BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

…/…

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BÙI THỊ MỸ LINH

TÔ CHỨC THỰC HIỆN CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - NĂM 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/………… …/…

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BÙI THỊ MỸ LINH

TÔ CHỨC THỰC HIỆN CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ THANH THÚY

HÀ NỘI – NĂM 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng

tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Bùi Thị Thanh Thúy. Các số

liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác

và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa

từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Thị Mỹ Linh

LỜI CẢM ƠN

Sau thời gian học tập và nghiên cứu, để hoàn thành luận văn đề tài “Tổ

chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình”,

tôi đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo Học viện

Hành chính Quốc gia Hà Nội cũng như sự quan tâm, ủng hộ của gia đình, bạn

bè, đồng nghiệp.

Lời đầu tiên, tôi xin chân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Đào tạo

sau Đại học Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội, các thầy cô giáo đã tham

gia quản lý, giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.

Với tất cả tấm lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc nhất, tôi xin gửi lời

cảm ơn tới Tiến sĩ Bùi Thị Thanh Thúy, người đã hướng dẫn rất tận tình, luôn

dành cho tôi những ý kiến đóng góp quý báu và thiết thực nhất để tôi có thể

hoàn thành công trình nghiên cứu này một cách tốt nhất.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và các đồng nghiệp đang công

tác tại cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình đã không ngừng hỗ trợ và

tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu

cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.

Tuy có nhiều cố gắng nhưng về mặt kiến thức và thời gian còn hạn chế,

luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong được sự đóng góp ý

kiến của các thầy cô và mọi người để luận văn hoàn thiện hơn.

Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm

TÁC GIẢ

Bùi Thị Mỹ Linh

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC THỰC

HIỆN CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .......................................... 9

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi

hành án dân sự ............................................................................................ 9

1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự ....................................... 9

1.1.2. Khái niệm tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ......... 11

1.1.3. Đặc điểm của tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ... 13

1.1.4. Vai trò của tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ........ 16

1.2. Nội dung và các yếu tố ảnh hƣởng đến tổ chức thực hiện cƣỡng chế

thi hành án dân sự .................................................................................... 18

1.2.1. Nội dung tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự .......... 18

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân

sự ............................................................................................................ 28

Tiểu kết chƣơng 1 ......................................................................................... 33

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN CƢỠNG CHẾ THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH ..................... 34

2.1. Tình hình kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc phòng tỉnh Ninh

Bình và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình .................................. 34

2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc

phòng tỉnh Ninh Bình có ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện cưỡng chế

thihành án dân sự .................................................................................... 34

2.1.2. Khái quát về Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình .................. 36

2.2. Tình hình tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án dân sự trên địa

bàn tỉnh Ninh Bình ................................................................................... 39

2.2.1. Lập kế hoạch, ban hành văn bản triển khai cưỡng chế thi hành án

dân sự...................................................................................................... 39

2.2.2. Triển khai thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ...................... 42

2.2.3. Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự ................................................................................................. 46

2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cưỡng chế thi hành án dân sự

................................................................................................................ 47

2.2.5. Sơ kết, tổng kết, đánh giá thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự . 49

2.3. Đánh giá chung .................................................................................. 51

2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân .............................................................. 54

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân .............................................................. 55

Tiểu kết chƣơng 2 ......................................................................................... 61

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC

THỰCHIỆN CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC

TIỄNTỈNH NINH BÌNH ............................................................................. 62

3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án

dân sự ......................................................................................................... 62

3.1.1. Bảo đảm chặt chẽ về mặt thủ tục trong tổ chức thực hiện cưỡng

chế thi hành án dân sự ............................................................................ 62

3.1.2. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, tổ chức và hiệu quả

quản lý nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành

án dân sự ................................................................................................. 63

3.2. Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án dânsự . 64

3.2.1. Giải pháp chung ............................................................................ 64

3.2.2. Giải pháp với tỉnh Ninh Bình ....................................................... 69

Tiểu kết chƣơng 3 ......................................................................................... 77

KẾT LUẬN ................................................................................................... 79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 82

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chấp hành viên CHV

Hội đồng nhân dân HĐND

Phổ biến giáo dục pháp luật PBGDPL

Thi hành án THA

Thi hành án dân sự THADS

Uỷ ban nhân dân UBND

Viện Kiểm sát nhân dân VKSND

Văn bản quy phạm pháp luật VBQPPL

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Kết quả THADS về việc giai đoạn 2016 - 2020. ........................... 42

Bảng 2.2: Kết quả THADS về tiền giai đoạn 2016 - 2020. ............................ 43

Bảng 2.3: Thống kê các việc THADS phải tổ chức cưỡng chế giai đoạn

2016-2020 ....................................................................................................... 45

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thi hành án dân sự (THADS) – là một loại hình thi hành án, có vai trò

quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và trong quá trình giải quyết

các vụ án nói riêng. Công tác THADS là khâu cuối của quá trình tố tụng, bảo

đảm cho những bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra tổ chức thi hành

trên thực tế, góp phần bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, tăng cường

hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ

nghĩa, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mặt khác,

THADS còn là công cụ hữu hiệu để khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp

của công dân bị xâm hại. Hiệu quả của hoạt động THADS tác động trực tiếp

đến lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật.

Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, không phải bản án,

quyết định có hiệu lực nào của cơ quan có thẩm quyền cũng có thể được tổ

chức thi hành một cách thuận lợi. Tình trạng đương sự và các bên liên quan

không tự nguyện thi hành án, chống đối việc thi hành các bản án, quyết định

của tòa án vẫn đang diễn ra ngày càng phức tạp. Đây là nguyên nhân chủ yếu

dẫn đến việc tồn đọng, kéo dài các vụ án, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm

quyền trong việc thực thi pháp luật. Do đó, để đảm bảo công lý được thực thi,

để hiện thực hóa các quyền, nghĩa vụ được ghi nhận trong Bản án, quyết định

của Tòa án cũng như các quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được

thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự, thì bên cạnh việc thuyết phục đương

sự tự nguyên thi hành án, trong nhiều trường hợp, cơ quan THADS phải thực

hiện cưỡng chế THADS.

Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án là hoạt động thường xuyên

được thực hiện trong công tác thi hành án dân sự, được áp dụng khi các

1

đương sự không tự nguyện thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực của

Tòa án. Hiệu quả của hoạt động cưỡng chế ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả

công tác thi hành án. Mặt khác, hoạt động tổ chức cưỡng chế thi hành án có

ảnh hưởng không nhỏ đến các quan hệ xã hội của người được thi hành án,

người phải thi hành án, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong bản án.

Chính vì vậy, trong mọi trường hợp đòi hỏi Chấp hành viên – người được

Nhà nước giao quyền ra quyết định cưỡng chế THADS phải đề cao trách

nhiệm, công tâm, khách quan, nắm vững pháp luật và có tư tưởng, bản lĩnh

vững vàng.

Đến nay công tác THADS toàn quốc nói chung và công tác THADS trên

địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng vẫn còn tình trạng án tồn đọng kéo dài, số vụ

khiếu nại ngày càng diễn ra phức tạp, số lượng tiền phải thi hành lớn, người

phải thi hành án luôn tìm cách trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án, gây khó

khăn và kéo dài việc thi hành án.

Nhìn từ kết quả đạt được trong quá trình thi hành án của cơ quan

THADS tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2016–2020 đã có những chuyển biến tích

cực về cả lượng và chất khi số lượng án và tiền phải thi hành giảm rõ rệt.Tuy

nhiên số vụ việc còn tồn đọng cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi

hành án dân sự vẫn ở mức cao và diễn biến trong quá trình cưỡng chế phức

tạp, sự chống đối ngày càng nhiều hình thức tinh vi, xảo quyệt từ phía người

phải thi hành án hoặc người có nghĩa vụ liên quan gây khó khăn cho công tác

thi hành án, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội. Bên cạnh đó, năng lực thực

thi công vụ của một số Chấp hành viên (CHV) trong tổ chức thi hành án còn

hạn chế, chưa kiên quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế, tác nghiệp cưỡng

chế thi hành án còn cẩu thả, phân tích đánh giá tình hình, khả năng chống đối

của đương sự không sát với thực tiễn trong quá trình cưỡng chế dẫn đến

những sai sót trong quá trình thực hiện cưỡng chế gây hậu quả nghiêm trọng...

2

Với tất cả những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài“Tổ chức thực

hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” làm đề tài

luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, trong

những năm gần đây có nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu liên quan

đến công tác thi hành án dân sự được công bố. Cụ thể là:

- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Văn Công về “Thực

trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc

Giang”,Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012;

- Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Đình Nam về “Biện pháp

cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền trong hoạt động thi hành án dân sự trên

địa bàn thành phố Hà Nội”, Trường Đại học quốc gia Hà Nội, 2012;

- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Bùi Thị Vân Anh về “Thủ tục thi

hành án dân sự trong pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện nay”,Đại

học Quốc gia Hà Nội, 2016;

- Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Đình Kiên về “Các biện

pháp cưỡng chế thi hành án dân sự liên quan đến đất ở theo pháp luật Việt

Nam từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương”, Học viện Khoa học xã

- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Tùng về “Thực hiện

hội, 2016;

pháp luật về thi hành án dân sự ở thành phố Hà Nội hiện nay”, Viện Hàn

lâm Khoa học xã hội Việt Nam – Học viện Khoa học xã hội, 2016;

- Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Anh Tuấn “Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam” , Đại học Luật

Hà Nội, 2017;

3

- Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lương Ngọc Hưng về “Cưỡng chế thi

hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Nam Định”, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội

Việt Nam – Học viện Khoa học xã hội, 2018.

- Luận án Tiến sĩ của tác giả Bùi Đức Tiến về “ Thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam” , Học viện Chính trị Quốc

gia Hồ Chí Minh, 2018;

- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Đào Thị Thanh Hòa về “Cưỡng

chế thi hành án dân sự, Từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự thành phố

Hải Dương, tỉnh Hải Dương”,Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020.

Bên cạnh đó là Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam của trường

Đại học luật Hà Nội và các trường Đại học có chuyên ngành luật; một số bài

viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành có liên quan đến THADS và cưỡng

chế THADS như:

- "Kỹ năng áp dụng các biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự và

kỹ năng cưỡng chế thi hành án dân sự" của tác giả Lê Anh Tuấn, 2012;

- “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự

hiện nay”, Tạp chí dân chủ pháp luật, Số chuyên đề về thi hành án dân sự,

Tr.15; Lê Võ Hồng Hạnh, 2013;

- “Một số vấn đề về cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản là quyền sử dụng

đất”, Tạp chí Tòa án nhân dân, 20, tr 26; Lê Hùng Cường, 2017

- “Các biện pháp cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền theo quy

định của Luật thi hành án dân sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, 02,

tr 31; Trần Phương Thảo, 2018

- “Nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí dân chủ

pháp luật, Nguyễn Thị Trang, 2018...

4

Nhìn chung, thi hành án dân sự là đề tài không mấy mới mẻ nhưng cho

đến nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách

toàn diện để giải quyết. Các công trình nghiên cứu trên đã ít nhiều làm sáng tỏ

những vấn đề lý luận và thực tiễn của tổ chức thực hiện công tác thi hành án

dân sự. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và

toàn diện hệ thống những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức thực hiện cưỡng

chế thi hành án dân sự tại một địa phương cụ thể là tỉnh Ninh Bình một cách

toàn diện, chuyên sâu, và trong điều kiện pháp luật thi hành án dân sự đã có

sự thay đổi về căn bản như hiện nay. Mặc dù vậy các công trình nghiên cứu

khoa học đã được công bố trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để

nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án

dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” nhằm đáp ứng các yêu cầu cấp bách

của thực tiễn trong công tác Thi hành án dân sự địa phương.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về tổ chức

thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự, nêu ra những hạn chế và bất cập của

chế định cưỡng chế thi hành án dân sự trong thực tiễn thực hiện. Từ đó, đề

xuất giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự của

tỉnh Ninh Bình nói riêng và thi hành án dân sự trên cả nước nói chung trong

giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Một là, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và pháp lý về tổ

chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.

Hai là, đánh giá chân thực và toàn diện thực trạng tổ chức thực hiện

cưỡng chế thi hành án dân sự và các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức cưỡng chế

5

thi hành án dân sự tại tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn 2016 - 2020, từ đó phân

tích những kết quả đạt được và những hạn chế, tồn đọng, nguyên nhân dẫn

đến những vấn đề đó trong việc tổ chức thực hiện cưỡng chế trên địa bàn tỉnh

Ninh Bình từ thực tiễn.

Ba là, đề xuất các phương hướng và giải pháp kịp thời có tính lâu dài

nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành

án dân sự cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề cơ bản

như sau:

- Những vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về tổ chức thực hiện cưỡng chế

thi hành án dân sự, gồm: “Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung và các yếu

tố ảnh hưởng đến tổ chức thưc hiện cưỡng chế THADS”.

- Các quy định của pháp luật hiện hành và các văn bản pháp luật khác có

liên quan đến tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.

- Thực tiễn tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn

tỉnh Ninh Bình thông qua các số liệu cụ thể.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận

và pháp lý cơ bản về tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự và thực tiễn

tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự gắn với chủ thể là cơ quan thi

hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (bao gồm: Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh

Bình và 08 Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thành phố trực thuộc).

Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ năm 2016 đến năm 2020.

6

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận

Phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Triết học

Mác- Lê nin; Quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước;

Tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu và tổng hợp, phương pháp thống kê, phương

pháp phân tích đối chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp tổng kết rút

kinh nghiệm.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn nghiên cứu toàn diện những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ

chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.

Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện cưỡng chế thi

hành án dân sự và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tổ chức thực hiện

cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Các đề xuất của

luận văn góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn tổ chức

thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo phục vụ

cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng về tổ chức thực hiện

cưỡng chế thi hành án dân sự, cũng có thể sử dụng là tài liệu phục vụ trong

giảng dạy, cho các hoạt động nghiên cứu về tổ chức thực hiện cưỡng chế thi

hành án dân sự nói riêng, trong lĩnh vực thi hành án nói chung.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn

được cơ cấu thành 3 chương như sau:

7

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức thực hiện cưỡng chế thi

hành án dân sự.

Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.

Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện

cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình.

8

Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi

hành án dân sự

1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự

Ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ “thi hành án dân sự” (THADS) được

hiểu là tổng hợp các hoạt động nghiệp vụ của cơ quan thi hành án nhằm mục

đích bảo đảm việc thi hành trên thực tiễn các bản án, quyết định của Toà án

về phần nghĩa vụ dân sự của các bên và các quyết định khác theo một trình

tự, thủ tục chặt chẽ được pháp luật quy định.

Trong hoạt động thi hành án, các bên đương sự có quyền tự thỏa thuận

với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định

của Tòa án. Tự nguyện thi hành án đã trở thành như một nguyên tắc, một biện

pháp phổ biến trong thi hành án dân sự. Trường hợp sau khi đương sự đã

được chấp hành viên giải thích nghĩa vụ của mình, có đủ điều kiện để thi hành

án nhưng lại tìm mọi cách để trì hoãn, trốn tránh không thi hành trách nhiệm

của mình thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế thi hành.

Cũng như cưỡng chế nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự cũng xuất

phát từ yêu cầu, nguyên tắc chung là sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc cá

nhân, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm theo bản án, quyết định đã

có hiệu lực của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm đảm bảo tính phòng

ngừa, răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật tiếp tục diễn ra hoặc

buộc chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phải bồi thường thiệt hại, khắc

phục hậu quả đã gây ra và các biện pháp khác do pháp luật quy định.

9

Về nguyên tắc, cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ đặt ra khi đương sự

không tự nguyện tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Do đó, mục đích của cưỡng chế thi

hành án dân sự là nhằm buộc người phải thi hành án thi hành đúng nghĩa vụ

theo bản án, quyết định của Tòa án nếu họ có điều kiện thi hành mà không tự

nguyện thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả của việc cưỡng chế

thi hành án dân sự thì pháp luật cần quy định cụ thể về cơ quan có thẩm

quyền cưỡng chế; các biện pháp cưỡng chế được áp dụng; trình tự, thủ tục

cưỡng chế… Qua những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm cưỡng chế thi

hành án dân sự như sau: Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng

bức bắt buộc của cơ quan thi hành án do Chấp hành viên thực hiện theo thẩm

quyền, nhằm buộc người phải thi hành án thực hiện những hành vi hoặc

nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng trong

trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án, đã được thông

báo hợp lệ, đã hết thời gian tự nguyện thi hành án mà không tự nguyện thi

hành hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán,

hủy hoại tài sản.

Khái niệm của cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện mục đích của hoạt

động cưỡng chế thi hành án dân sự là đảm bảo thi hành quyền và nghĩa vụ của

các bên đương sự và người có quyền, lợi ích liên quan theo nội dung bản án,

quyết định đã có hiệu lực thi hành của Tòa án. Do đó, có thể nhận diện bản

chất của cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động của chủ thể có thẩm

quyền sử dụng quyền lực nhà nước làm chấm dứt, hạn chế quyền sở hữu,

quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án hoặc buộc

người phải thi hành án thực hiện hành vi hợp pháp hay chấm dứt hành vi vi

phạm pháp luật trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật

bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành án (ví dụ: Khấu trừ tiền trong tài

10

khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; Trừ vào

thu nhập của người phải thi hành án; Kê biên, xử lý tiền tài sản của người

phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; Khai thác tài sản của

người phải thi hành án; Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không

được thực hiện công việc nhất định; Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền

tài sản, giấy tờ).

1.1.2. Khái niệm tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

Hoạt động tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự được luận văn

nghiên cứu dưới góc độ các hoạt động của cơ quan nhà nước, người có thẩm

quyền trong việc triển khai thực hiện các quy định pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự trong thực tế đời sống xã hội. Vì vậy, để làm rõ khái niệm “tổ

chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự” trước tiên cần luận giải thuật

ngữ “tổ chức thực hiện pháp luật”.

Trong khoa học pháp lý, pháp luật được nghiên cứu dưới hai phương

diện. Phương diện thứ nhất là pháp luật trong trạng thái “tĩnh” hay pháp luật

được thể hiện dưới dạng văn bản. Theo Hiến pháp 2013, pháp luật theo

phương diện này bao gồm các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật

(VBQPPL): Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết

của Ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các

VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng, thủ trưởng cơ

quan ngang bộ và chính quyền địa phương các cấp. Đây là pháp luật được

hình thành chủ yếu do hoạt động lập pháp của Quốc hội và hoạt động lập quy

của hệ thống các cơ quan hành pháp.

Phương diện thứ hai là pháp luật trong trạng thái “động” hay gọi là pháp

luật trong hành động, pháp luật trong cuộc sống. Pháp luật theo phương diện

này là sự tuân theo pháp luật của các chủ thể trong đời sống Nhà nước và đời

sống xã hội, được hình thành bằng hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của

11

các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền. Giống như phương diện thứ

nhất, phương diện này cũng được quy định trong Hiến pháp. Theo đó, tổ chức

thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu để pháp luật từ trạng thái

“tĩnh” trở thành trạng thái “động”, làm cho pháp luật không còn nằm trên các

trang công báo mà đi vào cuộc sống. Như vậy, hoạt động lập pháp, lập quy để

hình thành một hệ thống VBQPPL và hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật là

hai mặt không tách rời của pháp luật. Nếu như không tiến hành tổ chức thi

hành pháp luật thì pháp luật chỉ tồn tại trên giấy. Ngược lại, không có những

quy định của pháp luật trong các trang công báo thì cũng không có việc tổ

chức thực hiện những quy định pháp luật này. Trong nhà nước pháp quyền,

thượng tôn pháp luật không thể không coi trọng một cách đồng bộ cả hai

phương diện này của pháp luật. Nhất là trong điều kiện của nước ta, khi mà ý

thức pháp luật và văn hóa pháp lý của nhiều người dân còn thấp thì việc tổ

chức thi hành pháp luật càng giữ vai trò đặc biệt quan trọng.

