quận Cầu

Giấy được thiết kế chưa phù hợp, số lượng phòng làm việc không đủ nhu cầu sử dụng

thực tế hiện nay tại đơn vị. Trụ sở còn thiếu phòng làm việc, do không có kho tang

53

vật và kho lưu trữ hồ sơ THA nên phải lấy 02 phòng làm việc lớn nhất để sử dụng

làm kho vật chứng, kho lưu trữ hồ sơ THA nên kho không đủ diện tích sử dụng, luôn

trong tình trạng quá tải; bộ phận tiếp dân cũng rất nhỏ, không đáp ứng được yêu cầu.

- Việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu “điện tử hóa”.

Nguyên nhân:

* Nguyên nhân chủ quan:

- Những hạn chế nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên

nhân chủ quan một phần do công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo Chi cục

chưa thực sự quyết liệt dẫn đến kết quả THA chưa được như mong muốn; công tác

kiểm tra, tự kiểm tra được quan tâm nhưng chất lượng, hiệu quả còn hạn chế;

- Năng lực, trình độ của đội ngũ công chức, CHV cơ quan THADS chưa đồng

đều, lực lượng công chức còn thiếu, phải kiêm nhiệm nhiều việc, dẫn đến quá tải

chưa bảo đảm đáp ứng tình hình lượng án tăng hàng năm và tính chất phức tạp của

các vụ việc như hiện nay. Vẫn còn công chức chấp hành kỷ cương, kỷ luật còn hạn

chế; ý thức, trách nhiệm và tính tuân thủ kỷ luật, chấp hành chỉ đạo trong công tác

chuyên môn nghiệp vụ của một số ít cán bộ công chức chưa thật sự đáp ứng yêu

cầu; có CHV còn thiếu trách nhiệm, chậm trễ trong tổ chức THA.

- Tính chất các vụ việc phức tạp và đặc biệt là đối tượng phải THA đa số là

những người có học thức, trình độ cao nhưng có ý thức cố ý không chấp hành, thậm

chí vi phạm pháp luật trong khi đó trình độ năng lực, kinh nghiệm và trách nhiệm

của một số cán bộ, CHV còn hạn chế nhất định, chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ

trong giai đoạn hiện nay.

* Nguyên nhân khách quan:

- Các điều kiện kinh tế vẫn tiếp tục còn khó khăn, làm phát sinh nhiều tranh

chấp dẫn đến tổng số lượng việc, tiền thụ lý mới của quận có chiều hướng tăng mạnh,

so với thời điểm trước năm 2016, nhiều vụ việc phức tạp còn tồn của những năm

trước chuyển sang chưa thể giải quyết được trong khi đó biên chế không được tăng,

thậm chí bị giảm. Do áp lực công việc, trong 03 năm qua đã có 02 công chức xin thôi

việc, hiện nay Chi cục còn thiếu biên chế.

54

- Một số Bản án, Quyết định của Toà đã có hiệu lực pháp luật nhưng tính khả

thi không cao, do Bản án tuyên không rõ, gây khó khăn cho việc THA.

- Các vụ việc THA liên quan đến tín dụng, ngân hàng chỉ chiếm một phần số

liệu về việc, nhưng số tiền phải THA rất lớn, trong khi đó, việc xử lý tài sản trong

các vụ việc loại này gặp rất nhiều khó khăn, tài sản kê biên khi bán đấu giá rất khó

bán phải giảm giá nhiều lần vẫn không bán được tài sản (Có vụ giảm giá lần thứ 07

vẫn không có người tham gia đấu giá).

- Hành lang pháp lý về cơ chế kiểm soát tài sản, thu nhập của người phải THA

còn chưa được cụ thể hóa, khó khăn cho xác minh điều kiện THA, thông tin tài sản,

địa chỉ dẫn đến hiệu quả chưa cao đối với thu hồi tài sản cho Nhà nước, cho cá nhân

và tổ chức.

- Số lượng doanh nghiệp giải thể, bỏ trốn, không rõ địa chỉ người phải THA còn

nhiều; số lượng việc không thể đôn đốc THA do người phải THA đang chấp hành

hình phạt tù, không có tài sản hoặc khi mãn hạn tù đi làm ăn, sinh sống ở nơi khác,

không có mặt tại địa phương, không xác minh được địa chỉ mới còn rất nhiều.

- Chế độ đối với CHV, cán bộ công chức làm công tác THADS đã được quan

tâm nhưng chưa thật sự thu hút cán bộ vào làm việc, trong 05 năm vừa qua Cầu Giấy

đã có 02 cán bộ xin chuyển công tác, 01 thư ký THA và 01 kế toán thôi việc; một bộ

phận cán bộ, công chức chưa thật sự an tâm công tác.

- Nhiều quy định của pháp luật chưa cụ thể, rõ ràng, từ đó gây khó khăn cho

việc áp dụng vào thực tiễn. Cơ sở vật chất của Chi cục THADS tuy đã được quan

tâm song vẫn còn nhiều khó khăn như kho tang vật, kho lưu trữ hồ sơ THA chật chội,

luôn trong tình trạng quá tải phần nào ảnh hưởng đến công tác quản lý của Chi cục.

55

Tiểu kết chương 2

Trong những năm qua, Chi cục THADS quận Cầu Giấy đã có những tiến bộ

mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động THADS, thể hiện ở một số kết quả nổi bật là: Tổ

chức bộ máy của Chi cục đã được tổ chức theo đúng quy định của pháp luật, phù hợp

với điều kiện của quận và hoạt động THADS đạt kết quả tương đối toàn diện. Chi

cục THADS quận Cầu Giấy đã tích cực phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ

THADS; Chỉ đạo công tác xác minh, phân loại án tiếp tục được quan tâm chú trọng;

Công tác phối hợp liên ngành, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tiếp tục

được củng cố; Công tác kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã dần đem lại hiệu

quả; Công tác tiếp công dân được thực hiện nghiêm túc.

Những thành tựu đạt được đã bảo đảm được hiệu lực của bản án, quyết định

của Tòa án được thi hành trên thực tế, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của

Nhà nước, tổ chức, cá nhân, tạo được niềm tin của nhân dân đối với công tác THADS.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã được ghi nhận, thực tiễn hoạt động

THADS tại quận Cầu Giấy vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Những tồn tại

hạn chế này do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Trong đó có nguyên nhân chủ

quan thuộc về trách nhiệm của lãnh đạo, công chức tại Chi cục THADS quận Cầu

Giấy. Tuy nhiên, ngoài nguyên nhân chủ quan cũng có những nguyên nhân khách

quan trên thực tế, một trong những nguyên nhân khách quan đó là sự chưa hoàn thiện

của pháp luật về THADS và pháp luật khác liên quan. Những nguyên nhân khách

quan phần nào đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc THADS, làm cho công tác THADS

còn những tồn tại, hạn chế như đã phân tích ở trên.

