BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/…………
…/…
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
BÙI THỊ MỸ LINH
TÔ CHỨC THỰC HIỆN CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
HÀ NỘI - NĂM 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/………… …/…
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
BÙI THỊ MỸ LINH
TÔ CHỨC THỰC HIỆN CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ - TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH BÌNH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI THỊ THANH THÚY
HÀ NỘI – NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Bùi Thị Thanh Thúy. Các số
liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác
và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Bùi Thị Mỹ Linh
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian học tập và nghiên cứu, để hoàn thành luận văn đề tài “Tổ
chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình”,
tôi đã nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cô giáo Học viện
Hành chính Quốc gia Hà Nội cũng như sự quan tâm, ủng hộ của gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp.
Lời đầu tiên, tôi xin chân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu, Khoa Đào tạo
sau Đại học Học viện Hành chính Quốc gia Hà Nội, các thầy cô giáo đã tham
gia quản lý, giảng dạy và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Với tất cả tấm lòng biết ơn và kính trọng sâu sắc nhất, tôi xin gửi lời
cảm ơn tới Tiến sĩ Bùi Thị Thanh Thúy, người đã hướng dẫn rất tận tình, luôn
dành cho tôi những ý kiến đóng góp quý báu và thiết thực nhất để tôi có thể
hoàn thành công trình nghiên cứu này một cách tốt nhất.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo và các đồng nghiệp đang công
tác tại cơ quan thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình đã không ngừng hỗ trợ và
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tôi trong suốt quá trình học tập nghiên cứu
cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Tuy có nhiều cố gắng nhưng về mặt kiến thức và thời gian còn hạn chế,
luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi mong được sự đóng góp ý
kiến của các thầy cô và mọi người để luận văn hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng năm
TÁC GIẢ
Bùi Thị Mỹ Linh
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC THỰC
HIỆN CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .......................................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi
hành án dân sự ............................................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự ....................................... 9
1.1.2. Khái niệm tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ......... 11
1.1.3. Đặc điểm của tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ... 13
1.1.4. Vai trò của tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ........ 16
1.2. Nội dung và các yếu tố ảnh hƣởng đến tổ chức thực hiện cƣỡng chế
thi hành án dân sự .................................................................................... 18
1.2.1. Nội dung tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự .......... 18
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân
sự ............................................................................................................ 28
Tiểu kết chƣơng 1 ......................................................................................... 33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN CƢỠNG CHẾ THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH ..................... 34
2.1. Tình hình kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc phòng tỉnh Ninh
Bình và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình .................................. 34
2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc
phòng tỉnh Ninh Bình có ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện cưỡng chế
thihành án dân sự .................................................................................... 34
2.1.2. Khái quát về Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình .................. 36
2.2. Tình hình tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án dân sự trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình ................................................................................... 39
2.2.1. Lập kế hoạch, ban hành văn bản triển khai cưỡng chế thi hành án
dân sự...................................................................................................... 39
2.2.2. Triển khai thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự ...................... 42
2.2.3. Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự ................................................................................................. 46
2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cưỡng chế thi hành án dân sự
................................................................................................................ 47
2.2.5. Sơ kết, tổng kết, đánh giá thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự . 49
2.3. Đánh giá chung .................................................................................. 51
2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân .............................................................. 54
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân .............................................................. 55
Tiểu kết chƣơng 2 ......................................................................................... 61
Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC
THỰCHIỆN CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ - TỪ THỰC
TIỄNTỈNH NINH BÌNH ............................................................................. 62
3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án
dân sự ......................................................................................................... 62
3.1.1. Bảo đảm chặt chẽ về mặt thủ tục trong tổ chức thực hiện cưỡng
chế thi hành án dân sự ............................................................................ 62
3.1.2. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, tổ chức và hiệu quả
quản lý nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành
án dân sự ................................................................................................. 63
3.2. Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án dânsự . 64
3.2.1. Giải pháp chung ............................................................................ 64
3.2.2. Giải pháp với tỉnh Ninh Bình ....................................................... 69
Tiểu kết chƣơng 3 ......................................................................................... 77
KẾT LUẬN ................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 82
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chấp hành viên CHV
Hội đồng nhân dân HĐND
Phổ biến giáo dục pháp luật PBGDPL
Thi hành án THA
Thi hành án dân sự THADS
Uỷ ban nhân dân UBND
Viện Kiểm sát nhân dân VKSND
Văn bản quy phạm pháp luật VBQPPL
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Kết quả THADS về việc giai đoạn 2016 - 2020. ........................... 42
Bảng 2.2: Kết quả THADS về tiền giai đoạn 2016 - 2020. ............................ 43
Bảng 2.3: Thống kê các việc THADS phải tổ chức cưỡng chế giai đoạn
2016-2020 ....................................................................................................... 45
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự (THADS) – là một loại hình thi hành án, có vai trò
quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và trong quá trình giải quyết
các vụ án nói riêng. Công tác THADS là khâu cuối của quá trình tố tụng, bảo
đảm cho những bản án, quyết định của Tòa án được đưa ra tổ chức thi hành
trên thực tế, góp phần bảo vệ tính nghiêm minh của pháp luật, tăng cường
hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Mặt khác,
THADS còn là công cụ hữu hiệu để khôi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân bị xâm hại. Hiệu quả của hoạt động THADS tác động trực tiếp
đến lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật.
Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, không phải bản án,
quyết định có hiệu lực nào của cơ quan có thẩm quyền cũng có thể được tổ
chức thi hành một cách thuận lợi. Tình trạng đương sự và các bên liên quan
không tự nguyện thi hành án, chống đối việc thi hành các bản án, quyết định
của tòa án vẫn đang diễn ra ngày càng phức tạp. Đây là nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến việc tồn đọng, kéo dài các vụ án, gây khó khăn cho cơ quan có thẩm
quyền trong việc thực thi pháp luật. Do đó, để đảm bảo công lý được thực thi,
để hiện thực hóa các quyền, nghĩa vụ được ghi nhận trong Bản án, quyết định
của Tòa án cũng như các quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được
thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự, thì bên cạnh việc thuyết phục đương
sự tự nguyên thi hành án, trong nhiều trường hợp, cơ quan THADS phải thực
hiện cưỡng chế THADS.
Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án là hoạt động thường xuyên
được thực hiện trong công tác thi hành án dân sự, được áp dụng khi các
1
đương sự không tự nguyện thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực của
Tòa án. Hiệu quả của hoạt động cưỡng chế ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả
công tác thi hành án. Mặt khác, hoạt động tổ chức cưỡng chế thi hành án có
ảnh hưởng không nhỏ đến các quan hệ xã hội của người được thi hành án,
người phải thi hành án, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong bản án.
Chính vì vậy, trong mọi trường hợp đòi hỏi Chấp hành viên – người được
Nhà nước giao quyền ra quyết định cưỡng chế THADS phải đề cao trách
nhiệm, công tâm, khách quan, nắm vững pháp luật và có tư tưởng, bản lĩnh
vững vàng.
Đến nay công tác THADS toàn quốc nói chung và công tác THADS trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng vẫn còn tình trạng án tồn đọng kéo dài, số vụ
khiếu nại ngày càng diễn ra phức tạp, số lượng tiền phải thi hành lớn, người
phải thi hành án luôn tìm cách trốn tránh nghĩa vụ phải thi hành án, gây khó
khăn và kéo dài việc thi hành án.
Nhìn từ kết quả đạt được trong quá trình thi hành án của cơ quan
THADS tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2016–2020 đã có những chuyển biến tích
cực về cả lượng và chất khi số lượng án và tiền phải thi hành giảm rõ rệt.Tuy
nhiên số vụ việc còn tồn đọng cần phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án dân sự vẫn ở mức cao và diễn biến trong quá trình cưỡng chế phức
tạp, sự chống đối ngày càng nhiều hình thức tinh vi, xảo quyệt từ phía người
phải thi hành án hoặc người có nghĩa vụ liên quan gây khó khăn cho công tác
thi hành án, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội. Bên cạnh đó, năng lực thực
thi công vụ của một số Chấp hành viên (CHV) trong tổ chức thi hành án còn
hạn chế, chưa kiên quyết áp dụng các biện pháp cưỡng chế, tác nghiệp cưỡng
chế thi hành án còn cẩu thả, phân tích đánh giá tình hình, khả năng chống đối
của đương sự không sát với thực tiễn trong quá trình cưỡng chế dẫn đến
những sai sót trong quá trình thực hiện cưỡng chế gây hậu quả nghiêm trọng...
2
Với tất cả những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài“Tổ chức thực
hiện cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” làm đề tài
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước những đòi hỏi khách quan của công tác thi hành án dân sự, trong
những năm gần đây có nhiều đề tài, công trình khoa học nghiên cứu liên quan
đến công tác thi hành án dân sự được công bố. Cụ thể là:
- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Văn Công về “Thực
trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc
Giang”,Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012;
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Lê Đình Nam về “Biện pháp
cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền trong hoạt động thi hành án dân sự trên
địa bàn thành phố Hà Nội”, Trường Đại học quốc gia Hà Nội, 2012;
- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Bùi Thị Vân Anh về “Thủ tục thi
hành án dân sự trong pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện nay”,Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2016;
- Luận văn Thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Đình Kiên về “Các biện
pháp cưỡng chế thi hành án dân sự liên quan đến đất ở theo pháp luật Việt
Nam từ thực tiễn huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương”, Học viện Khoa học xã
- Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Lê Xuân Tùng về “Thực hiện
hội, 2016;
pháp luật về thi hành án dân sự ở thành phố Hà Nội hiện nay”, Viện Hàn
lâm Khoa học xã hội Việt Nam – Học viện Khoa học xã hội, 2016;
- Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Anh Tuấn “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam” , Đại học Luật
Hà Nội, 2017;
3
- Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lương Ngọc Hưng về “Cưỡng chế thi
hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Nam Định”, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam – Học viện Khoa học xã hội, 2018.
- Luận án Tiến sĩ của tác giả Bùi Đức Tiến về “ Thực hiện pháp luật
về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam” , Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2018;
- Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Đào Thị Thanh Hòa về “Cưỡng
chế thi hành án dân sự, Từ thực tiễn Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Hải Dương, tỉnh Hải Dương”,Đại học Quốc gia Hà Nội, 2020.
Bên cạnh đó là Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam của trường
Đại học luật Hà Nội và các trường Đại học có chuyên ngành luật; một số bài
viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành có liên quan đến THADS và cưỡng
chế THADS như:
- "Kỹ năng áp dụng các biện pháp bảo đảm trong thi hành án dân sự và
kỹ năng cưỡng chế thi hành án dân sự" của tác giả Lê Anh Tuấn, 2012;
- “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự
hiện nay”, Tạp chí dân chủ pháp luật, Số chuyên đề về thi hành án dân sự,
Tr.15; Lê Võ Hồng Hạnh, 2013;
- “Một số vấn đề về cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản là quyền sử dụng
đất”, Tạp chí Tòa án nhân dân, 20, tr 26; Lê Hùng Cường, 2017
- “Các biện pháp cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền theo quy
định của Luật thi hành án dân sự Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, 02,
tr 31; Trần Phương Thảo, 2018
- “Nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự”, Tạp chí dân chủ
pháp luật, Nguyễn Thị Trang, 2018...
4
Nhìn chung, thi hành án dân sự là đề tài không mấy mới mẻ nhưng cho
đến nay vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách
toàn diện để giải quyết. Các công trình nghiên cứu trên đã ít nhiều làm sáng tỏ
những vấn đề lý luận và thực tiễn của tổ chức thực hiện công tác thi hành án
dân sự. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và
toàn diện hệ thống những vấn đề lý luận, thực tiễn về tổ chức thực hiện cưỡng
chế thi hành án dân sự tại một địa phương cụ thể là tỉnh Ninh Bình một cách
toàn diện, chuyên sâu, và trong điều kiện pháp luật thi hành án dân sự đã có
sự thay đổi về căn bản như hiện nay. Mặc dù vậy các công trình nghiên cứu
khoa học đã được công bố trên đây là những tài liệu tham khảo có giá trị để
nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án
dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình” nhằm đáp ứng các yêu cầu cấp bách
của thực tiễn trong công tác Thi hành án dân sự địa phương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về tổ chức
thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự, nêu ra những hạn chế và bất cập của
chế định cưỡng chế thi hành án dân sự trong thực tiễn thực hiện. Từ đó, đề
xuất giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự của
tỉnh Ninh Bình nói riêng và thi hành án dân sự trên cả nước nói chung trong
giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và pháp lý về tổ
chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.
Hai là, đánh giá chân thực và toàn diện thực trạng tổ chức thực hiện
cưỡng chế thi hành án dân sự và các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức cưỡng chế
5
thi hành án dân sự tại tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn 2016 - 2020, từ đó phân
tích những kết quả đạt được và những hạn chế, tồn đọng, nguyên nhân dẫn
đến những vấn đề đó trong việc tổ chức thực hiện cưỡng chế trên địa bàn tỉnh
Ninh Bình từ thực tiễn.
Ba là, đề xuất các phương hướng và giải pháp kịp thời có tính lâu dài
nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành
án dân sự cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Ninh Bình nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề cơ bản
như sau:
- Những vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về tổ chức thực hiện cưỡng chế
thi hành án dân sự, gồm: “Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung và các yếu
tố ảnh hưởng đến tổ chức thưc hiện cưỡng chế THADS”.
- Các quy định của pháp luật hiện hành và các văn bản pháp luật khác có
liên quan đến tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Thực tiễn tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình thông qua các số liệu cụ thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận
và pháp lý cơ bản về tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự và thực tiễn
tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự gắn với chủ thể là cơ quan thi
hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (bao gồm: Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh
Bình và 08 Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thành phố trực thuộc).
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: từ năm 2016 đến năm 2020.
6
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Triết học
Mác- Lê nin; Quan điểm, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
Tư tưởng Hồ Chí Minh liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu và tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích đối chiếu, phương pháp so sánh, phương pháp tổng kết rút
kinh nghiệm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn nghiên cứu toàn diện những vấn đề lý luận và pháp lý về tổ
chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.
Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện cưỡng chế thi
hành án dân sự và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tổ chức thực hiện
cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Các đề xuất của
luận văn góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn tổ chức
thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo phục vụ
cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng về tổ chức thực hiện
cưỡng chế thi hành án dân sự, cũng có thể sử dụng là tài liệu phục vụ trong
giảng dạy, cho các hoạt động nghiên cứu về tổ chức thực hiện cưỡng chế thi
hành án dân sự nói riêng, trong lĩnh vực thi hành án nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu thành 3 chương như sau:
7
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức thực hiện cưỡng chế thi
hành án dân sự.
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện
cưỡng chế thi hành án dân sự - Từ thực tiễn tỉnh Ninh Bình.
8
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi
hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm cưỡng chế thi hành án dân sự
Ở Việt Nam hiện nay, thuật ngữ “thi hành án dân sự” (THADS) được
hiểu là tổng hợp các hoạt động nghiệp vụ của cơ quan thi hành án nhằm mục
đích bảo đảm việc thi hành trên thực tiễn các bản án, quyết định của Toà án
về phần nghĩa vụ dân sự của các bên và các quyết định khác theo một trình
tự, thủ tục chặt chẽ được pháp luật quy định.
Trong hoạt động thi hành án, các bên đương sự có quyền tự thỏa thuận
với nhau nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định
của Tòa án. Tự nguyện thi hành án đã trở thành như một nguyên tắc, một biện
pháp phổ biến trong thi hành án dân sự. Trường hợp sau khi đương sự đã
được chấp hành viên giải thích nghĩa vụ của mình, có đủ điều kiện để thi hành
án nhưng lại tìm mọi cách để trì hoãn, trốn tránh không thi hành trách nhiệm
của mình thì buộc cơ quan thi hành án phải tổ chức cưỡng chế thi hành.
Cũng như cưỡng chế nói chung, cưỡng chế thi hành án dân sự cũng xuất
phát từ yêu cầu, nguyên tắc chung là sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc cá
nhân, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm theo bản án, quyết định đã
có hiệu lực của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm đảm bảo tính phòng
ngừa, răn đe, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật tiếp tục diễn ra hoặc
buộc chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật phải bồi thường thiệt hại, khắc
phục hậu quả đã gây ra và các biện pháp khác do pháp luật quy định.
9
Về nguyên tắc, cưỡng chế thi hành án dân sự chỉ đặt ra khi đương sự
không tự nguyện tuân thủ thực hiện các nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Do đó, mục đích của cưỡng chế thi
hành án dân sự là nhằm buộc người phải thi hành án thi hành đúng nghĩa vụ
theo bản án, quyết định của Tòa án nếu họ có điều kiện thi hành mà không tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả của việc cưỡng chế
thi hành án dân sự thì pháp luật cần quy định cụ thể về cơ quan có thẩm
quyền cưỡng chế; các biện pháp cưỡng chế được áp dụng; trình tự, thủ tục
cưỡng chế… Qua những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm cưỡng chế thi
hành án dân sự như sau: Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng
bức bắt buộc của cơ quan thi hành án do Chấp hành viên thực hiện theo thẩm
quyền, nhằm buộc người phải thi hành án thực hiện những hành vi hoặc
nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng trong
trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án, đã được thông
báo hợp lệ, đã hết thời gian tự nguyện thi hành án mà không tự nguyện thi
hành hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán,
hủy hoại tài sản.
Khái niệm của cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện mục đích của hoạt
động cưỡng chế thi hành án dân sự là đảm bảo thi hành quyền và nghĩa vụ của
các bên đương sự và người có quyền, lợi ích liên quan theo nội dung bản án,
quyết định đã có hiệu lực thi hành của Tòa án. Do đó, có thể nhận diện bản
chất của cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động của chủ thể có thẩm
quyền sử dụng quyền lực nhà nước làm chấm dứt, hạn chế quyền sở hữu,
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng tài sản của người phải thi hành án hoặc buộc
người phải thi hành án thực hiện hành vi hợp pháp hay chấm dứt hành vi vi
phạm pháp luật trên cơ sở bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật
bằng các biện pháp cưỡng chế thi hành án (ví dụ: Khấu trừ tiền trong tài
10
khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án; Trừ vào
thu nhập của người phải thi hành án; Kê biên, xử lý tiền tài sản của người
phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ; Khai thác tài sản của
người phải thi hành án; Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không
được thực hiện công việc nhất định; Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền
tài sản, giấy tờ).
1.1.2. Khái niệm tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
Hoạt động tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự được luận văn
nghiên cứu dưới góc độ các hoạt động của cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền trong việc triển khai thực hiện các quy định pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự trong thực tế đời sống xã hội. Vì vậy, để làm rõ khái niệm “tổ
chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự” trước tiên cần luận giải thuật
ngữ “tổ chức thực hiện pháp luật”.
Trong khoa học pháp lý, pháp luật được nghiên cứu dưới hai phương
diện. Phương diện thứ nhất là pháp luật trong trạng thái “tĩnh” hay pháp luật
được thể hiện dưới dạng văn bản. Theo Hiến pháp 2013, pháp luật theo
phương diện này bao gồm các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật
(VBQPPL): Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước; các
VBQPPL của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Bộ trưởng, thủ trưởng cơ
quan ngang bộ và chính quyền địa phương các cấp. Đây là pháp luật được
hình thành chủ yếu do hoạt động lập pháp của Quốc hội và hoạt động lập quy
của hệ thống các cơ quan hành pháp.
Phương diện thứ hai là pháp luật trong trạng thái “động” hay gọi là pháp
luật trong hành động, pháp luật trong cuộc sống. Pháp luật theo phương diện
này là sự tuân theo pháp luật của các chủ thể trong đời sống Nhà nước và đời
sống xã hội, được hình thành bằng hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật của
11
các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền. Giống như phương diện thứ
nhất, phương diện này cũng được quy định trong Hiến pháp. Theo đó, tổ chức
thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu để pháp luật từ trạng thái
“tĩnh” trở thành trạng thái “động”, làm cho pháp luật không còn nằm trên các
trang công báo mà đi vào cuộc sống. Như vậy, hoạt động lập pháp, lập quy để
hình thành một hệ thống VBQPPL và hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật là
hai mặt không tách rời của pháp luật. Nếu như không tiến hành tổ chức thi
hành pháp luật thì pháp luật chỉ tồn tại trên giấy. Ngược lại, không có những
quy định của pháp luật trong các trang công báo thì cũng không có việc tổ
chức thực hiện những quy định pháp luật này. Trong nhà nước pháp quyền,
thượng tôn pháp luật không thể không coi trọng một cách đồng bộ cả hai
phương diện này của pháp luật. Nhất là trong điều kiện của nước ta, khi mà ý
thức pháp luật và văn hóa pháp lý của nhiều người dân còn thấp thì việc tổ
chức thi hành pháp luật càng giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Vì vậy, tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS là làm cho những quy định
của pháp luật chuyển từ trạng thái “tĩnh” sang trạng thái “động”, là hoạt động
để hiện thực hóa kết quả của hoạt động lập pháp, lập quy trong thực tiễn. Hay
nói cách khác, tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS chính là việc đưa những
quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự vào vận hành trong thực
tiễn đời sống xã hội, là quá trình tiến đến mục tiêu của nhà làm luật nhằm sử
dụng công cụ pháp luật để quản lý, thúc đẩy sự phát triển xã hội theo xu thế
tiến bộ trong mọi lĩnh vực của đời sống, phát huy hiệu quả của pháp luật.