Vì vậy, tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS là làm cho những quy định

của pháp luật chuyển từ trạng thái “tĩnh” sang trạng thái “động”, là hoạt động

để hiện thực hóa kết quả của hoạt động lập pháp, lập quy trong thực tiễn. Hay

nói cách khác, tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS chính là việc đưa những

quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự vào vận hành trong thực

tiễn đời sống xã hội, là quá trình tiến đến mục tiêu của nhà làm luật nhằm sử

dụng công cụ pháp luật để quản lý, thúc đẩy sự phát triển xã hội theo xu thế

tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống, phát huy hiệu quả của pháp luật.

Công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự trên thực tế là

quá trình người có thẩm quyền nhân danh quyền lực nhà nước ra quyết định

cưỡng chế thi hành án dân sự và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế trong

thực tế bằng việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp

luật, qua đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật

12

trong thi hành án dân sự. Tuy nhiên, mức độ hiệu quả của việc tổ chức thực

hiện cưỡng chế còn phụ thuộc vào chất lượng của hoạt động lập pháp, ban

hành luật và giám sát thực hiện luật của Quốc hội. Ngoài ra, còn bị ảnh hưởng

bởi các chủ thể khác như tổ chức kinh tế, xã hội, công dân khi các chủ thể này

tổ chức thực hiện phản biện và giám sát xã hội, thực hiện quyền kiến nghị,

phát hiện, tố cáo, khiếu nại. Một số các yếu tố khác như trình độ dân trí, ý

thức tuân thủ, chấp hành pháp luật của công dân và công tác phối hợp của các

cơ quan, sở, ban ngành có liên quan cũng có ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ

đến quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự trong thực tế.

Từ những phân tích trên có thể khẳng định: Tổ chức thực hiện cưỡng chế

thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan Nhà nước và người có thẩm

quyền nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự, làm cho những quy định này vận hành trong đời sống thực tiễn xã

hội theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm đảm bảo thi hành

nghiêm chỉnh bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án.

1.1.3. Đặc điểm của tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

Theo tác giả nghiên cứu thì tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân

sự là giải pháp cuối cùng khi đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự

nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định dân sự có hiệu

lực thi hành. Với mục đích là thi hành các nghĩa vụ dân sự nên việc tổ chức

thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự có các đặc điểm cơ bản như sau:

Thứ nhất, việc tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS thể hiện quyền lực

của Nhà nước và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước.

Đặc điểm này được thể hiện ở chỗ chỉ có cá nhân thuộc cơ quan chức

năng của Nhà nước hoặc người thuộc tổ chức được Nhà nước trao quyền mới

có thẩm quyền tổ chức thực hiện cưỡng chế. Ở nước ta, thẩm quyền tổ chức

13

cưỡng chế thi hành án dân sự do Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự

đảm nhiệm theo quy định của Luật THADS.

Quyền lực nhà nước được thể hiện thông qua tổ chức thực hiện cưỡng

chế thi hành án bằng việc CHV ban hành quyết định cưỡng chế buộc cá nhân,

tổ chức nhất định phải chấp hành để thi hành bản án, quyết định được thi hành

theo thủ tục thi hành án dân sự. Quyết định cưỡng chế có tính chất bắt buộc

thi hành, không phụ thuộc vào ý chí của đương sự.

Tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS là hoạt động nhằm đảm bảo cho

các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm

minh trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án chính là kết quả của Hội

đồng xét xử trong việc phán xét một hành vi vi phạm pháp luật, xác định hậu

quả pháp lý của nó. Như vậy, tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

là sự hiện thực hóa các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án song lại phụ

thuộc vào chất lượng của bản án, quyết định đó. Đặc điểm này cho phép lý

giải một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng tồn đọng án là do những

bản án, quyết định không có tính khả thi trên thực tế.

Thứ hai, tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động thể

hiện tính chủ động, tinh thần trách nhiệm, tính quyết đoán và sáng tạo của

Chấp hành viên.

Hoạt động tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ do

cơ quan THADS tiến hành mà còn có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có

liên quan khác. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS, Chấp

hành viên giữ vai trò trung tâm, nắm quyền quyết định.

Khi tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS, Chấp hành viên luôn có vai

trò chủ đạo, nhất là trong khâu xác minh khả năng thi hành án, phân tích,

đánh giá mức độ chống đối của người phải thi hành án và người thân của họ.

14

Ngoài ra, chấp hành viên được quyền lựa chọn các biện pháp cưỡng chế cần

áp dụng để tổ chức thi hành. Khi cưỡng chế Chấp hành viên phải nghiên cứu

kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ bản chất pháp lý và lựa chọn biện pháp cưỡng

chế phù hợp với thực tiễn. Đặc điểm này đòi hỏi Chấp hành viên phải có trình

độ năng lực chuyên môn vững vàng và kỹ năng thực tiễn tổ chức cưỡng chế

thi hành án.

Bên cạnh đó, CHV phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả của việc

thi hành các biện pháp cưỡng chế. Quá trình cưỡng chế THADS phải tính

toán kỹ lưỡng, thận trọng mọi khía cạnh, mọi tình tiết, lựa chọn biện pháp

cưỡng chế phù hợp và tổ chức thực hiện cưỡng chế có hiệu quả. Trong quá

trình cưỡng chế có nhiều tình huống bất ngờ có thể xảy ra, đòi hỏi chấp hành

viên phải linh hoạt, thận trọng, quyết đoán… để tránh mắc phải những sai

lầm, gây thiệt hại nghiêm trọng về vật chất cũng như xâm hại đến quyền con

người của công dân.

Thứ ba, tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự vẫn phải đảm

bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự.

Thi hành án dân sự chủ yếu là thi hành các quyết định của Tòa án mang

tính chất tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự, vì vậy, quyền tự định đoạt và

thỏa thuận của đương sự luôn được tôn trọng trong suốt quá trình thi hành án,

kể cả khi đã ra quyết định tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.

Mặc dù việc tổ chức cưỡng chế được thực hiện khi người phải thi hành án

không tự nguyện thi hành, nhưng sau khi cơ quan THADS áp dụng biện pháp

cưỡng chế, người phải thi hành án vẫn có quyền thỏa thuận với người được

thi hành án về việc hoãn tổ chức cưỡng chế để tự nguyện thi hành án; thậm

chí ngay trước khi mở cuộc đấu giá tài sản đã bị kê biên, người phải thi hành

án vẫn có quyền nhận lại tài sản của mình sau khi nộp đủ tiền thi hành án

15

cùng các chi phí liên quan... Chính vì sự tôn trọng quyền tự định đoạt của

đương sự nên trong một số trường hợp, chủ thể có thẩm quyền có thể lựa

chọn biện pháp thích hợp để việc thi hành án được nhanh chóng, đạt hiệu quả

trên cơ sở thỏa thuận của các đương sự.

Thứ tư, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải

tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.

Trong cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên là chủ thể có thẩm

quyền được giao trách nhiệm trực tiếp thi hành các bản án, quyết định có hiệu

lực pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự

thì vấn đề quan trọng nhất là Chấp hành viên phải tuân thủ những nguyên tắc,

điều kiện, trình tự pháp luật quy định nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước,

quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ví dụ: Chấp hành viên phải tuân thủ

trình tự thủ tục về kê biên tài sản, giao bảo quản tài sản sau kê biên, thẩm định

giá tài sản sau kê biên để đưa ra bán đấu giá,…

Việc vi phạm các quy trình, thủ tục đã được quy định trong pháp luật sẽ

làm cho việc tổ chức thực hiện cưỡng chế có thể bị vô hiệu hoặc có thể gây

phản tác dụng, thậm chí gây ra những thiệt hại nặng nề.

1.1.4. Vai trò của tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm hiện thực hóa các

quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đi vào cuộc sống và trở

thành các hành vi thực tế của đương sự, các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên

quan trong thi hành án dân sự. Vì vậy, từ thực tiễn tổ chức thực hiện cưỡng

chế thi hành án dân sự có thể khái quát một số vai trò cơ bản của tổ chức thực

hiện cưỡng chế THADS như sau:

16

Thứ nhất, tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự góp phần hiện

thực hóa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, bảo đảm an

ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tính nghiêm minh và sự thượng tôn pháp

luật, tăng cường được pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý Nhà nước góp

phần bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự theo nội dung

bản án, quyết định của Tòa án qua đó tăng cường niềm tin của người dân với

pháp luật, với chế độ.

Thứ hai, qua việc tích cực xử lý các khoản nợ xấu theo đơn yêu cầu của

các tổ chức tín dụng, tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS có vai trò trực tiếp

góp phần lành mạnh hóa nền kinh tế, giảm lãi suất cho vay, khơi thông nguồn

lực tài chính, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ ba, cưỡng chế THADS góp phần nâng cao trình độ năng lực chuyên

môn, bản lĩnh nghề nghiệp của đội ngũ Chấp hành viên và cán bộ làm công

tác THADS. Qua thực tiễn cho thấy cưỡng chế THADS có tính đặc thù và

phức tạp, với nhiều mối quan hệ đan xen, nhiều tình huống thực tế khó lường

trước đối với từng trường hợp cụ thể. Chính vì thế, thông qua thực tiễn người

CHV ngày càng tích lũy được kinh nghiệm, càng vững vàng trong xử lý tình

huống, tinh thông về nghiệp vụ góp phần nâng cao trình độ năng lực chuyên

môn, bản lĩnh nghề nghiệp của đội ngũ CHV và cán bộ làm công tác THADS.

Tóm lại, tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS có vai trò vô cùng quan

trọng, vì cưỡng thế THADS có tính đặc thù, nhiều khó khăn, phải xử lý nhiều

mối quan hệ phức tạp, nhiều tình huống khó lường trước, mục tiêu là phải áp

dụng đúng pháp luật. Chính vì thế, thực tiễn công tác tổ chức thực hiện cưỡng

chế THADS góp phần rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh, ý thức, trách nhiệm,

trình độ nghiệp vụ của CHV và các cán bộ làm công tác THADS.

17

1.2. Nội dung và các yếu tố ảnh hƣởng đến tổ chức thực hiện cƣỡng

chế thi hành án dân sự

1.2.1. Nội dung tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

1.2.1.1.Lập kế hoạch, ban hành văn bản triển khai cưỡng chế thi hành

án dân sự

Cưỡng chế thi hành án là vấn đề cực kỳ phức tạp và hết sức khó khăn,

không chỉ đơn thuần là công tác nghiệp vụ của cơ quan Thi hành án và các

lực lượng tham gia cưỡng chế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, trật tự

và nhiều mặt khác của đời sống xã hội. Việc cưỡng chế thường tiến hành tại

nơi có tài sản, nơi ở, nơi làm việc của đương sự. Tại đây có gia đình, họ hàng,

làng xóm, người thân.... nên đương sự có điều kiện lôi kéo, tụ tập, huy động

nhiều đối tượng, lực lượng tham gia chống đối, cản trở việc thi hành án. Để

thực hiện tốt công tác cưỡng chế thi hành án dân sự, hạn chế tối đa những sai

sót của Chấp hành viên thì vấn đề có tính quyết định là công tác chuẩn bị tổ

chức cưỡng chế, trong đó việc lập kế hoạch, ban hành văn bản triển khai là

giai đoạn đầu tiên, đồng thời là cơ sở để tiến hành các hoạt động tiếp theo.

Cần thực hiện các bước sau:

Thứ nhất, công tác xác minh trước khi tổ chức cưỡng chế thi hành án:

Xác minh điều kiện thi hành án là điều kiện bắt buộc và là yếu tố quyết

định cho việc thực hiện cưỡng chế thành công hay không thành công. Công

tác xác minh điều kiện thi hành án phải được thực hiện một cách khoa học,

toàn diện và đầy đủ, chi tiết tới từng nội dung và phù hợp theo đúng yêu cầu

đặt ra của từng việc cưỡng chế thi hành án cụ thể.

Theo quy định tại Điều 44 Luật THADS năm 2008 ( sửa đổi, bổ sung

năm 2014) và Điều 9 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính

phủ: trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà

18

người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì CHV tiến hành xác minh;

trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải

tiến hành xác minh ngay. Người phải thi hành án phải kê khai trung thực,

cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ

quan THADS và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình [40, tr.48].

Khi tiến hành xác minh trước khi tổ chức cưỡng chế, chấp hành viên cần

lưu ý một số nội dung sau: xác minh về nhân thân, về gia đình và quan hệ xã

hội của đối tượng phải thi hành án; xác minh đặc điểm, thái độ của người phải

thi hành án; xác minh về thái độ, quan điểm của chính quyền, các tổ chức ở

địa phương và của dư luận nhân dân đối với vụ án và đối với người phải thi

hành án; xác minh về điều kiện địa hình và giao thông nơi phải tổ chức cưỡng

chế thi hành án. Kết quả xác minh là cơ sở để Chấp hành viên nhận định và

đánh giá tình hình thực tế để từ đó xây dựng kế hoạch cưỡng chế phù hợp và

hiệu quả.

Thứ hai, lựa chọn biện pháp cưỡng chế:

Điều 13 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy

định: căn cứ nội dung bản án, quyết định; dựa trên cơ sở tính chất, mức độ,

nghĩa vụ thi hành án; xét điều kiện của người phải thi hành án; xét đề nghị của

đương sự và tình hình thực tế của địa phương, chấp hành viên sẽ lựa chọn

việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thích hợp.

Ví dụ:

- Dựa trên cơ sở tính chất, mức độ nghĩa vụ thi hành án để lựa chọn biện

pháp cưỡng chế như: Với nghĩa vụ thi hành án là tiền thì có thể khấu trừ tài

khoản, khấu trừ thu nhập, thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi

hành án.

- Dựa trên điều kiện của người phải thi hành án để lựa chọn biện pháp

cưỡng chế như: Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành

19

án và gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có tài sản

khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi

hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án.

Việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án có vai trò rất quan trọng

và cần được xem xét, cân nhắc kỹ để bảo đảm thực hiện đúng pháp luật và

hiệu quả, tránh gây ảnh hưởng xấu dẫn tới khiếu kiện của đương sự. Trong

trường hợp cần thiết, các biện pháp cưỡng chế có thể được thay đổi để phù

hợp với tình hình thực tế.

Thứ ba, xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án:

Nội dung này được quy định chi tiết tại Điều 72 Luật THADS, theo đó,

Chấp hành viên xây dựng kế hoạch cưỡng chế trong trường hợp cần huy động

lực lượng. Luật cũng quy định rõ trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay, còn trong

mọi trường hợp Chấp hành viên phải xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án.

Tuy nhiên, trên thực tế, tùy thuộc vào loại biện pháp cưỡng chế được sử

dụng, Chấp hành viên sẽ quyết định có cần lập hay không lập kế hoạch cưỡng

chế. Ví dụ, đối với biện pháp cưỡng chế khấu trừ thu nhập của người phải thi

hành án hoặc trừ vào tiền trong tài khoản của người phải thi hành án thì chấp

hành viên không cần lập kế hoạch cưỡng chế vì đây là những biện pháp cưỡng

chế đơn giản, việc lập kế hoạch cưỡng chế là rất hình thức, tốn thời gian.

Nội dung của kế hoạch cưỡng chế thi hành án được quy định tại Khoản 2

Điều 72 Luật THADS gồm 06 nội dung là: Tên người bị áp dụng biện pháp

cưỡng chế; Biện pháp cưỡng chế cần áp dụng; Thời gian, địa điểm cưỡng chế;

Phương án tiến hành cưỡng chế; Yêu cầu về lực lượng tham gia và bảo vệ

cưỡng chế; Dự trù chi phí cưỡng chế.

Ngay sau khi xây dựng xong kế hoạch cưỡng chế và trước khi tổ chức

cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên cần gửi ngay kế hoạch cưỡng chế cho

20

VKSND cùng cấp, cơ quan Công an cùng cấp, UBND xã, phường, thị trấn

nơi tổ chức cưỡng chế và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc

cưỡng chế thi hành án để đảm bảo việc cưỡng chế được thống nhất về quan

điểm, tổ chức thành công và an toàn trong suốt quá trình thực hiện.

Khoản 4 Điều 7 Luật THADS quy định trong thời hạn 03 ngày làm

việc, kể từ ngày nhận được kế hoạch cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân

sự cùng cấp, cơ quan Công an có trách nhiệm xây dựng kế hoạch bảo vệ

cưỡng chế, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để giữ gìn trật tự, bảo vệ

hiện trường, kịp thời ngăn chặn, xử lý hành vi tẩu tán tài sản, hành vi cản trở,

chống đối việc thi hành án, tạm giữ người chống đối, khởi tố vụ án hình sự

khi có dấu hiệu phạm tội. Thực hiện phương án bảo vệ cưỡng chế trước, trong

và sau quá trình cưỡng chế.

Ngoài những nội dung chính được quy định tại Điều 72 Luật THADS,

Chấp hành viên còn xây dựng những nội dung khác có liên quan để đảm bảo

việc cưỡng chế được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả như: tóm tắt về quá trình

thi hành bản án sẽ giúp cho các cơ quan hữu quan hình dung được toàn bộ quá

trình thi hành án; chuẩn bị các phương tiện sử dụng trong cưỡng chế; phân

công nhiệm vụ cụ thể của các thành viên tham gia cưỡng chế.

Thứ tư, ban hành văn triển khai thực hiện cưỡng chế.

Theo quy định tại Điều 46 Luật THADS và Điều 13 Nghị định

62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ thì hết thời gian tự nguyện thi

hành án, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện

thi hành án thì bị cưỡng chế. Khi đó, CHV ra quyết định áp dụng các biện

pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp bản án, quyết

định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành

quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.

21

Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế phải được thể hiện bằng văn

bản. Văn bản này phải được ban hành đúng thẩm quyền, tên gọi, có cơ sở

thực tế và cơ sở pháp lý, theo đúng mẫu đã quy định. Nội dung của văn bản

phải rõ ràng, chính xác, nêu rõ trường hợp cụ thể, chủ thể cụ thể và chỉ được

thực hiện một lần.

1.2.1.2. Triển khai thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

Việc triển khai thực hiễn cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm chuỗi các hoạt động như sau:

Thứ nhất, thực hiện thông báo cưỡng chế thi hành án:

Theo quy định tại Điều 39 đến Điều 43 Luật THADS hiện hành thì trong

03 ngày làm việc kể từ ngày ra Quyết định cưỡng chế, Chấp hành viên có trách

nhiệm thông báo cho người phải thi hành án, người được thi hành án và người

có nghĩa vụ liên quan biết thời gian, địa điểm, tài sản sẽ tiến hành cưỡng chế để

họ thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quyết định được thông báo. Việc thông

báo được thực hiện qua ba hình thức đó là: thông báo trực tiếp hoặc qua cơ

quan tổ chức các nhân khác theo quy định của pháp luật; thực hiện niêm yết

công khai hoặc thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Thứ hai, thực hiện cưỡng chế:

Trước khi đến địa điểm cưỡng chế, Chấp hành viên phụ trách vụ án cần

tập trung lực lượng tham gia cưỡng chế tại trụ sở UBND xã, phường, thị trấn

nơi có tài sản bị cưỡng chế hoặc tập trung tại một địa điểm thuận tiện cho việc

triển khai kế hoạch cưỡng chế. Chấp hành viên chủ trì phổ biến toàn bộ kế

hoạch cưỡng chế thi hành án, kiểm tra thành phần tham gia cưỡng chế, quán

triệt tinh thần làm việc trong buổi cưỡng chế và phân công nhiệm vụ cụ thể của

từng đơn vị, từng thành viên tham gia; nêu các tình huống có thể xảy ra và biện

pháp để xử lý tình huống đó; đề nghị đại diện cơ quan công an và đại diện

22

UBND xã, phường, thị trấn báo cáo tình hình an ninh tại địa điểm cưỡng chếvà

báo cáo kế hoạch chi tiết bảo vệ cưỡng chế nếu có phát sinh tình hình mới;

chuẩn bị đầy đủ các biên bản, văn bản cần sử dụng trước khi tiến hành cưỡng

chế, các phương tiện, điều kiện liên quan đã dự kiến phục vụ cho việc cưỡng

chế; mời những người tham gia cưỡng chế xuống địa điểm cưỡng chế làm việc.

