BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/…… HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN TUẤN
QUYỀN KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ …………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN VĂN TUẤN
QUYỀN KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN QUANG THÁI
THỪA THIÊN HUẾ, NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Văn Tuấn, tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập, do tôi thực hiện. Các số liệu, kết quả được nêu trong luận văn có
nguồn gốc rõ ràng, xác thực và luận văn này chưa được ai công bố trong bất
kỳ một công trình nghiên cứu nào khác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời
cam đoan của mình.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng năm 2018
Học viên
Nguyễn Văn Tuấn
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình đào tạo thạc sĩ Luật Hiến pháp và Luật
Hành chính tại Học viện Hành chính Quốc gia, bên cạnh sự nổ lực của bản
thân, tôi đã nhận được sự động viên, hướng dẫn, giảng dạy và nhiều ý kiến
đóng góp quý báu của các thầy giáo, cô giáo Khoa sau đại học – Học viện
Hành chính Quốc gia cũng như gia đình, bạn bè trong suốt quá trình học tập
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi chân thành cảm ơn các anh, chị lãnh đạo, đồng nghiệp tại các cơ
quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
hoàn thành khóa học. Đặc biệt, tôi vô cùng biết ơn TS. Nguyễn Quang Thái
đã giành nhiều thời gian hướng dẫn nhiệt tình trong suốt quá trình nghiên
cứu và hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn và mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý
thầy cô giáo và bạn bè để luận văn này hoàn thiện hơn.
Học viên
Nguyễn Văn Tuấn
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục ký hiệu các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, số liệu
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN
KHIẾU NẠI THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA TỈNH ........................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền khiếu nại THADS trên địa bàn tỉnh ........... 7
1.2. Các yếu tố cấu thành quyền khiếu nại THADS trên địa bàn tỉnh ........... 14
1.3. Các yếu tố bảo đảm quyền khiếu nại trong THADS .............................. 29
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 36
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN KHIẾU NẠI VỀ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH ................................................................. 37
2.1. Tình hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan THADS có liên quan trực
tiếp tới thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh
Quảng Bình .................................................................................................. 37
2.2. Kết quả và hạn chế; nguyên nhân của hạn chế thực hiện quyền khiếu nại
về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình .................................. 44
Tiểu kết chương 2......................................................................................... 83
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
QUYỀN KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN
CÁC CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH .. Error!
Bookmark not defined.
3.1. Quan điểm ............................................................................................. 85
3.2. Giải pháp ............................................................................................... 90
Tiểu kết chương 3....................................................................................... 104
KẾT LUẬN ............................................................................................... 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THADS : Thi hành án dân sự
TAND : Tòa án nhân dân
UBND : Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân THADS về việc của các cơ quan THADS
tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2013 - 2017 .................................................... 40
Bảng 2.2: Kết quả THADS về tiền của các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình
giai đoạn từ 2013 - 2017 ............................................................................... 41
Bảng 2.3. Số liệu đơn thư khiếu nại, tố cáo và kết quả giải quyết của các cơ
quan THADS tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2013 - 2017 ............................. 41
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua lịch sử đấu tranh, xây dựng và phát triển đất nước của dân tộc
ta, gắn với mỗi giai đoạn lịch sử là sự ra đời các bản Hiến pháp 1946, 1959,
1980, 1992 và 2013. Trong mỗi giai đoạn lịch sử, các bản Hiến pháp đã ghi
dấu lại sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở nhận thức pháp
lý ngày càng sâu sắc và thực hiện công ước quốc tế về quyền con người mà
Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Hiến pháp 2013 một lần nữa lại khẳng
định việc thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ quyền con người một cách mạnh
mẽ, rõ ràng và hiện đại nhất.
Một trong những nội dung quan trọng của Hiến pháp 2013 là tiếp tục
phát huy dân chủ, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người, quyền công
dân, trong đó có vấn đề khiếu nại. Đây là quyền cơ bản của công dân được
Hiến pháp ghi nhận. Giải quyết khiếu nại là một lĩnh vực hết sức quan trọng
trong hệ thống quản lý nhà nước và điều hành xã hội. Thực hiện tốt công tác
giải quyết khiếu nại của nhân dân sẽ củng cố và tăng cường niềm tin của nhân
dân vào chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Đối với lĩnh vực thi hành án dân sự (THADS), đây là hoạt động phức
tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, trực tiếp ảnh hưởng
đến quyền cơ bản của con người (như quyền về tài sản, nhân thân của các bên
đương sự và những người có liên quan). Việc tổ chức thi hành bản án, quyết
định của Tòa án sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
về tài sản của các bên đương sự. Do tính chất công việc phức tạp nên khiếu
nại trong quá trình tổ chức THADS là điều khó trách khỏi. Trong các giai
đoạn tố tụng, nếu các cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành điều tra, truy tố và
1
xét xử công minh, khách quan, đúng pháp luật, kịp thời ngăn chặn việc tẩu tán
tài sản của đương sự, thì quá trình thi hành án sẽ thuận lợi, hạn chế được rất
nhiều việc khiếu nại của các bên đương sự và người có liên quan. Tuy nhiên,
thực tiễn cho thấy nhiều đương sự có điều kiện thi hành án nhưng vẫn cố tình
chây ỳ, không tự nguyện thi hành án, thậm chí có trường hợp còn chống đối
quyết liệt hoặc lợi dụng quyền tự do dân chủ của công dân làm đơn khiếu nại
không đúng, khiếu nại vượt cấp nhằm để trì hoãn việc thi hành án. Nhiều
trường hợp khiếu nại, cơ quan THADS đã giải quyết khiếu nại hết thẩm
quyền nhưng các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại gửi đến nhiều ngành, nhiều
cấp, thậm chí có trường hợp còn tổ chức tụ tập đông người, kéo đến các cơ
quan Đảng, nhà nước, gây rối trật tự, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình
thường của cơ quan, đơn vị hoặc ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở địa phương. Bên cạnh đó, vẫn còn có những trường hợp cá
nhân, tổ chức có thẩm quyền không quan tâm, chú trọng đến công tác giải
quyết khiếu nại trong THADS, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp
của các bên.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại
nên thời gian qua, Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS, các cơ quan THADS địa
phương đã quan tâm, chú trọng đối với việc giải quyết khiếu nại thi hành án,
xem công tác giải quyết khiếu nại là một nhiệm vụ trọng tâm của công tác thi
hành án dân sự.
Đối với tỉnh Quảng Bình, thời gian qua công tác giải quyết khiếu nại về
THADS trên địa bàn tỉnh đã thu được những kết quả nhất định, góp phần giải
quyết những quyền và lợi ích chính đáng của công dân liên quan đến quá trình
THADS. Tuy nhiên, so với yêu cầu thì công tác này vẫn còn có những hạn
chế, bất cập, chưa đáp ứng được đòi hỏi của công tác THADS trong tình hình
mới, một số cơ quan THADS chưa coi trọng công tác giải quyết khiếu nại còn
2
đùn đẩy, né tránh; việc phân công, bố trí người làm công tác tham mưu giải
quyết khiếu nại còn chưa tương xứng; có nơi việc giải quyết khiếu nại còn
chậm, thiếu chặt chẽ làm cho đương sự bức xúc khiếu nại nhiều lần, vượt cấp.
Tất cả những vấn đề nêu trên cho thấy cần phải nghiên cứu một cách toàn
diện cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại về
THADS là rất cần thiết. Qua đó, thấy được cơ sở lý luận, thực trạng tình hình
giải quyết khiếu nại thời gian qua với những bất cập, hạn chế, từ đó đưa ra
những giải pháp để điều chỉnh cho phù hợp nhằm đảm bảo quyền công dân
trong thực hiện quyền khiếu nại về THADS. Với tính cấp thiết đó, tác giả
chọn đề tài “Quyền khiếu nại về thi hành án dân sự - Từ thực tiễn các cơ
quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác
THADS, đã có nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến
công tác THADS. Cụ thể là:
- Hoàng Thế Anh (2013), Giám sát thi hành án dân sự, mã số 62380101,
Luận án Tiến sĩ Luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại tại
Tổng cục Thi hành án dân sự” của tác giả Lê Thị Kim Dung, năm 2009.
- Luận văn thạc sĩ “Khiếu nại và giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền của
Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Công Toàn, năm 2012.
- Luận văn thạc sĩ “Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân
sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Tuấn, năm 2016.
- Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học – Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
3
- Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự
ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học – Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, còn nhiều nghiên cứu khác được đăng trên các tạp chí Dân chủ
và pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Tuy nhiên,
chưa có công trình nghiên cứu trực tiếp nào về đề tài “Quyền khiếu nại về thi
hành án dân sự - Từ thực tiễn các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng
Bình”.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
- Mục đích nghiên cứu của luận văn là hệ thống hóa được những vấn đề
lý luận và pháp lý về quyền khiếu nại về THADS.
- Nhận diện được những hạn chế, vướng mắc trong hệ thống pháp luật
khiếu nại cũng như thực hiện quyền khiếu nại về THADS – Từ thực tiễn các
cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình.
- Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật khiếu nại về THADS,
đảm bảo quyền khiếu nại về THADS nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, ổn
định trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế của địa phương.
3.2. Nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý đối với quyền khiếu nại về thi
hành án dân sự.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện quyền khiếu nại về THADS –
Từ thực tiễn các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình.
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
khiếu nại và thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại các cơ quan THADS
tỉnh Quảng Bình.
4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền
khiếu nại về THADS; thực tiễn thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại các
cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình thông qua thủ tục khiếu nại và giải quyết
khiếu nại về THADS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý quy định quyền
khiếu nại về THADS; thực tiễn thực hiện quyền khiếu nại về THADS của các
bên đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được ấn định trong
bản án, quyết định của Tòa án phát sinh trong quá trình tổ chức THADS tại
các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình gồm: Cục THADS tỉnh Quảng Bình và
08 Chi cục THADS các huyện, thị xã, thành phố trực thuộc Cục THADS tỉnh
Quảng Bình.
- Thời gian: Giai đoạn từ năm 2013 - 2017 (5 năm).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử;
quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và
pháp luật; kế thừa có chọn lọc của các công trình khoa học đã được công bố.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn
đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: Phương pháp
phân tích được áp dụng khi xem xét quy định của các văn bản pháp luật về
quyền khiếu nại; quy trình thực hiện giải quyết khiếu nại của cá nhân, tổ chức
có thẩm quyền thông qua thủ tục giải quyết khiếu nại về THADS.
Phương pháp thống kê, tác giả đã sử dụng khi tìm hiểu, đánh giá số
lượng đơn thư khiếu nại, nguyên nhân phát sinh đơn thư khiếu nại, các yếu tố
5
bảo đảm việc thực hiện quyền khiếu nại và kết quả giải quyết đơn khiếu nại.
Ngoài ra, tác giả luận văn còn sử dụng các phương pháp so sánh, phương
pháp lịch sử, phương pháp lôgic và phương pháp bình luận khi xem xét, đánh
giá vụ việc khiếu nại phát sinh trong thực tiễn công tác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài hệ thống hóa cơ sở khoa học về quyền khiếu nại; nêu rõ vấn đề lý
luận và pháp lý cơ bản về quyền khiếu nại về THADS để làm cơ sở đi đến
nghiên cứu thực trạng thực hiện quyền khiếu nại về THADS – Từ thực tiễn
các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài đánh giá thực trạng thực hiện quyền khiếu nại về THADS – Từ
thực tiễn các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình, những kết quả đạt được, hạn
chế và nguyên nhân của hạn chế, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp và kiến
nghị để hoàn thiện pháp luật khiếu nại về THADS nói chung và quyền khiếu
nại về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về quyền khiếu nại về
THADS trên địa bàn cấp tỉnh.
Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại các cơ
quan THADS tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại
về THADS – Từ thực tiễn các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ QUYỀN KHIẾU NẠI
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm của quyền khiếu nại về thi hành án dân sự
trên địa bàn tỉnh
1.1.1. Khái niệm quyền khiếu nại về thi hành án dân sự
Để làm rõ khái niệm quyền khiếu nại về THADS, trước hết cần phải làm
rõ khái niệm: Khiếu nại, quyền khiếu nại, án dân sự, thi hành án dân sự, khiếu
nại về THADS là gì.
Khiếu nại theo tiếng Latinh là: "Complain" có nghĩa là phàn nàn, kêu
nài, thưa kiện, phản ứng, bất bình của người nào đó về vấn đề có liên quan
đến lợi ích của mình. [34, tr.205]
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, khiếu nại là thắc mắc, đề nghị xem xét lại
những kết luận, quyết định do cấp có thẩm quyền đã làm. [30, tr.904]
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến
pháp, pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Đó là hiện tượng phát sinh
trong đời sống xã hội như là một phản ứng của con người trước một quyết
định, một hành vi nào đó mà người khiếu nại cho rằng quyết định hay hành vi
đó là không phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực trong đời sống cộng đồng,
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 30 Hiến pháp 2013 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định rõ:
“1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá
nhân.
7
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất,
tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật.
3. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”.
Việc ghi nhận quyền khiếu nại của công dân trong Hiến pháp 2013 đã
tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền cơ bản của mình. Và thông
qua việc thực hiện quyền này, công dân đã góp phần tích cực vào hoạt động
quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Theo khoản 1 Điều 2 Luật khiếu nại năm 2011 quy định: “ Khiếu nại là
việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ công chức theo thủ tục do Luật
này quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại
quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ,
công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp
luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.[25, tr.1]
Như vậy, khiếu nại là đề nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động
trực tiếp bởi quyết định hành chính hay hành vi hành chính hoặc đề nghị của
cán bộ công chức chịu tác động trực tiếp của quyết định kỷ luật đối với cơ
quan, tổ chức hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Đề nghị này
xuất phát từ nhận thức chủ quan của người khiếu nại cho rằng quyền và lợi
ích chính đáng của mình bị xâm phạm. Cơ quan có thẩm quyền chỉ có thể kết
luận có vi phạm hay không sau khi đã xem xét một cách khách quan và thận
trọng nội dung vụ việc với điều kiện được cung cấp đầy đủ tài liệu có liên
quan. Do đó, một mặt của khiếu nại là hình thức phản ứng tích cực của công
dân, cơ quan, tổ chức với những hiện tượng vi phạm các quyền và lợi ích
được pháp luật bảo vệ; mặt khác, khiếu nại là biện pháp ngăn chặn và loại trừ
vi phạm.
8
Trong quá trình tổ chức THADS, hoạt động của cơ quan THADS trực
tiếp tác động đến người được thi hành án, người phải thi hành án và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giáo dục, thuyết phục họ tự nguyện thực hiện
các nghĩa vụ theo nội dung bản án, quyết định hoặc cưỡng chế buộc họ thực
hiện các nghĩa vụ đó nên họat động thi hành án nói chung và hoạt động thi
hành án dân sự nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với toàn bộ quá
trình giải quyết vụ án. Bởi vì, bản án, quyết định chỉ có ý nghĩa khi bản án án,
quyết định đó được thi hành trên thực tiễn, khi đó quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự vì thế cũng được bảo vệ một cách trọn vẹn, đầy đủ hơn, góp
phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Theo quy định tại Điều 1 Bộ luật Tố tụng dân sự có đề cập đến vụ án dân
sự là các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động được gọi chung là vụ án dân sự. Có thể hiểu một cách
đơn giản, án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì cá nhân, tổ chức tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Như vậy, ta có thể hiểu khái niệm: Thi hành án dân sự là việc tổ chức thi
hành các bản án, quyết định được đưa ra thi hành theo quy định của các cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân cơ quan, tổ chức. [24, tr.2]
Hoạt động THADS là một vấn đề hết sức hệ trọng, liên quan trực tiếp
đến hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, đến trật tự kỷ cương
pháp luật và ảnh hưởng sâu sắc đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
hay nói rộng hơn là quyền dân sự cơ bản của con người, như quyền về tài sản,
quyền được lao động, quyền tự do, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm
[29, tr.65].
9
Hoạt động THADS trực tiếp tác động đến các quyền và lợi ích không
những của người phải thi hành án mà cả người được thi hành án và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Xét về mặt tâm lý, mặc dù nghĩa vụ phải thi
hành các khoản về tiền, tài sản đã được xác định rõ trong bản án, quyết định
của Tòa án nhưng người phải thi hành án luôn có tâm lý không muốn thi
hành, thi hành không đầy đủ hoặc dây dưa kéo dài việc thi hành án. Còn
người được thi hành án thì luôn mong muốn được nhận tiền, tài sản càng sớm
càng tốt, bất cứ một hành vi hay quyết định nào của cơ quan THADS, Chấp
hành viên làm chậm quá trình được nhận tiền, tài sản hoặc khiến họ chỉ được
nhận tiền, tài sản ít hơn so với họ mong đợi đều dẫn đến tâm lý cho rằng cơ
quan THADS và Chấp hành viên làm trái pháp luật hoặc bênh vực phía người
phải thi hành án.
Bên cạnh đó, hoạt động THADS là hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước nên trong quá trình tổ chức thi hành án có thể xảy ra hiện tượng cơ quan
THADS và Chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án lạm dụng quyền
hành, áp đặt ý chí một cách trái pháp luật lên các chủ thể, hoặc do nhận thức
hạn chế mà áp dụng sai pháp luật, tổ chức thi hành sai bản án dẫn đến lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích của tổ chức, công dân bị xâm phạm.
Từ những phân tích nêu trên, khái niệm khiếu nại về THADS có thể hiểu
như sau: Khiếu nại về THADS là việc đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến việc thi hành án đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại quyết
định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên khi có căn cứ
cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của mình.
Về khái niệm quyền khiếu nại về THADS: Luật Thi hành án dân sự
không đưa ra khái niệm cụ thể về quyền khiếu nại, tuy nhiên, tại khoản 1 Điều
140 Luật THADS có nêu: “Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
10
có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan
THADS, Chấp hành viên nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là
trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”. [24, tr.146].
Từ quy định này có thể hiểu quyền khiếu nại về THADS là đề nghị của
cá nhân, cơ quan, tổ chức chịu tác động trực tiếp của quyết định, hành vi của
Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên, vì cho rằng quyết định, hành vi
đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Chủ thể của quyền khiếu nại trong THADS gồm người được thi hành án,
người phải thi hành án (đương sự) và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là người đã được xác định
trong bản án hoặc người chịu sự tác động trực tiếp bởi các quyết định, hành vi
trong THADS. Do vậy, những người không có liên quan đến việc thi hành
bản án, quyết định không có quyền khiếu nại.
1.1.2. Đặc điểm của quyền khiếu nại về thi hành án dân sự
Thứ nhất, khiếu nại về THADS là quyền của công dân mà cụ thể là
quyền của các đương sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được ấn định
trong bản án, quyết định của Tòa án và các cơ quan tài phán khác khi họ là
người được thi hành án, người phải thi hành án hay là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án của các bên đương sự. Mục đích của
khiếu nại là bảo vệ và khôi phục lại quyền và lợi ích của người khiếu nại đã bị
quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên xâm
hại. Mặt khác, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của bộ
máy quản lý nhà nước. Nhà nước luôn bảo đảm quyền công dân, việc tiếp
nhận và giải quyết các thắc mắc, kiến nghị, các khiếu nại của người dân từ rất
lâu đã được Nhà nước Việt Nam quan tâm và luôn coi đó là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của bộ máy nhà nước.
11
Thứ hai, khiếu nại về THADS là việc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu
cơ quan có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính
mà quyết định, hành vi đó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp
pháp của họ.
Như vậy, khiếu nại là đề nghị của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động
trực tiếp bởi quyết định hành chính hay hành vi hành chính. Đề nghị này xuất
phát từ nhận thức chủ quan của người khiếu nại cho rằng quyền và lợi ích
chính đáng của mình bị xâm phạm. Do đó, một mặt, khiếu nại là hình thức
phản ứng tích cực của công dân, cơ quan, tổ chức với những hiện tượng vi
phạm các quyền và lợi ích được pháp luật bảo vệ; mặt khác, khiếu nại là biện
pháp ngăn chặn và loại trừ vi phạm.
Thứ ba, chủ thể thực hiện quyền khiếu nại về THADS là cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp tới quyết định
hành chính, hành vi hành chính. Như vậy, chủ thể khiếu nại có thể là công
dân, có thể là cơ quan, tổ chức, có thể là cán bộ, công chức chứ không chỉ là
công dân như trước đây. Ngoài ra, cá nhân, tổ chức nước ngoài cũng được
hưởng quyền khiếu nại về THADS nếu họ là người được thi hành án, người
phải thi hành án và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được ấn định trong
bản án, quyết định của Tòa án; bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài,
quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được Việt Nam công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam.
Có nhiều quyết định hành chính, hành vi hành chính có thể xâm hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp, tuy nhiên cá nhân, tổ chức thường phản ứng trước nhà nước đối với
những quyết định hành chính, hành vi hành chính ảnh hưởng hoặc xâm hại
trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
12
Thứ tư, đối tượng thực hiện quyền khiếu nại về THADS là quyết định thi
hành án, quyết định về thi hành án (quyết định cưỡng chế kê biên, quyết định
phong tỏa tài khoản, quyết định khấu trừ thu nhập,…); hành vi trong hoạt
động thi hành án là hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên.
Trong hoạt động THADS, cơ quan THADS thực hiện hoạt động thi hành
án thông qua nhiều hình thức khác nhau mà pháp luật quy định, trong đó, việc
ra các quyết định thi hành án, quyết định về thi hành án là quyết định hành
chính tư pháp, được hiểu là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính
nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn
đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Hành vi hành chính được hiểu
là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước (của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành
viên) khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, việc thực hiện quyền khiếu nại về THADS theo thủ tục hành
chính được quy định trong Luật khiếu nại, Luật THADS và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thủ tục hành chính. Dưới góc độ quản
lý nhà nước nói chung, thủ tục hành chính được hiểu là công cụ, phương tiện
quan trọng để các cơ quan hành chính thực hiện việc quản lý đối với từng
ngành, lĩnh vực cụ thể. Còn dưới góc độ xã hội, thủ tục hành chính được xác
định là cầu nối để chuyển tải các quy định cụ thể về chính sách của Nhà nước
vào cuộc sống, đảm bảo cho người dân, tổ chức tiếp cận và thực hiện tốt các
chính sách, trong đó, cơ bản và chủ yếu là thực hiện các quyền, lợi ích chính
đáng, hợp pháp của công dân, tổ chức.
Hiện nay, theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 63/2010/NĐ-
CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ, thủ tục hành chính được quy định theo
13
hướng giải thích từ ngữ: “Thủ tục hành chính là trình tự, cách thức thực hiện,
hồ sơ và yêu cầu, điều kiện do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền quy
định để giải quyết một công việc cụ thể liên quan đến cá nhân, tổ chức”.
1.2. Các yếu tố cấu thành quyền khiếu nại về thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh
1.2.1. Chủ thể quyền khiếu nại về thi hành án dân sự
Theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011, người có quyền khiếu nại
là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức có quyền lợi bị xâm hại
bởi một quyết định hành chính, hành vi hành chính, một quyết định kỷ luật
cán bộ, công chức hoặc người đại diện hợp pháp của những người này khi họ
thực hiện quyền khiếu nại. Có nghĩa là, người có quyền khiếu nại phải là
người bị tác động trực tiếp bởi chính quyết định hoặc hành vi đó.
Theo quy định tại Điều 140 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ
sung năm 2014 thì những người có quyền khiếu nại về THADS bao gồm:
Một là, người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng
quyền, lợi ích trong bản án, quyết định được thi hành. Tức là người được bản
án, quyết định của Tòa án nhân dân các cấp đã có hiệu lực pháp luật hoặc
quyết định của các cơ quan có thẩm quyền ghi nhận là được hưởng một hoặc
một số quyền lợi nào đó (như tiền hoặc tài sản,...) và phải được cơ quan
THADS ấn định trong quyết định thi hành án.
Hai là, người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện
nghĩa vụ trong bản án, quyết định được thi hành. Được hiểu là người có nghĩa
vụ phải thực hiện trách nhiệm pháp lý nào đó (như buộc phải bồi thường dân
sự, buộc phải trả nợ, giao trả một khoản nào đó về tiền hoặc tài sản, buộc thực
hiện hay không thực hiện công việc nhất định...) mà bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân các cấp đã có hiệu lực hoặc quyết định của cơ quan có thẩm
14
quyền buộc họ phải thực hiện và là người được ấn định buộc phải thực hiện
nghĩa vụ trong quyết định thi hành án.
Ba là, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền lợi, nghĩa vụliên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền,
nghĩa vụ thi hành án của đương sự. Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến vụ án là người có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi
quyết định của tòa án. Những người này không phải là bị can, bị cáo, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người được thi hành án, người phải thi hành án…
nhưng lại có liên quan đến các quyết định của Tòa án, quyết định thi hành án
của cơ quan THADS, quyết định về thi hành án, hành vi của Chấp hành viên
mà trong quá trình tổ chức thi hành án quyết định, hành vi đó của Chấp hành
viên làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại về
thi hành án dân sự
Thứ nhất: Quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại về THADS
Để đảm bảo cho người khiếu nại được thực hiện quyền khiếu nại một cách
hiệu quả, đồng thời nhằm tránh việc người khiếu nại lợi dụng quyền khiếu nại
làm mất uy tín của cán bộ, cơ quan nhà nước, làm mất thời gian, công sức của
các cơ quan hữu quan, khoản 1 Điều 143 Luật THADS năm 2008 được sửa
đổi, bổ sung năm 2014 quy định người khiếu nại có quyền sau đây:
- Tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại;
- Nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại;
- Được nhận quyết định giải quyết khiếu nại;
- Được biết các bằng chứng để làm căn cứ giải quyết khiếu nại; đưa ra
bằng chứng về việc khiếu nại và giải trình ý kiến của mình về bằng chứng đó;
- Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm và được bồi
thường thiệt hại, nếu có;
15
- Được khiếu nại tiếp nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu
nại lần đầu của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại;
- Rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu nại.