Công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự trên thực tế là
quá trình người có thẩm quyền nhân danh quyền lực nhà nước ra quyết định
cưỡng chế thi hành án dân sự và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế trong
thực tế bằng việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của pháp
luật, qua đó làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật
12
trong thi hành án dân sự. Tuy nhiên, mức độ hiệu quả của việc tổ chức thực
hiện cưỡng chế còn phụ thuộc vào chất lượng của hoạt động lập pháp, ban
hành luật và giám sát thực hiện luật của Quốc hội. Ngoài ra, còn bị ảnh hưởng
bởi các chủ thể khác như tổ chức kinh tế, xã hội, công dân khi các chủ thể này
tổ chức thực hiện phản biện và giám sát xã hội, thực hiện quyền kiến nghị,
phát hiện, tố cáo, khiếu nại. Một số các yếu tố khác như trình độ dân trí, ý
thức tuân thủ, chấp hành pháp luật của công dân và công tác phối hợp của các
cơ quan, sở, ban ngành có liên quan cũng có ảnh hưởng và tác động mạnh mẽ
đến quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự trong thực tế.
Từ những phân tích trên có thể khẳng định: Tổ chức thực hiện cưỡng chế
thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan Nhà nước và người có thẩm
quyền nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự, làm cho những quy định này vận hành trong đời sống thực tiễn xã
hội theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm đảm bảo thi hành
nghiêm chỉnh bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án.
1.1.3. Đặc điểm của tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
Theo tác giả nghiên cứu thì tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân
sự là giải pháp cuối cùng khi đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan không tự
nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định dân sự có hiệu
lực thi hành. Với mục đích là thi hành các nghĩa vụ dân sự nên việc tổ chức
thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự có các đặc điểm cơ bản như sau:
Thứ nhất, việc tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS thể hiện quyền lực
của Nhà nước và được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước.
Đặc điểm này được thể hiện ở chỗ chỉ có cá nhân thuộc cơ quan chức
năng của Nhà nước hoặc người thuộc tổ chức được Nhà nước trao quyền mới
có thẩm quyền tổ chức thực hiện cưỡng chế. Ở nước ta, thẩm quyền tổ chức
13
cưỡng chế thi hành án dân sự do Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự
đảm nhiệm theo quy định của Luật THADS.
Quyền lực nhà nước được thể hiện thông qua tổ chức thực hiện cưỡng
chế thi hành án bằng việc CHV ban hành quyết định cưỡng chế buộc cá nhân,
tổ chức nhất định phải chấp hành để thi hành bản án, quyết định được thi hành
theo thủ tục thi hành án dân sự. Quyết định cưỡng chế có tính chất bắt buộc
thi hành, không phụ thuộc vào ý chí của đương sự.
Tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS là hoạt động nhằm đảm bảo cho
các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật được thi hành nghiêm
minh trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án chính là kết quả của Hội
đồng xét xử trong việc phán xét một hành vi vi phạm pháp luật, xác định hậu
quả pháp lý của nó. Như vậy, tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
là sự hiện thực hóa các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án song lại phụ
thuộc vào chất lượng của bản án, quyết định đó. Đặc điểm này cho phép lý
giải một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng tồn đọng án là do những
bản án, quyết định không có tính khả thi trên thực tế.
Thứ hai, tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động thể
hiện tính chủ động, tinh thần trách nhiệm, tính quyết đoán và sáng tạo của
Chấp hành viên.
Hoạt động tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ do
cơ quan THADS tiến hành mà còn có sự phối hợp của các cơ quan, tổ chức có
liên quan khác. Tuy nhiên, trong tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS, Chấp
hành viên giữ vai trò trung tâm, nắm quyền quyết định.
Khi tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS, Chấp hành viên luôn có vai
trò chủ đạo, nhất là trong khâu xác minh khả năng thi hành án, phân tích,
đánh giá mức độ chống đối của người phải thi hành án và người thân của họ.
14
Ngoài ra, chấp hành viên được quyền lựa chọn các biện pháp cưỡng chế cần
áp dụng để tổ chức thi hành. Khi cưỡng chế Chấp hành viên phải nghiên cứu
kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ bản chất pháp lý và lựa chọn biện pháp cưỡng
chế phù hợp với thực tiễn. Đặc điểm này đòi hỏi Chấp hành viên phải có trình
độ năng lực chuyên môn vững vàng và kỹ năng thực tiễn tổ chức cưỡng chế
thi hành án.
Bên cạnh đó, CHV phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về hậu quả của việc
thi hành các biện pháp cưỡng chế. Quá trình cưỡng chế THADS phải tính
toán kỹ lưỡng, thận trọng mọi khía cạnh, mọi tình tiết, lựa chọn biện pháp
cưỡng chế phù hợp và tổ chức thực hiện cưỡng chế có hiệu quả. Trong quá
trình cưỡng chế có nhiều tình huống bất ngờ có thể xảy ra, đòi hỏi chấp hành
viên phải linh hoạt, thận trọng, quyết đoán… để tránh mắc phải những sai
lầm, gây thiệt hại nghiêm trọng về vật chất cũng như xâm hại đến quyền con
người của công dân.
Thứ ba, tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự vẫn phải đảm
bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự.
Thi hành án dân sự chủ yếu là thi hành các quyết định của Tòa án mang
tính chất tài sản - đặc trưng của quan hệ dân sự, vì vậy, quyền tự định đoạt và
thỏa thuận của đương sự luôn được tôn trọng trong suốt quá trình thi hành án,
kể cả khi đã ra quyết định tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.
Mặc dù việc tổ chức cưỡng chế được thực hiện khi người phải thi hành án
không tự nguyện thi hành, nhưng sau khi cơ quan THADS áp dụng biện pháp
cưỡng chế, người phải thi hành án vẫn có quyền thỏa thuận với người được
thi hành án về việc hoãn tổ chức cưỡng chế để tự nguyện thi hành án; thậm
chí ngay trước khi mở cuộc đấu giá tài sản đã bị kê biên, người phải thi hành
án vẫn có quyền nhận lại tài sản của mình sau khi nộp đủ tiền thi hành án
15
cùng các chi phí liên quan... Chính vì sự tôn trọng quyền tự định đoạt của
đương sự nên trong một số trường hợp, chủ thể có thẩm quyền có thể lựa
chọn biện pháp thích hợp để việc thi hành án được nhanh chóng, đạt hiệu quả
trên cơ sở thỏa thuận của các đương sự.
Thứ tư, việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự phải
tuân thủ đúng các trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.
Trong cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên là chủ thể có thẩm
quyền được giao trách nhiệm trực tiếp thi hành các bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự
thì vấn đề quan trọng nhất là Chấp hành viên phải tuân thủ những nguyên tắc,
điều kiện, trình tự pháp luật quy định nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Ví dụ: Chấp hành viên phải tuân thủ
trình tự thủ tục về kê biên tài sản, giao bảo quản tài sản sau kê biên, thẩm định
giá tài sản sau kê biên để đưa ra bán đấu giá,…
Việc vi phạm các quy trình, thủ tục đã được quy định trong pháp luật sẽ
làm cho việc tổ chức thực hiện cưỡng chế có thể bị vô hiệu hoặc có thể gây
phản tác dụng, thậm chí gây ra những thiệt hại nặng nề.
1.1.4. Vai trò của tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
Tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm hiện thực hóa các
quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đi vào cuộc sống và trở
thành các hành vi thực tế của đương sự, các cá nhân, cơ quan, tổ chức liên
quan trong thi hành án dân sự. Vì vậy, từ thực tiễn tổ chức thực hiện cưỡng
chế thi hành án dân sự có thể khái quát một số vai trò cơ bản của tổ chức thực
hiện cưỡng chế THADS như sau:
16
Thứ nhất, tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự góp phần hiện
thực hóa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, bảo đảm an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ tính nghiêm minh và sự thượng tôn pháp
luật, tăng cường được pháp chế trong quản lý xã hội, quản lý Nhà nước góp
phần bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự theo nội dung
bản án, quyết định của Tòa án qua đó tăng cường niềm tin của người dân với
pháp luật, với chế độ.
Thứ hai, qua việc tích cực xử lý các khoản nợ xấu theo đơn yêu cầu của
các tổ chức tín dụng, tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS có vai trò trực tiếp
góp phần lành mạnh hóa nền kinh tế, giảm lãi suất cho vay, khơi thông nguồn
lực tài chính, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, cưỡng chế THADS góp phần nâng cao trình độ năng lực chuyên
môn, bản lĩnh nghề nghiệp của đội ngũ Chấp hành viên và cán bộ làm công
tác THADS. Qua thực tiễn cho thấy cưỡng chế THADS có tính đặc thù và
phức tạp, với nhiều mối quan hệ đan xen, nhiều tình huống thực tế khó lường
trước đối với từng trường hợp cụ thể. Chính vì thế, thông qua thực tiễn người
CHV ngày càng tích lũy được kinh nghiệm, càng vững vàng trong xử lý tình
huống, tinh thông về nghiệp vụ góp phần nâng cao trình độ năng lực chuyên
môn, bản lĩnh nghề nghiệp của đội ngũ CHV và cán bộ làm công tác THADS.
Tóm lại, tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS có vai trò vô cùng quan
trọng, vì cưỡng thế THADS có tính đặc thù, nhiều khó khăn, phải xử lý nhiều
mối quan hệ phức tạp, nhiều tình huống khó lường trước, mục tiêu là phải áp
dụng đúng pháp luật. Chính vì thế, thực tiễn công tác tổ chức thực hiện cưỡng
chế THADS góp phần rèn luyện phẩm chất, bản lĩnh, ý thức, trách nhiệm,
trình độ nghiệp vụ của CHV và các cán bộ làm công tác THADS.
17
1.2. Nội dung và các yếu tố ảnh hƣởng đến tổ chức thực hiện cƣỡng
chế thi hành án dân sự
1.2.1. Nội dung tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
1.2.1.1.Lập kế hoạch, ban hành văn bản triển khai cưỡng chế thi hành
án dân sự
Cưỡng chế thi hành án là vấn đề cực kỳ phức tạp và hết sức khó khăn,
không chỉ đơn thuần là công tác nghiệp vụ của cơ quan Thi hành án và các
lực lượng tham gia cưỡng chế mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh, trật tự
và nhiều mặt khác của đời sống xã hội. Việc cưỡng chế thường tiến hành tại
nơi có tài sản, nơi ở, nơi làm việc của đương sự. Tại đây có gia đình, họ hàng,
làng xóm, người thân.... nên đương sự có điều kiện lôi kéo, tụ tập, huy động
nhiều đối tượng, lực lượng tham gia chống đối, cản trở việc thi hành án. Để
thực hiện tốt công tác cưỡng chế thi hành án dân sự, hạn chế tối đa những sai
sót của Chấp hành viên thì vấn đề có tính quyết định là công tác chuẩn bị tổ
chức cưỡng chế, trong đó việc lập kế hoạch, ban hành văn bản triển khai là
giai đoạn đầu tiên, đồng thời là cơ sở để tiến hành các hoạt động tiếp theo.
Cần thực hiện các bước sau:
Thứ nhất, công tác xác minh trước khi tổ chức cưỡng chế thi hành án:
Xác minh điều kiện thi hành án là điều kiện bắt buộc và là yếu tố quyết
định cho việc thực hiện cưỡng chế thành công hay không thành công. Công
tác xác minh điều kiện thi hành án phải được thực hiện một cách khoa học,
toàn diện và đầy đủ, chi tiết tới từng nội dung và phù hợp theo đúng yêu cầu
đặt ra của từng việc cưỡng chế thi hành án cụ thể.
Theo quy định tại Điều 44 Luật THADS năm 2008 ( sửa đổi, bổ sung
năm 2014) và Điều 9 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính
phủ: trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà
18
người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì CHV tiến hành xác minh;
trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải
tiến hành xác minh ngay. Người phải thi hành án phải kê khai trung thực,
cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ
quan THADS và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình [40, tr.48].
Khi tiến hành xác minh trước khi tổ chức cưỡng chế, chấp hành viên cần
lưu ý một số nội dung sau: xác minh về nhân thân, về gia đình và quan hệ xã
hội của đối tượng phải thi hành án; xác minh đặc điểm, thái độ của người phải
thi hành án; xác minh về thái độ, quan điểm của chính quyền, các tổ chức ở
địa phương và của dư luận nhân dân đối với vụ án và đối với người phải thi
hành án; xác minh về điều kiện địa hình và giao thông nơi phải tổ chức cưỡng
chế thi hành án. Kết quả xác minh là cơ sở để Chấp hành viên nhận định và
đánh giá tình hình thực tế để từ đó xây dựng kế hoạch cưỡng chế phù hợp và
hiệu quả.
Thứ hai, lựa chọn biện pháp cưỡng chế:
Điều 13 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy
định: căn cứ nội dung bản án, quyết định; dựa trên cơ sở tính chất, mức độ,
nghĩa vụ thi hành án; xét điều kiện của người phải thi hành án; xét đề nghị của
đương sự và tình hình thực tế của địa phương, chấp hành viên sẽ lựa chọn
việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thích hợp.
Ví dụ:
- Dựa trên cơ sở tính chất, mức độ nghĩa vụ thi hành án để lựa chọn biện
pháp cưỡng chế như: Với nghĩa vụ thi hành án là tiền thì có thể khấu trừ tài
khoản, khấu trừ thu nhập, thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi
hành án.
- Dựa trên điều kiện của người phải thi hành án để lựa chọn biện pháp
cưỡng chế như: Việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải thi hành
19
án và gia đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó không có tài sản
khác hoặc có nhưng không đủ để thi hành án, trừ trường hợp người phải thi
hành án đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án.
Việc lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án có vai trò rất quan trọng
và cần được xem xét, cân nhắc kỹ để bảo đảm thực hiện đúng pháp luật và
hiệu quả, tránh gây ảnh hưởng xấu dẫn tới khiếu kiện của đương sự. Trong
trường hợp cần thiết, các biện pháp cưỡng chế có thể được thay đổi để phù
hợp với tình hình thực tế.
Thứ ba, xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án:
Nội dung này được quy định chi tiết tại Điều 72 Luật THADS, theo đó,
Chấp hành viên xây dựng kế hoạch cưỡng chế trong trường hợp cần huy động
lực lượng. Luật cũng quy định rõ trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay, còn trong
mọi trường hợp Chấp hành viên phải xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án.
Tuy nhiên, trên thực tế, tùy thuộc vào loại biện pháp cưỡng chế được sử
dụng, Chấp hành viên sẽ quyết định có cần lập hay không lập kế hoạch cưỡng
chế. Ví dụ, đối với biện pháp cưỡng chế khấu trừ thu nhập của người phải thi
hành án hoặc trừ vào tiền trong tài khoản của người phải thi hành án thì chấp
hành viên không cần lập kế hoạch cưỡng chế vì đây là những biện pháp cưỡng
chế đơn giản, việc lập kế hoạch cưỡng chế là rất hình thức, tốn thời gian.
Nội dung của kế hoạch cưỡng chế thi hành án được quy định tại Khoản 2
Điều 72 Luật THADS gồm 06 nội dung là: Tên người bị áp dụng biện pháp
cưỡng chế; Biện pháp cưỡng chế cần áp dụng; Thời gian, địa điểm cưỡng chế;
Phương án tiến hành cưỡng chế; Yêu cầu về lực lượng tham gia và bảo vệ
cưỡng chế; Dự trù chi phí cưỡng chế.
Ngay sau khi xây dựng xong kế hoạch cưỡng chế và trước khi tổ chức
cưỡng chế thi hành án, Chấp hành viên cần gửi ngay kế hoạch cưỡng chế cho
20
VKSND cùng cấp, cơ quan Công an cùng cấp, UBND xã, phường, thị trấn
nơi tổ chức cưỡng chế và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc
cưỡng chế thi hành án để đảm bảo việc cưỡng chế được thống nhất về quan
điểm, tổ chức thành công và an toàn trong suốt quá trình thực hiện.
Khoản 4 Điều 7 Luật THADS quy định trong thời hạn 03 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được kế hoạch cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân
sự cùng cấp, cơ quan Công an có trách nhiệm xây dựng kế hoạch bảo vệ
cưỡng chế, bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để giữ gìn trật tự, bảo vệ
hiện trường, kịp thời ngăn chặn, xử lý hành vi tẩu tán tài sản, hành vi cản trở,
chống đối việc thi hành án, tạm giữ người chống đối, khởi tố vụ án hình sự
khi có dấu hiệu phạm tội. Thực hiện phương án bảo vệ cưỡng chế trước, trong
và sau quá trình cưỡng chế.
Ngoài những nội dung chính được quy định tại Điều 72 Luật THADS,
Chấp hành viên còn xây dựng những nội dung khác có liên quan để đảm bảo
việc cưỡng chế được tiến hành thuận lợi, có hiệu quả như: tóm tắt về quá trình
thi hành bản án sẽ giúp cho các cơ quan hữu quan hình dung được toàn bộ quá
trình thi hành án; chuẩn bị các phương tiện sử dụng trong cưỡng chế; phân
công nhiệm vụ cụ thể của các thành viên tham gia cưỡng chế.
Thứ tư, ban hành văn triển khai thực hiện cưỡng chế.
Theo quy định tại Điều 46 Luật THADS và Điều 13 Nghị định
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ thì hết thời gian tự nguyện thi
hành án, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện
thi hành án thì bị cưỡng chế. Khi đó, CHV ra quyết định áp dụng các biện
pháp cưỡng chế theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp bản án, quyết
định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài sản, tài khoản và trường hợp thi hành
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án.
21
Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế phải được thể hiện bằng văn
bản. Văn bản này phải được ban hành đúng thẩm quyền, tên gọi, có cơ sở
thực tế và cơ sở pháp lý, theo đúng mẫu đã quy định. Nội dung của văn bản
phải rõ ràng, chính xác, nêu rõ trường hợp cụ thể, chủ thể cụ thể và chỉ được
thực hiện một lần.
1.2.1.2. Triển khai thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
Việc triển khai thực hiễn cưỡng chế thi hành án dân sự là hoạt động của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm chuỗi các hoạt động như sau:
Thứ nhất, thực hiện thông báo cưỡng chế thi hành án:
Theo quy định tại Điều 39 đến Điều 43 Luật THADS hiện hành thì trong
03 ngày làm việc kể từ ngày ra Quyết định cưỡng chế, Chấp hành viên có trách
nhiệm thông báo cho người phải thi hành án, người được thi hành án và người
có nghĩa vụ liên quan biết thời gian, địa điểm, tài sản sẽ tiến hành cưỡng chế để
họ thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quyết định được thông báo. Việc thông
báo được thực hiện qua ba hình thức đó là: thông báo trực tiếp hoặc qua cơ
quan tổ chức các nhân khác theo quy định của pháp luật; thực hiện niêm yết
công khai hoặc thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ hai, thực hiện cưỡng chế:
Trước khi đến địa điểm cưỡng chế, Chấp hành viên phụ trách vụ án cần
tập trung lực lượng tham gia cưỡng chế tại trụ sở UBND xã, phường, thị trấn
nơi có tài sản bị cưỡng chế hoặc tập trung tại một địa điểm thuận tiện cho việc
triển khai kế hoạch cưỡng chế. Chấp hành viên chủ trì phổ biến toàn bộ kế
hoạch cưỡng chế thi hành án, kiểm tra thành phần tham gia cưỡng chế, quán
triệt tinh thần làm việc trong buổi cưỡng chế và phân công nhiệm vụ cụ thể của
từng đơn vị, từng thành viên tham gia; nêu các tình huống có thể xảy ra và biện
pháp để xử lý tình huống đó; đề nghị đại diện cơ quan công an và đại diện
22
UBND xã, phường, thị trấn báo cáo tình hình an ninh tại địa điểm cưỡng chếvà
báo cáo kế hoạch chi tiết bảo vệ cưỡng chế nếu có phát sinh tình hình mới;
chuẩn bị đầy đủ các biên bản, văn bản cần sử dụng trước khi tiến hành cưỡng
chế, các phương tiện, điều kiện liên quan đã dự kiến phục vụ cho việc cưỡng
chế; mời những người tham gia cưỡng chế xuống địa điểm cưỡng chế làm việc.