Từ thực trạng tồn tại về tổ chức và hoạt động THADS của Chi cục THADS

quận Cầu Giấy đã được phân tích, đánh giá, phần tiếp theo tác giả đề xuất phương

hướng, giải pháp nâng cao hiệu tổ chức và hoạt động THADS trên địa bàn quận Cầu

Giấy trong thời gian tới.

56

Chương 3

PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC VÀ

HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI QUẬN CẦU GIẤY,

THÀNH PHỐ HÀ NỘI

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành án

dân sự

Kế thừa những thành tích, kinh nghiệm trong giai đoạn 2016-2020 và để nâng

cao hiệu quả hoạt động THADS những năm tiếp theo, Chi cục THADS quận Cầu

Giấy xác định và tập trung thực hiện tốt những nội dung sau:

Thứ nhất, lãnh đạo Chi cục THADS chủ động, tích cực đề xuất tham mưu cho

Cấp ủy, Chính quyền, Ban Chỉ đạo THADS quận Cầu Giấy tập trung chỉ đạo giải

quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn phát sinh trong việc phối hợp giữa các

cơ quan có liên quan trong hoạt động THADS trên địa bàn. Bám sát sự lãnh đạo, chỉ

đạo của Cấp ủy, UBND Quận trong việc tổ chức cưỡng chế thi hành các vụ án lớn,

phức tạp, có ảnh hướng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại quận Cầu Giấy

và hỗ trợ kinh phí hoạt động cho Chi cục THADS; tiếp tục thực hiện tốt việc phối

hợp với các cơ quan, ban, ngành liên quan trong hoạt động THADS.

Thứ hai, Tổ chức quán triệt, triển khai nghiêm túc các Nghị quyết, Chỉ thị của

Đảng; triển khai một cách cụ thể, thiết thực chỉ đạo của Cấp ủy, UNND quận và

Ngành dọc cấp trên trong hoạt động THADS trên địa bàn. Tiếp tục thực hiện nghiêm

kỷ luật, kỷ cương hành chính tại Chi cục gắn với việc triển khai có hiệu quả Quy chế

dân chủ của cơ quan nhằm phát huy năng lực, trí tuệ cá nhân và sức mạnh tập thể,

đoàn kết nội bộ góp phần hoàn thành chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao. Đề cao trách

nhiệm người đứng đầu đơn vị trong việc chỉ đạo, lãnh đạo đơn vị thực hiện các nhiệm

vụ chính trị và tổ chức các giải pháp phòng, chống các hành vi tiêu cực, tham nhũng.

Thứ ba, phấn đấu hoàn thành tốt các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao trong những

năm tới, nhất là các chỉ tiêu nâng cao chất lượng, tỷ lệ THADS xong về việc và về

tiền hàng năm; đảm bảo ra quyết định THA đúng quy định của pháp luật đối với

100% bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực; bảo đảm xác minh điều kiện THA,

phân loại chính xác, đúng pháp luật án dân sự có điều kiện thi hành và chưa có điều

57

kiện thi hành; nâng cao chất lượng án liên quan đến các khoản nợ của ngân hàng và

tổ chức tín dụng, các khoản thu cho ngân sách nhà nước; đặc biệt chú trọng việc thu

hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt trong các vụ án tham nhũng, kinh tế; thực hiện tốt việc

kê biên, thẩm định giá, đấu giá tài sản THA;

Thứ tư, tăng cường chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong lĩnh

vực THADS, THAHC nhằm góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cơ

quan, tổ chức, cá nhân trong việc phối hợp THADS cũng như thực thi bản án có hiệu

lực của tòa án. Tăng cường công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo; nâng

cao chất lượng hiệu quả công tác tự kiểm tra để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm

các sai phạm.

Thứ năm, thực hiện tốt việc quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, quy hoạch,

đề nghị bổ nhiệm, khen thưởng, kỷ luật công chức theo đúng quy định; chú trọng đào

tạo công chức theo tiêu chuẩn chức danh; xây dựng đội ngũ công chức Chi cục

THADS trong sạch, vững mạnh. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin; từng

bước tháo gỡ khó khăn về điều kiện làm việc của các cơ quan THADS.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự

3.2.1 Hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự

Hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật về THADS là nhiệm vụ quan trọng và

cấp thiết trong tình hình mới, bởi lẽ Luật THADS và các văn bản hướng dẫn pháp luật

này hiện nay đã và đang bộc lộ nhiều bất cập, rất nhiều nội dung không còn phù hợp

với thực tiễn đã kiểm nghiệm. Để nâng cao chất lượng hiệu quả công tác THADS theo

yêu cầu cải cách Tư pháp trong thời gian tới, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp

luật về THADS và pháp luật có liên quan đến hoạt động THADS là một trong các giải

pháp đầu tiên cần phải thực hiện, cụ thể là:

- Kiến nghị Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung một số quy định trong các đạo

luật liên quan đến hoạt động THADS, như: Luật đất đai, Luật nhà ở...nhằm tạo cơ sở

pháp lý thống nhất, đồng bộ, tăng cường hiệu quả hoạt động THADS, theo đó:

+ Sửa đổi, bổ sung để thống nhất về thời điểm chuyển quyền sở hữu bất động

sản là nhà ở và đất giữa Luật nhà ở và Luật đất đai như quy định hiện nay.

58

+ Bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan về cách thức xử lý tài sản

hình thành trong tương lai và tài sản là vốn góp để làm cơ sở cho việc THADS được

thuận lợi.

- Kiến nghị Quốc hội xem xét ban hành Luật THADS mới thay thế Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS để phù hợp với quy định trong Bộ luật

dân sự năm 2015 và phù hợp với tình hình thực tế hiện nay, cụ thể như sau:

+ Sửa đổi quy định về quyền ưu tiên mua tài sản chung của chủ sở hữu chung

tại khoản 3 Điều 74 Luật THADS theo hướng xem xét rút ngắn thời hạn ưu tiên mua

tài sản chung. Hiện tại khoản 3 Điều 74 Luật THADS quy định thời hạn ưu tiên mua

tài sản chung là 03 tháng đối với bất động sản, 01 tháng đối với động sản kể từ ngày

được thông báo hợp lệ (hơn nữa, còn quy định thêm đối với những lần bán tài sản

tiếp theo thì thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ). Trong khi đó,

theo các quy định của Luật Đấu giá tài sản năm 2016, một phiên bán đấu giá chỉ từ

30 ngày đến 45 ngày, điều khoản trên khiến cho thời hạn ưu tiên mua tài sản chung

là quá dài, làm mất nhiều thời gian và thủ tục cho quá trình tổ chức THA. Đồng thời

kiến nghị sửa đổi quy định quyền ưu tiên mua tài sản chung ở lần tiếp theo bán tài

sản (hiện nay là 15 ngày) để rút ngắn thời gian tổ chức THA và nâng cao hiệu quả

kê biên, xử lý tài sản chung của người phải THA trong thực tế.

