BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ---/--- BỘ NỘI VỤ ---/---
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HÀ MẠNH TÚ
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
1
HÀ NỘI - 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ---/--- BỘ NỘI VỤ ---/---
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
HÀ MẠNH TÚ
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 83801.02
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN QUANG THÁI
2
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là có
căn cứ và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng công bố trong bất cứ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
3
Hà Mạnh Tú
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tác giả xin được cảm ơn sâu sắc tới
TS. Nguyễn Quang Thái đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong quá
trình tiếp cận, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả chân thành cảm ơn các Thầy, Cô Ban Quản lý đào tạo Khoa
Sau đại học, cô giáo chủ nhiệm đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả có cơ hội bảo
vệ luận văn trước Hội đồng đánh giá luận văn thạc sỹ.
Xin được cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo giảng dạy tại Học viện Hành
chính Quốc gia đã truyền đạt cho tác giả những kiến thức lý luận vô cùng hữu
ích để ứng dụng, thực hành trong thực tiễn của bản thân và hoàn thành luận
văn.
Xin cảm ơn bạn bè lớp, gia đình, cơ quan, đồng nghiệp đã nhiệt tình
giúp đỡ về thời gian, tinh thần, cung cấp thông tin, số liệu để tác giả hoàn
thành luận văn này.
TÁC GIẢ
4
Hà Mạnh Tú
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ
QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ CẤP TỈNH ................................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh .............................................................................................................. 9
1.2. Các đảm bảo về tổ chức và hoạt động Cơ quan thi hành án cấp tỉnh .............. 20
Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY ..................................... 29
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của tỉnh Phú Thọ ảnh hưởng tới tổ
chức, hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ ........................... 29
2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ giai
đoạn 2011-2020 ............................................................................................... 35
Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN
NAY ................................................................................................................ 54
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục thi hành án dân sự cấp
tỉnh ................................................................................................................... 54
3.2. Các giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục thi hành án
dân sự cấp tỉnh ................................................................................................. 56
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75
5
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 77
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TAND : Tòa án nhân dân
THADS : Thi hành án dân sự
6
UBND : Ủy ban nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án là hoạt động đưa các bản án, quyết định của Tòa án, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền có hiệu lực pháp ra thi hành để đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước,
tổ chức, cá nhân và xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng
cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Đối với công tác Thi hành án nói chung, công tác Thi hành án dân sự nói
riêng, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đưa ra nhiều chủ
trương, định hướng quan trọng tạo cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự; tăng cường pháp chế
trong hoạt động thi hành án dân sự thể hiện trong Nghị quyết số 49- NQ/TW
ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đế năm
2020.Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành Luật Thi hành
án dân sự năm 2008 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2009) và Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 (có hiệu lực từ ngày
01/7/2015).
Trên cơ sở Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành,
hệ thống cơ quan thi hành án dân sự đã không ngừng được hoàn thiện, góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự. Tuy nhiên, công tác thi
hành án dân sự thời gian qua cho thấy rằng bên cạnh những kết quả đạt được
cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định trong tổ chức và hoạt động của các
cơ quan thi hành án như: hiệu quả công tác thi hành án dân sự chưa tương ứng
những yêu ầu đặt ra. Nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng
các đương sự không tự nguyện chấp hành, chưa được các cơ quan thi hành án
dan sự thực hiện, giải quyết dứt điểm nên còn nhiều vụ tồn đọng, phức tạp;
1
Khiếu nại tố cáo thi hành án diễn ra nhiều đang là vấn đề bức xúc trong nhân
dân và các cơ quan tổ chức; đội ngũ chấp hành viên, công chức thi hành án
vừa thiếu về sơ lượng vừa yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức trách hiệm
công vụ; điều kện , phương tiện làm việc của cơ quan thi hành án chưa tương
ứng với nhiệm vụ được giao.
Những hạn chế, bất cập trên chủ yếu do cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt
động của các cơ quan thi hành án dân sự chưa đầy đủ và đồng bộ. Nhiều quy
định pháp luật về thi hành án dân sự chưa quy định đồng bộ, cụ thể, hướng
dẫn kịp thời nên gây khó khăn, không tạo sự thống nhất giữa các cơ quan
trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
Tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự chưa được nhận thức và quan
tâm đứng mức từ các cơ quan nhà nước, tổ chức và xã hội; Các cơ quan hữu
quan liên quan trực tiếp đến thi hành án dân sự như: HĐND, UBND, Công
an, Tòa án, Viện kiểm sát chưa thể hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc giám
sát, chỉ đạo, phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự khi tổ chức cưỡng chế
thi hành các bản, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Để phát huy những kết quả đã đạt được đông thời khắc phục những tồn
tại, hạn chế trên đây thấy rằng cần còn có sự nghiên cứu có hệ thống và toàn
diện hơn cả về lý luận và thực tiễn về pháp luật thi hành án dân sự, về tổ chức và
hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự , trong đó có tổ chức và hoạt
động của cơ quan thi hành án ân sự cấp tỉnh. Từ tình hình trên, tác giả chọn đề
tài: “Tổ chức và hoạt động của Cục thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ hiện nay”
làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.
Qua việc lựa chọn đề tài này, tác giả mong muốn đóng góp nhỏ bé về
mặt lý luận và thực tiễn trước yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thi
hành án dân sự hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn
Dưới góc độ thực thi công lý, thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự
2
ở nước ta được xem xét và đề cập ở nhiều góc độ khác nhau.Trong quá trình
nghiên cứu tài liệu phục vụ cho đề tài này, tác giả tập hợp, phân loại và đánh
giá các tài liệu thành các nhóm cơ bản sau đây:
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về thi hành
án dân sự, gồm có:
"Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam"
của tác giả Lê Thu Hà (2011). Cuốn sách là tài liệu tham khảo cho việc tiếp
tục nghiên cứu các cơ chế, biện pháp thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
nói chung, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng.
"Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp" của tác giả Trần Phương Hồng (2012). Tác giả luận văn đã phân tích
một số vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự; đưa ra các
giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự, theo đó những đề
xuất hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự. Kết quả luận văn có giá trị
tham khảo cho việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự,
tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự.
Bài viết “Một số ý kiến về cơ chế và xử lý vi phạm hành chính pháp
luật trong hoạt động thi hành án dân sự’’ của tác giả Nguyễn Quang Thái
đăng trên Số chuyên đề về thi hành án dân sự - Tạp chí Dân chủ và Pháp luật
năm 2007. Bài viết đã phân tích một số nội dung cơ bản về cơ chế xử lý vi
phạm pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật thi hành án dân sự đồng thời nếu
lên một số vấn đề về thực trạng xử lý vi phạm pháp luật thi hành án dân sự.
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các giải pháp nâng cao hoạt động xử lý vi phạm
pháp luật trong thi hành án dân sự thời gian tới.
"Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu"
của tác giả Lại Anh Thắng (2010). Tác giả luận văn phân tích một số vấn đề
lý luận về thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự Trên cơ sở đánh giá thực
3
trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn cụ thể là tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu, tác giả luận văn đã đưa ra các giải nâng cao chất lượng hiệu quả
công tác thi hành án dân sự và xã hội hóa về thi hành án dân sự … Tuy luận
văn chỉ đề cập đến thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói chung nhưng
có giá trị tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu thực hiện pháp luật về
cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện hiện nay.
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan về tổ chức và hoạt động
thi hành án dân sự, gồm có
"Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi
hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" của Nguyễn Đình Lộc (2012). Kết
quả nghiên cứu đề tài đã khái quát thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động
thi hành án; kiến nghị đổi mới công tác thi hành án, trong đó có hoàn thiện
pháp luật về mô hình tổ chức thi hành án tạo cơ sở cho việc tổ chức thi hành
án nói chung và cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng.
"Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự hiện
nay" của tác giả Lê Hùng Cường (2017). Bài viết tập trung phân tích những
vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn trong quá trình thi hành Luật Thi
hành án dân sự năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Từ đó, tác giả
đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án
dân sự. Những phân tích và kiến nghị của tác giả có giá trị tham khảo cho
việc nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật thi hành án dân sự.
"Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam" của Trường Đại học
Luật Hà Nội. Đây là cuốn giáo trình có tính chuyên ngành về thi hành án dân
sự, được sử dụng để giảng dạy tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Nội dung
giáo trình đề cập đến những kiến thức cơ bản về pháp luật thi hành án dân sự
trên cơ sở pháp luật hiện hành, phân tích cụ thể mô hình tổ chức và hoạt động
thi hành án dân sự; các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó có nội
4
dung liên quan trực tiếp đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì vậy, những nội dung của giáo
trình có giá trị tham khảo quan trọng trong việc đánh giá thực hiện pháp luật
về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.
"Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Hoàng
Thế Anh (2015). Luận án đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giám sát thi
hành án dân sự. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả giám sát thi hành án dân sự hiện
nay, tác giả luận án đã đưa ra các giải pháp cụ thể để cải cách, nâng cao hiệu
quả giám sát thi hành án dân sự hiện nay
"Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan
hữu quan trong thi hành án dân sự" của tác giả Lê Thị Lệ Duyên (2013).
Trong bài viết, tác giả cho rằng sự phối hợp có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng
trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành
án dân sự nói riêng. Trên cơ sở phân tích trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có
liên quan trong thi hành án dân sự, tác giả đưa ra một số yêu cầu đối với chấp
hành viên, công chức thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả của quan hệ
phối hợp trong thi hành án dân sự.
Qua nghiên cứu các công trình khoa học trên đã giúp cho tác giả có cơ
sở để chọn lọc, kế thừa để làm rõ:
Một là, cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nói
chung và cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nói riêng.
Hai là, phân tích, đánh giá các yếu tố bảo đảm về tổ chức và hoạt động
thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nói riêng.
Ba là, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
hiện nay để từ đó xác định những yêu cầu cơ bản để nghiên cứu, đề xuất các giải
pháp đổi mới về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
5
nghĩa, cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian tới.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động
thi hành án dân sự; thực trạng về tổ chức bộ máy và hoạt động thi hành án
dân sự (trong đó tập trung là đánh giá những ưu điểm, hạn chế, bất cập và
nguyên nhân), luận văn đề xuất quan điểm, các giải pháp đổi mới tổ chức và
hoạt động thi hành án dân sự ở Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ trước những
yêu cầu mới của công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, luận án thực hiện các nhiệm
vụ chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự.
- Phân tích khái niệm, đặc điểm của tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự và những yếu tố đảm bảo đến tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của Cục Thi
hành án tỉnh Phú Thọ từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi
năm 2014 có hiệu lực đến nay.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp về đổi mới tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự ở Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự; đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự cũng như chính sách, pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự ở cấp tỉnh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động thi hành án dân
6
sự dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính; nghiên cứu tổ chức và
hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, Chấp hành viên làm việc tại
Cục thi hành án dân sự tỉnh và mối quan hệ với cơ quan, tổ chức có liên quan
trên phạm vi tỉnh Phú Thọ (không bao gồm thực hiện pháp luật về cưỡng chế
thi hành án dân sự của thừa phát lại). Thời gian nghiên cứu được giới hạn từ
năm 2011 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Về phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa; về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; các quan
điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta có đề cập đến vấn đề xây dựng nhà
nước pháp quyền, về cải cách tư pháp trong đó có tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, chứng
minh được sử dụng chủ yếu xuyên suốt nội dung của luận văn
- Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê được áp dụng nhằm
làm rõ những nội dung của chương 2. Đây là chương đánh giá thực trạng về tổ
chức thi hành án dân sự với những ví dụ, số liệu cụ thể qua đó rút ra những ưu
điểm, tồn tại, hạn chế tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp ở chương 3
Ngoài ra, phương pháp phân tích cũng được áp dụng nhằm làm sáng tỏ
những nhận định, quan điểm đã được đưa ra về những vấn đề liên quan đến
nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn.
Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu tại
chương 3 để làm rõ những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự ở tỉnh Phú Thọ phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và xây
7
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận
Kết quả của luận văn góp phần nhỏ bé vào hoàn thiện lý luận về tổ
chức và hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh; chỉ rõ thực trạng
và đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự trong
điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
6.2. Về thực tiễn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào tạo luật và các cơ sở đào tạo chức danh
tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành
án dân sự cấp tỉnh
Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự của
Cục Thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Thọ hiện nay (từ 2011 đến nay)
Chương 3: Quan điểm, giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành
8
án dân sự ở Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ CẤP TỈNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm tổ chức và hoạt động của cơ quan thi
hành án dân sự cấp tỉnh
1.1.1. Khái niệm
1.1.1.1. Khái niệm tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
Thuật ngữ “Tổ chức” được nhiều ngành khoa học sử dụng với ý nghĩa
không giống nhau:
- Triết học định nghĩa “Tổ chức, nói rộng là cơ cấu tồn tại của sự vật.
Sự vật không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu
tố thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”.
- Tổ chức là thuộc tính của sự vật, nói cách khác sự vật luôn tồn tại
dưới dạng tổ chức nhất định;
- Y học cho rằng trong sinh vật đơn bào, các tế bào đơn lẻ thực hiện tất
cả các chức năng sống, nó hoạt động một cách độc lập. Tuy nhiên, sinh vật đa
bào (nhiều bào) có mức độ khác nhau của tổ chức cơ thể của chúng. Các tế
bào cá nhân có thể thực hiện chức năng cụ thể và cũng làm việc cùng nhau vì
lợi ích của toàn bộ cơ thể. Các tế bào trở nên phụ thuộc vào nhau. Từ quan
niệm của y học cho thấy tổ chức chỉ có ở sinh vật đa bào, các tế bào phụ
thuộc vào nhau vì lợi ích của toàn bộ;
- Nhân loại học khẳng định từ khi xuất hiện loài người, tổ chức xã hội
loài người cũng đồng thời xuất hiện. Tổ chức ấy không ngừng hoàn thiện và
phát triển cùng với sự phát triển của nhân loại. Theo nghĩa hẹp đó, tổ chức là
một tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung
hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó. Như vậy, tổ chức là
9
tập thể, có mục tiêu, nhiệm vụ chung;
Ngay trong những chuyên ngành khoa học có giao thoa về đối tượng,
phạm vi nghiên cứu cũng có những cách tiếp cận, cắt nghĩa khác nhau về “Tổ
chức”, cụ thể là:
- Theo Chester I. Barnard, thì tổ chức là một hệ thống những hoạt động
hay nỗ lực của hai hay nhiều người được kết hợp với nhau một cách có ý
thức. Như vậy theo lý thuyết quản trị công, để hình thành tổ chức phải có từ
hai người trở lên (điều kiện về chủ thể) và các hoạt động của họ được kết hợp
với nhau một cách có ý thức. Quản trị công nhấn mạnh đến hai yếu tố là chủ
thể và nguyên tắc hoạt động của tổ chức (sự kết hợp có ý thức của các chủ
thể) khi nhận thức về khái niệm tổ chức.