Tại địa điểm tổ chức cưỡng chế thi hành án: Chấp hành viên chủ trì thực
hiện yêu cầu người phải thi hành án tự nguyện thi hành. Trường hợp người
phải thi hành án tự nguyện thi hành hoặc người được thi hành án và người
phải thi hành án thỏa thuận được với nhau về việc thi hành án, thì chấp hành
viên xem xét việc thỏa thuận và lập biên bản về sự tự nguyện hoặc thỏa thuận
đó.Trường hợp người phải thi hành án vẫn không tự nguyện thì Chấp hành
viên thực hiện công bố quyết định cưỡng chế, giới thiệu thành phần Hội đồng
cưỡng chế và lực lượng tham gia cưỡng chế; yêu cầu các bộ phận, lực lượng
thực hiện nhiệm vụ đã được phân công; chỉ huy điều hành lực lượng làm
nhiệm vụ. Nhiệm vụ này đòi hỏi Chấp hành viên phụ trách vụ án phải có khả
năng phán đoán, bao quát toàn bộ tình hình thực hiện cưỡng chế để chủ trì
điều hành toàn bộ quá trình cưỡng chế, phân phối lực lượng tham gia một
cách chính xác, đúng người đúng việc, kịp thời xử lý mọi tình huống phát
sinh diễn ra trong quá trình cưỡng chế cho đến khi kết thúc việc cưỡng chế,
đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch trong quá trình cưỡng chế.
Kết thúc cưỡng chế thi hành án: thư ký Hội đồng thông qua các loại biên
bản, yêu cầu các thành viên Hội đồng cưỡng chế, người phải THA hoặc đại
diện gia đình, người được thi hành án, người có quyền, lợi ích liên quan,
người làm chứng… đọc lại biên bản và ký xác nhận vào biên bản. Trường hợp
người phải thi hành án không ký thì ghi rõ lý do vào biên bản. Biên bản vẫn
đảm bảo giá trị pháp lý.
23
Sau khi kết thúc cưỡng chế, Hội đồng cưỡng chế và lực lượng công an
làm nhiệm vụ bảo vệ cưỡng chế cùng với các thành viên tham gia cưỡng chế
tập trung đánh giá kết quả đạt được và hội ý rút kinh nghiệm về những vấn đề
chưa đạt yêu cầu trong quá trình tổ chức thực hiện.
1.2.1.3. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự
Có một hệ thống pháp luật hoàn thiện mới chỉ là cơ sở đầu để người dân
nhận thức về pháp luật nhưng để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, Nhà
nước phải tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Phổ biến giáo dục pháp luật (PBGDPL) được hiểu là hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có chủ định nhằm đạt mục đích hình thành ở đối tượng
được tác động tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với đòi hỏi của
hệ thống pháp luật hiện hành, hay nói cách khác chính là hoạt độn nhằm nâng
cao ý thức pháp luật cho nhân dân, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước, quản lý xã hội và nâng cao trình độ văn hóa pháp lý của công
dân. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật là cách thức tổ chức hoạt động
phổ biến, giáo dục pháp luật, cách tiến hành một hoạt động cụ thể để đạt được
mục đích hình thành ở đối tượng tình cảm, tri thức và hành vi pháp lý phù
hợp với yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật. Có nhiều hình thức tuyên truyền như:
Tuyên truyền miệng, Hòa giải, phát tờ gấp, trợ giúp pháp lý, câu lạc bộ pháp
luật...; tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát
thanh, truyền hình...
Trên thực tế, trong quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân
sự, để việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án đạt hiệu quả, hạn chế việc
xảy ra chống đối, quấy phá khi thực hiện cưỡng chế, Chấp hành viên giải
thích pháp luật cho đương sự, thuyết phục họ tự nguyện, thỏa thuận thi hành
án. Hoạt động thuyết phục tác động vào ý thức con người, tạo cho họ sự nhận
24
thức, tình cảm, nhu cầu xử sự theo pháp luật. Hoạt động thuyết phục, giải
thích pháp luật của Chấp hành viên chính là hoạt động tuyên truyền miệng có
hiệu quả nhất cho đương sự.
Để tổ chức thi hành cưỡng chế thành công một bản án, Chấp hành viên
không chỉ áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục, mà
trong nhiều trường hợp Chấp hành viên phải vận dụng toàn bộ tri thức, kinh
nghiệm của mình về pháp luật, tâm lý, phong tục, tập quán, truyền thống văn
hóa của từng địa phương nơi người phải thi hành án, người được thi hành án,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan sinh sống để vận động, thuyết phục
đương sự tự nguyện thi hành án. Bên cạnh công tác giáo dục thuyết phục thì
cũng cần phải kiên quyết không để tình trạng "khinh nhờn" pháp luật, coi
thường bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đang được thực thi.
Thông qua hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi
hành án dân sự sẽ góp phần nâng cao nhận thức của chính đội ngũ thực thi
pháp luật cũng như các đối tượng có liên quan đến hoạt động cưỡng chế thi
hành án dân sự sẽ tăng cường được hiệu lực, hiệu quả hơn; đảm bảo an ninh,
trật tự ở địa phương và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước,
nhân dân và xã hội.
1.2.1.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong cưỡng chế thi hành án
dân sự
Hoạt động thanh tra, kiểm tra trong thi hành án dân sự là một trong
những hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan THADS đối với các mảng
công việc, Thủ trưởng cơ quan, các Chấp hành viên, công chức trong cơ quan
THADS. Thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, chỉ ra những sơ hở, sai sót
trong chỉ đạo ban hành chính sách, kế hoạch để các cơ quan thi hành án dân
sự kịp thời điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn góp phần hoàn thành các chỉ
tiêu công tác được giao; kịp thời phát hiện những bất cập trong các quy định
25
pháp luật về Thi hành án dân sự và các quy định pháp luật có liên quan, tổng
hợp làm cơ sở để xây dựng, hoàn thiện thể chế. Thông qua kết quả thanh tra,
kiểm tra để đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác, những ưu điểm,
nhược điểm, khó khăn vướng mắc và nguyên nhân trên các mặt công tác, từ
đó đề ra biện pháp chỉ đạo điều hành nhằm khắc phục những tồn tại khó khăn
vướng mắc nâng cao trách nhiệm của công chức thực thi công vụ.
Hiện nay trong Hệ thống THADS, pháp luật về thi hành án dân sự quy
định hoạt động thanh tra, kiểm tra cho từng cấp cơ quan THADS khác nhau,
cụ thể:
Đối với cơ quan THADS cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thực hiện hai loại hình kiểm tra gồm: Thanh tra, kiểm tra công tác THADS
đối với cơ quan THADS cấp dưới và tự kiểm tra.
Đối với cơ quan THADS cấp Chi cục thực hiện loại hình tự kiểm tra
theo chức năng, nhiệm vụ quản lý công chức nói chung.
Việc quy định cấp trên quản lý, kiểm tra công tác thi hành án đáp ứng
yêu cầu của mô hình quản lý tập trung thống nhất theo hệ thống ngành dọc;
đồng thời việc quy định mỗi cấp có các loại hình thanh tra, kiểm tra khác
nhau thể hiện vị trí, vai trò của mỗi loại hình thanh tra, kiểm tra ở mỗi cấp cơ
quan thi hành án dân sự là khác nhau.
Nguyên tắc thanh tra, kiểm tra:
Một là, việc thanh tra, kiểm tra được thực hiện trên cơ sở quyết định
thanh tra, kiểm tra của người có thẩm quyền theo kế hoạch được phê duyệt từ
đầu năm hoặc theo yêu cầu thanh tra, kiểm tra đột xuất. Đoàn thanh tra, kiểm
tra phải tuân thủ Luật Thi hành án dân sự, các văn bản pháp luật có liên quan
và Quy chế này; chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả.
Hai là, việc thanh tra, kiểm tra phải công khai, dân chủ; các đánh giá, kết
luận phải chính xác, khách quan.
26
Ba là, việc thanh tra, kiểm tra không được làm ảnh hưởng tới việc thực hiện
nhiệm vụ của đơn vị được thanh tra, kiểm tra. Trong thời gian diễn ra việc thanh
tra, kiểm tra, mọi hoạt động liên quan đến nhiệm vụ thi hành án của đơn vị được
thanh tra, kiểm tra vẫn hoạt động bình thường. Đoàn thanh tra, kiểm tra nghiên
cứu hồ sơ, sổ sách, tài liệu có liên quan.
Bốn là, kết thúc thanh tra, kiểm tra phải có kết luận về những nội dung
được thanh tra, kiểm tra để làm căn cứ khắc phục những hạn chế, sai phạm
nếu có và làm cơ sở đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc của đối tượng
thanh tra, kiểm tra để có những giải pháp về mặt chuyên môn, nghiệp vụ, giải
pháp kiện toàn về tổ chức. Kết luận thanh tra, kiểm tra phải thể hiện rõ những
việc đã làm được, chưa làm được, nguyên nhân, hạn chế; những kiến nghị về
biện pháp khắc phục nhược điểm; biện pháp xử lý những tập thể, cá nhân có
sai phạm trong công tác thi hành án dân sự dự kiến sẽ đề xuất đối với người
có thẩm quyền. Các thông tin, phát ngôn liên quan đến nội dung thanh tra,
kiểm tra do Trưởng đoàn thanh tra, kiểm tra thực hiện.
1.2.1.5. Sơ kết, tổng kết, đánh giá thực hiện hoạt động cưỡng chế thi
hành án dân sự
Sơ kết, tổng kết là nhìn nhận đánh giá chung và rút ra những kết luận về
những việc đã làm được, chưa làm được, nguyên nhân và bài học kinh
nghiệm. Trong công tácthi hành án dân sựđể sơ kết, tổng kết cần thực hiện
các nội dung sau đây:
Một là, xác định thời gian, khối lượng, nội dung công việc cần đánh giá
tổng kết; so sánh mục tiêu đề ra ngay từ đầu năm và kết quả đạt được.
Hai là, tổng hợp những khó khăn, vướng mắc và đề xuất kiến nghị giải
pháp; về cơ chế, chính sách, về pháp luật, và các yếu tố tác động ảnh hưởng
đến nhiệm vụ chính trị, chuyên môn.
27
Ba là, đề xuất giải pháp, sửa đổi pháp luật, hoặc về thể chế; về cơ chế,
chính sách, về quản lý điều hành, về các vấn đề khác.
1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án
dân sự
Cưỡng chế THADS là hoạt động hết sức phức tạp, chịu sự tác động của
nhiều yếu tố khác nhau; có những yếu tố có thể làm cho việc tổ chức cưỡng
chế thi hành án không thể thực hiện được. Trong đó có cả những yếu tố chủ
quan và khách quan. Cụ thể:
Một là, hệ thống pháp luật thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật để bảo đảm trực tiếp quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên đương sự và cá nhân, tổ chức liên quan. Vì vậy, pháp luật là cơ sở
quan trọng để cơ quan thi hành án dân sự và tổ chức, cá nhân liên quan tổ
chức thi hành án nhưng cũng là yếu tố ảnh hưởng, chi phối mang tính
quyết định đối với hiệu quả thi hành án dân sự nói chung, hiệu quả cưỡng
chế thi hành án dân sự nói riêng.
Hệ thống quy phạm pháp luật là cơ sở cho chấp hành viên, cơ quan thi
hành án dân sự, tổ chức, cá nhân liên quan áp dụng trong quá trình tổ chức
thực hiện cưỡng chế THADS được quy định trong Luật Thi hành án dân sự,
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự và các
văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng
dân sự, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Đất đai, Luật Nhà ở....);
Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày
01/8/2016 của Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân Tối cao - Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (VKSNDTC) hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục THADS và phối
hợp liên ngành trong THADS; Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT-BTP-
28
BCA-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày 19/5/2016 của Bộ Tư pháp - Bộ Công
an - Bộ Tài chính - Tòa án nhân dân tối cao - VKSNDTC hướng dẫn hoạt
động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự (BCĐTHADS); Thông tư liên tịch
số 200/2016/TTLT-BTC-BTP ngày 09/11/2016 của Bộ Tài chính quy định
việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ
quan THADS, kinh phí cưỡng chế THADS; Thông tư liên tịch số
03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 của Bộ Tư pháp - Bộ Công an Quy
định cụ thể việc phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong THADS; Thông tư liên tịch
số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014 của Bộ
Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Lao động thương binh xã hội, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của
người phải THA và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để THADS; Thông tư liên
tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 1/01/2014 của
Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ lao động-thương binh và xã hội, Ngân hàng
nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập
của người phải THA và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để THADS...
Vì vậy, để hoạt động tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS đạt hiệu
quả cao thì các quy định pháp luật phải thống nhất, đồng bộ, minh bạch và khả
thi. Điều này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải không ngừng hoàn thiện
các quy định pháp luật, kịp thời bãi bỏ các quy định không khả thi, còn chồng
chéo và bổ sung thêm các quy định mới phù hợp với tình hình, yêu cầu của
công tác thi hành án (Ví dụ như trong thời gian tới cần bổ sung quy định xác
định đưa bên thứ ba (người bảo lãnh), là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
là người phải thi hành án và họ bị cưỡng chế kê biên tài sản để THA; bổ sung
quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự đối với một số loại tài sản phù hợp
với Luật chuyên ngành và Bộ luật Dân sự, đặc biệt là những tài sản chưa quy
định trong pháp luật về thi hành án dân sự như: quyền tài sản, quyền khai thác
khoáng sản, tài sản hình thành trong tương lai; xử lý vi phạm hành chính, xử lý
29
hình sự trong thi hành án dân sự thực sự có tính khả thi và đảm bảo tính
nghiêm minh của hoạt động thi hành án...).
Hệ thống pháp luật về THADS tạo căn cứ vững chắc cho việc tổ chức và
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể có thẩm quyền thực hiện tổ
chức cưỡng chế THADS. Quy định của pháp luật càng đồng bộ, thống nhất,
phù hợp với các ngành luật có liên quan cũng như sát với thực tế sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho CHV trong việc áp dụng các các biện pháp cưỡng chế
THADS vào tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự.
Hai là, chất lƣợng của các bản án, quyết định của Tòa án
Bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật phải được người phải
THA, người được THA, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến bản án,
quyết định nghiêm chỉnh thi hành và được các cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân tôn trọng.Tuy
nhiên, để thực hiện được điều đó phải bảo đảm chất lượng các bản án, quyết
định của Tòa án các cấp.
Chất lượng của bản án, quyết định của Toà án là yếu tố có ý nghĩa quyết
định đến việc cưỡng chế THADS. Đã có nhiều bản án, quyết định về kinh
doanh thương mại của Tòa án không đảm bảo chất lượng đã ảnh hưởng đến
hoạt động cưỡng chế THADS. Đặc biệt, các quyết định, bản án kinh doanh,
thương mại liên quan đến tín dụng ngân hàng nhưng đối tượng phải thi hành
án lâm vào tình trạng phá sản, không còn hoạt động kinh doanh; nợ đọng
nghĩa vụ thuế, bảo hiểm xã hội... Trong những trường hợp đó dù cố gắng đến
đâu cơ quan THA cũng khó có thể thi hành được bản án cho dù là áp dụng
biện pháp cưỡng chế.
Ba là, ý thức pháp luật của đƣơng sự
Trong cưỡng chế THADS, nếu cả bên được THA, cả bên phải THA,
30
những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có ý thức pháp luật, tự nguyện
chấp hành pháp luật thì công tác THA, công tác cưỡng chế THADS sẽ gặp
nhiều thuận lợi. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức cưỡng chế THADS cho thấy đa
phần người phải THA có hành vi tiêu cực, không tự nguyện chấp hành do
không hiểu biết pháp luật, có hành vi chống đối quyết liệt như dùng vũ khí đe
dọa đến tính mạng của thành viên tham gia cưỡng chế và bản thân họ, hoặc
ngược lại hiểu biết pháp luật lại tìm cách trốn tránh, gây khó khăn cho CHV.
Như vậy, để bảo đảm trong cưỡng chế THADS đòi hỏi người được THA
và người THA phải có ý thức pháp luật, biết tự điều chỉnh hành vi của mình
theo yêu cầu của pháp luật. Vì lẽ đó giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp
luật của người dân đã trở thành chủ trương quan trọng của Đảng, Nhà nước, trở
thành nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị. Đối với công tác THA, để thực hiện
chủ trương đó, các cơ quan THA, CHV phải biết thông qua thực tế THA để chủ
động, tích cực làm tốt công tác giáo dục pháp luật cho đương sự và nhân dân
tại nơi tổ chức THADS.
Bốn là, năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan
thi hành án dân sự
Hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự được thực hiện chủ yếu thông
qua hoạt động của đội ngũ chấp hành viên, về bản chất, là hoạt động áp dụng
pháp luật; do đó, các hoạt động tác nghiệp của đội ngũ chấp hành viên phải
tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật về nguyên tắc, trình tự, thủ tục
thi hành án dân sự. Năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của chấp hành viên thi
hành án dân sự, về cơ bản, bao gồm các yếu tố như trình độ kiến thức, hiểu
biết pháp luật; ý thức pháp luật nghề nghiệp; kỹ năng nghiệp vụ công tác;
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống... là nhân tố hàng đầu quyết định sự
thành bại trong cưỡng chế THADS. Để có được một đội ngũ Chấp hành viên
có phẩm chất đạo đức, tinh thông nghề nghiệp, trong những năm qua Bộ Tư
pháp đặc biệt quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng,
31
bổ nhiệm và các chế độ chính sách đối với Chấp hành viên, thẩm tra viên và
cán bộ làm công tác THADS. Tuy nhiên, do nhiều lý do, nhất là do tác động
của cơ chế thị trường một số Chấp hành viên, cán bộ THA của một số cơ
quan THA trong toàn quốc đã bị tha hoá, biến chất làm ảnh hưởng không nhỏ
đến công tác THA. Thực trạng đó đã cho thấy bên cạnh công tác đào tạo, bồi
dưỡng, quan tâm chế độ đãi ngộ đòi hỏi Nhà nước, Bộ Tư pháp phải đặc biệt
chú ý công tác quản lý cán bộ, động viên họ tu dưỡng, rèn luyện, tự hoàn
thiện đáp ứng ngày càng tốt hơn công việc được giao.
Chất lượng đội ngũ Chấp hành viên được thể hiện cụ thể thông qua số
lượng vụ việc được thi hành so với tổng số vụ việc phải thi hành. Đây là
những con số phản ánh khả năng tổ chức thực hiện THA của đội ngũ Chấp
hành viên.
Năm là, cơ chế phối hợp trong cƣỡng chế thi hành án dân sự
Thực tiễn cho thấy trong nhiều trường hợp không thể thi hành được bản
án bởi ở giai đoạn điều tra, xét xử, cơ quan công an, Tòa án đã không tiến
hành kê biên tài sản, để đối tượng tẩu tán hết tài sản, hoặc cũng không thể thi
hành được bản án, quyết định của Tòa án khi chính bản án, quyết định này
không có tính khả thi. Thậm chí ngay cả khi những yếu tố trên được đảm bảo,
song giữa cơ quan THADS và các cơ quan hữu quan không có sự phối hợp
nhịp nhàng, đề cao trách nhiệm trong cưỡng chế THA thì cũng gặp rất nhiều
khó khăn, thậm chí không thực hiện được. Như vậy, để nâng cao hiệu quả
trong cưỡng chế THA đòi hỏi phải tăng cường trách nhiệm của cơ quan tiến
hành tố tụng, đồng thời phải hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa cơ quan THA
với các cơ quan tổ chức hữu quan. Theo đó, đổi mới cơ quan THADS, tăng
cường quản lý Nhà nước về công tác THADS, hoàn thiện pháp luật quy định
mối quan hệ phối hợp, trách nhiệm tham gia và chế tài xử lý đối với những
trường hợp không tích cực tham gia cưỡng chế THADS, cản trở và gây thiệt
hại trong cưỡng chế THADS.