+ Cần bổ sung các quy định về quyền thỏa thuận THA của người có quyền lợi

và nghĩa vụ liên quan trong THADS. Vì Điều 6 Luật THADS chỉ quy định “đương

sự” có quyền thỏa thuận THA, trong khi theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật

THADS thì đương sự bao gồm người được THA, người phải THA. Trong khi đó,

điểm c khoản 1 Điều 7, điểm a khoản 1 Điều 7a Luật THADS quy định người được

THA, người phải THA có quyền thỏa thuận với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung THA. Do vậy, đã có sự mâu

thuẫn giữa quy định tại Điều 6 với Điều 7 và Điều 7a của Luật THADS về đối tượng

có quyền thỏa thuận THA.

+ Bổ sung quy định đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến tài

sản bị cưỡng chế có quyền thỏa thuận về giá, về lựa chọn tổ chức thẩm định giá theo

quy định tại khoản 1 Điều 98 Luật THADS (bao gồm cả thỏa thuận lựa chọn tổ chức

59

đấu giá tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 101 Luật THADS) để bảo đảm về

quyền thỏa thuận THA của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong THADS.

+ Cần sửa đổi, bổ sung hoặc bỏ hẳn 1 phần của khoản 2 Điều 95 Luật THADS

về việc kê biên, xử lý tài sản là nhà ở gắn liền quyền sử dụng đất của người khác theo

hướng sửa đổi vì không khả thi ở thực tế thi hành nếu người đứng tên quyền sử dụng

đất đó không đồng ý kê biên, xử lý thì cơ quan THADS, CHV không thể kê biên, xử

lý được do vướng mắc ở Điều luật này.

+ Bổ sung quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, trách nhiệm của cơ quan THADS

trong việc thi hành các bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của Tòa án

như: Đôn đốc người phải THA thực hiện nghĩa vụ; thông báo bằng văn bản với cơ

quan cấp trên trực tiếp của người phải THA để chỉ đạo việc THA và Viện kiểm sát

nhân dân cùng cấp để thực hiện việc kiểm sát THA; các quy định về quản lý nhà

nước về công tác THA hành chính.

+ Bổ sung quy định về căn cứ pháp lý vào Điều 70 và Điều 103 Luật THADS

sửa đổi, bổ sung 2014 để việc cưỡng chế giao nhà ở, chuyển quyền sử dụng đất trong

trường hợp bản án bị hủy để nâng cao tính thống nhất trong hệ thống pháp luật mang

tính hiệu lực, hiệu quả cao ở thực tế thi hành.

+ Sửa đổi Điều 61 Luật THADS theo hướng quy định rút ngắn thời hạn để được

xét miễn, giảm nghĩa vụ THADS đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước khi

đương sự không có điều kiện THA.

+ Cần bổ sung nội dung quy định về thỏa thuận trong THADS theo hướng quy

định cụ thể về thời gian, phương thức, kết quả thỏa thuận THA nhằm không làm kéo

dài thời gian tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án.

+ Bổ sung quy định về biện pháp xử lý đối với những trường hợp đương sự lợi

dụng quyền khiếu nại, tố cáo để chây ỳ, trốn tránh, chống đối việc THA hoặc lợi

dụng quyền khiếu nại để xuyên tạc sự thật làm ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan nhà

nước và cán bộ, công chức.

- Kiến nghị Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành một số quy

định của Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS để tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức

THA như:

60

+ Ban hành văn bản hướng dẫn việc kê biên, xử lý nhà ở của người phải THA

được xây dựng trên đất của người khác; xử lý quyền sử dụng đất nhưng trên đất có

nhà thuộc sở hữu của người khác.

+ Sửa đổi, bổ sung Nghị định 83/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ

theo hướng tăng thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của CHV lên mức từ

3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng cho phù hợp với Luật THADS.

+ Cần sớm có một văn bản hướng dẫn cụ thể để hủy bỏ giao dịch (kể cả giao

dịch hợp pháp và giao dịch không hợp pháp) giữa người phải THA với người nhận

chuyển quyền sở hữu tài sản; làm căn cứ cưỡng chế kê biên xử lý tài sản để

THA, tạo điều kiện cho CHV tổ chức THA nhanh chóng, đúng pháp luật đảm

quyền và lợi ích chính đáng cho các bên đương sự theo khoản 1 Điều 24 Nghị định

62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ.

- Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Thông tư số 12/2015/TTLT- BTP-BTC-

TANDTC-VKSNDTC ngày 15/9/2015 của Bộ Tư Pháp, Bộ Tài Chính, Viện kiểm

sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao đối với khoản thu cho ngân sách nhà

nước[16], vẫn còn vướng mắc ở điều luật áp dụng tại khoản 2, khoản 3, Điều 61

Luật THADS sửa đổi, bổ sung 2014 theo hướng bỏ mức thu 1/50 đối với những

trường hợp người phải THA không nơi nưa tượng, sống lang thang mà không tài

sản, thu nhập để THA, bởi không khả thi trong thực tế và không có hướng xử lý

dứt điểm vụ việc, tồn đọng kéo dài nhiều năm.

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về THADS chính là tạo hành lang pháp lý thuận

lợi cho hoạt động THADS và nâng cao hiệu quả của các cơ THADS, phát triển bền

vững hơn. Vì vậy, Quốc Hội cần nhanh chóng ban hành Bộ luật THADS trên cơ sở

hệ thống hóa, pháp điển hóa, mở rộng phạm vi điều chỉnh, đáp ứng yêu cầu sau khi

Bộ luật THADS được ra đời, là văn bản có tính pháp lý cao hơn. Chính phủ, chỉ đạo

Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ, ngành liên quan tổng rà sát các Nghị định, Chỉ thị,

Thông tư kịp thời ban hành, sửa đổi bổ sung, hướng dẫn kịp thời việc thực hiện các

nội dung trong Bộ luật THADS và các Bộ luật hình sự, Tố tụng hình sự, Tố tụng dân

sự có liên quan đến công tác THADS như xét miễn, giảm thi hành án, cưỡng chế

phong toả, khấu trừ tài khoản, tài sản tại ngân hàng, kho bạc, các tổ chức bảo hiểm,

61

tổ chức tín dụng; ban hành trình tự thủ tục THA các quyết định trong vụ án hành

chính không liên quan đến tài sản, thi hành án có yếu tố nước ngoài..., tạo tiền đề

cho cơ quan THADS và các cơ quan có liên quan thực hiện thống nhất.