- Luật học (khoa học luật dân sự) gọi tổ chức là pháp nhân để phân biệt
với thể nhân (con người) là các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Theo
quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự thì một tổ chức được công nhận là pháp
nhân khi có đủ các điều kiện sau: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc
lập. Luật học nhấn mạnh đến các điều kiện thành lập tổ chức và các yêu cầu
đảm bảo hoạt động của tổ chức;
- Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với ý nghĩa hẹp là
“tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung
hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó”. Quan niệm về tổ
chức theo Khoa học tổ chức và quản lý có nhiều điểm tương đồng với Luật
học, Quản trị công ở chỗ đều xác định tổ chức thuộc về con người, là của con
người trong xã hội; vì là tổ chức của con người, có các hoạt động chung do
vậy mục tiêu của tổ chức là một trong những điều kiện quan trọng, không thể
thiếu của tổ chức;
- Trong cuốn “Sổ tay nghiệp vụ cán bộ làm công tác tổ chức nhà nước”
10
định nghĩa: “Tổ chức là một đơn vị xã hội, được điều phối một cách có ý
thức, có phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều
mục tiêu chung (của tổ chức). Quan niệm của những người làm công tác tổ
chức nhà nước có nhiều điểm tương đồng với khoa học quản lý, luật học trong
đó nhấn mạnh tới mục tiêu chung, nguyên tắc hoạt động của tổ chức (điều
phối một cách có ý thức). Điểm mới quan trọng của quan niệm này về tổ chức
thể hiện ở ý nói về phạm vi của tổ chức, mỗi tổ chức có phạm vi hoạt động
khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ
cấu, nguồn lực của tổ chức đó. Các yếu tố này là những điều kiện của tổ chức.
- Trên phương diện ngôn ngữ: Tuỳ theo ngữ cảnh, tính chất, yêu cầu,
mục đích… có thể sử dụng các thuật ngữ: cơ quan, đơn vị, pháp nhân, công
ty, hội… thay thế thuật ngữ tổ chức. Sự đa dạng trên phương diện ngôn ngữ
còn thể hiện ở việc thuật ngữ tổ chức được dùng với các chức năng khác nhau
như: là danh từ, là động từ, là tính từ (tiếng Anh Organization là danh từ, khác
với Organize là động từ, khác với Constitutive là tính từ).
- Theo Đại từ điển Tiếng Việt trang 1662, “tổ chức” là “sắp xếp, bố trí
thành các bộ phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng
chung”, “tập hợp người được tổ chức theo cơ cấu nhất định để hoạt động vì
mục tiêu chung” [64]. Theo từ điển Tiếng Việt và thực tế cho thấy trong từng
hoàn cảnh cụ thể mà “tổ chức” có thể được hiểu và thực hiện ở nghĩa danh từ
“tổ chức” hoặc động từ” tổ chức”, hay nói cách khác tùy vào mỗi công việc,
ngành nghề, lĩnh vực… có nhiều định nghĩa khác nhau về “tổ chức”. Tổ chức
bao gồm hai nội dung cơ bản là tổ chức cơ cấu và tổ chức quá trình.
Với thực tế như vậy, cần có tư duy biện chứng, kế thừa, không cứng
nhắc, máy móc, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của nhiệm vụ nghiên cứu về
khái niệm “Tổ chức”. Với cách tư duy, tiếp cận như vậy khi tìm hiểu khái
niệm chung về tổ chức cần nằm vững một số nội dung căn bản như:
- Tổ chức là của con người trong xã hội gắn với một hình thái kinh tế -
11
xã hội và một kiểu nhà nước;
- Con người trong tổ chức gắn kết với nhau bởi những mục đích xác
định và hành động để đạt đến mục tiêu chung;
- Có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ cấu xác định;
- Được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định phù
hợp với quy định pháp luật.
Nếu nhất thiết phải đưa ra một định nghĩa về tổ chức thì đó ‘’là tập hợp
của con người trong xã hội có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ
cấu xác định; được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định
phù hợp với quy định pháp luật nhằm gắn kết con người với nhau bởi những
mục đích xác định và hành động để đạt đến mục tiêu chung’’.
Từ các khái niệm “tổ chức”, trên đây, tác giả đưa ra khái niệm tổ chức
cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh là: “Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh là việc sắp xếp, bố trí các bộ phận cấu thành cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh nhằm bảo đảm cho mỗi bộ phận và cả hệ thống tổ chức của
cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh đạt được hiệu suất tổng thể, phối hợp với
nhau để hoàn thành nhiệm vụ quyền hạn được giao”.
1.1.1.2. Khái niệm hoạt động của cơ quan thi hành án cấp tinh
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động tùy theo góc độ
xem xét.
- Dưới góc độ triết học, hoạt động là quan hệ biện chứng giữa chủ thể
với khách thể. Trong quan hệ đó chủ thể là con người khách thể là hiện thực
khách quan. ở góc độ này hoạt động là một quá trình mà trong đó có sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa hai cực “chủ thể- khách thể”.
- Dưới góc độ sinh học, hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh
và bắp thịt của con người khi tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa
mãn nhu cầu vật chất hay tinh thần của con người.
- Dưới góc độ tâm lý học, hoạt động là mối tác động qua lại giữa con
12
người (chủ thể) và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới
và phía con người. Trong mối quan hệ đó có 2 quá trình diễn ra đồng thời, bổ
sung cho nhau thống nhất với nhau.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, trang 827 “hoạt động” là “làm những
việc khác nhau với mục đích nhất định; là vận động, vận hành để thực hiện
các chức năng nào hoặc tác động nào đó” [64]. Trong đời sống hằng ngày,
“hoạt động” thường được hiểu là quá trình tác động qua lại giữa con người
với thế giới xung quanh để tạo ra sản phẩm, khi nói đến “hoạt động” thì bao
gồm hoạt động của một cá nhân hoặc hoạt động của một tổ chức để tạo ra
một sản phẩm, một kết quả nhất định, hay nói cách khác “hoạt động” là vận
động, cử động của cá nhân hoặc tổ chức nhằm đạt mục đích nào đó, hoạt
động là thực hiện một chức năng nào đó trong một chỉnh thể hoặc tiến hành
những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm mục đích chung trong
lĩnh vực nhất định.
Từ các khái niệm “hoạt động” trên đây, dưới góc độ xem xét hoạt động
của một tổ chức, tác giả đưa ra khái niệm hoạt động của cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh là: “Hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh là
duy trì và phát huy những việc làm của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
để hoàn thành thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy
định pháp luật”.
1.1.2. Đặc điểm tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
1.1.2.1. Tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh gắn
liền với hoạt động tố tụng Tư pháp
Thi hành án dân sự là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện
các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hay nói cách khác là
quá trình hiện thực hóa trên thực tế các Quyết định, Bản án của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật. Vì vậy, có thể khẳng định quá trình tố tụng là quá trình đi
tìm sự thật để áp dụng pháp luật còn thi hành án là quá trình thực thi pháp luật.
13
Quá trình thực thi pháp luật có thể do các chủ thể phải thi hành án, tự giác thi
hành án hoặc do các cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải thi hành
án.Thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, người được
thi hành án, người phải thi hành án và các chủ thể khác trong việc thực hiện
bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án” [64]. Đối tượng của thi hành án
dân sự là các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại và lao động; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý
vật chứng là tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án
quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phân tài sản trong bản án,
quyết định của Tòa án về hành chính, quyết định tuyên bố phá sản; quyết định
của trọng tài thương mại Việt Nam; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước
ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận.
Thi hành án dân sự đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định thi hành
án; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi ích pháp của tổ chức, kinh
tế, tổ chức xã hội và công dân” [72]
Thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thành
phố trực thuộc trung ương là hoạt động thực hiện bản án, quyết định đã có
hiệu lực của Tòa án về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại
và lao động; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật
chứng là tài sản, truy thu tiền tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án,
quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phân tài sản trong bản án,
quyết định của Tòa án về hành chính, quyết định tuyên bố phá sản; quyết
định của trọng tài thương mại Việt Nam; bản án, quyết định dân sự của Tòa
án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam
công nhận nhằm đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định thi hành án; bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi ích pháp của tổ chức, kinh tế, tổ
chức xã hội và công dân.
Lý luận và thực tiễn đã chứng minh thi hành án dân sự là hoạt động nối
14
liền giữa hoạt động xét xử của Tòa án và để bản án, quyết định thành hiện thực.
Do đó tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự nói chung, cơ quan thi
hành án dân sự cấp tỉnh nói riêng phải gắn liền với cải cách tư pháp. Theo đó,
tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh phải luôn gắn liền với
cải cách tư pháp với các nội dung trọng tâm là: Hoàn thiện thể chế hình sự, dân
sự, thủ tục tư pháp; Cải cách các cơ quan tư pháp và thiết chế bổ trợ tư pháp
đặc biệt là Tòa án; Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ
trợ tư pháp nhất là các cán bộ có chức danh tư pháp; Đổi mới, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng, giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.
1.1.2.2. Tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thể
hiện tính độc lập tương đối
Thi hành án dân sự là một hoạt động mang tính chất hành chính- tư
pháp của Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư
pháp, bảo đảm hiệu lực thực tế của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng phải thi hành ngay do
pháp luật qui định. Hoạt động này do các cơ quan thi hành án dân sự, Chấp
hành viên trực tiếp thực hiện.
Hoạt động thi hành án dân sự được tiến hành theo một trình tự, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật về thi hành án dân sự qui định từ khi bắt đầu cho đến
khi kết thúc trên một cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo sự công bằng
trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong thi hành án. Cơ quan thi
hành án dân sự cấp tỉnh là cơ quan trực tiếp thi hành án dân sự trong quá trình
thực hiện thi hành án dân sự cũng phải tiến hành theo một trình tự, thủ tục
chặt chẽ do pháp luật về thi hành án dân sự từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc
trên một cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo sự công bằng trong thực hiện
quyền và nghĩa vụ của các bên trong thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh trong quá trình thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật thì căn cứ vào thực tế của mỗi vụ việc phải thi hành được chủ
15
động lựa chọn các biện pháp thích hợp do pháp luật qui định, chủ động giải
quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thi hành án sao cho đạt được mục
đích thi hành án, quyết định của Tòa án.
Hoạt động tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự được
thực hiện bởi Chấp hành viên là ngạch công chức ngành tư pháp được Bộ
trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm khi đủ điều kiện do pháp luật quy định tại Điều
18 Luật Thi hành án dân sự 2008. Theo quy định pháp luật thi hành án dân
sự, Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức thi
hành các bản án, quyết định về dân sự của tòa án Việt Nam và bản án, quyết
định về dân sự của Tòa án nước ngoài đã được tòa án Việt Nam công nhận.
Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Luật Thi hành án dân sự
quy định: triệu tập đương sự, người có liên quan đến trụ sở cơ quan thi hành
án hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thi hành án để thực hiện
việc thi hành án; yêu cầu người phải thi hành án tự nguyện thi hành trong thời
hạn 10 ngày kể từ ngày có quyết định thí hành án trước khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế thi hành án; áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của
pháp luật; yêu cầu chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cá nhân có liên quan cung cấp tài
liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp xử
lí tang vật, tài sản và những việc khác có liên quan đến việc thi hành án; đề
nghị thủ trưởng cơ quan thi hành án nơi chấp hành viên công tác ra quyết định
hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án, trả lại đơn
yêu cầu thi hành án, phạt tiền hoặc trực tiếp phạt tiền người cố tình không thi
hành án; yêu cầu tòa án đã ra bản án hoặc quyết định giải thích những điểm
chưa rõ để thi hành án; lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi
hành án và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí kỉ luật, xử phạt
hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.
Trong quá tình thực hiện chức năng nhiệm vụ ấy Chấp hành viên luôn thể
16
hiện tính độc lập tương đối của mình. Do vậy, việc tổ chức và hoạt động của cơ
quan thi hành án dân sự cấp tỉnh phải đảm bảo Chấp hành viên phải có phẩm
chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng và có kiến thức nghiệp vụ vững
vàng trong công tác THADS để không bị chi phối tác đọng bởi các hành vi can
thiệp trái pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào hoặc bị mua chuộc,
cám dỗ bởi các lợi ích tinh thần vật chất trái pháp luật đặc biệt không được làm
những việc không được làm quy định trong Luật Thi hành án dân sự.
Hoạt động THADS là lĩnh vực hoạt động có tính chất nghề nghiệp
chuyên biệt, chuyên sâu nên đòi hỏi đội ngũ chấp hành viên phải có kiến thức
nghiệp vụ vững vàng. Theo quy định của pháp luật, để được bổ nhiệm làm
chấp hành viên thì ngoài tiêu chuẩn phải có trình độ cử nhân luật trở lên và có
thời gian công tác nhất định trong lĩnh vực pháp luật, người đó còn phải có
chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch chấp hành viên (trừ một số trường hợp
đặc biệt). Do vậy, cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và người
đứng đầu cơ quan thi hành án dân sự cần làm tốt công tác giáo dục bồi dưỡng,
quy hoạch và đề nghị bổ nhiệm chấp hành viên cũng như quản lý đánh giá
chấp hành viên. Bản thân công chức làm nhiệm vụ thi hành án dân sự, chấp
hành viên cần phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo đức, bản lĩnh chính
trị và thường có ý thức học tập và tự học tập không ngừng nhằm nâng cao
trình độ về mọi mặt; phải biết rèn luyện phong cách, tư duy, xây dựng cho
mình phương pháp làm việc khoa học, phải có kế hoạch, có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng về mọi mặt; luôn cầu thị thông qua trao đổi, học hỏi kinh nghiệm thực
tiễn từ các đồng nghiệp.Từ đó, đảm bảo trong hoạt động thực hiện nhiệm vụ
của chấp hành viên vừa độc lập vừa thuần thục trở thành kỹ năng nghiệp vụ
được biểu hiện trên nhiều lĩnh vực, như: xây dựng, soạn thảo văn bản, các
quyết định về THADS; kỹ năng xây dựng kế hoạch tổ chức THADS, tính độc
lập tổ chức thực hiện công việc được giao; kỹ năng vận động, thuyết phục
người phải thi hành án tự nguyện thi hành án; kỹ năng hòa giải những mâu
17
thuẫn giữa các bên đương sự; kỹ năng phối hợp với các đồng nghiệp và cơ
quan có liên quan trong giải quyết THADS; kỹ năng lập kế hoạch và phương
án cưỡng chế, triển khai việc cưỡng chế và chỉ huy lực lượng cưỡng chế
THADS; kỹ năng tham mưu cho thủ trưởng đơn vị, Ban chỉ đạo THADS địa
phương... Trong số những kỹ năng nghiệp vụ cụ thể nêu trên thì chấp hành
viên cần quan tâm nhất là vận động, thuyết phục đương sự, kỹ năng xây dựng
kế hoạch, tổ chức cưỡng chế THADS.
1.1.2.3. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
thực hiện theo nguyên tắc song trùng trực thuộc theo ngành và phối hợp chặt
chẽ với chính quyền địa phương
Đặc điểm này của tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
cấp tỉnh trước hết xuất phát từ vai trò của thi hành án dân sự cấp tỉnh là góp
phần giữ gìn trật tự kỷ cương, an toàn xã hội, bảo vệ tính nghiêm minh pháp
luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; thi hành án dân sự đạt hiệu quả sẽ
mang lại niềm tin cho nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, góp
phần lập lại trật tự kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; thi hành
án dân sự là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân và các
hoạt động tư pháp khác; thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp
luật của nhân dân; thi hành án dân sự góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước và của từng địa phương. Mặt khác còn xuất
phát từ tính chất rộng lớn, phức tạp nhưng rất quan trọng của lĩnh vực thi
hành án dân sự nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch
hoạt động thi hành án dan sự cũng như thấy rõ trách nhiệm, phát huy năng
động, sáng tạo của Tổng Cục thi hành án dân sự và chính quyền địa phương.
Tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh theo nguyên
tắc song trùng trực thuộc theo ngành dọc và phối hợp chặt chẽ với chính
quyền địa phương trước hết phải đảm bảo Tổng Cục thi hành án dân sự thuộc
Bộ Tư pháp được tổ chức thành hệ thống dọc từ trung ương tới địa phương
18
đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất, có cơ cấu tổ chức gồm các cơ quan
trực thuộc Tổng Cục thi hanh án dân sự ở trung ương và các cơ quan thi hành
án dân sự ở địa phương (Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và Chi cục Thi hành
án dân sự ở cấp huyện). Theo đó Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh là cơ quan
trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, thực hiện chức năng thi hành án dân
sự, thi hành án hành chính, có nhiệm vụ giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi
hành án dân sự quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan thi
hành án dân sự địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo
quy định của pháp luật. Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh chịu
trách nhiệm trước Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự và trước
pháp luật về toàn bộ hoạt động của Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh. Phó Cục
trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Cục trưởng
Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được
phân công phụ trách. Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện là cơ quan trực
thuộc Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh, thực hiện chức năng thi hành án dân
sự, đôn đốc thi hành án hành chính và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
khác theo quy định của pháp luật.
Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện chịu trách nhiệm
trước Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và trước pháp luật về toàn
bộ hoạt động của Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện. Phó Chi cục trưởng
Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện chịu trách nhiệm trước Chi cục trưởng
Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện và trước pháp luật về lĩnh vực công tác
được phân công phụ trách.
Như vậy, cơ quan thi hành án dân sự ở địa phương trong hoạt động
phải thực hiện sự hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy
phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án
về thi hành án dân sự, quản lý thi hành án hành chính sau khi được phê duyệt,
ban hành của Tổng Cục thi hành án dân sự.
19
Đồng thời Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo của Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại Điều 173 Luật Thi hành án dân sự, có
trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân dân cùng cấp về chủ trương, biện pháp
tăng cường công tác thi hành án dân sự, công tác quản lý, đôn đốc thi hành án
hành chính trên địa bàn và thực hiện báo cáo công tác thi hành án dân sự,
công tác quản lý, đôn đốc thi hành án hành chính trước Hội đồng nhân dân
cùng cấp theo quy định của pháp luật. Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện
chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp huyện theo quy định tại Điều 174
Luật Thi hành án dân sự, có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân dân cùng
cấp về chủ trương, biện pháp tăng cường công tác thi hành án dân sự, công
tác đôn đốc thi hành án hành chính trên địa bàn và thực hiện báo cáo công tác
thi hành án dân sự, công tác đôn đốc thi hành án hành chính trước Hội đồng
nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp luật.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy để thực hiện có hiệu lực, hiệu quả việc
hướng dẫn, kiểm tra thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự thì Tổng cục
Thi hành án dân sự luôn có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương;
bản thân Cục Thi hành án cấp tỉnh cũng như Chi cục Thi hành án dân sự cấp
huyện phải luôn đảm bảo sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cùng cấp và có
trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân dân cùng cấp về chủ trương, biện pháp
tăng cường công tác thi hành án dân sự, công tác quản lý, đôn đốc thi hành án
hành chính trên địa bàn và thực hiện báo cáo công tác thi hành án dân sự,
công tác quản lý, đôn đốc thi hành án hành chính trước Hội đồng nhân dân
cùng cấp theo quy định của pháp luật.
Do vậy, có thể khẳng định tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành
án dân sự cấp tỉnh đảm bảo nguyên tắc song trùng trực thuộc theo ngành và
phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương.
1.2. Các đảm bảo về tổ chức và hoạt động Cơ quan thi hành án cấp tỉnh
Các đảm bảo về tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành án tỉnh,
20
thành phố trực thuộc trung ương là những điều kiện nhất thiết phải có trong tổ
chức và hoạt động của cơ quan này để đạt được kết quả theo yêu cầu, mục
đích đã xác định cũng như thể hiện và phát huy vai trò của mình. Để công tác
tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương đạt được hiệu quả cao, cần phải có các đảm bảo sau đây:
1.2.1. Đảm bảo về kinh tế
Sự phát triển về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta cũng như ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là bảo đảm hết sức cơ
bản mang tính quyết định đối với tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành
án tỉnh. Một trong những việc làm có thể nói đó là sự sáng tạo mang tính đặc
thù của tỉnh, thành phố trung ương là cần phải tập trung cho công tác qui
hoạch tổng thể và qui hoạch phát triển kinh tế xã hội một cách hợp lý phù hợp
với thực tế của địa phương và xu hướng phát triển của đất nước trong thời kỳ
mới. Trong lĩnh vực kinh tế có một việc làm mang tính đột phá tạo nên thành
công đó là việc xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng điều kiện khách
quan của tỉnh.
Trước hết, để thúc đẩy sản xuất công nghiệp của tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương theo đúng quy hoạch, cơ cấu kinh tế đã đề ra, Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải đặt ra mục tiêu tổng
quát là: phấn đấu có đủ các yếu tố cơ bản của một tỉnh công nghiệp vào năm
2020 với nhiệm vụ cụ thể là tập trung phát triển công nghiệp và coi công
nghiệp là nền tản của kinh tế, kích thích các ngành dịch vụ, nông nghiệp phát
triển, tạo thêm nhiều việc làm cho nông nghiệp nhằm đẩy nhanh chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp trên địa bàn…
Căn cứ Nghị quyết của Đại hội đại biểu tỉnh, BTV tỉnh ủy, thành ủy
phải có Nghị quyết chuyên đề về đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phát
triển kinh tế- xã hội; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
ban hành chiến lược phát triển công nghiệp dài hạn và tầm nhìn đến 10 hoặc
21
20 năm sau. Từ việc ra các chủ trương đúng đắn thể hiện sự ưu đãi đối với các
nhà đầu tư như: giảm tiền thuế đất, hỗ trợ tiền đền bù giải phóng mặt bằng,
cải cách hành chính và đẩy mạnh xây dựng hoàn thiện hệ thống giao
thông.v.v, mạnh mẽ nhất để công nghiệp phát triển phù hợp với các điều kiện
tự nhiên, xã hội của tỉnh.
Cùng với việc lãnh đạo phát triển sản xuất công nghiệp, Tỉnh ủy, Thành
ủy còn có Nghị quyết chuyên đề phát triển thương mại dịch vụ, du lịch nhằm
sự dụng, khai thác hợp lý các tiềm năng trên tất cả các lĩnh vực từ tài chính,
ngân hàng, bưu chính viễn thông đến thương mại, du lịch trong đó tập trung
đầu tư xây dựng hạ tầng và khai thác có hiệu quả các khu du lịch Quốc Gia,
Khu du lịch cấp tỉnh.
Về phát triển sản xuất nông nghiệp phải được Tỉnh ủy, Thành ủy và Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố đặc biệt quan tâm trong lãnh, chỉ đạo để phát
triển mạnh mẽ về trồng trọt và chăn nuôi, về trồng trọt trên địa bàn tỉnh đã
hình thành các vùng sản xuất mang tính chuyên canh có năng suất chất lượng
cao; Về chăn nuôi cũng phát triển mạnh các gia súc, gia cầm và thủy sản có
thế mạnh của địa phương.
Sự tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế một cách toàn diện của Tỉnh ủy,
Thành ủy, Ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là đảm bảo cho
tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao và đạt tổng giá trị kinh tế lớn; đời sống vật chất
và tinh thần của cán bộ, nhân dân nâng lên rõ rệt và là cơ sở vững chắc để mọi
người thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ mình đối với nhà nước và xã hội, trong
đó có quyền và nghĩa vụ tham gia xây dựng quản lý nhà nước và tham gia xây
dựng việc tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương. Kinh tế tỉnh thành phố trực thuộc trung ương phát
triển tạo điều kiện loại bỏ những nguyên nhân kinh tế- xã hội của nhiều vi
phạm pháp luật vì khi đời sống được nâng lên thì dân trí cũng được nâng lên
và hạn chế được nạn “túng ăn vụng, đói làm càn” của người dân nói chung và
cán bộ công chức của tỉnh nói riêng, trong đó có cả cán bộ làm công tác thi
22
hành án dân sự, do vậy giảm bớt áp lực cho hoạt động của cơ quan thi hành án
các cấp trong đó có Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh đặc biệt trong việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Mặt khác, kinh tế của tỉnh phát triển
thì các mâu thuẫn, xung đột, tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động và hôn
nhân gia đình… sẽ giảm bớt việc phải khởi kiện ra tòa án đồng thời cũng tạo
điều kiện rất thuận lợi cho Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh nâng cao cơ sở vật
chất và phương tiện làm việc.
Tuy nhiên, để đảm bảo về kinh tế cho việc tổ chức, hoạt động của các
cơ quan nhà nước trong đó có Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thì cần
phát triển kinh tế mạnh mẽ, toàn diện và vững chắc hơn nữa thông qua việc
tiếp tục điều chỉnh công tác qui hoạch xây dựng, công tác tổ chức thực hiện
các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế một cách hợp lý cho từng
ngành, từng huyện, thị của tỉnh trên cơ sở phân bổ hợp lý nguồn lực lao
động, tài nguyên; tôn trọng và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho các hình
thức sở hữu và các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ, vững chắc; chú
trọng hướng dẫn, hỗ trợ các huyện vùng khó khăn; tăng cường công tác quản
lý nhà nước về kinh tế bằng pháp luật, coi pháp luật là công cụ quản lý hữu
hiệu quan trọng nhất đi đôi với việc thực hiện phân cấp quản lý một cách
hợp lý; giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, tập thể và nhà nước
làm cho “dân giàu, nước mạnh” trên cơ sở phát huy hết tiềm năng của người
lao động trong tỉnh.
1.2.2. Đảm bảo về chính trị
Đây là một đảm bảo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của của
Cơ quan thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Trước hết, đó là sự ổn định chính trị trên địa bàn tỉnh thực tế cho thấy
chỉ khi nào trên địa bàn tỉnh an ninh chính trị được bảo đảm, trật tự an toàn xã
hội được giữ vững thì khi đó tổ chức, hoạt động của Cơ quan thi hành án dân
sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mới thuận lợi, đỡ vất vả và phát huy
được vai trò, tác dụng thiết thực. Còn khi tình hình chính trị không ổn định,
23
lòng dân không yên thì vi phạm pháp luật xảy ra nhiều, việc đấu tranh, khiếu
kiện đông người xảy ra liên tục, các bản án quyết định của TAND có hiệu lực
bị tồn đọng nhiều chắc chắn khiến tổ chức, hoạt động cuả Cơ quan thi hành án
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hết sức khó khăn, vất vả và thậm chí
không ổn định về tổ chức và hiệu quả hoạt động không cao.
Tiếp đến là hoạt động lãnh đạo có hiệu quả của Tỉnh ủy, Thành ủy đối
với chính quyền và xã hội thông qua các chủ trương, Nghị quyết, thông qua
công tác tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ và công tác kiểm tra; chỉ khi nào
nội bộ Tỉnh ủy, Thành ủy đoàn kết, thống nhất cao trong đó có sự quan tâm
và nhận thức đúng đắn về vai trò của thi hành án nói chung và thi hành án dân
sự nói riêng, tăng cường lãnh đạo công tác thi hành án thì tổ chức, hoạt động
của các cơ quan thi hành án dân sự mới được đẩy mạnh phát huy tác dụng
thiết thực, trong đó có Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Để tập trung lãnh đạo đảm bảo giữ ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội- Tỉnh ủy phải ban hành Chương trình hành động về tăng cường
lãnh đạo công tác KNTC; Chương trình hành động thực hiện kết luận hội nghị
Trung ương lần thứ 9- Khóa X về PCTN, lãng phí; đặc biệt BTV Tỉnh ủy
thường xuyên nghe Cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và Cơ
quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo các vụ
việc phức tạp và cho ý kiến chỉ đạo, giải quyết kịp thời; khi xuất hiện những
điểm nóng thì các lãnh đạo chủ chốt của Tỉnh Ủy, UBND tỉnh phải trực tiếp
đối thoại với dân và giải quyết trực tiếp tại chỗ đảm bảo quyền lợi cho dân và
được nhân dân tin tưởng. Tỉnh ủy cũng phải ban hành Chỉ thị về tăng cường
lãnh đạo các cấp ủy đảng, chính quyền trong tuyên truyền phổ biến pháp luật
cho cán bộ và nhân dân; trong công tác thi hành án dân sự ở địa phương.
Hoạt động quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả của Ủy ban nhân dân
tỉnh trong việc thực hiện bảo đảm pháp chế thông qua thông qua các hoạt
động tuyên truyền giáo dục pháp luật cho mọi đối tượng trên địa bàn tỉnh,
thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra và các hoạt động có tính tổ chức khác
24
trên cơ sở pháp luật là đảm bảo chính trị cho tổ chức, hoạt động của Cơ quan
thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung. Ngược lại nếu Uỷ ban
nhân dân tỉnh không quan tâm thực hiện tốt các nội dung trên thì hoạt động
của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung cũng khó
khăn, thậm chí không hoàn hành nhiệm vụ được giao. Hàng năm, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh đều ban hành các Chị thị về công tác tiếp dân, giải quyết
khiếu nại, tố cáo, thi hành án dân sự. Ủy ban nhân dân tỉnh rất coi trọng việc
xem xét chỉ đạo kế hoạch công tác thi hành án dân sự hàng năm của Cơ
quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung, đồng thời thường
xuyên nghe Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung báo
cáo việc thực hiện kế hoạch đó và cho ý kiến chỉ đạo tiếp theo.
Hoạt động năng động, tích cực của Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các thành
viên của Mặt trận Tổ quốc tỉnh trong việc tham gia quản lý nhà nước trong
đó có hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và hoạt động thi
hành án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là bảo đảm
về mặt chính trị cho hoạt động thanh tra vì theo quy định của pháp luật, Mặt
trận Tổ quốc tỉnh và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc tỉnh có vị trí vai
trò rất quan trọng, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ
quốc tỉnh phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong nhân dân tham gia xây dựng củng cố chính quyền
nhân dân, cùng với chính quyền tỉnh chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của
nhân dân, động viên nhân dân trong tỉnh thực hiện quyền làm chủ, nghiêm
chỉnh chấp hành pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại
biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước. Tuy nhiên, để Mặt trận Tổ quốc
tỉnh và các thành viên của Mặt trận hoạt động đảm bảo được vai trò trên thì
một mặt Mặt trận phải hoạt động trong khuôn khố Hiến pháp, pháp luật và
mặt khác Chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không được
dùng quyền lực nhà nước để can thiệp vào hoạt động theo Điều lệ của họ.
Dân chủ hóa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, sự tham gia
25
đông đảo của nhân dân trong tỉnh vào các công việc quản lý nhà nước và xã
hội, đấu tranh phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội là bảo đảm cụ thể về
chính trị cho tổ chức, hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành
phố trực thuộc trung. Khi dân chủ được thực hiện, nhân dân sẽ tạo điều kiện
giúp đỡ các cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan thi hành án dân sự tỉnh
phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật thông qua các tin báo, thông qua
tố cáo các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức mà không sợ trù úm.
Đó là những bảo đảm chính trị cho tổ chức và hoạt động của Cơ quan
Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
1.2.3. Đảm bảo về tư tưởng
Trước hết đó là hệ tư tưởng, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, những giá trị tư tưởng truyền thống và đạo đức của dân
tộc, những phong tục tập quán, bản sắc văn hóa tốt đẹp của tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương được khơi dậy và phát huy là những bảo đảm quan
trọng cho việc tổ chức và hoạt động Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương. Đặc biệt, khi những bảo đảm đó được quán triệt,
học tập, tuyên truyền phổ biến làm cho nó thấm nhuần trong nhân dân nhất là
cán bộ công chức Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh đã làm cho họ nâng cao
tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm từ đó đảm bảo đoàn kết, thống nhất
trong tổ chức và nâng cao chất lượng hiệu quả hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và mong mỏi của nhân dân.
