BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VĂN TUẤN

QUYỀN KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN VĂN TUẤN

QUYỀN KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 60 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN QUANG THÁI

THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên là Nguyễn Văn Tuấn, tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ chuyên

ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính là công trình nghiên cứu khoa học

độc lập, do tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả được nêu trong luận văn có

nguồn gốc rõ ràng, xác thực và luận văn này chưa được ai công bố trong bất

kỳ một công trình nghiên cứu nào khác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời

cam đoan của mình.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018

Học viên

Nguyễn Văn Tuấn

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành chương trình đào tạo thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật

Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc gia, bên cạnh sự nổ lực của bản

thân, tôi đã nhận được sự động viên, hướng dẫn, giảng dạy và nhiều ý kiến

đóng góp quý báu của các thầy giáo, cô giáo Khoa sau đại học – Học viện

Hành chính Quốc gia cũng như gia đình, bạn bè trong suốt quá trình học tập

nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tôi chân thành cảm ơn các anh, chị lãnh đạo, đồng nghiệp tại các cơ

quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi

hoàn thành khóa học. Đặc biệt, tôi vô cùng biết ơn TS. Nguyễn Quang Thái

đã giành nhiều thời gian hướng dẫn nhiệt tình trong suốt quá trình nghiên

cứu và hoàn thành luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn và mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý

thầy cô giáo và bạn bè để luận văn này hoàn thiện hơn.

Học viên

Nguyễn Văn Tuấn

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục ký hiệu các chữ viết tắt

Danh mục các bảng, số liệu

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN

KHIẾU NẠI THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA TỈNH ........................ 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền khiếu nại THADS trên địa bàn tỉnh ........... 7

1.2. Các yếu tố cấu thành quyền khiếu nại THADS trên địa bàn tỉnh ........... 14

1.3. Các yếu tố bảo đảm quyền khiếu nại trong THADS .............................. 29

Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 36

Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN KHIẾU NẠI VỀ THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH ................................................................. 37

2.1. Tình hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan THADS có liên quan trực

tiếp tới thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh

Quảng Bình .................................................................................................. 37

2.2. Kết quả và hạn chế; nguyên nhân của hạn chế thực hiện quyền khiếu nại

về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình .................................. 44

Tiểu kết chương 2......................................................................................... 83

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN

QUYỀN KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN

CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH .. Error!

Bookmark not defined.

3.1. Quan điểm ............................................................................................. 85

3.2. Giải pháp ............................................................................................... 90

Tiểu kết chương 3....................................................................................... 104

KẾT LUẬN ............................................................................................... 105

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

THADS : Thi hành án dân sự

TAND : Tòa án nhân dân

UBND : Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU

Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân THADS về việc của các cơ quan THADS

tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2013 - 2017 .................................................... 40

Bảng 2.2: Kết quả THADS về tiền của các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình

giai đoạn từ 2013 - 2017 ............................................................................... 41

Bảng 2.3. Số liệu đơn thư khiếu nại, tố cáo và kết quả giải quyết của các cơ

quan THADS tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2013 - 2017 ............................. 41

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trải qua lịch sử đấu tranh, xây dựng và phát triển đất nước của dân tộc

ta, gắn với mỗi giai đoạn lịch sử là sự ra đời các bản Hiến pháp 1946, 1959,

1980, 1992 và 2013. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, các bản Hiến pháp đã ghi

dấu lại sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở nhận thức pháp

lý ngày càng sâu sắc và thực hiện công ước quốc tế về quyền con người mà

Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Hiến pháp 2013 một lần nữa lại khẳng

định việc thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người một cách mạnh

mẽ, rõ ràng và hiện đại nhất.

Một trong những nội dung quan trọng của Hiến pháp 2013 là tiếp tục

phát huy dân chủ, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công

dân, trong đó có vấn đề khiếu nại. Đây là quyền cơ bản của công dân được

Hiến pháp ghi nhận. Giải quyết khiếu nại là một lĩnh vực hết sức quan trọng

trong hệ thống quản lý nhà nước và điều hành xã hội. Thực hiện tốt công tác

giải quyết khiếu nại của nhân dân sẽ củng cố và tăng cường niềm tin của nhân

dân vào chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà

nước, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự (THADS), đây là hoạt động phức

tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, trực tiếp ảnh hưởng

đến quyền cơ bản của con người (như quyền về tài sản, nhân thân của các bên

đương sự và những người có liên quan). Việc tổ chức thi hành bản án, quyết

định của Tòa án sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ

về tài sản của các bên đương sự. Do tính chất công việc phức tạp nên khiếu

nại trong quá trình tổ chức THADS là điều khó trách khỏi. Trong các giai

đoạn tố tụng, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành điều tra, truy tố và

1

xét xử công minh, khách quan, đúng pháp luật, kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán

tài sản của đương sự, thì quá trình thi hành án sẽ thuận lợi, hạn chế được rất

nhiều việc khiếu nại của các bên đương sự và người có liên quan. Tuy nhiên,

thực tiễn cho thấy nhiều đương sự có điều kiện thi hành án nhưng vẫn cố tình

chây ỳ, không tự nguyện thi hành án, thậm chí có trường hợp còn chống đối

quyết liệt hoặc lợi dụng quyền tự do dân chủ của công dân làm đơn khiếu nại

không đúng, khiếu nại vượt cấp nhằm để trì hoãn việc thi hành án. Nhiều

trường hợp khiếu nại, cơ quan THADS đã giải quyết khiếu nại hết thẩm

quyền nhưng các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại gửi đến nhiều ngành, nhiều

cấp, thậm chí có trường hợp còn tổ chức tụ tập đông người, kéo đến các cơ

quan Đảng, nhà nước, gây rối trật tự, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình

thường của cơ quan, đơn vị hoặc ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội ở địa phương. Bên cạnh đó, vẫn còn có những trường hợp cá

nhân, tổ chức có thẩm quyền không quan tâm, chú trọng đến công tác giải

quyết khiếu nại trong THADS, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp

của các bên.

Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại

nên thời gian qua, Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, các cơ quan THADS địa

phương đã quan tâm, chú trọng đối với việc giải quyết khiếu nại thi hành án,

xem công tác giải quyết khiếu nại là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác thi

hành án dân sự.

Đối với tỉnh Quảng Bình, thời gian qua công tác giải quyết khiếu nại về

THADS trên địa bàn tỉnh đã thu được những kết quả nhất định, góp phần giải

quyết những quyền và lợi ích chính đáng của công dân liên quan đến quá trình

THADS. Tuy nhiên, so với yêu cầu thì công tác này vẫn còn có những hạn

chế, bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của công tác THADS trong tình hình

mới, một số cơ quan THADS chưa coi trọng công tác giải quyết khiếu nại còn

2

đùn đẩy, né tránh; việc phân công, bố trí người làm công tác tham mưu giải

quyết khiếu nại còn chưa tương xứng; có nơi việc giải quyết khiếu nại còn

chậm, thiếu chặt chẽ làm cho đương sự bức xúc khiếu nại nhiều lần, vượt cấp.

Tất cả những vấn đề nêu trên cho thấy cần phải nghiên cứu một cách toàn

diện cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại về

THADS là rất cần thiết. Qua đó, thấy được cơ sở lý luận, thực trạng tình hình

giải quyết khiếu nại thời gian qua với những bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra

những giải pháp để điều chỉnh cho phù hợp nhằm đảm bảo quyền công dân

trong thực hiện quyền khiếu nại về THADS. Với tính cấp thiết đó, tác giả

chọn đề tài “Quyền khiếu nại về thi hành án dân sự - Từ thực tiễn các cơ

quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình” làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn

Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác

THADS, đã có nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến

công tác THADS. Cụ thể là:

- Hoàng Thế Anh (2013), Giám sát thi hành án dân sự, mã số 62380101,

Luận án Tiến sĩ Luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội.

- Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại tại

Tổng cục Thi hành án dân sự” của tác giả Lê Thị Kim Dung, năm 2009.

- Luận văn thạc sĩ “Khiếu nại và giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của

Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Công Toàn, năm 2012.

- Luận văn thạc sĩ “Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân

sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Tuấn, năm 2016.

- Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt

động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học – Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

3

- Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự

ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học – Học viện Chính trị - Hành

chính quốc gia Hồ Chí Minh.

Ngoài ra, còn nhiều nghiên cứu khác được đăng trên các tạp chí Dân chủ

và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên,

chưa có công trình nghiên cứu trực tiếp nào về đề tài “Quyền khiếu nại về thi

hành án dân sự - Từ thực tiễn các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng

Bình”.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích:

- Mục đích nghiên cứu của luận văn là hệ thống hóa được những vấn đề

lý luận và pháp lý về quyền khiếu nại về THADS.

- Nhận diện được những hạn chế, vướng mắc trong hệ thống pháp luật

khiếu nại cũng như thực hiện quyền khiếu nại về THADS – Từ thực tiễn các

cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình.

- Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật khiếu nại về THADS,

đảm bảo quyền khiếu nại về THADS nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, ổn

định trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế của địa phương.

3.2. Nhiệm vụ:

- Làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý đối với quyền khiếu nại về thi

hành án dân sự.

- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quyền khiếu nại về THADS –

Từ thực tiễn các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình.

- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật

khiếu nại và thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại các cơ quan THADS

tỉnh Quảng Bình.

4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền

khiếu nại về THADS; thực tiễn thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại các

cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình thông qua thủ tục khiếu nại và giải quyết

khiếu nại về THADS.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý quy định quyền

khiếu nại về THADS; thực tiễn thực hiện quyền khiếu nại về THADS của các

bên đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được ấn định trong

bản án, quyết định của Tòa án phát sinh trong quá trình tổ chức THADS tại

các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình gồm: Cục THADS tỉnh Quảng Bình và

08 Chi cục THADS các huyện, thị xã, thành phố trực thuộc Cục THADS tỉnh

Quảng Bình.

- Thời gian: Giai đoạn từ năm 2013 - 2017 (5 năm).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

- Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của

chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;

quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và

pháp luật; kế thừa có chọn lọc của các công trình khoa học đã được công bố.

- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn

đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp

phân tích được áp dụng khi xem xét quy định của các văn bản pháp luật về

quyền khiếu nại; quy trình thực hiện giải quyết khiếu nại của cá nhân, tổ chức

có thẩm quyền thông qua thủ tục giải quyết khiếu nại về THADS.

Phương pháp thống kê, tác giả đã sử dụng khi tìm hiểu, đánh giá số

lượng đơn thư khiếu nại, nguyên nhân phát sinh đơn thư khiếu nại, các yếu tố

5

bảo đảm việc thực hiện quyền khiếu nại và kết quả giải quyết đơn khiếu nại.

Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các phương pháp so sánh, phương

pháp lịch sử, phương pháp lôgic và phương pháp bình luận khi xem xét, đánh

giá vụ việc khiếu nại phát sinh trong thực tiễn công tác.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài hệ thống hóa cơ sở khoa học về quyền khiếu nại; nêu rõ vấn đề lý

luận và pháp lý cơ bản về quyền khiếu nại về THADS để làm cơ sở đi đến

nghiên cứu thực trạng thực hiện quyền khiếu nại về THADS – Từ thực tiễn

các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề tài đánh giá thực trạng thực hiện quyền khiếu nại về THADS – Từ

thực tiễn các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình, những kết quả đạt được, hạn

chế và nguyên nhân của hạn chế, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp và kiến

nghị để hoàn thiện pháp luật khiếu nại về THADS nói chung và quyền khiếu

nại về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình nói riêng.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ

lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền khiếu nại về

THADS trên địa bàn cấp tỉnh.

Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại các cơ

quan THADS tỉnh Quảng Bình.

Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại

về THADS – Từ thực tiễn các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN KHIẾU NẠI

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền khiếu nại về thi hành án dân sự

trên địa bàn tỉnh

1.1.1. Khái niệm quyền khiếu nại về thi hành án dân sự

Để làm rõ khái niệm quyền khiếu nại về THADS, trước hết cần phải làm

rõ khái niệm: Khiếu nại, quyền khiếu nại, án dân sự, thi hành án dân sự, khiếu

nại về THADS là gì.

Khiếu nại theo tiếng Latinh là: "Complain" có nghĩa là phàn nàn, kêu

nài, thưa kiện, phản ứng, bất bình của người nào đó về vấn đề có liên quan

đến lợi ích của mình. [34, tr.205]

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, khiếu nại là thắc mắc, đề nghị xem xét lại

những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã làm. [30, tr.904]

Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến

pháp, pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Đó là hiện tượng phát sinh

trong đời sống xã hội như là một phản ứng của con người trước một quyết

định, một hành vi nào đó mà người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi

đó là không phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng,

xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Điều 30 Hiến pháp 2013 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

quy định rõ:

“1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân

có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá

nhân.

7

2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết

khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất,

tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.

3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền

khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”.

Việc ghi nhận quyền khiếu nại của công dân trong Hiến pháp 2013 đã

tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền cơ bản của mình. Và thông

qua việc thực hiện quyền này, công dân đã góp phần tích cực vào hoạt động

quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.

Theo khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011 quy định: “ Khiếu nại là

việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ công chức theo thủ tục do Luật

này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại

quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ,

công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp

luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.[25, tr.1]

Như vậy, khiếu nại là đề nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động

trực tiếp bởi quyết định hành chính hay hành vi hành chính hoặc đề nghị của

cán bộ công chức chịu tác động trực tiếp của quyết định kỷ luật đối với cơ

quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Đề nghị này

xuất phát từ nhận thức chủ quan của người khiếu nại cho rằng quyền và lợi

ích chính đáng của mình bị xâm phạm. Cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể kết

luận có vi phạm hay không sau khi đã xem xét một cách khách quan và thận

trọng nội dung vụ việc với điều kiện được cung cấp đầy đủ tài liệu có liên

quan. Do đó, một mặt của khiếu nại là hình thức phản ứng tích cực của công

dân, cơ quan, tổ chức với những hiện tượng vi phạm các quyền và lợi ích

được pháp luật bảo vệ; mặt khác, khiếu nại là biện pháp ngăn chặn và loại trừ

vi phạm.

8

Trong quá trình tổ chức THADS, hoạt động của cơ quan THADS trực

tiếp tác động đến người được thi hành án, người phải thi hành án và người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giáo dục, thuyết phục họ tự nguyện thực hiện

các nghĩa vụ theo nội dung bản án, quyết định hoặc cưỡng chế buộc họ thực

hiện các nghĩa vụ đó nên họat động thi hành án nói chung và hoạt động thi

hành án dân sự nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với toàn bộ quá

trình giải quyết vụ án. Bởi vì, bản án, quyết định chỉ có ý nghĩa khi bản án án,

quyết định đó được thi hành trên thực tiễn, khi đó quyền và lợi ích hợp pháp

của các đương sự vì thế cũng được bảo vệ một cách trọn vẹn, đầy đủ hơn, góp

phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự có đề cập đến vụ án dân

sự là các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,

thương mại, lao động được gọi chung là vụ án dân sự. Có thể hiểu một cách

đơn giản, án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà theo quy

định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì cá nhân, tổ chức tự mình hoặc thông qua

người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm: Thi hành án dân sự là việc tổ chức thi

hành các bản án, quyết định được đưa ra thi hành theo quy định của các cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân cơ quan, tổ chức. [24, tr.2]

Hoạt động THADS là một vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp

đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, đến trật tự kỷ cương

pháp luật và ảnh hưởng sâu sắc đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,

hay nói rộng hơn là quyền dân sự cơ bản của con người, như quyền về tài sản,

quyền được lao động, quyền tự do, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm

[29, tr.65].

9

Hoạt động THADS trực tiếp tác động đến các quyền và lợi ích không

những của người phải thi hành án mà cả người được thi hành án và người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét về mặt tâm lý, mặc dù nghĩa vụ phải thi

hành các khoản về tiền, tài sản đã được xác định rõ trong bản án, quyết định

của Tòa án nhưng người phải thi hành án luôn có tâm lý không muốn thi

hành, thi hành không đầy đủ hoặc dây dưa kéo dài việc thi hành án. Còn

người được thi hành án thì luôn mong muốn được nhận tiền, tài sản càng sớm

càng tốt, bất cứ một hành vi hay quyết định nào của cơ quan THADS, Chấp

hành viên làm chậm quá trình được nhận tiền, tài sản hoặc khiến họ chỉ được

nhận tiền, tài sản ít hơn so với họ mong đợi đều dẫn đến tâm lý cho rằng cơ

quan THADS và Chấp hành viên làm trái pháp luật hoặc bênh vực phía người

phải thi hành án.

Bên cạnh đó, hoạt động THADS là hoạt động mang tính quyền lực nhà

nước nên trong quá trình tổ chức thi hành án có thể xảy ra hiện tượng cơ quan

THADS và Chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án lạm dụng quyền

hành, áp đặt ý chí một cách trái pháp luật lên các chủ thể, hoặc do nhận thức

hạn chế mà áp dụng sai pháp luật, tổ chức thi hành sai bản án dẫn đến lợi ích

của nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, công dân bị xâm phạm.

Từ những phân tích nêu trên, khái niệm khiếu nại về THADS có thể hiểu

như sau: Khiếu nại về THADS là việc đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan đến việc thi hành án đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại quyết

định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên khi có căn cứ

cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích

hợp pháp của mình.

Về khái niệm quyền khiếu nại về THADS: Luật Thi hành án dân sự

không đưa ra khái niệm cụ thể về quyền khiếu nại, tuy nhiên, tại khoản 1 Điều

140 Luật THADS có nêu: “Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

10

có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan

THADS, Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là

trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. [24, tr.146].

Từ quy định này có thể hiểu quyền khiếu nại về THADS là đề nghị của

cá nhân, cơ quan, tổ chức chịu tác động trực tiếp của quyết định, hành vi của

Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên, vì cho rằng quyết định, hành vi

đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Chủ thể của quyền khiếu nại trong THADS gồm người được thi hành án,

người phải thi hành án (đương sự) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người đã được xác định

trong bản án hoặc người chịu sự tác động trực tiếp bởi các quyết định, hành vi

trong THADS. Do vậy, những người không có liên quan đến việc thi hành

bản án, quyết định không có quyền khiếu nại.

1.1.2. Đặc điểm của quyền khiếu nại về thi hành án dân sự

Thứ nhất, khiếu nại về THADS là quyền của công dân mà cụ thể là

quyền của các đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được ấn định

trong bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan tài phán khác khi họ là

người được thi hành án, người phải thi hành án hay là người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án của các bên đương sự. Mục đích của

khiếu nại là bảo vệ và khôi phục lại quyền và lợi ích của người khiếu nại đã bị

quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên xâm

hại. Mặt khác, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của bộ

máy quản lý nhà nước. Nhà nước luôn bảo đảm quyền công dân, việc tiếp

nhận và giải quyết các thắc mắc, kiến nghị, các khiếu nại của người dân từ rất

lâu đã được Nhà nước Việt Nam quan tâm và luôn coi đó là một trong những

nhiệm vụ quan trọng của bộ máy nhà nước.

11

Thứ hai, khiếu nại về THADS là việc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu

cơ quan có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính

mà quyết định, hành vi đó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp

pháp của họ.

Như vậy, khiếu nại là đề nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động

trực tiếp bởi quyết định hành chính hay hành vi hành chính. Đề nghị này xuất

phát từ nhận thức chủ quan của người khiếu nại cho rằng quyền và lợi ích

chính đáng của mình bị xâm phạm. Do đó, một mặt, khiếu nại là hình thức

phản ứng tích cực của công dân, cơ quan, tổ chức với những hiện tượng vi

phạm các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ; mặt khác, khiếu nại là biện

pháp ngăn chặn và loại trừ vi phạm.

Thứ ba, chủ thể thực hiện quyền khiếu nại về THADS là cá nhân, cơ

quan, tổ chức có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp tới quyết định

hành chính, hành vi hành chính. Như vậy, chủ thể khiếu nại có thể là công

dân, có thể là cơ quan, tổ chức, có thể là cán bộ, công chức chứ không chỉ là

công dân như trước đây. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng được

hưởng quyền khiếu nại về THADS nếu họ là người được thi hành án, người

phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được ấn định trong

bản án, quyết định của Tòa án; bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài,

quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Việt Nam công nhận và cho thi

hành tại Việt Nam.

Có nhiều quyết định hành chính, hành vi hành chính có thể xâm hại đến

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức một cách trực tiếp hoặc gián

tiếp, tuy nhiên cá nhân, tổ chức thường phản ứng trước nhà nước đối với

những quyết định hành chính, hành vi hành chính ảnh hưởng hoặc xâm hại

trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

12

Thứ tư, đối tượng thực hiện quyền khiếu nại về THADS là quyết định thi

hành án, quyết định về thi hành án (quyết định cưỡng chế kê biên, quyết định

phong tỏa tài khoản, quyết định khấu trừ thu nhập,…); hành vi trong hoạt

động thi hành án là hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên.

Trong hoạt động THADS, cơ quan THADS thực hiện hoạt động thi hành

án thông qua nhiều hình thức khác nhau mà pháp luật quy định, trong đó, việc

ra các quyết định thi hành án, quyết định về thi hành án là quyết định hành

chính tư pháp, được hiểu là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính

nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước

được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn

đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Hành vi hành chính được hiểu

là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong

cơ quan hành chính nhà nước (của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành

viên) khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, việc thực hiện quyền khiếu nại về THADS theo thủ tục hành

chính được quy định trong Luật khiếu nại, Luật THADS và các văn bản

hướng dẫn thi hành.

Có nhiều cách hiểu khác nhau về thủ tục hành chính. Dưới góc độ quản

lý nhà nước nói chung, thủ tục hành chính được hiểu là công cụ, phương tiện

quan trọng để các cơ quan hành chính thực hiện việc quản lý đối với từng

ngành, lĩnh vực cụ thể. Còn dưới góc độ xã hội, thủ tục hành chính được xác

định là cầu nối để chuyển tải các quy định cụ thể về chính sách của Nhà nước

vào cuộc sống, đảm bảo cho người dân, tổ chức tiếp cận và thực hiện tốt các

chính sách, trong đó, cơ bản và chủ yếu là thực hiện các quyền, lợi ích chính

đáng, hợp pháp của công dân, tổ chức.

Hiện nay, theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 63/2010/NĐ-

CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ, thủ tục hành chính được quy định theo

13

hướng giải thích từ ngữ: “Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện,

hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy

định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức”.

1.2. Các yếu tố cấu thành quyền khiếu nại về thi hành án dân sự trên

địa bàn tỉnh

1.2.1. Chủ thể quyền khiếu nại về thi hành án dân sự

Theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011, người có quyền khiếu nại

là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức có quyền lợi bị xâm hại

bởi một quyết định hành chính, hành vi hành chính, một quyết định kỷ luật

cán bộ, công chức hoặc người đại diện hợp pháp của những người này khi họ

thực hiện quyền khiếu nại. Có nghĩa là, người có quyền khiếu nại phải là

người bị tác động trực tiếp bởi chính quyết định hoặc hành vi đó.

Theo quy định tại Điều 140 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ

sung năm 2014 thì những người có quyền khiếu nại về THADS bao gồm:

Một là, người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng

quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành. Tức là người được bản

án, quyết định của Tòa án nhân dân các cấp đã có hiệu lực pháp luật hoặc

quyết định của các cơ quan có thẩm quyền ghi nhận là được hưởng một hoặc

một số quyền lợi nào đó (như tiền hoặc tài sản,...) và phải được cơ quan

THADS ấn định trong quyết định thi hành án.

Hai là, người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện

nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Được hiểu là người có nghĩa

vụ phải thực hiện trách nhiệm pháp lý nào đó (như buộc phải bồi thường dân

sự, buộc phải trả nợ, giao trả một khoản nào đó về tiền hoặc tài sản, buộc thực

hiện hay không thực hiện công việc nhất định...) mà bản án, quyết định của

Tòa án nhân dân các cấp đã có hiệu lực hoặc quyết định của cơ quan có thẩm

14

quyền buộc họ phải thực hiện và là người được ấn định buộc phải thực hiện

nghĩa vụ trong quyết định thi hành án.

Ba là, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ

chức có quyền lợi, nghĩa vụliên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền,

nghĩa vụ thi hành án của đương sự. Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan đến vụ án là người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi

quyết định của tòa án. Những người này không phải là bị can, bị cáo, nguyên

đơn dân sự, bị đơn dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án…

nhưng lại có liên quan đến các quyết định của Tòa án, quyết định thi hành án

của cơ quan THADS, quyết định về thi hành án, hành vi của Chấp hành viên

mà trong quá trình tổ chức thi hành án quyết định, hành vi đó của Chấp hành

viên làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại về

thi hành án dân sự

Thứ nhất: Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại về THADS

Để đảm bảo cho người khiếu nại được thực hiện quyền khiếu nại một cách

hiệu quả, đồng thời nhằm tránh việc người khiếu nại lợi dụng quyền khiếu nại

làm mất uy tín của cán bộ, cơ quan nhà nước, làm mất thời gian, công sức của

các cơ quan hữu quan, khoản 1 Điều 143 Luật THADS năm 2008 được sửa

đổi, bổ sung năm 2014 quy định người khiếu nại có quyền sau đây:

- Tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại;

- Nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại;

- Được nhận quyết định giải quyết khiếu nại;

- Được biết các bằng chứng để làm căn cứ giải quyết khiếu nại; đưa ra

bằng chứng về việc khiếu nại và giải trình ý kiến của mình về bằng chứng đó;

- Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm và được bồi

thường thiệt hại, nếu có;

15

- Được khiếu nại tiếp nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu

nại lần đầu của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại;

- Rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại.