3.2.2. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp

luật về thi hành án dân sự nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho các tổ chức, cá

nhân

Để hoạt động THADS có hiệu quả thì cần thiết phải đẩy mạnh công tác tuyên

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về THADS nhất là từ cơ sở, một mặt nâng cao

nhận thức về pháp luật THADS cho nhân dân và những đối tượng trực tiếp liên quan

đến việc THADS, giúp người được THA, người phải THA và những người có quyền,

nghĩa vụ liên quan đến THADS, nâng cao khả năng tự bảo vệ mình, mặt khác tuyên

truyền phổ biến giáo dục pháp luật về THADS giúp nhân dân nắm rõ được các quyền,

nghĩa vụ của mình từ đó hình thành tri thức pháp luật, tình cảm niềm tin đối với pháp

luật; có thói quen và hành vi xử sự hợp pháp tích cực từ đó nhận thức rõ: bản án,

quyết định dân sự của Toà án đã có hiệu lực pháp luật phải được nghiêm chỉnh thi

hành. Các biện pháp cụ thể:

Các cấp ủy đảng, chính quyền trên địa bàn cần quan tâm hơn nữa công tác lãnh

đạo, chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan như HĐND, cơ quan Tư

pháp, Công an, Tòa án, Kiểm sát, MTTQ, các đoàn thể, các cơ quan thông tin đại

chúng tiếp tục thực hiện tổ chức triển khai tốt việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục

pháp luật nói chung và pháp luật về THADS nói riêng cho các tổ chức, cá nhân và

nhân dân, trong đó cần tập trung tuyên truyền giáo dục về quyền, nghĩa vụ của các

tổ chức, cá nhân là đối tượng phải THA; quyền và trách nhiệm của các cơ quan

THADS., coi đây là hoạt động thường xuyên, liên tục của Cấp ủy, chính quyền địa

phương.

Về hình thức tuyên truyền:

- Thường được thể hiện dưới nhiều dạng như: sân khấu hoá, tổ chức các cuộc

thi tìm hiểu, phát tờ rơi... nhưng hiệu quả vẫn chưa cao. Trên thực tế, một vụ việc

xảy ra trên địa phương luôn tạo được sự quan tâm của dư luận. Như vậy việc thông

báo THA nhằm công khai kết quả giải quyết của các cơ quan tiến hành tố tụng đồng

62

thời sẽ tạo nên một luồng dư luận rộng rãi trong nhân dân từ đó giúp họ hiểu rõ hơn

về các quy định của pháp luật và tránh vi phạm khi gặp trường hợp tương tự, do đó

cần thực hiện giải pháp tuyên truyền pháp luật THADS thông qua hình thức thông

báo về THA qua hệ thống truyền thanh cơ sở. Trong các cụm dân cư này hầu hết đã

có hệ thống loa truyền thanh công cộng. Đây được coi là phương tiện chủ yếu để đưa

chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với nhân

dân. Ngoài ra, hầu hết các đối tượng phải THA không có điều kiện thi hành bản án

đều đang sống chung trong một gia đình gồm nhiều thế hệ. Mối quan hệ gia đình có sự

gắn kết chặt chẽ như: quan hệ vợ chồng, con cái, bố mẹ, ông bà, anh chị em ruột. Hành

vi của mỗi cá nhân, gia đình thường bị chi phối bởi các quan điểm, quan niệm của dòng

họ; hương ước, quy ước của làng xóm. Việc thông báo THA không chỉ tác động đến

người phải THA mà còn tác động đến gia đình, dòng họ, làng xóm, các tổ chức đoàn

thể nơi họ hoặc người thân của họ đang sinh hoạt. Từ đó có sự động viên, hỗ trợ, giúp

đỡ người phải THA nhanh chóng thực hiện xong nghĩa vụ về THA, đặc biệt đối với loại

án có giá trị thấp. Điều này đồng nghĩa với việc giảm đáng kể lượng án và tiền tồn

- Hình thức tuyên truyền thứ hai dành cho đối tượng phải THA đang làm việc

đọng trên địa bàn quận.

ở cấp xã, phường hoặc các cơ quan nhà nước bằng phương pháp, lập danh sách và

trực tiếp làm việc với cấp ủy, chính quyền địa phương, thủ trưởng các cơ quan, đơn

vị, tổ chức mà người phải THA đang làm việc nhưng không tự nguyện thi hành. Qua

đó, sẽ tác động tích cực đến người phải THA tự giác chấp hành nhanh hơn. Thực tế,

vẫn có nhiều trường hợp người phải THA đang là cán bộ, công chức nhưng ý thức

tự giác chấp hành pháp luật còn hạn chế và thủ trưởng đơn vị, cơ quan, tổ chức nơi

người đó công tác cũng ngại va chạm, không tích cực để cùng phối hợp với cơ quan

THADS, CHV thuyết phục, vận động tự nguyện thi hành. Cũng có trường hợp sau

khi cơ quan THADS ra quyết định cưỡng chế trừ vào thu nhập lương của cán bộ,

công chức là người phải THA ở thực tế cũng khó khăn, gặp cản trở việc không thực

hiện theo yêu cầu của cơ quan THADS, CHV... Hình thức tuyên truyền bằng phương

pháp thông báo trực tiếp với cơ quan, đơn vị nơi người phải THA đang công tác, làm

việc là góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật hơn.

63

- Ngoài giải pháp tuyên truyền thông qua hình thức thông báo về THA qua hệ

thống truyền thanh cơ sở thì cũng cần quan tâm đến các hình thức tuyên truyền, phổ

biến, giáo dục pháp luật khác như: tuyên truyền trong trại cải tạo đối với các đối

tượng đang THA phạt tù, cần phổ biến cho họ nếu thi hành xong phần nghĩa vụ dân

sự thì được xem xét để giảm án, hoặc đặc xá; tuyên truyền thông qua sinh hoạt của

các tổ chức, đoàn thể; thông qua việc giáo dục, thuyết phục trực tiếp của cán bộ chính

quyền, đảng viên, cán bộ đoàn thể, hòa giải viên, tổ trưởng tổ dân phố, già làng,

trưởng bản và những người có uy tín trong cộng đồng dân cư nhằm tạo sự đồng thuận

trong cộng đồng dân cư; truyên truyền thông qua việc khai thác, sử dụng hiệu quả tủ

sách pháp luật ở xã, phường và đưa việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự vào

xét tiêu chuẩn gia đình văn hoá, thôn, bản văn hoá; thông qua các câu lạc bộ pháp

lý... nhằm mục đích cuối cùng là đưa pháp luật THADS đến với người dân để dân

hiểu và thực hiện.