32
Tiểu kết chƣơng 1
Ngành Thi hành án dân sự là ngành có tính chất đặc thù riêng trong hệ
thống các cơ quan Tư pháp. Cùng với tự nguyện thi hành án, cưỡng chế thi
hành án dân sự là một trong những biện pháp cơ bản trong thi hành án dân sự,
góp phần quan trọng bảo đảm việc thi hành án đạt hiệu quả. Hoạt động tổ
chức thực hiện cưỡng chế thi hành án là hoạt động thường xuyên được thực
hiện trong công tác thi hành án dân sự. Hiệu quả của hoạt động cưỡng chế là
cơ sở, tiền đề cho sự thành công của công tác tổ chức thi hành một vụ việc thi
hành án dân sự khi đương sự không tự nguyện thi hành. Việc nhận thức đúng
về biện pháp cưỡng chế và hoạt động tổ chức cưỡng chế trong thi hành án là
điều kiện rất cần thiết để các cơ quan nhà nước và nhân dân nắm rõ được
quyền và nghĩa vụ của mình trong hoạt động thi hành án dân sự, để từ đó
nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức tự giác tuân thủ pháp luật, góp
phần xây dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
Ở chương 1, luận văn tập trung phân tích khái niệm, đặc điểm, vai trò,
quy trình tổ chức thực hiện và các yếu tố ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện
cưỡng chế thi hành án dân sự, tạo cơ sở lý luận cho việc đánh giá khách quan,
chính xác thực trạng tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự và đề xuất các
quan điểm, giải pháp trong tổ chức thi hành cưỡng chế thi hành án của toàn
ngành thi hành án dân sự nói chung và của các cơ quan thi hành án dân sự ở
tỉnh Ninh Bình nói riêng.
33
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THỰC HIỆN CƢỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH
2.1. Tình hình kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc phòng tỉnh
Ninh Bình và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình
2.1.1. Khái quát về tình hình kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh-quốc
phòng tỉnh Ninh Bình có ảnh hưởng đến tổ chức thực hiện cưỡng chế
thihành án dân sự
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ cực Nam của vùng đồng bằng Bắc
Bộ. Tỉnh Ninh Bình có diện tích:1.400 km, dân số là 982.487 người (theo
điều tra dân số 1/4/2019), 21% dân số sống ở đô thị và 79% dân số sống ở
nông thôn, mật độ dân số đạt 642 người/km².
Với vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình, lịch sử văn hóa đồng thời sở
hữu 02 khu vực là di sản thế giới và khu dự trữ sinh quyển thế giới, Ninh
Bình hiện là một trung tâm du lịch có tiềm năng phong phú và đa dạng. Năm
2015, Ninh Bình là tỉnh đầu tiên của đồng bằng sông Hồng có 2 thành phố
trực thuộc tỉnh (thành phố Ninh Bình và thành phố Tam Điệp).
Tỉnh Ninh Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 2
thành phố và 6 huyện với 143 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 119 xã, 17
phường và 7 thị trấn.
Về tình hình kinh tế: Những năm gần đây,tình hình kinh tế trên địa bàn
tỉnh chịu ảnh hưởng của tốc độ đô thị hóa nhanh,đặc biệt trong năm 2020,đại
dịch COVID – 19 bùng phát mạnh đã để lại hậu quả nặng nề đối với nền kinh
tế, tài chính toàn cầu nói chung, toàn tỉnh Ninh Bình nói riêng.Tỉnh Ninh
Bình được coi là một trong những điểm nóng nổi cộm và phức tạp phát sinh
34
các tranh chấp liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân
hàng, tranh chấp dân sự. Thời gian vừa qua trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, hàng
chục doanh nghiệp tuyên bố phá sản, hàng trăm tỷ đồng nợ tín dụng ngân
hàng không có khả năng thanh toán, nợ xấu ngày càng tăng; các loại tội phạm
và tệ nạn xã hội trên địa bàn ngày càng phức tạp, các quan hệ xã hội liên quan
đến tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính, lao động... có xu hướng
tăng về số lượng và tính phức tạp, dẫn đến số lượng việc thụ lý và số tiền phải
thi hành trong những năm gần đây tăng đột biến; loại việc dân sự trong hình
sự tập trung vào một số tội về ma tuý, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giết người;
lượng án kinh doanh thương mại có số tiền phải thu lớn; lượng án tồn chủ yếu
từ các loại việc chưa có điều kiện thi hành chuyển sang đều có xu hướng
tăng.... Song với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính
quyền, cùng sự đoàn kết đồng lòng và nỗ lực không ngừng của toàn thể cán
bộ, nhân dân trong tỉnh, Ninh Bình đã và đang vượt qua khó khăn, triển khai
thực hiện thắng lợi tương đối toàn diện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội
mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI đề ra.
Về văn hóa, xã hội: Chất lượng giáo dục được nâng cao, năm 2019, tỉnh
Ninh Bình được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục các cấp học là 100%,
các trường, lớp học được đầu tư xây dựng đạt chuẩn quốc gia; Công tác đào
tạo nghề, giải quyết việc làm cho người lao động được quan tâm thực hiện;
Chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên,đến nay, 100% xã, phường, thị
trấn có trạm y tế; có 49,7% trạm y tế có bác sỹ, toàn tỉnh đã chủ động triển
khai nhiều biện pháp khống chế ngăn chặn kịp thời các bệnh truyền nhiễm,
đặc biệt trú trọng thực hiện các biện pháp cách ly y tế đối với các đối tượng
nghi nhiễm Covid – 19 tại địa bàn tỉnh; Công tác kiểm tra vệ sinh an toàn
thực phẩm được tăng cường; 1622/1622 thôn, bản, phố xây dựng được hương
ước, quy ước; có 4.192 gia đình văn hóa, 130 làng văn hoá và 90 cơ quan đạt
tiêu chuẩn văn hoá.
35
Về an ninh, quốc phòng: An ninh chính trị, trận tự an toàn xã hội được
giữ vững, không để xảy ra biểu tình, bạo loạn. Hệ thống chính trị từ tỉnh đến
cơ sở từng bước được kiện toàn. Chủ trương phát triển kinh tế gắn với quốc
phòng an ninh được triển khai khá đồng bộ.
Với những đặc điểm về kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng
nêu trên cho thấy, tỉnh Ninh Bình về cơ bản có điều kiện phát triển kinh tế -
xã hội, đời sống dân cư ngày càng được nâng cao, trình độ dân trí ngày càng
phát triển, kéo theo đó ý thức tuân thủ pháp luật của người dân cũng được
nâng cao. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng trong việc thực
hiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình. Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế xã hội phát triển cũng là
một trong những điều kiện thuận lợi bảo đảm cho việc thực hiện thi hành án
dân sự được hiệu quả.
2.1.2. Khái quát về Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình
Căn cứ Quyết định số 2761/QĐ-BTP ngày 06 tháng 11 năm 2009 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp về việc thành lập Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình
và Quyết định số 2893/QĐ-BTP ngày 06 tháng 11 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ
Tư pháp về việc sửa đổi Quyết định số 2761/QĐ-BTP, theo đó Cục THADS
tỉnh Ninh Bình được thành lập trên cơ sở Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình, là
cơ quan trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp và chịu sự quản
lý chỉ đạo của UBND tỉnh Ninh Bìnhtheo quy định của pháp luật.
Cục Thi hành án dân sựtỉnh Ninh Bìnhlà cơ quan thực hiện chức năng thi
hành án dân sự, thi hành án hành chính, có nhiệm vụ giúp Tổng Cục trưởng
Tổng cục THADSquản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan thi
hành án dân sựđịa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo
quy định của pháp luật.
36
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình có các phòng chuyên môn và tổ
chức tương đương trực thuộc; có Cục trưởng đồng thời là Thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự; Phó Cục trưởng đồng thời là Phó Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự; Chấp hành viên sơ cấp; Chấp hành viên trung cấp; Chấp hành
viên cao cấp; Thẩm tra viên thi hành án; Thẩm tra viên chính thi hành án; Thư
ký thi hành án và công chức khác.
Cục trưởng Cục Thi hành án dân sựtỉnh Ninh Bình chịu trách nhiệm
trước Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sựvà trước pháp luật về
toàn bộ hoạt động của Cục Thi hành án dân sựtỉnh; Phó Cục trưởng Cục Thi
hành án dân sựcấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Cục trưởng Cục Thi hành án
dân sựtỉnh và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được phân công phụ trách.
Cục Thi hành án dân sựtỉnh Ninh Bình chịu sự chỉ đạo của UBND tỉnh
theo quy định tại Điều 173 Luật THADS, có trách nhiệm báo cáo với UBND
cùng cấp về chủ trương, biện pháp tăng cường công tácthi hành án dân sự,
công tác quản lý, đôn đốc thi hành án hành chính trên địa bàn và thực hiện
báo cáo công tác THADS trước Hội đồng nhân dân cùng cấp theo quy định
của pháp luật (theo Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg, ngày 30/10/2014 của
Thủ tướng Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp).
Về cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan thi hành án dân sựtỉnh Ninh
Bình gồm: Các cơ quan Thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình được tổ chức và
hoạt động theo hệ thống ngành dọc, bao gồm có Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Ninh Bình trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư Pháp, có 04
Phòng chuyên môn và 8 Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện, thành phố
trực thuộc Cục. Ở Cục có(1) Văn phòng Cục; (2) Phòng Tổ chức-cán bộ; (3)
Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án; (4) Phòng Kiểm tra - giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Ở các huyện, thành phố có các đơn vị (1) Chi cục THADS
37
thành phố Ninh Bình; (2) Chi cục THADS thành phố Tam Điệp; (3) Chi cục
THADS huyện Kim Sơn; (4) Chi cục THADS huyện Hoa Lư; (5) Chi cục
THADS huyện Nho Quan; (6) Chi cục THADS huyện Yên Mô; (7) Chi cục
THADS huyện Gia Viễn; (8) Chi cục THADS huyện Yên Khánh.
Về công tác tổ chức cán bộ: Năm 2020, toàn ngành có 93biên chế, trong
đó có 37 Chấp hành viên (bao gồm: 01 CHV cao cấp, 19 CHV trung cấp;
18CHV sơ cấp); 10 Thẩm tra viên (bao gồm: 02 Thẩm tra viên chính, 8 Thẩm
tra viên); 25 Thư ký thi hành án; 01 Chuyên viên; 02 Thủ kho;10 Kế toánvà 8
công chức khác.
Về tổ chức bộ máy: lãnh đạo Cục và các Chi cục THADS cơ bản được kiện
toàn. Tính đến nay, Cục có Cục trưởng, 03 Phó Cục trưởng, 04 Trưởng phòng và
04 Phó Trưởng phòng; 8 Chi cục có 8 Chi cục trưởng và 11Phó Chi cục trưởng.
Về chế độ chính sách, đào tạo bồi dưỡng: Các chế độ, chính sách đối với
công chức, người lao động được quan tâm thực hiện thường xuyên, kịp thời.
Thực hiện Kế hoạch đào tạo bồi dưỡng của Tổng cục thi hành án dân sự, căn
cứ nhu cầu đào tạo của Ngành, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình đã rà
soát, lựa chọn các trường hợp đủ điều kiện, tiêu chuẩn cử đi học các lớp bồi
dưỡng về kiến thức lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ. Năm 2020
CụcThi hành án dân sự tỉnh đã quyết định bổ nhiệm và chuyển xếp lương đối
với ngạch Cán sự cho 06 công chức; Quyết định cử 05 công chức tham gia kỳ
thi nâng ngạch lên CHV trung cấp, 02 công chức tham gia kỳ thi nâng ngạch
lên Thẩm tra viên chính. Quyết định cử 06 công chức tham gia các lớp đào
tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ; quyết định cử 05 công chức tham gia
tập huấn phần mềm quản lý văn bản và hỗ trợ trực tuyến tại Hà Nội.
Công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, miễn nhiệm,
chuyển đổi vị trí công tác: Trong kỳ đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị Tổng cục
38
THADS bổ nhiệm lại 01 Chi cục trưởng; bổ nhiệm mới 01 Trưởng phòng, 01
Phó trưởng phòng, 01 kế toán trưởng, 01 Phó Chi cục trưởng; bổ nhiệm lại
theo thẩm quyền 01 Phó chi cục trưởng, 01 Phó trưởng phòng, 01 Trưởng
phòng; điều động, bổ nhiệm 01 Phó Chi cục trưởng; tiếp nhận và phân công
hướng dẫn tập sự đối với 04 công chức mới tuyển dụng; điều động 03 công
chức; chuyển công tác đối với 01 công chức.
Về tình hình và kết quả xử lý vi phạm kỷ luật, xử lý vi phạm pháp luật
của CHV, công chức cơ quan Thi hành án: Trong năm 2020 ngành THADS
tỉnh Ninh Bình tiến hành kỷ luật 01 CHV vi phạm pháp luật.
2.2. Tình hình tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình
2.2.1. Lập kế hoạch, ban hành văn bản triển khai cưỡng chế thi hành
án dân sự
Xây dựng kế hoạch cưỡng chế là một trong những công việc quan trọng
của Chấp hành viên trước khi tiến hành cưỡng chế thi hành một vụ án.Trên thực
tế, người phải thi hành án thường có tâm lý chống đối, không tự nguyện thi hành
án, do đó, phần lớn các vụ việc thi hành án dân sự phải sử dụng đến biện pháp
cưỡng chế thi hành án. Việc lập kế hoạch cưỡng chế chi tiết, cụ thể, sát với thực
tếcó ý nghĩa rất lớn đối với việc tổ chức cưỡng chế thi hành án thành công.
Thực tiễn công tác lập kế hoạch và ban hành văn bản triển khai cưỡng
chế THADS ở tỉnh Ninh Bìnhcho thấy vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng
mắc. Hầu hết ở các đơn vị trên địa bàn tỉnh Ninh Bình bị sức ép về khối lượng
vụ việc phải đưa ra tổ chức thi hành quá nhiều, giá trị về tiền, tài sản lớn; các
vụ việc phải áp dụng biện pháp cưỡng chế phức tạp do các bên đương sự và
người có quyền lợi liên quan có nhiều mối quan hệ phức tạp như thế lực chính
trị, thế lực tài chính. Bản án của Tòa án tuyên không ra quyết định áp dụng
39
biện pháp khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án khiến cho
công tác xác minh, phân tích đánh giá tình hình để lựa chọn biện pháp cưỡng
chế THADS gặp nhiều khó khăn. Song với tinh thần quyết tâm hầu hết ở các
Chấp hành viên đều đã chủ động xác minh, nắm rõ chắc chắn điều kiện về tài
sản của người phải THA, các mối quan hệ của người phải THA và thân nhân
họ, địa hình giao thông, quan điểm của chính quyền địa phương... Từ đó, xác
định rõ các căn cứ cho việc lựa chọn và ra quyết định cưỡng chế phù hợp.
Trên thực tế, quá trình thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự không cho
phép Chấp hành viên kéo dài thời gian. Muốn vậy, Chấp hành viên phải có
công tác chuẩn bị cưỡng chế thật tốt trước khi thực hiện việc cưỡng chế. Trong
thời gian diễn ra việc cưỡng chế, chấp hành viên và những người tham gia đoàn
cưỡng chế luôn phải đối mặt với những khó khăn, nguy hiểm nhất định. Nếu
thời gian cưỡng chế càng kéo dài thì nguy cơ xảy ra khó khăn, nguy hiểm càng
nhiều hơn. Hơn nữa, tâm lý người bị cưỡng chế luôn mong muốn việc cưỡng
chế không thực hiện được.Vì vậy, công tác dự đoán tình hình, chuẩn bị cưỡng
chế về lực lượng, phương tiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị trước khi cưỡng chế
rất quan trọng, tránh lúng túng trong việc xử lý tình huống.
Ví dụ: Khi tiến hành kiểm kê tài sản để di dời trong vụ doanh nghiệp
Minh Thoa - Cố Viên Lầu ở huyện Hoa Lư, có một số tài sản là cổ vật cần
phải để riêng, nếu không muốn hư hỏng thì cần có thùng xốp để đựng. Do
chưa chuẩn bị trước thùng xốp, Chấp hành viên đã cắt cử người đi mua, gây
ảnh hưởng đến việc cưỡng chế thi hành án do phải kéo dài thời gian, kéo theo
việc kiểm đếm, di dời, lập biên bản cưỡng chế không thể thực hiện một cách
kịp thời và nhanh chóng được.
Được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy - HĐND - UBND – Ban chỉ đạo
Thi hành án và sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan ban ngành hữu quan tại
40
địa phương nên hầu hết các vụ việc đã tổ chức cưỡng chế đều thành công,
đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật, đảm bảo hiệu lực của bản
án và quyền, lợi ích của các bên đương sự.
Trong khoảng thời gian 05 năm từ 2016 - 2020, cơ quan THADS tỉnh
Ninh Bình đã tiến hành nhiều vụ việc cưỡng chế quy mô lớn với nhiều tình
tiết phức tạp, đương sự và người thân trong gia đình chống đối quyết liệt phải
huy động lực lượng, tiêu biểu như: vụ ông Trần Viết Hải – Thanh ở huyện
Kim Sơn; vụ doanh nghiệp Minh Thoa – Cố Viên Lầu ở huyện Hoa Lư; vụ
Đỗ Thị Tâm – Vị, vụ Huy – Thơm, vụ Sáng – Ngải ở thành phố Ninh Bình,
vụ Công ty TNHH Tân Việt ở huyện Hoa Lư... .
Để làm tốt được công tác này, phải khẳng định rằng trong những năm
qua ở Ninh Bình đã xây dựng được đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ có năng
lực về nghiệp vụ, về tư duy lý luận, có kinh nghiệm giải quyết được rất nhiều
những vụ án rất khó khăn và phức tạp, ít gặp trên thực tiễn, làm tốt công tác
xây dựng kế hoạch cưỡng chế, dự đoán được các tình huống có thể phát sinh
và đưa ra các phương án giải quyết hợp lý.
Bên cạnh đó, Ban chỉ đạo THADS tỉnh cũng đóng góp vai trò lớn, luôn
theo sát chương trình chỉ đạo của trung ương, kịp thời ban hành các văn bản
theo dõi, chỉ đạo công tác phối hợp trong tổ chức cưỡng chế thi hành án dân
sự trên địa bàn tỉnh, tập trung hỗ trợ mọi nguồn lực để giải quyết các vụ án
lớn phức tạp cần phải tiến hành cưỡng chế. Những vụ việc cưỡng chế quy mô
lớn, có ảnh hưởng đến an ninh chính trị tại địa phương buộc phải báo cáo lên
Ban chỉ đạo THADS để xin ý kiến. Trưởng ban chỉ đạo sẽ tổ chức họp và căn
cứ vào kế hoạch cưỡng chế thi hành án mà Chấp hành viên xây dựng để phân
công nhiệm vụ chotừng ngành tham gia phối hợp tổ chức cưỡng chế.
41
Có thể nói, việc lập kế hoạch cưỡng chế và ban hành kịp thời các văn
bản liên quan đến cưỡng chế thi hành án giữ vai trò quan trọng, là nền móng
để việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án diễn ra thành công tốt đẹp.
2.2.2. Triển khai thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
Công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình những năm gần đây có sự
gia tăng đột biến về số lượng vụ việc và số tiền phải thi hành, do ý thức chấp
hành pháp luật của người dân, do điều kiện hoàn cảnh, do các nguyên nhân
chủ quan và khách quan dẫn đến phải áp dụng nhiều các biện pháp cưỡng chế
và hiệu quả của cưỡng chế thi hành án dân sự trên thực tế tại địa bàn tỉnh còn
nhiều bất cập. Để rõ hơn tình hình công tác thi hành án tại địa bàn tỉnh Ninh
Bình, có thể tham khảo qua bảng thống kê kết quả thi hành án dân sự của cơ
quan thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình từ năm 2016 - 2020:
Bảng 2.1: Kết quả THADS về việc giai đoạn 2016 - 2020.
(đơn vị tính: việc)
Tổng số thi Tổng số Tổng số có Tỷ lệ thi hành
hành xong Năm phải thi điều kiện thi xong/Số có điều
hành hành kiện
5.833 2016 4.990 3.713 74,4%
5.836 2017 4.878 3.767 77%
5.741 2018 4.560 3.458 75,8%
5.828 2019 4.475 3.299 73,7%
5.609 2020 4.664 3.546 76,3%
Nguồn: [14-15-16-17-18]
42
Bảng 2.2: Kết quả THADS về tiền giai đoạn 2016 - 2020.