Đồng thời với quyền, nhằm tránh việc người khiếu nại lợi dụng quyền

khiếu nại làm mất uy tín của cán bộ, cơ quan nhà nước, làm mất thời gian,

công sức của các cơ quan hữu quan, Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ

sung năm 2014 cũng quy định người khiếu nại có nghĩa vụ phải: Khiếu nại

đến đúng người có thẩm quyền giải quyết; trình bày trung thực sự việc, cung

cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước

pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó; chấp

hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành và

quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Thứ hai: Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại về THADS

Để tạo điều kiện cần thiết bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu

nại về THADS, khoản 1 Điều 144 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ

sung năm 2014 quy định người bị khiếu nại có các quyền sau đây:

- Được biết các căn cứ khiếu nại của người khiếu nại; đưa ra bằng chứng

về tính hợp pháp của quyết định, hành vi bị khiếu nại;

- Được nhận quyết định giải quyết khiếu nại.

Đồng thời, người bị khiếu nại có các nghĩa vụ sau đây: Phải giải trình về

quyết định, hành vi bị khiếu nại, cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan khi

người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại yêu cầu; chấp hành nghiêm chỉnh

quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành và quyết định của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp; bồi thường, bồi hoàn, khắc phục hậu quả do quyết định,

hành vi trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật.

16

1.2.3. Thực hiện quyền khiếu nại THADS thông qua thủ tục giải quyết

khiếu nại về thi hành án dân sự

Trong quá trình thực hiện quyền khiếu nại về THADS của đương sự và

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cũng như trong quá trình giải quyết

khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thì mỗi bước thực hiện

đều được quy định chặt chẽ về trình tự thủ tục và thời hạn thực hiện [31]. Nếu

vì lý do chủ quan hay khách quan mà các bước giải quyết khiếu nại không

được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn quy định làm chậm trễ giải quyết khiếu

nại của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì việc khiếu nại

của đương sự có thể xảy ra bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu

nại. Do vậy, trong quá trình thực hiện quyền khiếu nại, một mặt người khiếu

nại cần phải nắm rõ những quy định của pháp luật nói chung và pháp luật

khiếu nại về THADS nói riêng để thực hiện quyền khiếu nại của mình một

cách triệt để. Mặt khác, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết

khiếu nại cần thiết phải nắm vững các quy định của pháp luật, quy chế giải

quyết khiếu nại để quá trình thực hiện đảm bảo quyền lợi cho các đương sự và

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Bên cạnh đó, giải quyết khiếu nại về THADS là hoạt động của cơ quan,

tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nên trong quá trình thực hiện có thể xảy ra

hiện tượng Thủ trưởng cơ quan THADS, cán bộ làm công tác tham mưu lạm

dụng quyền hành, áp đặt ý chí một cách trái pháp luật, né tránh việc giải quyết

khiếu nại hoặc do nhận thức hạn chế áp dụng sai pháp luật làm chậm trể việc

giải quyết khiếu nại, thậm chí có trường hợp từ chối đơn khiếu nại. Do đó,

trong quá trình thực hiện quyền khiếu nại thì người khiếu nại và cơ quan, tổ

chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cần thiết phải tuân theo các

bước và trình tự thủ tục luật định.

1.2.3.1. Giải quyết khiếu nại lần đầu

17

Để giải quyết khiếu nại về THADS, người giải quyết khiếu nại phải thực

hiện rất nhiều công việc, từ thụ lý đơn, nghiên cứu đơn, lập kế hoạch giải

quyết cho đến xác minh, thu thập chứng cứ, làm rõ các nội dung khiếu nại,

kiến nghị cấp có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, hoàn chỉnh hồ

sơ, tài liệu… Tuy nhiên, trước khi thụ lý giải quyết có thể tóm lược việc giải

quyết khiếu nại được chia làm 06 bước gồm: (i) xử lý đơn; (ii) thụ lý đơn

khiếu nại, yêu cầu báo cáo giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu; (iii) tổ chức xác

minh, đối thoại tại địa phương; (iiii) ban hành quyết định giải quyết khiếu nại;

(iiiii) gửi quyết định giải quyết khiếu nại, công khai kết quả giải quyết khiếu

nại và hoàn chỉnh hồ sơ; (iiiiii) đôn đốc, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện

quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành.

Bước 1: Xử lý đơn khiếu nại

Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, công chức

- Trường hợp đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết theo quy định

nghiên cứu nội dung đơn khiếu nại, đề xuất người có thẩm quyền xử lý như sau:

tại Điều 142 Luật THADS thì thụ lý đơn khiếu nại; trong trường hợp đơn

chưa đủ điều kiện giải quyết thì có văn bản trả lời cho người khiếu nại biết lý

do hoặc hướng dẫn người khiếu nại bổ sung thông tin, tài liệu liên quan đến

khiếu nại để được thụ lý giải quyết. Khiếu nại về THADS là quyền cơ bản của

công dân, tuy nhiên không phải công dân nào cũng biết đầy đủ quyền khiếu

nại của mình, do đó cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu

nại có trách nhiệm hướng dẫn đầy đủ, giải thích rõ ràng cho đương sự và

- Trường hợp đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết để thực hiện.

quan THADS cấp mình giải quyết thì chuyển đơn đến cơ quan THADS có

- Trường hợp đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền hoặc đã có quyết

thẩm quyền để giải quyết theo quy định và thông báo cho người khiếu nại biết.

18

định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành thì không thụ lý nhưng phải có

văn bản hướng dẫn, trả lời cho người khiếu nại biết. Việc hướng dẫn, trả lời

- Trường hợp đơn khiếu nại đã được chuyển, hướng dẫn, trả lời, giải

chỉ thực hiện một lần.

quyết theo quy định của pháp luật nhưng đương sự vẫn tiếp tục có đơn khiếu

nại cùng nội dung; đơn khiếu nại giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ, nhân

danh tập thể, không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại; đơn đồng

thời gửi nhiều cơ quan, trong đó đã đề gửi cơ quan có thẩm quyền giải quyết;

đơn đã mời người khiếu nại hai lần để xác định nội dung khiếu nại, yêu cầu

cung cấp thông tin, tài liệu nhưng người khiếu nại không đến, không cung cấp

theo yêu cầu mà không có lý do thì lưu đơn.

Bước 2: Thụ lý đơn khiếu nại, yêu cầu báo cáo giải trình, cung cấp hồ

sơ, tài liệu

Một là, thụ lý đơn khiếu nại

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại

lần đầu hoặc kể từ ngày nhận được báo cáo, hồ sơ, tài liệu có liên quan của cơ

quan THADS cấp dưới đối với đơn khiếu nại lần hai, công chức được giao

giải quyết khiếu nại có nhiệm vụ phải vào sổ thụ lý để giải quyết và thông báo

về việc thụ lý đơn khiếu nại bằng văn bản cho người khiếu nại biết.

Khi nhận được đơn khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

căn cứ vào các quy định tại Điều 11 Luật Khiếu nại năm 2011, Điều 141 Luật

THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và khoản 5 Điều 4 Quy

chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS (Ban hành kèm theo Quyết định

số 1318/QĐ-TCTHADS ngày 30/9/2013 của Tổng Cục trưởng Tổng cục

THADS) để xác định xem vụ việc có đủ điều kiện thụ lý hay không. Người có

thẩm quyền giải quyết khiếu nại sẽ không thụ lý đơn khiếu nại để giải quyết

đối với các trường hợp như sau:

19

- Quyết định, hành vi bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền,

lợi ích hợp pháp của người khiếu nại;

- Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có

người đại diện hợp pháp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

- Người đại diện không có giấy tờ chứng minh về việc đại diện hợp pháp

của mình;

- Thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng;

- Việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi

hành án, trừ trường hợp cần thiết thuộc diện xem xét lại theo thẩm quyền của

Bộ trưởng Bộ Tư pháp;

- Khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;

- Có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại mà sau 30

ngày người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại;

- Việc khiếu nại đã được Toà án thụ lý hoặc đã được giải quyết bằng bản

án, quyết định của Toà án, trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính

của Toà án;

- Không xem xét, giải quyết đơn khiếu nại giấu tên, mạo tên, không rõ

địa chỉ, nhân danh tập thể, không có chữ ký, sao chụp chữ ký, hoặc nội dung

khiếu nại đã được cấp có thẩm quyền giải quyết hay khiếu nại lại nhưng

không có bằng chứng mới, trừ trường hợp xử lý đơn theo quy định của pháp

luật về phòng chống tham nhũng;

- Không thụ lý giải quyết đối với khiếu nại về quyết định, hành vi trong

nội bộ cơ quan thi hành án để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ;

quyết định, hành vi trong chỉ đạo điều hành của cơ quan thi hành án cấp trên

đối với cơ quan thi hành án cấp dưới.

Khi người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không thụ lý đơn khiếu

nại để giải quyết thì phải thông báo và nêu rõ lý do.

20

Hai là, thực hiện báo cáo giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu

Trường hợp đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết thì trong thời hạn

02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại do văn thư chuyển,

công chức được giao tham mưu giải quyết khiếu nại có nhiệm vụ soạn thảo

công văn yêu cầu người bị khiếu nại báo cáo giải trình bằng văn bản và cung

cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan trình Lãnh đạo Vụ (Phòng) xem xét, cho ý

kiến, ký ban hành.

Trường hợp người bị khiếu nại là Chấp hành viên thì Lãnh đạo Phòng

(Chi Cục trưởng) trực tiếp yêu cầu Chấp hành viên báo cáo giải trình bằng

văn bản, cung cấp hồ sơ vụ việc mà không cần có công văn yêu cầu. Thời hạn

thực hiện là không quá 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thì

phải có báo cáo giải trình. Trường hợp khiếu nại đối với quyết định, hành vi

về áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án thì thời hạn thực hiện không quá

01 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu.

Đối với cơ quan THADS cấp dưới thì thời hạn thực hiện báo cáo giải

trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu là không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận

được văn bản. Đồng thời với việc phát hành công văn yêu cầu theo đường

bưu điện, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có thể sử dụng điện thoại,

fax hoặc thư điện tử, v.v… yêu cầu cơ quan THADS thực hiện.

Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS, Thủ trưởng cơ quan THADS được

yêu cầu phải báo cáo giải trình và chịu trách nhiệm về tính trung thực, đầy đủ,

chính xác của báo cáo, hồ sơ, tài liệu. Hồ sơ, tài liệu sao gửi phải đánh bút

lục, có xác nhận của Thủ trưởng đơn vị.

Trường hợp nội dung đơn khiếu nại, báo cáo giải trình của người bị

khiếu nại và hồ sơ, tài liệu có liên quan đã rõ ràng, có đủ căn cứ, cơ sở pháp

lý để kết luận, giải quyết thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra ngay

quyết định giải quyết khiếu nại.

21

Trường hợp người khiếu nại rút một phần hoặc toàn bộ khiếu nại thì

người có thẩm quyền giải quyết ra thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu

nại đối với nội dung khiếu nại đã rút và thông báo cho người khiếu nại biết.

Việc rút khiếu nại phải được thể hiện bằng văn bản và việc giải quyết khiếu

nại kết thúc khi có thông báo đình chỉ.

Trường hợp có văn bản yêu cầu hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án

của người có thẩm quyền thì tiếp tục giải quyết khiếu nại nếu khiếu nại không

ảnh hưởng đến nội dung bản án, quyết định của Tòa án.

Bước 3: Tổ chức xác minh, đối thoại tại địa phương

Một là, xây dựng Kế hoạch xác minh, đối thoại

Trường hợp giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định, hành vi

trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế; quyết định, hành

vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thì trong thời hạn 02 ngày làm việc,

kể từ ngày ra thông báo thụ lý, công chức tham mưu giải quyết khiếu nại phải

dự thảo xong kế hoạch trình Lãnh đạo Vụ (Phòng, Chi cục) xem xét, cho ý

kiến.

Trường hợp giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi về áp dụng

biện pháp bảo đảm thi hành án thì trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày

ra thông báo thụ lý, công chức tham mưu giải quyết khiếu nại phải dự thảo

xong kế hoạch trình Lãnh đạo Vụ (Phòng, Chi cục) xem xét, cho ý kiến.

Trường hợp giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi về áp dụng

biện pháp cưỡng chế thi hành án thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ

ngày ra thông báo thụ lý, công chức tham mưu giải quyết khiếu nại phải dự

thảo xong kế hoạch trình Lãnh đạo Vụ (Phòng, Chi cục) xem xét, cho ý kiến.

Trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai thì trong thời hạn 05 ngày làm

việc, kể từ ngày ra thông báo thụ lý, công chức tham mưu giải quyết khiếu nại

phải dự thảo xong kế hoạch trình Lãnh đạo Vụ (Phòng) xem xét, cho ý kiến.

22

Trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định, hành vi về áp

dụng biện pháp cưỡng chế thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra Thông

báo thụ lý, công chức tham mưu giải quyết khiếu nại phải dự thảo xong kế

hoạch trình Lãnh đạo Vụ (Phòng) xem xét, cho ý kiến.

Hai là, tổ chức việc xác minh, đối thoại

Người được giao thực hiện việc xác minh, đối thoại phải tổ chức việc

xác minh, đối thoại theo thời hạn sau: Trường hợp giải quyết khiếu nại đối với

quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án thì ngay trong

ngày; trường hợp giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định, hành vi

trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế; quyết định, hành

vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế là 01 ngày làm việc; trường hợp giải

quyết khiếu nại lần đầu về áp dụng biện pháp cưỡng chế và giải quyết khiếu

nại lần hai là 03 ngày làm việc, kể từ ngày phê duyệt.

Bước 4: Ban hành quyết định giải quyết khiếu nại

Trên cơ sở kết quả xác minh, đối thoại, hoặc kết quả trưng cầu giám định

(nếu có), người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải ra quyết định giải

quyết khiếu nại trong thời hạn quy định tại Điều 146 Luật Thi hành án dân sự.

Trường hợp vụ việc có tính chất phức tạp cần xác minh, thẩm tra, đối

thoại, trưng cầu giám định, tổ chức họp, trao đổi ý kiến với các cơ quan, tổ

chức, cá nhân có liên quan hoặc tiến hành các biện pháp cần thiết khác theo

quy định của pháp luật thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày,

kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại. Trường hợp nhiều người cùng

khiếu nại về một nội dung thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra

quyết định giải quyết khiếu nại cho từng người hoặc ra quyết định giải quyết

khiếu nại kèm theo danh sách những người khiếu nại.

23

Để đảm bảo việc giải quyết khiếu nại phải chặt chẽ, khách quan, đầy đủ,

Điều 151 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định

quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu phải có các nội dung sau đây:

- Ngày, tháng, năm ra quyết định;

- Họ, tên, địa chỉ của người khiếu nại, người bị khiếu nại;

- Nội dung khiếu nại;

- Kết quả xác minh nội dung khiếu nại;

- Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại;

- Kết luận nội dung khiếu nại là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ;

- Giữ nguyên, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi, hủy bỏ một phần

quyết định, hành vi bị khiếu nại hoặc buộc chấm dứt việc thực hiện quyết

định, hành vi bị khiếu nại;

- Việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi

trái pháp luật gây ra;

- Hướng dẫn quyền khiếu nại lần hai của đương sự.

Do tính chất của việc giải quyết khiếu nại lần hai khác với lần một, nên

Điều 153 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định

nội dung cơ bản cần có của quyết định giải quyết lần hai bao gồm các nội

dung sau:

- Ngày, tháng, năm ra quyết định;

- Họ, tên, địa chỉ của người khiếu nại, người bị khiếu nại;

- Nội dung khiếu nại;

- Kết quả xác minh nội dung khiếu nại;

- Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại;

- Kết luận về nội dung khiếu nại và việc giải quyết của người có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại lần đầu;

24

- Giữ nguyên, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi, hủy bỏ một phần

quyết định, hành vi bị khiếu nại hoặc buộc chấm dứt thực hiện quyết định,

hành vi bị khiếu nại;

- Việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi

trái pháp luật gây ra.

Quy trình giải quyết khiếu nại phải đảm bảo về mặt thời hạn. Thời hạn

giải quyết khiếu nại được tính từ ngày ban hành Thông báo thụ lý đơn khiếu

nại. Theo quy định tại Điều 146 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

THADS năm 2014 thì thời hạn giải quyết khiếu nại về THADS được quy định

cụ thể như sau:

Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng biện pháp

bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15

ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.

Đối với quyết định về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản và quyết

định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm khác thì thời hạn giải quyết khiếu

nại là 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.

Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế thì thời hạn

giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày, lần hai là 45 ngày, kể từ ngày thụ lý

đơn khiếu nại.

Trường hợp cần thiết, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp thì

thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, kể từ

ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại.

Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thì thời

hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ

lý đơn khiếu nại.

25

Trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, đường sá xa xôi, đi lại khó khăn, vụ

việc có tính chất phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài

nhưng không quá 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiêu nại.

Việc phân loại thời hạn như trên phù hợp với tính chất của giai đoạn thi

hành án, vừa không làm ảnh hưởng nhiều đến tiến trình thi hành án, vừa kịp

thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, thuận lợi cho việc

khắc phục hậu quả nếu như việc khiếu nại được xác định là có cơ sở.

Bước 5: Gửi quyết định giải quyết khiếu nại và công khai kết quả giải

quyết khiếu nại và hoàn chỉnh hồ sơ

- Gửi quyết định giải quyết khiếu nại: Người giải quyết khiếu nại có trách

nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho các đối tượng: người khiếu nại,

người bị khiếu nại, người có quyền và lợi ích liên quan và người giải quyết

khiếu nại trước đó (nếu là giải quyết khiếu nại tiếp theo). Theo quy định của

Luật THADS hiện hành thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra

quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định phải được gửi cho Viện kiểm sát

nhân dân cùng cấp, người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức và

cá nhân có liên quan.

- Công khai quyết định giải quyết khiếu nại: Theo quy định của pháp Luật

THADS hiện hành thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày ra quyết định giải

quyết khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có trách nhiệm

công khai quyết định giải quyết khiếu nại theo một trong các hình thức như:

công bố tại cuộc họp cơ quan nơi người bị khiếu nại công tác; thông báo trên

phương tiện thông tin đại chúng hoặc cổng/trang thông tin điện tử của cơ

quan giải quyết khiếu nại; niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân

của cơ quan ban hành quyết định giải quyết khiếu nại. Việc công khai quyết

định giải quyết khiếu nại là một trong những nội dung mới của Luật Khiếu nại

và của Luật Thi hành án dân sự.

26

- Hoàn chỉnh hồ sơ giải quyết khiếu nại: Sau khi ra và ban hành quyết

định giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại phải hoàn chỉnh hồ sơ.

Hồ sơ được lập và lưu trữ theo quy định của pháp luật, được đánh số bút lục

sắp xếp theo trình tự thời gian, phải lập danh mục hồ sơ có phê duyệt của

người ra quyết định xác minh nhằm giúp cho việc quản lý, theo dõi công tác

giải quyết khiếu nại, đồng thời còn làm tài liệu cho các cơ quan có thẩm

quyền xem xét giải quyết khiếu nại ở cấp tiếp theo.

Điều 149 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy

định hồ sơ giải quyết khiếu nại phải gồm những loại tài liệu sau:

- Đơn khiếu nại hoặc văn bản ghi nội dung khiếu nại;

- Văn bản giải trình của người bị khiếu nại;

- Biên bản thẩm tra, xác minh, kết luận, kết quả giám định;

- Quyết định giải quyết khiếu nại;

- Tài liệu khác có liên quan.

Nếu người khiếu nại tiếp tục khiếu nại thì hồ sơ đó phải được chuyển

cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết tiếp theo (khi có yêu cầu).

Bước 6: Đôn đốc, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện quyết định giải

quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành

Sau khi quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành, trong phạm

vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

có trách nhiệm đôn đốc, theo dõi, kiểm tra cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên

quan thực hiện nội dung giải quyết khiếu nại. Trách nhiệm tổ chức thực hiện

quyết định giải quyết khiếu nại, Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS, cơ quan

THADS được giao tổ chức thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại có trách

nhiệm thực hiện và báo cáo người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.

27

1.2.3.2. Giải quyết khiếu nại lần hai

Ngoài việc thực hiện các bước, thủ tục như lần một, người có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại có quyền yêu cầu người giải quyết khiếu nại lần

đầu, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu và

những bằng chứng liên quan đến nội dung khiếu nại, tiến hành các biện pháp

khác theo quy định của pháp luật để giải quyết khiếu nại.

Trường hợp nội dung đơn khiếu nại, báo cáo giải trình của người bị

khiếu nại và hồ sơ, tài liệu có liên quan đã rõ ràng, có đủ căn cứ, cơ sở pháp

lý để kết luận, giải quyết thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không

cần thiết phải tiến hành xác minh, đối thoại, mà có thể ra ngay quyết định giải

quyết khiếu nại.[9]

Trường hợp khiếu nại được giải quyết mà đương sự vẫn tiếp tục khiếu

nại nhưng không đưa ra bằng chứng mới thì người giải quyết khiếu nại lưu

đơn khiếu nại và thông báo để đương sự biết.[12]

1.2.3.3. Giải quyết khiếu nại trong trường hợp đặc biệt

Theo điểm b khoản 4 Điều 142 Luật THADS quy định Bộ trưởng Bộ Tư

pháp giải quyết các khiếu nại sau đây “Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ

Tư pháp có quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực

thi hành quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này”. Theo quy định khoản 4

Điều 38 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS, quyết định

giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành được xem xét lại trong các trường

hợp sau đây:

- Quyết định, hành vi bị khiếu nại là trái pháp luật nhưng quyết định giải

quyết khiếu nại cho rằng quyết định, hành vi đó là đúng pháp luật;

- Việc giải quyết khiếu nại đã vi phạm quy định của pháp luật về thủ tục

giải quyết khiếu nại về thi hành án

28

- Có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản kết quả giải quyết khiếu nại. Đây là

quy định mang tính đặc thù của ngành thi hành án.

Đối với việc Bộ tưởng Bộ Tư pháp xem xét lại các quyết định đã có hiệu

lực thì không có quy trình cụ thể nào về việc xem xét này, chỉ cần các vụ việc

có tình tiết như được nêu trên là đủ điều kiện và với những vụ việc được xem

xét lại thì không quy định về thời hiệu, không có các bước như thông báo thụ

lý, không quy định về thời gian và không có hình thức giải quyết trong trường

hợp này mà tùy theo từng vụ việc Bộ trưởng có thể ban hành kết luận, có vụ

việc lại ban hành quyết định.

1.3. Các yếu tố bảo đảm quyền khiếu nại trong thi hành án dân sự

1.3.1. Yếu tố về chính trị

Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là

nguyên tắc được ghi nhận qua các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam. Với quy định đó, các hoạt động tư pháp cũng phải đặt

dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bằng nhiều cách khác nhau, sự lãnh đạo của

Đảng luôn được xem là chủ trương lớn và có tính chất quyết định đến các

hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động THADS nói riêng, cụ thể là Nghị

quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công

tác trong thời gian tới đã định hướng “thành lập cảnh sát tư pháp trên cơ sở

tổ chức và lực lượng hiện có ở ngành công an để hỗ trợ công tác thi hành án

dân sự, khẩn trương ban hành Bộ Luật tố tụng dân sự, Bộ Luật tố tụng hình

sự, Luật Thi hành án dân sự,... làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ

quan tư pháp”.

Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực THADS có ý nghĩa rất

lớn đối với ngành THADS, trong đó có hoạt động khiếu nại đối với cả công

tác xây dựng pháp luật và quy định thực hiện pháp luật. Với những chủ

trương, định hướng của Đảng, năm 2008 Quốc hội đã xây dựng và ban hành

29

Luật Thi hành án dân sự và đã được sửa đổi bổ sung năm 2014. Sự ra đời của

hệ thống văn bản pháp luật theo các chủ trương, quan điểm của Đảng về

THADS là một trong những bước tiến lớn trong công tác THADS, nó đã trực

tiếp quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình tổ chức thi

hành án, quá trình thực hiện quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh

vực THADS, quy định rõ thẩm quyền giải quyết khiếu nại, cũng như trình tự,

thủ tục thực hiện quyền khiếu nại thông qua công tác giải quyết khiếu nại

thuộc thẩm quyền của mỗi cấp.

Tiếp tục thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác tiếp công dân,

giải quyết khiếu nại, tố cáo, ngày 26/5/2014, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị

số 35-CV/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công

dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và coi đây là nhiệm vụ quan trọng, thường

xuyên, đồng thời tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đối với công

tác này. Theo đó, các cấp ủy Đảng, mà trước hết là cấp ủy các tổ chức Đảng

trong hệ thống cơ quan THADS, tiếp đến là cấp ủy Đảng ở địa phương phải

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại về THADS. Coi đây

là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng và cần thiết trong

công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, góp phần đảm bảo tính

nghiêm minh của pháp luật, ổn định tình hình để phát triển kinh tế - xã hội địa

phương và toàn quốc.

Đối với các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình, nhận thức được vai trò

quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương

đối với công tác THADS, vì vậy, sau khi Luật THADS năm 2008, có hiệu lực

thi hành ngày 01/7/2009, Cục THADS tỉnh Quảng Bình đã tham mưu cho

Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình ban hành Chỉ thị số 34-CT/TU ngày

09/02/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác THADS

trên địa bàn tỉnh, nhằm tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác

30

THADS. Trong đó có nội dung chỉ đạo, yêu cầu cấp ủy Đảng chính quyền địa

phương, các cơ quan hữu quan tăng cường sự chỉ đạo phối hợp với cơ quan

THADS trên địa bàn đảm bảo thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo đối với những vụ việc tồn đọng, bức xúc kéo dài và những

vụ việc mới phát sinh ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn địa

phương.