Đồng thời với quyền, nhằm tránh việc người khiếu nại lợi dụng quyền
khiếu nại làm mất uy tín của cán bộ, cơ quan nhà nước, làm mất thời gian,
công sức của các cơ quan hữu quan, Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ
sung năm 2014 cũng quy định người khiếu nại có nghĩa vụ phải: Khiếu nại
đến đúng người có thẩm quyền giải quyết; trình bày trung thực sự việc, cung
cấp thông tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước
pháp luật về nội dung trình bày và việc cung cấp thông tin, tài liệu đó; chấp
hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành và
quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Thứ hai: Quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu nại về THADS
Để tạo điều kiện cần thiết bảo vệ quyền và nghĩa vụ của người bị khiếu
nại về THADS, khoản 1 Điều 144 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ
sung năm 2014 quy định người bị khiếu nại có các quyền sau đây:
- Được biết các căn cứ khiếu nại của người khiếu nại; đưa ra bằng chứng
về tính hợp pháp của quyết định, hành vi bị khiếu nại;
- Được nhận quyết định giải quyết khiếu nại.
Đồng thời, người bị khiếu nại có các nghĩa vụ sau đây: Phải giải trình về
quyết định, hành vi bị khiếu nại, cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan khi
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại yêu cầu; chấp hành nghiêm chỉnh
quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành và quyết định của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp; bồi thường, bồi hoàn, khắc phục hậu quả do quyết định,
hành vi trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của pháp luật.
16
1.2.3. Thực hiện quyền khiếu nại THADS thông qua thủ tục giải quyết
khiếu nại về thi hành án dân sự
Trong quá trình thực hiện quyền khiếu nại về THADS của đương sự và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cũng như trong quá trình giải quyết
khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thì mỗi bước thực hiện
đều được quy định chặt chẽ về trình tự thủ tục và thời hạn thực hiện [31]. Nếu
vì lý do chủ quan hay khách quan mà các bước giải quyết khiếu nại không
được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn quy định làm chậm trễ giải quyết khiếu
nại của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì việc khiếu nại
của đương sự có thể xảy ra bất cứ giai đoạn nào của quá trình giải quyết khiếu
nại. Do vậy, trong quá trình thực hiện quyền khiếu nại, một mặt người khiếu
nại cần phải nắm rõ những quy định của pháp luật nói chung và pháp luật
khiếu nại về THADS nói riêng để thực hiện quyền khiếu nại của mình một
cách triệt để. Mặt khác, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại cần thiết phải nắm vững các quy định của pháp luật, quy chế giải
quyết khiếu nại để quá trình thực hiện đảm bảo quyền lợi cho các đương sự và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Bên cạnh đó, giải quyết khiếu nại về THADS là hoạt động của cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền nên trong quá trình thực hiện có thể xảy ra
hiện tượng Thủ trưởng cơ quan THADS, cán bộ làm công tác tham mưu lạm
dụng quyền hành, áp đặt ý chí một cách trái pháp luật, né tránh việc giải quyết
khiếu nại hoặc do nhận thức hạn chế áp dụng sai pháp luật làm chậm trể việc
giải quyết khiếu nại, thậm chí có trường hợp từ chối đơn khiếu nại. Do đó,
trong quá trình thực hiện quyền khiếu nại thì người khiếu nại và cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại cần thiết phải tuân theo các
bước và trình tự thủ tục luật định.
1.2.3.1. Giải quyết khiếu nại lần đầu
17
Để giải quyết khiếu nại về THADS, người giải quyết khiếu nại phải thực
hiện rất nhiều công việc, từ thụ lý đơn, nghiên cứu đơn, lập kế hoạch giải
quyết cho đến xác minh, thu thập chứng cứ, làm rõ các nội dung khiếu nại,
kiến nghị cấp có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, hoàn chỉnh hồ
sơ, tài liệu… Tuy nhiên, trước khi thụ lý giải quyết có thể tóm lược việc giải
quyết khiếu nại được chia làm 06 bước gồm: (i) xử lý đơn; (ii) thụ lý đơn
khiếu nại, yêu cầu báo cáo giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu; (iii) tổ chức xác
minh, đối thoại tại địa phương; (iiii) ban hành quyết định giải quyết khiếu nại;
(iiiii) gửi quyết định giải quyết khiếu nại, công khai kết quả giải quyết khiếu
nại và hoàn chỉnh hồ sơ; (iiiiii) đôn đốc, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện
quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành.
Bước 1: Xử lý đơn khiếu nại
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, công chức
- Trường hợp đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết theo quy định
nghiên cứu nội dung đơn khiếu nại, đề xuất người có thẩm quyền xử lý như sau:
tại Điều 142 Luật THADS thì thụ lý đơn khiếu nại; trong trường hợp đơn
chưa đủ điều kiện giải quyết thì có văn bản trả lời cho người khiếu nại biết lý
do hoặc hướng dẫn người khiếu nại bổ sung thông tin, tài liệu liên quan đến
khiếu nại để được thụ lý giải quyết. Khiếu nại về THADS là quyền cơ bản của
công dân, tuy nhiên không phải công dân nào cũng biết đầy đủ quyền khiếu
nại của mình, do đó cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại có trách nhiệm hướng dẫn đầy đủ, giải thích rõ ràng cho đương sự và
- Trường hợp đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết để thực hiện.
quan THADS cấp mình giải quyết thì chuyển đơn đến cơ quan THADS có
- Trường hợp đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền hoặc đã có quyết
thẩm quyền để giải quyết theo quy định và thông báo cho người khiếu nại biết.
18
định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành thì không thụ lý nhưng phải có
văn bản hướng dẫn, trả lời cho người khiếu nại biết. Việc hướng dẫn, trả lời
- Trường hợp đơn khiếu nại đã được chuyển, hướng dẫn, trả lời, giải
chỉ thực hiện một lần.
quyết theo quy định của pháp luật nhưng đương sự vẫn tiếp tục có đơn khiếu
nại cùng nội dung; đơn khiếu nại giấu tên, mạo tên, không rõ địa chỉ, nhân
danh tập thể, không có chữ ký hoặc điểm chỉ của người khiếu nại; đơn đồng
thời gửi nhiều cơ quan, trong đó đã đề gửi cơ quan có thẩm quyền giải quyết;
đơn đã mời người khiếu nại hai lần để xác định nội dung khiếu nại, yêu cầu
cung cấp thông tin, tài liệu nhưng người khiếu nại không đến, không cung cấp
theo yêu cầu mà không có lý do thì lưu đơn.
Bước 2: Thụ lý đơn khiếu nại, yêu cầu báo cáo giải trình, cung cấp hồ
sơ, tài liệu
Một là, thụ lý đơn khiếu nại
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại
lần đầu hoặc kể từ ngày nhận được báo cáo, hồ sơ, tài liệu có liên quan của cơ
quan THADS cấp dưới đối với đơn khiếu nại lần hai, công chức được giao
giải quyết khiếu nại có nhiệm vụ phải vào sổ thụ lý để giải quyết và thông báo
về việc thụ lý đơn khiếu nại bằng văn bản cho người khiếu nại biết.
Khi nhận được đơn khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
căn cứ vào các quy định tại Điều 11 Luật Khiếu nại năm 2011, Điều 141 Luật
THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và khoản 5 Điều 4 Quy
chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS (Ban hành kèm theo Quyết định
số 1318/QĐ-TCTHADS ngày 30/9/2013 của Tổng Cục trưởng Tổng cục
THADS) để xác định xem vụ việc có đủ điều kiện thụ lý hay không. Người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại sẽ không thụ lý đơn khiếu nại để giải quyết
đối với các trường hợp như sau:
19
- Quyết định, hành vi bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến quyền,
lợi ích hợp pháp của người khiếu nại;
- Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà không có
người đại diện hợp pháp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
- Người đại diện không có giấy tờ chứng minh về việc đại diện hợp pháp
của mình;
- Thời hiệu, thời hạn khiếu nại đã hết mà không có lý do chính đáng;
- Việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi
hành án, trừ trường hợp cần thiết thuộc diện xem xét lại theo thẩm quyền của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp;
- Khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần hai;
- Có văn bản thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu nại mà sau 30
ngày người khiếu nại không tiếp tục khiếu nại;
- Việc khiếu nại đã được Toà án thụ lý hoặc đã được giải quyết bằng bản
án, quyết định của Toà án, trừ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án hành chính
của Toà án;
- Không xem xét, giải quyết đơn khiếu nại giấu tên, mạo tên, không rõ
địa chỉ, nhân danh tập thể, không có chữ ký, sao chụp chữ ký, hoặc nội dung
khiếu nại đã được cấp có thẩm quyền giải quyết hay khiếu nại lại nhưng
không có bằng chứng mới, trừ trường hợp xử lý đơn theo quy định của pháp
luật về phòng chống tham nhũng;
- Không thụ lý giải quyết đối với khiếu nại về quyết định, hành vi trong
nội bộ cơ quan thi hành án để chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ;
quyết định, hành vi trong chỉ đạo điều hành của cơ quan thi hành án cấp trên
đối với cơ quan thi hành án cấp dưới.
Khi người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không thụ lý đơn khiếu
nại để giải quyết thì phải thông báo và nêu rõ lý do.
20
Hai là, thực hiện báo cáo giải trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu
Trường hợp đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết thì trong thời hạn
02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại do văn thư chuyển,
công chức được giao tham mưu giải quyết khiếu nại có nhiệm vụ soạn thảo
công văn yêu cầu người bị khiếu nại báo cáo giải trình bằng văn bản và cung
cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan trình Lãnh đạo Vụ (Phòng) xem xét, cho ý
kiến, ký ban hành.
Trường hợp người bị khiếu nại là Chấp hành viên thì Lãnh đạo Phòng
(Chi Cục trưởng) trực tiếp yêu cầu Chấp hành viên báo cáo giải trình bằng
văn bản, cung cấp hồ sơ vụ việc mà không cần có công văn yêu cầu. Thời hạn
thực hiện là không quá 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu thì
phải có báo cáo giải trình. Trường hợp khiếu nại đối với quyết định, hành vi
về áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án thì thời hạn thực hiện không quá
01 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Đối với cơ quan THADS cấp dưới thì thời hạn thực hiện báo cáo giải
trình, cung cấp hồ sơ, tài liệu là không quá 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
được văn bản. Đồng thời với việc phát hành công văn yêu cầu theo đường
bưu điện, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có thể sử dụng điện thoại,
fax hoặc thư điện tử, v.v… yêu cầu cơ quan THADS thực hiện.
Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS, Thủ trưởng cơ quan THADS được
yêu cầu phải báo cáo giải trình và chịu trách nhiệm về tính trung thực, đầy đủ,
chính xác của báo cáo, hồ sơ, tài liệu. Hồ sơ, tài liệu sao gửi phải đánh bút
lục, có xác nhận của Thủ trưởng đơn vị.
Trường hợp nội dung đơn khiếu nại, báo cáo giải trình của người bị
khiếu nại và hồ sơ, tài liệu có liên quan đã rõ ràng, có đủ căn cứ, cơ sở pháp
lý để kết luận, giải quyết thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra ngay
quyết định giải quyết khiếu nại.
21
Trường hợp người khiếu nại rút một phần hoặc toàn bộ khiếu nại thì
người có thẩm quyền giải quyết ra thông báo đình chỉ việc giải quyết khiếu
nại đối với nội dung khiếu nại đã rút và thông báo cho người khiếu nại biết.
Việc rút khiếu nại phải được thể hiện bằng văn bản và việc giải quyết khiếu
nại kết thúc khi có thông báo đình chỉ.
Trường hợp có văn bản yêu cầu hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án
của người có thẩm quyền thì tiếp tục giải quyết khiếu nại nếu khiếu nại không
ảnh hưởng đến nội dung bản án, quyết định của Tòa án.
Bước 3: Tổ chức xác minh, đối thoại tại địa phương
Một là, xây dựng Kế hoạch xác minh, đối thoại
Trường hợp giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định, hành vi
trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế; quyết định, hành
vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thì trong thời hạn 02 ngày làm việc,
kể từ ngày ra thông báo thụ lý, công chức tham mưu giải quyết khiếu nại phải
dự thảo xong kế hoạch trình Lãnh đạo Vụ (Phòng, Chi cục) xem xét, cho ý
kiến.
Trường hợp giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi về áp dụng
biện pháp bảo đảm thi hành án thì trong thời hạn 01 ngày làm việc, kể từ ngày
ra thông báo thụ lý, công chức tham mưu giải quyết khiếu nại phải dự thảo
xong kế hoạch trình Lãnh đạo Vụ (Phòng, Chi cục) xem xét, cho ý kiến.
Trường hợp giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi về áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ
ngày ra thông báo thụ lý, công chức tham mưu giải quyết khiếu nại phải dự
thảo xong kế hoạch trình Lãnh đạo Vụ (Phòng, Chi cục) xem xét, cho ý kiến.
Trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai thì trong thời hạn 05 ngày làm
việc, kể từ ngày ra thông báo thụ lý, công chức tham mưu giải quyết khiếu nại
phải dự thảo xong kế hoạch trình Lãnh đạo Vụ (Phòng) xem xét, cho ý kiến.
22
Trường hợp giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định, hành vi về áp
dụng biện pháp cưỡng chế thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra Thông
báo thụ lý, công chức tham mưu giải quyết khiếu nại phải dự thảo xong kế
hoạch trình Lãnh đạo Vụ (Phòng) xem xét, cho ý kiến.
Hai là, tổ chức việc xác minh, đối thoại
Người được giao thực hiện việc xác minh, đối thoại phải tổ chức việc
xác minh, đối thoại theo thời hạn sau: Trường hợp giải quyết khiếu nại đối với
quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án thì ngay trong
ngày; trường hợp giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định, hành vi
trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế; quyết định, hành
vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế là 01 ngày làm việc; trường hợp giải
quyết khiếu nại lần đầu về áp dụng biện pháp cưỡng chế và giải quyết khiếu
nại lần hai là 03 ngày làm việc, kể từ ngày phê duyệt.
Bước 4: Ban hành quyết định giải quyết khiếu nại
Trên cơ sở kết quả xác minh, đối thoại, hoặc kết quả trưng cầu giám định
(nếu có), người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải ra quyết định giải
quyết khiếu nại trong thời hạn quy định tại Điều 146 Luật Thi hành án dân sự.
Trường hợp vụ việc có tính chất phức tạp cần xác minh, thẩm tra, đối
thoại, trưng cầu giám định, tổ chức họp, trao đổi ý kiến với các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan hoặc tiến hành các biện pháp cần thiết khác theo
quy định của pháp luật thì thời hạn có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày,
kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại. Trường hợp nhiều người cùng
khiếu nại về một nội dung thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại ra
quyết định giải quyết khiếu nại cho từng người hoặc ra quyết định giải quyết
khiếu nại kèm theo danh sách những người khiếu nại.
23
Để đảm bảo việc giải quyết khiếu nại phải chặt chẽ, khách quan, đầy đủ,
Điều 151 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu phải có các nội dung sau đây:
- Ngày, tháng, năm ra quyết định;
- Họ, tên, địa chỉ của người khiếu nại, người bị khiếu nại;
- Nội dung khiếu nại;
- Kết quả xác minh nội dung khiếu nại;
- Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại;
- Kết luận nội dung khiếu nại là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ;
- Giữ nguyên, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi, hủy bỏ một phần
quyết định, hành vi bị khiếu nại hoặc buộc chấm dứt việc thực hiện quyết
định, hành vi bị khiếu nại;
- Việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi
trái pháp luật gây ra;
- Hướng dẫn quyền khiếu nại lần hai của đương sự.
Do tính chất của việc giải quyết khiếu nại lần hai khác với lần một, nên
Điều 153 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định
nội dung cơ bản cần có của quyết định giải quyết lần hai bao gồm các nội
dung sau:
- Ngày, tháng, năm ra quyết định;
- Họ, tên, địa chỉ của người khiếu nại, người bị khiếu nại;
- Nội dung khiếu nại;
- Kết quả xác minh nội dung khiếu nại;
- Căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại;
- Kết luận về nội dung khiếu nại và việc giải quyết của người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại lần đầu;
24
- Giữ nguyên, sửa đổi, huỷ bỏ hoặc yêu cầu sửa đổi, hủy bỏ một phần
quyết định, hành vi bị khiếu nại hoặc buộc chấm dứt thực hiện quyết định,
hành vi bị khiếu nại;
- Việc bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do quyết định, hành vi
trái pháp luật gây ra.
Quy trình giải quyết khiếu nại phải đảm bảo về mặt thời hạn. Thời hạn
giải quyết khiếu nại được tính từ ngày ban hành Thông báo thụ lý đơn khiếu
nại. Theo quy định tại Điều 146 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
THADS năm 2014 thì thời hạn giải quyết khiếu nại về THADS được quy định
cụ thể như sau:
Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng biện pháp
bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15
ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
Đối với quyết định về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản và quyết
định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm khác thì thời hạn giải quyết khiếu
nại là 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế thì thời hạn
giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày, lần hai là 45 ngày, kể từ ngày thụ lý
đơn khiếu nại.
Trường hợp cần thiết, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp thì
thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, kể từ
ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại.
Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thì thời
hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ
lý đơn khiếu nại.
25
Trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, đường sá xa xôi, đi lại khó khăn, vụ
việc có tính chất phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài
nhưng không quá 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiêu nại.
Việc phân loại thời hạn như trên phù hợp với tính chất của giai đoạn thi
hành án, vừa không làm ảnh hưởng nhiều đến tiến trình thi hành án, vừa kịp
thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khiếu nại, thuận lợi cho việc
khắc phục hậu quả nếu như việc khiếu nại được xác định là có cơ sở.
Bước 5: Gửi quyết định giải quyết khiếu nại và công khai kết quả giải
quyết khiếu nại và hoàn chỉnh hồ sơ
- Gửi quyết định giải quyết khiếu nại: Người giải quyết khiếu nại có trách
nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho các đối tượng: người khiếu nại,
người bị khiếu nại, người có quyền và lợi ích liên quan và người giải quyết
khiếu nại trước đó (nếu là giải quyết khiếu nại tiếp theo). Theo quy định của
Luật THADS hiện hành thì trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra
quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định phải được gửi cho Viện kiểm sát
nhân dân cùng cấp, người khiếu nại, người bị khiếu nại, cơ quan, tổ chức và
cá nhân có liên quan.
- Công khai quyết định giải quyết khiếu nại: Theo quy định của pháp Luật
THADS hiện hành thì trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày ra quyết định giải
quyết khiếu nại, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có trách nhiệm
công khai quyết định giải quyết khiếu nại theo một trong các hình thức như:
công bố tại cuộc họp cơ quan nơi người bị khiếu nại công tác; thông báo trên
phương tiện thông tin đại chúng hoặc cổng/trang thông tin điện tử của cơ
quan giải quyết khiếu nại; niêm yết tại trụ sở làm việc hoặc nơi tiếp công dân
của cơ quan ban hành quyết định giải quyết khiếu nại. Việc công khai quyết
định giải quyết khiếu nại là một trong những nội dung mới của Luật Khiếu nại
và của Luật Thi hành án dân sự.
26
- Hoàn chỉnh hồ sơ giải quyết khiếu nại: Sau khi ra và ban hành quyết
định giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại phải hoàn chỉnh hồ sơ.
Hồ sơ được lập và lưu trữ theo quy định của pháp luật, được đánh số bút lục
sắp xếp theo trình tự thời gian, phải lập danh mục hồ sơ có phê duyệt của
người ra quyết định xác minh nhằm giúp cho việc quản lý, theo dõi công tác
giải quyết khiếu nại, đồng thời còn làm tài liệu cho các cơ quan có thẩm
quyền xem xét giải quyết khiếu nại ở cấp tiếp theo.
Điều 149 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy
định hồ sơ giải quyết khiếu nại phải gồm những loại tài liệu sau:
- Đơn khiếu nại hoặc văn bản ghi nội dung khiếu nại;
- Văn bản giải trình của người bị khiếu nại;
- Biên bản thẩm tra, xác minh, kết luận, kết quả giám định;
- Quyết định giải quyết khiếu nại;
- Tài liệu khác có liên quan.
Nếu người khiếu nại tiếp tục khiếu nại thì hồ sơ đó phải được chuyển
cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết tiếp theo (khi có yêu cầu).
Bước 6: Đôn đốc, theo dõi và kiểm tra việc thực hiện quyết định giải
quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành
Sau khi quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực thi hành, trong phạm
vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
có trách nhiệm đôn đốc, theo dõi, kiểm tra cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan thực hiện nội dung giải quyết khiếu nại. Trách nhiệm tổ chức thực hiện
quyết định giải quyết khiếu nại, Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS, cơ quan
THADS được giao tổ chức thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại có trách
nhiệm thực hiện và báo cáo người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
27
1.2.3.2. Giải quyết khiếu nại lần hai
Ngoài việc thực hiện các bước, thủ tục như lần một, người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại có quyền yêu cầu người giải quyết khiếu nại lần
đầu, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu và
những bằng chứng liên quan đến nội dung khiếu nại, tiến hành các biện pháp
khác theo quy định của pháp luật để giải quyết khiếu nại.
Trường hợp nội dung đơn khiếu nại, báo cáo giải trình của người bị
khiếu nại và hồ sơ, tài liệu có liên quan đã rõ ràng, có đủ căn cứ, cơ sở pháp
lý để kết luận, giải quyết thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại không
cần thiết phải tiến hành xác minh, đối thoại, mà có thể ra ngay quyết định giải
quyết khiếu nại.[9]
Trường hợp khiếu nại được giải quyết mà đương sự vẫn tiếp tục khiếu
nại nhưng không đưa ra bằng chứng mới thì người giải quyết khiếu nại lưu
đơn khiếu nại và thông báo để đương sự biết.[12]
1.2.3.3. Giải quyết khiếu nại trong trường hợp đặc biệt
Theo điểm b khoản 4 Điều 142 Luật THADS quy định Bộ trưởng Bộ Tư
pháp giải quyết các khiếu nại sau đây “Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ
Tư pháp có quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực
thi hành quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này”. Theo quy định khoản 4
Điều 38 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS, quyết định
giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành được xem xét lại trong các trường
hợp sau đây:
- Quyết định, hành vi bị khiếu nại là trái pháp luật nhưng quyết định giải
quyết khiếu nại cho rằng quyết định, hành vi đó là đúng pháp luật;
- Việc giải quyết khiếu nại đã vi phạm quy định của pháp luật về thủ tục
giải quyết khiếu nại về thi hành án
28
- Có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản kết quả giải quyết khiếu nại. Đây là
quy định mang tính đặc thù của ngành thi hành án.
Đối với việc Bộ tưởng Bộ Tư pháp xem xét lại các quyết định đã có hiệu
lực thì không có quy trình cụ thể nào về việc xem xét này, chỉ cần các vụ việc
có tình tiết như được nêu trên là đủ điều kiện và với những vụ việc được xem
xét lại thì không quy định về thời hiệu, không có các bước như thông báo thụ
lý, không quy định về thời gian và không có hình thức giải quyết trong trường
hợp này mà tùy theo từng vụ việc Bộ trưởng có thể ban hành kết luận, có vụ
việc lại ban hành quyết định.
1.3. Các yếu tố bảo đảm quyền khiếu nại trong thi hành án dân sự
1.3.1. Yếu tố về chính trị
Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là
nguyên tắc được ghi nhận qua các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Với quy định đó, các hoạt động tư pháp cũng phải đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bằng nhiều cách khác nhau, sự lãnh đạo của
Đảng luôn được xem là chủ trương lớn và có tính chất quyết định đến các
hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động THADS nói riêng, cụ thể là Nghị
quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công
tác trong thời gian tới đã định hướng “thành lập cảnh sát tư pháp trên cơ sở
tổ chức và lực lượng hiện có ở ngành công an để hỗ trợ công tác thi hành án
dân sự, khẩn trương ban hành Bộ Luật tố tụng dân sự, Bộ Luật tố tụng hình
sự, Luật Thi hành án dân sự,... làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các cơ
quan tư pháp”.
Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực THADS có ý nghĩa rất
lớn đối với ngành THADS, trong đó có hoạt động khiếu nại đối với cả công
tác xây dựng pháp luật và quy định thực hiện pháp luật. Với những chủ
trương, định hướng của Đảng, năm 2008 Quốc hội đã xây dựng và ban hành
29
Luật Thi hành án dân sự và đã được sửa đổi bổ sung năm 2014. Sự ra đời của
hệ thống văn bản pháp luật theo các chủ trương, quan điểm của Đảng về
THADS là một trong những bước tiến lớn trong công tác THADS, nó đã trực
tiếp quy định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình tổ chức thi
hành án, quá trình thực hiện quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực THADS, quy định rõ thẩm quyền giải quyết khiếu nại, cũng như trình tự,
thủ tục thực hiện quyền khiếu nại thông qua công tác giải quyết khiếu nại
thuộc thẩm quyền của mỗi cấp.
Tiếp tục thể hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, tố cáo, ngày 26/5/2014, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị
số 35-CV/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và coi đây là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, đồng thời tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đối với công
tác này. Theo đó, các cấp ủy Đảng, mà trước hết là cấp ủy các tổ chức Đảng
trong hệ thống cơ quan THADS, tiếp đến là cấp ủy Đảng ở địa phương phải
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác giải quyết khiếu nại về THADS. Coi đây
là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng và cần thiết trong
công tác lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, góp phần đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật, ổn định tình hình để phát triển kinh tế - xã hội địa
phương và toàn quốc.
Đối với các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình, nhận thức được vai trò
quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương
đối với công tác THADS, vì vậy, sau khi Luật THADS năm 2008, có hiệu lực
thi hành ngày 01/7/2009, Cục THADS tỉnh Quảng Bình đã tham mưu cho
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình ban hành Chỉ thị số 34-CT/TU ngày
09/02/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác THADS
trên địa bàn tỉnh, nhằm tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác
30
THADS. Trong đó có nội dung chỉ đạo, yêu cầu cấp ủy Đảng chính quyền địa
phương, các cơ quan hữu quan tăng cường sự chỉ đạo phối hợp với cơ quan
THADS trên địa bàn đảm bảo thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo đối với những vụ việc tồn đọng, bức xúc kéo dài và những
vụ việc mới phát sinh ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn địa
phương.