Tại địa điểm tổ chức cưỡng chế thi hành án: Chấp hành viên chủ trì thực

hiện yêu cầu người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Trường hợp người

phải thi hành án tự nguyện thi hành hoặc người được thi hành án và người

phải thi hành án thỏa thuận được với nhau về việc thi hành án, thì chấp hành

viên xem xét việc thỏa thuận và lập biên bản về sự tự nguyện hoặc thỏa thuận

đó.Trường hợp người phải thi hành án vẫn không tự nguyện thì Chấp hành

viên thực hiện công bố quyết định cưỡng chế, giới thiệu thành phần Hội đồng

cưỡng chế và lực lượng tham gia cưỡng chế; yêu cầu các bộ phận, lực lượng

thực hiện nhiệm vụ đã được phân công; chỉ huy điều hành lực lượng làm

nhiệm vụ. Nhiệm vụ này đòi hỏi Chấp hành viên phụ trách vụ án phải có khả

năng phán đoán, bao quát toàn bộ tình hình thực hiện cưỡng chế để chủ trì

điều hành toàn bộ quá trình cưỡng chế, phân phối lực lượng tham gia một

cách chính xác, đúng người đúng việc, kịp thời xử lý mọi tình huống phát

sinh diễn ra trong quá trình cưỡng chế cho đến khi kết thúc việc cưỡng chế,

đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch trong quá trình cưỡng chế.

Kết thúc cưỡng chế thi hành án: thư ký Hội đồng thông qua các loại biên

bản, yêu cầu các thành viên Hội đồng cưỡng chế, người phải THA hoặc đại

diện gia đình, người được thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan,

người làm chứng… đọc lại biên bản và ký xác nhận vào biên bản. Trường hợp

người phải thi hành án không ký thì ghi rõ lý do vào biên bản. Biên bản vẫn

đảm bảo giá trị pháp lý.

23

Sau khi kết thúc cưỡng chế, Hội đồng cưỡng chế và lực lượng công an

làm nhiệm vụ bảo vệ cưỡng chế cùng với các thành viên tham gia cưỡng chế

tập trung đánh giá kết quả đạt được và hội ý rút kinh nghiệm về những vấn đề

chưa đạt yêu cầu trong quá trình tổ chức thực hiện.

1.2.1.3. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về cưỡng chế thi hành

án dân sự

Có một hệ thống pháp luật hoàn thiện mới chỉ là cơ sở đầu để người dân

nhận thức về pháp luật nhưng để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, Nhà

nước phải tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.

Phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) được hiểu là hoạt động có định

hướng, có tổ chức, có chủ định nhằm đạt mục đích hình thành ở đối tượng

được tác động tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với đòi hỏi của

hệ thống pháp luật hiện hành, hay nói cách khác chính là hoạt độn nhằm nâng

cao ý thức pháp luật cho nhân dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản

lý nhà nước, quản lý xã hội và nâng cao trình độ văn hóa pháp lý của công

dân. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật là cách thức tổ chức hoạt động

phổ biến, giáo dục pháp luật, cách tiến hành một hoạt động cụ thể để đạt được

mục đích hình thành ở đối tượng tình cảm, tri thức và hành vi pháp lý phù

hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Có nhiều hình thức tuyên truyền như:

Tuyên truyền miệng, Hòa giải, phát tờ gấp, trợ giúp pháp lý, câu lạc bộ pháp

luật...; tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát

thanh, truyền hình...

Trên thực tế, trong quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân

sự, để việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án đạt hiệu quả, hạn chế việc

xảy ra chống đối, quấy phá khi thực hiện cưỡng chế, Chấp hành viên giải

thích pháp luật cho đương sự, thuyết phục họ tự nguyện, thỏa thuận thi hành

án. Hoạt động thuyết phục tác động vào ý thức con người, tạo cho họ sự nhận

24

thức, tình cảm, nhu cầu xử sự theo pháp luật. Hoạt động thuyết phục, giải

thích pháp luật của Chấp hành viên chính là hoạt động tuyên truyền miệng có

hiệu quả nhất cho đương sự.

Để tổ chức thi hành cưỡng chế thành công một bản án, Chấp hành viên

không chỉ áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, mà

trong nhiều trường hợp Chấp hành viên phải vận dụng toàn bộ tri thức, kinh

nghiệm của mình về pháp luật, tâm lý, phong tục, tập quán, truyền thống văn

hóa của từng địa phương nơi người phải thi hành án, người được thi hành án,

người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sinh sống để vận động, thuyết phục

đương sự tự nguyện thi hành án. Bên cạnh công tác giáo dục thuyết phục thì

cũng cần phải kiên quyết không để tình trạng "khinh nhờn" pháp luật, coi

thường bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đang được thực thi.

Thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi

hành án dân sự sẽ góp phần nâng cao nhận thức của chính đội ngũ thực thi

pháp luật cũng như các đối tượng có liên quan đến hoạt động cưỡng chế thi

hành án dân sự sẽ tăng cường được hiệu lực, hiệu quả hơn; đảm bảo an ninh,

trật tự ở địa phương và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,

nhân dân và xã hội.

1.2.1.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong cưỡng chế thi hành án

dân sự

Hoạt động thanh tra, kiểm tra trong thi hành án dân sự là một trong

những hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan THADS đối với các mảng

công việc, Thủ trưởng cơ quan, các Chấp hành viên, công chức trong cơ quan

THADS. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, chỉ ra những sơ hở, sai sót

trong chỉ đạo ban hành chính sách, kế hoạch để các cơ quan thi hành án dân

sự kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn góp phần hoàn thành các chỉ

tiêu công tác được giao; kịp thời phát hiện những bất cập trong các quy định

25

pháp luật về Thi hành án dân sự và các quy định pháp luật có liên quan, tổng

hợp làm cơ sở để xây dựng, hoàn thiện thể chế. Thông qua kết quả thanh tra,

kiểm tra để đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác, những ưu điểm,

nhược điểm, khó khăn vướng mắc và nguyên nhân trên các mặt công tác, từ

đó đề ra biện pháp chỉ đạo điều hành nhằm khắc phục những tồn tại khó khăn

vướng mắc nâng cao trách nhiệm của công chức thực thi công vụ.

Hiện nay trong Hệ thống THADS, pháp luật về thi hành án dân sự quy

định hoạt động thanh tra, kiểm tra cho từng cấp cơ quan THADS khác nhau,

cụ thể:

Đối với cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

thực hiện hai loại hình kiểm tra gồm: Thanh tra, kiểm tra công tác THADS

đối với cơ quan THADS cấp dưới và tự kiểm tra.

Đối với cơ quan THADS cấp Chi cục thực hiện loại hình tự kiểm tra

theo chức năng, nhiệm vụ quản lý công chức nói chung.

Việc quy định cấp trên quản lý, kiểm tra công tác thi hành án đáp ứng

yêu cầu của mô hình quản lý tập trung thống nhất theo hệ thống ngành dọc;

đồng thời việc quy định mỗi cấp có các loại hình thanh tra, kiểm tra khác

nhau thể hiện vị trí, vai trò của mỗi loại hình thanh tra, kiểm tra ở mỗi cấp cơ

quan thi hành án dân sự là khác nhau.

Nguyên tắc thanh tra, kiểm tra:

Một là, việc thanh tra, kiểm tra được thực hiện trên cơ sở quyết định

thanh tra, kiểm tra của người có thẩm quyền theo kế hoạch được phê duyệt từ

đầu năm hoặc theo yêu cầu thanh tra, kiểm tra đột xuất. Đoàn thanh tra, kiểm

tra phải tuân thủ Luật Thi hành án dân sự, các văn bản pháp luật có liên quan

và Quy chế này; chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả.

Hai là, việc thanh tra, kiểm tra phải công khai, dân chủ; các đánh giá, kết

luận phải chính xác, khách quan.

26

Ba là, việc thanh tra, kiểm tra không được làm ảnh hưởng tới việc thực hiện

nhiệm vụ của đơn vị được thanh tra, kiểm tra. Trong thời gian diễn ra việc thanh

tra, kiểm tra, mọi hoạt động liên quan đến nhiệm vụ thi hành án của đơn vị được

thanh tra, kiểm tra vẫn hoạt động bình thường. Đoàn thanh tra, kiểm tra nghiên

cứu hồ sơ, sổ sách, tài liệu có liên quan.

Bốn là, kết thúc thanh tra, kiểm tra phải có kết luận về những nội dung

được thanh tra, kiểm tra để làm căn cứ khắc phục những hạn chế, sai phạm

nếu có và làm cơ sở đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc của đối tượng

thanh tra, kiểm tra để có những giải pháp về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, giải

pháp kiện toàn về tổ chức. Kết luận thanh tra, kiểm tra phải thể hiện rõ những

việc đã làm được, chưa làm được, nguyên nhân, hạn chế; những kiến nghị về

biện pháp khắc phục nhược điểm; biện pháp xử lý những tập thể, cá nhân có

sai phạm trong công tác thi hành án dân sự dự kiến sẽ đề xuất đối với người

có thẩm quyền. Các thông tin, phát ngôn liên quan đến nội dung thanh tra,

kiểm tra do Trưởng đoàn thanh tra, kiểm tra thực hiện.

1.2.1.5. Sơ kết, tổng kết, đánh giá thực hiện hoạt động cưỡng chế thi

hành án dân sự

Sơ kết, tổng kết là nhìn nhận đánh giá chung và rút ra những kết luận về

những việc đã làm được, chưa làm được, nguyên nhân và bài học kinh

nghiệm. Trong công tácthi hành án dân sựđể sơ kết, tổng kết cần thực hiện

các nội dung sau đây:

Một là, xác định thời gian, khối lượng, nội dung công việc cần đánh giá

tổng kết; so sánh mục tiêu đề ra ngay từ đầu năm và kết quả đạt được.

Hai là, tổng hợp những khó khăn, vướng mắc và đề xuất kiến nghị giải

pháp; về cơ chế, chính sách, về pháp luật, và các yếu tố tác động ảnh hưởng

đến nhiệm vụ chính trị, chuyên môn.

27

Ba là, đề xuất giải pháp, sửa đổi pháp luật, hoặc về thể chế; về cơ chế,

chính sách, về quản lý điều hành, về các vấn đề khác.

1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án

dân sự

Cưỡng chế THADS là hoạt động hết sức phức tạp, chịu sự tác động của

nhiều yếu tố khác nhau; có những yếu tố có thể làm cho việc tổ chức cưỡng

chế thi hành án không thể thực hiện được. Trong đó có cả những yếu tố chủ

quan và khách quan. Cụ thể:

Một là, hệ thống pháp luật thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định có

hiệu lực pháp luật để bảo đảm trực tiếp quyền và lợi ích hợp pháp của các

bên đương sự và cá nhân, tổ chức liên quan. Vì vậy, pháp luật là cơ sở

quan trọng để cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức, cá nhân liên quan tổ

chức thi hành án nhưng cũng là yếu tố ảnh hưởng, chi phối mang tính

quyết định đối với hiệu quả thi hành án dân sự nói chung, hiệu quả cưỡng

chế thi hành án dân sự nói riêng.

Hệ thống quy phạm pháp luật là cơ sở cho chấp hành viên, cơ quan thi

hành án dân sự, tổ chức, cá nhân liên quan áp dụng trong quá trình tổ chức

thực hiện cưỡng chế THADS được quy định trong Luật Thi hành án dân sự,

Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi

tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự và các

văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng

dân sự, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Đất đai, Luật Nhà ở....);

Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày

01/8/2016 của Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân Tối cao - Viện kiểm sát nhân

dân tối cao (VKSNDTC) hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục THADS và phối

hợp liên ngành trong THADS; Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT-BTP-

28

BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 19/5/2016 của Bộ Tư pháp - Bộ Công

an - Bộ Tài chính - Tòa án nhân dân tối cao - VKSNDTC hướng dẫn hoạt

động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự (BCĐTHADS); Thông tư liên tịch

số 200/2016/TTLT-BTC-BTP ngày 09/11/2016 của Bộ Tài chính quy định

việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ

quan THADS, kinh phí cưỡng chế THADS; Thông tư liên tịch số

03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 của Bộ Tư pháp - Bộ Công an Quy

định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong THADS; Thông tư liên tịch

số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014 của Bộ

Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Lao động thương binh xã hội, Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của

người phải THA và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để THADS; Thông tư liên

tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 1/01/2014 của

Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ lao động-thương binh và xã hội, Ngân hàng

nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập

của người phải THA và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để THADS...

Vì vậy, để hoạt động tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS đạt hiệu

quả cao thì các quy định pháp luật phải thống nhất, đồng bộ, minh bạch và khả

thi. Điều này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải không ngừng hoàn thiện

các quy định pháp luật, kịp thời bãi bỏ các quy định không khả thi, còn chồng

chéo và bổ sung thêm các quy định mới phù hợp với tình hình, yêu cầu của

công tác thi hành án (Ví dụ như trong thời gian tới cần bổ sung quy định xác

định đưa bên thứ ba (người bảo lãnh), là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan

là người phải thi hành án và họ bị cưỡng chế kê biên tài sản để THA; bổ sung

quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự đối với một số loại tài sản phù hợp

với Luật chuyên ngành và Bộ luật Dân sự, đặc biệt là những tài sản chưa quy

định trong pháp luật về thi hành án dân sự như: quyền tài sản, quyền khai thác

khoáng sản, tài sản hình thành trong tương lai; xử lý vi phạm hành chính, xử lý

29

hình sự trong thi hành án dân sự thực sự có tính khả thi và đảm bảo tính

nghiêm minh của hoạt động thi hành án...).

Hệ thống pháp luật về THADS tạo căn cứ vững chắc cho việc tổ chức và

thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể có thẩm quyền thực hiện tổ

chức cưỡng chế THADS. Quy định của pháp luật càng đồng bộ, thống nhất,

phù hợp với các ngành luật có liên quan cũng như sát với thực tế sẽ tạo điều

kiện thuận lợi cho CHV trong việc áp dụng các các biện pháp cưỡng chế

THADS vào tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.

Hai là, chất lƣợng của các bản án, quyết định của Tòa án

Bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật phải được người phải

THA, người được THA, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến bản án,

quyết định nghiêm chỉnh thi hành và được các cơ quan nhà nước, tổ chức

chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề

nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân tôn trọng.Tuy

nhiên, để thực hiện được điều đó phải bảo đảm chất lượng các bản án, quyết

định của Tòa án các cấp.

Chất lượng của bản án, quyết định của Toà án là yếu tố có ý nghĩa quyết

định đến việc cưỡng chế THADS. Đã có nhiều bản án, quyết định về kinh

doanh thương mại của Tòa án không đảm bảo chất lượng đã ảnh hưởng đến

hoạt động cưỡng chế THADS. Đặc biệt, các quyết định, bản án kinh doanh,

thương mại liên quan đến tín dụng ngân hàng nhưng đối tượng phải thi hành

án lâm vào tình trạng phá sản, không còn hoạt động kinh doanh; nợ đọng

nghĩa vụ thuế, bảo hiểm xã hội... Trong những trường hợp đó dù cố gắng đến

đâu cơ quan THA cũng khó có thể thi hành được bản án cho dù là áp dụng

biện pháp cưỡng chế.

Ba là, ý thức pháp luật của đƣơng sự

Trong cưỡng chế THADS, nếu cả bên được THA, cả bên phải THA,

30

những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có ý thức pháp luật, tự nguyện

chấp hành pháp luật thì công tác THA, công tác cưỡng chế THADS sẽ gặp

nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức cưỡng chế THADS cho thấy đa

phần người phải THA có hành vi tiêu cực, không tự nguyện chấp hành do

không hiểu biết pháp luật, có hành vi chống đối quyết liệt như dùng vũ khí đe

dọa đến tính mạng của thành viên tham gia cưỡng chế và bản thân họ, hoặc

ngược lại hiểu biết pháp luật lại tìm cách trốn tránh, gây khó khăn cho CHV.

Như vậy, để bảo đảm trong cưỡng chế THADS đòi hỏi người được THA

và người THA phải có ý thức pháp luật, biết tự điều chỉnh hành vi của mình

theo yêu cầu của pháp luật. Vì lẽ đó giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp

luật của người dân đã trở thành chủ trương quan trọng của Đảng, Nhà nước, trở

thành nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Đối với công tác THA, để thực hiện

chủ trương đó, các cơ quan THA, CHV phải biết thông qua thực tế THA để chủ

động, tích cực làm tốt công tác giáo dục pháp luật cho đương sự và nhân dân

tại nơi tổ chức THADS.

Bốn là, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan

thi hành án dân sự

Hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự được thực hiện chủ yếu thông

qua hoạt động của đội ngũ chấp hành viên, về bản chất, là hoạt động áp dụng

pháp luật; do đó, các hoạt động tác nghiệp của đội ngũ chấp hành viên phải

tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật về nguyên tắc, trình tự, thủ tục

thi hành án dân sự. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của chấp hành viên thi

hành án dân sự, về cơ bản, bao gồm các yếu tố như trình độ kiến thức, hiểu

biết pháp luật; ý thức pháp luật nghề nghiệp; kỹ năng nghiệp vụ công tác;

phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống... là nhân tố hàng đầu quyết định sự

thành bại trong cưỡng chế THADS. Để có được một đội ngũ Chấp hành viên

có phẩm chất đạo đức, tinh thông nghề nghiệp, trong những năm qua Bộ Tư

pháp đặc biệt quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng,

31

bổ nhiệm và các chế độ chính sách đối với Chấp hành viên, thẩm tra viên và

cán bộ làm công tác THADS. Tuy nhiên, do nhiều lý do, nhất là do tác động

của cơ chế thị trường một số Chấp hành viên, cán bộ THA của một số cơ

quan THA trong toàn quốc đã bị tha hoá, biến chất làm ảnh hưởng không nhỏ

đến công tác THA. Thực trạng đó đã cho thấy bên cạnh công tác đào tạo, bồi

dưỡng, quan tâm chế độ đãi ngộ đòi hỏi Nhà nước, Bộ Tư pháp phải đặc biệt

chú ý công tác quản lý cán bộ, động viên họ tu dưỡng, rèn luyện, tự hoàn

thiện đáp ứng ngày càng tốt hơn công việc được giao.

Chất lượng đội ngũ Chấp hành viên được thể hiện cụ thể thông qua số

lượng vụ việc được thi hành so với tổng số vụ việc phải thi hành. Đây là

những con số phản ánh khả năng tổ chức thực hiện THA của đội ngũ Chấp

hành viên.

Năm là, cơ chế phối hợp trong cƣỡng chế thi hành án dân sự

Thực tiễn cho thấy trong nhiều trường hợp không thể thi hành được bản

án bởi ở giai đoạn điều tra, xét xử, cơ quan công an, Tòa án đã không tiến

hành kê biên tài sản, để đối tượng tẩu tán hết tài sản, hoặc cũng không thể thi

hành được bản án, quyết định của Tòa án khi chính bản án, quyết định này

không có tính khả thi. Thậm chí ngay cả khi những yếu tố trên được đảm bảo,

song giữa cơ quan THADS và các cơ quan hữu quan không có sự phối hợp

nhịp nhàng, đề cao trách nhiệm trong cưỡng chế THA thì cũng gặp rất nhiều

khó khăn, thậm chí không thực hiện được. Như vậy, để nâng cao hiệu quả

trong cưỡng chế THA đòi hỏi phải tăng cường trách nhiệm của cơ quan tiến

hành tố tụng, đồng thời phải hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa cơ quan THA

với các cơ quan tổ chức hữu quan. Theo đó, đổi mới cơ quan THADS, tăng

cường quản lý Nhà nước về công tác THADS, hoàn thiện pháp luật quy định

mối quan hệ phối hợp, trách nhiệm tham gia và chế tài xử lý đối với những

trường hợp không tích cực tham gia cưỡng chế THADS, cản trở và gây thiệt

hại trong cưỡng chế THADS.