Bên cạnh đó, có sự tham gia của cả hệ thống chính trị ở địa phương vào

công tác giải quyết khiếu nại trong THADS. Biểu hiện cụ thể nhất là công tác

giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại của các cơ quan THADS và công tác

tham gia tuyên truyền pháp luật về THADS, pháp luật về giải quyết khiếu nại,

tố cáo về THADS. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên có vai trò quan

trọng trong việc giúp đỡ đoàn viên, hội viên của tổ chức mình thực hiện các

quyền khiếu nại, đồng thời vận động đoàn viên, hội viên của tổ chức mình

sống và làm việc theo pháp luật. Người khiếu nại thuộc tổ chức nào thì tổ

chức đó phối hợp với cơ quan THADS để nắm bắt tình hình, xử lý thông tin,

lấy tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục là chính để thành viên của tổ chức

mình thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại theo luật định.

1.3.2. Yếu tố về pháp luật

Sự hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật về THADS và pháp luật về khiếu

nại là rất cần thiết, là hành lang pháp lý quan trọng tạo điều kiện cho người

dân, cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại của mình thông qua công cụ

pháp luật. Đối với việc khiếu nại trong lĩnh vực THADS, quyền khiếu nại của

đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có được giải quyết một cách

thấu đáo hay không còn phụ thuộc vào mức độ hoàn chỉnh của pháp luật, gồm

pháp luật THADS và pháp luật về khiếu nại và các văn bản pháp luật liên

quan. Bởi vì nguyên tắc pháp chế đòi hỏi người khiếu nại thực hiện quyền và

người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đều phải dựa trên cơ sở pháp luật.

31

Khiếu nại nói chung và hoạt động khiếu nại trong lĩnh vực THADS nói

riêng thì ý thức pháp luật, trách nhiệm công vụ là yếu tố góp phần quan trọng.

Quyền khiếu nại có được đảm bảo hay không còn phụ thuộc vào quá trình

thực hiện quyền khiếu nại của công dân, cá nhân, tổ chức và phụ thuộc vào

quá trình giải quyết khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.

Do đó, người khiếu nại cũng như người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

phải nắm vững các quy định của pháp luật, phải trung thực, khách quan đồng

thời phải có ý thức, thái độ đúng đắn tuân thủ quy định của pháp luật.

1.3.3. Yếu tố về văn hóa

Trình độ văn hóa có ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền khiếu nại của

người dân, bởi vì trình độ văn hóa được nâng cao thì dân trí cũng được nâng

cao, từ đó người dân tiếp cận với các quy định của pháp luật thì tầm hiểu biết

sẽ rộng hơn tạo được điều kiện cho việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp

luật cho nhân dân.

Điều này rất quan trọng, vì qua số liệu thống kê và kết quả xử lý, phân

loại đơn thư khiếu nại cho thấy, có đến trên 90% các khiếu nại của công dân

nói chung và trong lĩnh vực THADS nói riêng là không được chấp nhận, do

khiếu nại không có cơ sở. Việc khiếu nại, không dựa trên những hiểu biết về

quy định của pháp luật, mà chủ yếu dựa trên sự mong muốn của đương sự

được giải quyết theo hướng có lợi cho họ.

Hiện nay, có nhiều văn bản pháp luật thực sự cần thiết cho người dân

như: Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Đất đai; Luật Thi hành án

dân sự,... (để người dân hiểu và biết được quyền, nghĩa vụ của mình khi tham

gia các giao dịch dân sự, tham gia tố tụng dân sự, thực hiện quyền và nghĩa vụ

trong quá trình tổ chức thi hành án); Luật khiếu nại (để người dân hiểu đúng

về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại, trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, hiệu lực của

32

văn bản giải quyết khiếu nại, việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết

khiếu nại và các kết luận giải quyết khiếu nại).

Với mỗi lĩnh vực, mỗi ngành đều có quy định cụ thể về quyền và nghĩa

vụ khi công dân, cá nhân, tổ chức tham gia vào các quan hệ xã hội. Tuy

nhiên, có nhiều trường hợp đương sự thiếu hiểu biết, do đó quyền khiếu nại

không được thực hiện hoặc thực hiện không triệt để.

1.3.4. Đội ngũ công chức làm công tác thi hành án dân sự

Hồ Chủ tịch đã dạy: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", và " Công

việc có thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Như vậy, chất

lượng nguồn nhân lực đang là vấn đề hết sức quan trọng. Thực tiễn cho thấy,

trong những năm qua, đất nước ta nói chung và công tác THADS nói riêng đã

đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Có được những thành tựu đó là do

có sự đóng góp rất lớn công sức, trí tuệ của đội ngũ cán bộ, công chức, bởi

hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức là một hoạt động đặc biệt mang tính

quyền lực nhà nước, cho phép thực thi pháp luật trên thực tế.

Qua 10 năm thực hiện Luật THADS năm 2008, thế và lực của các cơ

quan THADS đang ngày được củng cố và kiện toàn, đội ngũ công chức

THADS đã từng bước được nâng lên cả về số và chất lượng. Kết quả THADS

năm sau luôn cao hơn năm trước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức, nhà nước được đảm bảo, trong đó quyền khiếu nại về THADS của công

dân được giải quyết kịp thời, thỏa đáng, tình hình an ninh, chính trị, trật tự an

toàn xã hội về cơ bản luôn được ổn định và giữ vững.

Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cần phải xây dựng một đội ngũ công chức

THADS có kỷ luật cao, năng lực chuyên môn giỏi và trở thành một “đội quân

hùng hậu”. Do đó, ngành Tư pháp xác định tiếp tục củng cố kiện toàn, tổ chức

bộ máy, cán bộ theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị

về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, Chiến lược phát triển ngành Tư

33

pháp trong giai đoạn từ nay đến năm 2020; xây dựng Hệ thống cơ quan

THADS trong sạch, vững mạnh, kỷ cương, kỷ luật; đội ngũ công chức, người

lao động làm công tác THADS có đầy đủ phẩm chất, năng lực, tinh thần tận

tụy, cống hiến trong công tác, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và

phát triển đất nước trong tình hình mới.

Trên cơ sở đó, ngày 14/9/2009, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp ban hành

Công văn số 91-CV/BCS gửi Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy, Ban

Thường vụ Huyện ủy, Quận ủy, Thị ủy, Thành ủy trong việc phối hợp quy

hoạch, kiện toàn tổ chức cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ quan THADS.

1.3.5. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quyền khiếu nại

trong thi hành án dân sự

Điều 167 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cũng đã quy định rõ nhiệm

vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp như sau: “Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước

Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về THADS, có các nhiệm vụ, quyền

hạn sau đây: Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác

thi hành án dân sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự.”

Ngày 29/5/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2014/NĐ-CP

về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Tư pháp. Theo đó, Nghị định đã

quy định rõ về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Thanh tra Bộ Tư

pháp: “Thanh tra Bộ Tư pháp là cơ quan của Bộ Tư pháp, giúp Bộ trưởng Bộ

Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo

và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật; tiến hành thanh tra

hành chính, thanh tra chuyên ngành; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,

chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”. Như vậy, lĩnh vực THADS

thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, hệ thống các cơ quan

THADS trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp, do đó, Thanh tra Bộ

Tư pháp có thẩm quyền tiến hành thanh tra hành chính đối với các cơ quan

34

THADS và các cá nhân thuộc các cơ quan THADS trong việc thực hiện chính

sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao (trong đó có việc thực hiện

quyền khiếu nại về thi hành án dân sự).

Thanh tra Bộ chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng xem xét, giải quyết các

khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng, đồng thời, tham

mưu giúp Bộ trưởng xem xét lại các quyết định giải quyết khiếu nại về thi

hành án đã có hiệu lực.

Cùng với công tác thanh tra của cấp trên thì công tác kiểm tra của cơ

quan quản lý THADS thực sự quyết định đến chất lượng và hiệu quả công tác

THADS. Bởi chính công tác kiểm tra sẽ giúp Tổng cục THADS, Cục THADS

kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm trong

quá trình tổ chức thi hành án nói chung và công tác giải quyết khiếu nại nói

riêng nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền khiếu nại của đương sự, công tác

giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có trung

thực, khách quan, đúng quy định pháp luật hay không. Thông qua kiểm tra

còn để tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý

thức trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc chấp hành các quy định

của pháp luật. Đặc biệt, việc tập trung kiểm tra còn để rút ra những kiến nghị,

đề xuất một cách toàn diện giúp Tổng cục THADS, Cục THADS tỉnh nắm rõ

tình hình, thực trạng công tác; từ đó, đưa ra những đề xuất, kiến nghị và chỉ

đạo cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý của Tổng cục, Cục

THADS, trong đó có quyền khiếu nại về THADS của công dân.

35

Tiểu kết chương 1

Quyền khiếu nại về THADS là một nội dung quan trọng của pháp luật về

THADS. Mục đích quan trọng nhất để thực hiện tốt quyền khiếu nại về

THADS là phải gắn chặt chẽ với công tác giải quyết khiếu nại, bởi vì, thực

hiện tốt công tác này là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được

pháp luật ghi nhận. Thông qua công tác giải quyết khiếu nại để phát hiện và

kịp thời ngăn chặn, chấn chỉnh những hành vi vi phạm pháp luật trong quá

trình tổ chức thi hành án của cán bộ, Chấp hành viên cơ quan THADS, nâng

cao chất lượng công tác thi hành án, trình độ cho cán bộ công chức làm công

tác thi hành án. Một mục đích quan trọng nữa của công tác giải quyết khiếu

nại là hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại.

Quyền khiếu nại về THADS là quyền của công dân, giải quyết khiếu nại

về THADS là trách nhiệm của Chi cục trưởng Chi cục THADS, Cục trưởng

Cục THADS, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.

Thông qua thực hiện quyền khiếu nại, giải quyết khiếu nại về THADS, cơ

quan, tổ chức, người có thẩm quyền có thể thực hiện tốt công tác quản lý nhà

nước về THADS, đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án được nghiêm chỉnh

thi hành, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân cũng như việc duy trì nề nếp, thái độ phục vụ tận tuỵ, trung thực

của công chức làm công tác THADS.

36

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN KHIẾU NẠI

VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ QUAN

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH

2.1. Tình hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan THADS có liên

quan trực tiếp tới thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại các cơ quan

THADS tỉnh Quảng Bình

2.1.1. Cơ cấu tổ chức, biên chế các cơ quan THADS và tình hình thực

hiện chỉ tiêu nhiệm vụ THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình

- Về cơ cấu tổ chức, biên chế: Cục THADS tỉnh Quảng Bình được thành

lập theo Quyết định số 2879/QĐ-BTP ngày 06/11/2009 của Bộ Tư pháp. Cục

THADS là cơ quan thuộc Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp, thực hiện nhiệm

vụ THADS theo quy định của pháp luật, thực hiện chức năng THADS, có

nhiệm vụ giúp Tổng cục THADS quản lý một số mặt công tác tổ chức cán bộ,

cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động các nhiệm vụ, quyền hạn khác

của các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo quy định của

pháp luật, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Tổng cục THADS; đồng

thời, Cục THADS tỉnh Quảng Bình giúp UBND tỉnh Quảng Bình thực hiện

trách nhiệm, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.

Cục THADS tỉnh Quảng Bình có 04 phòng chuyên môn trực thuộc,

gồm: Văn phòng Cục; phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án; phòng Kiểm

tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng tổ chức cán bộ và 08 chi cục THADS

huyện, thị xã, thành phố trực thuộc, gồm: Chi cục THADS huyện Lệ Thủy,

Chi cục THADS huyện Quảng Ninh, Chi cục THADS thành phố Đồng Hới,

Chi cục THADS huyện Bố Trạch, Chi cục THADS huyện Quảng Trạch, Chi

cục THADS thị xã Ba Đồn, Chi cục THADS huyện Tuyên Hóa, Chi cục

37

THADS huyện Minh Hóa. Các Chi cục THADS trực thuộc Cục THADS tỉnh

Quảng Bình, thực hiện nhiệm vụ thi hành án và các nhiệm vụ quyền hạn khác

theo quy định của pháp luật; đồng thời, chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân

cùng cấp theo quy định của pháp luật.

Cơ cấu biên chế của các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình: Theo

Quyết định số 474/QĐ-TCTHADS ngày 14/4/2017 của Tổng cục THADS -

Bộ Tư pháp về việc giao biên chế công chức hành chính Nhà nước năm 2017

đối với các cơ quan THADS, thì các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình được

giao tổng cộng 105 biên chế, trong đó tại Cục THADS tỉnh được giao 25 biên

chế, các Chi cục THADS huyện, thị xã, thành phố được giao 80 biên chế. Số

biên chế đã thực hiện được 103 biên chế, trong đó: ở Cục THADS tỉnh thực

hiện được 25/25 biên chế, Chi cục THADS huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh

thực hiện được 78/80 biên chế.

Việc sắp xếp, bố trí số biên chế đã tuyển dụng được Cục THADS tỉnh

Quảng Bình thực hiện cụ thể như sau:

Ở cấp tỉnh: Tổng biên chế được giao là 25 biên chế, trong đó: Ngạch

công chức: có 10 Chấp hành viên (07 Chấp hành viên trung cấp, 03 Chấp

hành viên sơ cấp); 04 Thẩm tra viên (01 Thẩm tra viên chính, 03 Thẩm tra

viên); 08 Thư ký thi hành án; 04 công chức khác (Kế toán, Văn thư, Lái xe).

Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: 02 công chức có trình độ thạc sĩ Luật; 23

công chức có trình độ cử nhân (cử nhân Luật 21 công chức, cử nhân Kinh tế

chuyên ngành Kế toán 02 công chức); 01 công chức có trình độ khác.

Về cơ cấu chức danh lãnh đạo và công chức thừa hành nhiệm vụ: Lãnh

đạo Cục có 01 Cục trưởng (Chấp hành viên trung cấp) và 03 Phó Cục trưởng

(Chấp hành viên trung cấp). Các phòng chuyên môn: Văn phòng Cục có 01

Chánh Văn phòng (Thẩm tra viên chính), 01 Phó chánh Văn phòng (Thẩm tra

38

viên), 01 Thẩm tra viên, 01 Thư ký thi hành án, 02 kế toán (01 kế toán nghiệp

vụ, 01 kế toán hành chính) và 01 Văn thư, lưu trữ; Phòng Nghiệp vụ và tổ

chức thi hành án có 01 Trưởng phòng (Chấp hành viên trung cấp), 02 Phó

trưởng phòng (Chấp hành viên sơ cấp), 01 Chấp hành viên sơ cấp và 03 Thư

ký thi hành án; Phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo có 01 Trưởng

phòng (Chấp hành viên trung cấp), 01 Phó Trưởng phòng (Thẩm tra viên) và

02 Thư ký thi hành án; Phòng Tổ chức cán bộ có 01 Trưởng phòng (Chấp

hành viên trung cấp), 01 Phó trưởng phòng (Thư ký thi hành án) và 01 Thư ký

thi hành án.

Ở cấp huyện: Trên cơ sở Quyết định số 474/QĐ-TCTHADS ngày

14/4/2017 của Tổng cục THADS, Cục THADS tỉnh Quảng Bình ban hành

Quyết định số 148/QĐ-TCTHADS ngày 27/4/2017 về việc giao biên chế

công chức hành chính Nhà nước năm 2017 đối với Chi cục THADS các

huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Theo đó, tổng số biên chế giao cho các

Chi cục THADS là 80 biên chế, phân bổ cho 08 Chi cục. Cụ thể: Chi cục

THADS huyện Lệ Thủy 11 biên chế, Chi cục THADS huyện Quảng Ninh 08

biên chế, Chi cục THADS thành phố Đồng Hới 16 biên chế, Chi cục THADS

huyện Bố Trạch 11 biên chế, Chi cục THADS huyện Quảng Trạch 09 biên

chế, Chi cục THADS thị xã Ba Đồn 10 biên chế, Chi cục THADS huyện

Tuyên Hóa 08 biên chế, Chi cục THADS huyện Minh Hóa 07 biên chế.

Nhìn chung, kể từ khi Luật THADS năm 2008 được ban hành có hiệu

lực, Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và sự quan tâm của Bộ Tư

pháp, Tổng cục THADS, cấp ủy, chính quyền địa phương nên tổ chức bộ máy

của các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh ngày càng được củng cố, kiện toàn,

đi vào hoạt động có hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức THADS được Cục

THADS tỉnh quan tâm, chú trọng. Hoạt động THADS có hiệu quả, đạt được

39

nhiều kết quả đáng khích lệ. Kết quả THADS hàng năm đều đạt và vượt các

chỉ tiêu Quốc Hội, Chính phủ, Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS giao. Với

thành tích xây dựng và phát triển, Cục THADS tỉnh Quảng Bình và nhiều cá

nhân, đơn vị thuộc và trực thuộc đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều

phần thưởng cao qúy như: Huân chương lao động hạng Ba, Bằng khen của

Thủ tướng Chính phủ; Cờ thi đua Ngành Tư pháp, UBND tỉnh; Bằng khen

của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh…

- Về tình hình thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ: Thực trạng công tác THADS

tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình trong những năm qua đã có những

chuyển biến cơ bản và tạo sự bền vững. Các cơ quan THADS đã tổ chức thi

hành số lượng lớn những vụ việc và tiền phải thi hành án, kết quả năm sau

luôn cao hơn năm trước và giảm đáng kể số việc, tiền chuyển sang kỳ sau, đặc

biệt, là giảm đáng kể lượng án tồn đọng kéo dài nhiều năm. Để có cái nhìn

tổng quan hơn về kết quả công tác THADS giai đoạn từ năm 2013 - 2017, tôi

đưa các số liệu cụ thể như sau:

Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân THADS về việc của các cơ quan

THADS tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2013 - 2017

Năm côngtác Tổng số việc phải thi hành Tổng số việc có điều kiện thi hành Tỷ lệ thi hành xong/số việc có điều kiện

2013

3.465

93%

2.877

2014

3.281

2.583

93%

2.779

2015

3.447

2.837

97%

2.914

2016

3.741

2.956

91%

3.261

2017

4.073

3.173

91%

3.504

Tổng số việc thi hành xong 2.677

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn

2013-2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

40

Bảng 2.2: Kết quả THADS về tiền của các cơ quan THADS

tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2013 - 2017

Năm công tác Tổng số tiền phải thi hành (1.000đ) Tổng số tiền có điều kiện thi hành(1.000đ)

2013

75.132.749

30.608.155

2014

139.803.286

80.371.111

65.890.764

82%

185.052.651

85.348.862

83.292.293

98%

272.542.093

132.677.879

46.379.753

35%

2015 20161 20172

395.605.455

150.643.167

70.132.314

47%

Tổng số tiền thi hành xong (1.000đ) 27.967.708 Tỷ lệ thi hành xong/số tiền có điều kiện 91%

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn

2013-2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

2.1.2. Tình hình đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự tại

các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình

Bảng 2.3. Số liệu đơn thư khiếu nại, tố cáo và kết quả giải quyết của các

cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2013 - 2017

2013

26

26/26

100%

0

2014

41

44/44

100%

3

2015

37

48/48

100%

11

2016

39

44/44

100%

5

2017

34

34/34

100%

0

Tỷ lệ % Năm công tác Số lượng đơn khiếu nại Số lượng đơn tố cáo Kết quả giải quyết

Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn

1 Quyết định số 940/QĐ-TCTHADS ngày 09/12/2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS về việc giao chỉ tiêu, nhiệm vụ cho các cơ quan THADS địa phương năm 2016 (chỉ tiêu giao về việc, tiền giảm so với các năm trước);

2 Quyết định số 1286/QĐ-TCTHADS ngày 21/12/2016 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS về việc giao chỉ tiêu, nhiệm vụ cho các cơ quan THADS địa phương năm 2017 (chỉ tiêu giao về việc, tiền giảm so với các năm trước);

2013-2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.

41

* Tình hình khiếu nại về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng

Bình giai đoạn từ năm 2013 – 2017 như sau:[14]

- Năm 2013, các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình đã thụ lý tổng số 26

đơn khiếu nại (tương ứng 21 việc). Trong đó, Cục THADS tỉnh nhận 07 đơn,

(tương ứng 07 việc), thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục 07 việc; các Chi

cục THADS cấp huyện nhận 17 đơn (tương ứng 12 việc), thuộc thẩm quyền

giải quyết 12 việc; thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác là 02

đơn (tương ứng 02 việc). Đã giải quyết xong 19/19 việc khiếu nại thuộc thẩm

quyền, đạt tỷ lệ 100% (02 đơn không thuộc thẩm quyền đã chuyển đơn cho cơ

quan có thẩm quyền giải quyết). Trong số đã giải quyết theo thẩm quyền, số

khiếu nại đúng toàn bộ 01việc; số khiếu nại đúng một phần 03 việc; số khiếu

nại sai toàn bộ 15 việc.

- Năm 2014, các cơ quan THADStỉnh Quảng Bình đã thụ lý tổng số

41đơn khiếu nại (tương ứng 33 việc). Trong đó, Cục THADS tỉnh nhận 22

đơn (tương ứng 19 việc), thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục 09 việc; 10

việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các Chi cục (Cục đã chuyển đơn giải

quyết theo thẩm quyền); các Chi cục THADS cấp huyệnnhận 19 đơn (tương

ứng 14 việc) thuộc thẩm quyền giải quyết 20 việc (bao gồm cả 10 việc Cục

THADS chuyển); thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác là 02

đơn (tương ứng 02 việc). Đã giải quyết xong 31/31 việc khiếu nại thuộc thẩm

quyền, đạt tỷ lệ 100% (02 đơn không thuộc thẩm quyền đã chuyển cho cơ

quan có thẩm quyền giải quyết). Trong số đã giải quyết theo thẩm quyền, số

đình chỉ 01 việc; số khiếu nại đúng toàn bộ 0 việc; số khiếu nại đúng một

phần 02 việc số khiếu nại sai toàn bộ 28 việc.

- Năm 2015, các cơ quan THADStỉnh Quảng Bình đã thụ lý tổng số

37đơn khiếu nại(tương ứng 28 việc). Trong đó, Cục THADS tỉnh nhận 19 đơn

(tương ứng 17 việc), thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục 03 việc; 14 việc

42

thuộc thẩm quyền giải quyết của các Chi cục (Cục đã chuyển đơn giải quyết

theo thẩm quyền); các Chi cục THADS cấp huyện nhận18 đơn (tương ứng 11

việc) thuộc thẩm quyền giải quyết 25 việc (bao gồm cả 14 việc Cục THADS

chuyển); thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác là 0 đơn (tương

ứng 0 việc). Đã giải quyết xong 28/28việc khiếu nại thuộc thẩm quyền, đạt tỷ

lệ 100%. Trong số đã giải quyết theo thẩm quyền, số đình chỉ 0 việc; số khiếu

nại đúng toàn bộ 01 việc; số khiếu nại đúng một phần 03 việc; số khiếu nại sai

toàn bộ 24 việc.

- Năm 2016, các cơ quan THADStỉnh Quảng Bình đã thụ lý tổng số

39đơn khiếu nại (tương ứng 22 việc). Trong đó, Cục THADS tỉnh nhận 19

đơn (tương ứng 19 việc)thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục là 02 việc, 17

việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các Chi cục (Cục đã chuyển đơn giải

quyết theo thẩm quyền);các Chi cục THADS cấp huyện nhận 20 đơn (tương

ứng 20 việc) thuộc thẩm quyền giải quyết 20 việc (bao gồm cả 17 việc Cục

THADS chuyển); thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác là 0 đơn

(tương ứng 0 việc). Đã giải quyết xong 22/22việc khiếu nại thuộc thẩm quyền

giải quyết của các cơ quan THADS, đạt tỷ lệ 100%. Trong số đã giải quyết

theo thẩm quyền, số đình chỉ 0 việc; số khiếu nại đúng toàn bộ 02 việc; số

khiếu nại đúng một phần 0 việc; số khiếu nại sai toàn bộ 20 việc.

- Năm 2017, các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình đã thụ lý tổng số 34

đơn khiếu nại (tương ứng 27 việc). Trong đó, Cục THADS tỉnh nhận 17 đơn

(tương ứng 10 việc) thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục 03 việc, 07 việc

thuộc thẩm quyền giải quyết của các Chi cục (Cục đã chuyển đơn giải quyết

theo thẩm quyền); các Chi cục THADS cấp huyện nhận 17 đơn (tương ứng 17

việc) thuộc thẩm quyền giải quyết 24 việc (bao gồm cả 07 việc Cục THADS

chuyển); thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác 0 đơn (0 việc).

Đã giải quyết xong 27/27 việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của các

43

cơ quan THADS, đạt tỷ lệ 100%. Trong số đã giải quyết theo thẩm quyền, số

đình chỉ 01 việc; số khiếu nại đúng toàn bộ 03 việc; số khiếu nại đúng một

phần 03 việc; số khiếu nại sai toàn bộ 20 việc.