Bên cạnh đó, có sự tham gia của cả hệ thống chính trị ở địa phương vào
công tác giải quyết khiếu nại trong THADS. Biểu hiện cụ thể nhất là công tác
giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại của các cơ quan THADS và công tác
tham gia tuyên truyền pháp luật về THADS, pháp luật về giải quyết khiếu nại,
tố cáo về THADS. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên có vai trò quan
trọng trong việc giúp đỡ đoàn viên, hội viên của tổ chức mình thực hiện các
quyền khiếu nại, đồng thời vận động đoàn viên, hội viên của tổ chức mình
sống và làm việc theo pháp luật. Người khiếu nại thuộc tổ chức nào thì tổ
chức đó phối hợp với cơ quan THADS để nắm bắt tình hình, xử lý thông tin,
lấy tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục là chính để thành viên của tổ chức
mình thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại theo luật định.
1.3.2. Yếu tố về pháp luật
Sự hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật về THADS và pháp luật về khiếu
nại là rất cần thiết, là hành lang pháp lý quan trọng tạo điều kiện cho người
dân, cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại của mình thông qua công cụ
pháp luật. Đối với việc khiếu nại trong lĩnh vực THADS, quyền khiếu nại của
đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có được giải quyết một cách
thấu đáo hay không còn phụ thuộc vào mức độ hoàn chỉnh của pháp luật, gồm
pháp luật THADS và pháp luật về khiếu nại và các văn bản pháp luật liên
quan. Bởi vì nguyên tắc pháp chế đòi hỏi người khiếu nại thực hiện quyền và
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đều phải dựa trên cơ sở pháp luật.
31
Khiếu nại nói chung và hoạt động khiếu nại trong lĩnh vực THADS nói
riêng thì ý thức pháp luật, trách nhiệm công vụ là yếu tố góp phần quan trọng.
Quyền khiếu nại có được đảm bảo hay không còn phụ thuộc vào quá trình
thực hiện quyền khiếu nại của công dân, cá nhân, tổ chức và phụ thuộc vào
quá trình giải quyết khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền.
Do đó, người khiếu nại cũng như người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
phải nắm vững các quy định của pháp luật, phải trung thực, khách quan đồng
thời phải có ý thức, thái độ đúng đắn tuân thủ quy định của pháp luật.
1.3.3. Yếu tố về văn hóa
Trình độ văn hóa có ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền khiếu nại của
người dân, bởi vì trình độ văn hóa được nâng cao thì dân trí cũng được nâng
cao, từ đó người dân tiếp cận với các quy định của pháp luật thì tầm hiểu biết
sẽ rộng hơn tạo được điều kiện cho việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp
luật cho nhân dân.
Điều này rất quan trọng, vì qua số liệu thống kê và kết quả xử lý, phân
loại đơn thư khiếu nại cho thấy, có đến trên 90% các khiếu nại của công dân
nói chung và trong lĩnh vực THADS nói riêng là không được chấp nhận, do
khiếu nại không có cơ sở. Việc khiếu nại, không dựa trên những hiểu biết về
quy định của pháp luật, mà chủ yếu dựa trên sự mong muốn của đương sự
được giải quyết theo hướng có lợi cho họ.
Hiện nay, có nhiều văn bản pháp luật thực sự cần thiết cho người dân
như: Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Đất đai; Luật Thi hành án
dân sự,... (để người dân hiểu và biết được quyền, nghĩa vụ của mình khi tham
gia các giao dịch dân sự, tham gia tố tụng dân sự, thực hiện quyền và nghĩa vụ
trong quá trình tổ chức thi hành án); Luật khiếu nại (để người dân hiểu đúng
về quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, trình tự thủ tục giải quyết khiếu nại, hiệu lực của
32
văn bản giải quyết khiếu nại, việc tổ chức thực hiện các quyết định giải quyết
khiếu nại và các kết luận giải quyết khiếu nại).
Với mỗi lĩnh vực, mỗi ngành đều có quy định cụ thể về quyền và nghĩa
vụ khi công dân, cá nhân, tổ chức tham gia vào các quan hệ xã hội. Tuy
nhiên, có nhiều trường hợp đương sự thiếu hiểu biết, do đó quyền khiếu nại
không được thực hiện hoặc thực hiện không triệt để.
1.3.4. Đội ngũ công chức làm công tác thi hành án dân sự
Hồ Chủ tịch đã dạy: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc", và " Công
việc có thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém". Như vậy, chất
lượng nguồn nhân lực đang là vấn đề hết sức quan trọng. Thực tiễn cho thấy,
trong những năm qua, đất nước ta nói chung và công tác THADS nói riêng đã
đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Có được những thành tựu đó là do
có sự đóng góp rất lớn công sức, trí tuệ của đội ngũ cán bộ, công chức, bởi
hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức là một hoạt động đặc biệt mang tính
quyền lực nhà nước, cho phép thực thi pháp luật trên thực tế.
Qua 10 năm thực hiện Luật THADS năm 2008, thế và lực của các cơ
quan THADS đang ngày được củng cố và kiện toàn, đội ngũ công chức
THADS đã từng bước được nâng lên cả về số và chất lượng. Kết quả THADS
năm sau luôn cao hơn năm trước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, nhà nước được đảm bảo, trong đó quyền khiếu nại về THADS của công
dân được giải quyết kịp thời, thỏa đáng, tình hình an ninh, chính trị, trật tự an
toàn xã hội về cơ bản luôn được ổn định và giữ vững.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, cần phải xây dựng một đội ngũ công chức
THADS có kỷ luật cao, năng lực chuyên môn giỏi và trở thành một “đội quân
hùng hậu”. Do đó, ngành Tư pháp xác định tiếp tục củng cố kiện toàn, tổ chức
bộ máy, cán bộ theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2010, Chiến lược phát triển ngành Tư
33
pháp trong giai đoạn từ nay đến năm 2020; xây dựng Hệ thống cơ quan
THADS trong sạch, vững mạnh, kỷ cương, kỷ luật; đội ngũ công chức, người
lao động làm công tác THADS có đầy đủ phẩm chất, năng lực, tinh thần tận
tụy, cống hiến trong công tác, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và
phát triển đất nước trong tình hình mới.
Trên cơ sở đó, ngày 14/9/2009, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp ban hành
Công văn số 91-CV/BCS gửi Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy, Ban
Thường vụ Huyện ủy, Quận ủy, Thị ủy, Thành ủy trong việc phối hợp quy
hoạch, kiện toàn tổ chức cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ quan THADS.
1.3.5. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quyền khiếu nại
trong thi hành án dân sự
Điều 167 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 cũng đã quy định rõ nhiệm
vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp như sau: “Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về THADS, có các nhiệm vụ, quyền
hạn sau đây: Kiểm tra, thanh tra, khen thưởng, xử lý vi phạm trong công tác
thi hành án dân sự; giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự.”
Ngày 29/5/2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/2014/NĐ-CP
về tổ chức và hoạt động của Thanh tra ngành Tư pháp. Theo đó, Nghị định đã
quy định rõ về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của Thanh tra Bộ Tư
pháp: “Thanh tra Bộ Tư pháp là cơ quan của Bộ Tư pháp, giúp Bộ trưởng Bộ
Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật; tiến hành thanh tra
hành chính, thanh tra chuyên ngành; giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”. Như vậy, lĩnh vực THADS
thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, hệ thống các cơ quan
THADS trực thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ Tư pháp, do đó, Thanh tra Bộ
Tư pháp có thẩm quyền tiến hành thanh tra hành chính đối với các cơ quan
34
THADS và các cá nhân thuộc các cơ quan THADS trong việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao (trong đó có việc thực hiện
quyền khiếu nại về thi hành án dân sự).
Thanh tra Bộ chịu trách nhiệm giúp Bộ trưởng xem xét, giải quyết các
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng, đồng thời, tham
mưu giúp Bộ trưởng xem xét lại các quyết định giải quyết khiếu nại về thi
hành án đã có hiệu lực.
Cùng với công tác thanh tra của cấp trên thì công tác kiểm tra của cơ
quan quản lý THADS thực sự quyết định đến chất lượng và hiệu quả công tác
THADS. Bởi chính công tác kiểm tra sẽ giúp Tổng cục THADS, Cục THADS
kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm trong
quá trình tổ chức thi hành án nói chung và công tác giải quyết khiếu nại nói
riêng nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền khiếu nại của đương sự, công tác
giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có trung
thực, khách quan, đúng quy định pháp luật hay không. Thông qua kiểm tra
còn để tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý
thức trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc chấp hành các quy định
của pháp luật. Đặc biệt, việc tập trung kiểm tra còn để rút ra những kiến nghị,
đề xuất một cách toàn diện giúp Tổng cục THADS, Cục THADS tỉnh nắm rõ
tình hình, thực trạng công tác; từ đó, đưa ra những đề xuất, kiến nghị và chỉ
đạo cần thiết, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý của Tổng cục, Cục
THADS, trong đó có quyền khiếu nại về THADS của công dân.
35
Tiểu kết chương 1
Quyền khiếu nại về THADS là một nội dung quan trọng của pháp luật về
THADS. Mục đích quan trọng nhất để thực hiện tốt quyền khiếu nại về
THADS là phải gắn chặt chẽ với công tác giải quyết khiếu nại, bởi vì, thực
hiện tốt công tác này là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được
pháp luật ghi nhận. Thông qua công tác giải quyết khiếu nại để phát hiện và
kịp thời ngăn chặn, chấn chỉnh những hành vi vi phạm pháp luật trong quá
trình tổ chức thi hành án của cán bộ, Chấp hành viên cơ quan THADS, nâng
cao chất lượng công tác thi hành án, trình độ cho cán bộ công chức làm công
tác thi hành án. Một mục đích quan trọng nữa của công tác giải quyết khiếu
nại là hiện thực hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại.
Quyền khiếu nại về THADS là quyền của công dân, giải quyết khiếu nại
về THADS là trách nhiệm của Chi cục trưởng Chi cục THADS, Cục trưởng
Cục THADS, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS và Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Thông qua thực hiện quyền khiếu nại, giải quyết khiếu nại về THADS, cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền có thể thực hiện tốt công tác quản lý nhà
nước về THADS, đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án được nghiêm chỉnh
thi hành, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân cũng như việc duy trì nề nếp, thái độ phục vụ tận tuỵ, trung thực
của công chức làm công tác THADS.
36
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUYỀN KHIẾU NẠI
VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ QUAN
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH
2.1. Tình hình tổ chức, hoạt động của các cơ quan THADS có liên
quan trực tiếp tới thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại các cơ quan
THADS tỉnh Quảng Bình
2.1.1. Cơ cấu tổ chức, biên chế các cơ quan THADS và tình hình thực
hiện chỉ tiêu nhiệm vụ THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình
- Về cơ cấu tổ chức, biên chế: Cục THADS tỉnh Quảng Bình được thành
lập theo Quyết định số 2879/QĐ-BTP ngày 06/11/2009 của Bộ Tư pháp. Cục
THADS là cơ quan thuộc Tổng cục THADS - Bộ Tư pháp, thực hiện nhiệm
vụ THADS theo quy định của pháp luật, thực hiện chức năng THADS, có
nhiệm vụ giúp Tổng cục THADS quản lý một số mặt công tác tổ chức cán bộ,
cơ sở vật chất, kinh phí, phương tiện hoạt động các nhiệm vụ, quyền hạn khác
của các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình theo quy định của
pháp luật, phân cấp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Tổng cục THADS; đồng
thời, Cục THADS tỉnh Quảng Bình giúp UBND tỉnh Quảng Bình thực hiện
trách nhiệm, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật.
Cục THADS tỉnh Quảng Bình có 04 phòng chuyên môn trực thuộc,
gồm: Văn phòng Cục; phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án; phòng Kiểm
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng tổ chức cán bộ và 08 chi cục THADS
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc, gồm: Chi cục THADS huyện Lệ Thủy,
Chi cục THADS huyện Quảng Ninh, Chi cục THADS thành phố Đồng Hới,
Chi cục THADS huyện Bố Trạch, Chi cục THADS huyện Quảng Trạch, Chi
cục THADS thị xã Ba Đồn, Chi cục THADS huyện Tuyên Hóa, Chi cục
37
THADS huyện Minh Hóa. Các Chi cục THADS trực thuộc Cục THADS tỉnh
Quảng Bình, thực hiện nhiệm vụ thi hành án và các nhiệm vụ quyền hạn khác
theo quy định của pháp luật; đồng thời, chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân
cùng cấp theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu biên chế của các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình: Theo
Quyết định số 474/QĐ-TCTHADS ngày 14/4/2017 của Tổng cục THADS -
Bộ Tư pháp về việc giao biên chế công chức hành chính Nhà nước năm 2017
đối với các cơ quan THADS, thì các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình được
giao tổng cộng 105 biên chế, trong đó tại Cục THADS tỉnh được giao 25 biên
chế, các Chi cục THADS huyện, thị xã, thành phố được giao 80 biên chế. Số
biên chế đã thực hiện được 103 biên chế, trong đó: ở Cục THADS tỉnh thực
hiện được 25/25 biên chế, Chi cục THADS huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh
thực hiện được 78/80 biên chế.
Việc sắp xếp, bố trí số biên chế đã tuyển dụng được Cục THADS tỉnh
Quảng Bình thực hiện cụ thể như sau:
Ở cấp tỉnh: Tổng biên chế được giao là 25 biên chế, trong đó: Ngạch
công chức: có 10 Chấp hành viên (07 Chấp hành viên trung cấp, 03 Chấp
hành viên sơ cấp); 04 Thẩm tra viên (01 Thẩm tra viên chính, 03 Thẩm tra
viên); 08 Thư ký thi hành án; 04 công chức khác (Kế toán, Văn thư, Lái xe).
Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: 02 công chức có trình độ thạc sĩ Luật; 23
công chức có trình độ cử nhân (cử nhân Luật 21 công chức, cử nhân Kinh tế
chuyên ngành Kế toán 02 công chức); 01 công chức có trình độ khác.
Về cơ cấu chức danh lãnh đạo và công chức thừa hành nhiệm vụ: Lãnh
đạo Cục có 01 Cục trưởng (Chấp hành viên trung cấp) và 03 Phó Cục trưởng
(Chấp hành viên trung cấp). Các phòng chuyên môn: Văn phòng Cục có 01
Chánh Văn phòng (Thẩm tra viên chính), 01 Phó chánh Văn phòng (Thẩm tra
38
viên), 01 Thẩm tra viên, 01 Thư ký thi hành án, 02 kế toán (01 kế toán nghiệp
vụ, 01 kế toán hành chính) và 01 Văn thư, lưu trữ; Phòng Nghiệp vụ và tổ
chức thi hành án có 01 Trưởng phòng (Chấp hành viên trung cấp), 02 Phó
trưởng phòng (Chấp hành viên sơ cấp), 01 Chấp hành viên sơ cấp và 03 Thư
ký thi hành án; Phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo có 01 Trưởng
phòng (Chấp hành viên trung cấp), 01 Phó Trưởng phòng (Thẩm tra viên) và
02 Thư ký thi hành án; Phòng Tổ chức cán bộ có 01 Trưởng phòng (Chấp
hành viên trung cấp), 01 Phó trưởng phòng (Thư ký thi hành án) và 01 Thư ký
thi hành án.
Ở cấp huyện: Trên cơ sở Quyết định số 474/QĐ-TCTHADS ngày
14/4/2017 của Tổng cục THADS, Cục THADS tỉnh Quảng Bình ban hành
Quyết định số 148/QĐ-TCTHADS ngày 27/4/2017 về việc giao biên chế
công chức hành chính Nhà nước năm 2017 đối với Chi cục THADS các
huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh. Theo đó, tổng số biên chế giao cho các
Chi cục THADS là 80 biên chế, phân bổ cho 08 Chi cục. Cụ thể: Chi cục
THADS huyện Lệ Thủy 11 biên chế, Chi cục THADS huyện Quảng Ninh 08
biên chế, Chi cục THADS thành phố Đồng Hới 16 biên chế, Chi cục THADS
huyện Bố Trạch 11 biên chế, Chi cục THADS huyện Quảng Trạch 09 biên
chế, Chi cục THADS thị xã Ba Đồn 10 biên chế, Chi cục THADS huyện
Tuyên Hóa 08 biên chế, Chi cục THADS huyện Minh Hóa 07 biên chế.
Nhìn chung, kể từ khi Luật THADS năm 2008 được ban hành có hiệu
lực, Luật THADS được sửa đổi, bổ sung năm 2014 và sự quan tâm của Bộ Tư
pháp, Tổng cục THADS, cấp ủy, chính quyền địa phương nên tổ chức bộ máy
của các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh ngày càng được củng cố, kiện toàn,
đi vào hoạt động có hiệu quả. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức THADS được Cục
THADS tỉnh quan tâm, chú trọng. Hoạt động THADS có hiệu quả, đạt được
39
nhiều kết quả đáng khích lệ. Kết quả THADS hàng năm đều đạt và vượt các
chỉ tiêu Quốc Hội, Chính phủ, Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS giao. Với
thành tích xây dựng và phát triển, Cục THADS tỉnh Quảng Bình và nhiều cá
nhân, đơn vị thuộc và trực thuộc đã được Đảng, Nhà nước tặng thưởng nhiều
phần thưởng cao qúy như: Huân chương lao động hạng Ba, Bằng khen của
Thủ tướng Chính phủ; Cờ thi đua Ngành Tư pháp, UBND tỉnh; Bằng khen
của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bằng khen của Chủ tịch UBND tỉnh…
- Về tình hình thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ: Thực trạng công tác THADS
tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình trong những năm qua đã có những
chuyển biến cơ bản và tạo sự bền vững. Các cơ quan THADS đã tổ chức thi
hành số lượng lớn những vụ việc và tiền phải thi hành án, kết quả năm sau
luôn cao hơn năm trước và giảm đáng kể số việc, tiền chuyển sang kỳ sau, đặc
biệt, là giảm đáng kể lượng án tồn đọng kéo dài nhiều năm. Để có cái nhìn
tổng quan hơn về kết quả công tác THADS giai đoạn từ năm 2013 - 2017, tôi
đưa các số liệu cụ thể như sau:
Bảng 2.1: Kết quả thi hành án dân THADS về việc của các cơ quan
THADS tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2013 - 2017
Năm côngtác Tổng số việc phải thi hành Tổng số việc có điều kiện thi hành Tỷ lệ thi hành xong/số việc có điều kiện
2013
3.465
93%
2.877
2014
3.281
2.583
93%
2.779
2015
3.447
2.837
97%
2.914
2016
3.741
2.956
91%
3.261
2017
4.073
3.173
91%
3.504
Tổng số việc thi hành xong 2.677
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn
2013-2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
40
Bảng 2.2: Kết quả THADS về tiền của các cơ quan THADS
tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2013 - 2017
Năm công tác Tổng số tiền phải thi hành (1.000đ) Tổng số tiền có điều kiện thi hành(1.000đ)
2013
75.132.749
30.608.155
2014
139.803.286
80.371.111
65.890.764
82%
185.052.651
85.348.862
83.292.293
98%
272.542.093
132.677.879
46.379.753
35%
2015 20161 20172
395.605.455
150.643.167
70.132.314
47%
Tổng số tiền thi hành xong (1.000đ) 27.967.708 Tỷ lệ thi hành xong/số tiền có điều kiện 91%
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn
2013-2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
2.1.2. Tình hình đơn thư khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự tại
các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình
Bảng 2.3. Số liệu đơn thư khiếu nại, tố cáo và kết quả giải quyết của các
cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình giai đoạn từ 2013 - 2017
2013
26
26/26
100%
0
2014
41
44/44
100%
3
2015
37
48/48
100%
11
2016
39
44/44
100%
5
2017
34
34/34
100%
0
Tỷ lệ % Năm công tác Số lượng đơn khiếu nại Số lượng đơn tố cáo Kết quả giải quyết
Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự giai đoạn
1 Quyết định số 940/QĐ-TCTHADS ngày 09/12/2015 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS về việc giao chỉ tiêu, nhiệm vụ cho các cơ quan THADS địa phương năm 2016 (chỉ tiêu giao về việc, tiền giảm so với các năm trước);
2 Quyết định số 1286/QĐ-TCTHADS ngày 21/12/2016 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS về việc giao chỉ tiêu, nhiệm vụ cho các cơ quan THADS địa phương năm 2017 (chỉ tiêu giao về việc, tiền giảm so với các năm trước);
2013-2017 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình.
41
* Tình hình khiếu nại về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng
Bình giai đoạn từ năm 2013 – 2017 như sau:[14]
- Năm 2013, các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình đã thụ lý tổng số 26
đơn khiếu nại (tương ứng 21 việc). Trong đó, Cục THADS tỉnh nhận 07 đơn,
(tương ứng 07 việc), thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục 07 việc; các Chi
cục THADS cấp huyện nhận 17 đơn (tương ứng 12 việc), thuộc thẩm quyền
giải quyết 12 việc; thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác là 02
đơn (tương ứng 02 việc). Đã giải quyết xong 19/19 việc khiếu nại thuộc thẩm
quyền, đạt tỷ lệ 100% (02 đơn không thuộc thẩm quyền đã chuyển đơn cho cơ
quan có thẩm quyền giải quyết). Trong số đã giải quyết theo thẩm quyền, số
khiếu nại đúng toàn bộ 01việc; số khiếu nại đúng một phần 03 việc; số khiếu
nại sai toàn bộ 15 việc.
- Năm 2014, các cơ quan THADStỉnh Quảng Bình đã thụ lý tổng số
41đơn khiếu nại (tương ứng 33 việc). Trong đó, Cục THADS tỉnh nhận 22
đơn (tương ứng 19 việc), thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục 09 việc; 10
việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các Chi cục (Cục đã chuyển đơn giải
quyết theo thẩm quyền); các Chi cục THADS cấp huyệnnhận 19 đơn (tương
ứng 14 việc) thuộc thẩm quyền giải quyết 20 việc (bao gồm cả 10 việc Cục
THADS chuyển); thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác là 02
đơn (tương ứng 02 việc). Đã giải quyết xong 31/31 việc khiếu nại thuộc thẩm
quyền, đạt tỷ lệ 100% (02 đơn không thuộc thẩm quyền đã chuyển cho cơ
quan có thẩm quyền giải quyết). Trong số đã giải quyết theo thẩm quyền, số
đình chỉ 01 việc; số khiếu nại đúng toàn bộ 0 việc; số khiếu nại đúng một
phần 02 việc số khiếu nại sai toàn bộ 28 việc.
- Năm 2015, các cơ quan THADStỉnh Quảng Bình đã thụ lý tổng số
37đơn khiếu nại(tương ứng 28 việc). Trong đó, Cục THADS tỉnh nhận 19 đơn
(tương ứng 17 việc), thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục 03 việc; 14 việc
42
thuộc thẩm quyền giải quyết của các Chi cục (Cục đã chuyển đơn giải quyết
theo thẩm quyền); các Chi cục THADS cấp huyện nhận18 đơn (tương ứng 11
việc) thuộc thẩm quyền giải quyết 25 việc (bao gồm cả 14 việc Cục THADS
chuyển); thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác là 0 đơn (tương
ứng 0 việc). Đã giải quyết xong 28/28việc khiếu nại thuộc thẩm quyền, đạt tỷ
lệ 100%. Trong số đã giải quyết theo thẩm quyền, số đình chỉ 0 việc; số khiếu
nại đúng toàn bộ 01 việc; số khiếu nại đúng một phần 03 việc; số khiếu nại sai
toàn bộ 24 việc.
- Năm 2016, các cơ quan THADStỉnh Quảng Bình đã thụ lý tổng số
39đơn khiếu nại (tương ứng 22 việc). Trong đó, Cục THADS tỉnh nhận 19
đơn (tương ứng 19 việc)thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục là 02 việc, 17
việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các Chi cục (Cục đã chuyển đơn giải
quyết theo thẩm quyền);các Chi cục THADS cấp huyện nhận 20 đơn (tương
ứng 20 việc) thuộc thẩm quyền giải quyết 20 việc (bao gồm cả 17 việc Cục
THADS chuyển); thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác là 0 đơn
(tương ứng 0 việc). Đã giải quyết xong 22/22việc khiếu nại thuộc thẩm quyền
giải quyết của các cơ quan THADS, đạt tỷ lệ 100%. Trong số đã giải quyết
theo thẩm quyền, số đình chỉ 0 việc; số khiếu nại đúng toàn bộ 02 việc; số
khiếu nại đúng một phần 0 việc; số khiếu nại sai toàn bộ 20 việc.
- Năm 2017, các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình đã thụ lý tổng số 34
đơn khiếu nại (tương ứng 27 việc). Trong đó, Cục THADS tỉnh nhận 17 đơn
(tương ứng 10 việc) thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục 03 việc, 07 việc
thuộc thẩm quyền giải quyết của các Chi cục (Cục đã chuyển đơn giải quyết
theo thẩm quyền); các Chi cục THADS cấp huyện nhận 17 đơn (tương ứng 17
việc) thuộc thẩm quyền giải quyết 24 việc (bao gồm cả 07 việc Cục THADS
chuyển); thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan khác 0 đơn (0 việc).
Đã giải quyết xong 27/27 việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của các
43
cơ quan THADS, đạt tỷ lệ 100%. Trong số đã giải quyết theo thẩm quyền, số
đình chỉ 01 việc; số khiếu nại đúng toàn bộ 03 việc; số khiếu nại đúng một
phần 03 việc; số khiếu nại sai toàn bộ 20 việc.