32

Tiểu kết chƣơng 1

Ngành Thi hành án dân sự là ngành có tính chất đặc thù riêng trong hệ

thống các cơ quan Tư pháp. Cùng với tự nguyện thi hành án, cưỡng chế thi

hành án dân sự là một trong những biện pháp cơ bản trong thi hành án dân sự,

góp phần quan trọng bảo đảm việc thi hành án đạt hiệu quả. Hoạt động tổ

chức thực hiện cưỡng chế thi hành án là hoạt động thường xuyên được thực

hiện trong công tác thi hành án dân sự. Hiệu quả của hoạt động cưỡng chế là

cơ sở, tiền đề cho sự thành công của công tác tổ chức thi hành một vụ việc thi

hành án dân sự khi đương sự không tự nguyện thi hành. Việc nhận thức đúng

về biện pháp cưỡng chế và hoạt động tổ chức cưỡng chế trong thi hành án là

điều kiện rất cần thiết để các cơ quan nhà nước và nhân dân nắm rõ được

quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động thi hành án dân sự, để từ đó

nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức tự giác tuân thủ pháp luật, góp

phần xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

Ở chương 1, luận văn tập trung phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò,

quy trình tổ chức thực hiện và các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện

cưỡng chế thi hành án dân sự, tạo cơ sở lý luận cho việc đánh giá khách quan,

chính xác thực trạng tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự và đề xuất các

quan điểm, giải pháp trong tổ chức thi hành cưỡng chế thi hành án của toàn

ngành thi hành án dân sự nói chung và của các cơ quan thi hành án dân sự ở

tỉnh Ninh Bình nói riêng.

33

Chƣơng 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN CƢỠNG CHẾ

THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH

2.1. Tình hình kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc phòng tỉnh

Ninh Bình và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình

2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc

phòng tỉnh Ninh Bình có ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện cưỡng chế

thihành án dân sự

Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ cực Nam của vùng đồng bằng Bắc

Bộ. Tỉnh Ninh Bình có diện tích:1.400 km, dân số là 982.487 người (theo

điều tra dân số 1/4/2019), 21% dân số sống ở đô thị và 79% dân số sống ở

nông thôn, mật độ dân số đạt 642 người/km².

Với vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình, lịch sử văn hóa đồng thời sở

hữu 02 khu vực là di sản thế giới và khu dự trữ sinh quyển thế giới, Ninh

Bình hiện là một trung tâm du lịch có tiềm năng phong phú và đa dạng. Năm

2015, Ninh Bình là tỉnh đầu tiên của đồng bằng sông Hồng có 2 thành phố

trực thuộc tỉnh (thành phố Ninh Bình và thành phố Tam Điệp).

Tỉnh Ninh Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 2

thành phố và 6 huyện với 143 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 119 xã, 17

phường và 7 thị trấn.

Về tình hình kinh tế: Những năm gần đây,tình hình kinh tế trên địa bàn

tỉnh chịu ảnh hưởng của tốc độ đô thị hóa nhanh,đặc biệt trong năm 2020,đại

dịch COVID – 19 bùng phát mạnh đã để lại hậu quả nặng nề đối với nền kinh

tế, tài chính toàn cầu nói chung, toàn tỉnh Ninh Bình nói riêng.Tỉnh Ninh

Bình được coi là một trong những điểm nóng nổi cộm và phức tạp phát sinh

34

các tranh chấp liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân

hàng, tranh chấp dân sự. Thời gian vừa qua trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, hàng

chục doanh nghiệp tuyên bố phá sản, hàng trăm tỷ đồng nợ tín dụng ngân

hàng không có khả năng thanh toán, nợ xấu ngày càng tăng; các loại tội phạm

và tệ nạn xã hội trên địa bàn ngày càng phức tạp, các quan hệ xã hội liên quan

đến tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, lao động... có xu hướng

tăng về số lượng và tính phức tạp, dẫn đến số lượng việc thụ lý và số tiền phải

thi hành trong những năm gần đây tăng đột biến; loại việc dân sự trong hình

sự tập trung vào một số tội về ma tuý, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giết người;

lượng án kinh doanh thương mại có số tiền phải thu lớn; lượng án tồn chủ yếu

từ các loại việc chưa có điều kiện thi hành chuyển sang đều có xu hướng

tăng.... Song với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính

quyền, cùng sự đoàn kết đồng lòng và nỗ lực không ngừng của toàn thể cán

bộ, nhân dân trong tỉnh, Ninh Bình đã và đang vượt qua khó khăn, triển khai

thực hiện thắng lợi tương đối toàn diện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội

mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đề ra.

Về văn hóa, xã hội: Chất lượng giáo dục được nâng cao, năm 2019, tỉnh

Ninh Bình được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục các cấp học là 100%,

các trường, lớp học được đầu tư xây dựng đạt chuẩn quốc gia; Công tác đào

tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động được quan tâm thực hiện;

Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên,đến nay, 100% xã, phường, thị

trấn có trạm y tế; có 49,7% trạm y tế có bác sỹ, toàn tỉnh đã chủ động triển

khai nhiều biện pháp khống chế ngăn chặn kịp thời các bệnh truyền nhiễm,

đặc biệt trú trọng thực hiện các biện pháp cách ly y tế đối với các đối tượng

nghi nhiễm Covid – 19 tại địa bàn tỉnh; Công tác kiểm tra vệ sinh an toàn

thực phẩm được tăng cường; 1622/1622 thôn, bản, phố xây dựng được hương

ước, quy ước; có 4.192 gia đình văn hóa, 130 làng văn hoá và 90 cơ quan đạt

tiêu chuẩn văn hoá.

35

Về an ninh, quốc phòng: An ninh chính trị, trận tự an toàn xã hội được

giữ vững, không để xảy ra biểu tình, bạo loạn. Hệ thống chính trị từ tỉnh đến

cơ sở từng bước được kiện toàn. Chủ trương phát triển kinh tế gắn với quốc

phòng an ninh được triển khai khá đồng bộ.

Với những đặc điểm về kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng

nêu trên cho thấy, tỉnh Ninh Bình về cơ bản có điều kiện phát triển kinh tế -

xã hội, đời sống dân cư ngày càng được nâng cao, trình độ dân trí ngày càng

phát triển, kéo theo đó ý thức tuân thủ pháp luật của người dân cũng được

nâng cao. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng trong việc thực

hiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng trên địa

bàn tỉnh Ninh Bình. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế xã hội phát triển cũng là

một trong những điều kiện thuận lợi bảo đảm cho việc thực hiện thi hành án

dân sự được hiệu quả.

2.1.2. Khái quát về Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình

Căn cứ Quyết định số 2761/QĐ-BTP ngày 06 tháng 11 năm 2009 của Bộ

trưởng Bộ Tư pháp về việc thành lập Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình

và Quyết định số 2893/QĐ-BTP ngày 06 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ

Tư pháp về việc sửa đổi Quyết định số 2761/QĐ-BTP, theo đó Cục THADS

tỉnh Ninh Bình được thành lập trên cơ sở Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình, là

cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp và chịu sự quản

lý chỉ đạo của UBND tỉnh Ninh Bìnhtheo quy định của pháp luật.

Cục Thi hành án dân sựtỉnh Ninh Bìnhlà cơ quan thực hiện chức năng thi

hành án dân sự, thi hành án hành chính, có nhiệm vụ giúp Tổng Cục trưởng

Tổng cục THADSquản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan thi

hành án dân sựđịa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo

quy định của pháp luật.

36

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình có các phòng chuyên môn và tổ

chức tương đương trực thuộc; có Cục trưởng đồng thời là Thủ trưởng cơ quan

thi hành án dân sự; Phó Cục trưởng đồng thời là Phó Thủ trưởng cơ quan thi

hành án dân sự; Chấp hành viên sơ cấp; Chấp hành viên trung cấp; Chấp hành

viên cao cấp; Thẩm tra viên thi hành án; Thẩm tra viên chính thi hành án; Thư

ký thi hành án và công chức khác.

Cục trưởng Cục Thi hành án dân sựtỉnh Ninh Bình chịu trách nhiệm

trước Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sựvà trước pháp luật về

toàn bộ hoạt động của Cục Thi hành án dân sựtỉnh; Phó Cục trưởng Cục Thi

hành án dân sựcấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Cục trưởng Cục Thi hành án

dân sựtỉnh và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công phụ trách.

Cục Thi hành án dân sựtỉnh Ninh Bình chịu sự chỉ đạo của UBND tỉnh

theo quy định tại Điều 173 Luật THADS, có trách nhiệm báo cáo với UBND

cùng cấp về chủ trương, biện pháp tăng cường công tácthi hành án dân sự,

công tác quản lý, đôn đốc thi hành án hành chính trên địa bàn và thực hiện

báo cáo công tác THADS trước Hội đồng nhân dân cùng cấp theo quy định

của pháp luật (theo Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg, ngày 30/10/2014 của

Thủ tướng Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp).

Về cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan thi hành án dân sựtỉnh Ninh

Bình gồm: Các cơ quan Thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình được tổ chức và

hoạt động theo hệ thống ngành dọc, bao gồm có Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Ninh Bình trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư Pháp, có 04

Phòng chuyên môn và 8 Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện, thành phố

trực thuộc Cục. Ở Cục có(1) Văn phòng Cục; (2) Phòng Tổ chức-cán bộ; (3)

Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án; (4) Phòng Kiểm tra - giải quyết

khiếu nại, tố cáo. Ở các huyện, thành phố có các đơn vị (1) Chi cục THADS

37

thành phố Ninh Bình; (2) Chi cục THADS thành phố Tam Điệp; (3) Chi cục

THADS huyện Kim Sơn; (4) Chi cục THADS huyện Hoa Lư; (5) Chi cục

THADS huyện Nho Quan; (6) Chi cục THADS huyện Yên Mô; (7) Chi cục

THADS huyện Gia Viễn; (8) Chi cục THADS huyện Yên Khánh.

Về công tác tổ chức cán bộ: Năm 2020, toàn ngành có 93biên chế, trong

đó có 37 Chấp hành viên (bao gồm: 01 CHV cao cấp, 19 CHV trung cấp;

18CHV sơ cấp); 10 Thẩm tra viên (bao gồm: 02 Thẩm tra viên chính, 8 Thẩm

tra viên); 25 Thư ký thi hành án; 01 Chuyên viên; 02 Thủ kho;10 Kế toánvà 8

công chức khác.

Về tổ chức bộ máy: lãnh đạo Cục và các Chi cục THADS cơ bản được kiện

toàn. Tính đến nay, Cục có Cục trưởng, 03 Phó Cục trưởng, 04 Trưởng phòng và

04 Phó Trưởng phòng; 8 Chi cục có 8 Chi cục trưởng và 11Phó Chi cục trưởng.

Về chế độ chính sách, đào tạo bồi dưỡng: Các chế độ, chính sách đối với

công chức, người lao động được quan tâm thực hiện thường xuyên, kịp thời.

Thực hiện Kế hoạch đào tạo bồi dưỡng của Tổng cục thi hành án dân sự, căn

cứ nhu cầu đào tạo của Ngành, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình đã rà

soát, lựa chọn các trường hợp đủ điều kiện, tiêu chuẩn cử đi học các lớp bồi

dưỡng về kiến thức lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Năm 2020

CụcThi hành án dân sự tỉnh đã quyết định bổ nhiệm và chuyển xếp lương đối

với ngạch Cán sự cho 06 công chức; Quyết định cử 05 công chức tham gia kỳ

thi nâng ngạch lên CHV trung cấp, 02 công chức tham gia kỳ thi nâng ngạch

lên Thẩm tra viên chính. Quyết định cử 06 công chức tham gia các lớp đào

tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ; quyết định cử 05 công chức tham gia

tập huấn phần mềm quản lý văn bản và hỗ trợ trực tuyến tại Hà Nội.

Công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, miễn nhiệm,

chuyển đổi vị trí công tác: Trong kỳ đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị Tổng cục

38

THADS bổ nhiệm lại 01 Chi cục trưởng; bổ nhiệm mới 01 Trưởng phòng, 01

Phó trưởng phòng, 01 kế toán trưởng, 01 Phó Chi cục trưởng; bổ nhiệm lại

theo thẩm quyền 01 Phó chi cục trưởng, 01 Phó trưởng phòng, 01 Trưởng

phòng; điều động, bổ nhiệm 01 Phó Chi cục trưởng; tiếp nhận và phân công

hướng dẫn tập sự đối với 04 công chức mới tuyển dụng; điều động 03 công

chức; chuyển công tác đối với 01 công chức.

Về tình hình và kết quả xử lý vi phạm kỷ luật, xử lý vi phạm pháp luật

của CHV, công chức cơ quan Thi hành án: Trong năm 2020 ngành THADS

tỉnh Ninh Bình tiến hành kỷ luật 01 CHV vi phạm pháp luật.

2.2. Tình hình tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án dân sự trên

địa bàn tỉnh Ninh Bình

2.2.1. Lập kế hoạch, ban hành văn bản triển khai cưỡng chế thi hành

án dân sự

Xây dựng kế hoạch cưỡng chế là một trong những công việc quan trọng

của Chấp hành viên trước khi tiến hành cưỡng chế thi hành một vụ án.Trên thực

tế, người phải thi hành án thường có tâm lý chống đối, không tự nguyện thi hành

án, do đó, phần lớn các vụ việc thi hành án dân sự phải sử dụng đến biện pháp

cưỡng chế thi hành án. Việc lập kế hoạch cưỡng chế chi tiết, cụ thể, sát với thực

tếcó ý nghĩa rất lớn đối với việc tổ chức cưỡng chế thi hành án thành công.

Thực tiễn công tác lập kế hoạch và ban hành văn bản triển khai cưỡng

chế THADS ở tỉnh Ninh Bìnhcho thấy vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng

mắc. Hầu hết ở các đơn vị trên địa bàn tỉnh Ninh Bình bị sức ép về khối lượng

vụ việc phải đưa ra tổ chức thi hành quá nhiều, giá trị về tiền, tài sản lớn; các

vụ việc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế phức tạp do các bên đương sự và

người có quyền lợi liên quan có nhiều mối quan hệ phức tạp như thế lực chính

trị, thế lực tài chính. Bản án của Tòa án tuyên không ra quyết định áp dụng

39

biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án khiến cho

công tác xác minh, phân tích đánh giá tình hình để lựa chọn biện pháp cưỡng

chế THADS gặp nhiều khó khăn. Song với tinh thần quyết tâm hầu hết ở các

Chấp hành viên đều đã chủ động xác minh, nắm rõ chắc chắn điều kiện về tài

sản của người phải THA, các mối quan hệ của người phải THA và thân nhân

họ, địa hình giao thông, quan điểm của chính quyền địa phương... Từ đó, xác

định rõ các căn cứ cho việc lựa chọn và ra quyết định cưỡng chế phù hợp.

Trên thực tế, quá trình thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự không cho

phép Chấp hành viên kéo dài thời gian. Muốn vậy, Chấp hành viên phải có

công tác chuẩn bị cưỡng chế thật tốt trước khi thực hiện việc cưỡng chế. Trong

thời gian diễn ra việc cưỡng chế, chấp hành viên và những người tham gia đoàn

cưỡng chế luôn phải đối mặt với những khó khăn, nguy hiểm nhất định. Nếu

thời gian cưỡng chế càng kéo dài thì nguy cơ xảy ra khó khăn, nguy hiểm càng

nhiều hơn. Hơn nữa, tâm lý người bị cưỡng chế luôn mong muốn việc cưỡng

chế không thực hiện được.Vì vậy, công tác dự đoán tình hình, chuẩn bị cưỡng

chế về lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị trước khi cưỡng chế

rất quan trọng, tránh lúng túng trong việc xử lý tình huống.

Ví dụ: Khi tiến hành kiểm kê tài sản để di dời trong vụ doanh nghiệp

Minh Thoa - Cố Viên Lầu ở huyện Hoa Lư, có một số tài sản là cổ vật cần

phải để riêng, nếu không muốn hư hỏng thì cần có thùng xốp để đựng. Do

chưa chuẩn bị trước thùng xốp, Chấp hành viên đã cắt cử người đi mua, gây

ảnh hưởng đến việc cưỡng chế thi hành án do phải kéo dài thời gian, kéo theo

việc kiểm đếm, di dời, lập biên bản cưỡng chế không thể thực hiện một cách

kịp thời và nhanh chóng được.

Được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy - HĐND - UBND – Ban chỉ đạo

Thi hành án và sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan ban ngành hữu quan tại

40

địa phương nên hầu hết các vụ việc đã tổ chức cưỡng chế đều thành công,

đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, đảm bảo hiệu lực của bản

án và quyền, lợi ích của các bên đương sự.

Trong khoảng thời gian 05 năm từ 2016 - 2020, cơ quan THADS tỉnh

Ninh Bình đã tiến hành nhiều vụ việc cưỡng chế quy mô lớn với nhiều tình

tiết phức tạp, đương sự và người thân trong gia đình chống đối quyết liệt phải

huy động lực lượng, tiêu biểu như: vụ ông Trần Viết Hải – Thanh ở huyện

Kim Sơn; vụ doanh nghiệp Minh Thoa – Cố Viên Lầu ở huyện Hoa Lư; vụ

Đỗ Thị Tâm – Vị, vụ Huy – Thơm, vụ Sáng – Ngải ở thành phố Ninh Bình,

vụ Công ty TNHH Tân Việt ở huyện Hoa Lư... .

Để làm tốt được công tác này, phải khẳng định rằng trong những năm

qua ở Ninh Bình đã xây dựng được đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ có năng

lực về nghiệp vụ, về tư duy lý luận, có kinh nghiệm giải quyết được rất nhiều

những vụ án rất khó khăn và phức tạp, ít gặp trên thực tiễn, làm tốt công tác

xây dựng kế hoạch cưỡng chế, dự đoán được các tình huống có thể phát sinh

và đưa ra các phương án giải quyết hợp lý.

Bên cạnh đó, Ban chỉ đạo THADS tỉnh cũng đóng góp vai trò lớn, luôn

theo sát chương trình chỉ đạo của trung ương, kịp thời ban hành các văn bản

theo dõi, chỉ đạo công tác phối hợp trong tổ chức cưỡng chế thi hành án dân

sự trên địa bàn tỉnh, tập trung hỗ trợ mọi nguồn lực để giải quyết các vụ án

lớn phức tạp cần phải tiến hành cưỡng chế. Những vụ việc cưỡng chế quy mô

lớn, có ảnh hưởng đến an ninh chính trị tại địa phương buộc phải báo cáo lên

Ban chỉ đạo THADS để xin ý kiến. Trưởng ban chỉ đạo sẽ tổ chức họp và căn

cứ vào kế hoạch cưỡng chế thi hành án mà Chấp hành viên xây dựng để phân

công nhiệm vụ chotừng ngành tham gia phối hợp tổ chức cưỡng chế.

41

Có thể nói, việc lập kế hoạch cưỡng chế và ban hành kịp thời các văn

bản liên quan đến cưỡng chế thi hành án giữ vai trò quan trọng, là nền móng

để việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án diễn ra thành công tốt đẹp.

2.2.2. Triển khai thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

Công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình những năm gần đây có sự

gia tăng đột biến về số lượng vụ việc và số tiền phải thi hành, do ý thức chấp

hành pháp luật của người dân, do điều kiện hoàn cảnh, do các nguyên nhân

chủ quan và khách quan dẫn đến phải áp dụng nhiều các biện pháp cưỡng chế

và hiệu quả của cưỡng chế thi hành án dân sự trên thực tế tại địa bàn tỉnh còn

nhiều bất cập. Để rõ hơn tình hình công tác thi hành án tại địa bàn tỉnh Ninh

Bình, có thể tham khảo qua bảng thống kê kết quả thi hành án dân sự của cơ

quan thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình từ năm 2016 - 2020:

Bảng 2.1: Kết quả THADS về việc giai đoạn 2016 - 2020.

(đơn vị tính: việc)

Tổng số thi Tổng số Tổng số có Tỷ lệ thi hành

hành xong Năm phải thi điều kiện thi xong/Số có điều

hành hành kiện

5.833 2016 4.990 3.713 74,4%

5.836 2017 4.878 3.767 77%

5.741 2018 4.560 3.458 75,8%

5.828 2019 4.475 3.299 73,7%

5.609 2020 4.664 3.546 76,3%

Nguồn: [14-15-16-17-18]

42

Bảng 2.2: Kết quả THADS về tiền giai đoạn 2016 - 2020.