Từ số liệu khiếu nại về THADS cho thấy, qua các năm công tác, số

lượng đơn thư khiếu có chiều hướng gia tăng, khiếu nại thường gặp là khiếu

nại chưa thỏa mãn với nội dung bản án, quyết định của Tòa án; ra quyết định

thi hành án; xác minh điều kiện thi hành án; thông báo thi hành án; cưỡng chế

kê biên, xử lý tài sản; thẩm định giá tài sản; bán đấu giá tài sản; giao tài sản

sau khi bán đấu giá... Việc xác định các khiếu nại về THADS cơ bản đã được

phân loại phù hợp, chất lượng giải quyết khiếu nại đã được cải thiện đáng kể,

các bước trong quy trình giải quyết khiếu nại như xác minh, tăng cường đối

thoại làm việc trực tiếp với công dân, thu thập chứng cứ, viện dẫn lý lẽ, lập

luận, căn cứ pháp luật để giải quyết đảm bảo đúng đắn về mặt nội dung.

Bên cạnh đó, cũng thông qua khiếu nại, giải quyết khiếu nại THADS các

cơ quan chức năng đã thực hiện tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp

luật liên quan đến nội dung khiếu nại của đương sự và tổ chức thi hành án của

các cơ quan THADS, Chấp hành viên tới người dân, nhiều trường hợp đương

sự sau khi được giải thích, hiểu rõ quy định pháp luật đã rút đơn khiếu nại.

Đối với những trường hợp phải ban hành quyết định giải quyết khiếu nại thì

điều đáng chú ý là đại đa số nội dung khiếu nại đều không đúng sự thật nên

không được chấp nhận; cũng có đơn khiếu nại mà nội dung khiếu nại chỉ

đúng một phần.

2.2. Kết quả và hạn chế; nguyên nhân của hạn chế thực hiện quyền

khiếu nại về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình

2.2.1. Kết quả đạt được

Thứ nhất: Công tác tiếp công dân đã đi vào nề nếp

44

Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác tiếp công dân, giải quyết

khiếu nại về THADS của đương sự. Các Chi cục THADS huyện, thị xã, thành

phố và Cục THADS tỉnh Quảng Bình đã quan tâm, chú trọng công tác tiếp

công dân, thể hiện từ khâu bố trí địa điểm, bố trí con người, công khai hóa các

thông tin về trình tự thủ tục thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại bộ phận

một cửa của cơ quan hoặc tích hợp trên cổng thông tin điện tử của ngành

THADS để người dân tiếp cận. Phần lớn các cơ quan THADS đều chú trọng

bố trí cán bộ có kinh nghiệm để làm công tác tiếp dân, đã xây dựng quy chế

tiếp công dân, nội quy tiếp công dân, bố trí lịch tiếp dân của Lãnh đạo. Thông

qua việc tiếp dân đã chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp

luật, làm cho người khiếu nại hiểu biết rõ hơn về quyền, nghĩa vụ của mình,

nhận thức đúng đắn hơn về chức năng, nhiệm vụ của Chấp hành viên và công

tác THADS. Có nhiều trường hợp thông qua kết quả tiếp dân, tận tình giải

thích, đối thoại rõ ràng, đương sự đã nhận thức rõ việc làm của cơ quan

THADS, nên đã tự nguyện rút đơn khiếu nại và hợp tác với cơ quan THADS

để tổ chức giải quyết dứt điểm việc thi hành án.

Thứ hai: Chủ thể thực hiện quyền khiếu nại về THADS về cơ bản đúng

đối tượng, đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục luật định

Qua công tác xử lý đơn khiếu nại về THADS nhận thấy, cơ bản người

thực hiện quyền khiếu nại về THADS là người được thi hành án, người phải

thi hành án hoặc là người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan được ấn định

trong bản án, quyết định của Tòa án và đối tượng khiếu nại là quyết định thi

hành án, quyết định về thi hành án hay hành vi của Thủ trưởng cơ quan

THADS, Chấp hành viên đã tác động trực tiếp hay gián tiếp đến quyền, lợi

ích của họ mà họ cho rằng bị xâm phạm.

Thứ ba: Kỹ năng tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại về

THADS được thực hiện một cách chủ động, khoa học và đúng pháp luật

45

Ngày 06/5/2014, liên ngành Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân

dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng đã ban hành hướng dẫn

số 24/HD-VKSTC-TATC-BCA-BTP-BQP về việc phân loại đơn khiếu nại, tố

cáo trong hoạt động tư pháp. Trên cơ sở văn bản hướng dẫn của liên ngành,

Cục THADS tỉnh Quảng Bình đã triển khai thực hiện hướng dẫn liên ngành

về phân loại đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp đến các đơn vị

THADS trong tỉnh. Theo đó, việc xử lý đơn thư khiếu nại về THADS trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình ngày càng chính xác, khách quan, khoa học và tuân theo

đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật, loại bỏ các loại đơn không đủ

điều kiện xử lý, đồng thời phục vụ công tác quản lý theo dõi, báo cáo, tổng

kết đơn thư khiếu nại.

Từ thực tiễn số lượng đơn thư khiếu nại của đương sự và kết quả giải

quyết khiếu nại của các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cho

thấy, Thủ trưởng cơ quan thi hành án đã tích cực trong việc tổ chức gặp gỡ,

đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, đồng thời giải thích, thuyết

phục để họ hiểu các quyền và nghĩa vụ của mình nên chất lượng việc giải

quyết khiếu nại đạt hiệu quả khá cao, hạn chế thấp nhất việc đương sự khiếu

nại kéo dài vượt cấp về các nội dung đã được giải quyết.

Thông qua việc khiếu nại về THADS mà các đương sự thực hiện được

quyền tự bảo vệ mình trước những hành vi, quyết định của cá nhân, tổ chức

có thẩm quyền mà các đương sự cho rằng hành vi, quyết định đó đã ảnh

hưởng, xâm phạm đến quyền, lợi ích của mình. Hơn nữa, thông qua việc

khiếu nại về THADS người dân nói chung và các đương sự nói riêng đã thực

hiện được quyền giám sát của mình đối với các hoạt động của cán bộ, công

chức, cơ quan công quyền trong thực thi công vụ.

46

Thứ tư: Công tác quản lý, chỉ đạo giải quyết việc khiếu nại kịp thời, sát

sao đảm bảo mọi công dân đều được khiếu nại về THADS theo luật định

Cục THADS tỉnh Quảng Bình đã quán triệt, tổ chức, chỉ đạo và hướng

dẫn các Chi cục THADS làm tốt công tác phối hợp tuyên truyền, phố biến

pháp luật cho nhân dân. Với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động, Cục

THADS tỉnh Quảng Bình đã chú trọng việc giải quyết khiếu nại đúng thời

hạn, đúng pháp luật ngay từ cơ sở, hạn chế đến mức thấp nhất khiếu nại mới

phát sinh, khiếu nại vượt cấp. Mọi khiếu nại phải được xem xét, xử lý, giải

quyết đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ

chức và người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc THADS. Các đơn vị

cũng đã nhận thức rất rõ về trách nhiệm giải quyết khiếu nại và trách nhiệm

giải quyết các vụ việc khiếu nại theo hướng giảm thiểu, tiến tới giải quyết dứt

điểm các vụ việc và không làm phát sinh vụ việc mới.

Thứ năm: Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa

phương; sự phối hợp liên ngành trong công tác giải quyết khiếu nại về

THADS được các cấp, các ngành quan tâm hơn

Quán triệt sâu sắc các chủ trương, đường lối của Đảng được đề ra tại các

Văn kiện Đại hội, Nghị quyết, Chỉ thị đối với động tư pháp nói chung và hoạt

động THADS nói riêng nên về cơ bản các cấp ủy Đảng, chính quyền địa

phương trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các

cấp, cơ quan, ban, ngành của mình tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng

về công tác THADS, trong đó tập trung giải quyết những vụ việc khiếu nại

phức tạp, tồn đọng, kéo dài hoặc mới phát sinh nhưng ảnh hưởng đến anh

ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.

Về công tác phối hợp liên ngành trong công tác giải quyết khiếu nại: Sau

hơn 03 năm thực hiện, Quy chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan

THADS, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Công an cho thấy phát

47

huy được hiệu quả. Trong quá trình thực hiện Quy chế, các ngành thường

xuyên phối hợp, trao đổi, bàn bạc thống nhất giải quyết, tháo gỡ những khó

khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau trong công tác THADS

cũng như trong công tác giải quyết khiếu nại về THADS. Công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về thi hành án, pháp luật khiếu nại về THADS

được các ngành tập trung chỉ đạo để đương sự, công dân, cơ quan, tổ chức

hiểu và thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật góp phần

đảm bảo an ninh, chính trị tại địa phương. Cho đến nay, tất cả các cơ quan

THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đều đã ban hành quy chế phối hợp liên

ngành trong công tác THADS cũng như trong công tác giải quyết khiếu nại về

tư pháp, tạo sự thống nhất, điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp trong công

tác giải quyết khiếu nại về tư pháp nói chung và khiếu nại về THADS nói

riêng trên địa bàn.

Việc phối hợp giữa các cơ quan THADS với các cơ quan hữu quan trên

địa bàn tỉnh Quảng Bình được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau

nhưng thông thường được tiến hành dưới các hình thức: Ban hành Quy chế

phối hợp; báo cáo bằng văn bản; tổ chức các cuộc họp; trao đổi trực tiếp; cung

cấp hồ sơ, tài liệu; thông báo kết quả giải quyết; tổ chức hội nghị tổng kết.

Thực tiễn công tác THADS cho thấy mối quan hệ giữa cơ quan THADS,

Chấp hành viên với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan đã hình thành và

được giải quyết cơ bản hài hòa, góp phần không nhỏ vào việc tăng cường và

nâng cao hiệu quả công tác THADS nói chung và công tác giải quyết khiếu

nại về THADS nói riêng.

Thứ sáu: Công tác báo cáo, tổng hợp số liệu, đánh giá tình hình khiếu

nại về THADS của các đương sự được thực hiện thường xuyên, chính xác

Các Chi cục THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã thực hiện nghiêm

túc chế độ báo cáo, kể cả báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất. Nhờ vậy, Cục

48

THADS tỉnh Quảng Bình, các chuyên viên phòng kiểm tra, giải quyết khiếu

nại, tố cáo tỉnh và các Chi cục THADS đã theo dõi, quản lý tốt công tác khiếu

nại, đánh giá được tình hình khiếu nại về THADS của công dân; việc áp dụng

các quy định pháp luật của cán bộ, công chức trong giải quyết khiếu nại cho

các đương sự có được đảm bảo hay không; chất lượng giải quyết khiếu nại,

những khó khăn, vướng mắc... để báo cáo cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Đồng thời, từ đó có đề xuất, kiến nghị hoàn thiện thể chế, đánh giá được chất

lượng của công chức trong thực thi công vụ có đảm bảo được quyền lợi của

các bên đương sự hay không để kịp thời bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên

môn nghiệp vụ trong giải quyết hiếu nại nhằm đảm bảo quyền khiếu nại về

THADS của đương sự.

Thứ bảy: Quyền khiếu nại về THADS của các đương sự, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan và người bị khiếu nại được đảm bảo thực hiện

Một là, quyền của người khiếu nại về THADS được thực hiện đầy đủ và

hiệu quả; được Chấp hành viên, cán bộ cơ quan THADS tiếp dân, giải thích

và hướng dẫn rõ ràng các quy định của pháp luật về THADS, pháp luật về

khiếu nại để người khiếu nại tự bảo vệ mình trước hành vi, quyết định bị xâm

hại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại hoặc có quyền nhờ

luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại. Vấn đề quan trọng nhất

của quyền khiếu nại là được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm

phạm và được bồi thường thiệt hại (nếu có).

Hai là, bên cạnh với quyền của người khiếu nại về THADS thì quyền

của người bị khiếu nại về THADS cũng được bảo vệ một cách chính đáng,

tránh trường hợp các bên đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan lợi

dụng dân chủ hoặc cố tình khiếu nại để nhằm trốn tránh, trì hoãn việc thi hành

án hoặc làm mất uy tín, danh dự của cán bộ, Chấp hành viên. Do vậy, trong

các trường hợp bị khiếu nại thì quy định của pháp luật về khiếu nại cũng như

49

người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đều tạo điều kiện cho người bị

khiếu nại biết các căn cứ khiếu nại của người khiếu nại; đưa ra bằng chứng về

tính hợp pháp của quyết định, hành vi bị khiếu nại và được nhận quyết định

giải quyết khiếu nại.

2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế thực hiện quyền khiếu

nại về THADS của đương sự

2.2.2.1. Hạn chế

Thứ nhất: Một số Thủ trưởng cơ quan THADS, cán bộ làm công tác

tham mưu công tác giải quyết khiếu nại xác định sai thẩm quyền, để quá thời

hạn, chậm giải quyết đối với đơn khiếu nại của đương sự gây nhiều bức xúc

trong nhân dân.

Ví dụ: Bản án số 07/2013/HCPT ngày 15/5/2013 của Tòa án nhân dân

(TAND) tỉnh QB tuyên: “...huỷ Quyết định số 101/QĐXP-UBND ngày

22/11/2006 của UBND xã Tiến Hoá, huyện TH, tỉnh QB về việc xử phạt vi

phạm hành chính đối với bà Nguyễn Thị Loan. Buộc UBND xã Tiến Hoá,

huyện TH, tỉnh QB trả lại số tiền phạt và số tiền đã thu của bà Loan để tổ

chức cưỡng chế và tiền thuê xe chở tài sản tại thời điểm xét xử sơ thẩm:

2.500.000 đồng.

Chi cục THADS huyện TH thụ lý đơn yêu cầu thi hành án của bà

Nguyễn Thị Loan và ra Quyết định thi hành án số 165/QĐ-CCTHADS ngày

15/4/2016 thi hành án đối với: UBND xã Tiến Hoá, địa chỉ: Xã Tiến Hoá,

huyện TH, tỉnh QB, phải thi hành khoản trả lại số tiền phạt và số tiền đã thu

của bà Loan để tổ chức cưỡng chế và tiền thuê xe chở tài sản, số tiền:

2.500.000 đồng.

Sau khi nhận được Quyết đinh thi hành án, UBND xã Tiến Hoá đã nộp

đủ số tiền 2.500.000đ và Chấp hành viên Chi cục THADS huyện TH thông

báo cho bà Nguyễn Thị Loan đến nhận tiền theo quy định nhưng bà Loan

50

không nhận tiền với lý do là thi hành án chưa đúng, chưa đủ tài sản. Vì vậy,

bà Loan đã gửi đơn khiếu nại, Chi cục THADS huyện TH đã ban hành Quyết

định giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-CCTHADS ngày 08/9/2016: không chấp

nhận các nội dung đơn khiếu nại liên quan đến việc THADS của bà Nguyễn

Thị Loan. Bà Loan không chấp nhận Quyết định giải quyết khiếu nại trên nên

đã cùng lúc gửi đơn khiếu nại đến nhiều cơ quan trung ương và địa phương.

Đồng thời, bà Nguyễn Thị Loan đã gửi đơn đến Cục THADS tỉnh QB (do

Tổng cục THADS chuyển đơn, Cục THADS tỉnh QB nhận ngày 22/11/2016).

Căn cứ khoản 2 Điều 140 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của THADS

năm 2014 thì thời hiệu khiếu nại lần 2 đối với quyết định giải quyết khiếu nại

lần 1 của bà đã hết, vì vậy, Cục THADS tỉnh QB đã ra Thông báo số

1230/TB-THADS ngày 30/11/2016 về việc không thụ lý đơn khiếu nại của bà

Loan.

Vụ việc chưa được giải quyết thỏa đáng, bà Loan gửi đơn khiếu nại đến

Văn phòng Chính phủ. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp về

việc giải quyết đơn của bà Nguyễn Thị Loan khiếu nại liên quan đến việc Chi

cục THADS huyện TH tổ chức thi hành Bản án hành chính phúc thẩm số

07/2013/HC-PT ngày 03/5/2013 của TAND tỉnh QB (Đơn được chuyển kèm

theo Công văn số 4460/VPCP-V.I ngày 03/5/2017 của Văn phòng Chính

phủ). Sau khi nghiên cứu nội dung đơn và các tài liệu có trong hồ sơ thi hành

án, hồ sơ giải quyết khiếu nại, Tổng cục THADS nhận thấy: Bà Loan khiếu

nại Quyết định thi hành án số 165/QĐ-CCTHADS ngày 15/4/2016 của Chi

cục trưởng Chi cục THADS huyện TH. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 142

Luật THADS thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại là Cục trưởng Cục THADS

tỉnh QB. Tuy nhiên, Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện TH thụ lý, ban

hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-CCTHADS ngày 08/9/2016

và Cục trưởng Cục THADS tỉnh QB ban hành Thông báo số 1230/TB-

51

THADS ngày 30/11/2016 về việc không thụ lý đơn khiếu nại của bà Loan là

chưa phù hợp với quy định của pháp luật.

Do đó, Tổng cục THADS yêu cầu Cục trưởng Cục THADS tỉnh QB thu

hồi Thông báo số 1230/TB-THADS ngày 30/11/2016; chỉ đạo Chi cục

THADS huyện TH thu hồi Quyết định giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-

CCTHADS ngày 08/9/2016. Đồng thời, thực hiện quy trình giải quyết khiếu

nại đối với bà Loan theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.

Từ ví dụ nêu trên, cho thấy trình độ, năng lực của Chấp hành viên, Thủ

trưởng một số cơ quan THADS địa phương còn hạn chế ngay từ khâu phân

loại, xem xét đơn khiếu nại không thấu đáo, dẫn đến việc thụ lý, ra quyết định

giải quyết đơn khiếu nại sai thẩm quyền, thậm chí là từ chối đơn khiếu nại

yêu cầu giải quyết khiếu nại lần 2, làm đương sự bức xúc, gửi đơn đến nhiều

cơ quan, nhiều cấp có thẩm quyền. Nếu không có sự kiểm tra, chỉ đạo của cấp

trên có thẩm quyền thì việc khiếu nại của bà Loan sẽ không được xem xét giải

quyết một cách thấu đáo mà chỉ dừng lại ở việc không chấp nhận đơn hoặc trả

đơn khiếu nại cho đương sự, vì lý do đã hết thời hiệu khiếu nại lần 2.

Thứ hai: Chủ thể thực hiện quyền khiếu nại đúng thẩm quyền, đúng đối

tượng, đúng trình tự thủ tục quy định, đúng nội dung nhưng vẫn có tình trạng

Thủ trưởng cơ quan THADS không chấp nhận đơn khiếu nại của người được

thi hành án. Lý do không chấp nhận nội dung đơn khiếu nại hành vi của Chấp

hành viên chậm tổ chức thi hành án là vụ việc có khó khăn, vướng mắc đang

chờ ý kiến chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS huyện đã gây bức xúc cho đương

sự, vì lý do chờ ý kiến chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS huyện LT không

phải là căn cứ để Chấp hành viên tạm dừng việc thi hành án và không chấp

nhận đơn khiếu nại của đương sự.

Mặt khác, khi nhận được văn bản xin ý kiến chỉ đạo giải quyết vụ việc

của Chi cục THADS huyện LT nhưng Ban Chỉ đạo THADS huyện LT chưa

52

kịp thời chỉ đạo, phối hợp giải quyết dứt điểm, đó cũng là nguyên nhân dẫn

đến việc đương sự tiếp tục khiếu nại hoặc khiếu nại vượt cấp đối với quyết

định giải quyết khiếu nại lần đầu.

Ví dụ: Bản án số 24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013 của TAND tỉnh

QB đã tuyên: "...Công nhận quyền sử dụng đất của hộ anh Võ Văn Hải và chị

Hoàng Thị Thuyên trên thửa đất số 128, tờ bản đồ giải thửa số 06 UBND thị

trấn Kiến Giang lập năm 1992, cụ thể: Phần trước nhà hộ anh Võ Văn Hải,

chị Hoàng Thị Thuyên có mặt tiền tiếp giáp với đường từ Bưu điện huyện Lệ

Thủy đi cầu Phong Liên có chiều rộng 6,5m (tính từ chân móng hành lang

nhà anh Võ Văn Thuận và chị Nguyễn Thị Hậu sang phần đất của hộ ông

Hoàng Quảng Tiến. Phần diện tích đất của hộ anh Võ Văn Hải và chị Hoàng

Thị Thuyên phía trước tiếp giáp phần đất hộ anh Võ Văn Thuận, chị Nguyễn

Thị Hậu có diện tích là 76,82m; Phần diện tích đất của Hộ anh Võ Văn Hải

và chị Hoàng Thị Thuyên ở phía sau tiếp giáp phần trước (nói trên) và tiếp

giáp phần nhà đất hộ anh Võ Văn Thuận, chị Nguyên Thị Hậu có diện tích là

108,26m . Toàn bộ hình thể, kích thước và diện tích đất hộ anh Võ Văn Hải,

chị Hoàng Thị Thuyên được quyền sử dụng có diện tích 185,08m theo kích

thước và hình vẽ kèm theo bản án này là một phần không tách rời của bán án.

Anh Võ Văn Thuận, chị Nguyên Thị Hậu có trách nhiệm tháo dỡ, di dời

các tài sản nằm trên phần đất của anh Võ Văn Hải và chị Hoàng Thị

Thuyên”.

Bản án có hiệu lực thi hành, ông Võ Văn Hải và bà Hoàng Thị Thuyên

làm đơn yêu cầu thi hành án. Chi cục THADS huyện LT thụ lý ra quyết định

thi hành án số 167/QĐ-CCTHA ngày 10/3/2014 thi hành án đối với khoản:

ông Võ Văn Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu có trách nhiệm tháo đỡ, di dời các tài

sản nằm trên đất của của ông Võ Văn Hải và chị Hoàng Thị Thuyên phần diện tích đất lấn chiếm 28,5m2.

53

Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên tiến hành kiểm tra, xác

minh hiện trạng diện tích đất lấn chiếm đã phát hiện có sự sai lệch về diện

tích so với phần nhận định của bản án. Theo đó, ông Võ Văn Thuận, bà

Nguyễn Thị Hậu quyết liệt chống đối không thi hành và làm đơn yêu cầu

TAND cấp cao tại Đà Nẵng giám đốc thẩm bản án. Do chưa thi hành được,

nên ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên có đơn khiếu nại, yêu cầu cưỡng

chế thi hành án. Ngày 19/12/2016, Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện LT

đã ra quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 với nội dung: Không chấp nhận

khiếu nại của ông Võ Văn Hải - bà Hoàng Thị Thuyên, do ông Võ Văn

Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu cố tình chống đối quyết liệt không thi hành và cơ

quan THADS đang chờ ý kiến chỉ đạo của Ban Chỉ đạo thi hành án huyện LT.

Ngày 10/01/2017, ông Võ Văn Hải - bà Hoàng Thị Thuyên có đơn khiếu

nại gửi Cục THADS tỉnh QB với nội dung: Không chấp nhận việc giải quyết

khiếu nại tại Quyết định giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-CCTHA ngày

19/12/2016 của Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện LT và đề nghị giải

quyết việc thi hành án đối với Bản án số 24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013

của TAND tỉnh QB. Quá trình thụ lý giải quyết khiếu nại, Cục THADS tỉnh

QB đã thành lập Đoàn xác minh, thẩm tra, đối thoại, giải quyết khiếu nại theo

quy định của pháp luật, bảo đảm khách quan, chính xác. Kết quả xác minh tại

Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện LT: Văn phòng đăng ký quyền

sử dụng đất huyện LT không có hồ sơ lưu về nguồn gốc cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất của ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên, chỉ có bản đồ

giải thửa số 06, lập năm 1992, trên bản đồ thể hiện diện tích đất cấp cho bà Hoàng Thị Thuyên tại thửa số 128, diện tích 261m2. Về diện tích đất do bản

án tuyên lệch với diện tích tại bản đồ giải thửa số 06 là do hiện trạng sử dụng

đất biến động qua các thời kỳ.

54

Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên đã nhiều lần phối hợp với

chính quyền địa phương; Tổ dân phố 6, thị trấn Kiến Giang động viên, thuyết

phục ông Võ Văn Thuận và bà Nguyễn Thị Hậu tự nguyện thi hành án nhưng

ông Võ Văn Thuận và bà Nguyễn Thị Hậu cố tình chống đối không chấp

hành. Chi Cục Thi hành án dân sự huyện LT đã báo cáo Ban chỉ đạo THADS

huyện LT nhưng chưa có ý kiến chỉ đạo. Vì vậy, Chi cục THADS huyện LT

chưa có cơ sở để thi hành dứt điểm vụ việc.

Nhận thấy, Chấp hành viên không thể tổ chức thi hành án theo quyết

định của Bản án số 24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013 của TAND tỉnh QB

là không có cơ sở. Đây không phải là căn cứ theo pháp luật quy định để dừng

tổ chức thi hành vụ án. Về nội dung ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên

cho rằng: Chi cục THADS huyện LT ban hành Quyết định giải quyết khiếu

nại số 01/QĐ-CCTHA ngày 19/12/2016 không chấp nhận khiếu nại là không

thỏa đáng, không khách quan.

Tại buổi đối thoại ngày 09/3/2017 giữa Cục THADS tỉnh QB và ông Võ

Văn Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu (người phải thi hành án) phản ứng gay gắt,

không chấp nhận bản án, ông bà cho rằng sơ đồ phân đất kèm theo bản án

không có giá trị pháp lý, vì không có cơ quan chuyên môn về quản lý đất đai

xác nhận.