Những bảo đảm về tư tưởng đã tạo điều kiện quan trọng đối với công
tác tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh. Tuy nhiên,
Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh vẫn phải coi trọng công tác lãnh đạo đấu tranh
kiên quyết chống lại và loại bỏ các tư tưởng phản động, phản khoa học cũng
như những phong tục tập quán lạc hậu ở địa phương vì đó chính là những lực
cản không nhỏ đối với sự nghiệp đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước nói chung
và tổ chức, hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh nói riêng. Trong
điều kiện cụ thể ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng như cả nước ta
26
hiện nay, cần kiên quyết đấu tranh loại bỏ tư tưởng đa nguyên, đa đảng, muốn
xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; chống lại tư tưởng bảo
thủ trì trệ muốn quay lại thời kỳ quan liêu bao cấp của một bộ phận không
nhỏ cán bộ Đảng viên; chống lại cách làm ăn chụp giật bất chấp pháp luật, lối
sống thực dụng buông thả của nhiều cán bộ tha hóa biến chất trong đó phải kể
đến một bộ phận nhỏ cán bộ, công chức do bị mặt trái của kinh tế thị trường
tác động, chi phối; chống lại tư tưởng cục bộ, bè phái, vây cánh trong công
tác tổ chức cán bộ, chống lại việc "mua quan, bán chức"; chống lại các phong
tục tập quán lạc hậu bảo thủ vẫn còn trong nếp nghĩ và lối sống của một bộ
phận nhân dân, cán bộ công chức.
1.2.4. Đảm bảo về pháp luật
Đó là việc Nhà nước ta đã ban hành Luật Thi hành án dân sự, nhiều văn
bản pháp luật về công tác tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự cũng như các
luật có liên quan tới thi hành án dân sự như: Luật thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật
Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Tiếp Công dân…. Mặt khác, ở
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND tỉnh, thành phố cũng đã có các
Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết về công tác thi hành án dân sự hàng năm và
trong các thời điểm cụ thể. Đây là các bảo đảm rất quan trọng về mặt pháp luật
cho việc tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và các tổ chức trực tiếp bảo vệ pháp luật như: Công an,
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp nhằm đấu tranh chống các vi
phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của xã hội, quyền tự do và lợi ích hợp
pháp của công dân, ngăn ngừa vi phạm pháp luật của các đối tượng.
Những bảo đảm trên đây luôn được hoàn thiện thường xuyên, liên tục
về nội dung, hình thức cùng với sự phát triển của nền dân chủ, sự phát triển
về mọi mặt của đời sống xã hội đã giúp cho công tác tổ chức, hoạt động của
Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thực
27
hiện thuận lợi hơn, hiệu quả hơn.
Tiểu kết chương 1
Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành
án dân sự cấp tỉnh, rút ra một số kết luận sau:
Thứ nhất, hoạt động thi hành án dân sự có vai trò quan trọng được thực
hiện bởi cơ quan thi hành án dân sự theo một trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định (chủ yếu do Luật Thi hành án dân sự) nhằm thực thi các bản án,
quyết định của TAND đã có hiệu lực pháp luật góp phần tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, cá nhân được thi hành án.
Thứ hai, trải qua 75 năm hoạt động và phát triển ngành Thi hành án
Việt Nam nói chung và thi hành án dân sự nói riêng luôn thể hiện được vai
trò là phương thức bảo đảm pháp chế, bảo đảm thực hiện các quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân đồng thời thể hiện vị trí là một cơ quan không thể
thiếu được trong hệ thống cơ quan hành pháp. Trong 75 năm qua, hệ thống
cơ quan thi hành án dân sự nói chung và Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
nói riêng đã luôn được hoàn thiện về tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động
để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Tuy nhiên bên cạnh những thành
tựu đã đạt được tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự của cơ quan thi
hành án trong đó có Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, vẫn có những hạn
chế, khuyết điểm nhất định.
Thứ ba, tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan Cơ quan thi hành
án dân sự và Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh cần được củng cố là một đòi
hỏi bức thiết và phù hợp với đường lối đổi mới bộ máy nhà nước của Đảng và
Nhà nước ta. Quá trình đó phải đảm bảo các yêu và cần phải có các điều kiện
đảm bảo về kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật đồng thời phải tiếp thu học
tập có chọn lọc kinh nghiệm của các nước, các địa phương phù hợp với thực
28
tiễn ở Việt Nam nói chung và ở mỗi tỉnh nói riêng.
Chương 2
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của tỉnh Phú Thọ ảnh hưởng
tới tổ chức, hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ
2.1.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Phú Thọ
- Ví trí địa lý
Tỉnh Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi, có ví trí trung tâm vùng và
là cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội. Tỉnh Phú Thọ nằm trên trục
hành lang kinh tế Hải Phòng-Hà Nội-Côn Minh (Trung Quốc), phía Đông
giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía Tây giáp Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình,
phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang. Tỉnh Phú Thọ cách sân bây quốc
tế Nội Bài 80km; cách Cảng Hải Phòng 170km; cách cửa khẩu quốc Hà Khẩu
(Lào Cai -Vân Nam Trung Quốc) và cửa khẩu Thanh Thủy 200km và là nơi
hợp lưu của 3 con sông: Sông Hồng - Sông Đà - Sông Lô.
Vị trí địa lý của tỉnh Phú Thọ đã tạo cho Phú Thọ có nhiều điều kiện
thuận lợi và tiềm năng to lớn để sản xuất kinh doanh phát triển và giao lưu
kinh tế với các ngành, địa phương trong nước và nước ngoài. Tỉnh Phú Thọ là
cội nguồn, vùng đất tổ của dân tộc Việt Nam và có hệ thống di tích lịch sử, lễ
hội, mỗi di tích lễ hội có một sắc thái riêng độc đáo và đặc sắc, là tiềm năng
to lớn để phát triển du lịch, dịch vụ.
- Diện tích đất đai
Tỉnh Phú Thọ có diện tích tự nhiên 3.532 km2, trong đó diện tích đất
nông nghiệp 97.610ha, đất rừng 195.000ha (trong đó 64.064ha rừng tự nhiên),
đất mặt nước nuôi trồng thủy sản 10.000ha, các loại đất khác là 19.299ha.
- Địa hình, khí hậu
29
Tỉnh Phọ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ hằng năm khoảng
230c, lượng mưa trung bình hằng năm 1.700mm, độ ẩm trung bình hằng năm
86%. Địa hình tỉnh Phú Thọ được phân bổ gồm 2 tiểu vùng:
+ Tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Tây Nam của tỉnh chủ yếu thuộc
các huyện Tân Sơn, Thanh Sơn, Yên Lập và Cẩm Khê là vùng có nhiều tiềm
năng về lâm nghiệp và khai thác khoáng sản.
+ Tiểu vùng đồi, gò thấp và xen kẽ đồng ruộng, bãi bồi ven sông Hồng,
sông Đà, sông Lô đây là vùng thuận lợi cho trồng các loại cây cây lương thực,
rau màu và cây ăn quả; thuận lợi cho phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và
thủy sản. Tiểu vùng này có tiềm năng lớn để phát triển công nghiệp điện tử,
tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến…
- Độ tuổi lao động
Tỉnh Phú Thọ có trên 1,4 triệu người, với 21 dân tộc cùng sinh sống, số
người trong độ tuổi lao động 800.000 người (60% dân số), trong đó lực lượng
lao động trẻ 65%, số lao động đã qua đào tạo 40%.
Đơn vị hành chính
Tỉnh Phú Thọ có có 13 đơn vị hành chính cấp huyện gồm: TP Việt trì
(là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh và là thành phố về miền Lễ
hội cội nguồn các dân tộc Việt Nam), Thị xã Phú Thọ, các huyện: Lâm Thao,
Phù Ninh, Thanh Ba, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Yên Lập, Cẩm Khê, Thanh sơn,
Tân Sơn, Thanh Thủy, Tam Nông với 277 đơn vị hành chính cấp xã.
Điều kiện tự nhiên như trên, tác giả thấy rằng tỉnh Phú Thọ là một tỉnh
trung du miền núi phía bắc bên cạnh những thuận lợi ở dạng tiềm năng vẫn
còn khó khăn về nhiều mặt như: giao thông đi lại khó khăn nhất là các huyện
miền núi, đất đai khô cằn, mưa lũ thường xảy ra nhiều… đã tạo ra những khó
khăn, ảnh hưởng không thuận lợi tới phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân cũng như tổ chức và hoạt động của các
cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị của tỉnh trong đó có Cục Thi hành
30
án dân sự tỉnh.
2.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội tỉnh Phú Thọ
2.1.2.1. Về kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2016-2020 ước đạt 8,2%,
trong đó nông lâm nghiệp tăng 4,3%; CN- XD tăng 11,2%; DV tăng 7,5%. Quy
mô GRDP năm 2020 ước đạt 68, 5 nghìn tỷ đồng bằng 1,6 lần so 2015. GRDP
bình quân đầu người 47,32 triệu đồng tăng 15,8 triệu đồng. Các khu vực kinh
tế, các ngành kinh tế đều có bước phát triển về quy mô, hiệu quả. Cơ cấu kinh
tế đã chuyển từ NLN- CN, XD- DV sang cơ cấu CN, XD - DV- NLN và CN-
XD giữ vai trò chủ đạo. Kết quả phát triển KT- XH của tỉnh trong các lĩnh
vực 5 năm 2016- 2020 thể hiện khái quát như sau:
+ Sản xuất công nghiệp được đẩy mạnh à duy trì đà tăng trưởng cao
hằng năm với tốc độ bình quân 11,2%, giá trị tăng thêm 18,818 tỷ đồng; cơ
cấu ngành chuyển dịch đúng hướng sang công nghiệp chế biến và công
nghiệp phụ trợ, đã thu hút được một số dự án qui mô lớn công nghệ hiện đại,
hiệu quả kinh tế cao; các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã đi vào sản
xuất có hiệu quả như: Thụy Vân, Phù Ninh, Hạ Hòa, Cẩm Khê
+ Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển, đáp ứng nhu cầu phục vụ sản
xuất và đời sống nhân dân, với độ tăng trưởng bình quân hằng năm 7,5%; giá
trị tăng 1,6 lần so 2015 chất lượng các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất và dời
sống nhân dân ngày càng tốt hơn. Phát triển du lịch được coi là đột phá và đạt
kết quả tích cực kể cả về đầu tư xây dựng hạ tầng, thu hút khách du lịch, nâng
cao chất lượng phục vụ.
+ Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới được quan tâm triển
khai có sự chuyển biến tích cực và duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao. Giá trị
tăng bình quân hàng năm 4,3%, vượt chỉ tiêu đề ra và cao hơn bình quân của
cả nước. Trong nông nghiệp tích cực chuyển dịch cơ cấu vật nuôi; cây trồng
theo hướng hiệu quả (giá trị sản phẩm đạt 108 triệu đồng/ha, tăng 28% so với
31
năm 2015). Xây dựng nông thôn mới được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng, đến
hết năm 2019 có 2 đơn vị cấp huyện hoàn thành tiêu chí nông thôn mới (TP
Việt Trì và Thị xã Phú Thọ), 90 xã đạt chuẩn nông thôn mới.
+ Ngoài các kết quả trên đầu tư phát triển quản lý qui hoạch đạt kết quả
quan trọng; hoạt động tài chính, ngân hàng được chú trọng nâng cao hiệu quả;
công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và phát triển, các thành phần
kinh tế tiếp tục được quan tâm chỉ đạo phát triển đúng hướng; công tác quản
lý tài nguyên, môi trường hoạt động khoa học và công nghệ có được phát
triển tích cực theo hướng hiệu quả, bền vững.
Từ các kết quả phát triển kể trên, qua đánh giá chỉ số phát triển chung
của tỉnh Phú Thọ so với 13 tỉnh vùng trung du, miền núi Bắc Bộ (hết năm
2019 tỉnh Phú Thọ xếp thứ 2 của vùng về trình độ phát triển vượt 2 bậc so với
2015, chỉ đứng sau Thái Nguyên). Tỉnh Phú Thọ đã trở thành trung tâm công
nghiệp của Việt Nam, là 1 trong 14 trung tâm vùng của cả nước với thế mạnh
công nghiệp sản xuất chế biến các sản phẩm giấy, chè, thủy sản.
2.1.2.2. Về văn hóa xã hội
+ Giáo dục, đào tạo tiếp tục phát triển, khâu đột phá nguồn nhân lực
được chú trọng, trong đó qui mô các trường lớp, ngành nghề đào tạo các cấp
học tiếp tục phát triển; phát triển nguồn nhân lực nhanh về số lượng, chất
lượng, về thể lực, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp; các hoạt động văn hóa
thông tin, báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình, văn học nghệ thuật có
nhiều khởi sắc rõ rệt; công tác y tế, dân số, gia đình, trẻ em được chú trọng
thực hiện đạt kết quả khá (100% xã phường đạt chuẩn y tế); công tác giải
quyết việc làm đảm bảo an sinh xã hội; công tác dân tộc, tôn giáo đạt kết quả
tích cực; tỷ lệ giảm nghèo bình quân 1,52%/năm, huyện Tân Sơn được công
nhận thoát nghèo; xuất khẩu lao động 3,0 nghìn người/năm, tỷ lệ dân tham gia
bảo hiểm y tế đạt 90%.
32
( Nguồn Báo cáo của Sở Ngoại vụ tỉnh Phú Thọ).
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng khác
Trong 5 năm qua đặc biệt 3 năm gần đây cải cách hành chính, sắp xếp
lại tổ chức bộ máy từ tỉnh tới cơ sở, tổ chức sắp lại bên trong các sở, ngành,
sắp xếp triển khai sáp nhập các xã, khu dân cư được triển khai tích cực theo
hướng tinh gọn, bước đầu ổn đinh, hoạt động có hiệu quả. Ý thức và thái độ
phục vụ doanh nghiệp và người dân của bộ máy hành chính và đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức được nâng lên, cơ bản chuyển từ cơ chế quản lý
hành chính sang phục vụ. Sự đoàn kết nhất trí trong lãnh đạo của các cơ quan
Đảng, chính quyền, đoàn thể ở tất cả các cấp, các ngành được nâng cao. Quốc
phòng an ninh được củng cố và giữ vững. Công tác phòng chống tham nhũng,
lãng phí được đẩy mạnh và có chuyển biến tích cực.
Tóm lại, về điều kiện kinh tế- xã hội của tỉnh Phú Thọ như trên về cơ
bản đã tạo ra những thuận lợi cho tổ chức và hoạt động của ngành THADS
tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những khuyết điểm hạn chế như: việc
huy động các nguồn lực đầu tư một số ngành, lĩnh vực còn khó khăn; sản xuất
nông nghiệp an toàn, chất lượng cao còn hạn chế; sản xuất công nghiệp ở một
số ngành truyền thống chững lại, thậm chí mai một giảm sút; một số sản phẩm
giá trị cạnh tranh thấp (giấy, phân bón); chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng yêu
cầu; tình trạng lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường chậm được khắc
phục. Trong các lĩnh vực xã hội, việc đầu tư cho giáo dục chưa cao, còn trông
chờ, ỷ lại vào cấp trên, nhà nước. Trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên,
cán bộ tế, văn hóa du lịch chưa đáp ứng nhu cầu. Công tác xã hội hóa, huy
động nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, đô thị còn ở mức thấp; tội
phạm, tệ nạn xã hội còn nhiều và tiềm ẩn yếu tố phức tạp; công tác cải cách
hành chính; phối hợp các lực lượng, các cơ quan chức năng trong việc nắm
tình hình, xử lý các vấn đề về an ninh trật tự, khiếu nại tố cáo, tham nhũng
còn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, kịp thời.