Từ số liệu khiếu nại về THADS cho thấy, qua các năm công tác, số
lượng đơn thư khiếu có chiều hướng gia tăng, khiếu nại thường gặp là khiếu
nại chưa thỏa mãn với nội dung bản án, quyết định của Tòa án; ra quyết định
thi hành án; xác minh điều kiện thi hành án; thông báo thi hành án; cưỡng chế
kê biên, xử lý tài sản; thẩm định giá tài sản; bán đấu giá tài sản; giao tài sản
sau khi bán đấu giá... Việc xác định các khiếu nại về THADS cơ bản đã được
phân loại phù hợp, chất lượng giải quyết khiếu nại đã được cải thiện đáng kể,
các bước trong quy trình giải quyết khiếu nại như xác minh, tăng cường đối
thoại làm việc trực tiếp với công dân, thu thập chứng cứ, viện dẫn lý lẽ, lập
luận, căn cứ pháp luật để giải quyết đảm bảo đúng đắn về mặt nội dung.
Bên cạnh đó, cũng thông qua khiếu nại, giải quyết khiếu nại THADS các
cơ quan chức năng đã thực hiện tuyên truyền, phổ biến các quy định của pháp
luật liên quan đến nội dung khiếu nại của đương sự và tổ chức thi hành án của
các cơ quan THADS, Chấp hành viên tới người dân, nhiều trường hợp đương
sự sau khi được giải thích, hiểu rõ quy định pháp luật đã rút đơn khiếu nại.
Đối với những trường hợp phải ban hành quyết định giải quyết khiếu nại thì
điều đáng chú ý là đại đa số nội dung khiếu nại đều không đúng sự thật nên
không được chấp nhận; cũng có đơn khiếu nại mà nội dung khiếu nại chỉ
đúng một phần.
2.2. Kết quả và hạn chế; nguyên nhân của hạn chế thực hiện quyền
khiếu nại về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình
2.2.1. Kết quả đạt được
Thứ nhất: Công tác tiếp công dân đã đi vào nề nếp
44
Nhận thức được vai trò quan trọng của công tác tiếp công dân, giải quyết
khiếu nại về THADS của đương sự. Các Chi cục THADS huyện, thị xã, thành
phố và Cục THADS tỉnh Quảng Bình đã quan tâm, chú trọng công tác tiếp
công dân, thể hiện từ khâu bố trí địa điểm, bố trí con người, công khai hóa các
thông tin về trình tự thủ tục thực hiện quyền khiếu nại về THADS tại bộ phận
một cửa của cơ quan hoặc tích hợp trên cổng thông tin điện tử của ngành
THADS để người dân tiếp cận. Phần lớn các cơ quan THADS đều chú trọng
bố trí cán bộ có kinh nghiệm để làm công tác tiếp dân, đã xây dựng quy chế
tiếp công dân, nội quy tiếp công dân, bố trí lịch tiếp dân của Lãnh đạo. Thông
qua việc tiếp dân đã chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật, làm cho người khiếu nại hiểu biết rõ hơn về quyền, nghĩa vụ của mình,
nhận thức đúng đắn hơn về chức năng, nhiệm vụ của Chấp hành viên và công
tác THADS. Có nhiều trường hợp thông qua kết quả tiếp dân, tận tình giải
thích, đối thoại rõ ràng, đương sự đã nhận thức rõ việc làm của cơ quan
THADS, nên đã tự nguyện rút đơn khiếu nại và hợp tác với cơ quan THADS
để tổ chức giải quyết dứt điểm việc thi hành án.
Thứ hai: Chủ thể thực hiện quyền khiếu nại về THADS về cơ bản đúng
đối tượng, đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục luật định
Qua công tác xử lý đơn khiếu nại về THADS nhận thấy, cơ bản người
thực hiện quyền khiếu nại về THADS là người được thi hành án, người phải
thi hành án hoặc là người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan được ấn định
trong bản án, quyết định của Tòa án và đối tượng khiếu nại là quyết định thi
hành án, quyết định về thi hành án hay hành vi của Thủ trưởng cơ quan
THADS, Chấp hành viên đã tác động trực tiếp hay gián tiếp đến quyền, lợi
ích của họ mà họ cho rằng bị xâm phạm.
Thứ ba: Kỹ năng tiếp nhận, phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại về
THADS được thực hiện một cách chủ động, khoa học và đúng pháp luật
45
Ngày 06/5/2014, liên ngành Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng đã ban hành hướng dẫn
số 24/HD-VKSTC-TATC-BCA-BTP-BQP về việc phân loại đơn khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp. Trên cơ sở văn bản hướng dẫn của liên ngành,
Cục THADS tỉnh Quảng Bình đã triển khai thực hiện hướng dẫn liên ngành
về phân loại đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp đến các đơn vị
THADS trong tỉnh. Theo đó, việc xử lý đơn thư khiếu nại về THADS trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình ngày càng chính xác, khách quan, khoa học và tuân theo
đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật, loại bỏ các loại đơn không đủ
điều kiện xử lý, đồng thời phục vụ công tác quản lý theo dõi, báo cáo, tổng
kết đơn thư khiếu nại.
Từ thực tiễn số lượng đơn thư khiếu nại của đương sự và kết quả giải
quyết khiếu nại của các cơ quan THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình cho
thấy, Thủ trưởng cơ quan thi hành án đã tích cực trong việc tổ chức gặp gỡ,
đối thoại trực tiếp với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, đồng thời giải thích, thuyết
phục để họ hiểu các quyền và nghĩa vụ của mình nên chất lượng việc giải
quyết khiếu nại đạt hiệu quả khá cao, hạn chế thấp nhất việc đương sự khiếu
nại kéo dài vượt cấp về các nội dung đã được giải quyết.
Thông qua việc khiếu nại về THADS mà các đương sự thực hiện được
quyền tự bảo vệ mình trước những hành vi, quyết định của cá nhân, tổ chức
có thẩm quyền mà các đương sự cho rằng hành vi, quyết định đó đã ảnh
hưởng, xâm phạm đến quyền, lợi ích của mình. Hơn nữa, thông qua việc
khiếu nại về THADS người dân nói chung và các đương sự nói riêng đã thực
hiện được quyền giám sát của mình đối với các hoạt động của cán bộ, công
chức, cơ quan công quyền trong thực thi công vụ.
46
Thứ tư: Công tác quản lý, chỉ đạo giải quyết việc khiếu nại kịp thời, sát
sao đảm bảo mọi công dân đều được khiếu nại về THADS theo luật định
Cục THADS tỉnh Quảng Bình đã quán triệt, tổ chức, chỉ đạo và hướng
dẫn các Chi cục THADS làm tốt công tác phối hợp tuyên truyền, phố biến
pháp luật cho nhân dân. Với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động, Cục
THADS tỉnh Quảng Bình đã chú trọng việc giải quyết khiếu nại đúng thời
hạn, đúng pháp luật ngay từ cơ sở, hạn chế đến mức thấp nhất khiếu nại mới
phát sinh, khiếu nại vượt cấp. Mọi khiếu nại phải được xem xét, xử lý, giải
quyết đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ
chức và người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc THADS. Các đơn vị
cũng đã nhận thức rất rõ về trách nhiệm giải quyết khiếu nại và trách nhiệm
giải quyết các vụ việc khiếu nại theo hướng giảm thiểu, tiến tới giải quyết dứt
điểm các vụ việc và không làm phát sinh vụ việc mới.
Thứ năm: Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương; sự phối hợp liên ngành trong công tác giải quyết khiếu nại về
THADS được các cấp, các ngành quan tâm hơn
Quán triệt sâu sắc các chủ trương, đường lối của Đảng được đề ra tại các
Văn kiện Đại hội, Nghị quyết, Chỉ thị đối với động tư pháp nói chung và hoạt
động THADS nói riêng nên về cơ bản các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các
cấp, cơ quan, ban, ngành của mình tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng
về công tác THADS, trong đó tập trung giải quyết những vụ việc khiếu nại
phức tạp, tồn đọng, kéo dài hoặc mới phát sinh nhưng ảnh hưởng đến anh
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
Về công tác phối hợp liên ngành trong công tác giải quyết khiếu nại: Sau
hơn 03 năm thực hiện, Quy chế phối hợp liên ngành giữa các cơ quan
THADS, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và Công an cho thấy phát
47
huy được hiệu quả. Trong quá trình thực hiện Quy chế, các ngành thường
xuyên phối hợp, trao đổi, bàn bạc thống nhất giải quyết, tháo gỡ những khó
khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi cho nhau trong công tác THADS
cũng như trong công tác giải quyết khiếu nại về THADS. Công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về thi hành án, pháp luật khiếu nại về THADS
được các ngành tập trung chỉ đạo để đương sự, công dân, cơ quan, tổ chức
hiểu và thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật góp phần
đảm bảo an ninh, chính trị tại địa phương. Cho đến nay, tất cả các cơ quan
THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đều đã ban hành quy chế phối hợp liên
ngành trong công tác THADS cũng như trong công tác giải quyết khiếu nại về
tư pháp, tạo sự thống nhất, điều kiện thuận lợi trong việc phối hợp trong công
tác giải quyết khiếu nại về tư pháp nói chung và khiếu nại về THADS nói
riêng trên địa bàn.
Việc phối hợp giữa các cơ quan THADS với các cơ quan hữu quan trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình được tiến hành bằng nhiều hình thức khác nhau
nhưng thông thường được tiến hành dưới các hình thức: Ban hành Quy chế
phối hợp; báo cáo bằng văn bản; tổ chức các cuộc họp; trao đổi trực tiếp; cung
cấp hồ sơ, tài liệu; thông báo kết quả giải quyết; tổ chức hội nghị tổng kết.
Thực tiễn công tác THADS cho thấy mối quan hệ giữa cơ quan THADS,
Chấp hành viên với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan đã hình thành và
được giải quyết cơ bản hài hòa, góp phần không nhỏ vào việc tăng cường và
nâng cao hiệu quả công tác THADS nói chung và công tác giải quyết khiếu
nại về THADS nói riêng.
Thứ sáu: Công tác báo cáo, tổng hợp số liệu, đánh giá tình hình khiếu
nại về THADS của các đương sự được thực hiện thường xuyên, chính xác
Các Chi cục THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đã thực hiện nghiêm
túc chế độ báo cáo, kể cả báo cáo định kỳ và báo cáo đột xuất. Nhờ vậy, Cục
48
THADS tỉnh Quảng Bình, các chuyên viên phòng kiểm tra, giải quyết khiếu
nại, tố cáo tỉnh và các Chi cục THADS đã theo dõi, quản lý tốt công tác khiếu
nại, đánh giá được tình hình khiếu nại về THADS của công dân; việc áp dụng
các quy định pháp luật của cán bộ, công chức trong giải quyết khiếu nại cho
các đương sự có được đảm bảo hay không; chất lượng giải quyết khiếu nại,
những khó khăn, vướng mắc... để báo cáo cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Đồng thời, từ đó có đề xuất, kiến nghị hoàn thiện thể chế, đánh giá được chất
lượng của công chức trong thực thi công vụ có đảm bảo được quyền lợi của
các bên đương sự hay không để kịp thời bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ trong giải quyết hiếu nại nhằm đảm bảo quyền khiếu nại về
THADS của đương sự.
Thứ bảy: Quyền khiếu nại về THADS của các đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan và người bị khiếu nại được đảm bảo thực hiện
Một là, quyền của người khiếu nại về THADS được thực hiện đầy đủ và
hiệu quả; được Chấp hành viên, cán bộ cơ quan THADS tiếp dân, giải thích
và hướng dẫn rõ ràng các quy định của pháp luật về THADS, pháp luật về
khiếu nại để người khiếu nại tự bảo vệ mình trước hành vi, quyết định bị xâm
hại hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khiếu nại hoặc có quyền nhờ
luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại. Vấn đề quan trọng nhất
của quyền khiếu nại là được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm
phạm và được bồi thường thiệt hại (nếu có).
Hai là, bên cạnh với quyền của người khiếu nại về THADS thì quyền
của người bị khiếu nại về THADS cũng được bảo vệ một cách chính đáng,
tránh trường hợp các bên đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan lợi
dụng dân chủ hoặc cố tình khiếu nại để nhằm trốn tránh, trì hoãn việc thi hành
án hoặc làm mất uy tín, danh dự của cán bộ, Chấp hành viên. Do vậy, trong
các trường hợp bị khiếu nại thì quy định của pháp luật về khiếu nại cũng như
49
người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đều tạo điều kiện cho người bị
khiếu nại biết các căn cứ khiếu nại của người khiếu nại; đưa ra bằng chứng về
tính hợp pháp của quyết định, hành vi bị khiếu nại và được nhận quyết định
giải quyết khiếu nại.
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế thực hiện quyền khiếu
nại về THADS của đương sự
2.2.2.1. Hạn chế
Thứ nhất: Một số Thủ trưởng cơ quan THADS, cán bộ làm công tác
tham mưu công tác giải quyết khiếu nại xác định sai thẩm quyền, để quá thời
hạn, chậm giải quyết đối với đơn khiếu nại của đương sự gây nhiều bức xúc
trong nhân dân.
Ví dụ: Bản án số 07/2013/HCPT ngày 15/5/2013 của Tòa án nhân dân
(TAND) tỉnh QB tuyên: “...huỷ Quyết định số 101/QĐXP-UBND ngày
22/11/2006 của UBND xã Tiến Hoá, huyện TH, tỉnh QB về việc xử phạt vi
phạm hành chính đối với bà Nguyễn Thị Loan. Buộc UBND xã Tiến Hoá,
huyện TH, tỉnh QB trả lại số tiền phạt và số tiền đã thu của bà Loan để tổ
chức cưỡng chế và tiền thuê xe chở tài sản tại thời điểm xét xử sơ thẩm:
2.500.000 đồng.
Chi cục THADS huyện TH thụ lý đơn yêu cầu thi hành án của bà
Nguyễn Thị Loan và ra Quyết định thi hành án số 165/QĐ-CCTHADS ngày
15/4/2016 thi hành án đối với: UBND xã Tiến Hoá, địa chỉ: Xã Tiến Hoá,
huyện TH, tỉnh QB, phải thi hành khoản trả lại số tiền phạt và số tiền đã thu
của bà Loan để tổ chức cưỡng chế và tiền thuê xe chở tài sản, số tiền:
2.500.000 đồng.
Sau khi nhận được Quyết đinh thi hành án, UBND xã Tiến Hoá đã nộp
đủ số tiền 2.500.000đ và Chấp hành viên Chi cục THADS huyện TH thông
báo cho bà Nguyễn Thị Loan đến nhận tiền theo quy định nhưng bà Loan
50
không nhận tiền với lý do là thi hành án chưa đúng, chưa đủ tài sản. Vì vậy,
bà Loan đã gửi đơn khiếu nại, Chi cục THADS huyện TH đã ban hành Quyết
định giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-CCTHADS ngày 08/9/2016: không chấp
nhận các nội dung đơn khiếu nại liên quan đến việc THADS của bà Nguyễn
Thị Loan. Bà Loan không chấp nhận Quyết định giải quyết khiếu nại trên nên
đã cùng lúc gửi đơn khiếu nại đến nhiều cơ quan trung ương và địa phương.
Đồng thời, bà Nguyễn Thị Loan đã gửi đơn đến Cục THADS tỉnh QB (do
Tổng cục THADS chuyển đơn, Cục THADS tỉnh QB nhận ngày 22/11/2016).
Căn cứ khoản 2 Điều 140 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của THADS
năm 2014 thì thời hiệu khiếu nại lần 2 đối với quyết định giải quyết khiếu nại
lần 1 của bà đã hết, vì vậy, Cục THADS tỉnh QB đã ra Thông báo số
1230/TB-THADS ngày 30/11/2016 về việc không thụ lý đơn khiếu nại của bà
Loan.
Vụ việc chưa được giải quyết thỏa đáng, bà Loan gửi đơn khiếu nại đến
Văn phòng Chính phủ. Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Tư pháp về
việc giải quyết đơn của bà Nguyễn Thị Loan khiếu nại liên quan đến việc Chi
cục THADS huyện TH tổ chức thi hành Bản án hành chính phúc thẩm số
07/2013/HC-PT ngày 03/5/2013 của TAND tỉnh QB (Đơn được chuyển kèm
theo Công văn số 4460/VPCP-V.I ngày 03/5/2017 của Văn phòng Chính
phủ). Sau khi nghiên cứu nội dung đơn và các tài liệu có trong hồ sơ thi hành
án, hồ sơ giải quyết khiếu nại, Tổng cục THADS nhận thấy: Bà Loan khiếu
nại Quyết định thi hành án số 165/QĐ-CCTHADS ngày 15/4/2016 của Chi
cục trưởng Chi cục THADS huyện TH. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 142
Luật THADS thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại là Cục trưởng Cục THADS
tỉnh QB. Tuy nhiên, Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện TH thụ lý, ban
hành Quyết định giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-CCTHADS ngày 08/9/2016
và Cục trưởng Cục THADS tỉnh QB ban hành Thông báo số 1230/TB-
51
THADS ngày 30/11/2016 về việc không thụ lý đơn khiếu nại của bà Loan là
chưa phù hợp với quy định của pháp luật.
Do đó, Tổng cục THADS yêu cầu Cục trưởng Cục THADS tỉnh QB thu
hồi Thông báo số 1230/TB-THADS ngày 30/11/2016; chỉ đạo Chi cục
THADS huyện TH thu hồi Quyết định giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-
CCTHADS ngày 08/9/2016. Đồng thời, thực hiện quy trình giải quyết khiếu
nại đối với bà Loan theo đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.
Từ ví dụ nêu trên, cho thấy trình độ, năng lực của Chấp hành viên, Thủ
trưởng một số cơ quan THADS địa phương còn hạn chế ngay từ khâu phân
loại, xem xét đơn khiếu nại không thấu đáo, dẫn đến việc thụ lý, ra quyết định
giải quyết đơn khiếu nại sai thẩm quyền, thậm chí là từ chối đơn khiếu nại
yêu cầu giải quyết khiếu nại lần 2, làm đương sự bức xúc, gửi đơn đến nhiều
cơ quan, nhiều cấp có thẩm quyền. Nếu không có sự kiểm tra, chỉ đạo của cấp
trên có thẩm quyền thì việc khiếu nại của bà Loan sẽ không được xem xét giải
quyết một cách thấu đáo mà chỉ dừng lại ở việc không chấp nhận đơn hoặc trả
đơn khiếu nại cho đương sự, vì lý do đã hết thời hiệu khiếu nại lần 2.
Thứ hai: Chủ thể thực hiện quyền khiếu nại đúng thẩm quyền, đúng đối
tượng, đúng trình tự thủ tục quy định, đúng nội dung nhưng vẫn có tình trạng
Thủ trưởng cơ quan THADS không chấp nhận đơn khiếu nại của người được
thi hành án. Lý do không chấp nhận nội dung đơn khiếu nại hành vi của Chấp
hành viên chậm tổ chức thi hành án là vụ việc có khó khăn, vướng mắc đang
chờ ý kiến chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS huyện đã gây bức xúc cho đương
sự, vì lý do chờ ý kiến chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS huyện LT không
phải là căn cứ để Chấp hành viên tạm dừng việc thi hành án và không chấp
nhận đơn khiếu nại của đương sự.
Mặt khác, khi nhận được văn bản xin ý kiến chỉ đạo giải quyết vụ việc
của Chi cục THADS huyện LT nhưng Ban Chỉ đạo THADS huyện LT chưa
52
kịp thời chỉ đạo, phối hợp giải quyết dứt điểm, đó cũng là nguyên nhân dẫn
đến việc đương sự tiếp tục khiếu nại hoặc khiếu nại vượt cấp đối với quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu.
Ví dụ: Bản án số 24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013 của TAND tỉnh
QB đã tuyên: "...Công nhận quyền sử dụng đất của hộ anh Võ Văn Hải và chị
Hoàng Thị Thuyên trên thửa đất số 128, tờ bản đồ giải thửa số 06 UBND thị
trấn Kiến Giang lập năm 1992, cụ thể: Phần trước nhà hộ anh Võ Văn Hải,
chị Hoàng Thị Thuyên có mặt tiền tiếp giáp với đường từ Bưu điện huyện Lệ
Thủy đi cầu Phong Liên có chiều rộng 6,5m (tính từ chân móng hành lang
nhà anh Võ Văn Thuận và chị Nguyễn Thị Hậu sang phần đất của hộ ông
Hoàng Quảng Tiến. Phần diện tích đất của hộ anh Võ Văn Hải và chị Hoàng
Thị Thuyên phía trước tiếp giáp phần đất hộ anh Võ Văn Thuận, chị Nguyễn
Thị Hậu có diện tích là 76,82m; Phần diện tích đất của Hộ anh Võ Văn Hải
và chị Hoàng Thị Thuyên ở phía sau tiếp giáp phần trước (nói trên) và tiếp
giáp phần nhà đất hộ anh Võ Văn Thuận, chị Nguyên Thị Hậu có diện tích là
108,26m . Toàn bộ hình thể, kích thước và diện tích đất hộ anh Võ Văn Hải,
chị Hoàng Thị Thuyên được quyền sử dụng có diện tích 185,08m theo kích
thước và hình vẽ kèm theo bản án này là một phần không tách rời của bán án.
Anh Võ Văn Thuận, chị Nguyên Thị Hậu có trách nhiệm tháo dỡ, di dời
các tài sản nằm trên phần đất của anh Võ Văn Hải và chị Hoàng Thị
Thuyên”.
Bản án có hiệu lực thi hành, ông Võ Văn Hải và bà Hoàng Thị Thuyên
làm đơn yêu cầu thi hành án. Chi cục THADS huyện LT thụ lý ra quyết định
thi hành án số 167/QĐ-CCTHA ngày 10/3/2014 thi hành án đối với khoản:
ông Võ Văn Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu có trách nhiệm tháo đỡ, di dời các tài
sản nằm trên đất của của ông Võ Văn Hải và chị Hoàng Thị Thuyên phần diện tích đất lấn chiếm 28,5m2.
53
Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên tiến hành kiểm tra, xác
minh hiện trạng diện tích đất lấn chiếm đã phát hiện có sự sai lệch về diện
tích so với phần nhận định của bản án. Theo đó, ông Võ Văn Thuận, bà
Nguyễn Thị Hậu quyết liệt chống đối không thi hành và làm đơn yêu cầu
TAND cấp cao tại Đà Nẵng giám đốc thẩm bản án. Do chưa thi hành được,
nên ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên có đơn khiếu nại, yêu cầu cưỡng
chế thi hành án. Ngày 19/12/2016, Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện LT
đã ra quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 với nội dung: Không chấp nhận
khiếu nại của ông Võ Văn Hải - bà Hoàng Thị Thuyên, do ông Võ Văn
Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu cố tình chống đối quyết liệt không thi hành và cơ
quan THADS đang chờ ý kiến chỉ đạo của Ban Chỉ đạo thi hành án huyện LT.
Ngày 10/01/2017, ông Võ Văn Hải - bà Hoàng Thị Thuyên có đơn khiếu
nại gửi Cục THADS tỉnh QB với nội dung: Không chấp nhận việc giải quyết
khiếu nại tại Quyết định giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-CCTHA ngày
19/12/2016 của Chi cục trưởng Chi cục THADS huyện LT và đề nghị giải
quyết việc thi hành án đối với Bản án số 24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013
của TAND tỉnh QB. Quá trình thụ lý giải quyết khiếu nại, Cục THADS tỉnh
QB đã thành lập Đoàn xác minh, thẩm tra, đối thoại, giải quyết khiếu nại theo
quy định của pháp luật, bảo đảm khách quan, chính xác. Kết quả xác minh tại
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện LT: Văn phòng đăng ký quyền
sử dụng đất huyện LT không có hồ sơ lưu về nguồn gốc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên, chỉ có bản đồ
giải thửa số 06, lập năm 1992, trên bản đồ thể hiện diện tích đất cấp cho bà Hoàng Thị Thuyên tại thửa số 128, diện tích 261m2. Về diện tích đất do bản
án tuyên lệch với diện tích tại bản đồ giải thửa số 06 là do hiện trạng sử dụng
đất biến động qua các thời kỳ.
54
Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên đã nhiều lần phối hợp với
chính quyền địa phương; Tổ dân phố 6, thị trấn Kiến Giang động viên, thuyết
phục ông Võ Văn Thuận và bà Nguyễn Thị Hậu tự nguyện thi hành án nhưng
ông Võ Văn Thuận và bà Nguyễn Thị Hậu cố tình chống đối không chấp
hành. Chi Cục Thi hành án dân sự huyện LT đã báo cáo Ban chỉ đạo THADS
huyện LT nhưng chưa có ý kiến chỉ đạo. Vì vậy, Chi cục THADS huyện LT
chưa có cơ sở để thi hành dứt điểm vụ việc.
Nhận thấy, Chấp hành viên không thể tổ chức thi hành án theo quyết
định của Bản án số 24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013 của TAND tỉnh QB
là không có cơ sở. Đây không phải là căn cứ theo pháp luật quy định để dừng
tổ chức thi hành vụ án. Về nội dung ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên
cho rằng: Chi cục THADS huyện LT ban hành Quyết định giải quyết khiếu
nại số 01/QĐ-CCTHA ngày 19/12/2016 không chấp nhận khiếu nại là không
thỏa đáng, không khách quan.
Tại buổi đối thoại ngày 09/3/2017 giữa Cục THADS tỉnh QB và ông Võ
Văn Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu (người phải thi hành án) phản ứng gay gắt,
không chấp nhận bản án, ông bà cho rằng sơ đồ phân đất kèm theo bản án
không có giá trị pháp lý, vì không có cơ quan chuyên môn về quản lý đất đai
xác nhận.
Cục THADS tỉnh QB thấy rằng: Kết quá xác minh tại Văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất huyện Lệ Thủy: Bản đồ giải thửa số 06, lập năm 1992
phù hợp với hình thể thửa đất của hộ ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên,
về diện tích đất do bản án tuyên lệch với diện tích tại bản đồ giải thửa số 06 là
do hiện trạng sử dụng đất biến động qua các thời kỳ. Căn cứ sơ đồ hiện trạng
sử dụng đất lập ngày 17/6/2011 có sự tham gia của cơ quan quản lý nhà nước
về đất đai, biên bản thẩm định ngày 21/11/2013, TAND tỉnh QB tuyên ông
55
Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên được quyền sử dụng diện tích đất 185,08m2 là có cơ sở và hợp tình, hợp lý.