Cục THADS tỉnh QB thấy rằng: Kết quá xác minh tại Văn phòng đăng

ký quyền sử dụng đất huyện Lệ Thủy: Bản đồ giải thửa số 06, lập năm 1992

phù hợp với hình thể thửa đất của hộ ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên,

về diện tích đất do bản án tuyên lệch với diện tích tại bản đồ giải thửa số 06 là

do hiện trạng sử dụng đất biến động qua các thời kỳ. Căn cứ sơ đồ hiện trạng

sử dụng đất lập ngày 17/6/2011 có sự tham gia của cơ quan quản lý nhà nước

về đất đai, biên bản thẩm định ngày 21/11/2013, TAND tỉnh QB tuyên ông

55

Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên được quyền sử dụng diện tích đất 185,08m2 là có cơ sở và hợp tình, hợp lý.

Về nội dung ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên đề nghị giải quyết

việc thi hành án theo Bản án số 24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013 của

TAND tỉnh QB. Người phải thi hành án là ông Võ Văn Thuận, bà Nguyền Thị

Hậu có trách nhiệm tháo dỡ, di dời các tài sản nằm trên phần đất của anh Võ

Văn Hải và chị Hoàng Thị Thuyên là việc làm không thuộc trường hợp khó

khăn, phức tạp vì phần đất lấn chiếm về tổ chức thi hành vụ việc: không phải

là công trình kiên cố mà là các vật liệu (đá, gạch, ngói...) có thể dịch chuyển

được. Nhưng ông Võ Văn Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu cố tình dây dưa, chưa

thi hành là thể hiện ý thức chống đối, không chấp hành bản án của Tòa án, vi

phạm quy định tại Điều 106 Hiến pháp nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải

được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu

quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” và pháp luật về THADS. Do đó, quyền

lợi của ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên chưa được bảo đảm. Vì vậy,

nội dung yêu cầu giải quyết việc thi hành án theo Bản án số 24/2013/TCDS-

PT ngày 31/12/2013 của TAND tỉnh QB cần được chấp nhận, để tiếp tục thi

hành dứt điểm vụ việc.

Căn cứ kết quả thi hành tại hồ sơ thi hành án, hồ sơ giải quyết khiếu nại

và kết quả xác minh, đối chiếu với những nội dung đơn khiếu nại, thấy rằng

Quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 của Chi cục trưởng Chi cục THADS

huyện LT nêu các nội dung, viện dẫn căn cứ để không chấp nhận đơn của ông

Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên là không thuyết phục, không đúng với quy

định của pháp luật. Quá trình xác minh, giải quyết vụ việc chưa nghiên cứu kỹ

quyết định của bản án.

56

Từ những căn cứ, nhận định phân tích nêu trên, Cục trưởng Cục THADS

tỉnh QB quyết định chấp nhận toàn bộ đơn khiếu nại của ông Võ Văn Hải - bà

Hoàng Thị Thuyên; không chấp nhận việc giải quyết khiếu nại tại Quyết định

giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-CCTHA ngày 19/12/2016 của Chi cục trưởng

Chi cục THADS huyện LT và yêu cầu giải quyết việc thi hành Bản án số

24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013 của TAND tỉnh QB. Hủy bỏ Quyết định

giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-CCTHA ngày 19/12/2016 của Chi cục trưởng

Chi cục THADS huyện LT và yêu cầu Chi cục THADS huyện LT tiếp tục tổ

chức thi hành bản án đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi của

người đuợc thi hành án.

Thứ ba: Thủ trưởng một số cơ quan THADS cấp huyện (người có thẩm

quyền giải quyết khiếu) cố tình né tránh việc khiếu nại của đương sự, vì sợ

ảnh hưởng đến công tác quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và kết quả

thi đua của đơn vị mình nên đưa ra các lý do để từ chối việc nhận đơn, thụ lý

đơn khiếu nại, cho rằng việc khiếu nại của đương sự là không đúng hoặc

nguyên nhân dẫn đến khiếu nại không phải là do ý thức chủ quan của Chấp

hành viên, Thủ trưởng cơ quan THADS mà là do yếu tố khách quan có khó

khăn, vướng mắc từ các cơ quan chuyên môn, có các quan điểm khác nhau

trong việc áp dụng các quy định của pháp luật nên chậm tổ chức thi hành án,

chưa giải quyết dứt điểm vụ việc.

Thứ tư: Vẫn còn tình trạng đơn khiếu nại gửi đến cơ quan THADS

nhưng không đúng chủ thể có quyền khiếu nại về THADS, không đúng cơ

quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.

Chủ thể có quyền khiếu nại về THADS là người được thi hành án, người

phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, có

nhiều trường hợp con là người được thi hành án nhưng bố, mẹ (không phải là

người được thi hành án) lại làm đơn khiếu nại. Đến khi được cơ quan

57

THADS, cán bộ tiếp dân hướng dẫn thì đã quá thời hiệu khiếu nại hoặc có

trường hợp người được thi hành án chỉ ủy quyền nộp đơn yêu cầu thi hành án,

tham gia giải quyết thi hành án nhưng không ủy quyền khiếu nại về THADS

nhưng người đó vẫn thực hiện khiếu nại về THADS dẫn đến quá thời hiệu của

chủ thể được quyền khiếu nại về THADS.

Nhiều trường hợp đương sự không nắm bắt, tìm hiểu các quy định của

pháp luật gửi đơn khiếu nại tràn lan đến nhiều cơ quan, nhiều cấp khác nhau

làm mất thời gian, công sức, ngân sách, uy tín, danh dự của Thủ trưởng đơn

vị, cán bộ, Chấp hành viên và cơ quan nhà nước trong việc xử lý, phân loại,

giải quyết đơn khiếu nại của các đương sự, mặc dù Luật Khiếu nại năm 2011

cũng như Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy

định rõ quyền khiếu nại, thẩm quyền giải quyết khiếu nại và những trường

hợp khiếu nại không được thụ lý giải quyết.

Thứ năm: Việc xem xét, giải quyết đơn thư khiếu nại của cán bộ, công

chức đối với người dân chưa được triệt để, có nhiều quan điểm trái chiều

trong cách hiểu, cách thức áp dụng pháp luật của các cơ quan có liên quan, vì

vậy quyền khiếu nại về THADS của đương sự không được đảm bảo.

Ví dụ: Bản án số 04/2012/DS-ST ngày 17/8/2012 của TAND huyện LT,

tỉnh QB tuyên buộc bà Phạm Thị T phải trả cho bà Phan Thị D số tiền

1.104.612.500 đồng. Bản án có hiệu lực pháp luật bà Phan Thị D có đơn yêu

cầu thi hành án. Chi cục THADS huyện LT, tỉnh QB đã ra quyết định thi hành

án cho thi hành án đối với bà Phạm Thị T. Chấp hành viên tiến hành xác minh

cho thấy bà Phạm Thị T có 01 lô đất và tài sản gắn liền với đất tại thôn A xã B, huyện LT, tỉnh QB diện tích 290 m2 mang tên Phạm Thị T nhưng đã làm

thủ tục chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn K; trú tại xã C huyện LT, tỉnh

QB trước khi bản án xét xử 03 tháng. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử

dụng đất chỉ mới hoàn tất thủ tục chứng thực, chưa đăng ký sang tên trước bạ

58

tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định. Quá trình thi hành

án bà Phan Thị D (người được thi hành án) cho rằng giao dịch Hợp đồng

chuyển quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thị T và ông Nguyễn Văn K chưa có

hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật về đất đai, do đó yêu cầu Chi

cục THADS huyện LT kê biên diện tích đất trên để đảm bảo thi hành án.

Trên cơ sở các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 502 quy

định về hình thức, thủ tục thực hiện hợp đồng về quyền sử dụng đất:

“1. Hợp đồng về quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản theo

hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy

định khác của pháp luật có liên quan.

2. Việc thực hiện hợp đồng về quyền sử dụng đất phải đúng trình tự, thủ

tục theo quy định của pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có

liên quan”.

Điều 503 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định:“Việc chuyển quyền sử

dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký theo quy định của Luật đất đai”.

Luật Đất đai năm 2013 quy định về đăng ký đất đai, nhà ở và tài sản

khác gắn liền với đất tại Điều 95 như sau:

“1. Đăng ký đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và người

được giao đất để quản lý; đăng ký quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn

liền với đất thực hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu.

2. Đăng ký đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất gồm đăng ký

lần đầu và đăng ký biến động, được thực hiện tại tổ chức đăng ký đất đai

thuộc cơ quan quản lý đất đai, bằng hình thức đăng ký trên giấy hoặc đăng ký

điện tử và có giá trị pháp lý như nhau”.

...7. Việc đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất có hiệu lực kể từ thời

điểm đăng ký vào Sổ địa chính”.

59

Theo đó, Chấp hành viên Cơ quan THADS huyện LT đã áp dụng biện

pháp kê biên nhà, đất nêu trên để đảm bảo thi hành hành án. Nhà, đất trên mặc

dù đã được công chứng, chứng thực (đảm bảo về mặt nội dung) còn về hình

thức chưa đảm bảo (tức chưa làm thủ tục sang tên, đăng ký tại văn phòng

đăng ký Quyền sử dụng đất) nên hiệu lực của giao dịch trên chưa có giá trị

trên thực tế, vì vậy, Chấp hành viên có quyền cưỡng chế kê biên, xử lý theo

quy định của pháp luật THADS.

Tuy nhiên, sau khi kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

nêu trên, ông Nguyễn Văn K có đơn khiếu nại đối với Chấp hành viên Lê Văn

H, vì cho rằng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn

liền với đất đã có hiệu lực pháp luật (bên bán bà Phạm Thị T đã chuyển quyền

sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất và bên mua ông Nguyễn Văn K đã thanh

toán đầy đủ tiền mua và đã nhận bàn giao nhà, đất).

Theo quy định tại khoản 1, Điều 5 Luật Công chứng năm 2014: “Văn

bản Công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu

của tổ chức hành nghề Công chứng’’.

Khoản 1 Điều 12 Luật Nhà ở năm 2014 quy định về thời điểm chuyển

quyền sở hữu nhà ở như sau: “Trường hợp mua bán nhà ở mà không thuộc

diện quy định tại khoản 3 Điều này và trường hợp thuê mua nhà ở thì thời

điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là kể từ thời điểm bên mua, bên thuê mua đã

thanh toán đủ tiền mua, tiền thuê mua và đã nhận bàn giao nhà ở, trừ trường

hợp các bên có thỏa thuận khác”.

Do đó, phía người phải thi hành án và bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan cho rằng việc cưỡng chế kê biên nhà, đất nêu trên của Chấp hành viên

Lê Văn H là sai trái. Vì Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất đã được chứng

thực, tức quyền tài sản của bên chuyển nhượng đã hết, việc bên nhận chuyển

nhượng không tiến hành đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất là

60

do luật không quy định trong thời gian bao lâu bên nhận chuyển nhượng phải

tiến hành đăng ký. Trường hợp không đăng ký thì chỉ bị xử phạt hành chính

và hợp đồng trên vẫn có hiệu lực.

Về phía chính quyền địa phương, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất

huyện LT thì cho rằng người dân đến đăng ký sang tên trước bạ quyền sử

dụng đất đã cung cấp đầy đủ các văn bản, giấy tờ có hiệu lực pháp luật (như

Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất bản gốc,...) nên đã làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất mới mang tên ông Nguyễn Văn K (bên nhận chuyển nhượng).

Mặt khác, phía UBND, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện LT

cũng cho rằng không có căn cứ để thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký quyền sử

dụng đất đã cấp cho bà Phạm Thị T theo quy định tại Điều 106 Luật đất đai

năm 2013 và Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định thủ tục thu hồi

giấy chứng nhận, giấy chứng nhận quyền sỡ hữu nhà ở, giấy chứng nhận

quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp.

Thiết nghĩ, những vướng mắc trên cần được quy định thống nhất nhằm

tránh những những rắc rối cho các cơ quan, tổ chức và đặc biệt là cá nhân, hộ

gia đình khi giải quyết và thực hiện việc chuyển quyền sử dụng đất. Do quy

định của các văn bản pháp luật chưa có sự thống nhất nên quan điểm giải

quyết, cách hiểu khác nhau, rất khó để cơ quan thi hành án tổ chức thi hành

vụ việc cũng như giải quyết khiếu nại của đương sự, vì vậy, đương sự vẫn tiếp

tục khiếu nại đến nhiều nơi, nhiều cấp với “hy vọng” quyền khiếu nại của

mình sẽ được cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

Thứ sáu: Một số cán bộ, công chức cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu

trách nhiệm trong việc thẩm tra, điều tra, truy tố, xét xử; sự phối hợp của Tòa

án trong việc đính chính, sửa chữa, bổ sung những sai sót đối với bản án,

quyết định chưa được kịp thời, không rõ ràng dẫn đến quyền khiếu nại của

61

đương sự không được giải quyết đầy đủ hoặc đã được xem xét giải quyết

nhưng mục đích cuối cùng của nội dung quyền khiếu nại không được đảm bảo

hoặc là không được xem xét giải quyết khi bản án, quyết định đã hết thời hiệu

giám đốc thẩm.

Ví dụ: Bản án dân sự sơ thẩm số 14/DSST ngày 10/3/2000 của TAND

huyện LT buộc vợ chồng bà Hoàng Thị Lê và ông Dương Văn Chanh (Trú

tại: Tổ dân phố 7, thị trấn Kiến Giang, huyện LT) phải giao trả cho ông

Hoàng Đình Luyện (nay bà Trần Thị Hoài Thu vợ của ông Luyện thừa kế) được quyền sử dụng đất có diện tích 321m2., bà Hoàng Thị Lê và ông Dương

Văn Chanh phải tìm nơi ở mới để trả lại khuôn viên lô đất nói trên cho ông

Hoàng Đình Luyện.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật và nhận được đơn yêu cầu thi hành

án, Đội THADShuyện LT(nay là Chi cục THADS huyện LT) đã ra Quyết

định thi hành án số 99/QĐ-THA ngày 23/5/2001. Qua vận động thuyết phục

nhiều lần, nhưng vợ chồng bà Hoàng Thị Lê, ông Dương Văn Chanh không

chấp hành việc thi hành án với các lý do:

Một là, Bản án tuyên không đúng tên của người phải thi hành án (người

phải thi hành án là ông Dương Văn Chanh nhưng Toà án tuyên là Dương Văn

Thanh); Các phía giáp ranh của lô đất Toà án tuyên không đúng (phía Đông

giáp đất ông Nguyễn Văn Cự nhưng Toà án lại tuyên Nguyễn Văn Lự. Phía

Nam giáp đất bà Đặng Thị Cúc nhưng Toà tuyên là bà Nguyễn Thị Cúc); Số

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Toà án tuyên chưa đúng.

Hai là, trên lô đất đang tranh chấp có ngôi nhà của bà Hoàng Thị Lê và

Dương Văn Chanh được xây dựng trước khi có bán án sơ thẩm nhưng Tòa án

không tuyên việc giải tỏa ngôi nhà.

Xét thấy bản án tuyên có nhiều sai sót, không đúng với thực tế, ngày

06/05/2002, Chi cục THADS huyện LT có Công văn số 244/CV-THA gửi

62

Tòa án nhân dân huyện LT đề nghị đính chính và xem xét lại bản án. Ngày

29/5/2002, Tòa án nhân dân huyện LT đã có công văn số 39/CV-TA đính

chính những sai sót về giáp giới của lô đất và số giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất nhưng vẫn chưa đầy đủ và chưa đề cập đến tài sản là ngôi nhà được

xây dựng kiên cố trước khi có bản án hiệu lực pháp luật.

Ngày 09/11/2005, Chi cục THADS huyện LT đã có Công văn số

630/CV-THA về việc đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh QB xem xét lại

bản án. Ngày 07/02/2006,Tòa án nhân dân tỉnh QB đã có văn bản số

08/GĐKT cho rằng việc đính chính của TAND huyện là chưa đúng với quy

định tại Điều 55 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và yêu cầu Tòa

án nhân dân huyện LT phải tiến hành sửa chữa những sai sót của bản án theo

đúng quy định của pháp luật.

Ngày 18/8/2008, ngày 15/12/2008 và ngày 14/9/2009 Chi cục THADS

huyện LT đã có Công văn số 01, Công văn số 1452, Công văn số 317/CV-

THADS gửi Chánh án TAND tối cao đề nghị xem xét lại bản án theo trình tự

giám đốc thẩm vụ án đã có hiệu lực pháp luật. Ngày 30/7/2010, Chi cục

THADS huyện LT nhận được Công văn số 387/TANDTC-DS của TAND về

việc trả lời Công văn của Chi cục THADS huyện LT, trong đó có nội dung:

Ngôi nhà của bà Hoàng Thị Lê, ông Dương Văn Chanh được xây dựng trước

khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật nhưng TAND huyện LT không đề

cập việc giải quyết về ngôi nhà là có thiếu sót. Vụ việc này cũng đã được báo

cáo Tổng Cục THADS và Tổng cục đã có văn bản gửi TAND tối cao, Viện

kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị xem xét bản án, nhưng vẫn chưa có kết quả.

Chi cục THADS huyện LT đã nhiều lần tổ chức cho các bên đương sự tự

thỏa thuận về khoản tiền hỗ trợ di dời cho vợ chồng ông Dương Văn Chanh,

bà Hoàng Thị Lê nhưng không có kết quả. Theo quy định tại điểm b, khoản 2,

Điều 117 Luật THADS năm 2008 về cưỡng chế giao quyền sử dụng đất quy

63

định: Trường hợp tài sản gắn liền với đất có trước khi có bản án, quyết định

sơ thẩm nhưng bản án, quyết định được thi hành không tuyên rõ việc xử lý đối

với tài sản đó thì cơ quan THADS yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định

giải thích rõ việc xử lý đối với tài sản hoặc đề nghị Tòa án có thẩm quyền

xem xét lại nội dung bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Nhưng cho

đến nay, qua nhiều lần đề nghị mà cơ quan Tòa án chưa có văn bản đảm bảo

cơ sở pháp lý để Chi cục THADS huyện LT làm căn cứ tổ chức thi hành vụ

án theo quy định của pháp luật.

Về phía người được thi hành án liên tục có đơn khiếu nại gửi nhiều cơ

quan, nhiều cấp thẩm quyền. Chi cục THADS huyện LT tiếp tục thực hiện

biện pháp cho hai bên đương sự hoà giải, thoả thuận việc thi hành án theo ý

kiến của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh QB. Nếu đã tổ chức cho hai bên hoà

giải, thoả thuận giải quyết thi hành án mà không đạt kết quả, thì đề nghị

UBND tỉnh QB cho thanh tra, kiểm tra về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử

dụng đất cho cụ Lê Thị Yên (mẹ đẽ của ông Hoàng Đình Luyện) có đúng quy

định pháp luật hay không để có căn cứ ra quyết định thu hồi hoặc ra quyết

định huỷ quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ Lê Thị

Yên (theo Công văn số 1527/CV-TATC ngày 06/10/2014 của TAND tối cao).

Sau khi có quyết định thu hồi hoặc quyết định huỷ quyết định cấp Giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất số 11364 mang tên bà Lê Thị Yên thì TAND

tối cao sẽ xem xét cho xét xử lại theo trình tự thủ tục tái thẩm. Tuy nhiên, vụ

việc không có căn cứ để thu hồi hoặc hủy quyết định cấp giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất cho cụ Lê Thị Yên. Do vậy, những sai sót của bản án

không khắc phục được, dẫn đến vụ việc tồn đọng gần 16 năm chưa giải quyết

được, bên được thi hành án càng bức xúc vì nội dung khiếu nại về THADS thì

vẫn đang bị “bõ ngõ” mà nguyên nhân sai sót từ phía cơ quan tiến hành tố

tụng.

64

2.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế

* Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất: Năng lực, trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của Chấp

hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự

Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên, cán bộ, công chức làm

công tác THADS ở một số cơ quan THADS địa phương trình độ, năng lực

còn hạn chế, chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác giải quyết

khiếu nại; nhiều trường hợp để đương sự yêu cầu nhiều lần nhưng không có

biện pháp giải quyết thoả đáng, kịp thời hoặc không giải thích cụ thể để

đương sự hiểu và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Mặc dù pháp luật đã

quy định cụ thể về thời hạn giải quyết khiếu nại, song vẫn có tình trạng để quá

thời hạn giải quyết đối với đơn khiếu nại của người dân gây nhiều bức xúc.

Một số ít cán bộ, công chức các cơ quan THADS thiếu tinh thần trách

nhiệm trong công vụ, chưa tích cực học tập, nghiên cứu các văn bản pháp luật

về THADS để nâng cao trình độ nhận thức, năng lực chuyên môn theo yêu

cầu của công việc, tác nghiệp chậm, còn lúng túng trong việc xử lý những tình

huống phát sinh trong quá trình giải quyết khiếu nại về THADS.

Thứ hai: Đạo đức nghề nghiệp của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan

thi hành án dân sự

Một số Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan THADS chưa thực sự tích

cực, quyết liệt đối với những vụ việc phức tạp, khó khăn; ngại khó, ngại va

chạm; còn trông chờ, ỷ lại sự giúp đỡ, hướng dẫn của cơ quan chuyên môn;

sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương; Ban Chỉ đạo THADS, làm

chậm quá trình tổ chức, giải quyết việc thi hành án. Cũng có trường hợp Thủ

trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên không chấp nhận sai trái của mình

trong quá trình tổ chức thi hành án (như ra quyết định thi hành án, quyết định

65

về thi hành án và hành vi trong thực thi công vụ) làm đương sự bức xúc

nhưng không được giải quyết.

Thứ ba: Trình độ quản lý, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo cơ quan lý thi

hành án, cơ quan Thi hành án dân sự còn hạn chế

Thực tế cho thấy, hiện tại vẫn có một số Thủ trưởng cơ quan quản lý

THADS, cơ quan THADS chưa bao quát hết khối lượng công việc, tình hình

khiếu nại, công tác giải quyết khiếu nại về THADS của Chấp hành viên và

các đơn vị thuộc quyền quản lý, nên sự chỉ đạo điều hành chưa kịp thời dẫn

tới giải quyết chậm, thụ lý sai thẩm quyền, chưa gắn kết được sự chỉ đạo giữa

Thủ trưởng đơn vị và cán bộ tham mưu giải quyết khiếu nại.

Thứ tư: Một số cơ quan THADS cấp huyện chưa kịp thời công khai các

trình tự thủ tục hành chính về khiếu nại, chưa kịp thời xây dựng, ban hành nội

quy tiếp công dân, quy chế giải quyết khiếu nại về THADS

Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,

dân kiểm tra, giám sát” đó là chủ trương của Đảng được mọi tầng lớp nhân

dân ủng hộ và càng đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, một số cơ quan THADS cấp

huyện chưa quán triệt sâu sắc tinh thần đó, vì vậy, trong thực hiện chức năng,

nhiệm vụ chuyên môn chưa quan tâm nhiều đến công tác tiếp công dân, hình

thức tiếp công dân và nhất là công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến

với người dân để “dân hiểu, dân biết, dân làm” trong đó có việc thực hiện

quyền khiếu nại của mình khi quyền và lợi ích chính đáng bị xâm hại.

* Nguyên nhân khách quan:

Thứ nhất: Pháp luật quy định công tác giải quyết khiếu nại về THADS

hiện hành còn bộc lộ một số bất cập cũng là yếu tố làm hạn chế quyền khiếu

nại của đương sự

Luật THADS đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam Khoá XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành

66

từ ngày 01/7/2009 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định chi tiết về

quyền, nghĩa vụ của các bên đương sự khi thực hiện khiếu nại; thẩm quyền,

thời hạn, hình thức giải quyết khiếu nại cũng như quy định cụ thể về trình tự,

thủ tục từ khâu thụ lý cho đến việc lập, lưu trữ hồ sơ và việc tổ chức thực hiện

quyết định khiếu nại đối với các bên đương sự (từ Điều 140 đến Điều 153).

Mặt khác, để việc thực hiện quyền khiếu nại cũng như giải quyết khiếu

nại về THADS được thực hiện thống nhất trong ngành THADS, đến nay Tổng

cục THADS đã ban hành Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS

(Ban hành kèm theo Quyết định số 1318/QĐ-TCTHADS ngày 30/9/2013

của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS), thay thế cho Quy chế giải quyết

khiếu nại, tố cáo về THADS (Ban hành kèm theo Quyết định số 1420/QĐ-

KNTC ngày 01/6/2010 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS). Quy chế

giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS hiện hành bao gồm 27 Điều trong đó

có 15 Điều (Từ Điều 1 đến Điều 15) quy định về giải quyết khiếu nại, kèm

theo Quy chế là 11 biểu mẫu, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/12/2013.

Quy chế này hướng dẫn cụ thể từ việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại, việc vào

sổ phân công công việc xử lý đơn, phân loại xử lý đơn khiếu nại và các đơn

khác đến trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại về THADS. Mặc dù, đã ban

hành một cơ chế giải quyết khiếu nại riêng để phù hợp với đặc thù công tác

THADS nhưng thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy các quy định hiện hành

vẫn còn bộc lộ một số bất cập:

- Một là, pháp luật quy định tại Điều 143 Luật THADS năm 2008 và

Điều 12 Luật khiếu nại năm 2011, người khiếu nại có các quyền và nghĩa vụ

cụ thể để thực hiện khiếu nại nhưng lại không quy định cụ thể trách nhiệm

của người khiếu nại trong trường hợp họ khiếu nại không có căn cứ, nội dung

sai sự thật. Mặc dù, Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 ngày 27/11/2015, có

hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016 đã có quy định về tội vu khống nhưng

67

trên thực tế rất ít được áp dụng để xử lý đối với hành vi khiếu nại sai làm

giảm uy tín của công chức THADS và ảnh hưởng đến cơ quan THADS.