(đơn vị tính: 1.000đ)
Tỷ lệ thi hành Tổng số phải Tổng số có điều Tổng số thi Năm xong/số có thi hành kiện thi hành hành xong điều kiện
2016 368.817.415 336.480.421 102.132.274 30,4%
2017 566.014.063 428.653.393 209.385.302 48,8%
2018 563.208.892 366.481.071 137.028.666 37,4%
2019 612.640.377 369.423.720 146.681.931 39,7%
2020 606.428.245 313.122.998 129.136.898 41,2%
Nguồn: [14-15-16-17-18]
Từ số liệu của Bảng2.1 và Bảng2.2 cho thấy, số việc thi hành án mà Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình phải thi hành rất lớn, tăng dần theo từng
năm. So với số lượng chấp hành viên hiện có thì khối lượng án trung bình mỗi
chấp hành viên được phân công trong 01 năm là rất lớn.
Chỉ tính riêng năm 2018, trung bình mỗi Chấp hành viên phải thi hành
khoảng gần 200 việc (5.741việc/37 Chấp hành viên) và để thi hành xong số
lượng việc nêu trên, trung bình mỗi tháng Chấp hành viên phải thi hành xong
14 việc. Tuy nhiên cũng tính trung bình năm 2018 thì mỗi tháng Chấp hành
viên chỉ thi hành xong 8 việc (3.458 việc/37 Chấp hành viên/12 tháng).
Thực tế này cho thấy rằng trong công tác thi hành án dân sự, Chấp hành
viên phải chịu áp lực công việc rất lớn, hàng năm số việc mà Chấp hành viên
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình phải thi hành tuy không tăng đáng
kể, nhưng lại tăng về giá trị phải thi hành, nhất là năm 2017 tăng gần như gấp
2 lần, cụ thể: năm 2017 thụ lý: 566.014.063.000 đồng, tăng gần 200 tỷ đồng
43
so với năm 2016 là368.817.415.000 đồng (tăng55%); năm 2019 thụ lý:
612.640.377.000đồng, tăng 49.431.485.000đồng so với năm 2018 là
563.208.892.000đồng(tăng gần 9%).
Theo như kết quả thống kê về việc và tiền năm 2016 – 2020 của Bảng
2.1 và Bảng2.2, tổng số phải thi hành về việc và tiền năm sau tăng hơn năm
trước, đặc biệt là về tiền. Cụ thể, năm 2016 tổng số phải thi hành là 5.833việc,
với số tiền 368.817.415.000 đồng; năm 2020 tổng số phải thi hành là 5.609
việc, với số tiền 606.428.245.000 đồng. Như vậy, so với năm 2016, tổng số
việc phải thi hành năm 2020 giảm 224 việc (giảm 4%) tuy nhiên số tiền tăng
237.610.830.000 đồng (tăng 64,5%). Tỷ lệ thi hành xong trên số có điều kiện
năm sau tăng nhiều hơn năm trước. Tuy nhiên tổng số việc và tiền chuyển
sang năm sau còn nhiều. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do sự gia
tăng giá trị phải thi hành của các việc thi hành án tín dụng ngân hàng theo bản
án, quyết định về kinh doanh thương mại, việc áp dụng các biện pháp cưỡng
chế thi hành án còn chưa phát huy hết khả năng trên thực tế. Mà cưỡng chế
THADS lại là hoạt động quan trọng thường xuyên của công tác thi hành án
dân sự, nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm phạm.
Qua thực tiễn thi hành án cho thấy rằng, mặc dù Chấp hành viên đã có
nhiều cố gắng trong việc thuyết phục người phải thi hành án tự nguyện thi
hành nghĩa vụ của mình nhưng cũng còn nhiều trường hợp người phải thi
hành án không hợp tác, buộc cơ quan thi hành án phải áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự.
44
Bảng2.3: Thống kê các việc THADS phải tổ chức cƣỡng chế
giai đoạn 2016-2020
(đơn vị tính: việc)
Năm 2016 2017 2018 2019 2020
Số việc phải
cưỡng chế 21 18 17 27 22
Số việc cưỡng
chế có huy động 7 6 5 9 7 lực lượng
Nguồn: [14-15-16-17-18]
Từ số liệu Bảng2.3 nêu trên cho ta thấy số vụ việc thi hành án phải áp
dụng biện pháp cưỡng chế có sự thay đổi tăng, giảm cùng với số lượng việc
phải thi hành án theo từng năm. Năm 2016 là 21 việc, năm 2017 là 18 việc
giảm 3 việc so với năm 2016. Năm 2018 là 17 việc giảm 1 việc so với năm
2017. Năm 2019 là 27 việc tăng 10 việc so với năm 2018. Năm 2020 là 22
việc giảm 5 việc so với năm 2019. Có thể thấy, số lượng vụ việc phải tiến
hành cưỡng chế THADS có sự tăng mạnh trong giai đoạn 2018 - 2019. Năm
2019, các cơ quan THADS trong tỉnh đã ra quyết định áp dụng biện pháp kê
biên, cưỡng chế thi hành án đối với 27 vụ việc theo đúng quy định của pháp
luật, tăng 10 việc so với cùng kỳ năm 2018 (58%), trong đó có 9 vụ việc phải
huy động lực lượng liên ngành. Đặc biệt có 02 vụ cưỡng chế giao quyền sử
dụng đất (vụ ông Lê Văn Nhiên, địa chỉ xã Khánh Phú, huyện Yên Khánh; vụ
Công ty cổ phần may Thăng Long - Hoa Lư, địa chỉ: xã Đồng Phong, huyện
Nho Quan) phải huy động lực lượng liên ngành tham gia với số lượng trên 50
người. Nhìn chung, số lượng vụ việc phải tiến hành cưỡng chế thi hành án
dân sự vẫn còn ở mức cao, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác của cơ quan thi
45
hành án, gây tốn thời gian và chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự cho Nhà
nước và cơ quan, tổ chức, cá nhân .
2.2.3. Tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự
Đối với tỉnh Ninh Bình, công tác thi hành án dân sự trong những năm
qua luôn đạt kết quả khá cao, làm giảm đáng kể lượng án tồn đọng, bảo đảm
quyết định, bản án của Tòa án, cơ quan có thẩm quyền được thực thi trên thực
tế, bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích chính đáng của các bên đương sự, góp
phần bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội và phát triển kinh tế xã hội ở địa
phương. Để có được kết quả này, Cục THADS và các Chi cục THADS tỉnh
Ninh Bình đã áp dụng đồng bộ các giải pháp, trong đó công tác tuyên truyền
pháp luật luôn được quan tâm thực hiện.
Thực hiện Kế hoạch số 930/KH-TCTHADS ngày 07/4/2014 của Tổng
cục Thi hành án dân sự về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Ninh Bình đã xây dựng kế hoạch và Chỉ đạo các đơn vị
thuộc Cục làm tốt công tác phổ biến giáo dục pháp luật, xác định công tác này
là một trong những nhiệm vụ của cơ quan Thi hành án dân sự; chỉ đạo Chấp
hành viên trong quá trình thực hiện công tác, nhiệm vụ chuyên môn lồng ghép
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đến các đối tượng là đương sự và quần
chúng nhân dân, trong đó tập trung vào các ngành luật có liên quan đến công
tác chuyên môn của ngành như Luật Hình sự, Luật dân sự, Luật Hôn nhân và
gia đình, Luật Đất đai, chú trọng tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thi hành
án dân sự...; tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan và chính quyền
cơ sở làm tốt công tác hòa giải ở cơ sở.
Bên cạnh đó, Cục THADS tỉnh phối hợp với Đài phát thanh và truyền
hình tỉnh cùng với cơ quan THADS đã trực tiếp xuống cơ sở, gặp gỡ những
đối tượng phải thi hành án và người có liên quan để thực hiện làm phóng sự
46
về công tác THADS; đội ngũ cán bộ công chức, Chấp hành viên các cơ quan
Thi hành án dân sự tích cực phối hợp với chính quyền cơ sở để tuyên truyền
pháp luật về thi hành án, chủ động tuyên truyền qua những buổi làm việc, tiếp
dân ở trụ sở cơ quan, chính quyền giúp nhân dân hiểu rõ hơn về quyền, nghĩa
vụ của mình trong việc thi hành án, nhiều vụ việc đương sự tự nguyện thi
hành án, tự nguyện bàn giao tài sản để thi hành án.
Nhờ làm tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, ý thức tuân thủ pháp
luật của người phải thi hành án đã được nâng lên rõ rệt thể hiện qua việc có
nhiều người phải thi hành án đã tự nguyện thi hành án; tình trạng đương sự
quấy phá, chống đối quyết liệt trong suốt quá trình tổ chức thực hiện cưỡng
chế giảm nhiều, số vụ việc cưỡng chế THADS không thành công về cơ bản là
không có.
2.2.4. Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cưỡng chế thi hành án
dân sự
Thực hiện chương trình trọng tâm công tác cải cách tư pháp năm 2020,
Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp Tỉnh ủy Ninh Bình đã triển khai xây dựng và
thực hiện kế hoạch thanh tra, kiểm tra việc tham mưu chỉ đạo công tác cưỡng
chế thi hành án dân sự đối với Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh Ninh
Bình nhằm đánh giá việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm công tác
cải cách tư pháp đã được xác định trong Kế hoạch số 02-KH/BCĐ ngày
20/7/2016 của Ban Chỉ đạo Cải cách tư pháp tỉnh; những hạn chế, khó khăn,
nguyên nhân, những giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao hiệu quả công
tác cưỡng chế thi hành án dân sự.
Theo đó, thanh tra, kiểm tra việc tham mưu triển khai thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, pháp luật về công tác tổ chức thực hiện cưỡng
chế thi hành án dân sự và vai trò, trách nhiệm và kết quả hoạt động của Ban
Chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình, cụ thể:
47
Tham mưu giúp Chủ tịch UBND tỉnh trong việc kiện toàn tổ chức hoạt
động của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự tỉnh, việc xây dựng chương trình,
kế hoạch của UBND tỉnh về chỉ đạo việc tổ chức phối hợp giữa các cơ quan
có liên quan trong thi hành án dân sự và chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế
THADS; tham mưu, đề xuất các biện pháp chỉ đạo giải quyết kịp thời những
vướng mắc, khó khăn phát sinh trong việc phối hợp.
Việc tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch, ý kiến chỉ đạo của
UBND tỉnh về tổ chức phối hợp giữa cơ quan có liên quan với Cục THADS
tỉnh trong THADS; trong việc chỉ đạo tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự
với các vụ việc lớn, phức tạp có ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội ở địa phương.
Tổ chức thanh tra, kiểm tra hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng
thanh tra, kiểm tra việc thực hiện kết luận của Ban Chỉ đạo THADS, ý kiến
chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh về tổ chức phối hợp với các cơ quan liên
quan trong THADS và tổ chức cưỡng chế THADS; việc phân công trách
nhiệm của thành viên Ban chỉ đạo THADS...
Bên cạnh đó, hàng năm Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình đều có
kế hoạch thanh tra, kiểm tra hoạt động thi hành án dân sự nói chung và tổ
chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh nói riêng.
Thông qua hoạt động này nhằm đảm bảo công tác thi hành án dân sự được
thực hiện đúng quy định pháp luật về hồ sơ, trình tự, thủ tục, thời hạn giải
quyết, đặc biệt là kiểm tra, thanh tra việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi
hành án dân sự từ khâu kê biên tài sản, thẩm định tài sản, bán đấu giá tài sản
và kết thúc việc thi hành án tại các Chi cục Thi hành án dân sự các huyện,
thành phố, xác định những khó khăn, bất cập cũng như các sai phạm để từ đó
tìm ra được những biện pháp khắc phục, tháo gỡ.
48
Trong thời gian 5 năm từ 2016 – 2020, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh
Bình đã triển khai các cuộc thanh tra, kiểm tra công tác thi hành án dân sự nội
bộ, cụ thể như sau:
-Năm 2016: phúc tra đối với 03 Chi cục Thi hành án dân sự và 01 đợt
kiểm tra toàn diện đối với 08 Chi cục Thi hành án dân sự[14, tr. 3].
-Năm 2017: kiểm tra toàn diện đối với 08 Chi cục Thi hành án dân
sự[15, tr. 4].
-Năm 2018: kiểm tra toàn diện đối với 04 Chi cục Thi hành án dân sự,
các Chi cục Thi hành án dân sự còn lại tiến hành kiểm tra chéo và báo cáo kết
quả về Cục Thi hành án dân sự tỉnh[16, tr. 6].
-Năm 2019: kiểm tra theo chuyên đề đối với 05 Chi cục Thi hành án dân
sự, kiểm tra toàn diện đối với 08 Chi cục Thi hành án dân sự [17, tr. 6].
-Năm 2020: kiểm tra toàn diện đối với 08 Chi cục Thi hành án dân sự
[18, tr. 6].
Kết quả kiểm tra cho thấy, các đơn vị được kiểm tra đã thực hiện tương
đối tốt các quy định pháp luật có liên quan. Bên cạnh đó đã kịp thời phát hiện,
ngăn chặn và chấn chỉnh những thiếu sót, sai phạm trong quá trình tổ chức thi
hành án của chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan THADS.
2.2.5. Sơ kết, tổng kết, đánh giá thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
Nhằm đánh giá hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói chung, công tác
tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng, hàng năm Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Ninh Bình tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND cấp tỉnh tổ
chức Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm và Hội nghị tổng kết 1 năm công tác thi
hành án dân sự. Theo đó, đối với lĩnh vực cưỡng chế thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh, Tỉnh ủy, UBND cấp tỉnh yêu cầu toàn Ngành Thi hành án dân sự
tỉnh Ninh Bình tiếp tục thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày
49
06/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác thi hành án dân
sự, nỗ lực triển khai đồng bộ, toàn diện các mặt công tác thi hành án, trong đó
chú trọng một số nhiệm vụ:
Một là, toàn Ngành thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình cần tập trung mọi
nguồn lực trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành án, hoàn thành các
chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 111/2015/QH13
ngày 27/11/2015 của Quốc hội; tập trung hoàn thành, nâng cao chỉ tiêu về
việc và về tiền, đặc biệt là trong thu hồi tiền, tài sản trong những vụ án tham
nhũng, kinh tế và thu hồi các khoản nợ của các tổ chức tín dụng; chỉ đạo các
chi cục thi hành án dân sự địa phương tập trung xử lý dứt điểm các vụ việc có
điều kiện thi hành; đưa ra các chỉ đạo hướng dẫn nghiệp vụ đối với các vụ án
trọng điểm; khoanh vùng các vụ án chưa có điều kiện phải đưa vào sổ theo
dõi riêng để kịp thời đưa ra những phương hướng giải quyết tốt nhất.
Hai là, kịp thời tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền địa phương triển
khai hiệu quả các nhiệm vụ quản lý nhà nước; đưa ra các giải pháp cụ thể
nhằm nâng cao kỷ cương, kỷ luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc
chấp hành bản án, quyết định hành chính có hiệu lực pháp luật; thực hiện
nghiêm túc công tác kiểm tra, đôn đốc, kiến nghị xử lý trách nhiệm đối
với các tổ chức, cá nhân không chấp hành án hành chính theo quy định; thực
hiện nghiêm túc, công khai minh bạch trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo;
tăng cường đối thoại trực tiếp với công dân, hạn chế phát sinh những
vụ việc khiếu nại, tố cáo vượt cấp, phức tạp, kéo dài.
Ba là, tham mưu cho cấp ủy và chính quyền địa phương trong công tác
phối hợp tổ chức cưỡng chế thi hành án, đặc biệt là cưỡng chế giao tài sản đã
bán đấu giá thành; giải quyết dứt điểm các vụ việc trọng điểm, có giá trị lớn,
phức tạp, ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương;
50
xử lý nghiêm các trường hợp chây ỳ, trốn tránh, cố ý không chấp hành án; công
khai thông tin về người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án.
Bốn là, chủ động phối hợp với các cơ quan truyền thông, báo chí để làm
tốt công tác tuyên truyền về pháp luật, xây dựng ý thức tự giác chấp hành
pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng của công
dân. Khuyến khích việc thỏa thuận trong quá trình tổ chức thi hành án nhằm
giảm bớt các tranh chấp trong xã hội.
Năm là, tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chéo, tự kiểm
tra, rà soát hồ sơ, kịp thời chấn chỉnh và cảnh báo, phòng ngừa những vi
phạm, sai sót trong công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
của toàn ngành thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Tăng cường
vai trò giám sát, kiểm tra của các tổ chức hữu quan, đặc biệt lưu ý vai trò
kiểm sát của Viện kiểm sát đối với công tác cưỡng chế thi hành án dân sự.
2.3. Đánh giá chung
Để đánh giá khách quan, toàn diện tình hình thi hành án dân sự nói
chung và công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án nói riêng trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình cần dựa trên những tiêu chí nhất định. Trên cơ sở số liệu
thống kê tại các bảng 2.1, 2.2, 2.3 nêu trên có thể đưa ra các đánh giá cụ thể
như sau:
Thứ nhất, đánh giá theo tiêu chí mức độ đạt được mục đích, yêu cầu thi
hành án dân sự
Mục tiêu quan trọng nhất của thi hành án dân sự là đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, trong đó quan trọng nhất là giá trị thu được cho
người được thi hành án và ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, mục tiêu này phụ
thuộc trước hết vào điều kiện thi hành án của đương sự và tính khả thi của
việc xử lý tài sản đảm bảo thi hành án.
51
Theo thống kê tại Bảng 2.1 và Bảng 2.2, trong những năm qua số việc có
điều kiện thi hành trên tổng số việc phải thi hành chiếm tỷ lệ trung bình
khoảng 73,4% (năm 2016 = 74,4%; năm 2017= 77%; năm 2018= 75,8%; năm
2019 =73,7%; năm 2020 = 76%), đáng chú ý là mặc dù các việc tín dụng
ngân hàng chiếm tỷ lệ nhỏ về việc nhưng có giá trị lớn nên theo quy định của
Điều 44a Luật THADS sửa đổi, bổ sung 2014 thì nhiều trường hợp người
phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án hoặc có điều kiện thi hành án
nhưng việc xử lý tài sản đảm bảo gặp nhiều khó khăn.
Thực tế số liệu thống kê tại cả 2 bảng cho thấy số việc thi hành xong/số
việc có điều kiện thi hành hàng năm đạt được chỉ tiêu nhiệm vụ, vì vậy, theo
tiêu chí này có thể đánh giá chất lượng thi hành án dân sự của Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Ninh Bình cơ bản đạt được và để nâng cao hơn nữa chất lượng
thi hành án dân sự thì trong những năm tới, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh
Bình cần giảm thiểu số việc chưa được thi hành xong/tổng số phải thi hành
hàng năm.
Thứ hai, đánh giá theo tiêu chí sự tiến triển của trình tự THADS
Sự tiến triển trong quá trình thực hiện các trình tự thi hành bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật được thể hiện ở sự hợp tác, phối hợp của đương sự
và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan; áp dụng các biện pháp bảo đảm,
cưỡng chế, xử lý tài sản thi hành án..., trong đó vấn đề được quan tâm nhất là
cưỡng chế thi hành án và xử lý tài sản để thi hành án.
Tuy nhiên, trong tổng số các việc phải thi hành cũng có nhiều việc thi
hành án gặp khó khăn và còn nhiều việc tồn đọng với những nguyên nhân
như: việc thi hành án bị hoãn, tạm đình chỉ; đang áp dụng biện pháp cưỡng
chế; người phải thi hành án cản trở, chống đối cần phải tổ chức cưỡng chế thi
hành án; việc thi hành án trong giai đoạn xác minh tài sản thi hành án; tài sản
kê biên chưa bán được; tài sản có tranh chấp (đang khởi kiện); các bên thỏa
52
thuận ấn định thời gian trả tiền, xin tự bán tài sản, lý do khác, trong đó số việc
chưa thi hành được do nguyên nhân đương sự cản trở, chống đối dẫn đến phải
tổ chức cưỡng chế và đang xử lý tài sản chiếm tỷ lệ lớn.
Theo số liệu tại Bảng 2.3 có thể thấy giai đoạn 05 năm (2016-2020) số
lượng các vụ việc phải tổ chức thực hiện cưỡng chế luôn ở ngưỡng cao hơn
mức trung bình, đặc biệt những vụ việc lớn, phức tạp cần huy động lực lượng
có xu hướng tăng. Đỉnh điểm là vào năm 2019, các cơ quan THADS tỉnh
Ninh Bình đã ra quyết định áp dụng biện pháp kê biên, cưỡng chế thi hành án
đối với 27 vụ việc, tăng 10 việc so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó có 9 vụ
việc phải huy động lực lượng liên ngành, tăng 04 việc so với cùng kỳ năm
2018, 18 việc cưỡng chế thành công; 04 việc đương sự tự nguyện trước khi
cưỡng chế, 05 vụ đã ra quyết định nhưng chưa tổ chức cưỡng chế.