33
Những khó khăn, khuyết điểm, hạn chế trên đây là những ảnh hưởng
tác động không thuận lợi tới việc tổ chức và hoạt động của ngành thi hành án
dân sự tỉnh Phú Thọ, thể hiện:
Trước hết, cho đến nay so với mặt bằng chung cả nước thì Phú Thọ vẫn
là tỉnh nghèo, kinh tế phát triển chậm dẫn tới đời sống nhân dân còn khó khăn
trong đó có cả đội ngũ công chức thi hành án dân sự. Do vậy, tội phạm, vi
phạm pháp luật diễn ra phức tạp kể cả trong các cơ quan thi hành án dân sự
phải khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tình hình trên ảnh hưởng
không tốt tới tổ chức, uy tín cơ quan thi hành án dân sự trong tỉnh và số việc
phải thực hiện thi hành án dân sự hàng năm đều tăng;
Thứ hai, cùng với kinh tế phát triển chậm, công tác quản lý nhà nước
về mọi mặt kinh tế- xã hội nhất là về đất đai, về tài chính, thị trường, về lao
động… của các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh chưa tốt, chưa tạo điều
kiện cho nhân dân, doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, ổn
định dẫn đến mâu thuẫn, tranh chấp khởi kiện nhiều nên số vụ việc tòa án
thụ lý, xét xử tăng nên khi bản án có hiệu lực phải thi hành về tài sản về tiền
rất khó khăn dẫn tới tồn đọng lớn, kéo dài;
Thứ ba, công tác phối hợp giữa các cấp các ngành, đoàn thể trong lãnh
đạo chỉ đạo công tác thi hành án dân sự chưa nhịp nhàng, chặt chẽ đồng thời
chưa tạo điều kiện thuận lợi một cách cụ thể, mạnh mẽ về tổ chức, hoạt động
cho các cơ quan thi hành án dân sự và toàn thể cán bộ, công chức, viên chức
của ngành THADS.
Thư tư, là tỉnh trung du miền núi địa bàn rộng, giao thông không tốt đi
lại khó khăn trong khi lương, các chế độ phụ cấp còn thấp, kinh tế gia đình
còn khó khăn nên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tâm tư tình cảm cũng như
thái độ, trách nhiệm thực thi công vụ của một số công chức trong cơ quan thi
34
hành án của tỉnh.
2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy của Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Phú Thọ giai đoạn 2011-2020
2.2.1. Kết quả đạt được
2.2.1.1. Về tổ chức
Ngày 06 /11/2009, Bộ trởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định về việc
thành lập Cục thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ và ở cấp huyện là Chi cục thi
hành án dân sự. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ là cơ quan trực thuộc
Tổng cục Thi hành án dân sự, chịu trách nhiệm trước Tổng Cục trưởng Tổng
cục Thi hành án dân sự, đồng thời chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh
Phú Thọ theo quy định tại Điều 173 Luật thi hành án dân sự, có trách nhiệm
báo cáo công tác với Uỷ ban nhân dân tỉnh về chủ trương, biện pháp tăng
cường công tác thi hành án dân sự trên địa bàn; thực hiện báo cáo công tác thi
hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân tỉnh theo quy định của pháp luật và
giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự quản lý một số mặt công
tác tổ chức cán bộ các cơ quan Thi hành án dân sự tại địa phương.
Từ năm 2011 đến nay Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ về tổ chức
bộ máy và hoạt động đã đạt được kết quả chủ yếu dưới đây:
Một là, cơ cấu tổ chức của Cục được giữ ổn định, không tăng đầu mối
- Về Ban lãnh đạo của Cục thi hành án dân sự gồm có: Cục trưởng và
03 Phó Cục trưởng theo hướng dân của Tổng cục thi hàn án (Bộ Tư pháp). Cụ
thể Ban lãnh đạo của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ hiện nay:
+ Cục trưởng: Lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành mọi mặt hoạt động
của Cục theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Phú Thọ. Trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng và phát triển ngành, công
tác tổ chức cán bộ, tài chính của Cục và các Chi Cục Thi hành án dân sự trực
thuộc, công tác ngoại giao.
+ Phó Cục trưởng: Tham mưu giúp Cục trưởng phụ trách lĩnh vực
35
Nghiệp vụ thi hành án, chỉ đạo công tác xây dựng văn bản pháp luật, các văn
bản hướng dẫn nghiệp vụ các chương trình tập huấn nghiệp vụ đối với các
phòng chuyên môn, Chi cục THADS huyện thành phố trong tỉnh, thực hiện
các công việc khi được Cục trưởng ủy quyền và các công việc khác được Cục
trưởng phân công.
+ Phó Cục trưởng: Tham mưu giúp Cục trưởng phụ trách lĩnh vực
Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; chỉ đạo công tác xây dựng kế hoạch
kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với Chi cục THADS huyện, thành phố trực
thuộc tỉnh; xem xét, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và chuyển cơ quan
khác giải quyết theo thẩm quyền… . Thực hiện các công việc khi được Cục
trưởng ủy quyền và các công việc khác được Cục trưởng phân công.
+ Phó Cục trưởng: Tham mưu giúp Cục trưởng phụ trách lĩnh vực Văn
phòng và các nhiệm vụ do Văn phòng Cục tham mưu; chỉ đạo xây dựng các
loại báo cáo, báo cáo thống kê, chương trình, kế hoạch công tác của Cục, Chi
cục THADS huyện, thành phố trực thuộc…Thực hiện các công việc khi được
Cục trưởng ủy quyền và các công việc khác được Cục trưởng phân công.
- Các Phòng chuyên môn gồm có 04 Phòng gồm
Văn phòng: Văn phòng là cơ quan chuyên môn có trách nhiệm giúp
Cục trưởng, các Phó Cục trưởng trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành các
hoạt động của Cục; Tổ chức thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ,
thông tin liên lạc và bảo mật thông tin, tài liệu; Tổ chức thực hiện công tác lễ
tân, quản trị, quản lý kinh phí, tài sản, cơ sở vật chất; Đôn đốc, theo dõi, kiểm
tra việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong cơ quan Cục và việc thực
hiện Quy chế làm việc, Quy chế về quản lý tài sản, Quy chế chi tiêu nội bộ và
các quy định khác của Cục và các đơn vị trực thuộc; Thực hiện nhiệm vụ cải
cách hành chính, cải cách tư pháp theo mục tiêu và nội dung chương trình cải
cách hành chính, cải cách tư pháp được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong
lĩnh vực Văn phòng; Thực hiện ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ thông
36
tin trong công tác Văn phòng; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy
định của pháp luật hoặc do Cục trưởng giao.
Cơ cấu tổ chức, biên chế của Văn phòng hiện nay có Chánh Văn phòng
chịu trách nhiệm trước Cục trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện các
nhiệm vụ, quyền hạn được giao của Văn phòng; Phó Chánh Văn phòng giúp
Chánh Văn phòng quản lý, điều hành hoạt động của Văn phòng; trực tiếp
quản lý một số lĩnh vực, nhiệm vụ công tác theo sự phân công của Chánh Văn
phòng; chịu trách nhiệm trước Chánh Văn phòng và trước pháp luật về những
lĩnh vực, nhiệm vụ công tác được phân công.
Biên chế của Văn phòng hiện nay thuộc biên chế hành chính của Cục
do Cục trưởng quyết định phân bổ trên cơ sở đề nghị của Phòng Tổ chức cán
bộ và Chánh Văn phòng.
Phòng Tổ chức cán bộ: Phòng Tổ chức cán bộ có trách nhiệm tham
mưu giúp Cục trưởng thực hiện chức năng quản lý về tổ chức, cán bộ của
Ngành; Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác phòng ngừa đấu tranh
chống tham nhũng, công tác cải cách hành chính, thi đua khen thưởng. Phòng
tổ chức cán bộ hiện nay gồm có Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước Cục
trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được
giao của Phòng Tổ chức cán bộ. Các Phó Trưởng phòng giúp Trưởng phòng
quản lý, điều hành hoạt động của Phòng; trực tiếp quản lý một số lĩnh vực,
nhiệm vụ công tác theo sự phân công của Trưởng phòng; chịu trách nhiệm
trước Trưởng phòng và trước pháp luật về những lĩnh vực, nhiệm vụ công tác
được phân công. Biên chế của Phòng Tổ chức cán bộ hiện nay thuộc biên chế
hành chính của Cục do Cục trưởng quyết định phân bổ trên cơ sở đề nghị của
Phòng Tổ chức cán bộ.
Phòng Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án dân sự: Phòng Nghiệp vụ và
Tổ chức thi hành án dân sự có trách nhiệm tham mưu giúp Cục trưởng thực
hiện chức năng quản lý về nghiệp vụ và tổ chức thi hành án dân sự và trực
37
tiếp thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Phòng
Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án dân sự hiện nay có Trưởng phòng chịu
trách nhiệm trước Cục trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm
vụ, quyền hạn được giao của Phòng Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án dân sự.
Phó Trưởng phòng giúp Trưởng phòng quản lý, điều hành hoạt động của
Phòng; trực tiếp quản lý một số lĩnh vực, nhiệm vụ công tác theo sự phân
công của Trưởng phòng; chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng và trước pháp
luật về những lĩnh vực, nhiệm vụ công tác được phân công. Biên chế của
Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án dân sự hiện nay thuộc biên chế hành chính
của Cục do Cục trưởng quyết định phân bổ trên cơ sở đề nghị của Phòng Tổ
chức cán bộ và Phòng Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án dân sự.
Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự:
Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự là cơ quan
tham mưu giúp Cục trưởng thực hiện chức năng quản lý về Kiểm tra và giải
quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự và trực tiếp Kiểm tra và giải quyết
khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp
luật. Phòng Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự
hiện nay có Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước Cục trưởng và trước pháp
luật về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao của Phòng Kiểm tra
và giải quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự. Phó Trưởng phòng giúp
Trưởng phòng quản lý, điều hành hoạt động của Phòng; trực tiếp quản lý một
số lĩnh vực, nhiệm vụ công tác theo sự phân công của Trưởng phòng; chịu
trách nhiệm trước Trưởng phòng và trước pháp luật về những lĩnh vực, nhiệm
vụ công tác được phân công.
Biên chế của Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay
thuộc biên chế hành chính của Cục do Cục trưởng quyết định phân bổ trên cơ
sở đề nghị của Phòng Tổ chức cán bộ và Phòng Phòng Kiểm tra và giải quyết
38
khiếu nại, tố cáo.
Như vậy về cơ cấu tổ chức bộ máy của Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ
đã được kiện toàn đúng theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và đã đi
vào hoạt động ổn định.
- Về tổ chức bộ máy của các Chi cục THADS cấp huyện
Tỉnh Phú Thọ có có 13 đơn vị hành chính cấp huyện và ở mỗi đơn vị
hành chính này đều có Chi Cục thi hành án dân sự:
+ Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt trì
+ Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Thọ
+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Khê
+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng
+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hạ Hòa
+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao
+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Ninh
+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Ba
+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Thủy
+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông
+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Sơn
+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Lập
Cơ cấu tổ chức bộ máy của toàn bộ các Chi cục trên đều thực hiện theo
đúng quy định của Bộ Tư pháp.
Hai là, giữ ổn định số lượng các Phòng của Cục, các Chi cục
Từ năm 2011 đến nay số lượng các Phòng của Cục Thi hành án dân sự
tỉnh và các Chi cục được giữ ổn định không có sự thay đổi. Việc giữ ổn
định, không thay đổi này là do Cục Thi hành án tỉnh thực hiện đúng sự
hướng dẫn của Tổng cục Thi hành án dân sự, sự chỉ đạo của UBND tỉnh Phú
Thọ và phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh. Đặc biệt việc giữ ổn định 04
Phòng của Cục Thi hành án dân sự của tỉnh Phú Thọ là do đã được phân
39
định rõ chức chức nhiệm của từng Phòng không có sự chồng chéo nên công
việc của từng Phòng và của cả Cục thông suốt không có ách tắc đồng thời
tinh gọn giảm chức danh lãnh đạo cấp phòng. Ví dụ như ở một số Cục thi
hành án các tỉnh có Phòng Tài chính- Kế toán nhưng ở Cục Thi hành án tỉnh
Phú Thọ thì nhiệm vụ tài chính- kế toán do Văn phòng thực hiện là phù hợp
không cần thiết thành lập Phòng Tài chính- Kế toán. Đối với cấp huyện thì
do Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi nên địa giới các huyện rộng, giao
thông khó khăn, nhiều huyện có nhiều đồng bào dân tộc ở phân tán nên việc
thành lập và giữ ổn định các Chi cục Thi hành án dân sự là hợp lý đảm bảo
cho thi hành án dân sự ở huyện hiệu quả.
Ba là, chức năng, nhiệm vụ của Cục tập trung vào tổ chức thi hành án
dân sự thuộc thẩm quyền và quản lý các Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện
Hàng năm căn cứ vào chỉ tiêu thi hành án dân sự Tổng cục Thi hành án
dân sự giao và thực tế ở tỉnh, Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ đã tập trung lãnh
chỉ đạo các công việc chủ yếu sau đây:
+ Về thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ: Tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn
đốc giải quyết thi hành án phấn đấu nâng cao chất lượng, tỷ lệ THADS xong
về việc và về tiền đạt và vượt chỉ tiêu được giao theo quy định mới của luật
sửa đổi, sửa đổi bổ sung một số điều luật của THADS, đảm bảo kết quả
THADS, thi hành án hành chính thực chất, bền vững trong đó có các vụ khó
khăn, phức tạp, kéo dài trên cơ sở có phân tích đánh giá đề ra các kế hoạch
cụ thể tổ chức thi hành bản án đồng thời phát huy trách nhiệm, chủ động,
sáng tạo của đội ngũ Chấp hành viên.
+ Về công tác tổ chức cán bộ: Hàng năm đều thực hiện việc tiếp tục
rà soát bổ sung, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác thi hành án dân sự đủ về số lượng, đảm bảo về chất
lượng, trong đó tập trung chú trọng vào những địa bàn, đơn vị còn nhiều tồn
tại, hạn chế thông qua công tác tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, luân
40
chuyển, bổ nhiệm. Tập trung rà soát cán bộ, công chức để cử tham gia tập
huấn, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đồng thời rèn luyện phẩm chất
đạo đức, phẩm chất cho cán bộ, công chức; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm
minh những trường hợp cán bộ, công chức trong các cơ quan Thi hành án
dân sự nếu có hành vi vi phạm.
+ Về hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với các Chi cục và giải quyết
khiếu nại, tố cáo: Từ lãnh đạo Cục đến các Phòng chuyên môn của Cục hàng
năm đều tích cực học tập nghiên cứu nâng cao trình độ nghiệp vụ đồng thời
căn cứ vào hướng dẫn nghiệp vụ của Tổng cục để nâng cao chất lượng và
hiệu quả công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo, nhất là tại Chi cục THADS huyện, thành, thị, khắc phục những
khó khăn, vi phạm thiếu sót về chuyên môn, nghiệp vụ, những sai sót không
đáng có thông qua tập huấn hoặc văn bản hướng dẫn cụ thể. Chủ động xử lý
kịp thời, đúng luật các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân, hạn chế xảy ra
các trường hợp khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp làm phức tạp tình hình.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành và trong công tác chuyên môn
nghiệp vụ, góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS, tạo sự minh bạch
công khai trong hoạt động thi hành án.
- Các công tác khác: Chú trọng nâng cao chất lượng công tác tham
mưu, tổng hợp, báo cáo, thống kê, công tác thi đua khen thưởng. Tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ khác theo chương trình, kế hoạch công tác năm của Cục,
(Nguồn Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự các năm từ 2011 đến
nay của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ).
Tổng cục Thi hành án dân sự.