- Hai là, bất cập về thời hạn giải quyết

Theo quy định của Luật THADS thì thời hạn để giải quyết khiếu nại đối

với từng quyết định, hành vi được quy định rõ ràng nhưng trong thực tế thì

gặp phải bất cập khi áp dụng thực hiện giải quyết khiếu nại. Điều 146 Luật

THADS quy định:

“1. Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm a khoản 2 Điều 140

của Luật này thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là

30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.

2. Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm b khoản 2 Điều 140 của

Luật này thì thời hạn giải quyết khiếu nại là 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ

lý đơn khiếu nại.

3. Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm c khoản 2 Điều 140 của

Luật này thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày, lần hai là 45

ngày, kế từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.

4. Trường hợp cần thiết, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp thì

thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quả 30 ngày, kể từ

ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại.

5. Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm d khoản 2 Điều 140 của

Luật này thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30

ngày, kế từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.

6. Trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, đường sá xa xôi, đi lại khó khăn, vụ

việc có tính chất phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài

nhưng không quá 30 ngày, kế từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại”.

Với quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại nêu trên, thực tế có nhiều

trường hợp vụ việc người phải thi hành án có nhiều tài sản, tài sản hình thành

68

ở nhiều nơi, hoặc do nhiều đối tượng (người thứ ba) ở các địa phương khác

nhau nắm giữ... thì các cơ quan THADS không thể thực hiện đúng thời gian

theo quy định, khi thực hiện các bước (6 bước như đã nêu tại mục 1.2.3

Chương 1).

Bởi vì, sau khi thụ lý giải quyết còn phải thực hiện nhiều trình tự, thủ tục

tiếp theo mới có thể ban hành được quyết định giải quyết khiếu nại. Khoản 1

Điều 146 quy định: “khiếu nại đối với quyết định, hành vi về thi hành án

trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thì

thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ

ngày thụ lý đơn khiếu nại”. Trong trường hợp này nếu hành vi bị khiếu nại là

hành vi của Chấp hành viên đồng thời là Chi cục trưởng thì người đứng đầu

cơ quan cấp trên trực tiếp sẽ thụ lý giải quyết, như vậy sẽ phải có báo cáo giải

trình quá trình tổ chức thi hành vụ việc, sao hồ sơ thi hành án...

Trường hợp cần phải xác minh, đối thoại tại địa phương thì người có

thẩm quyền giải quyết phải lập kế hoạch xác minh, phát hành giấy mời. Đối

với các cơ quan chuyên môn, cơ quan phối hợp phải phụ thuộc vào việc bố trí

thời gian, con người tham gia hoặc chưa cung cấp được hồ sơ theo yêu cầu

nên sẽ trả lời kết quả sau đó. Đối với các bên đương sự cần làm việc, đối thoại

thì có nhiều lý do dẫn đến việc chậm trể trong việc xác minh vì lý do làm ăn

xa, chưa sắp xếp được công việc hoặc có trường hợp thiếu ý thức hợp tác

hoặc địa chỉ không rõ ràng nên không đáp ứng được thời gian ấn định, dẫn

đến việc ra quyết định giải quyết khiếu nại không thể ban hành theo đúng thời

gian quy định.

Ngoài ra, trong trường hợp vụ việc có tính chất phức tạp, vướng mắc về

pháp luật, quan điểm giải quyết, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có

thể tổ chức cuộc họp, trao đổi ý kiến với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên

quan; xin ý kiến chỉ đạo giải quyết của cấp trên trực tiếp; trưng cầu giám định

69

hoặc tiến hành các biện pháp cần thiết khác thì thời hạn giải quyết khiếu nại

còn phụ thuộc vào kết quả phúc đáp, phản hồi của cơ quan chức năng...

Tư tưởng của các nhà làm luật luôn muốn việc khiếu nại, giải quyết

khiếu nại được tiến hành chặt chẽ, quy trình ngắn gọn để đảm bảo quyền và

lợi ích của đương sự. Tuy nhiên, thực tế khi thực hiện lại khác, bởi vì nếu

muốn đảm bảo về mặt thời gian thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

phải làm nhanh, làm gấp, cắt bớt công đoạn hoặc xác minh không chặt chẽ

dẫn đến việc ban hành quyết định không đảm bảo dẫn đến việc đương sự tiếp

tục khiếu nại lên cấp tiếp theo. Việc quy định thời gian giải quyết khiếu nại

ngắn như hiện nay, vô hình chung làm cho những người thực hiện công tác

giải quyết khiếu nại về THADS vào hoàn cảnh không muốn vi phạm nhưng

thực tế buộc phải vi phạm về thời gian giải quyết theo quy định tại Điều 146

Luật Thi hành án dân sự.

- Ba là, bất cập trong việc quy định thẩm quyền của Bộ trưởng:

Theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 142 Luật THADS quy định:

“Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại quyết

định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành quy định tại khoản 2 và

khoản 3 Điều này” khoản 2 và khoản 3 của Điều 142 quy định như sau:

“2. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh giải quyết đối với

các khiếu nại sau đây:

a) Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Chấp hành viên

thuộc quyền quản lý của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;

b) Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan

thihành án dân sự cấp huyện;

c) Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ

quan thi hành án dân sự cấp huyện. Quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ

trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có hiệu lực thi hành.

70

3. Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp giải

quyết đối với các khiếu nại sau đây:

a) Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan

thi hành án dân sự cấp tỉnh;

b) Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ

quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ

trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có hiệu lực thi

hành”.

Với những quy định như trên thì Bộ trưởng chỉ có thẩm quyền xem xét

đối với quyết định có hiệu lực của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh và

Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS, không có thẩm quyền xem xét đối với

quyết định đã có hiệu lực đối với hành vi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi

hành án (được quy định từ Điều 66 đến Điều 69 của Luật THADS) của Thủ

trưởng cơ quan THADS cấp huyện. Bởi vì theo quy định tại điểm b khoản 2

Điều 140 Luật THADS thì khiếu nại đối với hành vi này chỉ giải quyết một

lần và có hiệu lực thi hành ngay. Như vậy, có nghĩa là quyết định giải quyết

khiếu nại đối với hành vi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án của Thủ

trưởng cơ quan THADS cấp huyện thì Bộ trưởng không có thẩm quyền xem

xét, kể cả trong trường hợp Chấp hành viên cấp huyện có sai phạm trong việc

thực hiện các biện pháp bảo đảm. Biện pháp bảo đảm THADS là biện pháp

pháp lý nhằm khống chế một số quyền về tài sản của người phải thi hành án

trong tình trạng bị hạn chế hoặc cấm sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn việc

người phải thi hành án tẩu tán, định đoạt tài sản trốn tránh việc thi hành án và

đôn đốc họ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình do Chấp hành

viên áp dụng trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS. Tuy nhiên,

việc quy định như trên đã tạo kẽ hở trong việc tổ chức thi hành án, nếu như

người thi hành công vụ vì động cơ, mục đích nào đó để cố ý áp dụng biện

71

pháp bảo đảm không phù hợp với quy định của pháp luật sẽ gây thiệt hại cho

người phải thi hành án và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

- Bốn là, theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Thông tư 02/2016/TT-BTP

ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại,

tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong THADS thì đối với đơn có nội dung

khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh thì tách riêng từng nội dung để

xử lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện tại chưa có quy định bằng

văn bản hướng dẫn trong ngành THADS về trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải

quyết đơn có tiêu đề tố cáo nhưng nội dung thực chất là khiếu nại, đơn có tiêu

đề là khiếu nại nhưng nội dung thực chất là tố cáo. Trên thực tế loại đơn này

khá phổ biến. Vậy giải quyết như thế nào, theo thủ tục nào và ai có đủ thẩm

quyền để giải quyết. Do người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhưng

không thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo và ngược lại vì khi giải quyết sẽ

liên quan đến việc cung cấp thông tin, tài liệu, dễ làm lộ bí mật thông tin cá

nhân của người tố cáo và điều này là trái với các quy định của pháp luật.

Thứ hai: Luật THADS chưa có quy định cụ thể về việc chấm dứt giải

quyết khiếu nại đối với trường hợp đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết

hết cấp, đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn tiếp tục có đơn khiếu nại

Trong những năm qua, lợi dụng chính sách dân chủ của Nhà nước, rất

nhiều trường hợp đương sự (người phải thi hành án; người được thi hành án

và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) lợi dụng để khiếu nại đến các cơ

quan trung ương và địa phương, mặc dù nội dung khiếu nại đã được giải

quyết hết thẩm quyền, theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các đối

tượng này gửi đơn khiếu nại nhiều nơi (một phần do chưa thỏa mãn với nội

dung bản án, quyết định của Tòa án, một phần do chưa thi hành án kịp thời

hay là có sự xúi dục, kích động của các thế lực phản động), ảnh hưởng đến

tình hình an ninh chính trị tại địa phương, gây bức xúc trong dư luận. Do đó,

72

cần thiết phải bổ sung thành một điều riêng trong Luật THADS về việc chấm

dứt giải quyết khiếu nại đối với những trường hợp đã được xem xét đầy đủ,

đúng thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật hoặc trường hợp tiếp tục khiếu

nại không căn cứ có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm

hình sự.

Thứ ba: Quy định giữa các văn bản luật còn chồng chéo, chưa thống nhất

Việc tổ chức THADS liên quan đến rất nhiều quy định của pháp luật

chuyên ngành, nên trong quá trình áp dụng còn nhiều quy định chưa rõ ràng,

gây khó khăn cho cơ quan THADS, như hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền

sử dụng đất chồng chéo và bất cập trong việc tổ chức thi hành án. Nếu có

khiếu nại phát sinh thì mỗi cơ quan chuyên môn đều có quan điểm riêng trong

việc áp dụng pháp luật chuyên ngành để bảo vệ các công việc của ngành

mình, do đó, nội dung khiếu nại về THADS không được giải quyết triệt để,

quyền lợi của đương sự không được đảm bảo vì những khó khăn, vướng mắc

trong việc áp dụng pháp luật.

Thứ tư: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy Đảng, chính

quyền địa phương; sự phối hợp của một số cơ quan hữu quan đôi lúc, đôi nơi

còn thờ ơ, chưa “mặn mà” với công tác THADS.

Hoạt động THADS, là hoạt động phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực

trong đời sống xã hội, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền cơ bản của con người

(như quyền về tài sản, nhân thân của các bên đương sự và những người có

liên quan). Do tính chất công việc phức tạp nên khiếu nại trong quá trình tổ

chức THADS là điều khó trách khỏi. Để giải quyết tốt vấn đề này, ngày

26/5/2014, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CV/TW về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo

và coi đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, đồng thời tăng cường lãnh

đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đối với công tác này. Tuy nhiên, trên thực tế

73

có một số cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương còn né tránh, ngại va chạm;

sự phối hợp của một số cơ quan hữu quan trong công tác THADS chưa nhuần

nhuyễn, sợ ảnh hưởng đến uy tín, công tác của ngành mình.

Thứ năm: Trình độ dân trí thấp cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến việc

thực hiện quyền khiếu nại về THADS

Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân, tuy nhiên không phải ai cũng

hiểu biết, nắm rõ các quy định của pháp luật để tự bảo vệ mình khi bị quyết

định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên xâm hại. Bởi

vì, ở mỗi vùng, miền khác nhau có trình độ văn hóa và nhận thức khác nhau;

mức độ tiếp cận thông tin, nắm bắt thông tin có phần hạn chế; công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật về THADS nói riêng chưa

được thực hiện đầy đủ, sâu rộng và hiệu quả đến với người dân.

Thứ sáu: Chất lượng bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ

ràng, có nhiều sai sót, bị kháng nghị

Nhiều trường hợp bản án, quyết định của toà án tuyên không rõ ràng,

không có tính khả thi, có nhầm lẫn hoặc sai sót về tên, tuổi, số liệu nhưng

không được Tòa án kịp thời giải thích theo yêu cầu cơ quan THADS.

Nhiều bản án, quyết định của Tòa án đã đang tổ chức thi hành án, nhưng

lại bị Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên kháng nghị yêu cầu xét xử lại

theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, có nhiều trường hợp kéo dài nhiều

năm liền nhưng vụ án vẫn chưa cơ chế tháo gỡ vì đã hết thời hiệu giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm. Những vấn đề nói trên phần nào dẫn đến tình trạng hoài

nghi của các đương sự đối với việc thi hành án, gây bức xúc cho đương sự

dẫn đến khiếu nại và gây khó khăn trong việc giải quyết khiếu nại về THADS

cho cơ quan THADS.

74

Thứ bảy: Yếu tố con người còn thiếu về số lượng cũng như chất lượng;

chế độ bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố

cáo chưa quan tâm đúng mức

Thực tiễn cho thấy, hiện nay ở các Chi cục THADS cấp huyện trực thuộc

Cục THADS tỉnh Quảng Bình chưa có cán bộ, công chức chuyên trách làm

công tác tiếp công dân, tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo mà chủ yếu là

do cán bộ làm công tác thi hành án kiêm nhiệm chưa qua đào tạo công tác tiếp

dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, do đó, hiệu quả công việc chưa cao, chưa

đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trong tình

hình mới. Bên cạnh đó, thì chế độ bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác tiếp

dân, tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được quan tâm đúng mức

nên cán bộ, công chức chưa yên tâm công tác.

Thứ tám: Nguyên nhân từ phía các bên đương sự

- Một là, đương sự khiếu nại nhằm mục đích trì hoãn, kéo dài việc thi

hành án hoặc là trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Như chúng ta đã biết, khiếu nại là quyền cơ bản của công dân được Hiến

pháp ghi nhận, đối với những trường hợp khiếu nại đúng, một mặt là để bảo

vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình khi bị hành vi, quyết định của cá nhân,

tổ chức có thẩm quyền xâm hại, mặt khác thể hiện tính dân chủ, tính nghiêm

minh, công bằng của pháp luật và tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa. Tuy

nhiên, không phải lúc nào người dân khiếu nại cũng đúng, có nhiều trường

hợp lợi dụng quyền khiếu nại với mục đích để kéo dài, trì hoãn làm chậm việc

giải quyết thi hành án, thậm chí là trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.

Ví dụ: Theo Bản án số 01/2013/KDTM-PT ngày 28/3/2013 của TAND

tỉnh QB; Quyết định thi hành án số 235/QĐ-CCTHA ngày 06/5/2013 của Chi

cục trưởng Chi cục THADS huyện BT thì:

75

Người phải thi hành án: Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp Dũng

Hồng (Công ty Dũng Hồng) do bà Hồ Thị H là người đại diện theo pháp luật,

phải thi hành án khoản: Trả cho Ngân hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam- CN

Bắc Quảng Bình (Ngân hàng) số tiền 2.129.378.524 đồng và khoản tiền lãi

suất phát sinh.

Các tài sản thế chấp tại Ngân hàng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ đối với

Công ty Dũng Hồng gồm: 1-Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của

bà Hồ Thị H, ông Trần Đại H; 2-Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất

của ông Trần Quốc T, bà Nguyễn Thị H; 3-Quyền sử dụng đất và tài sản gắn

liền với đất của ông Phan Thanh N, bà Võ Thị H; 4- Tàu đánh cá số QB

92486 TS mang tên vợ chồng ông Trần Đại Nhật T, bà Hoàng Thị H; 5-Máy

xúc đào hiệu DEWOO SOLAR mang tên Công ty Dũng Hồng. Quá trình tổ

chức thi hành án, ngày 28/4/2016, Chi cục THADS huyện BT tiến hành kê

biên bán đấu giá tài sản thế chấp của bà Hồ Thị H, ông Trần Đại H để thi

hành án theo quy đinh pháp luật. Tuy nhiên, sau khi kê biên xử lý đối với một

trong số các tài sản thế chấp nêu trên thì bà Hồ Thị H, ông Trần Đại H có

“đơn kêu cứu” gửi các cấp trong đó có gửi đồng chí Bí thư Tỉnh ủy QB. Nội

dung khiếu nại về “Quyết định cưỡng chế số 20/QĐ-CCTHADS ngày

19/4/2016 của Chấp hành viên Chi cục THADS huyện BT" gồm các vấn đề

như sau:

Vấn đề thứ nhất: Quyết định của Bản án tuyên có nhiều tài sản thế

chấp của nhiều cá nhân, tổ chức khác nhau nhưng Chấp hành viên kê biên xử

lý tài sản thế chấp của bà Hồ Thị H, ông Trần Đại H trước để đảm bảo thi

hành án mà không kê biên tất cả tài sản đã thế chấp của những người còn lại.

Trong số 05 tài sản thế chấp tại Ngân hàng theo bản án đã nêu thì có 02

tài sản là Tàu đánh cá và Máy xúc đào đã bị tẩu tán trước khi các bên khởi

kiện ra Tòa án. Chấp hành viên căn cứ khoản 1 Điều 13 Nghị định số

76

62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một

số điều của Luật THADS, kê biên tài sản thế chấp của ông Trần Đại H, bà Hồ

Thị H trước để thi hành án là đúng với quy định của pháp luật THADS và phù

hợp với đề nghị của Ngân hàng (người được thi hành án); phù hợp với nội

dung Hợp đồng thế chấp các bên đã ký kết. Trường hợp này, sau khi kê biên

xử lý tài sản của ông Trần Đại H, bà Hồ Thị H mà vẫn không đủ nghĩa vụ thi

hành án và các chi phí cưỡng chế thì tiếp tục kê biên xử lý tài sản là quyền sử

dụng đất của những người còn lại là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp

luật.

Vấn đề thứ hai: Theo Hợp đồng thế chấp số 03/2008/HĐ ngày 16/5/2008 thì căn nhà thế chấp có diện tích xây dựng 210m2, nhưng diện tích thực tế của căn nhà là 297,3m2, do đó Chấp hành viên kê biên để thi hành án

là không đúng. Vấn đề vướng mắc này đã được Tổng cục THADS – Bộ Tư

pháp chỉ đạo, hướng dẫn tại Công văn số 373/TCTHADS-NV1 ngày

30/01/2015 và Công văn số 114/CTHADS ngày 04/02/2015 của Cục THADS

tỉnh QB, do đó việc kê biên xử lý toàn bộ tài sản xây dựng nằm trên diện tích đất 98,34m2 (bao gồm cả tài sản xây dựng lấn chiếm trên diện tích đất lưu không đường Quốc lộ 1A là 33,28m2) là toàn bộ ngôi nhà 03 tầng, diện tích xây dựng 297,3m2 và quyền sử dụng đất 65,06m2 của ông Trần Đại H, bà Hồ

Thị H.

Vấn đề thứ ba: ông Trần Đại H, bà Hồ Thị H cho rằng Quyền sử dụng đất 70m2, tại thửa số 461, tờ bản đồ số 03, xã Phú Trạch, huyện Bố Trạch chỉ

cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng mang tên ông, bà. Còn tài sản xây dựng

gắn liền với đất chưa được chứng nhận quyền sở hữu mang tên ông Trần Đại

H, bà Hồ Thị H, nên ông bà không thừa nhận là tài sản trên đất là tài sản của

mình (mà là tài sản của con trai Trần Đại Nhật Tiến và con dâu Hoàng Thị

Huệ), do tại thời điểm nhận tài sản thế chấp, phía Ngân hàng không thẩm

77

định kỹ, nên ông Trần Đại H, bà Hồ Thị H không chấp nhận tài sản nêu trên

thuộc tài sản được kê biên.

Căn cứ quy định tại khoản 1, Điều 75 Luật THADS, Chấp hành viên đã

thông báo cho ông Trần Đại Nhật T, bà Hoàng Thị H và ông Trần Đại H, bà

Hồ Thị H trong thời hạn 30 ngày có quyền khởi kiện tại Tòa án có thẩm

quyền để bảo vệ quyền lợi của mình, nhưng đơn khởi kiện của ông Tiến, bà

Huệ không được TAND huyện BT, TAND tỉnh QB thụ lý giải quyết (TAND

huyện BT ra Quyết định giải quyết khiếu nại số 02/2016/QĐ-TA về việc trả

lại đơn khởi kiện ngày 07/6/2016 đối với ông Trần Đại Nhật Tiến, bà Hoàng

Thị Huệ; TAND cấp cao tại Đà Nẵng ra Quyết định giải quyết khiếu nại số

14/2016/QĐ-CA ngày 31/8/2016 về việc không chấp nhận Đơn khiếu nại của

ông Trần Đại Nhật Tiến, bà Hoàng Thị Huệ đối với Quyết định về việc giải

quyết khiếu nại số 20/2016/QĐ-CA ngày 07/7/2016 của Chánh án TAND tỉnh

QB).

Tóm lại, quá trình tổ chức thi hành án vụ việc nêu trên của Chi cục

THADS huyện BT (từ việc ra Quyết định thi hành án đến kê biên, định giá và

tổ chức bán đấu giá tài sản...) đảm bảo đúng trình tự và quy định của pháp

luật. Việc ông Trần Đại H, bà Hồ Thị H gửi “đơn kêu cứu” với nhiều nội

dung khiếu nại đến nhiều cấp, nhiều nơi là nhằm mục đích trì hoãn, kéo dài,

trốn tránh việc thi hành án, do vậy, không được chấp nhận giải quyết.

Hai là, lợi dụng quyền khiếu nại để nói xấu, vu khống, xúc phạm uy tín,

danh dự của các đồng chí lãnh đạo, các cán bộ tham gia giải quyết khiếu nại,

cản trở hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước.

Để bảo đảm nguyên tắc Hiến định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân

dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cá

nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Tuy nhiên, có trường hợp một

phần thiếu am hiểu pháp luật, một phần bức xúc từ những phát sinh ban đầu ở

78

cơ sở nên cố tình thực hiện việc khiếu nại vượt cấp, vượt thẩm quyền dẫn đến

việc khiếu nại “lòng vòng” làm tốn nhiều công sức, tiền bạc không những

chính bản thân của người khiếu nại mà còn làm mất thời gian, tài chính của cơ

quan, tổ chức nhà nước trong thực thi công vụ, làm giảm uy tín của cán bộ,

công chức, cơ quan công quyền trong hoạt động quản lý nhà nước.

Ví dụ: Bản án số 07/2013/HCPT ngày 15/5/2013 của TAND tỉnh QB

đã tuyên: “...Huỷ Quyết định số 101/QĐXP-UBND ngày 22/11/2006 của

UBND xã Tiến Hoá, huyện TH, tỉnh QB về việc xử phạt vi phạm hành chính

đổi với bà Nguyễn Thị Loan. Buộc UBND xã Tiến Hoá, huyện TH, tỉnh QB

trả lại số tiền phạt và số tiền đã thu của bà Loan để tổ chức cưỡng chế và tiền

thuê xe chở tài sản tại thời điểm xét xử sơ thẩm: 2.500.000 đồng.

Chi cục THADS huyện TH thụ lý ra Quyết định thi hành án số 165/QĐ-

CCTHADS ngày 15/4/2016. Sau khi nhận được Quyết đinh thi hành án

UBND xã Tiên Hoá đã nộp đủ số tiền 2.500.000đ và Chấp hành viên Chi cục

THADS huyện TH thông báo cho bà Nguyễn Thị Loan nhận tiền theo quy

định nhưng bà Loan không nhận tiền với lý do là thi hành án chưa đúng, chưa

đủ tài sản.

Ngày 12/8/2016, Cục THADS tỉnh QB nhận đơn khiếu nại của bà

Nguyễn Thị Loan, do Thường trực tiếp công dân của Quốc Hội chuyển đến,

bà Nguyễn Thi Loan khiếu nại: “Ông Hoàng Đình H Chấp hành viên Chi cục

THADS huyện TH cung cấp mẫu đơn yêu cầu thi hành án và hướng dẫn ép

buộc bà Nguyễn Thị Loan phải viết theo ông Hoàng Đình H đọc mới nhận

đơn yêu cầu thi hành án; ông Hoàng Đình H không vô tư khi làm nhiệm vụ.

Bà Loan không đồng tình với việc ông Hoàng Đình H giao một lúc 03 văn

bản và thông báo về thi hành án; không nhận thông tin, tài liệu, chứng cứ và

biên bản giải trình do bà Loan cung cấp...”.

79

Sau khi thụ lý giải quyết đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Loan, Cục

THADS tỉnh QB nhận thấy:

Về tổ chức thi hành vụ việc: Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành

viên đã 03 lần gửi thông báo cho bà Nguyễn Thị Loan đến nhận số tiền

2.500.000đ do UBND xã Tiến Hoá, huyện TH, tỉnh QB nộp nhưng bà Loan

kiên quyết không nhận. Vì vậy, Chi cục THADS huyện TH đã gửi số tiền

2.500.000đ vào Ngân hàng theo hình thức tiết kiệm (theo quy định tại khoản 5

Điều 49 Nghị định 62/2016/NĐ-CP ngày 01/02/2016 của Chính phủ quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS).

Về nội dung khiếu nại bà Nguyễn Thị Loan: Qua kiểm tra hồ sơ thi hành

án; báo cáo của Chi cục THADS huyện TH và Chấp hành viên trực tiếp tổ

chức thi hành vụ việc, Cục THADS tỉnh QB nhận thấy rằng: Ngày 11/4/2016

bà Nguyễn Thị Loan trực tiếp đến tại trụ sở Chi cục THADS huyện TH làm

đơn yêu cầu thi hành án, Chấp hành viên Hoàng Đình H cung cấp mẫu đơn

yêu cầu thi hành án và hướng dẫn bà Loan làm đơn yêu cầu thi hành án, bà

Loan làm đơn yêu cầu thi hành án với nội dung: Yêu cầu UBND xã Tiến Hoá

thi hành khoản trả lại tiền phạt và tiền đã thu của bà Nguyễn Thị Loan để tổ

chức cưỡng chế và thuê xe chở tài sản số tiền 2.500.000đ theo Quyết định của

Bản án số 07/2013/HCPT ngày 03/5/2013 của Toà án nhân dân tỉnh QB. Chấp

hành viên Hoàng Đình Hùng cung cấp mẫu đơn yêu cầu thi hành án đúng theo

mẫu quy định tại Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư

Pháp, hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu

nghiệp vụ trong THADS. Đồng thời, hướng dẫn bà Nguyễn Thị Loan làm đơn

yêu cầu thi hành án, bà Loan tự mình viết đơn yêu cầu thi hành án, có chữ ký

người yêu cầu không hề có sự ép buộc. Việc cung cấp mẫu đơn yêu cầu thi

hành án và hướng dẫn bà Nguyễn Thị Loan làm đơn yêu cầu thi hành án là

đúng theo trình tự thủ tục của pháp luật THADS.