Theo số liệu tại Bảng 2.2 nêu trên thì tỷ lệ giá trị về tiền thu được/tổng
số phải thi hành qua các năm là: năm 2016 đạt 30,4%, năm 2017 đạt 48,8%,
năm 2018 đạt 37,4%, năm 2019 đạt 39,7%, năm 2020 đạt 41,24%.
Kết quả trên cho thấy mặc dù tỷ lệ giá trị thi hành xong về tiền/số phải
thi hành còn khiêm tốn, nhưng trong bối cảnh các cơ quan thi hành án dân sự
phải chịu áp lực về số việc, số tiền phải thi hành năm sau cao hơn năm trước,
nhất là về giá trị phải thi hành, số vụ việc cưỡng chế thành công đạt tỉ lệ cao,
hoàn thành cưỡng chế, kê biên tài sản của một số vụ án lớn, tồn đọng thì có
thể khẳng định rằng hoạt động thi hành án dân sự thời gian qua của Cục
THADS tỉnh Ninh Bình có nhiều chuyển biến tích cực (giá trị tiền thu được
năm sau cao hơn năm trước), công tác tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự
được triển khai thực hiện tốt, đạt hiệu quả cao.
Trên cơ sở những phân tích theo các tiêu chí cơ bản nêu trên, đánh giá
chung có thể thấy rằng công tác tổ chức thi hành án dân sự của Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Ninh Bình thời gian qua ngày càng được nâng cao, tỉ lệ thành
53
công trong hoạt động tổ chức thực hiện cưỡng chế các vụ án lớn, phức tạp
tăng, đạt được các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao.
2.3.1. Ưu điểm và nguyên nhân
2.3.1.1. Ưu điểm
Nhận thức đầy đủ được vai trò quan trọng của công tác THADS đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội, giai đoạn 2016-2020, trong điều kiện khối lượng
công việc của Ngành thi hành án dân sự tỉnh ngày càng nhiều, chỉ tiêu được
giao về việc và về tiền ngày càng tăng, các cơ quan THADS tỉnh Ninh Bình
luôn đặt mục tiêu giảm thiểu số lượng án phức tạp, tồn đọng, kéo dài; kiên
quyết tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án đối với những vụ án lớn phức
tạp, đương sự không hợp tác.
Nhiều vụ việc khó, có vướng mắc tồn đọng kéo dài đã được liên ngành
phối hợp thuyết phục động viên tự nguyện thi hành hoặc tổ chức cưỡng chế
thi hành án thành công các vụ án lớn, phức tạp và có yếu tố nước ngoài như:
năm 2016 tổ chức cưỡng chế thi hành vụ Công ty TNHH Tân Việt, ở huyện
Nho Quan với số tiền trên 15 tỷ đồng, vụ Công ty TNHH Huy Hùng tại huyện
Yên Khánh với số tiền hơn 20 tỷ; năm 2017 năm 2018 giải quyết xong vụ
Công ty TNHH Xăng Dầu Toàn Hằng ở Kim Sơn với số tiền gần 20 tỷ đồng,
vụ Công ty TNHH và Dịch vụ Bình Lệ Xuân tại thành phố Ninh Bình với số
tiền 15 tỷ đồng; năm 2019 vụ Công ty ADM 21 phải trả cho công ty tại Hàn
Quốc số tiền 20 tỷ đồng, vụ Công ty TNHH Cơ khí Nguyễn Huệ, tại huyện
Hoa Lư với số tiền hơn 20 tỷ đồng... . Việc tổ chức thi hành xong nhiều vụ
việc phức tạp, tồn đọng kéo dài đã tạo được niềm tin của quần chúng nhân
dân đối với cấp ủy, chính quyền và cơ quan bảo vệ pháp luật.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan Thi hành án dân sự cấp
huyện, thành phố tập trung thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ về thi hành án dân
sự theo Nghị quyết của Quốc hội.Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành tiếp tục
54
được đổi mới hiệu quả theo hướng sâu sát hơn, rõ người, rõ việc, rõ thời gian
hoàn thành; công tác kiểm tra ngày càng được chú trọng nâng cao chất lượng.
Tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức của cơ quan thi hành án dân sự,
nhất là đội ngũ lãnh đạo quản lý đã được quan tâm kiện toàn và ngày càng lớn
mạnh cả về số lượng và chất lượng; kỷ luật, kỷ cương hành chính được siết
chặt và ngày càng đi vào nề nếp.
2.3.1.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, thực hiện tốt việc phân công Lãnh đạo Cục trực tiếp chỉ đạo,
theo dõi đôn đốc công tác cưỡng chế thi hành án dân sự đối với các Chi cục,
bảo đảm nắm sát tình hình kết quả công tác của các đơn vị để kịp thời có biện
pháp chỉ đạo cưỡng chế thi hành án có hiệu quả.
Thứ hai, thực hiện đúng quy định công tác thẩm định bán đấu giá tài sản.
Giải quyết dứt điểm đối với những vụ việc cưỡng chế chưa giao tài sản cho
người mua trúng đấu giá.
Thứ ba,triển khai kịp thời các văn bản chỉ đạo của Tổng cục, Bộ Tư
pháp, Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác thi hành án dân sự, đảm bảo tính
chủ động, kịp thời.
Thứ tư, tổ chức tốt công tác tiếp công dân định kỳ theo quy định, tăng
cường đối thoại trực tiếp, giải quyết kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo
đúng thẩm quyền, đúng thời gian, trình tự, thủ tục.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được về tổ chức thực hiện cưỡng chế thi
hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Ninh Bình thì vẫn còn những tồn tại nhất
định như sau:
Thứ nhất, công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS còn để xảy ra
các vi phạm về thời gian, trình tự, thủ tục cưỡng chế thi hành án, điển hình
55
như: Chậm xử lý tài sản kê biên; Vi phạm trong việc kê biên tài sản chung; Vi
phạm trong việc cưỡng chế, kê biên quyền sử dụng đất; Vi phạm trong việc
không kê biên tài sản duy nhất của người phải thi hành án đã được thế chấp
vay tài sản tại ngân hàng mà có giá trị lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm và chi
phí cưỡng chế thi hành án được quy định tại Điều 90 Luật THADS; Vi phạm
trong việc giải tỏa kê biên tài sản; Vi phạm về trình tự thủ tục trong quá trình
cưỡng chế thi hành án; Thực hiện kê biên đối với tài sản không có trong quyết
định kê biên; Vi phạm trong ký hợp đồng thẩm định giá; Vi phạm trong bán
đấu giá tài sản kê biên; Kỹ năng tổ chức cưỡng chếc òn lúng túng; Tình trạng
chấp hành viên còn kéo dài chậm trễ trong việc tổ chức thực hiện, số lượng
các vụ việc có điều kiện đưa ra thi hành án không đúng thời gian quy định ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động quản lý công tác về thi hành án dân sự trên
địa bàn tỉnh.
Thứ hai, vẫn còn tồn tại tình trạng áp dụng pháp luật không đúng, không
nghiên cứu đầy đủ, toàn diện hồ sơ thi hành án và các tài liệu có liên quan;
không tổ chức xác minh, đối thoại hoặc trưng cầu giám định khi cần thiết dẫn
đến kết quả cưỡng chế không khách quan, chưa đúng pháp luật, đương sự bức
xúc. Đặc biệt, có trường hợp người phải thi hành án bị cưỡng chế khủng bố,
dọa chém giết người đứng đầu cơ quan thi hành án dân sự.
Thứ ba, công tác chỉ đạo, phát triển đội ngũ công chức làm công tác thi
hành án dân sự chưa được chú trọng. Đội ngũ công chức, chấp hành viên làm
công tác thi hành án dân sự chưa được quan tâm đúng mực, nhìn chung vẫn
còn thiếu và chưa đồng bộ. Ở một số Chi cục Thi hành án dân sự trình độ
chuyên môn của công chức, chấp hành viên còn hạn chế, yếu kém. Trong tổ
chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh vẫn còn xảy ra
tình trạng lơi là, nể nang, ngại va chạm…dẫn tới việc tổ chức thực hiện không
diễn ra theo đúng quy định của pháp luật, gây khó khăn trong quá trình quản
lý công tác thi hành án dân sự tại địa phương.
56
Thứ tư, chậm khắc phục sai phạm và chậm tổ chức thực hiện về thủ tục,
trình tự thi hành, cụ thể: Chưa chủ động, kịp thời áp dụng pháp luật để khắc
phục những sai phạm, thiếu sót đã được phát hiện qua công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại; việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án còn chậm.
Thậm chí, thủ trưởng một số cơ quan thi hành án dân sự còn có biểu hiện
chưa nghiêm khắc đối với những cán bộ, chấp hành viên và công chức có sai
phạm trong quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế THADS, dẫn đến tình trạng
công dân bức xúc, khiếu nại gay gắt, kéo dài, vượt cấp.
Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi
hành án dân sự còn hạn chế chưa được quan tâm, chú trọng. Đội ngũ công
chức, chấp hành viên chưa thường xuyên học tập trau dồi kiến thức kỹ năng
tuyên truyền, kỹ năng thuyết phục.
2.3.2.2. Nguyên nhân
- Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, chấp hành viên của cơ quan
thi hành án dân sự chưa mạnh dạn, kiên quyết áp dụng biện pháp cưỡng chế
thi hành án, ngại khó khăn, va chạm, sợ làm sai, sợ trách nhiệm do năng lực
nghiệp vụ còn hạn chế. Ý thức trách nhiệm, tính gương mẫu đi đầu của một
bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý và chấp hành viên chưa cao; có trường hợp
năng lực chuyên môn chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ; việc chấp hành kỷ
cương, kỷ luật một số nơi chưa nghiêm.
Thứ hai, trình độ năng lực của cán bộ thi hành án dân sự ở các cơ quan
thi hành án dân sự còn hạn chế. Nhiều cán bộ chưa tích cực nghiên cứu, nắm
vững các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và pháp luật có liên
quan nên khi áp dụng để tham mưu cưỡng chế còn lúng túng, sai sót. Một số
chấp hành viên có thái độ không đúng mực gây bức xúc cho đương sự hoặc
có hành vi vi phạm pháp luật, ví dụ: sai phạm của Chấp hành viên Chi cục
57
THADS huyện Hoa Lư trong tổ chức bán đấu giá tài sản của Đàm Văn Xứng.
Điều này không chỉ vì do yếu kém về nghiệp vụ mà còn do cố ý hoặc do đạo
đức kém, thái độ coi thường, nhũng nhiễu, thậm chí vô cảm trước quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Quá trình giải quyết của thủ trưởng cơ quan
thi hành án dân sự không ít trường hợp còn có tâm lý bênh vực cán bộ cơ
quan mình hoặc cán bộ cấp dưới. Đây là một trong những nguyên nhân chính
dẫn tới bức xúc của đương sự.
Thứ ba, công tác tổng kết, rút kinh nghiệm và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
về nghiệp vụ, kỹ năng giải quyết cưỡng chế trong THADS tuy ngày càng
được chú ý, thực hiện thường xuyên nhưng nội dung chưa chuyên sâu; chưa
đầu tư thường xuyên cho thời gian tập huấn hàng năm thậm chí là rất ít. Với
thời gian ngắn ngủi này chỉ đủ để giới thiệu những vấn đề mới, chứ không đủ
để trao đổi thảo luận và giải đáp thấu đáo những vướng mắc nghiệp vụ.
Thứ tư, ý thức tuân thủ pháp luật của một số tổ chức, cá nhân có liên
quan đến việc thi hành án, nhất là của người phải thi hành án còn chưa cao;
nhiều trường hợp, người phải thi hành án cố tình chây ỳ, tẩu tán tài sản, khiếu
nại vượt cấp nhằm mục đích kéo dài việc thi hành án, có trường hợp chống
đối quyết liệt việc thi hành án.
- Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, công tác chỉ đạo giải quyết các việc thi hành án trọng điểm,
phức tạp còn nhiều vướng mắc do vụ việc kéo dài nhiều năm, các quy định
của pháp luật về THADS còn vướng mắc về quy trình, thủ tục, còn dành
nhiều thời gian cho việc tuyên truyền, hòa giải, thuyết phục trước khi áp dụng
biện pháp cưỡng chế nên mất nhiều thời gian.
Thứ hai, một số Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện có lượng vụ việc
thi hành án nhiều nên chấp hành viên làm công tác thi hành án rơi vào tình
trạng quá tải công việc, dẫn đến chậm trễ trong việc tổ chức thi hành án, do
58
đó, quyền lợi của người được thi hành án không được đảm bảo.
Thứ ba, một số bản án, quyết định của Tòa án có sai lầm, trong quá trình
tổ chức thi hành mới phát hiện nên cơ quan thi hành án kiến nghị với người
có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, kéo dài
thời gian tổ chức thi hành án.
Ví dụ: Quyết định số 01/2016/QĐST-KDTM ngày 20/1/2016 của Tòa án
nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình tuyên: Công ty TNHH Ninh
Khánh, địa chỉ: phố Bình Yên Tây, phường Ninh Khánh, thành phố Ninh Bình
(Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Văn Son chức vụ: Chủ tịch hội
đồng thành viên kiêm giám đốc) có nghĩa vụ phải trả cho Ngân hàng Nông
nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam số tiền: 7.509.112.795,đ. Án có hiệu
lực pháp luật, Chi cục trưởng THADS thành phố Ninh Bình căn cứ vào đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, ban hành Quyết định thi hành
án theo đơn số 22/QĐ-CCTHADS ngày 21/3/2016 và phân công cho Chấp
hành viên tổ chức thi hành án. Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành
viên tiến hành xác minh tại sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Ninh Bình thì phát hiện
ngày 05 tháng 01 năm 2016 Công ty TNHH Ninh Khánh đã đăng ký thay đổi
người đại diện theo pháp luật là bà Nguyễn Kim Thoa chức vụ: Chủ tịch hội
đồng thành viên kiêm giám đốc trong khi Tòa án nhân dân thành phố Ninh
Bình vẫn tuyên người đại diện theo pháp luật của công ty là ông Nguyễn Văn
Son chức vụ: Chủ tịch hội đồng thành viên kiêm giám đốc và ông Son vẫn đại
diện cho công ty TNHH Ninh Khánh làm việc với Tòa án và Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Ninh Bình là không đúng với quy định của pháp luật nên
ngày 05/4/2016 Chi cục THADS thành phố Ninh Bình đã tổ chức họp liên
ngành để bàn về việc tổ chức thi hành án. Tại cuộc họp liên ngành diễn ra tại
Chi cục THADS, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình không
đồng ý cho thực hiện việc tổ chức thi hành án, đồng thời đề nghị Chi cục
THADS thành phố Ninh Bình lùi thời gian tổ chức thi hành án lại với lý do:
59
Quyết định số 01/2016/QĐST-KDTM ngày 20/01/2016 của Tòa án nhân dân
thành phố Ninh Bình có nhiều thiếu sót, vi phạm cần phải xem xét lại. Đại diện
công an thành phố Ninh Bình cũng có ý kiến không thống nhất tổ chức cưỡng
chế thi hành án khi quyết định của Tòa án còn nhiều điểm thiếu sót, vi phạm.
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Ninh Bình đã có văn bản đề nghị Viện Kiểm sát
nhân dân cấp cao tại Hà Nội kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với
Quyết định số 01/2016/QĐST-KDTM của Tòa án nhân dân thành phố Ninh
Bình. Sau 01 năm chờ kết quả giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, ngày
25/6/2017 Chi cục THADS thành phố Ninh Bình mới nhận được quyết định
công nhận sự thỏa thuận số: 05/2017/QĐST-KDTM ngày 08/5/2017 và công
văn số: 435/CV-TA ngày 21/6/2017 của TAND thành phố Ninh Bình để tổ
chức thực hiện việc thi hành án đối với Công ty TNHH Ninh Khánh.
Như vậy cho thấy Tòa án đã thiếu thận trọng trong việc điều tra, xác
minh làm rõ dẫn đến việc tuyên án chưa chính xác.
Thứ tư, do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 nên việc phối hợp để triển
khai việc xác minh, đôn đốc án tại cơ sở, họp bàn giải quyết thi hành án hay
tổ chức cưỡng chế có huy động lực lượng bị hạn chế. Bên cạnh đó, việc yêu
cầu đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội để chuẩn bị đại hội Đảng các cấp
được tính đến nên phần nào có ảnh hưởng đến công tác thi hành án dân sự.
Thứ năm, kinh tế khó khăn, đời sống thu nhập của người dân bị giảm sút,
doanh nghiệp làm ăn không phát triển cũng có ảnh hưởng đến tiến độ giải
quyết án. Một số vụ việc thi hành cho các tổ chức tín dụng, Ngân hàng có số
tiền phải thi hành án lớn khi cơ quan thi hành án xử lý tài sản bảo đảm thu
được số tiền nhỏ hơn nhiều so với nghĩa vụ phải thi hành án, ngoài tài sản đã
xử lý thì người phải thi hành án không còn tài sản nào khác nên phần nghĩa vụ
còn lại không có điều kiện thi hành đã làm tăng lượng việc và tiền tồn chuyển
kỳ sau.
60
Tiểu kết chƣơng 2
Trong những năm vừa qua Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến vấn
đề thi hành án dân sự, việc ban hành Luật THADS sửa đổi 2014 đã phần nào
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đang đòi hỏi, nâng cao được vị thế của cơ
quan thi hành án, tăng cường được sự phối hợp hiệp đồng của các ngành hữu
quan, tổ chức xã hội với công tác cưỡng chế thi hành án, thúc đẩy xã hội hóa
về công tác thi hành án nói chung và cưỡng chế thi hành án nói riêng.
Tỉnh Ninh Bình là một tỉnh với những đặc thù về kinh tế - xã hội riêng
biệt, thời gian qua, Ngành Thi hành án dân sự tỉnh đã được sự quan tâm và chỉ
đạo của Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, Tỉnh ủy, UBND tỉnh các cơ
quan thi hành án dân sự trong tỉnh đã tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án
dân sự đạt được những kết quả nhất định. Song qua thực tiễn tổ chức thi hành
án và cưỡng chế thi hành án cũng còn thấy bộc lộ một số điểm vướng mắc của
Luật Thi hành án dân sự. Đó cũng là cơ sở đưa ra phương hướng và giải pháp
nâng cao hiệu quả về cưỡng chế thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình.
61
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM TỔ CHỨC
THỰCHIỆN CƢỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ -
TỪ THỰC TIỄNTỈNH NINH BÌNH
3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành
án dân sự
3.1.1. Bảo đảm chặt chẽ về mặt thủ tục trong tổ chức thực hiện cưỡng
chế thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là một quá trình gồm nhiều thủ tục pháp lý liên quan
chặt chẽ với nhau. Thủ tục ban đầu làm tiền đề cho thủ tục tiếp theo, giữacác
thủ tục phải chặt chẽ để đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Trong khi đó, cưỡng chế THADS là một thủ tục nhạy cảm, ảnh hưởng
trực tiếp đến quyền lợi của các bên đương sự. Việc người dân khiếu nại, tố
cáo trong và sau khi tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án là điều khó tránh
khỏi. Do đó, khâu tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự cần phải
bảo đảm chặt chẽ về mặt thủ tục để hạn chế xảy ra sai sót dẫn đến việc khiếu
nại, tố cáo, đảm bảo chất lượng thi hành án, nâng cao sự tin tưởng của nhân
dân đối với cơ quan thi hành án.
Trên thực tế, nếu thủ tục ban đầu chấp hành viên không thực hiện được
một cách đầy đủ và đúng pháp luật, thì khi có khiếu nại phát sinh, cơ quan thi
hành án không có cơ sở bác khiếu nại của đương sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, buộc phải công nhận khiếu nại là đúng thì cả một quá
trình thi hành án sẽ bị ngưng trệ, thậm chí phải làm lại từ đầu, gây tốn kém về
thời gian và tiền bạc của Nhà nước, không bảo đảm quyền lợi của các bên.