(đơn vị tính: 1.000đ)

Tỷ lệ thi hành Tổng số phải Tổng số có điều Tổng số thi Năm xong/số có thi hành kiện thi hành hành xong điều kiện

2016 368.817.415 336.480.421 102.132.274 30,4%

2017 566.014.063 428.653.393 209.385.302 48,8%

2018 563.208.892 366.481.071 137.028.666 37,4%

2019 612.640.377 369.423.720 146.681.931 39,7%

2020 606.428.245 313.122.998 129.136.898 41,2%

Nguồn: [14-15-16-17-18]

Từ số liệu của Bảng2.1 và Bảng2.2 cho thấy, số việc thi hành án mà Cục

Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình phải thi hành rất lớn, tăng dần theo từng

năm. So với số lượng chấp hành viên hiện có thì khối lượng án trung bình mỗi

chấp hành viên được phân công trong 01 năm là rất lớn.

Chỉ tính riêng năm 2018, trung bình mỗi Chấp hành viên phải thi hành

khoảng gần 200 việc (5.741việc/37 Chấp hành viên) và để thi hành xong số

lượng việc nêu trên, trung bình mỗi tháng Chấp hành viên phải thi hành xong

14 việc. Tuy nhiên cũng tính trung bình năm 2018 thì mỗi tháng Chấp hành

viên chỉ thi hành xong 8 việc (3.458 việc/37 Chấp hành viên/12 tháng).

Thực tế này cho thấy rằng trong công tác thi hành án dân sự, Chấp hành

viên phải chịu áp lực công việc rất lớn, hàng năm số việc mà Chấp hành viên

của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình phải thi hành tuy không tăng đáng

kể, nhưng lại tăng về giá trị phải thi hành, nhất là năm 2017 tăng gần như gấp

2 lần, cụ thể: năm 2017 thụ lý: 566.014.063.000 đồng, tăng gần 200 tỷ đồng

43

so với năm 2016 là368.817.415.000 đồng (tăng55%); năm 2019 thụ lý:

612.640.377.000đồng, tăng 49.431.485.000đồng so với năm 2018 là

563.208.892.000đồng(tăng gần 9%).

Theo như kết quả thống kê về việc và tiền năm 2016 – 2020 của Bảng

2.1 và Bảng2.2, tổng số phải thi hành về việc và tiền năm sau tăng hơn năm

trước, đặc biệt là về tiền. Cụ thể, năm 2016 tổng số phải thi hành là 5.833việc,

với số tiền 368.817.415.000 đồng; năm 2020 tổng số phải thi hành là 5.609

việc, với số tiền 606.428.245.000 đồng. Như vậy, so với năm 2016, tổng số

việc phải thi hành năm 2020 giảm 224 việc (giảm 4%) tuy nhiên số tiền tăng

237.610.830.000 đồng (tăng 64,5%). Tỷ lệ thi hành xong trên số có điều kiện

năm sau tăng nhiều hơn năm trước. Tuy nhiên tổng số việc và tiền chuyển

sang năm sau còn nhiều. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do sự gia

tăng giá trị phải thi hành của các việc thi hành án tín dụng ngân hàng theo bản

án, quyết định về kinh doanh thương mại, việc áp dụng các biện pháp cưỡng

chế thi hành án còn chưa phát huy hết khả năng trên thực tế. Mà cưỡng chế

THADS lại là hoạt động quan trọng thường xuyên của công tác thi hành án

dân sự, nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm phạm.

Qua thực tiễn thi hành án cho thấy rằng, mặc dù Chấp hành viên đã có

nhiều cố gắng trong việc thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi

hành nghĩa vụ của mình nhưng cũng còn nhiều trường hợp người phải thi

hành án không hợp tác, buộc cơ quan thi hành án phải áp dụng biện pháp

cưỡng chế thi hành án dân sự.

44

Bảng2.3: Thống kê các việc THADS phải tổ chức cƣỡng chế

giai đoạn 2016-2020

(đơn vị tính: việc)

Năm 2016 2017 2018 2019 2020

Số việc phải

cưỡng chế 21 18 17 27 22

Số việc cưỡng

chế có huy động 7 6 5 9 7 lực lượng

Nguồn: [14-15-16-17-18]

Từ số liệu Bảng2.3 nêu trên cho ta thấy số vụ việc thi hành án phải áp

dụng biện pháp cưỡng chế có sự thay đổi tăng, giảm cùng với số lượng việc

phải thi hành án theo từng năm. Năm 2016 là 21 việc, năm 2017 là 18 việc

giảm 3 việc so với năm 2016. Năm 2018 là 17 việc giảm 1 việc so với năm

2017. Năm 2019 là 27 việc tăng 10 việc so với năm 2018. Năm 2020 là 22

việc giảm 5 việc so với năm 2019. Có thể thấy, số lượng vụ việc phải tiến

hành cưỡng chế THADS có sự tăng mạnh trong giai đoạn 2018 - 2019. Năm

2019, các cơ quan THADS trong tỉnh đã ra quyết định áp dụng biện pháp kê

biên, cưỡng chế thi hành án đối với 27 vụ việc theo đúng quy định của pháp

luật, tăng 10 việc so với cùng kỳ năm 2018 (58%), trong đó có 9 vụ việc phải

huy động lực lượng liên ngành. Đặc biệt có 02 vụ cưỡng chế giao quyền sử

dụng đất (vụ ông Lê Văn Nhiên, địa chỉ xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh; vụ

Công ty cổ phần may Thăng Long - Hoa Lư, địa chỉ: xã Đồng Phong, huyện

Nho Quan) phải huy động lực lượng liên ngành tham gia với số lượng trên 50

người. Nhìn chung, số lượng vụ việc phải tiến hành cưỡng chế thi hành án

dân sự vẫn còn ở mức cao, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác của cơ quan thi

45

hành án, gây tốn thời gian và chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự cho Nhà

nước và cơ quan, tổ chức, cá nhân .

2.2.3. Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự

Đối với tỉnh Ninh Bình, công tác thi hành án dân sự trong những năm

qua luôn đạt kết quả khá cao, làm giảm đáng kể lượng án tồn đọng, bảo đảm

quyết định, bản án của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền được thực thi trên thực

tế, bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự, góp

phần bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế xã hội ở địa

phương. Để có được kết quả này, Cục THADS và các Chi cục THADS tỉnh

Ninh Bình đã áp dụng đồng bộ các giải pháp, trong đó công tác tuyên truyền

pháp luật luôn được quan tâm thực hiện.

Thực hiện Kế hoạch số 930/KH-TCTHADS ngày 07/4/2014 của Tổng

cục Thi hành án dân sự về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, Cục Thi

hành án dân sự tỉnh Ninh Bình đã xây dựng kế hoạch và Chỉ đạo các đơn vị

thuộc Cục làm tốt công tác phổ biến giáo dục pháp luật, xác định công tác này

là một trong những nhiệm vụ của cơ quan Thi hành án dân sự; chỉ đạo Chấp

hành viên trong quá trình thực hiện công tác, nhiệm vụ chuyên môn lồng ghép

hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đến các đối tượng là đương sự và quần

chúng nhân dân, trong đó tập trung vào các ngành luật có liên quan đến công

tác chuyên môn của ngành như Luật Hình sự, Luật dân sự, Luật Hôn nhân và

gia đình, Luật Đất đai, chú trọng tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi hành

án dân sự...; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan và chính quyền

cơ sở làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở.

Bên cạnh đó, Cục THADS tỉnh phối hợp với Đài phát thanh và truyền

hình tỉnh cùng với cơ quan THADS đã trực tiếp xuống cơ sở, gặp gỡ những

đối tượng phải thi hành án và người có liên quan để thực hiện làm phóng sự

46

về công tác THADS; đội ngũ cán bộ công chức, Chấp hành viên các cơ quan

Thi hành án dân sự tích cực phối hợp với chính quyền cơ sở để tuyên truyền

pháp luật về thi hành án, chủ động tuyên truyền qua những buổi làm việc, tiếp

dân ở trụ sở cơ quan, chính quyền giúp nhân dân hiểu rõ hơn về quyền, nghĩa

vụ của mình trong việc thi hành án, nhiều vụ việc đương sự tự nguyện thi

hành án, tự nguyện bàn giao tài sản để thi hành án.

Nhờ làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, ý thức tuân thủ pháp

luật của người phải thi hành án đã được nâng lên rõ rệt thể hiện qua việc có

nhiều người phải thi hành án đã tự nguyện thi hành án; tình trạng đương sự

quấy phá, chống đối quyết liệt trong suốt quá trình tổ chức thực hiện cưỡng

chế giảm nhiều, số vụ việc cưỡng chế THADS không thành công về cơ bản là

không có.

2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cưỡng chế thi hành án

dân sự

Thực hiện chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp năm 2020,

Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Tỉnh ủy Ninh Bình đã triển khai xây dựng và

thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra việc tham mưu chỉ đạo công tác cưỡng

chế thi hành án dân sự đối với Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh Ninh

Bình nhằm đánh giá việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác

cải cách tư pháp đã được xác định trong Kế hoạch số 02-KH/BCĐ ngày

20/7/2016 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh; những hạn chế, khó khăn,

nguyên nhân, những giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao hiệu quả công

tác cưỡng chế thi hành án dân sự.

Theo đó, thanh tra, kiểm tra việc tham mưu triển khai thực hiện các chủ

trương, đường lối của Đảng, pháp luật về công tác tổ chức thực hiện cưỡng

chế thi hành án dân sự và vai trò, trách nhiệm và kết quả hoạt động của Ban

Chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình, cụ thể:

47

Tham mưu giúp Chủ tịch UBND tỉnh trong việc kiện toàn tổ chức hoạt

động của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh, việc xây dựng chương trình,

kế hoạch của UBND tỉnh về chỉ đạo việc tổ chức phối hợp giữa các cơ quan

có liên quan trong thi hành án dân sự và chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế

THADS; tham mưu, đề xuất các biện pháp chỉ đạo giải quyết kịp thời những

vướng mắc, khó khăn phát sinh trong việc phối hợp.

Việc tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch, ý kiến chỉ đạo của

UBND tỉnh về tổ chức phối hợp giữa cơ quan có liên quan với Cục THADS

tỉnh trong THADS; trong việc chỉ đạo tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự

với các vụ việc lớn, phức tạp có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội ở địa phương.

Tổ chức thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng

thanh tra, kiểm tra việc thực hiện kết luận của Ban Chỉ đạo THADS, ý kiến

chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh về tổ chức phối hợp với các cơ quan liên

quan trong THADS và tổ chức cưỡng chế THADS; việc phân công trách

nhiệm của thành viên Ban chỉ đạo THADS...

Bên cạnh đó, hàng năm Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình đều có

kế hoạch thanh tra, kiểm tra hoạt động thi hành án dân sự nói chung và tổ

chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh nói riêng.

Thông qua hoạt động này nhằm đảm bảo công tác thi hành án dân sự được

thực hiện đúng quy định pháp luật về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thời hạn giải

quyết, đặc biệt là kiểm tra, thanh tra việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi

hành án dân sự từ khâu kê biên tài sản, thẩm định tài sản, bán đấu giá tài sản

và kết thúc việc thi hành án tại các Chi cục Thi hành án dân sự các huyện,

thành phố, xác định những khó khăn, bất cập cũng như các sai phạm để từ đó

tìm ra được những biện pháp khắc phục, tháo gỡ.

48

Trong thời gian 5 năm từ 2016 – 2020, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh

Bình đã triển khai các cuộc thanh tra, kiểm tra công tác thi hành án dân sự nội

bộ, cụ thể như sau:

-Năm 2016: phúc tra đối với 03 Chi cục Thi hành án dân sự và 01 đợt

kiểm tra toàn diện đối với 08 Chi cục Thi hành án dân sự[14, tr. 3].

-Năm 2017: kiểm tra toàn diện đối với 08 Chi cục Thi hành án dân

sự[15, tr. 4].

-Năm 2018: kiểm tra toàn diện đối với 04 Chi cục Thi hành án dân sự,

các Chi cục Thi hành án dân sự còn lại tiến hành kiểm tra chéo và báo cáo kết

quả về Cục Thi hành án dân sự tỉnh[16, tr. 6].

-Năm 2019: kiểm tra theo chuyên đề đối với 05 Chi cục Thi hành án dân

sự, kiểm tra toàn diện đối với 08 Chi cục Thi hành án dân sự [17, tr. 6].

-Năm 2020: kiểm tra toàn diện đối với 08 Chi cục Thi hành án dân sự

[18, tr. 6].

Kết quả kiểm tra cho thấy, các đơn vị được kiểm tra đã thực hiện tương

đối tốt các quy định pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó đã kịp thời phát hiện,

ngăn chặn và chấn chỉnh những thiếu sót, sai phạm trong quá trình tổ chức thi

hành án của chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan THADS.

2.2.5. Sơ kết, tổng kết, đánh giá thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

Nhằm đánh giá hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói chung, công tác

tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng, hàng năm Cục Thi

hành án dân sự tỉnh Ninh Bình tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND cấp tỉnh tổ

chức Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm và Hội nghị tổng kết 1 năm công tác thi

hành án dân sự. Theo đó, đối với lĩnh vực cưỡng chế thi hành án dân sự trên

địa bàn tỉnh, Tỉnh ủy, UBND cấp tỉnh yêu cầu toàn Ngành Thi hành án dân sự

tỉnh Ninh Bình tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày

49

06/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác thi hành án dân

sự, nỗ lực triển khai đồng bộ, toàn diện các mặt công tác thi hành án, trong đó

chú trọng một số nhiệm vụ:

Một là, toàn Ngành thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình cần tập trung mọi

nguồn lực trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành án, hoàn thành các

chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 111/2015/QH13

ngày 27/11/2015 của Quốc hội; tập trung hoàn thành, nâng cao chỉ tiêu về

việc và về tiền, đặc biệt là trong thu hồi tiền, tài sản trong những vụ án tham

nhũng, kinh tế và thu hồi các khoản nợ của các tổ chức tín dụng; chỉ đạo các

chi cục thi hành án dân sự địa phương tập trung xử lý dứt điểm các vụ việc có

điều kiện thi hành; đưa ra các chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ đối với các vụ án

trọng điểm; khoanh vùng các vụ án chưa có điều kiện phải đưa vào sổ theo

dõi riêng để kịp thời đưa ra những phương hướng giải quyết tốt nhất.

Hai là, kịp thời tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương triển

khai hiệu quả các nhiệm vụ quản lý nhà nước; đưa ra các giải pháp cụ thể

nhằm nâng cao kỷ cương, kỷ luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc

chấp hành bản án, quyết định hành chính có hiệu lực pháp luật; thực hiện

nghiêm túc công tác kiểm tra, đôn đốc, kiến nghị xử lý trách nhiệm đối

với các tổ chức, cá nhân không chấp hành án hành chính theo quy định; thực

hiện nghiêm túc, công khai minh bạch trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo;

tăng cường đối thoại trực tiếp với công dân, hạn chế phát sinh những

vụ việc khiếu nại, tố cáo vượt cấp, phức tạp, kéo dài.

Ba là, tham mưu cho cấp ủy và chính quyền địa phương trong công tác

phối hợp tổ chức cưỡng chế thi hành án, đặc biệt là cưỡng chế giao tài sản đã

bán đấu giá thành; giải quyết dứt điểm các vụ việc trọng điểm, có giá trị lớn,

phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương;

50

xử lý nghiêm các trường hợp chây ỳ, trốn tránh, cố ý không chấp hành án; công

khai thông tin về người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án.

Bốn là, chủ động phối hợp với các cơ quan truyền thông, báo chí để làm

tốt công tác tuyên truyền về pháp luật, xây dựng ý thức tự giác chấp hành

pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng của công

dân. Khuyến khích việc thỏa thuận trong quá trình tổ chức thi hành án nhằm

giảm bớt các tranh chấp trong xã hội.

Năm là, tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chéo, tự kiểm

tra, rà soát hồ sơ, kịp thời chấn chỉnh và cảnh báo, phòng ngừa những vi

phạm, sai sót trong công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

của toàn ngành thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Tăng cường

vai trò giám sát, kiểm tra của các tổ chức hữu quan, đặc biệt lưu ý vai trò

kiểm sát của Viện kiểm sát đối với công tác cưỡng chế thi hành án dân sự.

2.3. Đánh giá chung

Để đánh giá khách quan, toàn diện tình hình thi hành án dân sự nói

chung và công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án nói riêng trên địa

bàn tỉnh Ninh Bình cần dựa trên những tiêu chí nhất định. Trên cơ sở số liệu

thống kê tại các bảng 2.1, 2.2, 2.3 nêu trên có thể đưa ra các đánh giá cụ thể

như sau:

Thứ nhất, đánh giá theo tiêu chí mức độ đạt được mục đích, yêu cầu thi

hành án dân sự

Mục tiêu quan trọng nhất của thi hành án dân sự là đảm bảo quyền và lợi

ích hợp pháp của đương sự, trong đó quan trọng nhất là giá trị thu được cho

người được thi hành án và ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, mục tiêu này phụ

thuộc trước hết vào điều kiện thi hành án của đương sự và tính khả thi của

việc xử lý tài sản đảm bảo thi hành án.

51

Theo thống kê tại Bảng 2.1 và Bảng 2.2, trong những năm qua số việc có

điều kiện thi hành trên tổng số việc phải thi hành chiếm tỷ lệ trung bình

khoảng 73,4% (năm 2016 = 74,4%; năm 2017= 77%; năm 2018= 75,8%; năm

2019 =73,7%; năm 2020 = 76%), đáng chú ý là mặc dù các việc tín dụng

ngân hàng chiếm tỷ lệ nhỏ về việc nhưng có giá trị lớn nên theo quy định của

Điều 44a Luật THADS sửa đổi, bổ sung 2014 thì nhiều trường hợp người

phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án hoặc có điều kiện thi hành án

nhưng việc xử lý tài sản đảm bảo gặp nhiều khó khăn.

Thực tế số liệu thống kê tại cả 2 bảng cho thấy số việc thi hành xong/số

việc có điều kiện thi hành hàng năm đạt được chỉ tiêu nhiệm vụ, vì vậy, theo

tiêu chí này có thể đánh giá chất lượng thi hành án dân sự của Cục Thi hành

án dân sự tỉnh Ninh Bình cơ bản đạt được và để nâng cao hơn nữa chất lượng

thi hành án dân sự thì trong những năm tới, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh

Bình cần giảm thiểu số việc chưa được thi hành xong/tổng số phải thi hành

hàng năm.

Thứ hai, đánh giá theo tiêu chí sự tiến triển của trình tự THADS

Sự tiến triển trong quá trình thực hiện các trình tự thi hành bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật được thể hiện ở sự hợp tác, phối hợp của đương sự

và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; áp dụng các biện pháp bảo đảm,

cưỡng chế, xử lý tài sản thi hành án..., trong đó vấn đề được quan tâm nhất là

cưỡng chế thi hành án và xử lý tài sản để thi hành án.

Tuy nhiên, trong tổng số các việc phải thi hành cũng có nhiều việc thi

hành án gặp khó khăn và còn nhiều việc tồn đọng với những nguyên nhân

như: việc thi hành án bị hoãn, tạm đình chỉ; đang áp dụng biện pháp cưỡng

chế; người phải thi hành án cản trở, chống đối cần phải tổ chức cưỡng chế thi

hành án; việc thi hành án trong giai đoạn xác minh tài sản thi hành án; tài sản

kê biên chưa bán được; tài sản có tranh chấp (đang khởi kiện); các bên thỏa

52

thuận ấn định thời gian trả tiền, xin tự bán tài sản, lý do khác, trong đó số việc

chưa thi hành được do nguyên nhân đương sự cản trở, chống đối dẫn đến phải

tổ chức cưỡng chế và đang xử lý tài sản chiếm tỷ lệ lớn.