80

Về nội dung:“Bà Nguyễn Thị Loan không đồng tình với việc ông Hoàng

Đình H giao một lúc 03 văn bản và thông báo về thi hành án”. Đây là thông

báo cho bà Nguyễn Thị Loan đến Chi cục THADS huyện TH để nhận tiền

(Thông báo số 131/TB-THADS ngày 29/4/2016, Thông báo số 144/TB-

THADS ngày 19/5/2016 và Thông báo số 212/TB-THADS ngày 12/7/2016).

Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên đã thực hiện theo đúng trình tự

thủ tục, như: Người được thi hành án được thông báo về thi hành án.Việc

Chấp hành viên lập biên bản giao trực tiếp 03 văn bản, thông báo cho bà

Nguyễn Thị Loan là giao bổ sung lần 2, trước đây Chấp hành viên Chi cục

THADS huyện TH đã gửi các thông báo trên qua đường bưu điện, nhưng bà

Loan cho biết là không nhận được. Vì vậy, không có căn cứ để cho rằng Chấp

hành viên Hoàng Đình H không vô tư khi làm nhiệm vụ.

Về nội dung: “ông Hoàng Đình H không nhận thông tin, tài liệu, chứng

cứ và biên bản giải trình do bà Loan cung cấp”. Theo quy định tại khoản 5

Điều 31 Luật THADS năm 2008, được sửa đổi, bổ sung hăm 2014 thì cơ quan

THADS có quyền từ chối nội dung yêu cầu không liên quan đến nội dung của

bản án, quyết định. Vì vậy, việc ông Hoàng Đình H không nhận thông tin, tài

liệu, chứng cứ và biên bản giải trình không liên qua đến nội dung bản án,

quyết định do bà Loan cung cấp là có cơ sở.

Liên quan đến vụ việc khiếu nại quyết định xử phạt hành chính này của

bà Loan cũng đã được UBND huyện TH giải quyết bằng Quyết định giải

quyết khiếu nại số 359/QĐ-UBND ngày 30/3/2009 và UBND tỉnh QB giải

quyết bằng quyết định giải quyết khiếu nại số 1615/QĐ-UBND ngày

14/7/2010 không công nhận các nội dung đơn khiếu nại của bà Nguyên Thị

Loan.

Do bà Loan thường xuyên khiếu nại, có các hành vi nói xấu, vu khống

cán bộ, cơ quan nhà nước, vì vậy ngày 02/04/2015 UBND tỉnh QB đã ra

81

Thông báo số 314/TB-UBND thông báo kết quả rà soát giải quyết khiếu nại

của bà Loan. Theo đó, UBND tỉnh đã kết luận chấm dứt việc xem xét, giải

quyết khiếu nại của bà Loan. Các hành vi của bà Nguyễn Thị Loan như: “đeo

bám, làm mất trật tự tại các cơ quan Trung ương và của tỉnh; nói xấu, vu

không, xúc phạm uy tín, danh dự của các đồng chí lãnh đạo, các cán bộ tham

gia giải quyết khiếu nại của bà Loan là sự lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để

gây rối trật tự công cộng, cản trở hoạt động bình thường của cơ quan Nhà

nước”.

82

Tiểu kết chương 2

Qua thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại về THADS trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình, giai đoạn từ năm 2013 – 2017, cho thấy số lượng đơn khiếu nại

về THADS có tính chất phức tạp ngày càng nhiều nhưng các cơ quan THADS

đã giải quyết kịp thời, hiệu quả. Kết quả giải quyết đơn khiếu nại về THADS

trên địa bàn đạt tỷ lệ cao, giảm thiểu mức thấp nhất đơn khiếu nại tồn đọng,

bức xúc, kéo dài; dần tạo được niềm tin cho nhân dân, góp phần bảo đảm trật

tự, an ninh trên địa bàn. Quyền khiếu nại của các đương sự, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan về cơ bản được thực hiện kịp thời từ khâu nhận đơn,

thụ lý đơn, thẩm tra, xác minh, đối thoại, giải quyết đơn,... cho đến giai đoạn

sau khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, tức là nội dung bị khiếu nại

(hành vi, quyết định của Chấp hành viên, Thủ trưởng đơn vị) về THADS

được tiếp tục thực hiện nghiêm túc, kết quả giải quyết cuối cùng về THADS

được các bên đương sự chấp nhận và không còn ý kiến gì.

Tuy nhiên, công tác giải quyết khiếu nại về THADS trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình vẫn còn những hạn chế nhất định như: Công tác tiếp dân giải

quyết khiếu nại THADS ở một số cơ quan cấp huyện chưa được chú trọng; kỹ

năng tiếp nhận, phân loại đơn khiếu nại về THADS tại nhiều cơ quan THADS

còn hạn chế, lúng túng; việc phối hợp trong giải quyết khiếu nại về THADS ở

một số nơi còn mang tính hình thức; một số cán bộ, công chức THADS trình

độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp còn hạn chế; một số cán bộ quản lý

chưa phát huy hết trách nhiệm trong quản lý, điều hành; một số Chấp hành

viên, cán bộ thi hành án chưa kịp thời cập nhật kiến thức nghiệp vụ.

Có trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng vẫn

cố tình chây ỳ, không tự nguyện thi hành, hay đương sự không hiểu trình tự,

thủ tục thi hành án hoặc lợi dụng quyền tự do dân chủ của công dân, làm đơn

83

khiếu nại không đúng quy định nhằm trì hoãn việc thi hành án. Nhiều trường

hợp khiếu nại, cơ quan THADS đã giải quyết khiếu nại hết thẩm quyền nhưng

các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại gửi đến nhiều ngành, nhiều cấp từ Trung

ương tới địa phương, gây xáo trộn, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường

của cơ quan THADS, có trường hợp, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự

an toàn xã hội ở địa phương. Đây chính là những tồn tại, hạn chế cần tập

trung nghiên cứu, tìm giải pháp khắc phục để công tác giải quyết khiếu nại về

THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ngày càng có hiệu quả, bảo đảm quyền

và lợi ích chính đáng của công dân.

84

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN

KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ

QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH

3.1. Quan điểm

Quyền khiếu nại của công dân là quyền Hiến định [27], vì vậy, việc ngày

càng hoàn thiện quyền này là yêu cầu tất yếu khách quan. Trong quản lý hành

chính nhà nước công dân thực hiện quyền khiếu nại không những họ thực

hành quyền dân chủ trực tiếp, tham gia thiết thực vào quản lý nhà nước, quản

lý xã hội mà thông qua đó còn là một bảo đảm cho pháp luật được thực thi

trong thực tế. Đồng thời, đây là cơ hội và điều kiện để công dân phát huy đầy

đủ quyền và nghĩa vụ của mình, tăng cường ý thức trách nhiệm trong việc xây

dựng nhà nước, quản lý nhà nước bảo đảm pháp chế, tăng cường mối quan hệ

giữa Đảng, nhà nước với nhân dân. Vì vậy, giải quyết khiếu nại của công dân

nói chung và giải quyết khiếu nại về THADS nói riêng là một vấn đề được

Đảng, nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm.

Bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại về THADS nói chung và trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng cũng là xuất phát từ những yêu cầu chung của

việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nước

ta hiện nay, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính và bảo

đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình giải quyết khiếu nại về THADS, do

đó, cần phải bảo đảm các nội dung sau:

3.1.1. Bảo đảm quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng

Hoàn thiện các quy định của pháp luật về THADS nói chung và giải

quyết khiếu nại về THADS nói riêng là thể chế hóa các đường lối, chủ trương

của Đảng đã được xác định trong các Nghị quyết, văn kiện của Đảng như:

Văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI,

85

XII; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII); Nghị quyết Hội nghị

Trung ương 8 (khóa VII); Nghị quyết Hội nghị Trương ương 9 (khóa IX);

Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm

vụ trọng tâm trong công tác tư pháp thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW

ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến

năm 2020; Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về

công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của viện kiểm

sát nhân dân, của tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các

năm tiếp theo. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về THADS, cũng như bảo

đảm việc thực hiện quyền khiếu nại về THADS luôn luôn đặt dưới sự lãnh

đạo của Đảng, bảo đảm thể chế hóa các chủ trương của Đảng trong lĩnh vực

pháp luật nói chung và lĩnh vực khiếu nại về THADS nói riêng.

3.1.2. Bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính

Nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước

pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải ban hành và thực hiện

chiến lược cải cách tư pháp và chiến lược cải cách hành chính phù hợp với

quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính.

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Chuẩn bị điều kiện về cán bộ,

cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý

công tác thi hành án. Xác định rõ trách nhiệm của ủy ban nhân dân xã,

phường, thị trấn và của cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tỉnh, thành

phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình phạt tù để thực hiện

nghiêm túc các bản án của tòa án. Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và

86

quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan

nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án.”[5]

Cùng với cải cách tư pháp thì cải cách hành chính cũng là chủ trương lớn

của Đảng và nhà nước ta. Ngày 08/01/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị

quyết số 30c/NQ-CP ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà

nước giai đoạn 2011-2020. Một trong những nội dung cơ bản của cải cách

hành chính là: “Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ

trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực,

hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của

Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước; Bảo đảm thực hiện trên

thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con

người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước; Xây dựng đội ngũ cán

bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu

cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.”[11]

Cải cách tư pháp, cải cách hành chính là một trong những yêu cầu chung

của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Hoạt động

THADS là một nội dung của hoạt động nhà nước, là một bộ phận của hoạt

động tư pháp, mang tính chất hành chính – tư pháp, nên hoạt động THADS có

mối quan hệ mật thiết đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, nhất là hoạt

động tư pháp. Hoạt động THADS mặc dù không phải là một khâu trong quá

trình tố tụng của các cơ quan tư pháp nhưng nó lại có ảnh hưởng rất lớn đến

hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Do đó, đảm bảo thực hiện pháp luật

THADS nói chung và quy định của pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền

khiếu nại về THADS nói riêng cũng là một trong những biện pháp để đẩy

mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong

sạch, vững mạnh và nó phải được đặt trong tổng thể của cải cách tư pháp, cải

cách hành chính.

87

3.1.3. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình thực hiện quyền

khiếu nại và giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự

Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp

luật mà còn chứa đựng những nội dung chính trị xã hội và con người. Vì vậy,

bảo đảm cho pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu

khách quan của quá trình xây dựng nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và

vì Nhân dân và cũng là yêu cầu của quá trình hoàn thiện con người và các

quyền của họ trong xã hội, đặc biệt trong quản lý hành chính nhà nước.

Bảo đảm nguyên tắc pháp chế là quan điểm cần được quán triệt sâu sắc

trong quá trình tổ chức, hoạt động THADS nói chung và giải quyết khiếu nại

về THADS nói riêng. Đây là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ hoạt động

THADS từ giai đoạn xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật

THADS, xử lý nghiêm khắc hành vi vi phạm pháp luật THADS, từ việc phân

loại, xử lý đơn khiếu nại đến thụ lý giải quyết và thực hiện quyết định giải

quyết khiếu nại. Do đó, các quy định của pháp luật THADS phải được tuân

thủ và nghiêm chỉnh chấp hành. Cơ quan THADS phải có trách nhiệm tổ chức

thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của Tòa án. Mọi vi phạm pháp

luật THADS từ phía cơ quan THADS, Chấp hành viên, các tổ chức, cá nhân

có liên quan phải bị xử lý nghiêm, kịp thời.

3.1.4. Bảo đảm quyền khiếu nại của công dân về thi hành án dân sự

Về nguyên tắc, mọi người có quyền khiếu nại với cơ quan, tổ chức, cá

nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá

nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết

khiếu nại. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại hoặc lợi dụng quyền

khiếu nại để vu khống, vu cáo làm hại người khác.

Trong lĩnh vực THADS, thì khiếu nại về THADS là việc cá nhân, tổ

chức theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định yêu cầu cơ quan có thẩm

88

quyền xem xét lại các quyết định, hành vi của thủ trưởng cơ quan THADS,

Chấp hành viên mà cá nhân, tổ chức khiếu nại cho rằng quyết định, hành vi

đó là trái pháp luật, đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Những

người được quyền khiếu nại về THADS khi họ có tư cách của người được thi

hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực

tiếp đến thi hành án cụ thể.

Việc giải quyết khiếu nại phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các

tổ chức, cá nhân bị xâm phạm, đồng thời phải hạn chế tình trạng khiếu nại

vượt cấp, lợi dụng quyền khiếu nại làm cản trở hoạt động của cơ quan nhà

nước, bảo đảm quyền lợi của đương sự tham gia vào hoạt động THADS.

3.1.5. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giải quyết

khiếu nại về thi hành án dân sự

Giải quyết khiếu nại nói chung cũng như giải quyết khiếu nại về THADS

nói riêng từ trước tới nay luôn là vấn đề được Đảng và nhà nước ta rất quan

tâm. Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại về THADS là góp phần bảo

đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp

của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Luật khiếu nại với việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân: Mặc

dù Luật khiếu nại đã có nhiều quy định bảo đảm quyền công dân, quyền con

người trong hoạt động khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, các văn

bản này vẫn được ban hành trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi,

bổ sung năm 2011). Trong đó, quyền khiếu nại mới cơ bản dừng lại ở “quyền

công dân”. Hiến pháp 2013 đã khẳng định quyền khiếu nại là quyền con

người. Giờ đây, không chỉ “công dân có quyền khiếu nại” mà “mọi người có

quyền khiếu nại”.

Bảo đảm quyền con người trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu

nại về THADS. Đặc thù của công tác THADS luôn liên quan và ảnh hưởng

89

trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, do đó để thực

hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại về cơ cấu tổ chức các cơ quan THADS

đều có bộ phận làm công tác giải quyết khiếu nại. Ngoài những yêu cầu chung

về nâng cao nhận thức, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp

công dân, giải quyết khiếu nại cũng cần phải rà soát, hoàn thiện thể chế nội bộ

về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại.

3.2. Giải pháp

3.2.1. Giải pháp chung

3.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền khiếu nại về

thi hành án dân sự

Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp làm đầu mối nghiên cứu, tổng hợp ý

kiến của các cơ quan THADS địa phương để hoàn thiện hệ thống pháp luật về

THADS; pháp luật liên quan đến quyền khiếu nại về THADS và các văn bản

pháp luật có liên quan; ban hành các quy chế, quy định cụ thể về trình tự, thủ

tục thực hiện công việc với công dân, tạo sự đồng bộ, nâng cao tính khả thi,

hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật; chấn chỉnh, tăng cường công tác

quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực; thực hiện tốt công tác cải cách hành

chính, tạo điều kiện thuận lợi để công dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà

nước và thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ công dân; đẩy mạnh công tác thực hành

tiết kiệm, chống lãng phí và phòng, chống tham nhũng nhằm tạo ra môi

trường pháp lý lành mạnh, hài hòa, tạo động lực mới trong phát triển kinh tế -

xã hội và hạn chế phát sinh khiếu nại về thi hành án dân sự.

Để thực hiện tối đa hóa quyền khiếu nại của con người về THADS, cần

phải tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại về

THADS. Do vậy, nhất thiết phải sớm ban hành đầy đủ, đồng bộ pháp luật về

quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong về THADS, tạo cơ sở pháp lý

vững chắc để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong việc khiếu nại:

90

Một là: Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, bổ sung các

quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ (trách nhiệm) của người khiếu

nại trong trường hợp họ khiếu nại không có căn cứ, nội dung sai sự thật. Thực

tế cho thấy, nhiều trường hợp người dân cố tình lợi dụng quyền khiếu nại để

khiếu nại về THADS làm kéo dài thời gian phải thi hành án, tìm cách tẩu tán

tiền, tài sản, gây khó khăn, cản trở trong quá trình giải quyết thi hành án, làm

mất lòng tin của người dân vào cơ quan THADS. Như vậy, rất cần biện pháp

cụ thể để răn đe đối với những trường hợp này, không làm phát sinh thêm

những khiếu nại không có căn cứ, sai sự thật.

Hai là: Cần bổ sung quy định bằng văn bản hướng dẫn trong ngành

THADS về việc giải quyết đơn có tiêu đề tố cáo nhưng nội dung thực chất là

khiếu nại, đơn có tiêu đề là khiếu nại nhưng thực chất là tố cáo; phải quy định

cụ thể về trình tự giải quyết, thủ tục và người thẩm quyền để giải quyết. Giải

quyết theo tiêu đề hay giải quyết theo nội dung đơn đó là một lựa chọn khó

khăn. Bởi giải quyết theo thủ tục tố cáo sẽ dẫn đến kết quả khác mà giải quyết

theo thủ tục khiếu nại sẽ dẫn đến một kết quả khác. Trong khi đó người có

thẩm quyền giải quyết tố cáo không thể giải quyết khiếu nại và ngược lại, vì

phải bảo đảm nguyên tắc bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo trong giải quyết

tố cáo. Do đó, cần có quy định bằng văn bản pháp luật cụ thể để cơ quan

THADS lựa chọn được biện pháp giải quyết phù hợp, hợp lòng dân.

Ba là: Kiến nghị xem xét sửa đổi Điều 146 Luật THADS, theo hướng

tăng thêm thời hạn về giải quyết khiếu nại, được như vậy sẽ tạo điều kiện tâm

lý tốt cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, không còn bị áp lực lớn

về thời hạn giải quyết khiếu nại. Theo đó, cũng quy định về trách nhiệm của

người giải quyết khiếu nại phải gắn với chất lượng giải quyết, có thể hiểu là

tăng thời hạn giải quyết để chất lượng giải quyết cũng phải tăng lên, đảm bảo

91

việc xem xét giải quyết khiếu nại của đương sự được “thấu đáo” đảm bảo

quyền khiếu nại về THADS cho các đương sự.

Bốn là: Cần nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện quy định đối với thời hạn áp

dụng biện pháp cưỡng chế khi phong toả tài khoản và thời hiệu khiếu nại đối

với quyết định phong toả tài khoản. Thời hiệu khiếu nại đối với quyết định

phong tỏa tài khoản là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định,

còn thời hạn áp dụng biện pháp cưỡng chế là trong thời hạn 05 ngày làm việc,

kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản. Quy định trên dẫn đến trường

hợp đương sự khiếu nại khi mà Chấp hành viên đã ra quyết định cưỡng chế,

do vậy gây khó khăn trong việc giải quyết khiếu nại, bởi phải khắc phục hậu

quả của việc đã thi hành quyết định cưỡng chế. Như vậy, rất cần thiết phải bổ

sung quy định chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi hết thời hiệu khiếu

nại đối với quyết định phong tỏa tài khoản. Tuy nhiên, sau khi hết thời hiệu

khiếu nại đối với quyết định phong tỏa tài khoản thì thời hạn áp dụng biện

pháp cưỡng chế thực tế chỉ còn 02 ngày làm việc. Thời hạn như vậy là rất

ngắn, nhất là đối với những vụ khiếu nại phức tạp, cần phải có nhiều thời gian

để tổ chức xác minh trước khi kết luận và ra quyết định cưỡng chế; do đó dễ

dẫn đến trình trạng vi phạm thời hạn áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc xác

minh, giải quyết qua loa để đúng thời hạn áp dụng biện pháp cưỡng chế.

Hoàn thiện quy định của pháp luật để thực hiện quyền khiếu nại về

THADS nhất thiết phải thực hiện song song với giải quyết khiếu nại về

THADS, gắn với hoàn thiện thể chế công tác THADS và đổi mới quy trình

giải quyết khiếu nại. Vì nếu thể chế về công tác THADS có bất cập sẽ là một

trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả công tác này, từ đó khiếu nại

có thể phát sinh. Tuy nhiên, nội dung quan tâm nhất của quyền khiếu nại về

THADS là quyền lợi của các đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên

92

quan trong bản án, quyết định Tòa án tuyên phải được thực hiện một cách

nghiêm túc và đầy đủ.

Năm là: Bổ sung thẩm quyền của Bộ trưởng, theo quy định tại điểm b

khoản 4 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự quy định “ Trường hợp cần thiết,

Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại đã

có hiệu lực thi hành quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này”, với những

quy định như trên thì Bộ trưởng chỉ có thẩm quyền xem xét đối với quyết

định có hiệu lực của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh và Thủ trưởng cơ

quan quản lý THADS, không có thẩm quyền xem xét đối với quyết định đã có

hiệu lực đối với hành vi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án (được

quy định từ Điều 66 đến Điều 69 của Luật THADS) của Thủ trưởng cơ quan

THADS cấp huyện, bởi vì theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 140 Luật

THADS thì khiếu nại đối với hành vi này chỉ giải quyết một lần và có hiệu

lực thi hành ngay. Do đó, đề xuất sửa quy định tại điểm b khoản 4 Điều 142

Luật THADS theo hướng “ Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có

quyền xem xét lại các quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành.

Như vậy mới không bỏ sót đối với quyết định giải quyết khiếu nại hành vi của

Chấp hành viên cấp huyện khi thực hiện các biện pháp bảo đảm.

3.2.1.2. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng,

trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại về THADS

Thực tiễn cho thấy vai trò của cấp ủy Đảng trong vấn đề lãnh đạo và chỉ

đạo là rất quan trọng, nơi nào cấp ủy Đảng quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn

đốc thì nơi đó có sự chuyển biến rõ rệt về công tác chuyên môn cũng như

công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại và đã đem lại hiệu quả thiết thực;

nơi nào thiếu sự quan tâm, kiểm tra, đôn đốc thì nơi đó chất lượng công tác

này sẽ bị hạn chế rất nhiều. Từ đó, để quyền khiếu nại về THADS được đảm

bảo thì không những trong quá trình tổ chức THADS cần phải chặt chẽ, đúng

93

quy định pháp luật mà trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại về

THADS phải đạt kết quả tốt. Cấp ủy Đảng của các cơ quan, ban, ngành nói

chung và cấp ủy Đảng các cơ quan THADS phải luôn quán triệt các quan

điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng, nhất là Chỉ thị 35-CV/TW ngày

26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại, tố cáo coi đây là nhiệm vụ quan trọng,

thường xuyên, đồng thời tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đối

với công tác này.

3.2.1.3. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác

thi hành án dân sự

Việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ công chức là một việc làm

thường xuyên, liên tục và mang tính kế thừa. Hiện nay đất nước ta đang trong

quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề chất lượng nguồn nhân lực đang là

một vấn đề hết sức quan trọng cần phải được chú trọng. Nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực là điều kiện cần và đủ đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế

khu vực và quốc tế. Thực tiễn cho thấy những năm qua, đất nước ta nói chung

và công tác THADS nói riêng đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Có

được những thành tựu đó là do có sự đóng góp rất lớn công sức, trí tuệ của

đội ngũ cán bộ, công chức.

Chất lượng nguồn nhân lực thực chất là khả năng thực thi công vụ của

đội ngũ cán bộ, công chức một cách có hiệu quả; năng lực cán bộ, công chức

là khả năng về thể chất và trí tuệ trong việc thực hiện các nhiệm vụ; điều đó

bao gồm: kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, nhân cách, năng khiếu cá nhân,

các yếu tố tiềm năng hoặc thiên bẩm để nâng cao năng lực làm việc. Chính vì

vậy để nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức cần phải có sự tác

động bằng nhiều yếu tố bao gồm cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan;

đồng thời cần phải áp dụng đồng bộ các giải pháp trong một thời gian dài mà

94

không thể tiến hành trong thời gian ngắn được, đồng thời việc nâng cao chất

lượng cho đội ngũ công chức cần phải được tiến hành theo từng thời kỳ, từng

giai đoạn lịch sử, phù hợp với nhu cầu công việc của từng thời kỳ khác nhau.

3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình

3.2.2.1. Thủ trưởng cơ quan THADS, cán bộ làm công tác tham mưu cần

phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật, Quy chế nghiệp vụ của ngành

trong thực hiện quyền khiếu nại về THADS

Các yếu tố để bảo đảm quyền khiếu nại về THADS của các bên đương

không chỉ được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận ở các quyền và nghĩa vụ của

người khiếu nại mà quyền này còn thể hiện ở trách nhiệm của các cơ quan

THADS, của những người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Do đó, cần

phải thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật, Quy chế nghiệp vụ của

ngành trong hoạt động giải quyết khiếu nại về THADS là yêu cầu khách quan,

đòi hỏi những người có trách nhiệm, có thẩm quyền phải tự giác, nghiêm

chỉnh thực hiện. Cụ thể như: thực hiện đầy đủ chế độ giải quyết khiếu nại;

trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền, trách

nhiệm chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại. Nhiều trường hợp do thiếu

trách nhiệm, né tránh, chưa giải quyết kịp thời các khiếu nại để người khiếu

nại đi lại nhiều lần gây bức xúc và mất niềm tin vào các cơ quan pháp luật

nên họ gửi đơn đến cả các cơ quan không có thẩm quyền giải quyết ở Trung

ương của Đảng, Nhà nước. Do vậy, thực hiện đầy đủ chế độ trách nhiệm giải

quyết khiếu nại sẽ góp phần làm giảm các khiếu nại bức xúc, kéo dài. Bảo

đảm cho người khiếu nại, người bị khiếu nại thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa

vụ của mình theo quy định của pháp luật.