Về nội dung ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên đề nghị giải quyết
việc thi hành án theo Bản án số 24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013 của
TAND tỉnh QB. Người phải thi hành án là ông Võ Văn Thuận, bà Nguyền Thị
Hậu có trách nhiệm tháo dỡ, di dời các tài sản nằm trên phần đất của anh Võ
Văn Hải và chị Hoàng Thị Thuyên là việc làm không thuộc trường hợp khó
khăn, phức tạp vì phần đất lấn chiếm về tổ chức thi hành vụ việc: không phải
là công trình kiên cố mà là các vật liệu (đá, gạch, ngói...) có thể dịch chuyển
được. Nhưng ông Võ Văn Thuận, bà Nguyễn Thị Hậu cố tình dây dưa, chưa
thi hành là thể hiện ý thức chống đối, không chấp hành bản án của Tòa án, vi
phạm quy định tại Điều 106 Hiến pháp nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là: “Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan phải nghiêm chỉnh chấp hành” và pháp luật về THADS. Do đó, quyền
lợi của ông Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên chưa được bảo đảm. Vì vậy,
nội dung yêu cầu giải quyết việc thi hành án theo Bản án số 24/2013/TCDS-
PT ngày 31/12/2013 của TAND tỉnh QB cần được chấp nhận, để tiếp tục thi
hành dứt điểm vụ việc.
Căn cứ kết quả thi hành tại hồ sơ thi hành án, hồ sơ giải quyết khiếu nại
và kết quả xác minh, đối chiếu với những nội dung đơn khiếu nại, thấy rằng
Quyết định giải quyết khiếu nại lần 1 của Chi cục trưởng Chi cục THADS
huyện LT nêu các nội dung, viện dẫn căn cứ để không chấp nhận đơn của ông
Võ Văn Hải, bà Hoàng Thị Thuyên là không thuyết phục, không đúng với quy
định của pháp luật. Quá trình xác minh, giải quyết vụ việc chưa nghiên cứu kỹ
quyết định của bản án.
56
Từ những căn cứ, nhận định phân tích nêu trên, Cục trưởng Cục THADS
tỉnh QB quyết định chấp nhận toàn bộ đơn khiếu nại của ông Võ Văn Hải - bà
Hoàng Thị Thuyên; không chấp nhận việc giải quyết khiếu nại tại Quyết định
giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-CCTHA ngày 19/12/2016 của Chi cục trưởng
Chi cục THADS huyện LT và yêu cầu giải quyết việc thi hành Bản án số
24/2013/TCDS-PT ngày 31/12/2013 của TAND tỉnh QB. Hủy bỏ Quyết định
giải quyết khiếu nại số 01/QĐ-CCTHA ngày 19/12/2016 của Chi cục trưởng
Chi cục THADS huyện LT và yêu cầu Chi cục THADS huyện LT tiếp tục tổ
chức thi hành bản án đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền lợi của
người đuợc thi hành án.
Thứ ba: Thủ trưởng một số cơ quan THADS cấp huyện (người có thẩm
quyền giải quyết khiếu) cố tình né tránh việc khiếu nại của đương sự, vì sợ
ảnh hưởng đến công tác quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại và kết quả
thi đua của đơn vị mình nên đưa ra các lý do để từ chối việc nhận đơn, thụ lý
đơn khiếu nại, cho rằng việc khiếu nại của đương sự là không đúng hoặc
nguyên nhân dẫn đến khiếu nại không phải là do ý thức chủ quan của Chấp
hành viên, Thủ trưởng cơ quan THADS mà là do yếu tố khách quan có khó
khăn, vướng mắc từ các cơ quan chuyên môn, có các quan điểm khác nhau
trong việc áp dụng các quy định của pháp luật nên chậm tổ chức thi hành án,
chưa giải quyết dứt điểm vụ việc.
Thứ tư: Vẫn còn tình trạng đơn khiếu nại gửi đến cơ quan THADS
nhưng không đúng chủ thể có quyền khiếu nại về THADS, không đúng cơ
quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại.
Chủ thể có quyền khiếu nại về THADS là người được thi hành án, người
phải thi hành án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, có
nhiều trường hợp con là người được thi hành án nhưng bố, mẹ (không phải là
người được thi hành án) lại làm đơn khiếu nại. Đến khi được cơ quan
57
THADS, cán bộ tiếp dân hướng dẫn thì đã quá thời hiệu khiếu nại hoặc có
trường hợp người được thi hành án chỉ ủy quyền nộp đơn yêu cầu thi hành án,
tham gia giải quyết thi hành án nhưng không ủy quyền khiếu nại về THADS
nhưng người đó vẫn thực hiện khiếu nại về THADS dẫn đến quá thời hiệu của
chủ thể được quyền khiếu nại về THADS.
Nhiều trường hợp đương sự không nắm bắt, tìm hiểu các quy định của
pháp luật gửi đơn khiếu nại tràn lan đến nhiều cơ quan, nhiều cấp khác nhau
làm mất thời gian, công sức, ngân sách, uy tín, danh dự của Thủ trưởng đơn
vị, cán bộ, Chấp hành viên và cơ quan nhà nước trong việc xử lý, phân loại,
giải quyết đơn khiếu nại của các đương sự, mặc dù Luật Khiếu nại năm 2011
cũng như Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy
định rõ quyền khiếu nại, thẩm quyền giải quyết khiếu nại và những trường
hợp khiếu nại không được thụ lý giải quyết.
Thứ năm: Việc xem xét, giải quyết đơn thư khiếu nại của cán bộ, công
chức đối với người dân chưa được triệt để, có nhiều quan điểm trái chiều
trong cách hiểu, cách thức áp dụng pháp luật của các cơ quan có liên quan, vì
vậy quyền khiếu nại về THADS của đương sự không được đảm bảo.
Ví dụ: Bản án số 04/2012/DS-ST ngày 17/8/2012 của TAND huyện LT,
tỉnh QB tuyên buộc bà Phạm Thị T phải trả cho bà Phan Thị D số tiền
1.104.612.500 đồng. Bản án có hiệu lực pháp luật bà Phan Thị D có đơn yêu
cầu thi hành án. Chi cục THADS huyện LT, tỉnh QB đã ra quyết định thi hành
án cho thi hành án đối với bà Phạm Thị T. Chấp hành viên tiến hành xác minh
cho thấy bà Phạm Thị T có 01 lô đất và tài sản gắn liền với đất tại thôn A xã B, huyện LT, tỉnh QB diện tích 290 m2 mang tên Phạm Thị T nhưng đã làm
thủ tục chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn K; trú tại xã C huyện LT, tỉnh
QB trước khi bản án xét xử 03 tháng. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất chỉ mới hoàn tất thủ tục chứng thực, chưa đăng ký sang tên trước bạ
58
tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định. Quá trình thi hành
án bà Phan Thị D (người được thi hành án) cho rằng giao dịch Hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất giữa bà Phạm Thị T và ông Nguyễn Văn K chưa có
hiệu lực pháp luật theo quy định của pháp luật về đất đai, do đó yêu cầu Chi
cục THADS huyện LT kê biên diện tích đất trên để đảm bảo thi hành án.
Trên cơ sở các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 502 quy
định về hình thức, thủ tục thực hiện hợp đồng về quyền sử dụng đất:
“1. Hợp đồng về quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản theo
hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy
định khác của pháp luật có liên quan.
2. Việc thực hiện hợp đồng về quyền sử dụng đất phải đúng trình tự, thủ
tục theo quy định của pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có
liên quan”.
Điều 503 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định:“Việc chuyển quyền sử
dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký theo quy định của Luật đất đai”.
Luật Đất đai năm 2013 quy định về đăng ký đất đai, nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất tại Điều 95 như sau:
“1. Đăng ký đất đai là bắt buộc đối với người sử dụng đất và người
được giao đất để quản lý; đăng ký quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất thực hiện theo yêu cầu của chủ sở hữu.
2. Đăng ký đất đai, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất gồm đăng ký
lần đầu và đăng ký biến động, được thực hiện tại tổ chức đăng ký đất đai
thuộc cơ quan quản lý đất đai, bằng hình thức đăng ký trên giấy hoặc đăng ký
điện tử và có giá trị pháp lý như nhau”.
...7. Việc đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất có hiệu lực kể từ thời
điểm đăng ký vào Sổ địa chính”.
59
Theo đó, Chấp hành viên Cơ quan THADS huyện LT đã áp dụng biện
pháp kê biên nhà, đất nêu trên để đảm bảo thi hành hành án. Nhà, đất trên mặc
dù đã được công chứng, chứng thực (đảm bảo về mặt nội dung) còn về hình
thức chưa đảm bảo (tức chưa làm thủ tục sang tên, đăng ký tại văn phòng
đăng ký Quyền sử dụng đất) nên hiệu lực của giao dịch trên chưa có giá trị
trên thực tế, vì vậy, Chấp hành viên có quyền cưỡng chế kê biên, xử lý theo
quy định của pháp luật THADS.
Tuy nhiên, sau khi kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
nêu trên, ông Nguyễn Văn K có đơn khiếu nại đối với Chấp hành viên Lê Văn
H, vì cho rằng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất đã có hiệu lực pháp luật (bên bán bà Phạm Thị T đã chuyển quyền
sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất và bên mua ông Nguyễn Văn K đã thanh
toán đầy đủ tiền mua và đã nhận bàn giao nhà, đất).
Theo quy định tại khoản 1, Điều 5 Luật Công chứng năm 2014: “Văn
bản Công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu
của tổ chức hành nghề Công chứng’’.
Khoản 1 Điều 12 Luật Nhà ở năm 2014 quy định về thời điểm chuyển
quyền sở hữu nhà ở như sau: “Trường hợp mua bán nhà ở mà không thuộc
diện quy định tại khoản 3 Điều này và trường hợp thuê mua nhà ở thì thời
điểm chuyển quyền sở hữu nhà ở là kể từ thời điểm bên mua, bên thuê mua đã
thanh toán đủ tiền mua, tiền thuê mua và đã nhận bàn giao nhà ở, trừ trường
hợp các bên có thỏa thuận khác”.
Do đó, phía người phải thi hành án và bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cho rằng việc cưỡng chế kê biên nhà, đất nêu trên của Chấp hành viên
Lê Văn H là sai trái. Vì Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất đã được chứng
thực, tức quyền tài sản của bên chuyển nhượng đã hết, việc bên nhận chuyển
nhượng không tiến hành đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất là
60
do luật không quy định trong thời gian bao lâu bên nhận chuyển nhượng phải
tiến hành đăng ký. Trường hợp không đăng ký thì chỉ bị xử phạt hành chính
và hợp đồng trên vẫn có hiệu lực.
Về phía chính quyền địa phương, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
huyện LT thì cho rằng người dân đến đăng ký sang tên trước bạ quyền sử
dụng đất đã cung cấp đầy đủ các văn bản, giấy tờ có hiệu lực pháp luật (như
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất bản gốc,...) nên đã làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mới mang tên ông Nguyễn Văn K (bên nhận chuyển nhượng).
Mặt khác, phía UBND, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện LT
cũng cho rằng không có căn cứ để thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký quyền sử
dụng đất đã cấp cho bà Phạm Thị T theo quy định tại Điều 106 Luật đất đai
năm 2013 và Điều 87 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định thủ tục thu hồi
giấy chứng nhận, giấy chứng nhận quyền sỡ hữu nhà ở, giấy chứng nhận
quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp.
Thiết nghĩ, những vướng mắc trên cần được quy định thống nhất nhằm
tránh những những rắc rối cho các cơ quan, tổ chức và đặc biệt là cá nhân, hộ
gia đình khi giải quyết và thực hiện việc chuyển quyền sử dụng đất. Do quy
định của các văn bản pháp luật chưa có sự thống nhất nên quan điểm giải
quyết, cách hiểu khác nhau, rất khó để cơ quan thi hành án tổ chức thi hành
vụ việc cũng như giải quyết khiếu nại của đương sự, vì vậy, đương sự vẫn tiếp
tục khiếu nại đến nhiều nơi, nhiều cấp với “hy vọng” quyền khiếu nại của
mình sẽ được cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Thứ sáu: Một số cán bộ, công chức cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu
trách nhiệm trong việc thẩm tra, điều tra, truy tố, xét xử; sự phối hợp của Tòa
án trong việc đính chính, sửa chữa, bổ sung những sai sót đối với bản án,
quyết định chưa được kịp thời, không rõ ràng dẫn đến quyền khiếu nại của
61
đương sự không được giải quyết đầy đủ hoặc đã được xem xét giải quyết
nhưng mục đích cuối cùng của nội dung quyền khiếu nại không được đảm bảo
hoặc là không được xem xét giải quyết khi bản án, quyết định đã hết thời hiệu
giám đốc thẩm.
Ví dụ: Bản án dân sự sơ thẩm số 14/DSST ngày 10/3/2000 của TAND
huyện LT buộc vợ chồng bà Hoàng Thị Lê và ông Dương Văn Chanh (Trú
tại: Tổ dân phố 7, thị trấn Kiến Giang, huyện LT) phải giao trả cho ông
Hoàng Đình Luyện (nay bà Trần Thị Hoài Thu vợ của ông Luyện thừa kế) được quyền sử dụng đất có diện tích 321m2., bà Hoàng Thị Lê và ông Dương
Văn Chanh phải tìm nơi ở mới để trả lại khuôn viên lô đất nói trên cho ông
Hoàng Đình Luyện.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật và nhận được đơn yêu cầu thi hành
án, Đội THADShuyện LT(nay là Chi cục THADS huyện LT) đã ra Quyết
định thi hành án số 99/QĐ-THA ngày 23/5/2001. Qua vận động thuyết phục
nhiều lần, nhưng vợ chồng bà Hoàng Thị Lê, ông Dương Văn Chanh không
chấp hành việc thi hành án với các lý do:
Một là, Bản án tuyên không đúng tên của người phải thi hành án (người
phải thi hành án là ông Dương Văn Chanh nhưng Toà án tuyên là Dương Văn
Thanh); Các phía giáp ranh của lô đất Toà án tuyên không đúng (phía Đông
giáp đất ông Nguyễn Văn Cự nhưng Toà án lại tuyên Nguyễn Văn Lự. Phía
Nam giáp đất bà Đặng Thị Cúc nhưng Toà tuyên là bà Nguyễn Thị Cúc); Số
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Toà án tuyên chưa đúng.
Hai là, trên lô đất đang tranh chấp có ngôi nhà của bà Hoàng Thị Lê và
Dương Văn Chanh được xây dựng trước khi có bán án sơ thẩm nhưng Tòa án
không tuyên việc giải tỏa ngôi nhà.
Xét thấy bản án tuyên có nhiều sai sót, không đúng với thực tế, ngày
06/05/2002, Chi cục THADS huyện LT có Công văn số 244/CV-THA gửi
62
Tòa án nhân dân huyện LT đề nghị đính chính và xem xét lại bản án. Ngày
29/5/2002, Tòa án nhân dân huyện LT đã có công văn số 39/CV-TA đính
chính những sai sót về giáp giới của lô đất và số giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nhưng vẫn chưa đầy đủ và chưa đề cập đến tài sản là ngôi nhà được
xây dựng kiên cố trước khi có bản án hiệu lực pháp luật.
Ngày 09/11/2005, Chi cục THADS huyện LT đã có Công văn số
630/CV-THA về việc đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh QB xem xét lại
bản án. Ngày 07/02/2006,Tòa án nhân dân tỉnh QB đã có văn bản số
08/GĐKT cho rằng việc đính chính của TAND huyện là chưa đúng với quy
định tại Điều 55 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và yêu cầu Tòa
án nhân dân huyện LT phải tiến hành sửa chữa những sai sót của bản án theo
đúng quy định của pháp luật.
Ngày 18/8/2008, ngày 15/12/2008 và ngày 14/9/2009 Chi cục THADS
huyện LT đã có Công văn số 01, Công văn số 1452, Công văn số 317/CV-
THADS gửi Chánh án TAND tối cao đề nghị xem xét lại bản án theo trình tự
giám đốc thẩm vụ án đã có hiệu lực pháp luật. Ngày 30/7/2010, Chi cục
THADS huyện LT nhận được Công văn số 387/TANDTC-DS của TAND về
việc trả lời Công văn của Chi cục THADS huyện LT, trong đó có nội dung:
Ngôi nhà của bà Hoàng Thị Lê, ông Dương Văn Chanh được xây dựng trước
khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật nhưng TAND huyện LT không đề
cập việc giải quyết về ngôi nhà là có thiếu sót. Vụ việc này cũng đã được báo
cáo Tổng Cục THADS và Tổng cục đã có văn bản gửi TAND tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị xem xét bản án, nhưng vẫn chưa có kết quả.
Chi cục THADS huyện LT đã nhiều lần tổ chức cho các bên đương sự tự
thỏa thuận về khoản tiền hỗ trợ di dời cho vợ chồng ông Dương Văn Chanh,
bà Hoàng Thị Lê nhưng không có kết quả. Theo quy định tại điểm b, khoản 2,
Điều 117 Luật THADS năm 2008 về cưỡng chế giao quyền sử dụng đất quy
63
định: Trường hợp tài sản gắn liền với đất có trước khi có bản án, quyết định
sơ thẩm nhưng bản án, quyết định được thi hành không tuyên rõ việc xử lý đối
với tài sản đó thì cơ quan THADS yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định
giải thích rõ việc xử lý đối với tài sản hoặc đề nghị Tòa án có thẩm quyền
xem xét lại nội dung bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Nhưng cho
đến nay, qua nhiều lần đề nghị mà cơ quan Tòa án chưa có văn bản đảm bảo
cơ sở pháp lý để Chi cục THADS huyện LT làm căn cứ tổ chức thi hành vụ
án theo quy định của pháp luật.
Về phía người được thi hành án liên tục có đơn khiếu nại gửi nhiều cơ
quan, nhiều cấp thẩm quyền. Chi cục THADS huyện LT tiếp tục thực hiện
biện pháp cho hai bên đương sự hoà giải, thoả thuận việc thi hành án theo ý
kiến của Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh QB. Nếu đã tổ chức cho hai bên hoà
giải, thoả thuận giải quyết thi hành án mà không đạt kết quả, thì đề nghị
UBND tỉnh QB cho thanh tra, kiểm tra về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho cụ Lê Thị Yên (mẹ đẽ của ông Hoàng Đình Luyện) có đúng quy
định pháp luật hay không để có căn cứ ra quyết định thu hồi hoặc ra quyết
định huỷ quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho cụ Lê Thị
Yên (theo Công văn số 1527/CV-TATC ngày 06/10/2014 của TAND tối cao).
Sau khi có quyết định thu hồi hoặc quyết định huỷ quyết định cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 11364 mang tên bà Lê Thị Yên thì TAND
tối cao sẽ xem xét cho xét xử lại theo trình tự thủ tục tái thẩm. Tuy nhiên, vụ
việc không có căn cứ để thu hồi hoặc hủy quyết định cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho cụ Lê Thị Yên. Do vậy, những sai sót của bản án
không khắc phục được, dẫn đến vụ việc tồn đọng gần 16 năm chưa giải quyết
được, bên được thi hành án càng bức xúc vì nội dung khiếu nại về THADS thì
vẫn đang bị “bõ ngõ” mà nguyên nhân sai sót từ phía cơ quan tiến hành tố
tụng.
64
2.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
* Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất: Năng lực, trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của Chấp
hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên, cán bộ, công chức làm
công tác THADS ở một số cơ quan THADS địa phương trình độ, năng lực
còn hạn chế, chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của công tác giải quyết
khiếu nại; nhiều trường hợp để đương sự yêu cầu nhiều lần nhưng không có
biện pháp giải quyết thoả đáng, kịp thời hoặc không giải thích cụ thể để
đương sự hiểu và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Mặc dù pháp luật đã
quy định cụ thể về thời hạn giải quyết khiếu nại, song vẫn có tình trạng để quá
thời hạn giải quyết đối với đơn khiếu nại của người dân gây nhiều bức xúc.
Một số ít cán bộ, công chức các cơ quan THADS thiếu tinh thần trách
nhiệm trong công vụ, chưa tích cực học tập, nghiên cứu các văn bản pháp luật
về THADS để nâng cao trình độ nhận thức, năng lực chuyên môn theo yêu
cầu của công việc, tác nghiệp chậm, còn lúng túng trong việc xử lý những tình
huống phát sinh trong quá trình giải quyết khiếu nại về THADS.
Thứ hai: Đạo đức nghề nghiệp của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự
Một số Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan THADS chưa thực sự tích
cực, quyết liệt đối với những vụ việc phức tạp, khó khăn; ngại khó, ngại va
chạm; còn trông chờ, ỷ lại sự giúp đỡ, hướng dẫn của cơ quan chuyên môn;
sự chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương; Ban Chỉ đạo THADS, làm
chậm quá trình tổ chức, giải quyết việc thi hành án. Cũng có trường hợp Thủ
trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên không chấp nhận sai trái của mình
trong quá trình tổ chức thi hành án (như ra quyết định thi hành án, quyết định
65
về thi hành án và hành vi trong thực thi công vụ) làm đương sự bức xúc
nhưng không được giải quyết.
Thứ ba: Trình độ quản lý, chỉ đạo điều hành của Lãnh đạo cơ quan lý thi
hành án, cơ quan Thi hành án dân sự còn hạn chế
Thực tế cho thấy, hiện tại vẫn có một số Thủ trưởng cơ quan quản lý
THADS, cơ quan THADS chưa bao quát hết khối lượng công việc, tình hình
khiếu nại, công tác giải quyết khiếu nại về THADS của Chấp hành viên và
các đơn vị thuộc quyền quản lý, nên sự chỉ đạo điều hành chưa kịp thời dẫn
tới giải quyết chậm, thụ lý sai thẩm quyền, chưa gắn kết được sự chỉ đạo giữa
Thủ trưởng đơn vị và cán bộ tham mưu giải quyết khiếu nại.
Thứ tư: Một số cơ quan THADS cấp huyện chưa kịp thời công khai các
trình tự thủ tục hành chính về khiếu nại, chưa kịp thời xây dựng, ban hành nội
quy tiếp công dân, quy chế giải quyết khiếu nại về THADS
Thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, giám sát” đó là chủ trương của Đảng được mọi tầng lớp nhân
dân ủng hộ và càng đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, một số cơ quan THADS cấp
huyện chưa quán triệt sâu sắc tinh thần đó, vì vậy, trong thực hiện chức năng,
nhiệm vụ chuyên môn chưa quan tâm nhiều đến công tác tiếp công dân, hình
thức tiếp công dân và nhất là công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến
với người dân để “dân hiểu, dân biết, dân làm” trong đó có việc thực hiện
quyền khiếu nại của mình khi quyền và lợi ích chính đáng bị xâm hại.
* Nguyên nhân khách quan:
Thứ nhất: Pháp luật quy định công tác giải quyết khiếu nại về THADS
hiện hành còn bộc lộ một số bất cập cũng là yếu tố làm hạn chế quyền khiếu
nại của đương sự
Luật THADS đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam Khoá XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành
66
từ ngày 01/7/2009 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định chi tiết về
quyền, nghĩa vụ của các bên đương sự khi thực hiện khiếu nại; thẩm quyền,
thời hạn, hình thức giải quyết khiếu nại cũng như quy định cụ thể về trình tự,
thủ tục từ khâu thụ lý cho đến việc lập, lưu trữ hồ sơ và việc tổ chức thực hiện
quyết định khiếu nại đối với các bên đương sự (từ Điều 140 đến Điều 153).
Mặt khác, để việc thực hiện quyền khiếu nại cũng như giải quyết khiếu
nại về THADS được thực hiện thống nhất trong ngành THADS, đến nay Tổng
cục THADS đã ban hành Quy chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1318/QĐ-TCTHADS ngày 30/9/2013
của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS), thay thế cho Quy chế giải quyết
khiếu nại, tố cáo về THADS (Ban hành kèm theo Quyết định số 1420/QĐ-
KNTC ngày 01/6/2010 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS). Quy chế
giải quyết khiếu nại, tố cáo về THADS hiện hành bao gồm 27 Điều trong đó
có 15 Điều (Từ Điều 1 đến Điều 15) quy định về giải quyết khiếu nại, kèm
theo Quy chế là 11 biểu mẫu, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/12/2013.
Quy chế này hướng dẫn cụ thể từ việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại, việc vào
sổ phân công công việc xử lý đơn, phân loại xử lý đơn khiếu nại và các đơn
khác đến trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại về THADS. Mặc dù, đã ban
hành một cơ chế giải quyết khiếu nại riêng để phù hợp với đặc thù công tác
THADS nhưng thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy các quy định hiện hành
vẫn còn bộc lộ một số bất cập:
- Một là, pháp luật quy định tại Điều 143 Luật THADS năm 2008 và
Điều 12 Luật khiếu nại năm 2011, người khiếu nại có các quyền và nghĩa vụ
cụ thể để thực hiện khiếu nại nhưng lại không quy định cụ thể trách nhiệm
của người khiếu nại trong trường hợp họ khiếu nại không có căn cứ, nội dung
sai sự thật. Mặc dù, Điều 156 Bộ luật Hình sự năm 2015 ngày 27/11/2015, có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016 đã có quy định về tội vu khống nhưng
67
trên thực tế rất ít được áp dụng để xử lý đối với hành vi khiếu nại sai làm
giảm uy tín của công chức THADS và ảnh hưởng đến cơ quan THADS.
- Hai là, bất cập về thời hạn giải quyết
Theo quy định của Luật THADS thì thời hạn để giải quyết khiếu nại đối
với từng quyết định, hành vi được quy định rõ ràng nhưng trong thực tế thì
gặp phải bất cập khi áp dụng thực hiện giải quyết khiếu nại. Điều 146 Luật
THADS quy định:
“1. Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm a khoản 2 Điều 140
của Luật này thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là
30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
2. Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm b khoản 2 Điều 140 của
Luật này thì thời hạn giải quyết khiếu nại là 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ
lý đơn khiếu nại.
3. Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm c khoản 2 Điều 140 của
Luật này thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày, lần hai là 45
ngày, kế từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
4. Trường hợp cần thiết, đối với những vụ việc có tính chất phức tạp thì
thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quả 30 ngày, kể từ
ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại.
5. Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm d khoản 2 Điều 140 của
Luật này thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30
ngày, kế từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
6. Trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, đường sá xa xôi, đi lại khó khăn, vụ
việc có tính chất phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài
nhưng không quá 30 ngày, kế từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại”.
Với quy định về thời hạn giải quyết khiếu nại nêu trên, thực tế có nhiều
trường hợp vụ việc người phải thi hành án có nhiều tài sản, tài sản hình thành
68
ở nhiều nơi, hoặc do nhiều đối tượng (người thứ ba) ở các địa phương khác
nhau nắm giữ... thì các cơ quan THADS không thể thực hiện đúng thời gian
theo quy định, khi thực hiện các bước (6 bước như đã nêu tại mục 1.2.3
Chương 1).
Bởi vì, sau khi thụ lý giải quyết còn phải thực hiện nhiều trình tự, thủ tục
tiếp theo mới có thể ban hành được quyết định giải quyết khiếu nại. Khoản 1
Điều 146 quy định: “khiếu nại đối với quyết định, hành vi về thi hành án
trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án thì
thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ
ngày thụ lý đơn khiếu nại”. Trong trường hợp này nếu hành vi bị khiếu nại là
hành vi của Chấp hành viên đồng thời là Chi cục trưởng thì người đứng đầu
cơ quan cấp trên trực tiếp sẽ thụ lý giải quyết, như vậy sẽ phải có báo cáo giải
trình quá trình tổ chức thi hành vụ việc, sao hồ sơ thi hành án...
Trường hợp cần phải xác minh, đối thoại tại địa phương thì người có
thẩm quyền giải quyết phải lập kế hoạch xác minh, phát hành giấy mời. Đối
với các cơ quan chuyên môn, cơ quan phối hợp phải phụ thuộc vào việc bố trí
thời gian, con người tham gia hoặc chưa cung cấp được hồ sơ theo yêu cầu
nên sẽ trả lời kết quả sau đó. Đối với các bên đương sự cần làm việc, đối thoại
thì có nhiều lý do dẫn đến việc chậm trể trong việc xác minh vì lý do làm ăn
xa, chưa sắp xếp được công việc hoặc có trường hợp thiếu ý thức hợp tác
hoặc địa chỉ không rõ ràng nên không đáp ứng được thời gian ấn định, dẫn
đến việc ra quyết định giải quyết khiếu nại không thể ban hành theo đúng thời
gian quy định.
Ngoài ra, trong trường hợp vụ việc có tính chất phức tạp, vướng mắc về
pháp luật, quan điểm giải quyết, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có
thể tổ chức cuộc họp, trao đổi ý kiến với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan; xin ý kiến chỉ đạo giải quyết của cấp trên trực tiếp; trưng cầu giám định
69
hoặc tiến hành các biện pháp cần thiết khác thì thời hạn giải quyết khiếu nại
còn phụ thuộc vào kết quả phúc đáp, phản hồi của cơ quan chức năng...
Tư tưởng của các nhà làm luật luôn muốn việc khiếu nại, giải quyết
khiếu nại được tiến hành chặt chẽ, quy trình ngắn gọn để đảm bảo quyền và
lợi ích của đương sự. Tuy nhiên, thực tế khi thực hiện lại khác, bởi vì nếu
muốn đảm bảo về mặt thời gian thì người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
phải làm nhanh, làm gấp, cắt bớt công đoạn hoặc xác minh không chặt chẽ
dẫn đến việc ban hành quyết định không đảm bảo dẫn đến việc đương sự tiếp
tục khiếu nại lên cấp tiếp theo. Việc quy định thời gian giải quyết khiếu nại
ngắn như hiện nay, vô hình chung làm cho những người thực hiện công tác
giải quyết khiếu nại về THADS vào hoàn cảnh không muốn vi phạm nhưng
thực tế buộc phải vi phạm về thời gian giải quyết theo quy định tại Điều 146
Luật Thi hành án dân sự.
- Ba là, bất cập trong việc quy định thẩm quyền của Bộ trưởng:
Theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 142 Luật THADS quy định:
“Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại quyết
định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành quy định tại khoản 2 và
khoản 3 Điều này” khoản 2 và khoản 3 của Điều 142 quy định như sau:
“2. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh giải quyết đối với
các khiếu nại sau đây:
a) Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Chấp hành viên
thuộc quyền quản lý của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;
b) Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan
thihành án dân sự cấp huyện;
c) Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự cấp huyện. Quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có hiệu lực thi hành.
70
3. Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp giải
quyết đối với các khiếu nại sau đây:
a) Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự cấp tỉnh;
b) Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ
trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có hiệu lực thi
hành”.
Với những quy định như trên thì Bộ trưởng chỉ có thẩm quyền xem xét
đối với quyết định có hiệu lực của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh và
Thủ trưởng cơ quan quản lý THADS, không có thẩm quyền xem xét đối với
quyết định đã có hiệu lực đối với hành vi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi
hành án (được quy định từ Điều 66 đến Điều 69 của Luật THADS) của Thủ
trưởng cơ quan THADS cấp huyện. Bởi vì theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 140 Luật THADS thì khiếu nại đối với hành vi này chỉ giải quyết một
lần và có hiệu lực thi hành ngay. Như vậy, có nghĩa là quyết định giải quyết
khiếu nại đối với hành vi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án của Thủ
trưởng cơ quan THADS cấp huyện thì Bộ trưởng không có thẩm quyền xem
xét, kể cả trong trường hợp Chấp hành viên cấp huyện có sai phạm trong việc
thực hiện các biện pháp bảo đảm. Biện pháp bảo đảm THADS là biện pháp
pháp lý nhằm khống chế một số quyền về tài sản của người phải thi hành án
trong tình trạng bị hạn chế hoặc cấm sử dụng, định đoạt nhằm ngăn chặn việc
người phải thi hành án tẩu tán, định đoạt tài sản trốn tránh việc thi hành án và
đôn đốc họ tự nguyện thực hiện nghĩa vụ thi hành án của mình do Chấp hành
viên áp dụng trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế THADS. Tuy nhiên,
việc quy định như trên đã tạo kẽ hở trong việc tổ chức thi hành án, nếu như
người thi hành công vụ vì động cơ, mục đích nào đó để cố ý áp dụng biện
71
pháp bảo đảm không phù hợp với quy định của pháp luật sẽ gây thiệt hại cho
người phải thi hành án và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
- Bốn là, theo quy định tại khoản 2 Điều 6 Thông tư 02/2016/TT-BTP
ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại,
tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong THADS thì đối với đơn có nội dung
khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh thì tách riêng từng nội dung để
xử lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, hiện tại chưa có quy định bằng
văn bản hướng dẫn trong ngành THADS về trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải
quyết đơn có tiêu đề tố cáo nhưng nội dung thực chất là khiếu nại, đơn có tiêu
đề là khiếu nại nhưng nội dung thực chất là tố cáo. Trên thực tế loại đơn này
khá phổ biến. Vậy giải quyết như thế nào, theo thủ tục nào và ai có đủ thẩm
quyền để giải quyết. Do người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại nhưng
không thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo và ngược lại vì khi giải quyết sẽ
liên quan đến việc cung cấp thông tin, tài liệu, dễ làm lộ bí mật thông tin cá
nhân của người tố cáo và điều này là trái với các quy định của pháp luật.
Thứ hai: Luật THADS chưa có quy định cụ thể về việc chấm dứt giải
quyết khiếu nại đối với trường hợp đã được cơ quan có thẩm quyền giải quyết
hết cấp, đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn tiếp tục có đơn khiếu nại
Trong những năm qua, lợi dụng chính sách dân chủ của Nhà nước, rất
nhiều trường hợp đương sự (người phải thi hành án; người được thi hành án
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) lợi dụng để khiếu nại đến các cơ
quan trung ương và địa phương, mặc dù nội dung khiếu nại đã được giải
quyết hết thẩm quyền, theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các đối
tượng này gửi đơn khiếu nại nhiều nơi (một phần do chưa thỏa mãn với nội
dung bản án, quyết định của Tòa án, một phần do chưa thi hành án kịp thời
hay là có sự xúi dục, kích động của các thế lực phản động), ảnh hưởng đến
tình hình an ninh chính trị tại địa phương, gây bức xúc trong dư luận. Do đó,
72
cần thiết phải bổ sung thành một điều riêng trong Luật THADS về việc chấm
dứt giải quyết khiếu nại đối với những trường hợp đã được xem xét đầy đủ,
đúng thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật hoặc trường hợp tiếp tục khiếu
nại không căn cứ có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm
hình sự.
Thứ ba: Quy định giữa các văn bản luật còn chồng chéo, chưa thống nhất
Việc tổ chức THADS liên quan đến rất nhiều quy định của pháp luật
chuyên ngành, nên trong quá trình áp dụng còn nhiều quy định chưa rõ ràng,
gây khó khăn cho cơ quan THADS, như hiệu lực của hợp đồng chuyển quyền
sử dụng đất chồng chéo và bất cập trong việc tổ chức thi hành án. Nếu có
khiếu nại phát sinh thì mỗi cơ quan chuyên môn đều có quan điểm riêng trong
việc áp dụng pháp luật chuyên ngành để bảo vệ các công việc của ngành
mình, do đó, nội dung khiếu nại về THADS không được giải quyết triệt để,
quyền lợi của đương sự không được đảm bảo vì những khó khăn, vướng mắc
trong việc áp dụng pháp luật.
Thứ tư: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương; sự phối hợp của một số cơ quan hữu quan đôi lúc, đôi nơi
còn thờ ơ, chưa “mặn mà” với công tác THADS.
Hoạt động THADS, là hoạt động phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực
trong đời sống xã hội, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền cơ bản của con người
(như quyền về tài sản, nhân thân của các bên đương sự và những người có
liên quan). Do tính chất công việc phức tạp nên khiếu nại trong quá trình tổ
chức THADS là điều khó trách khỏi. Để giải quyết tốt vấn đề này, ngày
26/5/2014, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CV/TW về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và coi đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, đồng thời tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đối với công tác này. Tuy nhiên, trên thực tế
73
có một số cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương còn né tránh, ngại va chạm;
sự phối hợp của một số cơ quan hữu quan trong công tác THADS chưa nhuần
nhuyễn, sợ ảnh hưởng đến uy tín, công tác của ngành mình.
Thứ năm: Trình độ dân trí thấp cũng là nguyên nhân ảnh hưởng đến việc
thực hiện quyền khiếu nại về THADS
Khiếu nại là quyền cơ bản của công dân, tuy nhiên không phải ai cũng
hiểu biết, nắm rõ các quy định của pháp luật để tự bảo vệ mình khi bị quyết
định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên xâm hại. Bởi
vì, ở mỗi vùng, miền khác nhau có trình độ văn hóa và nhận thức khác nhau;
mức độ tiếp cận thông tin, nắm bắt thông tin có phần hạn chế; công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật về THADS nói riêng chưa
được thực hiện đầy đủ, sâu rộng và hiệu quả đến với người dân.
Thứ sáu: Chất lượng bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ
ràng, có nhiều sai sót, bị kháng nghị
Nhiều trường hợp bản án, quyết định của toà án tuyên không rõ ràng,
không có tính khả thi, có nhầm lẫn hoặc sai sót về tên, tuổi, số liệu nhưng
không được Tòa án kịp thời giải thích theo yêu cầu cơ quan THADS.
Nhiều bản án, quyết định của Tòa án đã đang tổ chức thi hành án, nhưng
lại bị Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân cấp trên kháng nghị yêu cầu xét xử lại
theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, có nhiều trường hợp kéo dài nhiều
năm liền nhưng vụ án vẫn chưa cơ chế tháo gỡ vì đã hết thời hiệu giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm. Những vấn đề nói trên phần nào dẫn đến tình trạng hoài
nghi của các đương sự đối với việc thi hành án, gây bức xúc cho đương sự
dẫn đến khiếu nại và gây khó khăn trong việc giải quyết khiếu nại về THADS
cho cơ quan THADS.
74
Thứ bảy: Yếu tố con người còn thiếu về số lượng cũng như chất lượng;
chế độ bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo chưa quan tâm đúng mức
Thực tiễn cho thấy, hiện nay ở các Chi cục THADS cấp huyện trực thuộc
Cục THADS tỉnh Quảng Bình chưa có cán bộ, công chức chuyên trách làm
công tác tiếp công dân, tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo mà chủ yếu là
do cán bộ làm công tác thi hành án kiêm nhiệm chưa qua đào tạo công tác tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, do đó, hiệu quả công việc chưa cao, chưa
đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước trong tình
hình mới. Bên cạnh đó, thì chế độ bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác tiếp
dân, tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa được quan tâm đúng mức
nên cán bộ, công chức chưa yên tâm công tác.
Thứ tám: Nguyên nhân từ phía các bên đương sự
- Một là, đương sự khiếu nại nhằm mục đích trì hoãn, kéo dài việc thi
hành án hoặc là trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Như chúng ta đã biết, khiếu nại là quyền cơ bản của công dân được Hiến
pháp ghi nhận, đối với những trường hợp khiếu nại đúng, một mặt là để bảo
vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình khi bị hành vi, quyết định của cá nhân,
tổ chức có thẩm quyền xâm hại, mặt khác thể hiện tính dân chủ, tính nghiêm
minh, công bằng của pháp luật và tính ưu việt của xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, không phải lúc nào người dân khiếu nại cũng đúng, có nhiều trường
hợp lợi dụng quyền khiếu nại với mục đích để kéo dài, trì hoãn làm chậm việc
giải quyết thi hành án, thậm chí là trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
Ví dụ: Theo Bản án số 01/2013/KDTM-PT ngày 28/3/2013 của TAND
tỉnh QB; Quyết định thi hành án số 235/QĐ-CCTHA ngày 06/5/2013 của Chi
cục trưởng Chi cục THADS huyện BT thì:
75
Người phải thi hành án: Công ty TNHH Thương mại Tổng hợp Dũng
Hồng (Công ty Dũng Hồng) do bà Hồ Thị H là người đại diện theo pháp luật,
phải thi hành án khoản: Trả cho Ngân hàng TMCP ĐT&PT Việt Nam- CN
Bắc Quảng Bình (Ngân hàng) số tiền 2.129.378.524 đồng và khoản tiền lãi
suất phát sinh.
Các tài sản thế chấp tại Ngân hàng để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ đối với
Công ty Dũng Hồng gồm: 1-Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của
bà Hồ Thị H, ông Trần Đại H; 2-Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất
của ông Trần Quốc T, bà Nguyễn Thị H; 3-Quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất của ông Phan Thanh N, bà Võ Thị H; 4- Tàu đánh cá số QB
92486 TS mang tên vợ chồng ông Trần Đại Nhật T, bà Hoàng Thị H; 5-Máy
xúc đào hiệu DEWOO SOLAR mang tên Công ty Dũng Hồng. Quá trình tổ
chức thi hành án, ngày 28/4/2016, Chi cục THADS huyện BT tiến hành kê
biên bán đấu giá tài sản thế chấp của bà Hồ Thị H, ông Trần Đại H để thi
hành án theo quy đinh pháp luật. Tuy nhiên, sau khi kê biên xử lý đối với một
trong số các tài sản thế chấp nêu trên thì bà Hồ Thị H, ông Trần Đại H có
“đơn kêu cứu” gửi các cấp trong đó có gửi đồng chí Bí thư Tỉnh ủy QB. Nội
dung khiếu nại về “Quyết định cưỡng chế số 20/QĐ-CCTHADS ngày
19/4/2016 của Chấp hành viên Chi cục THADS huyện BT" gồm các vấn đề
như sau:
Vấn đề thứ nhất: Quyết định của Bản án tuyên có nhiều tài sản thế
chấp của nhiều cá nhân, tổ chức khác nhau nhưng Chấp hành viên kê biên xử
lý tài sản thế chấp của bà Hồ Thị H, ông Trần Đại H trước để đảm bảo thi
hành án mà không kê biên tất cả tài sản đã thế chấp của những người còn lại.
Trong số 05 tài sản thế chấp tại Ngân hàng theo bản án đã nêu thì có 02
tài sản là Tàu đánh cá và Máy xúc đào đã bị tẩu tán trước khi các bên khởi
kiện ra Tòa án. Chấp hành viên căn cứ khoản 1 Điều 13 Nghị định số
76
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật THADS, kê biên tài sản thế chấp của ông Trần Đại H, bà Hồ
Thị H trước để thi hành án là đúng với quy định của pháp luật THADS và phù
hợp với đề nghị của Ngân hàng (người được thi hành án); phù hợp với nội
dung Hợp đồng thế chấp các bên đã ký kết. Trường hợp này, sau khi kê biên
xử lý tài sản của ông Trần Đại H, bà Hồ Thị H mà vẫn không đủ nghĩa vụ thi
hành án và các chi phí cưỡng chế thì tiếp tục kê biên xử lý tài sản là quyền sử
dụng đất của những người còn lại là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp
luật.
Vấn đề thứ hai: Theo Hợp đồng thế chấp số 03/2008/HĐ ngày 16/5/2008 thì căn nhà thế chấp có diện tích xây dựng 210m2, nhưng diện tích thực tế của căn nhà là 297,3m2, do đó Chấp hành viên kê biên để thi hành án
là không đúng. Vấn đề vướng mắc này đã được Tổng cục THADS – Bộ Tư
pháp chỉ đạo, hướng dẫn tại Công văn số 373/TCTHADS-NV1 ngày
30/01/2015 và Công văn số 114/CTHADS ngày 04/02/2015 của Cục THADS
tỉnh QB, do đó việc kê biên xử lý toàn bộ tài sản xây dựng nằm trên diện tích đất 98,34m2 (bao gồm cả tài sản xây dựng lấn chiếm trên diện tích đất lưu không đường Quốc lộ 1A là 33,28m2) là toàn bộ ngôi nhà 03 tầng, diện tích xây dựng 297,3m2 và quyền sử dụng đất 65,06m2 của ông Trần Đại H, bà Hồ
Thị H.
Vấn đề thứ ba: ông Trần Đại H, bà Hồ Thị H cho rằng Quyền sử dụng đất 70m2, tại thửa số 461, tờ bản đồ số 03, xã Phú Trạch, huyện Bố Trạch chỉ
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng mang tên ông, bà. Còn tài sản xây dựng
gắn liền với đất chưa được chứng nhận quyền sở hữu mang tên ông Trần Đại
H, bà Hồ Thị H, nên ông bà không thừa nhận là tài sản trên đất là tài sản của
mình (mà là tài sản của con trai Trần Đại Nhật Tiến và con dâu Hoàng Thị
Huệ), do tại thời điểm nhận tài sản thế chấp, phía Ngân hàng không thẩm
77
định kỹ, nên ông Trần Đại H, bà Hồ Thị H không chấp nhận tài sản nêu trên
thuộc tài sản được kê biên.
Căn cứ quy định tại khoản 1, Điều 75 Luật THADS, Chấp hành viên đã
thông báo cho ông Trần Đại Nhật T, bà Hoàng Thị H và ông Trần Đại H, bà
Hồ Thị H trong thời hạn 30 ngày có quyền khởi kiện tại Tòa án có thẩm
quyền để bảo vệ quyền lợi của mình, nhưng đơn khởi kiện của ông Tiến, bà
Huệ không được TAND huyện BT, TAND tỉnh QB thụ lý giải quyết (TAND
huyện BT ra Quyết định giải quyết khiếu nại số 02/2016/QĐ-TA về việc trả
lại đơn khởi kiện ngày 07/6/2016 đối với ông Trần Đại Nhật Tiến, bà Hoàng
Thị Huệ; TAND cấp cao tại Đà Nẵng ra Quyết định giải quyết khiếu nại số
14/2016/QĐ-CA ngày 31/8/2016 về việc không chấp nhận Đơn khiếu nại của
ông Trần Đại Nhật Tiến, bà Hoàng Thị Huệ đối với Quyết định về việc giải
quyết khiếu nại số 20/2016/QĐ-CA ngày 07/7/2016 của Chánh án TAND tỉnh
QB).
Tóm lại, quá trình tổ chức thi hành án vụ việc nêu trên của Chi cục
THADS huyện BT (từ việc ra Quyết định thi hành án đến kê biên, định giá và
tổ chức bán đấu giá tài sản...) đảm bảo đúng trình tự và quy định của pháp
luật. Việc ông Trần Đại H, bà Hồ Thị H gửi “đơn kêu cứu” với nhiều nội
dung khiếu nại đến nhiều cấp, nhiều nơi là nhằm mục đích trì hoãn, kéo dài,
trốn tránh việc thi hành án, do vậy, không được chấp nhận giải quyết.
Hai là, lợi dụng quyền khiếu nại để nói xấu, vu khống, xúc phạm uy tín,
danh dự của các đồng chí lãnh đạo, các cán bộ tham gia giải quyết khiếu nại,
cản trở hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước.
Để bảo đảm nguyên tắc Hiến định: “Bản án, quyết định của Tòa án nhân
dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cá
nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Tuy nhiên, có trường hợp một
phần thiếu am hiểu pháp luật, một phần bức xúc từ những phát sinh ban đầu ở
78
cơ sở nên cố tình thực hiện việc khiếu nại vượt cấp, vượt thẩm quyền dẫn đến
việc khiếu nại “lòng vòng” làm tốn nhiều công sức, tiền bạc không những
chính bản thân của người khiếu nại mà còn làm mất thời gian, tài chính của cơ
quan, tổ chức nhà nước trong thực thi công vụ, làm giảm uy tín của cán bộ,
công chức, cơ quan công quyền trong hoạt động quản lý nhà nước.
Ví dụ: Bản án số 07/2013/HCPT ngày 15/5/2013 của TAND tỉnh QB
đã tuyên: “...Huỷ Quyết định số 101/QĐXP-UBND ngày 22/11/2006 của
UBND xã Tiến Hoá, huyện TH, tỉnh QB về việc xử phạt vi phạm hành chính
đổi với bà Nguyễn Thị Loan. Buộc UBND xã Tiến Hoá, huyện TH, tỉnh QB
trả lại số tiền phạt và số tiền đã thu của bà Loan để tổ chức cưỡng chế và tiền
thuê xe chở tài sản tại thời điểm xét xử sơ thẩm: 2.500.000 đồng.
Chi cục THADS huyện TH thụ lý ra Quyết định thi hành án số 165/QĐ-
CCTHADS ngày 15/4/2016. Sau khi nhận được Quyết đinh thi hành án
UBND xã Tiên Hoá đã nộp đủ số tiền 2.500.000đ và Chấp hành viên Chi cục
THADS huyện TH thông báo cho bà Nguyễn Thị Loan nhận tiền theo quy
định nhưng bà Loan không nhận tiền với lý do là thi hành án chưa đúng, chưa
đủ tài sản.
Ngày 12/8/2016, Cục THADS tỉnh QB nhận đơn khiếu nại của bà
Nguyễn Thị Loan, do Thường trực tiếp công dân của Quốc Hội chuyển đến,
bà Nguyễn Thi Loan khiếu nại: “Ông Hoàng Đình H Chấp hành viên Chi cục
THADS huyện TH cung cấp mẫu đơn yêu cầu thi hành án và hướng dẫn ép
buộc bà Nguyễn Thị Loan phải viết theo ông Hoàng Đình H đọc mới nhận
đơn yêu cầu thi hành án; ông Hoàng Đình H không vô tư khi làm nhiệm vụ.
Bà Loan không đồng tình với việc ông Hoàng Đình H giao một lúc 03 văn
bản và thông báo về thi hành án; không nhận thông tin, tài liệu, chứng cứ và
biên bản giải trình do bà Loan cung cấp...”.
79
Sau khi thụ lý giải quyết đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Loan, Cục
THADS tỉnh QB nhận thấy:
Về tổ chức thi hành vụ việc: Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành
viên đã 03 lần gửi thông báo cho bà Nguyễn Thị Loan đến nhận số tiền
2.500.000đ do UBND xã Tiến Hoá, huyện TH, tỉnh QB nộp nhưng bà Loan
kiên quyết không nhận. Vì vậy, Chi cục THADS huyện TH đã gửi số tiền
2.500.000đ vào Ngân hàng theo hình thức tiết kiệm (theo quy định tại khoản 5
Điều 49 Nghị định 62/2016/NĐ-CP ngày 01/02/2016 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS).
Về nội dung khiếu nại bà Nguyễn Thị Loan: Qua kiểm tra hồ sơ thi hành
án; báo cáo của Chi cục THADS huyện TH và Chấp hành viên trực tiếp tổ
chức thi hành vụ việc, Cục THADS tỉnh QB nhận thấy rằng: Ngày 11/4/2016
bà Nguyễn Thị Loan trực tiếp đến tại trụ sở Chi cục THADS huyện TH làm
đơn yêu cầu thi hành án, Chấp hành viên Hoàng Đình H cung cấp mẫu đơn
yêu cầu thi hành án và hướng dẫn bà Loan làm đơn yêu cầu thi hành án, bà
Loan làm đơn yêu cầu thi hành án với nội dung: Yêu cầu UBND xã Tiến Hoá
thi hành khoản trả lại tiền phạt và tiền đã thu của bà Nguyễn Thị Loan để tổ
chức cưỡng chế và thuê xe chở tài sản số tiền 2.500.000đ theo Quyết định của
Bản án số 07/2013/HCPT ngày 03/5/2013 của Toà án nhân dân tỉnh QB. Chấp
hành viên Hoàng Đình Hùng cung cấp mẫu đơn yêu cầu thi hành án đúng theo
mẫu quy định tại Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư
Pháp, hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu
nghiệp vụ trong THADS. Đồng thời, hướng dẫn bà Nguyễn Thị Loan làm đơn
yêu cầu thi hành án, bà Loan tự mình viết đơn yêu cầu thi hành án, có chữ ký
người yêu cầu không hề có sự ép buộc. Việc cung cấp mẫu đơn yêu cầu thi
hành án và hướng dẫn bà Nguyễn Thị Loan làm đơn yêu cầu thi hành án là
đúng theo trình tự thủ tục của pháp luật THADS.