Theo số liệu tại Bảng 2.3 có thể thấy giai đoạn 05 năm (2016-2020) số

lượng các vụ việc phải tổ chức thực hiện cưỡng chế luôn ở ngưỡng cao hơn

mức trung bình, đặc biệt những vụ việc lớn, phức tạp cần huy động lực lượng

có xu hướng tăng. Đỉnh điểm là vào năm 2019, các cơ quan THADS tỉnh

Ninh Bình đã ra quyết định áp dụng biện pháp kê biên, cưỡng chế thi hành án

đối với 27 vụ việc, tăng 10 việc so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó có 9 vụ

việc phải huy động lực lượng liên ngành, tăng 04 việc so với cùng kỳ năm

2018, 18 việc cưỡng chế thành công; 04 việc đương sự tự nguyện trước khi

cưỡng chế, 05 vụ đã ra quyết định nhưng chưa tổ chức cưỡng chế.

Theo số liệu tại Bảng 2.2 nêu trên thì tỷ lệ giá trị về tiền thu được/tổng

số phải thi hành qua các năm là: năm 2016 đạt 30,4%, năm 2017 đạt 48,8%,

năm 2018 đạt 37,4%, năm 2019 đạt 39,7%, năm 2020 đạt 41,24%.

Kết quả trên cho thấy mặc dù tỷ lệ giá trị thi hành xong về tiền/số phải

thi hành còn khiêm tốn, nhưng trong bối cảnh các cơ quan thi hành án dân sự

phải chịu áp lực về số việc, số tiền phải thi hành năm sau cao hơn năm trước,

nhất là về giá trị phải thi hành, số vụ việc cưỡng chế thành công đạt tỉ lệ cao,

hoàn thành cưỡng chế, kê biên tài sản của một số vụ án lớn, tồn đọng thì có

thể khẳng định rằng hoạt động thi hành án dân sự thời gian qua của Cục

THADS tỉnh Ninh Bình có nhiều chuyển biến tích cực (giá trị tiền thu được

năm sau cao hơn năm trước), công tác tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự

được triển khai thực hiện tốt, đạt hiệu quả cao.

Trên cơ sở những phân tích theo các tiêu chí cơ bản nêu trên, đánh giá

chung có thể thấy rằng công tác tổ chức thi hành án dân sự của Cục Thi hành

án dân sự tỉnh Ninh Bình thời gian qua ngày càng được nâng cao, tỉ lệ thành

53

công trong hoạt động tổ chức thực hiện cưỡng chế các vụ án lớn, phức tạp

tăng, đạt được các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao.

2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân

2.3.1.1. Ưu điểm

Nhận thức đầy đủ được vai trò quan trọng của công tác THADS đối với

sự phát triển kinh tế - xã hội, giai đoạn 2016-2020, trong điều kiện khối lượng

công việc của Ngành thi hành án dân sự tỉnh ngày càng nhiều, chỉ tiêu được

giao về việc và về tiền ngày càng tăng, các cơ quan THADS tỉnh Ninh Bình

luôn đặt mục tiêu giảm thiểu số lượng án phức tạp, tồn đọng, kéo dài; kiên

quyết tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án đối với những vụ án lớn phức

tạp, đương sự không hợp tác.

Nhiều vụ việc khó, có vướng mắc tồn đọng kéo dài đã được liên ngành

phối hợp thuyết phục động viên tự nguyện thi hành hoặc tổ chức cưỡng chế

thi hành án thành công các vụ án lớn, phức tạp và có yếu tố nước ngoài như:

năm 2016 tổ chức cưỡng chế thi hành vụ Công ty TNHH Tân Việt, ở huyện

Nho Quan với số tiền trên 15 tỷ đồng, vụ Công ty TNHH Huy Hùng tại huyện

Yên Khánh với số tiền hơn 20 tỷ; năm 2017 năm 2018 giải quyết xong vụ

Công ty TNHH Xăng Dầu Toàn Hằng ở Kim Sơn với số tiền gần 20 tỷ đồng,

vụ Công ty TNHH và Dịch vụ Bình Lệ Xuân tại thành phố Ninh Bình với số

tiền 15 tỷ đồng; năm 2019 vụ Công ty ADM 21 phải trả cho công ty tại Hàn

Quốc số tiền 20 tỷ đồng, vụ Công ty TNHH Cơ khí Nguyễn Huệ, tại huyện

Hoa Lư với số tiền hơn 20 tỷ đồng... . Việc tổ chức thi hành xong nhiều vụ

việc phức tạp, tồn đọng kéo dài đã tạo được niềm tin của quần chúng nhân

dân đối với cấp ủy, chính quyền và cơ quan bảo vệ pháp luật.

Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan Thi hành án dân sự cấp

huyện, thành phố tập trung thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ về thi hành án dân

sự theo Nghị quyết của Quốc hội.Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành tiếp tục

54

được đổi mới hiệu quả theo hướng sâu sát hơn, rõ người, rõ việc, rõ thời gian

hoàn thành; công tác kiểm tra ngày càng được chú trọng nâng cao chất lượng.

Tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức của cơ quan thi hành án dân sự,

nhất là đội ngũ lãnh đạo quản lý đã được quan tâm kiện toàn và ngày càng lớn

mạnh cả về số lượng và chất lượng; kỷ luật, kỷ cương hành chính được siết

chặt và ngày càng đi vào nề nếp.

2.3.1.2. Nguyên nhân

Thứ nhất, thực hiện tốt việc phân công Lãnh đạo Cục trực tiếp chỉ đạo,

theo dõi đôn đốc công tác cưỡng chế thi hành án dân sự đối với các Chi cục,

bảo đảm nắm sát tình hình kết quả công tác của các đơn vị để kịp thời có biện

pháp chỉ đạo cưỡng chế thi hành án có hiệu quả.

Thứ hai, thực hiện đúng quy định công tác thẩm định bán đấu giá tài sản.

Giải quyết dứt điểm đối với những vụ việc cưỡng chế chưa giao tài sản cho

người mua trúng đấu giá.

Thứ ba,triển khai kịp thời các văn bản chỉ đạo của Tổng cục, Bộ Tư

pháp, Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác thi hành án dân sự, đảm bảo tính

chủ động, kịp thời.

Thứ tư, tổ chức tốt công tác tiếp công dân định kỳ theo quy định, tăng

cường đối thoại trực tiếp, giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo

đúng thẩm quyền, đúng thời gian, trình tự, thủ tục.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được về tổ chức thực hiện cưỡng chế thi

hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Ninh Bình thì vẫn còn những tồn tại nhất

định như sau:

Thứ nhất, công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS còn để xảy ra

các vi phạm về thời gian, trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án, điển hình

55

như: Chậm xử lý tài sản kê biên; Vi phạm trong việc kê biên tài sản chung; Vi

phạm trong việc cưỡng chế, kê biên quyền sử dụng đất; Vi phạm trong việc

không kê biên tài sản duy nhất của người phải thi hành án đã được thế chấp

vay tài sản tại ngân hàng mà có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi

phí cưỡng chế thi hành án được quy định tại Điều 90 Luật THADS; Vi phạm

trong việc giải tỏa kê biên tài sản; Vi phạm về trình tự thủ tục trong quá trình

cưỡng chế thi hành án; Thực hiện kê biên đối với tài sản không có trong quyết

định kê biên; Vi phạm trong ký hợp đồng thẩm định giá; Vi phạm trong bán

đấu giá tài sản kê biên; Kỹ năng tổ chức cưỡng chếc òn lúng túng; Tình trạng

chấp hành viên còn kéo dài chậm trễ trong việc tổ chức thực hiện, số lượng

các vụ việc có điều kiện đưa ra thi hành án không đúng thời gian quy định ảnh

hưởng không nhỏ đến hoạt động quản lý công tác về thi hành án dân sự trên

địa bàn tỉnh.

Thứ hai, vẫn còn tồn tại tình trạng áp dụng pháp luật không đúng, không

nghiên cứu đầy đủ, toàn diện hồ sơ thi hành án và các tài liệu có liên quan;

không tổ chức xác minh, đối thoại hoặc trưng cầu giám định khi cần thiết dẫn

đến kết quả cưỡng chế không khách quan, chưa đúng pháp luật, đương sự bức

xúc. Đặc biệt, có trường hợp người phải thi hành án bị cưỡng chế khủng bố,

dọa chém giết người đứng đầu cơ quan thi hành án dân sự.

Thứ ba, công tác chỉ đạo, phát triển đội ngũ công chức làm công tác thi

hành án dân sự chưa được chú trọng. Đội ngũ công chức, chấp hành viên làm

công tác thi hành án dân sự chưa được quan tâm đúng mực, nhìn chung vẫn

còn thiếu và chưa đồng bộ. Ở một số Chi cục Thi hành án dân sự trình độ

chuyên môn của công chức, chấp hành viên còn hạn chế, yếu kém. Trong tổ

chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh vẫn còn xảy ra

tình trạng lơi là, nể nang, ngại va chạm…dẫn tới việc tổ chức thực hiện không

diễn ra theo đúng quy định của pháp luật, gây khó khăn trong quá trình quản

lý công tác thi hành án dân sự tại địa phương.

56

Thứ tư, chậm khắc phục sai phạm và chậm tổ chức thực hiện về thủ tục,

trình tự thi hành, cụ thể: Chưa chủ động, kịp thời áp dụng pháp luật để khắc

phục những sai phạm, thiếu sót đã được phát hiện qua công tác thanh tra, giải

quyết khiếu nại; việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án còn chậm.

Thậm chí, thủ trưởng một số cơ quan thi hành án dân sự còn có biểu hiện

chưa nghiêm khắc đối với những cán bộ, chấp hành viên và công chức có sai

phạm trong quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS, dẫn đến tình trạng

công dân bức xúc, khiếu nại gay gắt, kéo dài, vượt cấp.

Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi

hành án dân sự còn hạn chế chưa được quan tâm, chú trọng. Đội ngũ công

chức, chấp hành viên chưa thường xuyên học tập trau dồi kiến thức kỹ năng

tuyên truyền, kỹ năng thuyết phục.

2.3.2.2. Nguyên nhân

- Nguyên nhân chủ quan:

Thứ nhất, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, chấp hành viên của cơ quan

thi hành án dân sự chưa mạnh dạn, kiên quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế

thi hành án, ngại khó khăn, va chạm, sợ làm sai, sợ trách nhiệm do năng lực

nghiệp vụ còn hạn chế. Ý thức trách nhiệm, tính gương mẫu đi đầu của một

bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý và chấp hành viên chưa cao; có trường hợp

năng lực chuyên môn chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ; việc chấp hành kỷ

cương, kỷ luật một số nơi chưa nghiêm.

Thứ hai, trình độ năng lực của cán bộ thi hành án dân sự ở các cơ quan

thi hành án dân sự còn hạn chế. Nhiều cán bộ chưa tích cực nghiên cứu, nắm

vững các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật có liên

quan nên khi áp dụng để tham mưu cưỡng chế còn lúng túng, sai sót. Một số

chấp hành viên có thái độ không đúng mực gây bức xúc cho đương sự hoặc

có hành vi vi phạm pháp luật, ví dụ: sai phạm của Chấp hành viên Chi cục

57

THADS huyện Hoa Lư trong tổ chức bán đấu giá tài sản của Đàm Văn Xứng.

Điều này không chỉ vì do yếu kém về nghiệp vụ mà còn do cố ý hoặc do đạo

đức kém, thái độ coi thường, nhũng nhiễu, thậm chí vô cảm trước quyền và

lợi ích hợp pháp của đương sự. Quá trình giải quyết của thủ trưởng cơ quan

thi hành án dân sự không ít trường hợp còn có tâm lý bênh vực cán bộ cơ

quan mình hoặc cán bộ cấp dưới. Đây là một trong những nguyên nhân chính

dẫn tới bức xúc của đương sự.

Thứ ba, công tác tổng kết, rút kinh nghiệm và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

về nghiệp vụ, kỹ năng giải quyết cưỡng chế trong THADS tuy ngày càng

được chú ý, thực hiện thường xuyên nhưng nội dung chưa chuyên sâu; chưa

đầu tư thường xuyên cho thời gian tập huấn hàng năm thậm chí là rất ít. Với

thời gian ngắn ngủi này chỉ đủ để giới thiệu những vấn đề mới, chứ không đủ

để trao đổi thảo luận và giải đáp thấu đáo những vướng mắc nghiệp vụ.

Thứ tư, ý thức tuân thủ pháp luật của một số tổ chức, cá nhân có liên

quan đến việc thi hành án, nhất là của người phải thi hành án còn chưa cao;

nhiều trường hợp, người phải thi hành án cố tình chây ỳ, tẩu tán tài sản, khiếu

nại vượt cấp nhằm mục đích kéo dài việc thi hành án, có trường hợp chống

đối quyết liệt việc thi hành án.

- Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, công tác chỉ đạo giải quyết các việc thi hành án trọng điểm,

phức tạp còn nhiều vướng mắc do vụ việc kéo dài nhiều năm, các quy định

của pháp luật về THADS còn vướng mắc về quy trình, thủ tục, còn dành

nhiều thời gian cho việc tuyên truyền, hòa giải, thuyết phục trước khi áp dụng

biện pháp cưỡng chế nên mất nhiều thời gian.

Thứ hai, một số Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện có lượng vụ việc

thi hành án nhiều nên chấp hành viên làm công tác thi hành án rơi vào tình

trạng quá tải công việc, dẫn đến chậm trễ trong việc tổ chức thi hành án, do

58

đó, quyền lợi của người được thi hành án không được đảm bảo.

Thứ ba, một số bản án, quyết định của Tòa án có sai lầm, trong quá trình

tổ chức thi hành mới phát hiện nên cơ quan thi hành án kiến nghị với người

có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, kéo dài

thời gian tổ chức thi hành án.

Ví dụ: Quyết định số 01/2016/QĐST-KDTM ngày 20/1/2016 của Tòa án

nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình tuyên: Công ty TNHH Ninh

Khánh, địa chỉ: phố Bình Yên Tây, phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình

(Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn Son chức vụ: Chủ tịch hội

đồng thành viên kiêm giám đốc) có nghĩa vụ phải trả cho Ngân hàng Nông

nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam số tiền: 7.509.112.795,đ. Án có hiệu

lực pháp luật, Chi cục trưởng THADS thành phố Ninh Bình căn cứ vào đơn

yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, ban hành Quyết định thi hành

án theo đơn số 22/QĐ-CCTHADS ngày 21/3/2016 và phân công cho Chấp

hành viên tổ chức thi hành án. Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành

viên tiến hành xác minh tại sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình thì phát hiện

ngày 05 tháng 01 năm 2016 Công ty TNHH Ninh Khánh đã đăng ký thay đổi

người đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn Kim Thoa chức vụ: Chủ tịch hội

đồng thành viên kiêm giám đốc trong khi Tòa án nhân dân thành phố Ninh

Bình vẫn tuyên người đại diện theo pháp luật của công ty là ông Nguyễn Văn

Son chức vụ: Chủ tịch hội đồng thành viên kiêm giám đốc và ông Son vẫn đại

diện cho công ty TNHH Ninh Khánh làm việc với Tòa án và Chi cục Thi hành

án dân sự thành phố Ninh Bình là không đúng với quy định của pháp luật nên

ngày 05/4/2016 Chi cục THADS thành phố Ninh Bình đã tổ chức họp liên

ngành để bàn về việc tổ chức thi hành án. Tại cuộc họp liên ngành diễn ra tại

Chi cục THADS, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình không

đồng ý cho thực hiện việc tổ chức thi hành án, đồng thời đề nghị Chi cục

THADS thành phố Ninh Bình lùi thời gian tổ chức thi hành án lại với lý do:

59

Quyết định số 01/2016/QĐST-KDTM ngày 20/01/2016 của Tòa án nhân dân

thành phố Ninh Bình có nhiều thiếu sót, vi phạm cần phải xem xét lại. Đại diện

công an thành phố Ninh Bình cũng có ý kiến không thống nhất tổ chức cưỡng

chế thi hành án khi quyết định của Tòa án còn nhiều điểm thiếu sót, vi phạm.

Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã có văn bản đề nghị Viện Kiểm sát

nhân dân cấp cao tại Hà Nội kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với

Quyết định số 01/2016/QĐST-KDTM của Tòa án nhân dân thành phố Ninh

Bình. Sau 01 năm chờ kết quả giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, ngày

25/6/2017 Chi cục THADS thành phố Ninh Bình mới nhận được quyết định

công nhận sự thỏa thuận số: 05/2017/QĐST-KDTM ngày 08/5/2017 và công

văn số: 435/CV-TA ngày 21/6/2017 của TAND thành phố Ninh Bình để tổ

chức thực hiện việc thi hành án đối với Công ty TNHH Ninh Khánh.

Như vậy cho thấy Tòa án đã thiếu thận trọng trong việc điều tra, xác

minh làm rõ dẫn đến việc tuyên án chưa chính xác.

Thứ tư, do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 nên việc phối hợp để triển

khai việc xác minh, đôn đốc án tại cơ sở, họp bàn giải quyết thi hành án hay

tổ chức cưỡng chế có huy động lực lượng bị hạn chế. Bên cạnh đó, việc yêu

cầu đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội để chuẩn bị đại hội Đảng các cấp

được tính đến nên phần nào có ảnh hưởng đến công tác thi hành án dân sự.

Thứ năm, kinh tế khó khăn, đời sống thu nhập của người dân bị giảm sút,

doanh nghiệp làm ăn không phát triển cũng có ảnh hưởng đến tiến độ giải

quyết án. Một số vụ việc thi hành cho các tổ chức tín dụng, Ngân hàng có số

tiền phải thi hành án lớn khi cơ quan thi hành án xử lý tài sản bảo đảm thu

được số tiền nhỏ hơn nhiều so với nghĩa vụ phải thi hành án, ngoài tài sản đã

xử lý thì người phải thi hành án không còn tài sản nào khác nên phần nghĩa vụ

còn lại không có điều kiện thi hành đã làm tăng lượng việc và tiền tồn chuyển

kỳ sau.

60

Tiểu kết chƣơng 2

Trong những năm vừa qua Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến vấn

đề thi hành án dân sự, việc ban hành Luật THADS sửa đổi 2014 đã phần nào

đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đang đòi hỏi, nâng cao được vị thế của cơ

quan thi hành án, tăng cường được sự phối hợp hiệp đồng của các ngành hữu

quan, tổ chức xã hội với công tác cưỡng chế thi hành án, thúc đẩy xã hội hóa

về công tác thi hành án nói chung và cưỡng chế thi hành án nói riêng.

Tỉnh Ninh Bình là một tỉnh với những đặc thù về kinh tế - xã hội riêng

biệt, thời gian qua, Ngành Thi hành án dân sự tỉnh đã được sự quan tâm và chỉ

đạo của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, Tỉnh ủy, UBND tỉnh các cơ

quan thi hành án dân sự trong tỉnh đã tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án

dân sự đạt được những kết quả nhất định. Song qua thực tiễn tổ chức thi hành

án và cưỡng chế thi hành án cũng còn thấy bộc lộ một số điểm vướng mắc của

Luật Thi hành án dân sự. Đó cũng là cơ sở đưa ra phương hướng và giải pháp

nâng cao hiệu quả về cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình.

61

Chƣơng 3

PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC

THỰCHIỆN CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ -

TỪ THỰC TIỄNTỈNH NINH BÌNH

3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành

án dân sự

3.1.1. Bảo đảm chặt chẽ về mặt thủ tục trong tổ chức thực hiện cưỡng

chế thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự là một quá trình gồm nhiều thủ tục pháp lý liên quan

chặt chẽ với nhau. Thủ tục ban đầu làm tiền đề cho thủ tục tiếp theo, giữacác

thủ tục phải chặt chẽ để đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

Trong khi đó, cưỡng chế THADS là một thủ tục nhạy cảm, ảnh hưởng

trực tiếp đến quyền lợi của các bên đương sự. Việc người dân khiếu nại, tố

cáo trong và sau khi tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án là điều khó tránh

khỏi. Do đó, khâu tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự cần phải

bảo đảm chặt chẽ về mặt thủ tục để hạn chế xảy ra sai sót dẫn đến việc khiếu

nại, tố cáo, đảm bảo chất lượng thi hành án, nâng cao sự tin tưởng của nhân

dân đối với cơ quan thi hành án.