62
3.1.2. Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, tổ chức và hiệu
quả quản lý nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện cưỡng chế thi
hành án dân sự
Cưỡng chế thi hành án dân sự không được xem là thành công khi trong
quá trình cưỡng chế có hậu quả xấu xảy ra ảnh hưởng đến những người tham
gia cưỡng chế hoặc các bên đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Bởi vậy trước, trong và sau khi tổ chức cưỡng chế cần phải chú trọng một số
vấn đề cụ thể như sau:
Một là, chú trọng công tác giải thích, thuyết phục, động viên và tạo điều
kiện cho người phải thi hành án tự nguyện thi hành nghĩa vụ của mình theo
đúng quy định của pháp luật; hướng dẫn các bên đương sự thỏa thuận về việc
thi hành án nhằm hạn chế các xung đột giữa các bên; tổ chức tốt công tác tiếp
dân để giảm thiểu tình trạng khiếu nại, tố cáo của đương sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
Hai là, trường hợp bản án, quyết định của Tòa án có những điểm chưa rõ
ràng, không phù hợp với thực tế hoặc cần được xem xét lại theo thủ tục giám
đốc thẩm, tái thẩm thì yêu cầu Tòa án có văn bản giải thích, đính chính và yêu
cầu cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ba là, đối với những vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về mặt an ninh,
chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương cần báo cáo Ban Chỉ đạo
THADS để được hướng dẫn, chỉ đạo kịp thời, phù hợp với tình hình thực tế.
Bốn là, đối với những trường hợp bản án, quyết định của Tòa án bị
đương sự khiếu nại gay gắt thì việc tổ chức thực hiện cưỡng chế phải hết sức
thận trọng. Trước khi tổ chức cưỡng chế thi hành án dân sự, Chấp hành viên
phụ trách vụ án cần chú ý nắm chắc tình hình địa bàn (địa hình, giao thông,
dân cư….), tình hình của đương sự (nhân thân, nhân khẩu, ý thức chấp hành
63
pháp luật…), dự liệu các tình huống (nhất là trong trường hợp có khả năng
gây hỏa hoạn, cháy nổ, sát thương…) để bố trí phương tiện, lực lượng và có
biện pháp xử lý phù hợp, đảm bảo việc cưỡng chế được an toàn, hiệu quả.
Năm là, phối hợp chặt chẽ, kịp thời với các cơ quan hữu quan để tranh thủ
sự đồng tình và thống nhất biện pháp giải quyết đối với các vấn đề phát sinh.
Sáu là, khi tổ chức cưỡng chế thi hành án, bên cạnh việc lập các biên bản
cần thiết theo đúng quy định của pháp luật, còn phải sử dụng các phương tiện
(máy ảnh, máy quay phim, máy ghi âm…) để ghi lại quá trình thực hiện
cưỡng chế, nhất là đối với những vụ việc phức tạp.
Bảy là, các tài liệu có ghi trong hồ sơ thi hành án phải đầy đủ, chặt chẽ,
đúng quy định pháp luật, thể hiện đúng kết quả thi hành án làm cơ sở cho việc
kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo được thuận lợi, chính xác,
khách quan.
3.2. Giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện cƣỡng chế thi hành án dânsự
3.2.1. Giải pháp chung
3.2.1.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án và
các quy định pháp luật liên quan
Thời gian qua Đảng và Nhà nước đã và đang tích cực quan tâm xây dựng
và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành án, từ đó nâng cao
được vị thế của cơ quản lý thi hành án, cơ quan THADS, Ban chỉ đạo
THADS và công chức làm công tác thi hành án, nhiều quy định về trình tự,
thủ tục thi hành án, quy định về phối hợp thi hành án, trách nhiệm của các tổ
chức, cá nhân, quyền lợi nghĩa vụ của các bên đương sự và người có nghĩa vụ
liên quan đã được bổ sung và sửa đổi.
Hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự phụ thuộc rất lớn vào các quy
định của pháp luật. Tuy nhiên, pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án
64
dân sự nói riêng, trong đó có cưỡng chế thi hành án dân sự ở nước ta còn tồn
tại một số hạn chế, bất cập. Mặc dù Luật thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ
sung năm 2014) đã sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung về cưỡng chế thi hành án
dân sự, tuy nhiên, trong quá trình áp dụng thực hiện ở từng nội dung vẫn bộc
lộ nhiều thiếu sót, các văn bản hướng dẫn thi hành còn chưa được cụ thể hoặc
chưa quy định. Điều này đã gây ra khó khăn cho cơ quan THA và Chấp hành
viên, mặt khác làm cho các cơ quan Thanh tra, kiểm tra nhận thức pháp luật
khác với quan điểm của cơ quan THA, từ đó gây nhiều tranh cãi. Vì vậy,việc
hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự là cấp thiết và cần tập
trung vào những nội dung sau:
Một là, quy định Ban chỉ đạo THADS ở các địa phương có trách nhiệm
cụ thể trong công tác chỉ đạo lực lượng thi hành án, lực lượng công an và các
lực lượng liên quan thực hiện nhiệm vụ cưỡng chế và bảo vệ cưỡng chế như
quy chế liên ngành.
Hai là, quy định cụ thể trách nhiệm chủ động phối hợp của các lực lượng
chức năng tham gia cưỡng chế, trách nhiệm tổ chức phối hợp của Thủ trưởng
các cơ quan này. Trong đó, cần quy định cụ thể trách nhiệm giáo dục cán bộ,
công chức để họ có nhận thức đúng đắn về công tác bảo vệ cưỡng chế
THADS, tránh tư tưởng cho rằng đây là việc làm giúp cơ quan THA hoặc cho
rằng việc bảo vệ cưỡng chế chỉ cần lực lượng công an mà không huy động
các lực lượng khác tham gia bảo vệ.
Ba là, tăng cường quyền hạn cho Chấp hành viên trong tổ chức thực hiện
cưỡng chế thi hành án dân sự, tạo điều kiện thuận lợi trong việc xác minh điều
kiện cưỡng chế thi hành án, nhất là trong việc xác minh tài sản của người phải
thi hành án để áp dụng đúng biện pháp cưỡng chế THADS.
Bốn là, tăng cường trách nhiệm của Tòa án trong cưỡng chế thi hành án
dân sự, theo đó xác định nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong thi hành án
65
dân sự theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, như phối hợp trong
việc ban hành văn bản pháp luật về thi hành án dân sự; giải quyết yêu cầu,
kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự về việc xem xét lại bản án, quyết
định của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong thời hạn 90 ngày
kể từ ngày nhận được kiến nghị.
Năm là, quy định cụ thể về xác minh điều kiện cưỡng chế thi hành án
dân sự. Cụ thể, cần yêu cầu xác minh những nội dung sau: Xác minh điều
kiện cưỡng chế thi hành án dân sự được tiến hành tại nơi sinh sống, thường
trú, nơi làm việc của đối tượng bị cưỡng chế; Xác minh về nhân thân, nhận
thức xác hội, có biểu hiện thái độ chống đối như thách thức, đe dọa, có chuẩn
bị hung khí, lực lượng để chống đối hay không; Xác minh về quan điểm của
địa phương và thái độ của dư luận đối với vụ án; Xác minh điều kiện, đặc
điểm địa hình, đặc điểm dân cư, giao thông đi lại tại nơi cưỡng chế để khi cần
điều động lực lượng, phương tiện phù hợp bảo đảm cho việc cưỡng chế thi
hành án dân sự thành công.
Sáu là, bổ sung quy định chi tiết về cưỡng chế thi hành án dân sự đối với một
số tài sản đặc thù, phù hợp vớ Bộ luật dân sự, nhất là những tài sản chưa được quy
định trong Luật THADS như: quyền tài sản là quyền hưởng dụng, quyền bề mặt,
quyền đối với bất động sản liền kề, tài sản hình thành trong tương lai.
3.2.1.2. Nâng cao năng lực cơ quan thi hành án dân sự
Kiến nghị Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự tăng thêm biên chế,
mở rộng việc luân chuyển cán bộ ra ngoài phạm vi cơ quan thi hành án dân sự
nhằm thu hút những người có năng lực vào làm việc. Có chính sách đãi ngộ đối
với tất cả công chức thi hành án dân sự, hỗ trợ đầy đủ, kịp thời kinh phí, cơ sở
vật chất, phương tiện hoạt động và trang thiết bị làm việc cho cơ quan THADS.
Không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động thi tuyển chấp
hành viên, thẩm tra viên, thư ký thi hành án để qua mỗi kỳ thi tuyển chọn
66
được những công chức có đủ điều kiện về trình độ tiêu chuẩn, năng lực và
phẩm chất đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Nghiên cứu xây dựng phương án sử dụng tối ưu nguồn lực con người.
Thường xuyên rà soát, cân đối nhu cầu của từng đơn vị thi hành án, đánh giá
khối lượng công việc ở từng đơn vị, từ đó thực hiện việc luân chuyển, điều
động hỗ trợ cho các đơn vị có khối lượng công việc nhiều nhằm sử dụng tối
ưu nguồn nhân lực hiện có vào công tác THADS.
Đề cao công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho
đội ngũ cán bộ, công chức trong toàn ngành. Thường xuyên tổ chức tập huấn
về chuyên môn, nghiệp vụ, quán triệt đầy đủ các quy định của pháp luật về thi
hành án và pháp luật có liên quan đến công tác THADS (VD: Bộ luật Dân sự,
Luật thương mại, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật đấu giá tài sản...)
cho cán bộ, Chấp hành viên để nâng cao năng lực tổ chức thi hành án.
Tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành của Cục Thi
hành án dân sự cấp tỉnh và Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thành phố,
đồng thời thường xuyên phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ
quan hữu quan khác ở địa phương. Ban Chỉ đạo THADS các cấp chỉ đạo tổ
chức cưỡng chế các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh chính trị tại
địa phương; phối hợp chặt chẽ với Tổng cục THADSchỉ đạo các cơ quan thi
hành án dân sự địa phương tăng cường công tác chỉ đạo kiểm tra, thanh tra,
giám sát của các cơ quan chuyên môn theo quy định của pháp luật; kịp thời
khắc phục những thiếu sót và sai phạm trong công tác thi hành án dân sự.
Hàng năm, thông qua hoạt động thực tiễn trong công tác thi hành án,
Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh phải tổng kết đánh giá các chuyên đề, lĩnh
vực mà khi tiến hành tổ chức thi hành án dân sự gặp phải khó khăn, qua đó
kiến nghị Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự kịp thời tham mưu cho
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu hoàn thiện thể chế, chính sách
67
pháp luật về thi hành án dân sự để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong
thực tiễn.
Thường xuyên thống kê, tổng rà soát, phân loại án theo quy định từ đó
lập kế hoạch tổ chức thi hành án cụ thể phù hợp với từng địa phương, từng
giai đoạn; chỉ đạo thực hiện các đợt thi hành án cao điểm nhằm thi hành dứt
điểm các vụ việc có điều kiện thi hành, làm giảm đến mức thấp nhất số việc
thi hành án có điều kiện tồn đọng.
Thường xuyên thực hiện việc hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc và đánh giá
tình hình thực hiện nhiệm vụ, chỉ tiêu được giao đối với các cơ quan Thi hành
án dân sự địa phương, từ đó phát hiện những điển hình để nhân rộng và hạn
chế những yếu kém trong THADS.
Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra công tác thi hành án nhằm
phát hiện và khắc phục kịp thời các sai phạm. Cơ chế kiểm soát cũng như mở
rộng sự giám sát của nhân dân, nhất là của các đương sự và những người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để hạn chế thấp nhất những sai phạm và tiêu
cực trong THA. Kết hợp kiểm tra về thống kê phân loại án, nghiệp vụ thi
hành án với kiểm tra về công tác tổ chức cán bộ, công tác quản lý tài chính,
quản lý tài sản và đầu tư xây dựng cơ bản.
Trong công tác kiểm tra cần trú trọng công tác hậu kiểm nhằm đánh giá
việc thực hiện kết luận kiểm tra, nhất là biện pháp khắc phục những sai sót trong
các kết luận kiểm tra. Bên cạnh đó cần quan tâm, đánh giá, tổng kết những mặt
mạnh, yếu phát hiện được trong quá trình kiểm tra, từ đó nghiên cứu, tổng hợp
để thực hiện ban hành mới hoặc sửa đổi những quy định của pháp luật không
còn phù hợp với thực tiễn hoặc ban hành văn bản chỉ đạo thực hiện chung trong
toàn quốc nhằm tạo sự thống nhất trong tổ chức THADS.
68
3.2.1.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thi hành
án dân sự đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án dân sự nghiêm minh
Cưỡng chế THADS không chỉ nhằm giải quyết dứt điểm bản án, quyết
định của Tòa án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ
chức và công dân mà còn nhằm giáo dục cho các thành viên trong xã hội ý
thức tôn trọng quyền và lợi ích chính đáng của người khác khi thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình.
Thông qua cưỡng chế THADS các CHV phải tích cực, chủ động trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là các văn bản pháp luật về
THADS bằng nhiều hình thức (ví dụ: phát huy đài truyền thanh từ xa đến khu
dân cư; tuyên truyền trong khi giải quyết việc THA; tuyên truyền qua báo đài;
hoặc trực tiếp từ người thân, bạn bè của đương sự...). Việc tuyên truyền, phổ
biến pháp luật phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng
điểm, phù hợp với từng đối tượng ở từng vụ việc cụ thể nhằm tạo sự chuyển
biến cơ bản trong nhận thức của đội ngũ công chức, viên chức, người lao
động thuộc hệ thống thi hành án dân sự; nâng cao ý thức chấp hành pháp luật
về thi hành án trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đương sự và các đối tượng
có liên quan. Đây là một quan điểm quan trọng mà các CHV phải nắm vững
trong quá trình giải quyết THA, cũng như cưỡng chế THADS của cơ quan
THADS, vì nó có tác dụng giáo dục ý thức tuân theo pháp luật trực tiếp đối
với các đương sự và các thành viên khác trong xã hội.
3.2.2. Giải pháp với tỉnh Ninh Bình
3.2.2.1. Nâng cao năng lực của đội ngũ chấp hành viên
- Sử dụng tối ưu nguồn nhân lực hiện có: Hàng năm, Cục Thi hành án
dân sự tỉnh cần thường xuyên rà soát, cân đối nhu cầu của từng đơn vị thi
hành án trên địa bàn, khoanh vùng những địa bàn có nhiều vụ việc phức tạp,
tồn đọng kéo dài để thực hiện kế hoạch luân chuyển, chuyển đổi vị trí công
69
tác hay biệt phái đối với chấp hành viên tránh nơi thừa, nơi thiếu hoặc kịp
thời tăng cường cho các đơn vị tăng đột biến về việc, tiền để tập trung giải
quyết các vụ việc, phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhất là chỉ tiêu thi hành
án xong về việc, về tiền do Bộ Tư pháp, Tổng cục THADS và Ban Chỉ đạo
THADS tỉnh giao.
- Nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ Chấp hành viên, công chức cơ
quan thi hành án dân sự: Tổng cục thi hành án dân sự và Cục thi hành án dân
sự tỉnh Ninh Bình cần quan tâm rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ Chấp
hành viên, công chức thi hành án dân sự để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
nhằm đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ. Có chính sách
khuyến khích, động viên, hỗ trợ cho cán bộ đi học tập, nâng cao trình độ, có
chính sách đào tạo nguồn cán bộ tại chỗ và thu hút những người có trình độ
về công tác tại các cơ quan thi hành án huyện, xa trung tâm thành phố. Đào
tạo, bồi dưỡng khả năng áp dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý, điều
hành công việc. Xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp chấp hành viên,
những người làm công tác thi hành án áp dụng thống nhất trong toàn tỉnh.
- Bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ về các quy định mới của pháp luật về
thi hành án đến đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ làm công tác thi hành án qua
giao ban tuần, tháng, qua xử lý các vụ việc cụ thể phát huy tính sáng tạo của
từng cán bộ trong các giải pháp thi hành án đối với các vụ việc khó thi hành.
Kiên quyết tổ chức cưỡng chế đối với các vụ việc có điều kiện nhưng bây
cưa, chây ỳ, lẩn tránh việc thi hành án. Vận động, giáo dục, thuyết phục
đương sự là chính, áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết đảm bảo tính
răn đe, phòng ngừa.
- Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động thực thi
công vụ của đội ngũ chấp hành viên thông qua việc theo dõi, nắm bắt tình
hình hoạt động của các Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện, thành phố kịp
thời hướng dẫn nghiệp vụ, đưa ra các phương án giúp cho các Chi cục giải
70
quyết các vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài; kịp thời phát hiện, khắc phục
hạn chế đến mức thấp nhất các vi phạm; xử lý nghiêm tập thể, cá nhân có sai
phạm trong quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ.
- Nghiên cứu, xây dựng chế độ chính sách đãi ngộ với chấp hành viên và
cán bộ thi hành án, trước mắt là chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ thi hành án như
với thư ký toà án (hiện mới chỉ có chế độ bồi dưỡng đối với Chấp hành viên).
- Tổ chức tốt công tác thi đua, khen thưởng trong công tác thi hành án
dân sự nhằm tạo động lực khuyến khích Chấp hành viên, cán bộ, công chức
cơ quan thi hành án hằng hái hoàn thành nhiệm vụ.
3.2.2.2. Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho
nhân dân
Thực tiễn công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình cho thấy công tác
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thi hành án dân sự còn chưa thực
sự hiệu quả, chưa phát huy hết được vai trò của cả hệ thống chính trị tham gia
vào công tác thi hành án. Vì vậy, việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ
biến giáo dục pháp luật, thông tin kịp thời các hoạt động về thi hành án dân
sự, đặc biệt là về cưỡng chế thi hành án dân sự nhằm tạo ảnh hưởng tích cực
đối với cơ quan, tổ chức và nhân dân trên địa bàn tỉnh, coi đây là một trong
những giải pháp pháp trọng tâm sẽ nâng cao nhận thức cho những đối tượng
trực tiếp liên quan đến việc thi hành án dân sự và nhân dân; giúp cho họ nắm
rõ được các quyền, nghĩa vụ của mình, nâng cao khả năng tự bảo vệ mình,
trong đó trú trọng với các hình thức sau:
Các cấp ủy Đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh cần quan tâm hơn nữa
công tác lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan
như Hội đồng nhân dân, Cơ quan Tư pháp, Công an, Tòa án, Viện kiểm sát,
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng thực hiện
công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật thi hành án dân sự, coi đây
71
là hoạt động thường xuyên, liên tục của cấp ủy, chính quyền địa phương.
Đối với tỉnh Ninh Bình còn một số xã miền núi, dân cư không tập trung,
giao thông đi lại khó khăn, trình độ dân trí chưa đồng đều, do đó các cơ quan
chức năng khi xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền phổ biến giáo
dục pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án nói riêng phải tính đến
đặc điểm vùng, miền, đối tượng để có giải pháp phù hợp.
Xây dựng hình thức phổ biến tuyên truyền pháp luật về thi hành án phù
hợp với từng xã, phường, từng vụ việc cụ thể như: thông qua đài phát thanh,
tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về luật thi hành án dân sự, để làm được điều đó,
cơ quan thi hành án cần thông qua chương trình, kế hoạch với Ban chỉ đạo thi
hành án thành phố và Thường trực Ủy ban nhân dân; tham mưu cho Chủ tịch
Ủy ban nhân dân ra chỉ thị cho Ủy ban nhân dân các xã, phường thực hiện
việc phổ biến, tuyên truyền dưới hình thức thông báo về thi hành án trên hệ
thống loa truyền thanh cơ sở; Ủy ban nhân dân xã, Mặt trận Tổ quốc xã chủ
trì việc chỉ đạo phối hợp với cơ quan Thi hành án trong công tác thi hành án.
Chi cục Thi hành án dân sự cùng với các Phòng Tư pháp xây dựng chương
trình kế hoạch hàng tuần, tháng để phổ biến tuyên truyền và thi hành án pháp
luật trên địa bàn thành phố; Chi cục Thi hành án dân sự thành phố rà soát và
lập danh sách các vụ việc cần thiết phải thông báo trên địa bàn, thông báo đối
với từng vụ việc cụ thể giao cho Ủy ban nhân dân các xã, phường thực hiện
việc thông báo trên hệ thống loa truyền thanh.
Ngoài giải pháp tuyên truyền thông qua hình thức thông báo về thi hành
án qua hệ thống truyền thanh cơ sở thì cũng cần quan tâm đến các hình thức
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật khác như: tuyên truyền trong trại
giam đối với các đối tượng đang thi hành án phạt tù, cần phổ biến cho họ nếu
thi hành xong phần nghĩa vụ dân sự thì được xem xét để giảm án hoặc đặc xá.
Tuyên truyền trên Đài phát thanh truyền hình của tỉnh và thành phố. Tuyên
truyền thông qua sinh hoạt của các tổ chức, đoàn thể, thông qua việc giáo dục,
72
thuyết phục trực tiếp của cán bộ chính quyền, đảng viên, cán bộ, đoàn thể,
hòa giải viên, tổ trưởng tổ dân phố và những người có uy tín trong cộng đồng
dân cư nhằm tạo sự đồng thuận trong cộng đồng dân cư.