80
Về nội dung:“Bà Nguyễn Thị Loan không đồng tình với việc ông Hoàng
Đình H giao một lúc 03 văn bản và thông báo về thi hành án”. Đây là thông
báo cho bà Nguyễn Thị Loan đến Chi cục THADS huyện TH để nhận tiền
(Thông báo số 131/TB-THADS ngày 29/4/2016, Thông báo số 144/TB-
THADS ngày 19/5/2016 và Thông báo số 212/TB-THADS ngày 12/7/2016).
Quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên đã thực hiện theo đúng trình tự
thủ tục, như: Người được thi hành án được thông báo về thi hành án.Việc
Chấp hành viên lập biên bản giao trực tiếp 03 văn bản, thông báo cho bà
Nguyễn Thị Loan là giao bổ sung lần 2, trước đây Chấp hành viên Chi cục
THADS huyện TH đã gửi các thông báo trên qua đường bưu điện, nhưng bà
Loan cho biết là không nhận được. Vì vậy, không có căn cứ để cho rằng Chấp
hành viên Hoàng Đình H không vô tư khi làm nhiệm vụ.
Về nội dung: “ông Hoàng Đình H không nhận thông tin, tài liệu, chứng
cứ và biên bản giải trình do bà Loan cung cấp”. Theo quy định tại khoản 5
Điều 31 Luật THADS năm 2008, được sửa đổi, bổ sung hăm 2014 thì cơ quan
THADS có quyền từ chối nội dung yêu cầu không liên quan đến nội dung của
bản án, quyết định. Vì vậy, việc ông Hoàng Đình H không nhận thông tin, tài
liệu, chứng cứ và biên bản giải trình không liên qua đến nội dung bản án,
quyết định do bà Loan cung cấp là có cơ sở.
Liên quan đến vụ việc khiếu nại quyết định xử phạt hành chính này của
bà Loan cũng đã được UBND huyện TH giải quyết bằng Quyết định giải
quyết khiếu nại số 359/QĐ-UBND ngày 30/3/2009 và UBND tỉnh QB giải
quyết bằng quyết định giải quyết khiếu nại số 1615/QĐ-UBND ngày
14/7/2010 không công nhận các nội dung đơn khiếu nại của bà Nguyên Thị
Loan.
Do bà Loan thường xuyên khiếu nại, có các hành vi nói xấu, vu khống
cán bộ, cơ quan nhà nước, vì vậy ngày 02/04/2015 UBND tỉnh QB đã ra
81
Thông báo số 314/TB-UBND thông báo kết quả rà soát giải quyết khiếu nại
của bà Loan. Theo đó, UBND tỉnh đã kết luận chấm dứt việc xem xét, giải
quyết khiếu nại của bà Loan. Các hành vi của bà Nguyễn Thị Loan như: “đeo
bám, làm mất trật tự tại các cơ quan Trung ương và của tỉnh; nói xấu, vu
không, xúc phạm uy tín, danh dự của các đồng chí lãnh đạo, các cán bộ tham
gia giải quyết khiếu nại của bà Loan là sự lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để
gây rối trật tự công cộng, cản trở hoạt động bình thường của cơ quan Nhà
nước”.
82
Tiểu kết chương 2
Qua thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại về THADS trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình, giai đoạn từ năm 2013 – 2017, cho thấy số lượng đơn khiếu nại
về THADS có tính chất phức tạp ngày càng nhiều nhưng các cơ quan THADS
đã giải quyết kịp thời, hiệu quả. Kết quả giải quyết đơn khiếu nại về THADS
trên địa bàn đạt tỷ lệ cao, giảm thiểu mức thấp nhất đơn khiếu nại tồn đọng,
bức xúc, kéo dài; dần tạo được niềm tin cho nhân dân, góp phần bảo đảm trật
tự, an ninh trên địa bàn. Quyền khiếu nại của các đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan về cơ bản được thực hiện kịp thời từ khâu nhận đơn,
thụ lý đơn, thẩm tra, xác minh, đối thoại, giải quyết đơn,... cho đến giai đoạn
sau khi ban hành quyết định giải quyết khiếu nại, tức là nội dung bị khiếu nại
(hành vi, quyết định của Chấp hành viên, Thủ trưởng đơn vị) về THADS
được tiếp tục thực hiện nghiêm túc, kết quả giải quyết cuối cùng về THADS
được các bên đương sự chấp nhận và không còn ý kiến gì.
Tuy nhiên, công tác giải quyết khiếu nại về THADS trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình vẫn còn những hạn chế nhất định như: Công tác tiếp dân giải
quyết khiếu nại THADS ở một số cơ quan cấp huyện chưa được chú trọng; kỹ
năng tiếp nhận, phân loại đơn khiếu nại về THADS tại nhiều cơ quan THADS
còn hạn chế, lúng túng; việc phối hợp trong giải quyết khiếu nại về THADS ở
một số nơi còn mang tính hình thức; một số cán bộ, công chức THADS trình
độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp còn hạn chế; một số cán bộ quản lý
chưa phát huy hết trách nhiệm trong quản lý, điều hành; một số Chấp hành
viên, cán bộ thi hành án chưa kịp thời cập nhật kiến thức nghiệp vụ.
Có trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng vẫn
cố tình chây ỳ, không tự nguyện thi hành, hay đương sự không hiểu trình tự,
thủ tục thi hành án hoặc lợi dụng quyền tự do dân chủ của công dân, làm đơn
83
khiếu nại không đúng quy định nhằm trì hoãn việc thi hành án. Nhiều trường
hợp khiếu nại, cơ quan THADS đã giải quyết khiếu nại hết thẩm quyền nhưng
các đương sự vẫn tiếp tục khiếu nại gửi đến nhiều ngành, nhiều cấp từ Trung
ương tới địa phương, gây xáo trộn, làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường
của cơ quan THADS, có trường hợp, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội ở địa phương. Đây chính là những tồn tại, hạn chế cần tập
trung nghiên cứu, tìm giải pháp khắc phục để công tác giải quyết khiếu nại về
THADS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình ngày càng có hiệu quả, bảo đảm quyền
và lợi ích chính đáng của công dân.
84
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN
KHIẾU NẠI VỀ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN CÁC CƠ
QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH QUẢNG BÌNH
3.1. Quan điểm
Quyền khiếu nại của công dân là quyền Hiến định [27], vì vậy, việc ngày
càng hoàn thiện quyền này là yêu cầu tất yếu khách quan. Trong quản lý hành
chính nhà nước công dân thực hiện quyền khiếu nại không những họ thực
hành quyền dân chủ trực tiếp, tham gia thiết thực vào quản lý nhà nước, quản
lý xã hội mà thông qua đó còn là một bảo đảm cho pháp luật được thực thi
trong thực tế. Đồng thời, đây là cơ hội và điều kiện để công dân phát huy đầy
đủ quyền và nghĩa vụ của mình, tăng cường ý thức trách nhiệm trong việc xây
dựng nhà nước, quản lý nhà nước bảo đảm pháp chế, tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng, nhà nước với nhân dân. Vì vậy, giải quyết khiếu nại của công dân
nói chung và giải quyết khiếu nại về THADS nói riêng là một vấn đề được
Đảng, nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm.
Bảo đảm thực hiện quyền khiếu nại về THADS nói chung và trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng cũng là xuất phát từ những yêu cầu chung của
việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nước
ta hiện nay, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính và bảo
đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình giải quyết khiếu nại về THADS, do
đó, cần phải bảo đảm các nội dung sau:
3.1.1. Bảo đảm quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng
Hoàn thiện các quy định của pháp luật về THADS nói chung và giải
quyết khiếu nại về THADS nói riêng là thể chế hóa các đường lối, chủ trương
của Đảng đã được xác định trong các Nghị quyết, văn kiện của Đảng như:
Văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI,
85
XII; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII); Nghị quyết Hội nghị
Trung ương 8 (khóa VII); Nghị quyết Hội nghị Trương ương 9 (khóa IX);
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/02/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm trong công tác tư pháp thời gian tới; Nghị quyết số 48-NQ/TW
ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020; Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về
công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của viện kiểm
sát nhân dân, của tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các
năm tiếp theo. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về THADS, cũng như bảo
đảm việc thực hiện quyền khiếu nại về THADS luôn luôn đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng, bảo đảm thể chế hóa các chủ trương của Đảng trong lĩnh vực
pháp luật nói chung và lĩnh vực khiếu nại về THADS nói riêng.
3.1.2. Bảo đảm yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính
Nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải ban hành và thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp và chiến lược cải cách hành chính phù hợp với
quá trình đổi mới công tác lập pháp và chương trình cải cách hành chính.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Chuẩn bị điều kiện về cán bộ,
cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý
công tác thi hành án. Xác định rõ trách nhiệm của ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn và của cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trong việc thi hành các hình phạt không phải là hình phạt tù để thực hiện
nghiêm túc các bản án của tòa án. Từng bước thực hiện việc xã hội hóa và
86
quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan
nhà nước thực hiện một số công việc thi hành án.”[5]
Cùng với cải cách tư pháp thì cải cách hành chính cũng là chủ trương lớn
của Đảng và nhà nước ta. Ngày 08/01/2011, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 30c/NQ-CP ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2011-2020. Một trong những nội dung cơ bản của cải cách
hành chính là: “Xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ
trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực,
hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của
Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước; Bảo đảm thực hiện trên
thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con
người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước; Xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu
cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.”[11]
Cải cách tư pháp, cải cách hành chính là một trong những yêu cầu chung
của công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Hoạt động
THADS là một nội dung của hoạt động nhà nước, là một bộ phận của hoạt
động tư pháp, mang tính chất hành chính – tư pháp, nên hoạt động THADS có
mối quan hệ mật thiết đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước, nhất là hoạt
động tư pháp. Hoạt động THADS mặc dù không phải là một khâu trong quá
trình tố tụng của các cơ quan tư pháp nhưng nó lại có ảnh hưởng rất lớn đến
hiệu quả hoạt động của các cơ quan này. Do đó, đảm bảo thực hiện pháp luật
THADS nói chung và quy định của pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện quyền
khiếu nại về THADS nói riêng cũng là một trong những biện pháp để đẩy
mạnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong
sạch, vững mạnh và nó phải được đặt trong tổng thể của cải cách tư pháp, cải
cách hành chính.
87
3.1.3. Bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong quá trình thực hiện quyền
khiếu nại và giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp
luật mà còn chứa đựng những nội dung chính trị xã hội và con người. Vì vậy,
bảo đảm cho pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu
khách quan của quá trình xây dựng nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân và cũng là yêu cầu của quá trình hoàn thiện con người và các
quyền của họ trong xã hội, đặc biệt trong quản lý hành chính nhà nước.
Bảo đảm nguyên tắc pháp chế là quan điểm cần được quán triệt sâu sắc
trong quá trình tổ chức, hoạt động THADS nói chung và giải quyết khiếu nại
về THADS nói riêng. Đây là nguyên tắc xuyên suốt toàn bộ hoạt động
THADS từ giai đoạn xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật
THADS, xử lý nghiêm khắc hành vi vi phạm pháp luật THADS, từ việc phân
loại, xử lý đơn khiếu nại đến thụ lý giải quyết và thực hiện quyết định giải
quyết khiếu nại. Do đó, các quy định của pháp luật THADS phải được tuân
thủ và nghiêm chỉnh chấp hành. Cơ quan THADS phải có trách nhiệm tổ chức
thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định của Tòa án. Mọi vi phạm pháp
luật THADS từ phía cơ quan THADS, Chấp hành viên, các tổ chức, cá nhân
có liên quan phải bị xử lý nghiêm, kịp thời.
3.1.4. Bảo đảm quyền khiếu nại của công dân về thi hành án dân sự
Về nguyên tắc, mọi người có quyền khiếu nại với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết
khiếu nại. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Trong lĩnh vực THADS, thì khiếu nại về THADS là việc cá nhân, tổ
chức theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định yêu cầu cơ quan có thẩm
88
quyền xem xét lại các quyết định, hành vi của thủ trưởng cơ quan THADS,
Chấp hành viên mà cá nhân, tổ chức khiếu nại cho rằng quyết định, hành vi
đó là trái pháp luật, đã xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Những
người được quyền khiếu nại về THADS khi họ có tư cách của người được thi
hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực
tiếp đến thi hành án cụ thể.
Việc giải quyết khiếu nại phải bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
tổ chức, cá nhân bị xâm phạm, đồng thời phải hạn chế tình trạng khiếu nại
vượt cấp, lợi dụng quyền khiếu nại làm cản trở hoạt động của cơ quan nhà
nước, bảo đảm quyền lợi của đương sự tham gia vào hoạt động THADS.
3.1.5. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong giải quyết
khiếu nại về thi hành án dân sự
Giải quyết khiếu nại nói chung cũng như giải quyết khiếu nại về THADS
nói riêng từ trước tới nay luôn là vấn đề được Đảng và nhà nước ta rất quan
tâm. Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại về THADS là góp phần bảo
đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Luật khiếu nại với việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân: Mặc
dù Luật khiếu nại đã có nhiều quy định bảo đảm quyền công dân, quyền con
người trong hoạt động khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Tuy nhiên, các văn
bản này vẫn được ban hành trên cơ sở quy định của Hiến pháp 1992 (sửa đổi,
bổ sung năm 2011). Trong đó, quyền khiếu nại mới cơ bản dừng lại ở “quyền
công dân”. Hiến pháp 2013 đã khẳng định quyền khiếu nại là quyền con
người. Giờ đây, không chỉ “công dân có quyền khiếu nại” mà “mọi người có
quyền khiếu nại”.
Bảo đảm quyền con người trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại về THADS. Đặc thù của công tác THADS luôn liên quan và ảnh hưởng
89
trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, do đó để thực
hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại về cơ cấu tổ chức các cơ quan THADS
đều có bộ phận làm công tác giải quyết khiếu nại. Ngoài những yêu cầu chung
về nâng cao nhận thức, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại cũng cần phải rà soát, hoàn thiện thể chế nội bộ
về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại.
3.2. Giải pháp
3.2.1. Giải pháp chung
3.2.1.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật liên quan đến quyền khiếu nại về
thi hành án dân sự
Tổng cục THADS – Bộ Tư pháp làm đầu mối nghiên cứu, tổng hợp ý
kiến của các cơ quan THADS địa phương để hoàn thiện hệ thống pháp luật về
THADS; pháp luật liên quan đến quyền khiếu nại về THADS và các văn bản
pháp luật có liên quan; ban hành các quy chế, quy định cụ thể về trình tự, thủ
tục thực hiện công việc với công dân, tạo sự đồng bộ, nâng cao tính khả thi,
hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật; chấn chỉnh, tăng cường công tác
quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực; thực hiện tốt công tác cải cách hành
chính, tạo điều kiện thuận lợi để công dân tham gia vào hoạt động quản lý nhà
nước và thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ công dân; đẩy mạnh công tác thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí và phòng, chống tham nhũng nhằm tạo ra môi
trường pháp lý lành mạnh, hài hòa, tạo động lực mới trong phát triển kinh tế -
xã hội và hạn chế phát sinh khiếu nại về thi hành án dân sự.
Để thực hiện tối đa hóa quyền khiếu nại của con người về THADS, cần
phải tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại về
THADS. Do vậy, nhất thiết phải sớm ban hành đầy đủ, đồng bộ pháp luật về
quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong về THADS, tạo cơ sở pháp lý
vững chắc để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong việc khiếu nại:
90
Một là: Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, bổ sung các
quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ (trách nhiệm) của người khiếu
nại trong trường hợp họ khiếu nại không có căn cứ, nội dung sai sự thật. Thực
tế cho thấy, nhiều trường hợp người dân cố tình lợi dụng quyền khiếu nại để
khiếu nại về THADS làm kéo dài thời gian phải thi hành án, tìm cách tẩu tán
tiền, tài sản, gây khó khăn, cản trở trong quá trình giải quyết thi hành án, làm
mất lòng tin của người dân vào cơ quan THADS. Như vậy, rất cần biện pháp
cụ thể để răn đe đối với những trường hợp này, không làm phát sinh thêm
những khiếu nại không có căn cứ, sai sự thật.
Hai là: Cần bổ sung quy định bằng văn bản hướng dẫn trong ngành
THADS về việc giải quyết đơn có tiêu đề tố cáo nhưng nội dung thực chất là
khiếu nại, đơn có tiêu đề là khiếu nại nhưng thực chất là tố cáo; phải quy định
cụ thể về trình tự giải quyết, thủ tục và người thẩm quyền để giải quyết. Giải
quyết theo tiêu đề hay giải quyết theo nội dung đơn đó là một lựa chọn khó
khăn. Bởi giải quyết theo thủ tục tố cáo sẽ dẫn đến kết quả khác mà giải quyết
theo thủ tục khiếu nại sẽ dẫn đến một kết quả khác. Trong khi đó người có
thẩm quyền giải quyết tố cáo không thể giải quyết khiếu nại và ngược lại, vì
phải bảo đảm nguyên tắc bảo vệ bí mật thông tin người tố cáo trong giải quyết
tố cáo. Do đó, cần có quy định bằng văn bản pháp luật cụ thể để cơ quan
THADS lựa chọn được biện pháp giải quyết phù hợp, hợp lòng dân.
Ba là: Kiến nghị xem xét sửa đổi Điều 146 Luật THADS, theo hướng
tăng thêm thời hạn về giải quyết khiếu nại, được như vậy sẽ tạo điều kiện tâm
lý tốt cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, không còn bị áp lực lớn
về thời hạn giải quyết khiếu nại. Theo đó, cũng quy định về trách nhiệm của
người giải quyết khiếu nại phải gắn với chất lượng giải quyết, có thể hiểu là
tăng thời hạn giải quyết để chất lượng giải quyết cũng phải tăng lên, đảm bảo
91
việc xem xét giải quyết khiếu nại của đương sự được “thấu đáo” đảm bảo
quyền khiếu nại về THADS cho các đương sự.
Bốn là: Cần nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện quy định đối với thời hạn áp
dụng biện pháp cưỡng chế khi phong toả tài khoản và thời hiệu khiếu nại đối
với quyết định phong toả tài khoản. Thời hiệu khiếu nại đối với quyết định
phong tỏa tài khoản là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định,
còn thời hạn áp dụng biện pháp cưỡng chế là trong thời hạn 05 ngày làm việc,
kể từ ngày ra quyết định phong tỏa tài khoản. Quy định trên dẫn đến trường
hợp đương sự khiếu nại khi mà Chấp hành viên đã ra quyết định cưỡng chế,
do vậy gây khó khăn trong việc giải quyết khiếu nại, bởi phải khắc phục hậu
quả của việc đã thi hành quyết định cưỡng chế. Như vậy, rất cần thiết phải bổ
sung quy định chỉ áp dụng biện pháp cưỡng chế sau khi hết thời hiệu khiếu
nại đối với quyết định phong tỏa tài khoản. Tuy nhiên, sau khi hết thời hiệu
khiếu nại đối với quyết định phong tỏa tài khoản thì thời hạn áp dụng biện
pháp cưỡng chế thực tế chỉ còn 02 ngày làm việc. Thời hạn như vậy là rất
ngắn, nhất là đối với những vụ khiếu nại phức tạp, cần phải có nhiều thời gian
để tổ chức xác minh trước khi kết luận và ra quyết định cưỡng chế; do đó dễ
dẫn đến trình trạng vi phạm thời hạn áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc xác
minh, giải quyết qua loa để đúng thời hạn áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Hoàn thiện quy định của pháp luật để thực hiện quyền khiếu nại về
THADS nhất thiết phải thực hiện song song với giải quyết khiếu nại về
THADS, gắn với hoàn thiện thể chế công tác THADS và đổi mới quy trình
giải quyết khiếu nại. Vì nếu thể chế về công tác THADS có bất cập sẽ là một
trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả công tác này, từ đó khiếu nại
có thể phát sinh. Tuy nhiên, nội dung quan tâm nhất của quyền khiếu nại về
THADS là quyền lợi của các đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
92
quan trong bản án, quyết định Tòa án tuyên phải được thực hiện một cách
nghiêm túc và đầy đủ.
Năm là: Bổ sung thẩm quyền của Bộ trưởng, theo quy định tại điểm b
khoản 4 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự quy định “ Trường hợp cần thiết,
Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại đã
có hiệu lực thi hành quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này”, với những
quy định như trên thì Bộ trưởng chỉ có thẩm quyền xem xét đối với quyết
định có hiệu lực của Thủ trưởng cơ quan THADS cấp tỉnh và Thủ trưởng cơ
quan quản lý THADS, không có thẩm quyền xem xét đối với quyết định đã có
hiệu lực đối với hành vi áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án (được
quy định từ Điều 66 đến Điều 69 của Luật THADS) của Thủ trưởng cơ quan
THADS cấp huyện, bởi vì theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 140 Luật
THADS thì khiếu nại đối với hành vi này chỉ giải quyết một lần và có hiệu
lực thi hành ngay. Do đó, đề xuất sửa quy định tại điểm b khoản 4 Điều 142
Luật THADS theo hướng “ Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có
quyền xem xét lại các quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành.
Như vậy mới không bỏ sót đối với quyết định giải quyết khiếu nại hành vi của
Chấp hành viên cấp huyện khi thực hiện các biện pháp bảo đảm.
3.2.1.2. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng,
trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại về THADS
Thực tiễn cho thấy vai trò của cấp ủy Đảng trong vấn đề lãnh đạo và chỉ
đạo là rất quan trọng, nơi nào cấp ủy Đảng quan tâm chỉ đạo, kiểm tra, đôn
đốc thì nơi đó có sự chuyển biến rõ rệt về công tác chuyên môn cũng như
công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại và đã đem lại hiệu quả thiết thực;
nơi nào thiếu sự quan tâm, kiểm tra, đôn đốc thì nơi đó chất lượng công tác
này sẽ bị hạn chế rất nhiều. Từ đó, để quyền khiếu nại về THADS được đảm
bảo thì không những trong quá trình tổ chức THADS cần phải chặt chẽ, đúng
93
quy định pháp luật mà trong công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại về
THADS phải đạt kết quả tốt. Cấp ủy Đảng của các cơ quan, ban, ngành nói
chung và cấp ủy Đảng các cơ quan THADS phải luôn quán triệt các quan
điểm chỉ đạo của Trung ương Đảng, nhất là Chỉ thị 35-CV/TW ngày
26/5/2014 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác tiếp công dân giải quyết khiếu nại, tố cáo coi đây là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên, đồng thời tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc đối
với công tác này.
3.2.1.3. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác
thi hành án dân sự
Việc nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ công chức là một việc làm
thường xuyên, liên tục và mang tính kế thừa. Hiện nay đất nước ta đang trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề chất lượng nguồn nhân lực đang là
một vấn đề hết sức quan trọng cần phải được chú trọng. Nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực là điều kiện cần và đủ đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế
khu vực và quốc tế. Thực tiễn cho thấy những năm qua, đất nước ta nói chung
và công tác THADS nói riêng đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Có
được những thành tựu đó là do có sự đóng góp rất lớn công sức, trí tuệ của
đội ngũ cán bộ, công chức.
Chất lượng nguồn nhân lực thực chất là khả năng thực thi công vụ của
đội ngũ cán bộ, công chức một cách có hiệu quả; năng lực cán bộ, công chức
là khả năng về thể chất và trí tuệ trong việc thực hiện các nhiệm vụ; điều đó
bao gồm: kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, nhân cách, năng khiếu cá nhân,
các yếu tố tiềm năng hoặc thiên bẩm để nâng cao năng lực làm việc. Chính vì
vậy để nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức cần phải có sự tác
động bằng nhiều yếu tố bao gồm cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan;
đồng thời cần phải áp dụng đồng bộ các giải pháp trong một thời gian dài mà
94
không thể tiến hành trong thời gian ngắn được, đồng thời việc nâng cao chất
lượng cho đội ngũ công chức cần phải được tiến hành theo từng thời kỳ, từng
giai đoạn lịch sử, phù hợp với nhu cầu công việc của từng thời kỳ khác nhau.
3.2.2. Giải pháp cụ thể đối với các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình
3.2.2.1. Thủ trưởng cơ quan THADS, cán bộ làm công tác tham mưu cần
phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật, Quy chế nghiệp vụ của ngành
trong thực hiện quyền khiếu nại về THADS
Các yếu tố để bảo đảm quyền khiếu nại về THADS của các bên đương
không chỉ được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận ở các quyền và nghĩa vụ của
người khiếu nại mà quyền này còn thể hiện ở trách nhiệm của các cơ quan
THADS, của những người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Do đó, cần
phải thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật, Quy chế nghiệp vụ của
ngành trong hoạt động giải quyết khiếu nại về THADS là yêu cầu khách quan,
đòi hỏi những người có trách nhiệm, có thẩm quyền phải tự giác, nghiêm
chỉnh thực hiện. Cụ thể như: thực hiện đầy đủ chế độ giải quyết khiếu nại;
trách nhiệm tiếp công dân, giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền, trách
nhiệm chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại. Nhiều trường hợp do thiếu
trách nhiệm, né tránh, chưa giải quyết kịp thời các khiếu nại để người khiếu
nại đi lại nhiều lần gây bức xúc và mất niềm tin vào các cơ quan pháp luật
nên họ gửi đơn đến cả các cơ quan không có thẩm quyền giải quyết ở Trung
ương của Đảng, Nhà nước. Do vậy, thực hiện đầy đủ chế độ trách nhiệm giải
quyết khiếu nại sẽ góp phần làm giảm các khiếu nại bức xúc, kéo dài. Bảo
đảm cho người khiếu nại, người bị khiếu nại thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa
vụ của mình theo quy định của pháp luật.