2.2.1.2. Về hoạt động
- Về hoạt động thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 111/2015/QH13
của Quốc hội
41
Hàng năm Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ đã có nhiều cố gắng thi hành
án dân sự một cách tích cực cả về số việc (đạt tỷ lệ 75% so với chỉ tiêu được
Quốc hội giao, vượt 3 %)và về tiền, trong số việc có điều kiện, đã giải quyết
xong đạt tỷ lệ 38% (so với chỉ tiêu Quốc hội giao, vượt 5%). Trong đó:
* Tích cực, quyết tâm cao thi hành án đối với các khoản thu cho Ngân
sách Nhà nước, đạt tỷ lệ 69,4%; giải quyết các vụ việc liên quan đến tín dụng,
ngân hàng: đã giải quyết đạt tỷ lệ 11,2% về việc và 20,7% về tiền; xét miễn,
giảm thi hành án, các cơ quan Thi hành án dân sự đã tích cực phối hợp với
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp rà soát, lập hồ sơ và đề nghị Tòa án nhân
dân có thẩm quyền xét miễn, giảm đúng việc, đứng pháp luật; tổ chức thi
hành phần dân sự trong các bản án hình sự đối với phạm nhân tại các Trại
giam thuộc Bộ Công an hàng năm đều đạt, đạt tỷ lệ 50% về việc, 18% về tiền;
tổ chức cưỡng chế thi hành án đối với phải tổ chức cưỡng;
* Chủ động và có nhiều nỗ lực thực hiện một số chỉ tiêu khác theo Nghị
quyết số 37 của Quốc hội như: hàng năm, Cục THADS tỉnh đã chỉ đạo Phòng
chuyên môn thuộc Cục, Chi cục THADS huyện, thành, thị thực hiện một số
chỉ tiêu khác theo Nghị quyết số 37 của Quốc hội về “Ra quyết định thi hành
án đúng thời hạn đối với 100% các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu
lực theo đúng quy định của pháp luật”; chỉ tiêu về “bảo đảm chính xác, đúng
pháp luật trong việc xác minh, phân loại án dân sự có điều kiện thi hành và
chưa có điều kiện thi hành”; Các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đã
“Cơ bản khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án”.
- Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo
* Công tác tiếp công dân: Cục THADS tỉnh đã làm tốt Công tác tiếp
công dân và chỉ đạo các Phòng chuyên môn và Chi cục THADS cấp huyện
thực hiện việc tiếp công dân tại trụ sở làm việc, có bố trí phòng tiếp công dân,
lịch tiếp công dân đảm bảo theo quy định. Do đó, mọi yêu cầu của công dân
đều được tiếp nhận và giải quyết theo đúng thẩm quyền không xảy ra việc
42
phức tạp, bức xúc lớn, đặc biệt là khiếu kiện tập trung đông người.
* Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong công tác thi hành án dân
sự được coi trọng và thực hiện nghiêm túc quy định pháp luật về giải quyết
khiếu nại, tố cáo và giải quyết được đạt tỷ lệ 87,8%.
- Công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ và công tác kiểm tra
* Công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ
Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đã coi trọng và thường
xuyên chỉ đạo Phòng chuyên môn, Chi cục THADS huyện, thành, thị thực
hiện đầy đủ Quy trình hướng dẫn nghiệp vụ trong nội bộ Hệ thống THADS
(kèm theo Quyết định số 824/QĐ-TCTHADS ngày 03/12/2014) do Tổng cục
THADS ban hành. Bên cạnh đó, tại các cuộc họp giao ban tháng, quý, và tổng
kết hàng năm Lãnh đạo Cục THADS tỉnh đã trực tiếp nghe các Thủ trưởng
các đơn vị báo cáo về tình hình triển khai Kế hoạch công tác, kết quả công
tác, các vụ việc có khó khăn, vướng mắc… qua đó Cục kịp thời nắm bắt, chỉ
đạo, hướng dẫn giải quyết kịp thời góp phần đẩy nhanh tiến độ tổ chức thi
hành án, phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ được giao.
* Công tác kiểm tra
Hàng năm, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ luôn chú trọng và
tăng cường công tác kiểm tra thường xuyên đối với 13 đơn vị thi hành án dân
sự cấp huyện và Phòng nghiệp vụ & TCTHADS. Bên cạnh đó Cục Thi hành
án dân sự tỉnh đã thực hiện kiểm tra đột xuất và ban hành kết luận Kiểm tra
theo chuyên đề về công tác Kế toán Nghiệp vụ Thi hành án ở 13 Chi cục Thi
hành án dân sự cấp huyện. Qua công tác kiểm tra đã kịp thời phát hiện thiếu
xót để chấn chỉnh và phát hiện vi phạm xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị
cơ quan nhà nước khác xử lý theo pháp luật như vụ việc vi phạm nghiêm
trọng trong công tác quản lý tiền thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự
thành phố Việt Trì.
Việc kiểm tra được lãnh đạo Cục được thực hiện đúng ngay từ khi ban
43
hành quyết định kiểm tra, kế hoạch kiểm tra, công bố quyết định sau đó tiến
hành kiểm tra và ban hành kết luận kiểm tra theo đúng Quy trình kiểm tra
được ban hành kèm theo Quyết định số 83/QĐ-TCTHADS ngày 28/01/2015
của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự.
- Công tác thi hành án hành chính
Cục Thi hành án dân sự tỉnh quán triệt đến các phòng chuyên môn
thuộc Cục, Chi cục Thi hành án dân sự huyện, thành, thị tiếp tục triển khai,
thực hiện có hiệu quả các văn bản về công tác thi hành án hành chính như:
Luật Tố tụng hành chính 2015; Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016
của Chính Phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và
xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Toà án
hành chính; Quyết định số 1856/QĐ-BTP ngày 01/9/2016 của Bộ Tư pháp
ban hành kế hoạch triển khai thi hành Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày
01/7/2016 nhằm đưa công tác thi hành án hành chính trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ ngày càng đi vào nề nếp. Đến nay, các cơ quan Thi hành án dân sự đã
thực hiện rà soát, đối chiếu với Tòa án nhân dân cùng cấp trong việc xét xử
các vụ án hành chính. Kết quả: trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã theo dõi 3 việc,
quá trình theo dõi, có 03/03 việc đã thực hiện xong việc hủy Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
- Công tác tài chính, kế toán
* Công tác quản lý kinh phí, ngân sách: Trên cơ sở dự toán ngân sách
do Bộ Tư pháp cấp hàng năm, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã thực hiện
xong quyết toán kinh phí ngân sách năm và giao dự toán ngân sách năm sau,
đồng thời chỉ đạo các đơn vị rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới
quy chế chi tiêu nội bộ cho phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị, thực
hiện công khai tài chính định kỳ nhằm quản lý chặt chẽ việc sử dụng kinh
phí phục vụ hoạt động chuyên môn đảm bảo đúng quy định, tiết kiệm, đúng
mục đích, hiệu quả.
44
* Công tác quản lý tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản: đã thực hiện việc
theo đúng hướng dẫn của Tổng Cục theo đúng quy định pháp luật. Công tác
điều hòa phí luôn được rà soát đến từng đơn vị trong toàn tỉnh và báo cáo số
phí thu được để lại làm cơ sở cho Tổng Cục điều hòa kinh phí hàng năm.
- Công tác phối hợp trong thi hành án dân sự
Các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ thường xuyên tăng
cường mối quan hệ và phối hợp tốt với một số cơ quan có liên quan trong giải
quyết thi hành án dân sự như: Phối hợp với các Trại giam, Trại tạm giam để
giải quyết các khoản tiền thi hành án còn tồn tại các Trại giam, Trại Tạm
giam theo Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC kịp thời cấp
giấy xác nhận thi hành xong hình phạt tiền và trách nhiệm dân sự làm cơ sở
để xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, đặc xá cho phạm nhân; Phối hợp
tốt với Tòa án nhân dân cùng cấp trong việc đối chiếu, giao nhận Bản án, vận
động gia đình bị cáo tự nguyện nộp các khoản tạm thu án phí, sung công quỹ
nhà nước tại phiên toà xét xử. Rà soát, đối chiếu bản án quyết định của Toà án
để đảm bảo 100% bản án đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành; Phối
hợp với Viện Kiểm sát nhân dân hai cấp trong công tác hiện tốt quy chế phối
hợp liên Ngành số 431/QCPH-VKS-TA-CA-THADS ngày 14/3/2014 về việc
phối hợp liên Ngành trong hoạt động thi hành án dân sự; Phối hợp với Sở Tư
pháp trong công tác tuyên truyền, PBGDPL về THADS; thực hiện các nhiệm
vụ được Bộ Tư pháp giao; phối hợp cung cấp kết quả thi hành án để thực hiện
Luật Lý lịch Tư pháp; Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trong việc thực thi
những vụ việc liên quan đến các tổ chức tín dụng, ngân hàng; rà soát, tổng
hợp các bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm
của các khoản nợ xấu đã có hiệu lực đang được thi hành hoặc chưa thi hành
để tổng hợp báo cáo lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự trong việc triển
khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH; Phối hợp với các cơ quan: Tài
chính, Tài nguyên môi trường, Công an, bảo hiểm xã hội... trong việc thi hành
45
án như: Xác minh điều kiện phải thi hành án của người phải thi hành án và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan; Tổ chức xử lý, tiêu huỷ tang
vật; Giao nhận vật chứng, tài sản; Định giá tài sản; Cưỡng chế thi hành án,
thực hiện việc cưỡng chế khấu trừ thu nhập lương trong các việc phải thi hành
án cấp dưỡng nuôi con...; Phối hợp thường xuyên với UBND các xã, phường,
thị trấn trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án, tống đạt các thông báo
về thi hành án làm các thủ tục niêm yết, giải quyết thi hành án dân sự và tham
gia cưỡng chế, kê biên tài sản của người phải thi hành án, niêm yết Quyết
định chưa có điều kiện thi hành án của người phải thi hành án theo quy định.
- Một số mặt công tác khác
* Hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS từ tỉnh đến huyện được củng cố,
kiện toàn theo đúng văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, đảm bảo thiết
thực, có hiệu quả, nhất là trong việc chỉ đạo thi hành; Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Phú Thọ đã tham mưu giúp BCĐ THADS tỉnh, Chủ tịch UBBND tỉnh
thực hiện quản lý nhà nước về công tác Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh;
chỉ đạo các cơ quan có liên quan trong việc phối hợp giải quyết dứt điểm
những vụ, việc phải thi hành án có điều kiện thi hành và chỉ đạo việc tổ chức
cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính
trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương; Chủ động báo cáo Trưởng Ban chỉ đạo
THADS cấp mình về việc xin ý kiến chỉ đạo giải quyết những việc thi hành
án có khó khăn, vướng mắc trên địa bàn, đồng thời chỉ đạo các các cơ quan
hữu quan phối hợp chặt chẽ với cơ quan thi hành án dân sự để giải quyết có
hiệu quả đối với việc thi hành án dân sự trên địa bàn quản lý.
* Việc thực hiện Quy chế dân chủ dân chủ cơ sở và công tác phòng
chống tham nhũng, tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã thực hiện nghiêm túc
việc phổ biến cho công chức, viên chức trong đơn vị về các chủ trương của
Nhà nước, của ngành, những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ;
đảm bảo thông tin đến công chức, viên chức trong toàn đơn vị về việc sử
46
dụng công quỹ, tài sản công; việc thu chi tài chính, công tác quy hoạch, bổ
nhiệm, đào tạo và thi đua - khen thưởng.Vì vậy, công chức, viên chức trong
các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh luôn giữ thái độ đúng đắn trong việc tiếp
dân không gây phiền hà sách nhiễu nhân dân; nội bộ đơn vị luôn đoàn kết,
thống nhất cao góp phần xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh.
* Công tác phòng chống tham nhũng tiếp tục tổ chức thực hiện Chỉ thị
số 01/CT-BTP ngày 11/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Kế hoạch số 15-
KH/TU ngày 07/7/2016 của Tỉnh ủy Phú Thọ về việc triển khai thực hiện Chỉ thị
số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị; Kế hoạch số 6022/KH-UBND
ngày 27/12/2016 của UBND tỉnh Phú Thọ về công tác Phòng chống tham
nhũng. Hàng năm, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã ban hành “Kế hoạch Công tác
phòng chống tham nhũng’’ và quán triệt nội dung đến toàn thể cán bộ, công
chức trong Cục, Chi cục THADS huyện, thành, thị thực hiện nghiêm Chỉ thị
về Công tác Phòng chống tham nhũng trong hoạt động THADS tại đơn vi
mình quản lý đồng thời luôn kiểm tra việc thực hiện. Do vậy, thời gian qua
không có xảy ra tham nhũng trong toàn ngành.
* Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật luôn được quan tâm và
được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu để đẩy mạnh, nâng cao hiệu
quả công tác thi hành án dân sự. Thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật khác liên quan đã tác
động tích cực đến nhận thức của người dân đối với công tác thi hành án dân
sự, từ đó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự
trên địa bàn toàn tỉnh.
Tóm lại, trong điều kiện tình hình công tác thi hành án dân sự còn gặp
nhiều khó khăn, song trong mấy năm qua Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú
Thọ đã tích cực chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn phấn đấu
hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS, hành chính được giao. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đạt được tương đối toàn diện, tổ chức và hoạt động
47
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ vẫn còn những hạn chế, bất cấp cần
(Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự các năm từ 2011 đến nay)
sửa chữa, khắc phục trong thời gian tới.
2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
2.2.2.1. Một số hạn chế và nguyên nhân về tổ chức
- Hạn chế
Thời gian qua, việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đạt được kết quả tích cực, đã khắc phục được
nhiều bất hợp lý trong tổ chức bộ máy của đơn vị, tuy nhiên vẫn còn một số
hạn chế, đó là:
Thứ nhất, tổ chức bộ máy bên trong của Cục vẫn còn những điểm chưa
hợp lý; chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền, trách nhiệm giữa các phòng tuy
đã cơ bản khắc phục được sự chồng chéo, nhưng trên một số lĩnh vực vẫn còn
giao thoa, đan xen hoặc phân công chưa thực sự phù hợp hoặc chưa đủ rõ, dẫn
đến khó xác định trách nhiệm khi có vấn đề xảy ra.
Thứ hai, công tác phối hợp thực hiện chức năng, nhiệm vụ giữa các
Phòng trong Cục, giữa Cục với một số cơ quan và giữa các cơ quan có trách
nhiệm liên quan đến thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh còn hạn chế, chưa
thực hiện nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan, một người chủ trì,
chịu trách nhiệm chính. Thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực vẫn còn
phức tạp, rườm rà, chậm được khắc phục ảnh hưởng không tốt đến công tác
thi hành án.
Thứ ba, tổ chức bộ máy tại Cục và các Chi cục chưa hợp lý, biên chế
thiếu ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thi hành án chung của toàn ngành. Từ
đó, lãnh đạo một số Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện có lúc, có việc còn
chưa sâu sát, thiếu kiểm tra, giám sát, nhắc nhở cán bộ dưới quyền dẫn đến
xảy ra thiếu xót, khuyết điểm thậm trí có nới vi phạm nghiêm trọng trong
công tác quản lý tiền thi hành án làm thất thoát tiền thi hành án với số lượng
48
lớn phải xử lý trách nhiệm hình sự đối với cán bộ, công chức vi phạm. Một số
Chấp hành viên ý thức trách nhiệm nghề nghiệp chưa cao, chưa thật sự nêu
cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực thi nhiệm vụ ảnh hưởng trực
tiếp đến kết quả thi hành án chung của toàn ngành; một bộ phận công chức
chưa tích cực học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ,
trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng tình hình hiện nay;
Thứ năm, một số nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương về
quản lý nhà nước về thi hành án dân sự chưa được quy định rõ và cụ thể nên
chưa tạo thuận lợi cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở địa phương.