3.2.3. Nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ, ý thức trách nhiệm và đạo đức

nghề nghiệp của cán bộ, công chức ngành thi hành án dân sự

Như Bác Hồ đã dạy, mọi chủ trương, chính sách dù hay, suy cho cùng việc thực

hiện vẫn do con người quyết định. Công tác THADS là loại công tác khó khăn và

phức tạp. Vì vậy, nó đòi hỏi người cán bộ, công chức ngành THADS phải vừa có

bản lĩnh chính trị vững vàng, vừa có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức nghề

nghiệp, có tinh thần trách nhiệm trong công việc, dũng cảm đấu tranh chống mọi

biểu hiện tiêu cực, bảo vệ chân lý, lẽ phải.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ công tác THADS trong tình hình mới, việc tiếp tục

củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức THADS nói chung, đội ngũ cán bộ,

công chức ở Chi cục THADS quận Cầu Giấy nói riêng là một yêu cầu, đòi hỏi cấp

thiết.

Trong thời gian tới, trước hết Cấp ủy, Chính quyền, Chi cục THADS quận Cầu

Giấy phải tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng,

tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, pháp luật THADS cho đội ngũ cán bộ công

chức và nhân dân quận Cầu Giấy. Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4

(khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về

64

tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”

trong nội bộ gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị

về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; biểu

dương, khen thưởng kịp thời đối với những tổ chức, cá nhân có thành tích trong công

tác THADS, trong đấu tranh phòng chống tham nhũng.

Cùng với tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, Chi cục THADS

quận Cầu Giấy cần đổi mới mạnh mẽ nhận thức về xây dựng, đào tạo đội ngũ cán

bộ công chức, phải nâng cao chất lượng cán bộ thông qua việc tiêu chuẩn hóa đội

ngũ CHV và các chức danh khác trong hoạt động THADS gắn với thực tiễn ở quận

Cầu Giấy.

Trước hết, đội ngũ cán bộ, công chức Chi cục THADS phải có bản lĩnh chính

trị vững vàng, luôn đặt lợi ích nhà nước và lợi ích nhân dân lên trên hết, nếu không

có được những phẩm chất đó, họ sẽ bị mua chuộc, sa ngã, không hoàn thành nhiệm

vụ hoặc thậm chí vi phạm pháp luật. Cùng với việc rèn luyện phẩm chất, đạo đức

nghề nghiệp, cán bộ, công chức THADS còn phải rèn luyện để nâng cao năng lực,

trình độ chuyên môn nghiệp vụ và nâng cao kĩ năng THADS. Ngoài những kỹ năng

tự rèn luyện, họ phải được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực THADS và có thời gian

thử thách trong thực tế hoạt động THADS. CHV phải coi trọng việc tự bồi dưỡng,

tự đào tạo ngay trong quá trình thực thi nhiệm vụ được giao, nhằm không ngừng

nâng cao kiến thức nghiệp vụ của bản thân.

Từ những yêu cầu đó, Chi cục THADS quận Cầu Giấy cần củng cố, kiện toàn

tổ chức bộ máy theo quy định của pháp luật nhằm xác định rõ vị trí việc làm trong

Chi cục THADS, đảm bảo về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng, tạo điều kiện

để thực hiện tốt chức năng tham mưu giúp lãnh đạo Chi cục, Cấp ủy và UBND quận

thực hiện tốt công tác THADS, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham

nhũng trong công tác quản lý, công tác THADS trên địa bàn.

Trên cơ sở bộ máy đã được xác định, Chi cục THADS quận Cầu Giấy cần rà

soát lại số cán bộ công chức hiện có để bố trí công việc cho từng người một cách

khách quan, hợp lý; thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng để đề nghị bổ nhiệm các

chức danh lãnh đạo quản lý, CHV và các chức danh khác theo quy hoạch được phê

65

duyệt đảm bảo đúng theo tiêu chuẩn, đúng quy trình, khách quan dân chủ, từng bước

thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, công chức THADS cho phù hợp với tình

hình thực tế của quận Cầu Giấy. Đổi mới công tác đánh giá cán bộ hàng năm, nâng

cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đánh giá trên cơ sở chú trọng đến kết quả,

hiệu quả công việc được giao, coi trọng công tác thi đua, khen thưởng, đề nghị khen

thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân có thành tích và đề nghị xử lý nghiêm các cá

nhân có vi phạm; coi việc sơ tổng kết hàng năm để chỉ rõ những tồn tại, hạn chế và

đề ra các biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác THA.

Đối với Chấp hành viên: Cần trau dồi, nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp

vụ, nắm vững các quy định của pháp luật về THADS và các văn bản pháp luật có

liên quan trong việc ban hành các quyết định và tổ chức THA; đề cao trách nhiệm

cá nhân trong thực thi công vụ để bảo đảm việc ra hoặc không ra các quyết định

THA, tổ chức hoặc không tổ chức thi hành các quyết định về THA luôn đúng quy

định pháp luật. Quá trình tổ chức THA, phải kịp thời báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo,

hướng dẫn nghiệp vụ đối với những vụ việc có khó khăn, vướng mắc phát sinh.

Trên cơ sở xem xét tính chất đặc thù của công tác THADS và thực trạng tình

hình đội ngũ cán bộ, công chức THADS hiện nay, chúng tôi tin Chi cục THADS

quận Cầu Giấy sẽ hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ quyền hạn do pháp luật quy

định, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội của quận Cầu Giấy.

3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp trong hoạt động thi hành án dân sự

Hoạt động THADS là hoạt động mang tính thực tiễn, xã hội rộng rãi, có thể nói

hầu hết các hoạt động THADS đều được triển khai trong thực tiễn và gắn bó chặt chẽ

với cơ sở. Đồng thời, hoạt động THADS liên quan trực tiếp đến tài sản của đương

sự, có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống người phải THA và gia đình, nên hoạt

động THADS có liên quan đến nhiều cơ quan nhà nước khác nhau như Tòa án, Viện

kiểm sát, Công an, Thuế, Tài chính, Tài nguyên Môi trường, Xây dựng, Ngân hàng, Kho

bạc, Bảo hiểm... và có tác động lớn đến tình hình an ninh chính trị của địa phương do

đó cần có sự phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa cơ quan THADS với các cơ quan

hữu quan trong việc thực hiện pháp luật THADS. Để tăng cường sự phối hợp giữa Chi

66

cục THADS quận Cầu Giấy với các cơ quan hữu quan trong hoạt động THADS, cần có

các giải pháp sau:

Cần tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Cấp uỷ, chính quyền các cấp đối với

công tác THADS. Trước hết, Thường trực Quận uỷ, Ban Chỉ đạo công tác THADS cần

duy trì tốt việc giao ban thường xuyên và định kỳ với các ngành nội chính để kịp thời

lãnh đạo công tác nội chính nói chung trong đó có công tác THADS. Kịp thời tháo gỡ

những khó khăn vướng mắc trong công tác phối hợp THADS. Sự quan tâm lãnh đạo

thường xuyên hơn nữa của Cấp uỷ Đảng nhằm mục đích cuối cùng là phát huy sức mạnh

tổng hợp giữa cấp uỷ, các cơ quan Nhà nước với các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị

- xã hội, đoàn thể trong việc thực hiện công tác THADS ở địa phương.