Trên thực tế, nếu thủ tục ban đầu chấp hành viên không thực hiện được

một cách đầy đủ và đúng pháp luật, thì khi có khiếu nại phát sinh, cơ quan thi

hành án không có cơ sở bác khiếu nại của đương sự, người có quyền lợi,

nghĩa vụ liên quan, buộc phải công nhận khiếu nại là đúng thì cả một quá

trình thi hành án sẽ bị ngưng trệ, thậm chí phải làm lại từ đầu, gây tốn kém về

thời gian và tiền bạc của Nhà nước, không bảo đảm quyền lợi của các bên.

62

3.1.2. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, tổ chức và hiệu

quả quản lý nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế thi

hành án dân sự

Cưỡng chế thi hành án dân sự không được xem là thành công khi trong

quá trình cưỡng chế có hậu quả xấu xảy ra ảnh hưởng đến những người tham

gia cưỡng chế hoặc các bên đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Bởi vậy trước, trong và sau khi tổ chức cưỡng chế cần phải chú trọng một số

vấn đề cụ thể như sau:

Một là, chú trọng công tác giải thích, thuyết phục, động viên và tạo điều

kiện cho người phải thi hành án tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình theo

đúng quy định của pháp luật; hướng dẫn các bên đương sự thỏa thuận về việc

thi hành án nhằm hạn chế các xung đột giữa các bên; tổ chức tốt công tác tiếp

dân để giảm thiểu tình trạng khiếu nại, tố cáo của đương sự, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan.

Hai là, trường hợp bản án, quyết định của Tòa án có những điểm chưa rõ

ràng, không phù hợp với thực tế hoặc cần được xem xét lại theo thủ tục giám

đốc thẩm, tái thẩm thì yêu cầu Tòa án có văn bản giải thích, đính chính và yêu

cầu cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ba là, đối với những vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về mặt an ninh,

chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương cần báo cáo Ban Chỉ đạo

THADS để được hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế.

Bốn là, đối với những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án bị

đương sự khiếu nại gay gắt thì việc tổ chức thực hiện cưỡng chế phải hết sức

thận trọng. Trước khi tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự, Chấp hành viên

phụ trách vụ án cần chú ý nắm chắc tình hình địa bàn (địa hình, giao thông,

dân cư….), tình hình của đương sự (nhân thân, nhân khẩu, ý thức chấp hành

63

pháp luật…), dự liệu các tình huống (nhất là trong trường hợp có khả năng

gây hỏa hoạn, cháy nổ, sát thương…) để bố trí phương tiện, lực lượng và có

biện pháp xử lý phù hợp, đảm bảo việc cưỡng chế được an toàn, hiệu quả.

Năm là, phối hợp chặt chẽ, kịp thời với các cơ quan hữu quan để tranh thủ

sự đồng tình và thống nhất biện pháp giải quyết đối với các vấn đề phát sinh.

Sáu là, khi tổ chức cưỡng chế thi hành án, bên cạnh việc lập các biên bản

cần thiết theo đúng quy định của pháp luật, còn phải sử dụng các phương tiện

(máy ảnh, máy quay phim, máy ghi âm…) để ghi lại quá trình thực hiện

cưỡng chế, nhất là đối với những vụ việc phức tạp.

Bảy là, các tài liệu có ghi trong hồ sơ thi hành án phải đầy đủ, chặt chẽ,

đúng quy định pháp luật, thể hiện đúng kết quả thi hành án làm cơ sở cho việc

kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thuận lợi, chính xác,

khách quan.

3.2. Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án dânsự

3.2.1. Giải pháp chung

3.2.1.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án và

các quy định pháp luật liên quan

Thời gian qua Đảng và Nhà nước đã và đang tích cực quan tâm xây dựng

và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án, từ đó nâng cao

được vị thế của cơ quản lý thi hành án, cơ quan THADS, Ban chỉ đạo

THADS và công chức làm công tác thi hành án, nhiều quy định về trình tự,

thủ tục thi hành án, quy định về phối hợp thi hành án, trách nhiệm của các tổ

chức, cá nhân, quyền lợi nghĩa vụ của các bên đương sự và người có nghĩa vụ

liên quan đã được bổ sung và sửa đổi.

Hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự phụ thuộc rất lớn vào các quy

định của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án

64

dân sự nói riêng, trong đó có cưỡng chế thi hành án dân sự ở nước ta còn tồn

tại một số hạn chế, bất cập. Mặc dù Luật thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ

sung năm 2014) đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung về cưỡng chế thi hành án

dân sự, tuy nhiên, trong quá trình áp dụng thực hiện ở từng nội dung vẫn bộc

lộ nhiều thiếu sót, các văn bản hướng dẫn thi hành còn chưa được cụ thể hoặc

chưa quy định. Điều này đã gây ra khó khăn cho cơ quan THA và Chấp hành

viên, mặt khác làm cho các cơ quan Thanh tra, kiểm tra nhận thức pháp luật

khác với quan điểm của cơ quan THA, từ đó gây nhiều tranh cãi. Vì vậy,việc

hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là cấp thiết và cần tập

trung vào những nội dung sau:

Một là, quy định Ban chỉ đạo THADS ở các địa phương có trách nhiệm

cụ thể trong công tác chỉ đạo lực lượng thi hành án, lực lượng công an và các

lực lượng liên quan thực hiện nhiệm vụ cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế như

quy chế liên ngành.

Hai là, quy định cụ thể trách nhiệm chủ động phối hợp của các lực lượng

chức năng tham gia cưỡng chế, trách nhiệm tổ chức phối hợp của Thủ trưởng

các cơ quan này. Trong đó, cần quy định cụ thể trách nhiệm giáo dục cán bộ,

công chức để họ có nhận thức đúng đắn về công tác bảo vệ cưỡng chế

THADS, tránh tư tưởng cho rằng đây là việc làm giúp cơ quan THA hoặc cho

rằng việc bảo vệ cưỡng chế chỉ cần lực lượng công an mà không huy động

các lực lượng khác tham gia bảo vệ.

Ba là, tăng cường quyền hạn cho Chấp hành viên trong tổ chức thực hiện

cưỡng chế thi hành án dân sự, tạo điều kiện thuận lợi trong việc xác minh điều

kiện cưỡng chế thi hành án, nhất là trong việc xác minh tài sản của người phải

thi hành án để áp dụng đúng biện pháp cưỡng chế THADS.

Bốn là, tăng cường trách nhiệm của Tòa án trong cưỡng chế thi hành án

dân sự, theo đó xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong thi hành án

65

dân sự theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, như phối hợp trong

việc ban hành văn bản pháp luật về thi hành án dân sự; giải quyết yêu cầu,

kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự về việc xem xét lại bản án, quyết

định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn 90 ngày

kể từ ngày nhận được kiến nghị.

Năm là, quy định cụ thể về xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án

dân sự. Cụ thể, cần yêu cầu xác minh những nội dung sau: Xác minh điều

kiện cưỡng chế thi hành án dân sự được tiến hành tại nơi sinh sống, thường

trú, nơi làm việc của đối tượng bị cưỡng chế; Xác minh về nhân thân, nhận

thức xác hội, có biểu hiện thái độ chống đối như thách thức, đe dọa, có chuẩn

bị hung khí, lực lượng để chống đối hay không; Xác minh về quan điểm của

địa phương và thái độ của dư luận đối với vụ án; Xác minh điều kiện, đặc

điểm địa hình, đặc điểm dân cư, giao thông đi lại tại nơi cưỡng chế để khi cần

điều động lực lượng, phương tiện phù hợp bảo đảm cho việc cưỡng chế thi

hành án dân sự thành công.

Sáu là, bổ sung quy định chi tiết về cưỡng chế thi hành án dân sự đối với một

số tài sản đặc thù, phù hợp vớ Bộ luật dân sự, nhất là những tài sản chưa được quy

định trong Luật THADS như: quyền tài sản là quyền hưởng dụng, quyền bề mặt,

quyền đối với bất động sản liền kề, tài sản hình thành trong tương lai.

3.2.1.2. Nâng cao năng lực cơ quan thi hành án dân sự

Kiến nghị Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự tăng thêm biên chế,

mở rộng việc luân chuyển cán bộ ra ngoài phạm vi cơ quan thi hành án dân sự

nhằm thu hút những người có năng lực vào làm việc. Có chính sách đãi ngộ đối

với tất cả công chức thi hành án dân sự, hỗ trợ đầy đủ, kịp thời kinh phí, cơ sở

vật chất, phương tiện hoạt động và trang thiết bị làm việc cho cơ quan THADS.

Không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động thi tuyển chấp

hành viên, thẩm tra viên, thư ký thi hành án để qua mỗi kỳ thi tuyển chọn

66

được những công chức có đủ điều kiện về trình độ tiêu chuẩn, năng lực và

phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

Nghiên cứu xây dựng phương án sử dụng tối ưu nguồn lực con người.

Thường xuyên rà soát, cân đối nhu cầu của từng đơn vị thi hành án, đánh giá

khối lượng công việc ở từng đơn vị, từ đó thực hiện việc luân chuyển, điều

động hỗ trợ cho các đơn vị có khối lượng công việc nhiều nhằm sử dụng tối

ưu nguồn nhân lực hiện có vào công tác THADS.

Đề cao công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho

đội ngũ cán bộ, công chức trong toàn ngành. Thường xuyên tổ chức tập huấn

về chuyên môn, nghiệp vụ, quán triệt đầy đủ các quy định của pháp luật về thi

hành án và pháp luật có liên quan đến công tác THADS (VD: Bộ luật Dân sự,

Luật thương mại, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật đấu giá tài sản...)

cho cán bộ, Chấp hành viên để nâng cao năng lực tổ chức thi hành án.

Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành của Cục Thi

hành án dân sự cấp tỉnh và Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thành phố,

đồng thời thường xuyên phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ

quan hữu quan khác ở địa phương. Ban Chỉ đạo THADS các cấp chỉ đạo tổ

chức cưỡng chế các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh chính trị tại

địa phương; phối hợp chặt chẽ với Tổng cục THADSchỉ đạo các cơ quan thi

hành án dân sự địa phương tăng cường công tác chỉ đạo kiểm tra, thanh tra,

giám sát của các cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật; kịp thời

khắc phục những thiếu sót và sai phạm trong công tác thi hành án dân sự.

Hàng năm, thông qua hoạt động thực tiễn trong công tác thi hành án,

Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh phải tổng kết đánh giá các chuyên đề, lĩnh

vực mà khi tiến hành tổ chức thi hành án dân sự gặp phải khó khăn, qua đó

kiến nghị Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự kịp thời tham mưu cho

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu hoàn thiện thể chế, chính sách

67

pháp luật về thi hành án dân sự để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong

thực tiễn.

Thường xuyên thống kê, tổng rà soát, phân loại án theo quy định từ đó

lập kế hoạch tổ chức thi hành án cụ thể phù hợp với từng địa phương, từng

giai đoạn; chỉ đạo thực hiện các đợt thi hành án cao điểm nhằm thi hành dứt

điểm các vụ việc có điều kiện thi hành, làm giảm đến mức thấp nhất số việc

thi hành án có điều kiện tồn đọng.

Thường xuyên thực hiện việc hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc và đánh giá

tình hình thực hiện nhiệm vụ, chỉ tiêu được giao đối với các cơ quan Thi hành

án dân sự địa phương, từ đó phát hiện những điển hình để nhân rộng và hạn

chế những yếu kém trong THADS.

Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra công tác thi hành án nhằm

phát hiện và khắc phục kịp thời các sai phạm. Cơ chế kiểm soát cũng như mở

rộng sự giám sát của nhân dân, nhất là của các đương sự và những người có

quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để hạn chế thấp nhất những sai phạm và tiêu

cực trong THA. Kết hợp kiểm tra về thống kê phân loại án, nghiệp vụ thi

hành án với kiểm tra về công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý tài chính,

quản lý tài sản và đầu tư xây dựng cơ bản.

Trong công tác kiểm tra cần trú trọng công tác hậu kiểm nhằm đánh giá

việc thực hiện kết luận kiểm tra, nhất là biện pháp khắc phục những sai sót trong

các kết luận kiểm tra. Bên cạnh đó cần quan tâm, đánh giá, tổng kết những mặt

mạnh, yếu phát hiện được trong quá trình kiểm tra, từ đó nghiên cứu, tổng hợp

để thực hiện ban hành mới hoặc sửa đổi những quy định của pháp luật không

còn phù hợp với thực tiễn hoặc ban hành văn bản chỉ đạo thực hiện chung trong

toàn quốc nhằm tạo sự thống nhất trong tổ chức THADS.

68

3.2.1.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành

án dân sự đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án dân sự nghiêm minh

Cưỡng chế THADS không chỉ nhằm giải quyết dứt điểm bản án, quyết

định của Tòa án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ

chức và công dân mà còn nhằm giáo dục cho các thành viên trong xã hội ý

thức tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của người khác khi thực hiện các

quyền và nghĩa vụ của mình.

Thông qua cưỡng chế THADS các CHV phải tích cực, chủ động trong

công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là các văn bản pháp luật về

THADS bằng nhiều hình thức (ví dụ: phát huy đài truyền thanh từ xa đến khu

dân cư; tuyên truyền trong khi giải quyết việc THA; tuyên truyền qua báo đài;

hoặc trực tiếp từ người thân, bạn bè của đương sự...). Việc tuyên truyền, phổ

biến pháp luật phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng

điểm, phù hợp với từng đối tượng ở từng vụ việc cụ thể nhằm tạo sự chuyển

biến cơ bản trong nhận thức của đội ngũ công chức, viên chức, người lao

động thuộc hệ thống thi hành án dân sự; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật

về thi hành án trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đương sự và các đối tượng

có liên quan. Đây là một quan điểm quan trọng mà các CHV phải nắm vững

trong quá trình giải quyết THA, cũng như cưỡng chế THADS của cơ quan

THADS, vì nó có tác dụng giáo dục ý thức tuân theo pháp luật trực tiếp đối

với các đương sự và các thành viên khác trong xã hội.

3.2.2. Giải pháp với tỉnh Ninh Bình

3.2.2.1. Nâng cao năng lực của đội ngũ chấp hành viên

- Sử dụng tối ưu nguồn nhân lực hiện có: Hàng năm, Cục Thi hành án

dân sự tỉnh cần thường xuyên rà soát, cân đối nhu cầu của từng đơn vị thi

hành án trên địa bàn, khoanh vùng những địa bàn có nhiều vụ việc phức tạp,

tồn đọng kéo dài để thực hiện kế hoạch luân chuyển, chuyển đổi vị trí công

69

tác hay biệt phái đối với chấp hành viên tránh nơi thừa, nơi thiếu hoặc kịp

thời tăng cường cho các đơn vị tăng đột biến về việc, tiền để tập trung giải

quyết các vụ việc, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhất là chỉ tiêu thi hành

án xong về việc, về tiền do Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS và Ban Chỉ đạo

THADS tỉnh giao.

- Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ Chấp hành viên, công chức cơ

quan thi hành án dân sự: Tổng cục thi hành án dân sự và Cục thi hành án dân

sự tỉnh Ninh Bình cần quan tâm rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ Chấp

hành viên, công chức thi hành án dân sự để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng

nhằm đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ. Có chính sách

khuyến khích, động viên, hỗ trợ cho cán bộ đi học tập, nâng cao trình độ, có

chính sách đào tạo nguồn cán bộ tại chỗ và thu hút những người có trình độ

về công tác tại các cơ quan thi hành án huyện, xa trung tâm thành phố. Đào

tạo, bồi dưỡng khả năng áp dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý, điều

hành công việc. Xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên,

những người làm công tác thi hành án áp dụng thống nhất trong toàn tỉnh.

- Bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ về các quy định mới của pháp luật về

thi hành án đến đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án qua

giao ban tuần, tháng, qua xử lý các vụ việc cụ thể phát huy tính sáng tạo của

từng cán bộ trong các giải pháp thi hành án đối với các vụ việc khó thi hành.

Kiên quyết tổ chức cưỡng chế đối với các vụ việc có điều kiện nhưng bây

cưa, chây ỳ, lẩn tránh việc thi hành án. Vận động, giáo dục, thuyết phục

đương sự là chính, áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết đảm bảo tính

răn đe, phòng ngừa.

- Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động thực thi

công vụ của đội ngũ chấp hành viên thông qua việc theo dõi, nắm bắt tình

hình hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện, thành phố kịp

thời hướng dẫn nghiệp vụ, đưa ra các phương án giúp cho các Chi cục giải

70

quyết các vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài; kịp thời phát hiện, khắc phục

hạn chế đến mức thấp nhất các vi phạm; xử lý nghiêm tập thể, cá nhân có sai

phạm trong quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ.

- Nghiên cứu, xây dựng chế độ chính sách đãi ngộ với chấp hành viên và

cán bộ thi hành án, trước mắt là chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ thi hành án như

với thư ký toà án (hiện mới chỉ có chế độ bồi dưỡng đối với Chấp hành viên).

- Tổ chức tốt công tác thi đua, khen thưởng trong công tác thi hành án

dân sự nhằm tạo động lực khuyến khích Chấp hành viên, cán bộ, công chức

cơ quan thi hành án hằng hái hoàn thành nhiệm vụ.

3.2.2.2. Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho

nhân dân

Thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình cho thấy công tác

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thi hành án dân sự còn chưa thực

sự hiệu quả, chưa phát huy hết được vai trò của cả hệ thống chính trị tham gia

vào công tác thi hành án. Vì vậy, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ

biến giáo dục pháp luật, thông tin kịp thời các hoạt động về thi hành án dân

sự, đặc biệt là về cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm tạo ảnh hưởng tích cực

đối với cơ quan, tổ chức và nhân dân trên địa bàn tỉnh, coi đây là một trong

những giải pháp pháp trọng tâm sẽ nâng cao nhận thức cho những đối tượng

trực tiếp liên quan đến việc thi hành án dân sự và nhân dân; giúp cho họ nắm

rõ được các quyền, nghĩa vụ của mình, nâng cao khả năng tự bảo vệ mình,

trong đó trú trọng với các hình thức sau:

Các cấp ủy Đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh cần quan tâm hơn nữa

công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan

như Hội đồng nhân dân, Cơ quan Tư pháp, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát,

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng thực hiện

công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật thi hành án dân sự, coi đây

71

là hoạt động thường xuyên, liên tục của cấp ủy, chính quyền địa phương.

Đối với tỉnh Ninh Bình còn một số xã miền núi, dân cư không tập trung,

giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí chưa đồng đều, do đó các cơ quan

chức năng khi xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền phổ biến giáo

dục pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án nói riêng phải tính đến

đặc điểm vùng, miền, đối tượng để có giải pháp phù hợp.

Xây dựng hình thức phổ biến tuyên truyền pháp luật về thi hành án phù

hợp với từng xã, phường, từng vụ việc cụ thể như: thông qua đài phát thanh,

tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về luật thi hành án dân sự, để làm được điều đó,

cơ quan thi hành án cần thông qua chương trình, kế hoạch với Ban chỉ đạo thi

hành án thành phố và Thường trực Ủy ban nhân dân; tham mưu cho Chủ tịch

Ủy ban nhân dân ra chỉ thị cho Ủy ban nhân dân các xã, phường thực hiện

việc phổ biến, tuyên truyền dưới hình thức thông báo về thi hành án trên hệ

thống loa truyền thanh cơ sở; Ủy ban nhân dân xã, Mặt trận Tổ quốc xã chủ

trì việc chỉ đạo phối hợp với cơ quan Thi hành án trong công tác thi hành án.

Chi cục Thi hành án dân sự cùng với các Phòng Tư pháp xây dựng chương

trình kế hoạch hàng tuần, tháng để phổ biến tuyên truyền và thi hành án pháp

luật trên địa bàn thành phố; Chi cục Thi hành án dân sự thành phố rà soát và

lập danh sách các vụ việc cần thiết phải thông báo trên địa bàn, thông báo đối

với từng vụ việc cụ thể giao cho Ủy ban nhân dân các xã, phường thực hiện

việc thông báo trên hệ thống loa truyền thanh.

Ngoài giải pháp tuyên truyền thông qua hình thức thông báo về thi hành

án qua hệ thống truyền thanh cơ sở thì cũng cần quan tâm đến các hình thức

tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật khác như: tuyên truyền trong trại

giam đối với các đối tượng đang thi hành án phạt tù, cần phổ biến cho họ nếu

thi hành xong phần nghĩa vụ dân sự thì được xem xét để giảm án hoặc đặc xá.