Thông qua hoạt động thi hành án, đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ làm
công tác thi hành án dân sự cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật, tích cực động viên thuyết phục người phải thi hành án tự
nguyện thi hành, xác định rõ đối tượng cần tuyên truyền, thuyết phục để có
biện pháp tuyên truyền phù hợp, tránh sự lặp lại dẫn đến nhàm chán, tạo sự lôi
cuốn của công tác tuyên truyền. Khi thực hiện, Chấp hành viên phải nắm rõ
nội dung vụ việc, bản án đã tuyên, tìm hiểu kỹ hoàn cảnh người phải thi hành
án, có vụ việc cần phải thấm nhuần nguyên tắc “mưa dầm thấm lâu” để thuyết
phục người phải thi hành án và gia đình họ tự nguyện thi hành án...
Để làm tốt công tác này, đội ngũ Chấp hành viên, cán bộ làm công tác
thi hành án dân sự cần tích cực học tập để nâng cao trình độ lý luận, thường
xuyên trau dồi đạo đức, tác phong, kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, tích
lũy kinh nghiệm, có bản lĩnh chính trị và bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng vận
dụng sáng tạo, linh hoạt, đúng pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án.
3.2.2.3. Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về cưỡng chế thi
hành án dân sự
Một là, nâng cao nhận thức và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội
ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự.
Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự
trong việc tổ chức thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo bảo đảm áp dụng
đúng quy định pháp luật; không để xảy ra sai phạm dẫn đến khiếu nại, tố cáo.
Bố trí cán bộ có năng lực, tâm huyết, có trách nhiệm để làm công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo; xử lý kỷ luật nghiêm khắc các trường hợp có sai
73
phạm, lòng vòng, tiêu cực trong quá trình tổ chức thi hành án, tiếp dân, giải
quyết khiếu nại, tố cáo; những trường hợp bị sửa đổi, hủy hoặc thu hồi quyết
định giải quyết khiếu nại, kết luận tố cáo và tồn đọng nhiều vụ việc khiếu nại,
tố cáo phức tạp kéo dài.
Hai là, tiếp tục tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu
nại, tố cáo phức tạp, kéo dài.
Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tháo
gỡ khó khăn, vướng mắc, phối hợp với các cấp chính quyền địa phương và
các cơ quan tư pháp địa phương Công an, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân để chỉ đạo các Chi cục THADS cấp huyện trong việc bảo vệ cưỡng
chế, kịp thời giải thích bản án hoặc giải quyết các tranh chấp phát sinh trong
quá trình thực hiện cưỡng chế thi hành án; lập hồ sơ bảo đảm tài chính, cấp
kinh phí bồi thường.
Đôn đốc, chỉ đạo tích cực tổ chức thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố
cáo đúng pháp luật, hợp tình, hợp lý, tranh thủ sự ủng hộ của cấp ủy, chính
quyền địa phương để tổ chức cưỡng chế thi hành án dứt điểm các vụ việc có
điều kiện thi hành án.
Khẩn trương rà soát, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp
kéo dài có phương án thực hiện, đặt ra tiến độ giải quyết xong đối với từng vụ
việc, kịp thời báo cáo Ban Chỉ đạo THADS để chỉ đạo công tác phối hợp
trong việc tổ chức cưỡng chế thi hành án các vụ việc trọng điểm, đề xuất
Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục làm việc với cấp ủy, chính quyền địa
phương đối với vụ việc chưa có sự đồng thuận, ủng hộ trong việc chỉ đạo tổ
chức thi hành án.
Đối với vụ việc có vướng mắc từ bản án, quyết định của Tòa án cần chủ
động có văn bản và bám sát kết quả giải quyết của Tòa án, trả lời của cơ quan có
thẩm quyền để tổ chức thi hành án kịp thời vụ việc ngay khi có kết quả giải quyết.
74
3.2.2.4. Tăng cường phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các
cơ quan hữu quan trong tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
Trong những năm qua, từ thực tiễn cho thấy việc phối hợp tốt với các cơ
quan, tổ chức, ban ngành có liên quan trong công tác cưỡng chế thi hành án
dân sự là một trong những yếu tố vô cùng quan trọng, góp phần quyết định
thành công hay thất bại của công tác thi hành án dân sự. Trên thực tế, khi tổ
chức thực hiện cưỡng chế THADS là cả một quá trình. Cơ quan thi hành án
dân sự không thể tự mình thực hiện tất cả các công việc mà phải cần có sự
phối hợp với các cơ quan, tổ chức có liên quan.Trong quá trình tổ chức thực
hiện cưỡng chế thi hành án, những vấn đề liên quan đến quyền sử dụng đất thì
cần sự phối hợp với cơ quan quản lý tài nguyên và mối trường, cơ quan đăng
ký biện pháp bảo đảm; những vấn đề liên quan đến đảm bảo an ninh – trật tự
trong các vụ việc cưỡng chế phức tạp thì cần sự phối hợp với lực lượng công
an; những vấn đề liên quan đến công tác xác minh, kê biên tài sản của người
phải thi hành án, tiến hành cưỡng chế một vụ việc thì cần sự phối hợp của cơ
quan chính quyền địa phương nơi người phải thi hành án sinh sống... Do vậy
việc phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan là một trong những yếu tố quan
trọng quyết định hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
Để nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án
trong thời gian tới, Cục Thi hành án dân sự tỉnh tiếp tục tăng cường công tác
phối hợp, tranh thủ sự ủng hộ của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương, các
cơ quan, sở ban ngành liên quan trong việc hỗ trợ để cơ quan thi hành án dân sự
hoàn thành nhiệm vụ, đặc biệt cần phát huy tốt vai trò, chức năng của Ban Chỉ
đạo Thi hành án dân sự. Làm tốt công tác này sẽ tạo nên rất nhiều điều kiện
thuận lợi cho cơ quan Thi hành án dân sự giải quyết tốt những vụ án phức tạp,
tồn đọng, kéo dài cần phải tổ chức cưỡng chế thi hành tại địa phương.
Trong đó, Cục THADS tỉnh sẽ đôn đốc việc tổ chức ký kết quy chế phối
hợp liên ngành trong công tác thi hành án trên địa bàn các huyện, thành phố
75
và triển khai thực hiện quy chế đã ký kết. Tập trung, chú trọng hơn nữa công
tác phối hợp trong xử lý các vướng mắc, khó khăn trong tổ chức thi hành
cưỡng chế đối với những vụ việc có tính chất phức tạp, chưa thống nhất về cơ
chế pháp luật để kịp thời đưa ra các đề xuất sửa đổi, bổ sung, góp ý. Tăng
cường sự phối hợp, cung cấp, trao đổi thông tin giữa các cơ quan hữu quan.
Thường xuyên tổ chức tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ và tổ chức kiểm tra đối
với cấp huyện về việc triển khai thực hiện quy chế, tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ
đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương trong công tácTHADS.
Đối với UBND tỉnh Ninh Bình và UBND các huyện, thành phố thuộc
tỉnh, tiếp tục kiện toàn hơn nữa Ban Chỉ đạo THADS, có kế hoạch công tác
cụ thể, thường xuyên, liên tục; duy trì chế độ giao ban thường xuyên nhằm
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác thi hành
án dân sự. Đồng thời, chỉ đạo Ban Chỉ đạo THADS các huyện, thành phố việc
tổ chức phối hợp các cơ quan liên quan trong thi hành án dân sự trên địa bàn;
chỉ đạo việc tổ chức cưỡng chế các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an
ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương theo đề nghị của Cục
trưởng Cục Thi hành án dân sự và Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự
cấp huyện, thành phố.
Đối với các sở, ban, ngành và các cơ quan đơn vị có liên quan, căn cứ
chức năng, nhiệm vụ được giao và quy định của pháp luật có trách nhiệm phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan thi hành án dân sự trong công tác thi hành án
dân sự nói chung và đặc biệt là trong công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi
hành án dân sự.
76
Tiểu kết chƣơng 3
Để đảm bảo cho công tác thi hành án dân sự được thực hiện nghiêm
chỉnh, đúng pháp luật, nâng cao được hiệu quả thi hành án dân sự vàhiệu quả
tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành ántrên địa bàn tỉnh Ninh Bình, trên cơ
sở nghiên cứu các quy định của pháp luật, các quan điểm, đường lối chỉ đạo
của Đảng về thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng và từ thực
trạng cưỡng chếthi hành án ở tỉnh Ninh Bình, trong chương 3, luận văn đã đề
ra các phương hướng bảo đảm tổ chức cưỡng chế thi hành án. Đồng thời, đã
đề xuất, phân tích các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi
hành án phù hợp với điều kiện hiện nay như sau: Nâng cao hiệu quả hoạt
động của Ban Chỉ đạo THADS các cấp; Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức thi hành án;Hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án
dân sự; Tăng cường phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan
hữu quan trong việc áp dụng pháp luật thi hành án dân sự; Đẩy mạnh tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự và cần thiết phải
thực hiện xã hội hóa một phần công tác thi hành án dân sự.
Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện cưỡng chếthi hành
án dân sự trên địa bàn tỉnh Ninh Bình phải được đặt trong mối quan hệ giữa
định hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chếthi hành án dân sựvà hoàn thiện
cơ chế áp dụng biện pháp cưỡng chếthi hành án dân sựtừ đó nâng cao hiệu
quả tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sựtrên địa bàn tỉnh Ninh
Bình. Định hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chếthi hành án dân sựphải
được coi trọng, việc xây dựng hệ thống pháp luật thi hành án dân sựtrong đó
có chế định pháp luật về cưỡng chế cần được tiếp tục thực hiện. Việc cưỡng
chế thi hành án nói chung và thi hành cưỡng chế trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
77
nói riêng cần đảm bảo chặt chẽ về mặt thủ tục, được thực hiện đầy đủ các
bước chuẩn bị trước khi thực hiện, bảo đảm an toàn, hiệu quả trong quá trình
tổ chức thực hiện. Thực hiện tốt những điều này, việc tổ chức thực hiện
cưỡng chế sẽ diễn ra an toàn, thuận lợi và có hiệu quả tốt.
78
KẾT LUẬN
Hoạt động thi hành án dân sự có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc giữ vững kỷ cương, ổn định xã hội, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi, đảm bảo các
bản án, quyết định của Tòa án được thi hành trên thực tế. Việc tổ chức thực
hiện cưỡng chế thi hành án dân sự đóng một vai trò rất quan trọng trong việc
đảm bảo hiệu lực bản án, quyết định của Tòa án. Hiệu quả của việc cưỡng chế
là cơ sở, tiền đề cho sự thành công, hiệu quả của một vụ việc thi hành án về
tài sản khi đương sự không tự nguyện thi hành.
Sau hơn 1 thập kỷ triển khai thực hiện Luật thi hành án dân sự 2008 (
sửa đổi, bổ sung năm 2014) với sự cố gắng của các cơ quan,ban, ngành hữu
quan nói chung và các cơ quan thi hành án dân sự nói riêng, công tác tổ chức
cưỡng chế thi hành án dân sự đã có nhiều chuyển biến tích cực và đạt được
những kết quả đáng ghi nhận. Công tác tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành
án dân sự tại tỉnh Ninh Bình cũng đã đạt được những kết quả quan trọng, tỷ lệ
thi hành về việc và tiền đều đạt và vượt chỉ tiêu do Bộ Tư pháp đề ra, tổ chức
cưỡng chế kê biên, giải quyết được một số vụ án lớn tồn đọng, kéo dài, chất
lượng thi hành án ngày càng được nâng cao tạo được lòng tin của nhân dân
vào các cơ quan pháp luật.
Tuy nhiên bên cạnh đó, vẫn còn có những tồn tại, hạn chế do nhiều
nguyên nhân làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác cưỡng chế thi hành án dân
sự nói riêng, hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự nói chung trên địa bàn
tỉnh Ninh Bình. Còn có những vi phạm trong khi tổ chức thi hành án của
Chấp hành viên và cán bộ thi hành án còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế này là từ: hệ thống pháp luật chưa hoàn
thiện; tính độc lập của chấp hành viên chưa được đảm bảo; sự phối hợp với
79
các cơ quan hữu quan chưa đồng bộ, kịp thời; một số bản án, quyết định của
Tòa án thiếu tính khả thi; ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa cao.
Vì vậy, trong thời gian tới đây cần phải có những giải pháp để khắc phục
những hạn chế này. Đó là, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về
thi hành án dân sự nói chung, quy định về tổ chức thực hiện cưỡng chế thi
hành án nói riêng nhằm tạo điều kiện cho các cơ quanthi hành án dân sự và
chấp hành viên có căn cứ pháp lý cụ thể, rõ ràng nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả công tác thi hành án dân sự nói riêng và việc bảo đảm cho một trật tự
pháp luật của Nhà nước nói chung, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp; đảm
bảo bản án, quyết định của Tòa án có tính khả thi; đảm bảo tính độc lập trong
hoạt động tư pháp; xây dựng đội ngũ chấp hành viên, cán bộ thi hành án có
phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, bản lĩnh nghề nghiệp và nghiệp vụ
vững vàng. Xây dựng chương trình, kế hoạch thi hành án, tích cực giải quyết
án tồn đọng, tăng cường phối hợp với các cơ quan hữu quan, bảo đảm kinh
phí, cơ sở vật chất cho hoạt động thi hành án, tăng cường sự lãnh đạo của cấp
ủy Đảng đối với công tác thi hành án, để đảm bảo hiệu quả thi hành án dân sự
bền vững. Công tác thi hành án dân sự cần phải xác định là nhiệm vụ của cả
hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở. Việc tổ chức thi hành án được công
khai, minh bạch, Chủ tịch xã, thị trấn, trưởng xóm và các tổ chức chính trị tại
địa phương nắm rõ nội dung vụ việc cung phối hợp với Chấp hành viên tổ
chức thi hành án và phân loại án chính xác hơn do địa phương nắm cụ thể
những vụ việc có, chưa có điều kiện thi hành án. Bên cạnh đó nắm bắt kịp
thời tâm tư, nguyện vọng của người được thi hành án và phải thi hành án để
thuyết phục, vận động tự nguyện thi hành án, làm giảm đi mức độ phức tạp
phải sử dụng đến việc cưỡng chế ở địa phương.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp cải cách, đổi mới tư duy, hoàn thiện
khung pháp luật và cơ chế áp dụng sẽkhắc phục được những vấn đề tồn tại
80
đang gây bức xúc ở địa phương, tạo sự chuyển biến cơ bản và bền vững trong
công tác Thi hành án dân sự của tỉnh Ninh Bình, tạo những tác động thực tế
đến việc tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án, góp phần đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; thúc đẩy công cuộc
cải cách tư pháp, góp phầngiữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Ninh Bình.
81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thị Vân Anh (2016),“Thủ tục thi hành án dân sự trong pháp luật thi
hành án dân sự Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Luật học tại Đại
học Quốc gia Hà Nội.
2. Hoàng Thế Anh (2013), Giám sát thi hành án dân sự, Luận án Tiến sĩ
Luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Ban Chấp hành trung ương (2014), Kết luận số 92-KL/TW, ngày
12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW, ngày 24/5/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
6. Bộ Tài chính - Thông tư số 200/2016/TT-BTC, ngày 09/11/2016 của Bộ
Tài chính, Quy định việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí
bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, kinh phí cưỡng chế
thi hành án dân sự, Hà Nội.
7. Bộ Tài chính (2016), “hướng dẫn về chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng
phí thi hành án dân sự”Thông tư liên tịch số 216/2016/TT-BTCcủa Bộ
Tài chính, Bộ Tư pháp,Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp - Bộ Tài chính - Bộ Lao động thương binh xã hội - Ngân
hàng nhà nước Việt Nam (2014); hướng dẫn việc cung cấp thông tin về
tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án và thực hiện phong tỏa,
khấu trừ để thi hành án.Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-
BLĐTBXH-NHNNVN, Hà Nội.
82
9. Bộ Tư pháp - Tòa án nhân dân tối cao - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
(2016), hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối
hợp liên ngành trong thi hành án dân sự. Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC, Hà Nội.
10. Bộ Tư pháp-Bộ Công an (2012), quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ
cưỡng chế trong thi hành án dân sự. Thông tư liên tịch số
03/2012/TTLT-BTP-BCA, Hà Nội.
11. Chính phủ (2015), quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thi hành án dân sự.Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, Hà Nội.
12. Chính phủ (2017), “về việc tăng cường công tác thi hành án dân sự”.Chỉ
thị số 05/CT-TTg, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Công (2012), Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang, Luận văn thạc sĩ Luật học tại
Đại học Quốc gia Hà Nội.
14. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2015), Tài liệu Hội nghị triển
khai công tác thi hành án dân sự năm 2015, Ninh Bình.
15. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2016), Tài liệu Hội nghị triển
khai công tác thi hành án dân sự năm 2016, Ninh Bình.
16. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2017), Tài liệu Hội nghị triển
khai công tác thi hành án dân sự năm 2017, Ninh Bình.
17. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2018), Tài liệu Hội nghị triển
khai công tác thi hành án dân sự năm 2018, Ninh Bình.
18. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Ninh Bình (2019), Tài liệu Hội nghị triển
khai công tác thi hành án dân sự năm 2019, Ninh Bình.
19. Nguyễn Minh Đoan (2014), Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Tư pháp.
20. Lê Thu Hà (Chủ biên) (2012), Giáo trình kỹ năng thi hành án dân sự,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
21. Đào Thị Thanh Hòa (2020), Cưỡng chế thi hành án dân sự, Từ thực tiễn
83
Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
22. Lương Ngọc Hưng (2018), Cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn
tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc sĩ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam – Học viện Khoa học xã hội.
23. Nguyễn Đình Kiên (2016), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
liên quan đến đất ở theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Bình
Giang, tỉnh Hải Dương, luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Khoa học
xã hội.
24. Nguyễn Văn Luyện - Nguyễn Thanh Thủy (Chủ biên) (2012), Sổ tay
nghiệp vụ thi hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
25. Nguyễn Thị Mai (2016), Thực tiễn thi hành án dân sự ở tỉnh Ninh Bình,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
26. Lê Đình Nam (2012), Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền
trong hoạt động thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận
văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học quốc gia Hà Nội.
27. Hoàng Văn Nam (2011), “Vài ý kiến về xã hội hóa việc thi hành án dân
sự từ quan điểm tài chính”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề
về thi hành án dân sự).
28. Lưu Bình Nhưỡng (2015), Xã hội hóa công tác thi hành án theo tinh
thần cải cách tư pháp, Dân chủ và pháp luật ( số 7), tr.11-16.
29. Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại năm 2011, Hà Nội.
30. Quốc hội (2011), Luật Tố cáo năm 2011, Hà Nội.
31. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
32. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Hà Nội.
33. Quốc hội (1946), Hiến pháp năm 1946, Hà Nội.
34. Quốc hội (1959), Hiến pháp năm 1959, Hà Nội.
35. Quốc hội (1980), Hiến pháp năm 1980, Hà Nội.
84
36. Quốc hội (1992), Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hà Nội.
37. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội.
38. Quốc hội (2013), Luật Đất đai năm 2013, Hà Nội.
39. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
40. Quốc hội (2014), Luật Thi hành án dân sự năm 2014 (sửa đổi, bổ sung),
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
41. Quốc hội (2015), Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 về
công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện
kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm
2016 và các năm tiếp theo, Hà Nội.
42. Trần Phương Thảo (2007), Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự,
Tạp chí luật học (số 7), tr. 43-50.
43. Bùi Đức Tiến (2018), Thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án
dân sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học tại Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
44. Nguyễn Thị Trang (2018), Nâng cao hiệu quả cưỡng chế thi hành án
dân sự, Tạp chí dân chủ pháp luật, (Pháp luật về thi hành án dân sự),
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
45. Lê Anh Tuấn (2017), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi
hành án dân sự ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
46. Lê Anh Tuấn (2012), Kỹ năng áp dụng các biện pháp bảo đảm trong thi
hành án dân sự và kỹ năng cưỡng chế thi hành án dân sự,Hà Nội.
47. Lê Xuân Tùng (2016), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở
thành phố Hà Nội hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam – Học viện Khoa học xã hội.
48. Tổng cục Thi hành án dân sự (2014),Quyết định số 824/QĐ-TCTHA,
ngày 03/12/2014 về việc ban hành quy trình hướng dẫn nghiệp vụ thi
hành án dân sự trong nội bộ ngành thi hành án dân sự, Hà Nội.
85