Ban chỉ đạo công tác THADS cần khẳng định vai trò của mình trong công tác

THADS. Tập trung chỉ đạo những vụ việc mang tính chất phức tạp, tồn đọng kéo dài

và các vụ án mang tính chất cưỡng chế có ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn xã

hội địa phương nhằm nâng cao hiệu quả của Ban chỉ đạo đối với công tác THADS.

Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc quận cần tăng cường hơn nữa giám sát chính

quyền, cơ quan THADS về công tác THADS. Định kỳ nghe ngành Tư pháp và cơ quan

THADS báo cáo công tác THADS, kịp thời có giải pháp chỉ đạo giải quyết những việc

THA khó khăn, phức tạp; tập hợp và báo cáo với Thành phố Hà Nội những kiến nghị

đề xuất đảm bảo tăng cường công tác THADS có hiệu quả.

UBND quận cần quan tâm, hỗ trợ tài chính từ nguồn ngân sách Nhà nước để hỗ

trợ cho cơ quan THADS trong những trường hợp chi phí cưỡng chế THA đối với đối

tượng có hoàn cảnh khó khăn không có khả năng để nộp tiền chi phí THA. Hoặc hỗ trợ

mua nhà thu nhập thấp, nhà ở xã hội cho những đối tượng sau khi cơ quan THADS thực

hiện biện pháp cưỡng chế giao nhà, chuyển giao quyền sử dụng đất theo án tuyên mà họ

không nhà ở, tài sản nào khác, để tạo điều kiện cho công dân đó có nơi nương tựa và

ổn định cuộc sống gia đình. Đó là biện pháp tháo gỡ những khó khăn nhất hiện nay

cho cơ quan THADS, CHV khi thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo quy định tại

Khoản 5, Điều 115 Luật THADS. Bên cạnh đó, Uỷ ban nhân dân quận cần tăng cường

chỉ đạo sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan, đoàn thể ở địa phương với cơ quan

67

THADS trong việc THA, thực hiện kịp thời việc chuyển dịch, đăng ký quyền sở hữu,

sử dụng tài sản THA theo quy định của pháp luật.

Viện kiểm sát nhân dân cần tăng cường hoạt động kiểm sát để hỗ trợ tích cực

về nghiệp vụ cho hoạt động THADS; đổi mới mạnh mẽ về phương thức tổ chức công

tác kiểm sát THADS; đặc biệt, trong việc tổ chức cưỡng chế THA, định giá tài sản,

tiêu hủy tang vật, phối hợp tốt với Chi cục THADS trong công tác đề nghị xét miễn,

giảm tiền phạt, án phí theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó Viện trưởng Viện

kiểm sát nhân dân và Thủ trưởng cơ quan THADS cần tăng cường việc phối hợp và

chỉ đạo các vụ việc phải cưỡng chế THADS để công tác THA và kiểm sát THA đạt

hiệu quả và chất lượng cao, phối hợp tốt trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về

THA.

Tòa án nhân dân quận cần thực hiện kịp thời việc chuyển giao bản án, quyết

định có hiệu lực cho Chi cục THADS để cơ quan THADS tiếp nhận, thụ lý, đưa bản

án, quyết định ra thi hành theo đúng quy định của pháp luật. Tòa án kịp thời ra văn

bản giải thích, đính chính, tháo gỡ trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án

tuyên không rõ ràng, có sai sót về số liệu để giải quyết những tồn tại, vướng mắc

trong quá trình tổ chức THA; phối hợp tốt với Chi cục THADS trong việc xét miễn,

giảm nghĩa vụ THADS theo quy định.

Công an quận thường xuyên tham gia phối hợp chặt chẽ với Chi cục THADS

khi có yêu cầu bảo vệ cưỡng chế THA hoặc xác minh nhân thân của người phải THA.

Trước khi tham gia bảo vệ, lãnh đạo công an cử lực lượng tiến hành khảo sát địa bàn

cưỡng chế, lập kế hoạch bảo vệ cưỡng chế phù hợp với đặc điểm, tình hình, từng đối

tượng và từng vụ việc cụ thể. Cần làm tốt công tác chuẩn bị để các vụ việc cưỡng

chế kịp thời ngăn chặn và làm hạn chế hành vi chống đối của đương sự đối với người

thi hành công vụ, bảo vệ an toàn tính mạng của những người tham gia cưỡng chế và

các tài sản có liên quan đến việc THADS.

Cơ quan chuyên môn như Phòng Tài chính, Phòng Tài nguyên và Môi trường,

Phòng Quản lý Đô thị, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai, Ngân hàng và các tổ

chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước, Bảo hiểm xã hội,… trong phạm vi chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn của mình tạo điều kiện thuận lợi giúp cho cơ quan THADS

68

hoàn thành nhiệm vụ, như: Cử người tham gia cưỡng chế, kê biên, định giá tài sản

để THA, lập thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản, xác nhận quyền sở hữu tài sản,

cung cấp kịp thời thông tin liên quan đến tài sản, tài khoản, tài sản thế chấp và số nợ

vay cả gốc và lãi theo yêu cầu của CHV và cơ quan THADS.

Chính quyền địa phương, từ UBND các phường cho đến tổ dân phố thực hiện

các thủ tục về THA, như: phối hợp trong việc giao các văn bản, giấy tờ về THA, xác

minh điều kiện THA, áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế và các

nhiệm vụ khác trên địa bàn.

3.2.5 Hoàn thiện chế độ, chính sách khen thưởng đối với cán bộ, công chức

ngành thi hành án dân sự; ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những vi phạm trong

hoạt động thi hành án dân sự

3.2.5.1. Hoàn thiện chế độ, chính sách khen thưởng đối với cán bộ, công chức

ngành thi hành án dân sự

Quá trình xây dựng và phát triển của pháp luật nước ta xuất phát từ Tư tưởng

Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

công tác thi đua, khen thưởng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Hễ là người Việt

Nam yêu nước thì phải thi đua, thi đua là yêu nước. Thi đua là một cách yêu nước

thiết thực nhất. Thi đua vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của mỗi cán bộ, công

chức. Công tác thi đua khen thưởng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thúc

đẩy, tạo nên động lực, khí thế để cán bộ, công chức nói chung và cán cộ, công chức,

các cơ quan THADS nói riêng nỗ lực, quyết tâm hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ

được giao. Chính vì vậy, có thể xem đây là “Công cụ” cơ bản nhằm tạo “Đòn bẩy”

cơ bản để đẩy nhanh tiến độ giải quyết án, nâng cao chất lượng, tỷ lệ THADS xong,

hoàn thành các chỉ tiêu Cấp trên giao hàng năm. Để làm được điều đó, Ngành

THADS nói chung và Chi cục THADS quận Cầu Giấy nói riêng cần làm tốt công

tác thi đua khen thưởng, cụ thể:

Phải đảm bảo công tác thi đua khen thưởng thật sự mang tính thực chất, biểu

dương, ghi nhận những tập thể, cá nhân đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, đạt được nhiều

thành tích quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ, đồng thời cần nghiêm khắc phê

bình, xử lý kỷ luật bằng hình thức thích hợp những đơn vị, cá nhân chưa làm tốt vai

69

trò của mình, chưa phát huy tốt tinh thần trách nhiệm dẫn đến án tồn đọng, kéo dài,

làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự, khiến dư luận bức xúc nảy

sinh khiếu kiện, khiếu nại về THADS;

Căn cứ nội dung thi đua được phát động và chức năng, nhiệm vụ được giao,

đơn vị tổ chức phát động phong trào thi đua, ký giao ước, đăng ký thi đua… trong

toàn thể cán bộ công chức. Đưa chỉ tiêu “Nâng cao chất lượng, tỷ lệ thi hành án dân

sự xong” đạt hiệu quả, trở thành tiêu chí quan trọng để bình xét thi đua khen thưởng

cuối năm nhằm tạo động lực thúc đẩy cán bộ, công chức Chi cục THADS nỗ lực, cố

gắng hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ được giao;

Tổ chức phát động phong trào thi đua theo từng giai đoạn cụ thể, mỗi năm có

thể tổ chức từ 1 - 2 đợt thi đua cao điểm để góp phần tạo nên những hiệu ứng tốt về

tư tưởng, tinh thần, đẩy nhanh kết quả giải quyết án, phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu.

Trên cơ sở đó đề nghị Tổng cục THADS, Cục THADS thành phố Hà Nội cần chú

trọng biểu dương, khen thưởng, nhân rộng những điển hỉnh tiên tiến, những cách

làm hay để các đơn vị học tập, noi theo, đồng thời nên xây dựng danh hiệu “Lá cờ

đầu” theo từng năm để các đơn vị cố gắng phấn đấu đạt được danh hiệu này. Động

lực thi đua sẽ là yếu tố thúc đẩy hết sức cơ bản để hoạt động THADS đạt được kết

quả mong đợi.

3.2.5.2. Ngăn chặn và xử lý nghiêm minh những vi phạm trong hoạt động thi

hành án dân sự

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương,

đường lối, chính sách về tăng cường cải cách tư pháp, không ngừng xây dựng và

hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật xử lý vi phạm trong

THADS. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật cũng được chú trọng và góp phần

bảo đảm chất lượng và hiệu quả trong hoạt động THADS. Thời gian qua, Thủ tướng

chỉ thị Bộ Tư pháp xác định rõ định hướng phát triển hoạt động THADS phải gắn

liền với nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt các yêu cầu, nhiệm vụ để

thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy cho người dân, doanh nghiệp.

Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Trách

nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 và sửa đổi bổ sung năm 2017. Đối với

70

hoạt động THADS, bồi thường nhà nước là trách nhiệm bồi thường từ phía Nhà nước

đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của công chức cơ quan

THADS gây ra trong khi thi hành công vụ. Theo đó, Bộ Tư pháp yêu cầu người đứng

đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị gương mẫu thực hiện nghiêm các quy định về quyền và

nghĩa vụ của công chức, viên chức lãnh đạo, quản lý đã được quy định tại Luật cán

bộ, công chức và tại Nghị định số 157/2007/NĐ-CP ngày 27/10/2007 của Chính phủ

quy định chế độ trách nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị của

Nhà nước trong thi hành công vụ. Người đứng đầu phải là tấm gương sáng về phẩm

chất đạo đức, lối sống “cần, kiệm, liêm, chính”, “chí công vô tư”, thực hành tiết

kiệm, chống lãng phí và thực hiện tốt quy chế dân chủ, đồng thời thực hiện công

khai, minh bạch trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ. Giải pháp cần có trong

việc ngăn chặn và xử lý nghiêm những vi phạm trong hoạt động THADS là:

Tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân tham

gia đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật. Đảm bảo thực hiện đủ các

giải pháp đồng bộ để phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm theo hướng tăng

cường công khai, minh bạch; trách nhiệm đi đôi với khen thưởng; đồng thời có biện

pháp ngăn chặn và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm. Bên cạnh đó, thường

xuyên kiểm tra, đôn đốc thực hiện quy định về trách nhiệm của cán bộ, công chức,

nhất là người đứng đầu đối với công tác phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật.

Đối với mỗi cán bộ, công chức, viên chức cần tích cực đấu tranh phòng, chống

vi phạm pháp luật và tội phạm, đặc biệt là phòng, chống tham nhũng. Nâng cao ý

thức trách nhiệm, tận tâm, tận tụy trong công việc, giải quyết nhanh chóng, kịp thời

yêu cầu chính đáng của tổ chức, công dân. Không được kéo dài thời gian giải quyết

hoặc hách dịch, cửa quyền, tự ý đặt ra quy định trái pháp luật, trái với quy định của

cấp có thẩm quyền để gây khó khăn, phiền hà, nhũng nhiễu nhân dân và các cơ quan,

tổ chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ.

Đối với lãnh đạo Chi cục THADS: Chi cục trưởng cần kịp thời phát hiện, ngăn

chặn, xử lý nghiêm minh những trường hợp cán bộ, công chức trong cơ quan THADS

vi phạm pháp luật, đặc biệt là các vụ việc liên quan đến tham nhũng; cần nhận thức

rõ tầm quan trọng trong việc ban hành quyết định THA để phân công cán bộ tiếp

71

nhận bản án, cán bộ ra quyết định có trình độ về pháp luật, có kinh nghiệm và biết

cập nhận những quy định mới của pháp luật có liên quan đến việc ban hành quyết

định thi hành án; Phân công cán bộ phụ trách tiếp nhận các kết luận, kháng nghị, kiến

nghị và theo dõi việc khắc phục để thường xuyên báo cáo lãnh đạo.