Tuyên truyền trên Đài phát thanh truyền hình của tỉnh và thành phố. Tuyên

truyền thông qua sinh hoạt của các tổ chức, đoàn thể, thông qua việc giáo dục,

72

thuyết phục trực tiếp của cán bộ chính quyền, đảng viên, cán bộ, đoàn thể,

hòa giải viên, tổ trưởng tổ dân phố và những người có uy tín trong cộng đồng

dân cư nhằm tạo sự đồng thuận trong cộng đồng dân cư.

Thông qua hoạt động thi hành án, đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ làm

công tác thi hành án dân sự cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến,

giáo dục pháp luật, tích cực động viên thuyết phục người phải thi hành án tự

nguyện thi hành, xác định rõ đối tượng cần tuyên truyền, thuyết phục để có

biện pháp tuyên truyền phù hợp, tránh sự lặp lại dẫn đến nhàm chán, tạo sự lôi

cuốn của công tác tuyên truyền. Khi thực hiện, Chấp hành viên phải nắm rõ

nội dung vụ việc, bản án đã tuyên, tìm hiểu kỹ hoàn cảnh người phải thi hành

án, có vụ việc cần phải thấm nhuần nguyên tắc “mưa dầm thấm lâu” để thuyết

phục người phải thi hành án và gia đình họ tự nguyện thi hành án...

Để làm tốt công tác này, đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ làm công tác

thi hành án dân sự cần tích cực học tập để nâng cao trình độ lý luận, thường

xuyên trau dồi đạo đức, tác phong, kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, tích

lũy kinh nghiệm, có bản lĩnh chính trị và bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng vận

dụng sáng tạo, linh hoạt, đúng pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án.

3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về cưỡng chế thi

hành án dân sự

Một là, nâng cao nhận thức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội

ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự.

Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức

trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự

trong việc tổ chức thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo bảo đảm áp dụng

đúng quy định pháp luật; không để xảy ra sai phạm dẫn đến khiếu nại, tố cáo.

Bố trí cán bộ có năng lực, tâm huyết, có trách nhiệm để làm công tác

giải quyết khiếu nại, tố cáo; xử lý kỷ luật nghiêm khắc các trường hợp có sai

73

phạm, lòng vòng, tiêu cực trong quá trình tổ chức thi hành án, tiếp dân, giải

quyết khiếu nại, tố cáo; những trường hợp bị sửa đổi, hủy hoặc thu hồi quyết

định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo và tồn đọng nhiều vụ việc khiếu nại,

tố cáo phức tạp kéo dài.

Hai là, tiếp tục tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu

nại, tố cáo phức tạp, kéo dài.

Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tháo

gỡ khó khăn, vướng mắc, phối hợp với các cấp chính quyền địa phương và

các cơ quan tư pháp địa phương Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát

nhân dân để chỉ đạo các Chi cục THADS cấp huyện trong việc bảo vệ cưỡng

chế, kịp thời giải thích bản án hoặc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong

quá trình thực hiện cưỡng chế thi hành án; lập hồ sơ bảo đảm tài chính, cấp

kinh phí bồi thường.

Đôn đốc, chỉ đạo tích cực tổ chức thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố

cáo đúng pháp luật, hợp tình, hợp lý, tranh thủ sự ủng hộ của cấp ủy, chính

quyền địa phương để tổ chức cưỡng chế thi hành án dứt điểm các vụ việc có

điều kiện thi hành án.

Khẩn trương rà soát, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp

kéo dài có phương án thực hiện, đặt ra tiến độ giải quyết xong đối với từng vụ

việc, kịp thời báo cáo Ban Chỉ đạo THADS để chỉ đạo công tác phối hợp

trong việc tổ chức cưỡng chế thi hành án các vụ việc trọng điểm, đề xuất

Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục làm việc với cấp ủy, chính quyền địa

phương đối với vụ việc chưa có sự đồng thuận, ủng hộ trong việc chỉ đạo tổ

chức thi hành án.

Đối với vụ việc có vướng mắc từ bản án, quyết định của Tòa án cần chủ

động có văn bản và bám sát kết quả giải quyết của Tòa án, trả lời của cơ quan có

thẩm quyền để tổ chức thi hành án kịp thời vụ việc ngay khi có kết quả giải quyết.

74

3.2.2.4. Tăng cường phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các

cơ quan hữu quan trong tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự

Trong những năm qua, từ thực tiễn cho thấy việc phối hợp tốt với các cơ

quan, tổ chức, ban ngành có liên quan trong công tác cưỡng chế thi hành án

dân sự là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng, góp phần quyết định

thành công hay thất bại của công tác thi hành án dân sự. Trên thực tế, khi tổ

chức thực hiện cưỡng chế THADS là cả một quá trình. Cơ quan thi hành án

dân sự không thể tự mình thực hiện tất cả các công việc mà phải cần có sự

phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan.Trong quá trình tổ chức thực

hiện cưỡng chế thi hành án, những vấn đề liên quan đến quyền sử dụng đất thì

cần sự phối hợp với cơ quan quản lý tài nguyên và mối trường, cơ quan đăng

ký biện pháp bảo đảm; những vấn đề liên quan đến đảm bảo an ninh – trật tự

trong các vụ việc cưỡng chế phức tạp thì cần sự phối hợp với lực lượng công

an; những vấn đề liên quan đến công tác xác minh, kê biên tài sản của người

phải thi hành án, tiến hành cưỡng chế một vụ việc thì cần sự phối hợp của cơ

quan chính quyền địa phương nơi người phải thi hành án sinh sống... Do vậy

việc phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan là một trong những yếu tố quan

trọng quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.

Để nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án

trong thời gian tới, Cục Thi hành án dân sự tỉnh tiếp tục tăng cường công tác

phối hợp, tranh thủ sự ủng hộ của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các

cơ quan, sở ban ngành liên quan trong việc hỗ trợ để cơ quan thi hành án dân sự

hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt cần phát huy tốt vai trò, chức năng của Ban Chỉ

đạo Thi hành án dân sự. Làm tốt công tác này sẽ tạo nên rất nhiều điều kiện

thuận lợi cho cơ quan Thi hành án dân sự giải quyết tốt những vụ án phức tạp,

tồn đọng, kéo dài cần phải tổ chức cưỡng chế thi hành tại địa phương.

Trong đó, Cục THADS tỉnh sẽ đôn đốc việc tổ chức ký kết quy chế phối

hợp liên ngành trong công tác thi hành án trên địa bàn các huyện, thành phố

75

và triển khai thực hiện quy chế đã ký kết. Tập trung, chú trọng hơn nữa công

tác phối hợp trong xử lý các vướng mắc, khó khăn trong tổ chức thi hành

cưỡng chế đối với những vụ việc có tính chất phức tạp, chưa thống nhất về cơ

chế pháp luật để kịp thời đưa ra các đề xuất sửa đổi, bổ sung, góp ý. Tăng

cường sự phối hợp, cung cấp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan hữu quan.

Thường xuyên tổ chức tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ và tổ chức kiểm tra đối

với cấp huyện về việc triển khai thực hiện quy chế, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ

đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong công tácTHADS.

Đối với UBND tỉnh Ninh Bình và UBND các huyện, thành phố thuộc

tỉnh, tiếp tục kiện toàn hơn nữa Ban Chỉ đạo THADS, có kế hoạch công tác

cụ thể, thường xuyên, liên tục; duy trì chế độ giao ban thường xuyên nhằm

tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác thi hành

án dân sự. Đồng thời, chỉ đạo Ban Chỉ đạo THADS các huyện, thành phố việc

tổ chức phối hợp các cơ quan liên quan trong thi hành án dân sự trên địa bàn;

chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an

ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Cục

trưởng Cục Thi hành án dân sự và Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự

cấp huyện, thành phố.

Đối với các sở, ban, ngành và các cơ quan đơn vị có liên quan, căn cứ

chức năng, nhiệm vụ được giao và quy định của pháp luật có trách nhiệm phối

hợp chặt chẽ với các cơ quan thi hành án dân sự trong công tác thi hành án

dân sự nói chung và đặc biệt là trong công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi

hành án dân sự.

76

Tiểu kết chƣơng 3

Để đảm bảo cho công tác thi hành án dân sự được thực hiện nghiêm

chỉnh, đúng pháp luật, nâng cao được hiệu quả thi hành án dân sự vàhiệu quả

tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành ántrên địa bàn tỉnh Ninh Bình, trên cơ

sở nghiên cứu các quy định của pháp luật, các quan điểm, đường lối chỉ đạo

của Đảng về thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng và từ thực

trạng cưỡng chếthi hành án ở tỉnh Ninh Bình, trong chương 3, luận văn đã đề

ra các phương hướng bảo đảm tổ chức cưỡng chế thi hành án. Đồng thời, đã

đề xuất, phân tích các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi

hành án phù hợp với điều kiện hiện nay như sau: Nâng cao hiệu quả hoạt

động của Ban Chỉ đạo THADS các cấp; Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức thi hành án;Hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án

dân sự; Tăng cường phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan

hữu quan trong việc áp dụng pháp luật thi hành án dân sự; Đẩy mạnh tuyên

truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự và cần thiết phải

thực hiện xã hội hóa một phần công tác thi hành án dân sự.

Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện cưỡng chếthi hành

án dân sự trên địa bàn tỉnh Ninh Bình phải được đặt trong mối quan hệ giữa

định hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chếthi hành án dân sựvà hoàn thiện

cơ chế áp dụng biện pháp cưỡng chếthi hành án dân sựtừ đó nâng cao hiệu

quả tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sựtrên địa bàn tỉnh Ninh

Bình. Định hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chếthi hành án dân sựphải

được coi trọng, việc xây dựng hệ thống pháp luật thi hành án dân sựtrong đó

có chế định pháp luật về cưỡng chế cần được tiếp tục thực hiện. Việc cưỡng

chế thi hành án nói chung và thi hành cưỡng chế trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

77

nói riêng cần đảm bảo chặt chẽ về mặt thủ tục, được thực hiện đầy đủ các

bước chuẩn bị trước khi thực hiện, bảo đảm an toàn, hiệu quả trong quá trình

tổ chức thực hiện. Thực hiện tốt những điều này, việc tổ chức thực hiện

cưỡng chế sẽ diễn ra an toàn, thuận lợi và có hiệu quả tốt.

78

KẾT LUẬN

Hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong

việc giữ vững kỷ cương, ổn định xã hội, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật

xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi, đảm bảo các

bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế. Việc tổ chức thực

hiện cưỡng chế thi hành án dân sự đóng một vai trò rất quan trọng trong việc

đảm bảo hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án. Hiệu quả của việc cưỡng chế

là cơ sở, tiền đề cho sự thành công, hiệu quả của một vụ việc thi hành án về

tài sản khi đương sự không tự nguyện thi hành.

Sau hơn 1 thập kỷ triển khai thực hiện Luật thi hành án dân sự 2008 (

sửa đổi, bổ sung năm 2014) với sự cố gắng của các cơ quan,ban, ngành hữu

quan nói chung và các cơ quan thi hành án dân sự nói riêng, công tác tổ chức

cưỡng chế thi hành án dân sự đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được

những kết quả đáng ghi nhận. Công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành

án dân sự tại tỉnh Ninh Bình cũng đã đạt được những kết quả quan trọng, tỷ lệ

thi hành về việc và tiền đều đạt và vượt chỉ tiêu do Bộ Tư pháp đề ra, tổ chức

cưỡng chế kê biên, giải quyết được một số vụ án lớn tồn đọng, kéo dài, chất

lượng thi hành án ngày càng được nâng cao tạo được lòng tin của nhân dân

vào các cơ quan pháp luật.

Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn còn có những tồn tại, hạn chế do nhiều

nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác cưỡng chế thi hành án dân

sự nói riêng, hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự nói chung trên địa bàn

tỉnh Ninh Bình. Còn có những vi phạm trong khi tổ chức thi hành án của

Chấp hành viên và cán bộ thi hành án còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ.

Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này là từ: hệ thống pháp luật chưa hoàn

thiện; tính độc lập của chấp hành viên chưa được đảm bảo; sự phối hợp với

79

các cơ quan hữu quan chưa đồng bộ, kịp thời; một số bản án, quyết định của

Tòa án thiếu tính khả thi; ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa cao.

Vì vậy, trong thời gian tới đây cần phải có những giải pháp để khắc phục

những hạn chế này. Đó là, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về

thi hành án dân sự nói chung, quy định về tổ chức thực hiện cưỡng chế thi

hành án nói riêng nhằm tạo điều kiện cho các cơ quanthi hành án dân sự và

chấp hành viên có căn cứ pháp lý cụ thể, rõ ràng nhằm góp phần nâng cao

hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói riêng và việc bảo đảm cho một trật tự

pháp luật của Nhà nước nói chung, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; đảm

bảo bản án, quyết định của Tòa án có tính khả thi; đảm bảo tính độc lập trong

hoạt động tư pháp; xây dựng đội ngũ chấp hành viên, cán bộ thi hành án có

phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, bản lĩnh nghề nghiệp và nghiệp vụ

vững vàng. Xây dựng chương trình, kế hoạch thi hành án, tích cực giải quyết

án tồn đọng, tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan, bảo đảm kinh

phí, cơ sở vật chất cho hoạt động thi hành án, tăng cường sự lãnh đạo của cấp

ủy Đảng đối với công tác thi hành án, để đảm bảo hiệu quả thi hành án dân sự

bền vững. Công tác thi hành án dân sự cần phải xác định là nhiệm vụ của cả

hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở. Việc tổ chức thi hành án được công

khai, minh bạch, Chủ tịch xã, thị trấn, trưởng xóm và các tổ chức chính trị tại

địa phương nắm rõ nội dung vụ việc cung phối hợp với Chấp hành viên tổ

chức thi hành án và phân loại án chính xác hơn do địa phương nắm cụ thể

những vụ việc có, chưa có điều kiện thi hành án. Bên cạnh đó nắm bắt kịp

thời tâm tư, nguyện vọng của người được thi hành án và phải thi hành án để

thuyết phục, vận động tự nguyện thi hành án, làm giảm đi mức độ phức tạp

phải sử dụng đến việc cưỡng chế ở địa phương.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp cải cách, đổi mới tư duy, hoàn thiện

khung pháp luật và cơ chế áp dụng sẽkhắc phục được những vấn đề tồn tại

80

đang gây bức xúc ở địa phương, tạo sự chuyển biến cơ bản và bền vững trong

công tác Thi hành án dân sự của tỉnh Ninh Bình, tạo những tác động thực tế

đến việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành các bản án, quyết định của Tòa

án, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; thúc đẩy công cuộc

cải cách tư pháp, góp phầngiữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,

tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Thị Vân Anh (2016),“Thủ tục thi hành án dân sự trong pháp luật thi

hành án dân sự Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học tại Đại

học Quốc gia Hà Nội.

2. Hoàng Thế Anh (2013), Giám sát thi hành án dân sự, Luận án Tiến sĩ

Luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội.

3. Ban Chấp hành trung ương (2014), Kết luận số 92-KL/TW, ngày

12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-

NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách

tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

6. Bộ Tài chính - Thông tư số 200/2016/TT-BTC, ngày 09/11/2016 của Bộ

Tài chính, Quy định việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí

bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, kinh phí cưỡng chế

thi hành án dân sự, Hà Nội.

7. Bộ Tài chính (2016), “hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng

phí thi hành án dân sự”Thông tư liên tịch số 216/2016/TT-BTCcủa Bộ

Tài chính, Bộ Tư pháp,Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Lao động thương binh xã hội - Ngân

hàng nhà nước Việt Nam (2014); hướng dẫn việc cung cấp thông tin về

tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong tỏa,

khấu trừ để thi hành án.Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-

BLĐTBXH-NHNNVN, Hà Nội.

82

9. Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao

(2016), hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối

hợp liên ngành trong thi hành án dân sự. Thông tư liên tịch số

11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC, Hà Nội.

10. Bộ Tư pháp-Bộ Công an (2012), quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ

cưỡng chế trong thi hành án dân sự. Thông tư liên tịch số

03/2012/TTLT-BTP-BCA, Hà Nội.

11. Chính phủ (2015), quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều

của Luật Thi hành án dân sự.Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Hà Nội.

12. Chính phủ (2017), “về việc tăng cường công tác thi hành án dân sự”.Chỉ

thị số 05/CT-TTg, Hà Nội.

13. Nguyễn Văn Công (2012), Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học tại

Đại học Quốc gia Hà Nội.

14. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2015), Tài liệu Hội nghị triển

khai công tác thi hành án dân sự năm 2015, Ninh Bình.

15. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2016), Tài liệu Hội nghị triển

khai công tác thi hành án dân sự năm 2016, Ninh Bình.

16. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2017), Tài liệu Hội nghị triển

khai công tác thi hành án dân sự năm 2017, Ninh Bình.

17. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2018), Tài liệu Hội nghị triển

khai công tác thi hành án dân sự năm 2018, Ninh Bình.

18. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2019), Tài liệu Hội nghị triển

khai công tác thi hành án dân sự năm 2019, Ninh Bình.

19. Nguyễn Minh Đoan (2014), Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp.

20. Lê Thu Hà (Chủ biên) (2012), Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

21. Đào Thị Thanh Hòa (2020), Cưỡng chế thi hành án dân sự, Từ thực tiễn

83

Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương,

Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

22. Lương Ngọc Hưng (2018), Cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn

tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sĩ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt

Nam – Học viện Khoa học xã hội.

23. Nguyễn Đình Kiên (2016), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự

liên quan đến đất ở theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Bình

Giang, tỉnh Hải Dương, luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học

xã hội.

24. Nguyễn Văn Luyện - Nguyễn Thanh Thủy (Chủ biên) (2012), Sổ tay

nghiệp vụ thi hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

25. Nguyễn Thị Mai (2016), Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình,

Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

26. Lê Đình Nam (2012), Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền

trong hoạt động thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận

văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học quốc gia Hà Nội.

27. Hoàng Văn Nam (2011), “Vài ý kiến về xã hội hóa việc thi hành án dân

sự từ quan điểm tài chính”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề

về thi hành án dân sự).

28. Lưu Bình Nhưỡng (2015), Xã hội hóa công tác thi hành án theo tinh

thần cải cách tư pháp, Dân chủ và pháp luật ( số 7), tr.11-16.

29. Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại năm 2011, Hà Nội.

30. Quốc hội (2011), Luật Tố cáo năm 2011, Hà Nội.

31. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

32. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Hà Nội.

33. Quốc hội (1946), Hiến pháp năm 1946, Hà Nội.

34. Quốc hội (1959), Hiến pháp năm 1959, Hà Nội.

35. Quốc hội (1980), Hiến pháp năm 1980, Hà Nội.

84

36. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hà Nội.

37. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.

38. Quốc hội (2013), Luật Đất đai năm 2013, Hà Nội.

39. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

40. Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự năm 2014 (sửa đổi, bổ sung),

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

41. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về

công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện

kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm

2016 và các năm tiếp theo, Hà Nội.

42. Trần Phương Thảo (2007), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự,

Tạp chí luật học (số 7), tr. 43-50.

43. Bùi Đức Tiến (2018), Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án

dân sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học tại Học viện Chính trị

Quốc gia Hồ Chí Minh.

44. Nguyễn Thị Trang (2018), Nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành án

dân sự, Tạp chí dân chủ pháp luật, (Pháp luật về thi hành án dân sự),

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

45. Lê Anh Tuấn (2017), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi

hành án dân sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.

46. Lê Anh Tuấn (2012), Kỹ năng áp dụng các biện pháp bảo đảm trong thi

hành án dân sự và kỹ năng cưỡng chế thi hành án dân sự,Hà Nội.

47. Lê Xuân Tùng (2016), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở

thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Hàn lâm

Khoa học xã hội Việt Nam – Học viện Khoa học xã hội.

48. Tổng cục Thi hành án dân sự (2014),Quyết định số 824/QĐ-TCTHA,

ngày 03/12/2014 về việc ban hành quy trình hướng dẫn nghiệp vụ thi

hành án dân sự trong nội bộ ngành thi hành án dân sự, Hà Nội.

85