3.2.2.2. Nâng cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu; đào tạo, bồi

dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm

công tác giải quyết khiếu nại về THADS

95

Để quyền khiếu nại của các đương sự về THADS được đảm bảo thực

hiện thì Thủ trưởng cơ quan THADS cần phải nâng cao trách nhiệm trong

việc phân loại đơn, xác định nội dung và nguyên nhân của việc khiếu nại, nắm

bắt nguyện vọng của người khiếu nại để chủ động đề ra những biện pháp giải

quyết cho phù hợp, làm rõ đúng sai, phân công trách nhiệm của từng cá nhân,

ấn định thời hạn để giải quyết thích hợp. Đối với việc khiếu nại do nguyên

nhân khách quan, liên quan đến các ngành, các cấp thì cần tập hợp đầy đủ các

thông tin, những vấn đề vướng mắc để kiến nghị với cơ quan liên quan, báo

cáo Ban chỉ đạo THADS, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp, Bộ Tư pháp để

kịp thời chỉ đạo giải quyết.

Đối với những vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ

quan THADS địa phương cần xem xét thì phải thụ lý, lập thủ tục giải quyết

kịp thời, ngay tại nơi phát sinh, không để khiếu nại vượt cấp, kéo dài. Trong

quá trình giải quyết khiếu nại cần tôn trọng quyền của người khiếu nại, không

được định kiến, xem thường, thờ ơ hoặc có các biểu hiện khác. Đối với các

khiếu nại không thuộc thẩm quyền hoặc khiếu nại nội dung không rõ ràng thì

chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết hoặc chuyển trả cho người

khiếu nại, đồng thời hướng dẫn cụ thể để người khiếu nại tiếp tục thực hiện

quyền khiếu nại của mình theo luật định.

Đối với cán bộ, công chức làm công tác tham mưu giải quyết khiếu nại

phải có trình độ chuyên môn vững vàng, nắm chắc các quy định của pháp

luật, có tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp và đồng thời phải tuân thủ

các thủ tục, quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo được quy định tại Quy chế

nghiệp vụ của ngành. Do đó, cần chú trọng đào tạo Thẩm tra viên, tập trung

bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ về công tác kiểm tra, tiếp dân, xử lý giải

quyết khiếu nại trong lĩnh vực THADS.

96

Tổng cục THADS cần thiết mở các lớp tập huấn cho tất cả công chức làm

công tác giải quyết khiếu nại về THADS, những quy định của pháp luật về

THADS, đặc biệt là pháp luật khiếu nại về THADS tại Học viện Tư pháp – cơ

sở đào tạo và nghiên cứu khoa học trực thuộc Bộ Tư pháp. Từ đó, tạo điều

kiện thuận lợi cho công chức làm công tác THADS thực hiện đúng những quy

định của pháp luật về thi hành án, pháp luật khiếu nại về THADS hạn chế đến

mức thấp nhất những khiếu nại phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án.

3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại

về THADS, cần nắm bắt và nhận diện các chủ thể khiếu nại về THADS là

những người tham gia các tổ chức tín ngưỡng để có phương án tiếp dân,

hướng dẫn thực hiện quyền khiếu nại phù hợp

Phải đổi mới về nhận thức, bởi đổi mới về nhận thức là tiền đề, là điều

kiện để đổi mới toàn bộ công tác khiếu nại về THADS. Để đổi mới khâu này,

trước mắt cần củng cố việc tổ chức tiếp công dân thường xuyên của các cơ

quan THADS. Tại địa điểm tiếp công dân, cần công khai hóa các thủ tục hành

chính về tiếp công dân, về thực hiện quyền khiếu nại về THADS. Thủ trưởng

cơ quan THADS cần bố trí những người có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ.

Đặc biệt, nên bố trí đội ngũ cán bộ tiếp công dân am hiểu đường lối, chủ

trương, chính sách, pháp luật, có kiến thức về xã hội, hiểu biết tâm lý để tiếp

công dân phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương mình, trong đó quy định

rõ mối quan hệ nơi tiếp công dân với các cơ quan chức năng, tổ chức thông

tin kịp thời để thông báo tình hình kết quả giải quyết, trả lời cho dân, tránh

việc đùn đẩy hứa hẹn suông mà không giải quyết dứt điểm các việc khiếu nại

của công dân.

Thực tế, tại địa bàn tỉnh Quảng Bình đã có nhiều trường hợp chủ thể

khiếu nại về THADS là các giáo dân quá khích lợi dụng các buổi tiếp dân để

kích động, quấy rối, đưa ra những đòi hỏi quá đáng, phi lý…đẩy cán bộ tiếp

97

dân vào thế bị động, lúng túng để từ đó tạo điều kiện cho các phần tử xấu, có

cơ hội nói xấu chính quyền, xuyên tạc sự thật, tung tin thất thiệt gây mất lòng

tin trong nhân dân. Trong những trường hợp này, cán bộ tiếp dân phải thật

tỉnh táo, tránh nóng giận, điềm tĩnh giải thích, giải quyết có tình có lý. Trường

hợp cần thiết phải có biện pháp trấn áp thích đáng nhưng phải đảm bảo không

vi phạm pháp luật.

Công tác tiếp dân sẽ phát huy hiệu quả, quyền khiếu nại của đương sự về

THADS sẽ được đảm bảo khi lãnh đạo, cán bộ, Chấp hành viên quan tâm sâu

sát, có tâm, có tầm, có trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách

nhiệm trước Đảng, trước dân. Đồng thời cũng cần lên án tình trạng né tránh,

đùn đẩy trách nhiệm, việc thuộc thẩm quyền ở cơ quan đơn vị mình lại không

chịu tiếp dân để giải quyết mà đùn đẩy lên cấp trên. Kết quả là vụ việc kéo

dài, người dân phải vất vả, tốn kém thời gian, tiền bạc một cách không đáng

có. Và trên hết, việc tiếp dân phải dựa trên cơ sở những chủ trương, quy định

mang tính xuyên suốt và cơ bản của nhà nước cấp Trung ương và địa phương.

3.2.2.4. Yêu cầu nâng cao dân trí pháp lý, ý thức tôn trọng pháp luật của

chủ thể thực hiện quyền khiếu nại về THADS

Qua số liệu thống kê và đánh giá tình hình khiếu nại về THADS tại các

cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình cho thấy, có đến 90% các đơn khiếu nại

của công dân trong lĩnh vực THADS là không được chấp nhận, do khiếu nại

không có cơ sở. Việc khiếu nại, không dựa trên những hiểu biết về quy định

của pháp luật, mà chủ yếu dựa trên sự mong muốn của đương sự được giải

quyết theo hướng có lợi cho họ hoặc lợi dụng quyền dân chủ để khiếu nại tràn

làn, vượt cấp, vượt thẩm quyền, khiếu nại nhiều lần mặc dù đã được giải

quyết hết cấp thẩm quyền, đúng quy định pháp luật.

Do đó, quá trình đổi mới đất nước, xây dựng “nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa” và một “xã hội công dân” bên cạnh việc xây dựng một hệ

98

thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh

tế - xã hội, cần phải xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức

tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật,

có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật.

3.2.2.5. Tăng cường sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS; sự phối hợp

của các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện quyền khiếu nại về THADS

Thực tiễn hoạt động THADS và việc thực hiện quyền khiếu nại về

THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình cho thấy, để đạt được kết

quả khả quan, hoàn thành tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao thì trước hết

công tác chỉ đạo, phối hợp của Ban Chỉ đạo THADS, sự quan tâm phối hợp

của các cơ quan hữu quan với cơ quan THADS là rất quan trọng. Mối quan hệ

phối hợp ở đây phải được xác định bao gồm quan hệ phối hợp trong công tác

lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quan hệ phối hợp trong hoạt động tác nghiệp

nghiệp vụ, báo cáo tổng hợp. Quan hệ phối hợp có tác dụng hỗ trợ tích cực

cho các công việc được tiến hành thuận lợi, là yếu tố rất quan trọng trong giải

quyết đúng đắn các vụ việc thi hành án, cũng như trong giải quyết đúng đắn

các việc đảm bảo quyền khiếu nại về THADS của công dân.

3.2.2.6. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong

việc đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại về THADS của đương sự

Quá trình hoạt động THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình

cho thấy một phần các vụ việc có khiếu nại phát sinh của đương sự là do chưa

thỏa mãn với nội dung bản án, quyết định của Tòa án. Có thể nói, quá trình tổ

chức thi hành án phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của các giai đoạn trước

đó như giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Nếu các bản án xét xử không công

minh, không khả thi, có nhiều sai sót, không áp dụng các biện pháp khẩn cấp

tạm thời,…thì đến giai đoạn THADS sẽ không được thực hiện hiệu quả, vì

vậy cần nâng cao chất lượng cũng như trách nhiệm của các cơ quan này hơn

99

nữa. Mặt khác, khiếu nại là cách thức để người dân tự bảo vệ mình trước

những quyết định, hành vi của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền xâm hại trực

tiếp hay gián tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, nếu các cơ

quan thay mặt Nhà nước để giải quyết việc cho công dân không có được sự tự

nguyện, không dám chịu trách nhiệm, không dám nhận lỗi và lảng tránh, trì

hoãn trách nhiệm của mình thì không chỉ công dân lại thêm một lần bị thiệt

thòi mà quyền lợi theo các bản án, quyết định của Tòa án cũng không được

đảm bảo, quyền khiếu nại về THADS không được thực hiện đầy đủ.

3.2.2.7. Kịp thời xây dựng, ban hành nội quy, quy chế giải quyết khiếu

nại về THADS; công khai các thủ tục hành chính về khiếu nại THADS

Hiện nay, Tổng cục THADS đã ban hành Quy chế giải quyết khiếu nại, tố

cáo về THADS (kèm theo Quyết định số 1318/QĐ- TCTHADS ngày

30/9/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS), đây là căn cứ pháp lý để

các cơ quan THADS áp dụng thực hiện. Tuy nhiên, để công tác giải quyết

khiếu nại đạt hiệu quả cao nhất, đảm bảo quyền khiếu nại về THADS, phù

hợp với từng cơ quan, đơn vị có liên quan trong phối hợp giải quyết khiếu nại

thì cơ quan THADS mỗi cấp cần thiết phải ban hành nội quy, quy chế giải

quyết khiếu nại đối với cơ quan, đơn vị mình.

Mặt khác, cần thực hiện nghiêm túc cơ chế một cửa, hỗ trợ trực tuyến,

công khai thủ tục hành chính tại các cơ quan THADS (theo Quyết định số

536/QĐ-TCTHADS ngày 11/5/2017 của Tổng cục trưởng, Tổng cục

THADS về việc triển khai hỗ trợ trực tuyến THADS; Quyết định số 537/QĐ-

TCTHADS ngày 11/5/2017 của Tổng cục trưởng, Tổng cục THADS về việc

ban hành và triển khai cơ chế một cửa tại các cơ quan THADS) tạo điều kiện

cho tổ chức, công dân giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực THADS,

hạn chế tối đa những vấn đề tiêu cực trong giải quyết khiếu nại, hồ sơ thi hành

100

án, giúp tổ chức, công dân tiết kiệm được thời gian, kinh phí đi lại để giải

quyết thủ tục hành chính...

3.2.2.8. Kiện toàn tổ chức của các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình

Cần giao đủ biên chế cho Phòng kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo

của cơ quan THADS cấp tỉnh, vì đây là phòng chuyên môn tham mưu cho

Lãnh đạo Cục THADS tỉnh trong việc giải quyết khiếu nại về THADS. Khi

xác định nhu cầu tăng biên chế cần có sự so sánh, tính toán khối lượng công

việc để tăng biên chế đủ đáp ứng yêu cầu công việc. Quan trọng hơn thế, cần

chú ý chất lượng của cán bộ được tăng cường trong thời gian tới. Cần chú

trọng tăng cường những công chức đã có nhiều kinh nghiệm trong công tác

giải quyết khiếu nại, những công chức đã có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ

chức thi hành án, nắm vững quy trình tổ chức thi hành án… Bên cạnh các yếu

tố liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ thì người làm công tác giải quyết

khiếu nại cũng phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị

vững vàng để không va vấp trong việc xử lý công việc vốn liên quan trực tiếp

đến nhiều người dân.

Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy của các Chi cục THADS cấp huyện

tiến tới mỗi Chi cục sẽ có một cán bộ chuyên trách về công tác tiếp công dân,

giải quyết khiếu nại về THADS. Thực tiễn công tác này trên địa bàn tỉnh

Quảng Bình cho thấy chủ yếu là do cán bộ kiêm nhiệm nhiều công việc khác

nhau nên sẽ rơi tình trạng quá tải công việc, dẫn đến tình trạng chậm trễ trong

việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại về THADS ở một số vụ việc, gây bức

xúc cho đương sự.

3.2.2.9. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan

THADS nhằm hạn chế những sai phạm trong hoạt động THADS

Thực tiễn, công tác THADS và giải quyết khiếu nại về THADS tại các

cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình vẫn còn những hạn chế, tồn tại ảnh hưởng

101

đến việc thực hiện quyền khiếu nại về THADS của các bên đương sự là trong

hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý THADS, Thủ trưởng cơ

quan THADS có lúc, có nơi chưa được thường xuyên, sâu sát và chặt chẽ. Do

đó, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới

như: Tổng cục THADS đối với Cục THADS, Cục THADS đối với Chi cục

THADS, Lãnh đạo Chi cục THADS đối với người chịu trách nhiệm tham

mưu giải quyết khiếu nại. Cũng như tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra

của Viện kiểm sát nhân dân đối với THADS. Nhất là những nơi có nhiều đơn

thư khiếu nại hoặc khiếu nại phức tạp, kéo dài, khiếu nại vượt cấp, đông

người để làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, kiên quyết xử lý những

trường hợp vi phạm.

3.2.2.10. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

về THADS, pháp luật khiếu nại về THADS và các văn bản có liên quan để các

chủ thể khiếu nại nắm rõ và thực hiện quyền khiếu nại về THADS

Cán bộ, Chấp hành viên các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình cần tiếp

tục thực hiện tốt Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung

ương Đảng (Khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác

phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,

nhân dân; Quyết định số 486/QĐ-BTP ngày 03/03/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư

pháp và Kế hoạch số 930/KH-TCTHADS của Tổng cục THADS về việc

tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về THADS

nói riêng nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành

pháp luật của công chức, người lao động trong cơ quan THADS và nhân dân,

nhất là những người được thi hành án, người phải thi hành án và các đối

tượng có liên quan. Các cơ quan THADS phải xác định công tác tuyên truyền,

phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ của mình. Vì vậy,

cần phải thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục

102

pháp luật phù hợp với từng đối tượng; các hoạt động tuyên truyền, phổ biến

giáo dục pháp luật phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, hướng về cơ

sở; phải bám sát nội dung, yêu cầu theo quy định của Luật phổ biến, giáo dục

pháp luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Các nhiệm vụ

trọng tâm của ngành và chương trình, đề án để phổ biến, giáo dục pháp luật

phải được triển khai phù hợp với từng cấp, từng địa phương. Các cơ quan

THADS phải phát huy vai trò chủ động, phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp,

Phòng Tư pháp và các cơ quan liên quan triển khai có hiệu quả công tác tuyên

truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS. Việc tuyên truyền, giáo dục

pháp luật cần gắn với công tác bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý

thức chấp hành pháp luật của cán bộ công chức và các phong trào thi đua của

Ngành do Bộ và Tổng cục phát động.Tập trung phổ biến Luật THADS năm

2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành, chú trọng tuyên truyền Luật sửa đổi,

bổ sung một số Điều của Luật THADS có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015.

Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW ngày 15/10/2007 của Ban Bí thư

Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công

tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới. Đổi mới phương pháp tuyên

truyền, giới thiệu văn bản luật theo hướng tăng cường trao đổi, đối thoại giải

đáp những thắc mắc từ phía người được tuyên truyền nhằm nâng cao tính chủ

động tìm hiểu và tiếp cận kiến thức pháp luật của công chức trong ngành

THADS và nhân dân.

103

Tiểu kết chương 3

Để thực hiện tốt quyền khiếu nại nói chung và quyền khiếu nại về

THADS nói riêng, trước hết cần phải bảo đảm quán triệt chủ trương, đường

lối của Đảng; yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính; bảo đảm

nguyên tắc pháp chế trong quá trình giải quyết khiếu nại về THADS. Muốn

nâng cao hiệu quả của công tác này cần thực hiện tốt các giải pháp như: Hoàn

thiện pháp luật về THADS, pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực

THADS; thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật, Quy chế nghiệp vụ của

ngành trong giải quyết khiếu nại về THADS; kiện toàn tổ chức của cơ quan

THADS; nâng cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu; đào tạo, bồi

dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm

công tác giải quyết khiếu nại về THADS; nâng cao hiệu quả trong công tác

tiếp công dân, giải quyết khiếu nại về THADS; tăng cường hơn nữa sự lãnh

đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, Thủ trưởng cơ quan

trong công tác giải quyết khiếu nại về THADS; nâng cao chất lượng của đội

ngũ công chức THADS như biện pháp ngăn ngừa khiếu nại; tăng cường sự

chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS, mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan

THADS với các cơ quan hữu quan, đặc biệt là Viện Kiểm sát, Tòa án nhân

dân và các cơ quan tư pháp khác về giải quyết khiếu nại trong hoạt động

THADS; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người

tiến hành tố tụng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về THADS; đẩy

mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Các giải pháp này

phải được thực hiện một cách đồng bộ sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu

quả trong giải quyết khiếu nại, nhằm đảm bảo quyền khiếu nại về THADS

của công dân, của con người theo tinh thần của Hiến pháp đã quy định.

104

KẾT LUẬN

Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến

pháp, pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Việc ghi nhận quyền khiếu

nại của công dân đã tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền cơ bản

của mình. Và bên cạnh các quy định pháp lý để công dân thực hiện quyền

khiếu nại của mình thì Luật khiếu nại cũng như Luật THADS cũng đã có

những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại nói chung và

giải quyết khiếu nại về THADS nói riêng để công tác này đảm tính khách

quan, công minh, công bằng và dân chủ nhằm đảm bảo quyền lợi của các

đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đây là vấn đề quan trọng

được quan tâm cũng như phải đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết mà đã và

đang được Đảng, Nhà nước, các cơ quan hữu quan quan tâm, làm sao để việc

thực hiện quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại về THADS đối với những

vụ việc khiếu nại tồn đọng, kéo dài, khiếu nại vượt cấp một cách có hiệu quả

và dứt điểm.

Trong những năm qua công tác giải quyết khiếu nại về THADS tại các

cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình đã khẳng định vai trò to lớn của mình trong

việc thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật

của Nhà nước, trong đó vấn đề quyền khiếu nại về THADS của các đương sự,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan luôn được quan tâm và chú trọng, góp

phần cùng các ngành, các cấp chung sức thực hiện chiến lược cải cách tư

pháp, cải cách hành chính ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay tại các cơ

quan THADS tỉnh Quảng Bình vẫn còn những tồn tại trong giải quyết khiếu

nại về THADS làm ảnh hưởng đến quyền khiếu nại của công dân, mà cụ thể

là quyền của người được thi hành án, người phải thi hành án và người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Với nghiên cứu “Quyền khiếu nại về thi hành

105

án dân sự - Từ thực tiễn các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình”

luận văn đã làm rõ một số vấn đề sau:

- Hệ thống hóa được những lý luận cơ bản của đề tài thông qua việc trình

bày rõ lý luận và pháp lý quyền khiếu nại về THADS.

- Từ thực tiễn công tác THADS, giải quyết khiếu nại về THADS đã đánh

giá được thực trạng quyền khiếu nại về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh

Quảng Bình giai đoạn từ năm 2013 - 2017.

Trên cơ sở phản ánh, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện

quyền khiếu nại, chất lượng công tác giải quyết khiếu nại về THADS trên địa

bàn tỉnh Quảng Bình đã đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, của các bên

đương sự hay chưa.

- Đã phản ánh rõ và chỉ ra những kết quả đạt được trong thực hiện quyền

khiếu nại về THADS của các bên đương sự tại các cơ quan THADS tỉnh

Quảng Bình.

- Phân tích những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc thực

hiện quyền khiếu nại về THADS của các bên đương sự.

- Thực hiện quyền khiếu nại về THADS là một quyền cơ bản của công

dân nhưng công tác giải quyết khiếu nại về THADS là một hoạt động của cơ

quan hành chính nhà nước. Việc giải quyết tốt vấn đề khiếu nại có vai trò thúc

đẩy hoàn thiện về cơ chế hành chính, xây dựng một nền hành chính vững

mạnh, trong sạch, chuyên nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nhất là chúng

ta đang trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, trọng tâm là bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, đảm bảo quyền

công dân, quyền con người theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và pháp

luật đã được ghi nhận.

- Xuất phát từ những căn cứ mang tính thực tiễn kết hợp với các nội

dung đã được làm rõ. Luận văn đã đưa ra những quan điểm, đặc biệt đã đề

106

xuất được các giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại về

THADS của người dân, của các đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ

liên quan trong lĩnh vực THADS nói chung và tại các cơ quan THADS tỉnh

Quảng Bình nói riêng.

Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả đã vận dụng những kiến thức

lý luận đã được tiếp thu từ sách báo, quá trình học tập tại Học viện và tìm

hiểu thực tế tại địa phương. Tuy nhiên, do còn hạn chế về thời gian, điều kiện

nghiên cứu thực tế có những khó khăn nhất định, nội dung nghiên cứu và các

giải pháp nêu trên đòi hỏi phải có thời gian kiểm nghiệm. Vì vậy, những đóng

góp của luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế nhất định.

Tác giả luận văn mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa

học, các thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung,

hoàn thiện đề tài.

107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Thế Anh (2013), Giám sát thi hành án dân sự, mã số 62380101,

Luận án Tiến sĩ Luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2007), Chỉ thị 17-CT/TW ngày 15/10/2007

về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên

truyền miệng trong tình hình mới.

3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa IX), Chỉ thị số 32-CT/TW ngày

09/12/2003 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,

giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,

nhân dân.

4. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình (2010), Chỉ thị số 34-CT/TU ngày

09/02/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác THADS

trên địa bàn tỉnh.

5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020.

6. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị 35-CT/TW ngày 26/5/2014 về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố

cáo.

7. Bộ Tư pháp (2014), Quyết định số 486/QĐ-BTP ngày 03/03/2014 về việc

ban hành kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải cơ sở

và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân sở tại năm 2014.

8. Bộ Tư pháp (2014), Tạp chí dân chủ và pháp luật số chuyên đề: Bảo đảm

quyền con người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp (2016), Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 quy

định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản

ánh trong thi hành án dân sự.

10. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân

dân tối cao (2013), Quy chế số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-

VKSNDTC ngày 09/10/2013 về phối hợp liên ngành trong công tác thi

hành án dân sự.

11. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/01/2011 ban

hànhchương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-

2020.

12. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân

sự.

13. Cục THADS tỉnh Quảng Bình (2013, 2014, 2015, 2016, 2017), Báo cáo

tổng kết công tác THADS các năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.

14. Cục THADS tỉnh Quảng Bình (2013, 2014, 2015, 2016, 2017), Báo cáo

các vụ việc khiếu nại, tố cáo về THADS các năm 2013, 2014, 2015, 2016,

2017.

15. Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án

nhân dân (2015), Quy chế số 449/2015/QCLN/CTHADS-CA-VKSND-

TAND ngày 25/01/2015.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/02/2002 củaBộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác

tư pháp thời gian tới.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việ Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020.

19. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới

và hội nhập (Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII), NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

20. Phan Huy Hiếu (2012), Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Luận văn

Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.

21. Luận văn thạc sĩ “Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự

ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Tuấn, năm 2016.

22. Luận văn thạc sĩ “Khiếu nại và giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền

của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Công Toàn,

năm 2012.

23. Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại tại

Tổng cục Thi hành án dân sự” của tác giả Lê Thị Kim Dung, năm 2009.

24. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự năm 2008.

25. Quốc hội (2011), Luật khiếu nại năm 2011.

26. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 111/2015/QH13 về công tác phòng,

chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân

dân, Tòa án nhân dân và công tác THADS năm 2016 và các năm tiếp

theo.

27. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

28. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thi hành án

dân sự.

29. Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động

thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học – Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

30. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

31. Tổng cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (2013), Quy chế giải quyết

khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự (Ban hành kèm theo Quyết định số

1318/QĐ- TCTHADS ngày 30/9/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục thi

hành án dân sự).

32. Tổng cục thi hành án dân sự, Kế hoạch số 930/KH-TCTHADS về việc

tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật.

33. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2015), Thông báo số 314/TB-UBND

ngày 02/04/2015 về kết quả rà soát giải quyết khiếu nại trên địa bàn tỉnh.

34. Từ điển Anh – Việt (1990) Nhà xuất bản Đồng Nai.

35. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ

Tư pháp, Bộ Quốc phòng (2014), Hướng dẫn số 24/HD-VKSTC-

TATC-BCA-BTP-BQP ngày 06/5/2014 về việc phân loại đơn khiếu nại, tố

cáo trong hoạt động tư pháp.