Chi cục THADS cần chủ động trong việc tổ chức thực hiện kết luận, trả lời các

kiến nghị, kháng nghị của Viện Kiểm sát đối với cơ quan THADS. Đồng thời tự giám

sát việc khắc phục tại đơn vị mình, nhất là đối với CHV, cán bộ, công chức để xảy

ra nhiều sai phạm hoặc những sai phạm mang tính chủ quan, do yếu kém về chuyên

môn nghiệp vụ. Qua đó thực hiện việc khắc phục những kiến nghị, kháng nghị được

triệt để hơn. Bên cạnh đó, Chi cục trưởng cần phổ biến, quán triệt sâu rộng đến toàn

thể CHV, cán bộ công chức làm công tác THADS về những sai phạm, sai sót đã được

chỉ ra tại các kiến nghị, kháng nghị đối với công tác THADS ở địa bàn mình, cũng

như về những sai phạm thường gặp ở địa bàn khác đã được tổng hợp để các CHV,

cán bộ công chức nắm được, tránh vi phạm tương tự lặp lại trên địa bàn. Nơi nào đã

được chỉ ra sai phạm mà không khắc phục, còn lặp lại vi phạm hoặc vi phạm nặng

hơn thì sẽ bị xem xét trách nhiệm một cách nghiêm túc.

Kịp thời hướng dẫn, chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, giải quyết dứt điểm

các vụ việc có điều kiện THA, đặc biệt là các vụ việc trọng điểm, giá trị lớn, phức

tạp; các vụ việc liên quan đến tín dụng, ngân hàng và các vụ án về tham nhũng; chỉ

đạo việc tổ chức cưỡng chế giao tài sản cho người mua trúng đấu giá. Tăng cường

công tác kiểm tra theo thẩm quyền, kịp thời phát hiện, khắc phục và hạn chế đến mức

thấp nhất các vi phạm pháp luật trong hoạt động THADS, nhất là vi phạm trong kê

biên, xử lý tài sản để thi hành án. Giảm đến mức thấp nhất các vụ việc liên quan đến

trách nhiệm bồi thường nhà nước, bảo đảm tài chính và các vụ việc đấu giá thành

nhưng chưa giao được tài sản. Xử lý thật nghiêm các trường hợp tham nhũng, tiêu

cực, vi phạm pháp luật.

72

Tiểu kết chương 3

Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, của Bộ Tư pháp và các cơ quan, tổ chức trong

và ngoài nước, hệ thống cơ quan THADS đã trở thành một phần quan trọng trong tổ

chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam và là lực lượng không thể thiếu của

hệ thống thực thi pháp luật, đội ngũ người làm công tác THADS ngày càng lớn mạnh,

chuyên nghiệp, với các chức danh Tư pháp độc lập và có hệ thống ngành dọc từ Trung

ương đến địa phương theo yêu cầu của công cuộc cải cách Tư pháp. Vị thế của các cơ

quan THADS đã được nâng lên, công tác THADS ngày càng chuyển biến rõ rệt, hiệu

quả công tác THADS ngày càng được nâng cao và đi vào ổn định.

Để các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động THADS tại quận Cầu Giấy, thành

phố Hà Nội được triển khai, thực hiện trên thực tế đạt hiệu quả cao như tác giả đã đề

cập, thì một yếu tố mang tính then chốt, đó là phải luôn nhận được sự quan tâm lãnh

đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của cấp ủy Đảng, của Cục THADS, của Quận ủy,

UBND và Ban chỉ đạo THADS quận Cầu Giấy; đảm bảo các quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự, quyền con người, quyền công dân theo yêu cầu của việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền XHCN; gắn với công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư

pháp, đảm bảo tính đồng bộ giữa tổ chức và hoạt động THADS theo tinh thần chiến

lược cải cách tư pháp tại Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.

Hy vọng với các giải pháp mà tác giả đưa ra sẽ cơ bản khắc phục được những

tồn tại, hạn chế trong hoạt động THADS tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội mà

còn có giá trị cho các địa phương trên phạm vi toàn quốc tham khảo.

73

KẾT LUẬN

Trên cơ sở nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự từ

thực tiễn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội”, tác giả luận văn xin đưa ra một số

kết luận như sau:

1. Hoạt động THADS là một trong những hoạt động tư pháp của Nhà nước do

Cơ quan THADS trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự của Tòa

án theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục được pháp luật về THADS quy định nhằm đảm

bảo cho các bản án, quyết định được thực hiện trên thực tế, bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước; hoạt động THADS phải gắn liền với

nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, thực hiện tốt các yêu cầu, nhiệm vụ để thực sự

trở thành chỗ dựa tin cậy cho người dân, doanh nghiệp.

2. Chi cục THADS quận Cầu Giấy là cơ quan trực thuộc Cục THADS thành

phố Hà Nội có nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định theo quy

định Luật THADS, có nhiệm vụ giúp Cục trưởng Cục THADS thành phố Hà Nội

quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan THADS địa phương và thực

hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

3. Với sự ra đời của Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS và các văn bản hướng

dẫn thi hành, cơ quan THADS đã có tên gọi mới phù hợp với vị trí, vai trò của mình

trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Chức năng của cơ quan THADS đã được quy

định cụ thể. Bên cạnh đó, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan THADS cấp quận cũng

có nhiều điểm mới quan trọng, phù hợp với tổ chức và hoạt động của Cơ quan

THADS cấp quận. Ngoài ra, Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS còn có nhiều quy

định mới về trình tự, thủ tục THADS, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động

THADS… Sau gần sáu năm thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung Luật THADS, bên cạnh

những kết quả đã đạt được, tổ chức và hoạt động THADS tại quận Cầu Giấy còn có

những tồn tại, hạn chế nhất định. Những tồn tại, hạn chế này do nhiều nguyên nhân

khác nhau, bao gồm cả những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan,

trong đó có nguyên nhân do bất cập của các quy định pháp luật về THADS và pháp

luật có liên quan đến hoạt động THADS...

74

4. Để nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động THADS, nâng cao hiệu lực quản

lý Nhà nước, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật theo bản án, quyết định thì

việc hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan THADS nói chung và Chi cục

THADS quận Cầu Giấy nói riêng là một yêu cầu cấp thiết.

Luận văn đã khái quát được tổ chức và hoạt động THADS tại quận Cầu Giấy

trong thời gian vừa qua, những giải pháp mà tác giả đưa ra có thể chưa khái quát

được toàn diện trên phương diện toàn quốc nhưng có ý nghĩa cả về lý luận và thực

tiễn tổ chức và hoạt động THADS tại quận Cầu Giấy. Từ đó, tác giả đưa ra một số

kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về THADS và các phương

hướng, giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động THADS tại

quận Cầu Giấy nói riêng và trên phạm vi cả nước nói chung trong thời gian tới.

Mặc dù tác giả đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện luận văn này. Tuy nhiên

do kiến thức còn hạn chế, kinh nghiệm hoạt động thực tiễn chưa nhiều, phạm vi địa

phương và tài liệu nghiên cứu còn hạn hẹp, hạn chế về thời gian nghiên cứu…Do

đó, luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định. Tác giả rất

mong muốn nhận được ý kiến đánh giá, góp ý quý báu của quý Thầy, Cô để tiếp thu

những kinh nghiệm, khắc phục, sửa chữa những hạn chế, thiếu sót cho những công

trình nghiên cứu sau này.

75