- Nguyên nhân của hạn chế
Một là, về pháp lý nói chung và pháp luật thi hành án dân sự còn chưa
đồng bộ thống nhất thậm trí vẫn còn mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn với
các luật chuyên ngành như: cung cấp thông tin về tài sản thi hành án của
người có đơn yêu cầu thi hành án, quy định về bảo quản tài sản thi hành án,
quy định về miễn giảm thi hành án, về xác định tài sản chung, kê biên tài sản
chung, thủ tục xác định, phân chia, xử lý tài sản của người phải thi hành án
dân sự trong tài sản chung…, chưa có quy định đảm bảo về thẩm quyền và
tính độc lập của cơ quan thi hành án dân sự nên khi phát hiện các sai phạm
của các tổ chức, cá nhân phải thi hành án dân sự thì thẩm quyền của Cục thi
hành án dân sự và Chấp hành viên hầu như chỉ dừng lại ở mức đề xuất kiến
nghị xử lý mà chưa được áp dụng những biện pháp, chế tài nghiêm khắc thể
hiện tính quyền lực nhà nước, có đủ sức răn đe và phòng ngừa nên hiệu lực,
hiệu quả chưa cao.
Hai là, vấn đề giáp ranh, đan xen, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ
giữa một số bộ, ngành là do bản thân những vấn đề quản lý rất phức tạp nên
không đơn giản phân định về mặt hành chính, nhất là trong điều kiện thiếu cơ
chế phối hợp hiệu quả, nên vẫn chưa giải quyết được dứt điểm các vấn đề bất
hợp lý trong quá trình tổ chức thực hiện đã tác động không nhỏ tới tổ chức bộ
máy và hoạt động thi hành án dân sự từ trung ương tới địa phương trong đó
49
có tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ.
Ba là, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công
tác của cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan có liên quan chưa cụ thể
hoá đầy đủ; thiếu quy định khung về việc thành lập cơ quan, tổ chức hành
chính nhà nước cũng như xác định trình tự thủ tục và nội dung phối hợp trong
hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án hành chính.
Bốn là, mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của hệ thống thi hành án dân sự chưa được hoàn thiện, một số quy
định của pháp luật chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ thi hành án dân sự
của thời kỳ mới.
Năm là, tinh giản biên chế còn cào bằng chưa có quy định cụ thể với
các cơ quan ở các lĩnh vực, vùng miền có điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội
khác nhau. Mặt khác thực hiện tinh giản chưa quyết liệt nên vẫn còn một số
công chức, Chấp hành viên ý thức trách nhiệm nghề nghiệp chưa cao, chưa
thật sự nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực thi nhiệm vụ ảnh
hưởng trực tiếp đến kết quả thi hành án chung của toàn ngành; một bộ phận
công chức chưa tích cực học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng tình hình hiện nay;
2.2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế về hoạt động
- Hạn chế
Thứ nhất, kết quả thi hành án về tiền đạt tỷ lệ thấp, toàn tỉnh đạt 17%
(thiếu 13% so với chỉ tiêu Quốc hội giao, thiếu 16% so với chỉ tiêu Tổng cục
THADS giao. Số việc, số tiền thi hành án chuyển sang kỳ sau vẫn còn nhiều.
Thứ hai, việc tổ chức xác minh, phân loại án ở một số đơn vị còn chưa
phản ánh được đầy đủ các nội dung cần phải xác minh, chưa đề xuất được các
biện pháp tích cực để giải quyết dứt điểm các vụ việc phải thi hành án có điều
kiện thi hành, các vụ việc có số tiền phải thi hành án lớn.
Thứ ba, việc nghiên cứu áp dụng pháp luật còn chưa sâu, dẫn đến việc
áp dụng, vận dụng để giải quyết một số việc thi hành án cụ thể còn chưa chính
50
xác, kém hiệu quả.
Thứ tư, trong việc thi hành án đối với một số việc khó khăn, phức tạp
chưa chủ động tích cực mà còn có tư tưởng chông chờ, ỉ nại hướng dẫn của
cấp trên.
Thứ năm, một số việc khó khăn phức tạp, kéo dài chưa chủ động phối
hợp với các cơ quan hữu quan cũng như tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo của
cấp ủy, chính quyền địa phương.
- Nguyên nhân
+ Do pháp luật nói chung và pháp luật thi hành án dân sự còn chưa
đồng bộ, thống nhất với nhau và với các luật chuyên ngành (như đã nêu ở
phần trên) nên đã ảnh hưởng tới hoạt động thi hành án dân sự ở địa phương.
+ Số việc, số tiền phải thi hành án dân sự hàng năm tăng cao hơn so với
cùng kỳ các năm 2015 về trước do tác động của mặt trái cơ chế thị trường,
của hội nhập quốc tế trong khi chỉ tiêu, biên chế của các cơ quan thi hành án
dân sự tỉnh Phú Thọ không được tăng dẫn đến tình trạng quá tải trong qúa
trình thực hiện nhiệm vụ.
+ Số lượng việc thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự chiếm tỷ
lệ tương đối lớn, ngày càng tăng, như các khoản án phí, tiền phạt, tịch thu
xung công,... trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, về ma túy, đánh bạc
chiếm số lượng lớn, nhiều người phải thi hành án không có tài sản, đang phải
chấp hành án phạt tù hoặc khi mãn hạn tù đi làm ăn, sinh sống ở nơi khác,
không có mặt tại địa phương nên không thể đôn đốc thi hành án.
+ Nhiều việc phải thi hành án, cơ quan thi hành án đã tổ chức bán đấu
giá, tài sản song không bán được do không có người mua mặc dù đã giảm giá
nhiều lần theo quy định của pháp luật. Cá biệt có việc giảm giá và bán đấu giá
lần thứ 18 như việc thi hành án đối với Công ty Cổ phần đầu tư Việt Nhật
Quang, địa chỉ xã Tiên kiên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ phải thanh toán
trả cho Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Việt Trì số tiền
6.406.901.329,đ; Việc thi hành án đối với Công ty TNHH Phú Nam, địa chỉ:
51
phường Vân Phú, TP. Việt Trì phải thanh toán trả cho Ngân hàng Nông nghiệp
và PTNT Việt Nam chi nhánh Đống Đa, Hà Nội số tiền: 13.113.541.666,đ, tài
sản này đã giảm giá và bán đấu giá lần thứ 15 chưa có người mua.
+ Ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án chưa tốt,
không tự nguyện thi hành, trong đó rất nhiều vụ việc có tính chất khó khăn,
phức tạp, đương sự luôn tìm cách đối phó, chống đối quyết liệt hoặc khiếu nại
nhằm mục đích trì hoãn nên phải tổ chức cưỡng chế, có nhiều vụ việc cưỡng
chế liên quan đến đất đai phải tuân theo trình tự thủ tục quy định nên thời gian
thi hành án bị kéo dài.
+ Công tác chỉ đạo, điều hành của một số lãnh đạo các Phòng của Cục,
lãnh đạo các Chi Cục còn chưa thường xuyên quan tâm, đôn đốc, kiểm tra,
đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các Chấp hành viên, công chức trong
đơn vị mình phụ trách thậm trí còn biểu hiện chủ quan, quá tin tưởng vào bộ
phận cán bộ tham mưu, giúp việc.
+ Một số Chi cục THADS huyện chưa tạo được mối quan hệ phối hợp
chặt chẽ với cơ quan hữu quan ở địa phương như: Công an, Tòa án, Viện
kiểm sát, BHXH, Phòng Tài nguyên- Môi trườn..., chưa tranh thủ được sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền và sự phối hợp với các
đoàn thể nhân dân của huyện, của các xã trong công tác thi hành án dân sự
hoặc chưa thực hiện tốt vai trò là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo Thi
hành án dân sự, chưa làm tốt công tác tham mưu, báo cáo, chưa có biện pháp,
phương án cụ thể giúp cho Ban chỉ đạo thi hành án dân sự kịp thời nắm bắt và
quản lý, chỉ đạo chung về công tác thi hành án dân sự trên địa bàn.
+ Việc rà soát, phân loại, lập kế hoạch tổ chức thi hành án của Chấp
hành viên có việc còn chưa khoa học; Một số Chấp hành viên, công chức làm
công tác thi hành án của Cục còn ngại va chạm. Việc vận dụng, áp dụng các
quy định mới của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân
sự và Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ vào từng
vụ việc cụ thể còn lúng túng vì vậy kết quả thi hành án dân sự ở một số đơn vị
52
còn hạn chế.
Tiểu kết chương 2
Trong gần 10 năm trở lại đây Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đã
có những tiến bộ mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động, thể hiện ở một số kết quả
nổi bật là: Tổ chức bộ máy của Cục và các Chi Cục đã được tổ chức theo
đúng chỉ đạo của Bộ Tư pháp, phù hợp với điều kiện của tỉnh và hoạt động
đạt kết quả tương đối toàn diện; Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã tích cực chỉ
đạo các Chi Cục thi hành án dân sự trên địa bàn phấn đấu hoàn thành các chỉ
tiêu, nhiệm vụ THADS, thi hành án hành chính được giao; Chỉ đạo công tác
xác minh, phân loại án tiếp tục được quan tâm chú trọng; Công tác theo dõi
thi hành án hành chính ngày càng đi vào nề nếp; Công tác phối hợp liên
ngành, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tiếp tục được củng cố;
Công tác kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã dần đem lại hiệu quả;
Công tác tiếp công dân được thực hiện nghiêm túc.
Thông qua kết quả công tác thi hành án dân sự cho thấy: Trình độ,
chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần, trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, tác phong,
lề lối làm việc của của đội ngũ cán bộ, công chức Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Phú Thọ đã được nâng cao. Tổ chức bộ máy của Cục và các Chi cục THADS
các huyện của tỉnh Phú Thọ tiếp tục được quan tâm củng cố, kiện toàn; kỷ
cương, kỷ luật hành chính không ngừng được tăng cường; cơ sở vật chất,
phương tiện làm việc của các cơ quan THADS tiếp tục được quan tâm.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả to lớn trên Cục Thi hành án Phú
Thọ vẫn còn có những hạn chế bất cập nhất định do những nguyên nhân
khách quan, nguyên nhân chủ quan mang lại.
Để phát huy những thành tích đã được, khắc phục những khuyết
điểm hạn chế về tổ chức và hoạt động đòi hỏi Cục Thi hành án tỉnh Phú
Thọ phải quán triệt các quan điểm và những giải pháp về tổ chức và hoạt
53
động nhất định.
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY
Bước vào thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
việc đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung
và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ nói riêng là một yêu cầu tất yếu
khách quan phù hợp với hoạt động cải cách bộ máy nhà nước và đòi hỏi của
thực tiễn. Do vậy, quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Phú Thọ cần bám sát những quan điểm, những định hướng cơ
bản mà Nghị quyết 48/ NQ- TW, Nhị quyết 49/ NQ- TW ngày 24/5/ 2005 của
Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng Khóa 11, 12 đã đề ra.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Cục Thi hành án dân sự và từ
thực tiễn tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ, việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và Cục Thi
hành án tỉnh Phú Thọ cần quán triệt quan điểm và thực hiện các giải pháp sau:
3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục thi hành án
dân sự cấp tỉnh
3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà
nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội và quyền làm chủ của nhân dân
Trong qua trình thực hiện quan điểm trên cần bám sát Cương lĩnh, Hiến
pháp, Điều lệ và các văn kiện của Đảng trong việc đổi mới, sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị; đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh
đốn Đảng; thực hiện đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị
54
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
3.1.2. Có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ
lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả
Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cần đảm bảo sự lãnh đạo tập
trung, thống nhất; thực hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có
trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả
trước mắt và lâu dài. Những việc đã rõ, cần thực hiện thì thực hiện ngay;
những việc mới, chưa được quy định, hoặc những việc đã có quy định nhưng
không còn phù hợp thì mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm vừa rút
kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không
nóng vội; những việc chưa rõ, phức tạp, nhạy cảm, còn có ý kiến khác nhau
thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để có chủ trương, giải pháp phù hợp.
3.1.3. Giữ vững các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và đề cao kỷ luật,
kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước
Thực hiện quan điểm trên phải thể hiện nghiêm túc thực hiện nguyên
tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ
máy, biên chế của hệ thống chính trị trong đó tất nhiên có hệ thống cơ quan
thi hành án dân sự. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của
Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng
cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá
nhân, nhất là người đứng đầu.
3.1.4. Bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hoà
giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển
Quán triệt và thực hiện quan điểm trê cần gắn đổi mới tổ chức bộ máy
với đổi mới phương thức lãnh đạo, tinh giản biên chế và cải cách chế độ tiền
lương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức; thu hút người có đức, có tài; bố trí đủ nguồn lực cần thiết và có cơ chế,
chính sách phù hợp đối với những người chịu tác động trực tiếp trong quá
55
trình sắp xếp.
3.1.5. Thực hiện nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc và một
việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính
Mô hình và quy mô tổ chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc
điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương và của hệ
thống các cơ quan tư pháp.
3.1.6. Cả hệ thống cơ quan thi hành án dân sự thống nhất nhận thức
và hành động, quyết tâm thực hiện tinh giản biên chế, nhưng không làm
ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, bảo đảm hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao cho các cơ quan thi hành án dân sự
Tinh giản biên chế đi đôi với cải cách tiền lương và đổi mới tổ chức bộ
máy của cả hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tỉ lệ
tinh giản biên chế được xác định theo từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, phù hợp
với thực tế số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của cơ
quan, đơn vị.
3.2. Các giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục
thi hành án dân sự cấp tỉnh
3.2.1. Giải pháp chung
3.2.1.1. Về pháp luật
- Hoàn thiện hệ hống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự về tổ
chức thi hành án dân sự
Thứ nhất, nâng cao vị thế, vai trò và trách nhiệm của cơ quan THADS.
Theo đó, trao mạnh hơn quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị cho hệ
thống THADS bằng các quy định về mở rộng chủ thể có quyền THADS quy
định ở Trung ương cũng có cơ quan THADS, nghĩa là trao quyền cho Tổng
cục THADS có thẩm quyền trực tiếp tổ chức THADS và bổ nhiệm Chấp hành
viên ở Tổng cục THADS để tiến hành thi hành án đối với những vụ việc có
56
giá trị rất lớn, có yếu tố nước ngoài, liên quan đến nhiều địa phương.
Thứ hai, đảm bảo sự chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền, sự phối hợp
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ chức và hoạt động THADS.
Quy định cụ thể về nghĩa vụ và chế tài xử lý đối với các cơ quan, tổ
chức có liên quan trong THADS khi không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ nghĩa vụ của mình trong thi hành án dân sự như Chính phủ, Bộ Tư
pháp, của Ủy ban nhân dân các cấp, của Kho bạc nhà nước, Ngân hàng, các tổ
chức tín dụng, Bảo hiểm xã hội, cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch
bảo đảm và cơ quan ra bản án, quyết định trong thi hành án.
Thứ ba, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên để kịp thời
trấn áp, xử lý hành vi chây ỳ, chống đối thi hành án
Tăng mức xử phạt vi phạm hành chính, quyền ra quyết định bắt giữ
người, khám xét địa điểm, phương tiện liên quan đến việc thi hành án dân sự
của Chấp hành viên. Mặt khác, cần quy định chức danh Thẩm phán thi hành
án để hỗ trợ Chấp hành viên trong THADS, trao cho Thẩm phán thi hành án
một số quyền hạn trong THADS, gắn kết chặt chẽ trách nhiệm, quyền hạn của
Tòa án trong THADS. Đồng thời, tăng cường vai trò, trách nhiệm của chính
quyền địa phương trong công tác THADS.