3.2.2.2. Nâng cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu; đào tạo, bồi
dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác giải quyết khiếu nại về THADS
95
Để quyền khiếu nại của các đương sự về THADS được đảm bảo thực
hiện thì Thủ trưởng cơ quan THADS cần phải nâng cao trách nhiệm trong
việc phân loại đơn, xác định nội dung và nguyên nhân của việc khiếu nại, nắm
bắt nguyện vọng của người khiếu nại để chủ động đề ra những biện pháp giải
quyết cho phù hợp, làm rõ đúng sai, phân công trách nhiệm của từng cá nhân,
ấn định thời hạn để giải quyết thích hợp. Đối với việc khiếu nại do nguyên
nhân khách quan, liên quan đến các ngành, các cấp thì cần tập hợp đầy đủ các
thông tin, những vấn đề vướng mắc để kiến nghị với cơ quan liên quan, báo
cáo Ban chỉ đạo THADS, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp, Bộ Tư pháp để
kịp thời chỉ đạo giải quyết.
Đối với những vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ
quan THADS địa phương cần xem xét thì phải thụ lý, lập thủ tục giải quyết
kịp thời, ngay tại nơi phát sinh, không để khiếu nại vượt cấp, kéo dài. Trong
quá trình giải quyết khiếu nại cần tôn trọng quyền của người khiếu nại, không
được định kiến, xem thường, thờ ơ hoặc có các biểu hiện khác. Đối với các
khiếu nại không thuộc thẩm quyền hoặc khiếu nại nội dung không rõ ràng thì
chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết hoặc chuyển trả cho người
khiếu nại, đồng thời hướng dẫn cụ thể để người khiếu nại tiếp tục thực hiện
quyền khiếu nại của mình theo luật định.
Đối với cán bộ, công chức làm công tác tham mưu giải quyết khiếu nại
phải có trình độ chuyên môn vững vàng, nắm chắc các quy định của pháp
luật, có tinh thần trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp và đồng thời phải tuân thủ
các thủ tục, quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo được quy định tại Quy chế
nghiệp vụ của ngành. Do đó, cần chú trọng đào tạo Thẩm tra viên, tập trung
bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ về công tác kiểm tra, tiếp dân, xử lý giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực THADS.
96
Tổng cục THADS cần thiết mở các lớp tập huấn cho tất cả công chức làm
công tác giải quyết khiếu nại về THADS, những quy định của pháp luật về
THADS, đặc biệt là pháp luật khiếu nại về THADS tại Học viện Tư pháp – cơ
sở đào tạo và nghiên cứu khoa học trực thuộc Bộ Tư pháp. Từ đó, tạo điều
kiện thuận lợi cho công chức làm công tác THADS thực hiện đúng những quy
định của pháp luật về thi hành án, pháp luật khiếu nại về THADS hạn chế đến
mức thấp nhất những khiếu nại phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án.
3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại
về THADS, cần nắm bắt và nhận diện các chủ thể khiếu nại về THADS là
những người tham gia các tổ chức tín ngưỡng để có phương án tiếp dân,
hướng dẫn thực hiện quyền khiếu nại phù hợp
Phải đổi mới về nhận thức, bởi đổi mới về nhận thức là tiền đề, là điều
kiện để đổi mới toàn bộ công tác khiếu nại về THADS. Để đổi mới khâu này,
trước mắt cần củng cố việc tổ chức tiếp công dân thường xuyên của các cơ
quan THADS. Tại địa điểm tiếp công dân, cần công khai hóa các thủ tục hành
chính về tiếp công dân, về thực hiện quyền khiếu nại về THADS. Thủ trưởng
cơ quan THADS cần bố trí những người có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ.
Đặc biệt, nên bố trí đội ngũ cán bộ tiếp công dân am hiểu đường lối, chủ
trương, chính sách, pháp luật, có kiến thức về xã hội, hiểu biết tâm lý để tiếp
công dân phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương mình, trong đó quy định
rõ mối quan hệ nơi tiếp công dân với các cơ quan chức năng, tổ chức thông
tin kịp thời để thông báo tình hình kết quả giải quyết, trả lời cho dân, tránh
việc đùn đẩy hứa hẹn suông mà không giải quyết dứt điểm các việc khiếu nại
của công dân.
Thực tế, tại địa bàn tỉnh Quảng Bình đã có nhiều trường hợp chủ thể
khiếu nại về THADS là các giáo dân quá khích lợi dụng các buổi tiếp dân để
kích động, quấy rối, đưa ra những đòi hỏi quá đáng, phi lý…đẩy cán bộ tiếp
97
dân vào thế bị động, lúng túng để từ đó tạo điều kiện cho các phần tử xấu, có
cơ hội nói xấu chính quyền, xuyên tạc sự thật, tung tin thất thiệt gây mất lòng
tin trong nhân dân. Trong những trường hợp này, cán bộ tiếp dân phải thật
tỉnh táo, tránh nóng giận, điềm tĩnh giải thích, giải quyết có tình có lý. Trường
hợp cần thiết phải có biện pháp trấn áp thích đáng nhưng phải đảm bảo không
vi phạm pháp luật.
Công tác tiếp dân sẽ phát huy hiệu quả, quyền khiếu nại của đương sự về
THADS sẽ được đảm bảo khi lãnh đạo, cán bộ, Chấp hành viên quan tâm sâu
sát, có tâm, có tầm, có trách nhiệm, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách
nhiệm trước Đảng, trước dân. Đồng thời cũng cần lên án tình trạng né tránh,
đùn đẩy trách nhiệm, việc thuộc thẩm quyền ở cơ quan đơn vị mình lại không
chịu tiếp dân để giải quyết mà đùn đẩy lên cấp trên. Kết quả là vụ việc kéo
dài, người dân phải vất vả, tốn kém thời gian, tiền bạc một cách không đáng
có. Và trên hết, việc tiếp dân phải dựa trên cơ sở những chủ trương, quy định
mang tính xuyên suốt và cơ bản của nhà nước cấp Trung ương và địa phương.
3.2.2.4. Yêu cầu nâng cao dân trí pháp lý, ý thức tôn trọng pháp luật của
chủ thể thực hiện quyền khiếu nại về THADS
Qua số liệu thống kê và đánh giá tình hình khiếu nại về THADS tại các
cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình cho thấy, có đến 90% các đơn khiếu nại
của công dân trong lĩnh vực THADS là không được chấp nhận, do khiếu nại
không có cơ sở. Việc khiếu nại, không dựa trên những hiểu biết về quy định
của pháp luật, mà chủ yếu dựa trên sự mong muốn của đương sự được giải
quyết theo hướng có lợi cho họ hoặc lợi dụng quyền dân chủ để khiếu nại tràn
làn, vượt cấp, vượt thẩm quyền, khiếu nại nhiều lần mặc dù đã được giải
quyết hết cấp thẩm quyền, đúng quy định pháp luật.
Do đó, quá trình đổi mới đất nước, xây dựng “nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa” và một “xã hội công dân” bên cạnh việc xây dựng một hệ
98
thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh
tế - xã hội, cần phải xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức
tôn trọng pháp luật, tự nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật,
có tinh thần bảo vệ pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật.
3.2.2.5. Tăng cường sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS; sự phối hợp
của các cơ quan hữu quan trong việc thực hiện quyền khiếu nại về THADS
Thực tiễn hoạt động THADS và việc thực hiện quyền khiếu nại về
THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình cho thấy, để đạt được kết
quả khả quan, hoàn thành tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao thì trước hết
công tác chỉ đạo, phối hợp của Ban Chỉ đạo THADS, sự quan tâm phối hợp
của các cơ quan hữu quan với cơ quan THADS là rất quan trọng. Mối quan hệ
phối hợp ở đây phải được xác định bao gồm quan hệ phối hợp trong công tác
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quan hệ phối hợp trong hoạt động tác nghiệp
nghiệp vụ, báo cáo tổng hợp. Quan hệ phối hợp có tác dụng hỗ trợ tích cực
cho các công việc được tiến hành thuận lợi, là yếu tố rất quan trọng trong giải
quyết đúng đắn các vụ việc thi hành án, cũng như trong giải quyết đúng đắn
các việc đảm bảo quyền khiếu nại về THADS của công dân.
3.2.2.6. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại về THADS của đương sự
Quá trình hoạt động THADS tại các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình
cho thấy một phần các vụ việc có khiếu nại phát sinh của đương sự là do chưa
thỏa mãn với nội dung bản án, quyết định của Tòa án. Có thể nói, quá trình tổ
chức thi hành án phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng của các giai đoạn trước
đó như giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Nếu các bản án xét xử không công
minh, không khả thi, có nhiều sai sót, không áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời,…thì đến giai đoạn THADS sẽ không được thực hiện hiệu quả, vì
vậy cần nâng cao chất lượng cũng như trách nhiệm của các cơ quan này hơn
99
nữa. Mặt khác, khiếu nại là cách thức để người dân tự bảo vệ mình trước
những quyết định, hành vi của cá nhân, tổ chức có thẩm quyền xâm hại trực
tiếp hay gián tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, nếu các cơ
quan thay mặt Nhà nước để giải quyết việc cho công dân không có được sự tự
nguyện, không dám chịu trách nhiệm, không dám nhận lỗi và lảng tránh, trì
hoãn trách nhiệm của mình thì không chỉ công dân lại thêm một lần bị thiệt
thòi mà quyền lợi theo các bản án, quyết định của Tòa án cũng không được
đảm bảo, quyền khiếu nại về THADS không được thực hiện đầy đủ.
3.2.2.7. Kịp thời xây dựng, ban hành nội quy, quy chế giải quyết khiếu
nại về THADS; công khai các thủ tục hành chính về khiếu nại THADS
Hiện nay, Tổng cục THADS đã ban hành Quy chế giải quyết khiếu nại, tố
cáo về THADS (kèm theo Quyết định số 1318/QĐ- TCTHADS ngày
30/9/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục THADS), đây là căn cứ pháp lý để
các cơ quan THADS áp dụng thực hiện. Tuy nhiên, để công tác giải quyết
khiếu nại đạt hiệu quả cao nhất, đảm bảo quyền khiếu nại về THADS, phù
hợp với từng cơ quan, đơn vị có liên quan trong phối hợp giải quyết khiếu nại
thì cơ quan THADS mỗi cấp cần thiết phải ban hành nội quy, quy chế giải
quyết khiếu nại đối với cơ quan, đơn vị mình.
Mặt khác, cần thực hiện nghiêm túc cơ chế một cửa, hỗ trợ trực tuyến,
công khai thủ tục hành chính tại các cơ quan THADS (theo Quyết định số
536/QĐ-TCTHADS ngày 11/5/2017 của Tổng cục trưởng, Tổng cục
THADS về việc triển khai hỗ trợ trực tuyến THADS; Quyết định số 537/QĐ-
TCTHADS ngày 11/5/2017 của Tổng cục trưởng, Tổng cục THADS về việc
ban hành và triển khai cơ chế một cửa tại các cơ quan THADS) tạo điều kiện
cho tổ chức, công dân giải quyết thủ tục hành chính trong lĩnh vực THADS,
hạn chế tối đa những vấn đề tiêu cực trong giải quyết khiếu nại, hồ sơ thi hành
100
án, giúp tổ chức, công dân tiết kiệm được thời gian, kinh phí đi lại để giải
quyết thủ tục hành chính...
3.2.2.8. Kiện toàn tổ chức của các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình
Cần giao đủ biên chế cho Phòng kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
của cơ quan THADS cấp tỉnh, vì đây là phòng chuyên môn tham mưu cho
Lãnh đạo Cục THADS tỉnh trong việc giải quyết khiếu nại về THADS. Khi
xác định nhu cầu tăng biên chế cần có sự so sánh, tính toán khối lượng công
việc để tăng biên chế đủ đáp ứng yêu cầu công việc. Quan trọng hơn thế, cần
chú ý chất lượng của cán bộ được tăng cường trong thời gian tới. Cần chú
trọng tăng cường những công chức đã có nhiều kinh nghiệm trong công tác
giải quyết khiếu nại, những công chức đã có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ
chức thi hành án, nắm vững quy trình tổ chức thi hành án… Bên cạnh các yếu
tố liên quan đến chuyên môn nghiệp vụ thì người làm công tác giải quyết
khiếu nại cũng phải là người có phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị
vững vàng để không va vấp trong việc xử lý công việc vốn liên quan trực tiếp
đến nhiều người dân.
Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy của các Chi cục THADS cấp huyện
tiến tới mỗi Chi cục sẽ có một cán bộ chuyên trách về công tác tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại về THADS. Thực tiễn công tác này trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình cho thấy chủ yếu là do cán bộ kiêm nhiệm nhiều công việc khác
nhau nên sẽ rơi tình trạng quá tải công việc, dẫn đến tình trạng chậm trễ trong
việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại về THADS ở một số vụ việc, gây bức
xúc cho đương sự.
3.2.2.9. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ quan
THADS nhằm hạn chế những sai phạm trong hoạt động THADS
Thực tiễn, công tác THADS và giải quyết khiếu nại về THADS tại các
cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình vẫn còn những hạn chế, tồn tại ảnh hưởng
101
đến việc thực hiện quyền khiếu nại về THADS của các bên đương sự là trong
hoạt động thanh tra, kiểm tra của cơ quan quản lý THADS, Thủ trưởng cơ
quan THADS có lúc, có nơi chưa được thường xuyên, sâu sát và chặt chẽ. Do
đó, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới
như: Tổng cục THADS đối với Cục THADS, Cục THADS đối với Chi cục
THADS, Lãnh đạo Chi cục THADS đối với người chịu trách nhiệm tham
mưu giải quyết khiếu nại. Cũng như tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
của Viện kiểm sát nhân dân đối với THADS. Nhất là những nơi có nhiều đơn
thư khiếu nại hoặc khiếu nại phức tạp, kéo dài, khiếu nại vượt cấp, đông
người để làm rõ trách nhiệm của tập thể, cá nhân, kiên quyết xử lý những
trường hợp vi phạm.
3.2.2.10. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
về THADS, pháp luật khiếu nại về THADS và các văn bản có liên quan để các
chủ thể khiếu nại nắm rõ và thực hiện quyền khiếu nại về THADS
Cán bộ, Chấp hành viên các cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình cần tiếp
tục thực hiện tốt Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (Khóa IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân; Quyết định số 486/QĐ-BTP ngày 03/03/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư
pháp và Kế hoạch số 930/KH-TCTHADS của Tổng cục THADS về việc
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về THADS
nói riêng nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật của công chức, người lao động trong cơ quan THADS và nhân dân,
nhất là những người được thi hành án, người phải thi hành án và các đối
tượng có liên quan. Các cơ quan THADS phải xác định công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ của mình. Vì vậy,
cần phải thường xuyên đổi mới hình thức, phương pháp phổ biến, giáo dục
102
pháp luật phù hợp với từng đối tượng; các hoạt động tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, hướng về cơ
sở; phải bám sát nội dung, yêu cầu theo quy định của Luật phổ biến, giáo dục
pháp luật và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Các nhiệm vụ
trọng tâm của ngành và chương trình, đề án để phổ biến, giáo dục pháp luật
phải được triển khai phù hợp với từng cấp, từng địa phương. Các cơ quan
THADS phải phát huy vai trò chủ động, phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp,
Phòng Tư pháp và các cơ quan liên quan triển khai có hiệu quả công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về THADS. Việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật cần gắn với công tác bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ công chức và các phong trào thi đua của
Ngành do Bộ và Tổng cục phát động.Tập trung phổ biến Luật THADS năm
2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành, chú trọng tuyên truyền Luật sửa đổi,
bổ sung một số Điều của Luật THADS có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015.
Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 17-CT/TW ngày 15/10/2007 của Ban Bí thư
Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác tuyên truyền miệng trong tình hình mới. Đổi mới phương pháp tuyên
truyền, giới thiệu văn bản luật theo hướng tăng cường trao đổi, đối thoại giải
đáp những thắc mắc từ phía người được tuyên truyền nhằm nâng cao tính chủ
động tìm hiểu và tiếp cận kiến thức pháp luật của công chức trong ngành
THADS và nhân dân.
103
Tiểu kết chương 3
Để thực hiện tốt quyền khiếu nại nói chung và quyền khiếu nại về
THADS nói riêng, trước hết cần phải bảo đảm quán triệt chủ trương, đường
lối của Đảng; yêu cầu của cải cách tư pháp, cải cách hành chính; bảo đảm
nguyên tắc pháp chế trong quá trình giải quyết khiếu nại về THADS. Muốn
nâng cao hiệu quả của công tác này cần thực hiện tốt các giải pháp như: Hoàn
thiện pháp luật về THADS, pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực
THADS; thực hiện đầy đủ các quy định của pháp luật, Quy chế nghiệp vụ của
ngành trong giải quyết khiếu nại về THADS; kiện toàn tổ chức của cơ quan
THADS; nâng cao vai trò trách nhiệm của người đứng đầu; đào tạo, bồi
dưỡng trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác giải quyết khiếu nại về THADS; nâng cao hiệu quả trong công tác
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại về THADS; tăng cường hơn nữa sự lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, Thủ trưởng cơ quan
trong công tác giải quyết khiếu nại về THADS; nâng cao chất lượng của đội
ngũ công chức THADS như biện pháp ngăn ngừa khiếu nại; tăng cường sự
chỉ đạo của Ban Chỉ đạo THADS, mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan
THADS với các cơ quan hữu quan, đặc biệt là Viện Kiểm sát, Tòa án nhân
dân và các cơ quan tư pháp khác về giải quyết khiếu nại trong hoạt động
THADS; nâng cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người
tiến hành tố tụng; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về THADS; đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Các giải pháp này
phải được thực hiện một cách đồng bộ sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả trong giải quyết khiếu nại, nhằm đảm bảo quyền khiếu nại về THADS
của công dân, của con người theo tinh thần của Hiến pháp đã quy định.
104
KẾT LUẬN
Khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân, được Hiến
pháp, pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Việc ghi nhận quyền khiếu
nại của công dân đã tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền cơ bản
của mình. Và bên cạnh các quy định pháp lý để công dân thực hiện quyền
khiếu nại của mình thì Luật khiếu nại cũng như Luật THADS cũng đã có
những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại nói chung và
giải quyết khiếu nại về THADS nói riêng để công tác này đảm tính khách
quan, công minh, công bằng và dân chủ nhằm đảm bảo quyền lợi của các
đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đây là vấn đề quan trọng
được quan tâm cũng như phải đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết mà đã và
đang được Đảng, Nhà nước, các cơ quan hữu quan quan tâm, làm sao để việc
thực hiện quyền khiếu nại và giải quyết khiếu nại về THADS đối với những
vụ việc khiếu nại tồn đọng, kéo dài, khiếu nại vượt cấp một cách có hiệu quả
và dứt điểm.
Trong những năm qua công tác giải quyết khiếu nại về THADS tại các
cơ quan THADS tỉnh Quảng Bình đã khẳng định vai trò to lớn của mình trong
việc thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước, trong đó vấn đề quyền khiếu nại về THADS của các đương sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan luôn được quan tâm và chú trọng, góp
phần cùng các ngành, các cấp chung sức thực hiện chiến lược cải cách tư
pháp, cải cách hành chính ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, hiện nay tại các cơ
quan THADS tỉnh Quảng Bình vẫn còn những tồn tại trong giải quyết khiếu
nại về THADS làm ảnh hưởng đến quyền khiếu nại của công dân, mà cụ thể
là quyền của người được thi hành án, người phải thi hành án và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Với nghiên cứu “Quyền khiếu nại về thi hành
105
án dân sự - Từ thực tiễn các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình”
luận văn đã làm rõ một số vấn đề sau:
- Hệ thống hóa được những lý luận cơ bản của đề tài thông qua việc trình
bày rõ lý luận và pháp lý quyền khiếu nại về THADS.
- Từ thực tiễn công tác THADS, giải quyết khiếu nại về THADS đã đánh
giá được thực trạng quyền khiếu nại về THADS tại các cơ quan THADS tỉnh
Quảng Bình giai đoạn từ năm 2013 - 2017.
Trên cơ sở phản ánh, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện
quyền khiếu nại, chất lượng công tác giải quyết khiếu nại về THADS trên địa
bàn tỉnh Quảng Bình đã đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, của các bên
đương sự hay chưa.
- Đã phản ánh rõ và chỉ ra những kết quả đạt được trong thực hiện quyền
khiếu nại về THADS của các bên đương sự tại các cơ quan THADS tỉnh
Quảng Bình.
- Phân tích những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc thực
hiện quyền khiếu nại về THADS của các bên đương sự.
- Thực hiện quyền khiếu nại về THADS là một quyền cơ bản của công
dân nhưng công tác giải quyết khiếu nại về THADS là một hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước. Việc giải quyết tốt vấn đề khiếu nại có vai trò thúc
đẩy hoàn thiện về cơ chế hành chính, xây dựng một nền hành chính vững
mạnh, trong sạch, chuyên nghiệp, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nhất là chúng
ta đang trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, trọng tâm là bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, đảm bảo quyền
công dân, quyền con người theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và pháp
luật đã được ghi nhận.
- Xuất phát từ những căn cứ mang tính thực tiễn kết hợp với các nội
dung đã được làm rõ. Luận văn đã đưa ra những quan điểm, đặc biệt đã đề
106
xuất được các giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại về
THADS của người dân, của các đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong lĩnh vực THADS nói chung và tại các cơ quan THADS tỉnh
Quảng Bình nói riêng.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả đã vận dụng những kiến thức
lý luận đã được tiếp thu từ sách báo, quá trình học tập tại Học viện và tìm
hiểu thực tế tại địa phương. Tuy nhiên, do còn hạn chế về thời gian, điều kiện
nghiên cứu thực tế có những khó khăn nhất định, nội dung nghiên cứu và các
giải pháp nêu trên đòi hỏi phải có thời gian kiểm nghiệm. Vì vậy, những đóng
góp của luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết, hạn chế nhất định.
Tác giả luận văn mong nhận được những ý kiến đóng góp của các nhà khoa
học, các thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp để tiếp tục nghiên cứu, bổ sung,
hoàn thiện đề tài.
107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Thế Anh (2013), Giám sát thi hành án dân sự, mã số 62380101,
Luận án Tiến sĩ Luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2007), Chỉ thị 17-CT/TW ngày 15/10/2007
về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyên
truyền miệng trong tình hình mới.
3. Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa IX), Chỉ thị số 32-CT/TW ngày
09/12/2003 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân.
4. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình (2010), Chỉ thị số 34-CT/TU ngày
09/02/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác THADS
trên địa bàn tỉnh.
5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
6. Bộ Chính trị (2014), Chỉ thị 35-CT/TW ngày 26/5/2014 về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo.
7. Bộ Tư pháp (2014), Quyết định số 486/QĐ-BTP ngày 03/03/2014 về việc
ban hành kế hoạch công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải cơ sở
và chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân sở tại năm 2014.
8. Bộ Tư pháp (2014), Tạp chí dân chủ và pháp luật số chuyên đề: Bảo đảm
quyền con người và quyền công dân bằng thiết chế tư pháp, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp (2016), Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 quy
định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản
ánh trong thi hành án dân sự.
10. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (2013), Quy chế số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-
VKSNDTC ngày 09/10/2013 về phối hợp liên ngành trong công tác thi
hành án dân sự.
11. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/01/2011 ban
hànhchương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-
2020.
12. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân
sự.
13. Cục THADS tỉnh Quảng Bình (2013, 2014, 2015, 2016, 2017), Báo cáo
tổng kết công tác THADS các năm 2013, 2014, 2015, 2016, 2017.
14. Cục THADS tỉnh Quảng Bình (2013, 2014, 2015, 2016, 2017), Báo cáo
các vụ việc khiếu nại, tố cáo về THADS các năm 2013, 2014, 2015, 2016,
2017.
15. Cục Thi hành án dân sự tỉnh, Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án
nhân dân (2015), Quy chế số 449/2015/QCLN/CTHADS-CA-VKSND-
TAND ngày 25/01/2015.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/02/2002 củaBộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác
tư pháp thời gian tới.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
25/4/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việ Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020.
19. Đảng cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới
và hội nhập (Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII), NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
20. Phan Huy Hiếu (2012), Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự, Luận văn
Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Luận văn thạc sĩ “Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực thi hành án dân sự
ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Tuấn, năm 2016.
22. Luận văn thạc sĩ “Khiếu nại và giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền
của Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Công Toàn,
năm 2012.
23. Luận văn thạc sĩ “Nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại tại
Tổng cục Thi hành án dân sự” của tác giả Lê Thị Kim Dung, năm 2009.
24. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
25. Quốc hội (2011), Luật khiếu nại năm 2011.
26. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 111/2015/QH13 về công tác phòng,
chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát nhân
dân, Tòa án nhân dân và công tác THADS năm 2016 và các năm tiếp
theo.
27. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
28. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật thi hành án
dân sự.
29. Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học – Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
30. Nguyễn Như Ý (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
31. Tổng cục thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp (2013), Quy chế giải quyết
khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự (Ban hành kèm theo Quyết định số
1318/QĐ- TCTHADS ngày 30/9/2013 của Tổng cục trưởng Tổng cục thi
hành án dân sự).
32. Tổng cục thi hành án dân sự, Kế hoạch số 930/KH-TCTHADS về việc
tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật.
33. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2015), Thông báo số 314/TB-UBND
ngày 02/04/2015 về kết quả rà soát giải quyết khiếu nại trên địa bàn tỉnh.
34. Từ điển Anh – Việt (1990) Nhà xuất bản Đồng Nai.
35. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ
Tư pháp, Bộ Quốc phòng (2014), Hướng dẫn số 24/HD-VKSTC-
TATC-BCA-BTP-BQP ngày 06/5/2014 về việc phân loại đơn khiếu nại, tố
cáo trong hoạt động tư pháp.