Thứ tư, cần bổ sung quy định về sự tham gia, mức độ tham gia và vai
trò của Luật sư trong hoạt động thi hành án dân sự để đảm bảo khách quan,
dân chủ, công khai, minh bạch hơn nữa trong thi hành án dân sự;
Thứ năm, đi đôi với việc sửa đổi Luật Thi hành án dân sự, cần sửa đổi,
bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan đến thi hành án dân sự.
Trong thời gian tới Quốc hội cần sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, Luật
Tố tụng dân sự, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội.v.v.v. Bên cạnh việc sửa
đối, bố sung, ban hành pháp luật còn phải rà soát để hủy bỏ, thay thế các văn
bản pháp luật đã lỗi thời hoặc chồng chéo, kể cả các văn bản quy phạm pháp
luật về công tác thi hành án dân sự của UBND tỉnh làm cho việc thực hiện
57
pháp luật trong thi hành án dân sự thuận lợi, thống nhất. Đây không chỉ là yêu
cầu mà còn là một giải pháp quan trọng tiếp tục đối mới tố chức và hoạt động
của Cục thi hành tỉnh
- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động Thi hành án
dân sự
Thứ nhất, Mở rộng phạm vi THADS đối với hợp đồng có công chứng,
chứng thực và biên bản hòa giải thành. Theo đó, bên có quyền được yêu cầu
thi hành theo thủ tục THADS đối với hợp đồng có công chứng hoặc chứng
thực, biên bản hòa giải thành mà khi hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ nhưng
bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện. Hợp đồng và biên bản hòa giải
thành nêu trên được thi hành theo thủ tục THADS thì cũng tương đồng với
pháp luật về THADS Việt Nam hiện nay là thi hành quyết định của Trọng tài
thương mại và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và cũng tương đối giống với
thi hành dân sự ở Nhật Bản.
Thứ hai, thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng thi hành các bản án, quyết
định và văn bản khác về dân sự theo quy định của pháp luật. Trong thời gian
tới Nhà nước phải hoàn thiện trình tự, thủ tục thi hành án với các giai đoạn,
các bước chặt chẽ, khuôn mẫu mang tính mực thước, từ khởi động đến tiến
hành, dừng, thay đổi và kết thúc tiến trình thi hành án. Trong đó cần sửa đổi
thời hạn thông báo thi hành án dân sự, thời hạn khởi kiện trong trường hợp
các biện pháp bảo đảm thi hành án, thời hạn thỏa thuận về giá, thẩm định giá,
thời hạn liên quan đến đấu giá các tài sản kê biên, thời hạn thông báo trong
trường hợp người được thi hành án nhận tài sản để trừ vào tiền thi hành án.
Quy định cụ thể các biện pháp hỗ trợ THADS, như chế tài nghiêm khắc
hơn đối với hành vi vi phạm THADS. Thủ tục buộc người phải thi hành án
tập trung lao động bắt buộc và tính toán tiền công cho phạm nhân khi họ tập
trung cải tạo. Cơ chế ưu tiên cho người bị cưỡng chế giao nhà, trả nhà không
có nơi ở được mua, thuê nhà ở xã hội. Hợp tác quốc tế về THADS.
58
Thứ ba, Luật Thi hành án dân sự cần có điều luật quy định cụ thể về tài
sản chung bị cưỡng chế kê biên để thi hành án. Quy định cụ thể về tài sản
chung bị cưỡng chế bao gồm những loại tài sản nào và quy định rõ ràng và cụ
thể hơn về tiêu chí xác định các loại tài sản chung. Cần quy định người có tài
sản sở hữu chung với người phải THA không phải là người có quyền lợi và
nghĩa vụ trong bản án, quyết định đang được tổ chức THA. Có hướng dẫn cụ
thể về việc xử lý kê biên với tài sản chung không chia được và tài sản chung
chia được nhưng không làm giảm giá trị của tài sản và ảnh hưởng tới quyền
sở hữu chung của các chủ thể khác. Trình tự, thủ tục, thời hạn trong việc bán
tài sản, ưu tiên mua lại phần tài sản phải thi hành án của chủ sở hữu chung
cũng cần được quy định theo hướng ngắn gọn và phù hợp với thực tiễn.
Thứ tư, hoàn thiện các quy định về ứng dụng công nghệ thông tin
trong THADS. Theo đó, quy định hình thức thông báo về thi hành án trên
phương tiện thông tin điện tử (Cổng, Trang, Báo điện tử), kể cả mạng xã
hội của cơ quan thi hành án tạo lập như: Cơ chế thu chi, thanh toán tiền thi
hành án bằng giao dịch điện tử; hiệu lực của văn bản sử dụng chữ ký số đối
với cá nhân, tổ chức ngoài cơ quan thi hành án. Kết nối liên thông chia sẻ
thông tin, dữ liệu điện tử giữa các cơ quan, tổ chức, nhất là Tòa án, Ngân
hàng với cơ quan THADS. Sử dụng hồ sơ thi hành án điện tử; tăng cường
các phần mềm; xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về THADS. Chấp hành viên
và các cơ quan thi hành án dân sự phải nắm vững và sử dụng thành thục
các ứng dụng công nghệ thông tin trong thực thi nhiệm vụ quyền hạn được
giao theo quy định pháp luật.
3.2.1.2. Xác định rõ các nhiệm vụ chủ yếu theo từng giai đoạn để tổ
chức thi hành án dân sự
Nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2021-2030
- Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Hệ thống thi hành án
dân sự.
59
- Kiện toàn cơ cấu tổ chức của Hệ thống Thi hành án dân sự
- Sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức bên trong của các Cục theo tiêu chí
Tổng cục Thi hành án dân sự đã xây dựng, ban hành.
- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp .
Nhiệm vụ trọng tâm của Kế hoạch 5 năm 2021-2025
- Triển khai đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính của Hệ thống
Thi hành án dân sự theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số
56/2017/QH14, Kết luận số 34-KL/TW, Luật Thi hành án dân sự và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
- Hoàn thiện các quy định về tiêu chí thành lập tổ chức, biên chế tối
thiểu và số lượng cấp phó tối đa trong các cơ quan thi hành án dân sự.
- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp.
3.2.1.3. Xác định rõ các nội dung chủ yếu về hoạt động của Hệ thống
thi hành án dân sự
Nội dung hoạt động cơ quan thi hành án dân sự luôn được thể hiện sâu
sắc trong các Nghị quyết của Đảng, trong Hiến pháp, Nghị quyết của Quốc Hội
và của Chính Phủ, đặc biệt từ Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, XI, XII.
Trong thời gian gần đây thì Nghị quyết 18-NQ/TƯ ngày 25/10/2017 của Hội
nghị Trung ương 6 khóa 12 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của
hệ thống chính trị tinh gọn hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết
53/2017/QH14 ngày 24/11/2017 về tiếp tục cải cách bộ máy hành chính nhà
nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011
về cải cách hành chính nhà nước (được sửa đổi bổ sung bởi Nghị quyết
76/NQ-CP ngày 13/6/2013) của Chính phủ đã chỉ rõ nội dung đổi mới hoạt
động của ngành Thi hành án dân sự gồm những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới thể chế về hoạt động thi hành án dân sự đặc
biệt là hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện. Trong
đó, tiếp tục tập trung sửa đổi Luật Thi hành án dân sự 2008, Luật Phòng
60
chống tham nhũng, Luật Khiếu nại, Luật Tiếp công dân… và ban hành các
Nghị định của Chính phủ qui định chi tiết hướng dẫn thi hành các Luật này
sau khi được Quốc hội thông qua, vì đây là các văn bản qui định về tổ chức,
hoạt động của bộ máy thi hành án dân sự. Thực tiễn thực hiện các văn bản
pháp luật này trong những năm qua thấy rằng còn nhiều vấn đề chưa phù hợp,
thiếu tính đồng bộ, thống nhất, gây khó khăn, ách tắc thậm chí cản trở trong tổ
chức và hoạt động của ngành Thi hành án dân sự bao gồm các cơ quan thi
hành án dân sự từ trung ương tới địa phương, do vậy đòi hỏi phải luôn đổi
mới một cách triệt để.
Thứ hai, đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan Thi hành án
dân sự cấp tỉnh và cơ quan thi hành án cấp huyện với các nội dung chủ yếu:
Hàng năm các cơ quan này phải ban hành kế hoạch công tác hàng năm trên cơ
sở các chỉ tiêu kế hoạch được giao phù hợp với thực tế ở địa phương để làm
căn cứ triển khai thống nhất kịp thời toàn diện các mặt công tác. Căn cứ
hướng dẫn của Tổng cục thi hành án dân sự, Lãnh đạo Cục, Chi Cục chủ động
quyết liệt chỉ đạo điều hành, kịp thời phát hiện tháo gỡ khó khăn vườn mắc
trong thi hành án cũng như uốn nắn chấn chỉnh các vi phạm trong thi hành án
của Chấp hành viên và xử lý các vi phạm pháp luật về THADS của đối tượng
thi hành án. Thực hiện giao chỉ tiêu THA cho từng Chấp hành viên.
Thứ ba, tăng cường phối hợp liên ngành với các cơ quan hữu quan như
Tòa án, Viện kiểm sát, Bảo hiểm xã hội, Ngân hàng, Trung tâm đấu giá, Tài
nguyên- Môi trường…thông qua việc xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp
qua đó phát huy hiệu quả thi hành án và tháo gỡ khó khăn vướng mắc, nâng
cao hiệu quả thi hành án dân sự.
Thứ tư, thường xuyên báo cáo, đề nghị cấp ủy, chính quyền và BCĐ
THADS các cấp quan tâm tháo gỡ khó khăn trong THADS nhất là về công tác
tổ chức cán bộ, hoạt động chỉ đạo giải quyết các vụ án lớn, phức tạp, kéo dài.
Thứ năm, nội dung, hình thức tuyên truyền phổ biến GDPL nói
61
chung và PL về THADS phải có sự thay đổi hợp lý để nâng cao ý thức
pháp luật cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng thi hành án dân sự
trong đó chú trọng vận động, giáo dục, thuyết phục giảm tối đa cưỡng chế
thi hành án dân sự.
Thứ sáu, làm tốt hơn nữa công tác tiếp dân giải quyết khiếu nại tố cáo
về THADS trên cơ sở thực hiện đúng pháp luật, sâu sát tôn, trọng, lắng nghe
thấu hiểu người dân về thi hành án dân sự.
3.2.2. Giải pháp cụ thể đổi mới tổ chức, hoạt động đối với Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Phú Thọ
Đi đôi với thực hiện đồng bộ các giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động
chung đối với Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh trên đây, trong thời gian tới
Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ cần thực hiện tốt các giải pháp đổi mới tổ
chức và hoạt động cụ thể sau đây:
3.2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền trong
tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành án tỉnh và các Chi cục Thi hành án
huyện
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành án dân sự
là hoàn toàn phù họp với chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
thi hành án và phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước ta được quy định tại Hiến pháp 2013. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy
đảng và chính quyền của tỉnh có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của công tác thi hành án dân sự nói chung và hoạt động của Cục
Thi hành án tỉnh nói riêng. Do vậy, trách nhiệm của Đảng và Chính quyền
các cấp ở tỉnh phải trực tiếp kiểm tra, thanh tra và lãnh đạo, chỉ đạo công tác
thi hành án dân sự. Thực tế trong những năm qua ở các tỉnh Phú Thọ đã làm
sáng tỏ vấn đề này, đó là: Cục Thi hành án dân sự tỉnh chỉ hoàn thành tốt
nhiệm vụ khi có sự lãnh đạo, kiểm tra thường xuyên của Tỉnh ủy, UBND
tỉnh. Mặt khác, Tỉnh ủy và các cấp ủy đảng ở tỉnh phải thường xuyên quan
62
tâm, giúp đỡ và yêu cầu Cục Thi hành án dân sự tỉnh làm tròn nhiệm vụ.
Hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh là để phục vụ sự lãnh đạo của
Tỉnh ủy và sự quản lý của Nhà nước của UBND tỉnh về công tác thi hành án
dân sự. Sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh đối với Cục Thi hành án
dân sự tỉnh phải được thể hiện ở việc tăng cường cán bộ cả về số lượng, chất
lượng và củng cố tổ chức của các cơ quan thi hành án dân sự đặc biệt là Cục
Thi hành án dân sự tỉnh và các Chi cục Thi hành án dân sự ở cấp huyện.
Tỉnh ủy, UBND tỉnh phải quan tâm đến việc thực hiện thi hành án dân sự và
chỉ đạo thực hiện kiến nghị của Cục Thi hành án dân sự tỉnh. Hiệu lực, hiệu
quả của Cục Thi hành án dân sự tỉnh phụ thuộc rất nhiều vào việc Tỉnh ủy,
UBND tỉnh có quan tâm, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự và các kiến
nghị của Cục Thi hành án dân sự tỉnh về công tác thi hành án dân sự hay
không. Nếu như các kế hoạch công tác, các kiến nghị của Cục Thi hành án
dân sự tỉnh không được các cấp ủy và chính quyền các cấp quan tâm, giải
quyết thì vai trò của Cục Thi hành án dân sự tỉnh bị ảnh hưởng, uy tín của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh cũng sẽ giảm sút và nói chung hoạt động của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh sẽ kém hiệu lực và hiệu quả.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành án dân sự
còn đòi hỏi chính sự tăng cường lãnh đạo của Chi bộ Cục Thi hành án dân sự
tỉnh, Đảng ủy khối cơ quan tỉnh. Việc Chi bộ Cục Thi hành án dân sự tỉnh làm
tốt công tác chính trị tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra
giám sát và công tác dân vận trong cơ quan là nhân tố giữ vai trò cực kỳ quan
trọng trong việc tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh các biện pháp lãnh đạo,
chỉ đạo công tác thi hành án dân sự trong toàn tỉnh, đảm bảo thắng lợi các
hoạt động thi hành án dân sự đặc biệt các cuộc cưỡng chế thi hành án dân sự
do Cục Thi hành án dân sự tỉnh tiến hành cũng như công tác thẩm tra, xác
minh chính xác các vụ việc thi hành án dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Đây
là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của
63
Cục thi hành án dân sự tỉnh. Đảm bảo và coi trọng sự lãnh đạo của Chi bộ
đảng tại các Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thành, thị rất quan trọng
làm trong sạch tổ chức, nâng cao chất lượng Chấp hành viên, công chức và
hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự. Việc để xảy ra vi phạm pháp luật
nghiêm trọng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì là minh
chứng cho nhận định này.
3.2.1.2. Đổi mới mạnh mẽ tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của
Cục Thi hành án tỉnh và các Chi cục Thi hành án ở các huyện, thị
Để thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ này, Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Phú Thọ phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, điều động, luân chuyển,
chuyển đổi vị trí công tác cán bộ theo chủ trương chung của ngành; đảm bảo
thực hiện hiệu quả công tác tổ chức cán bộ, trong đó có việc kiện toàn tổ chức
bộ máy, đội ngũ công chức đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng; chú trọng
nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, công
tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; khắc phục những vi phạm thiếu sót, những sai
sót về chuyên môn, nghiệp vụ; chủ động xử lý kịp thời, đúng luật các vụ việc
khiếu nại, tố cáo của công dân, hạn chế xảy ra các trường hợp khiếu nại,
khiếu kiện vượt cấp làm phức tạp tình hình.
Về tổ chức, theo chúng tôi Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ cần
bổ nhiệm đủ số công chức lãnh đạo của các Phòng chuyên môn đang còn
thiếu là Văn phòng và Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án đồng thời
tích cực đề nghị Tổng cục Thi hành án dân sự bổ sung biên chế cho Cục và
các Chi cục ở các huyện miền núi.
Về hoạt động cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cải cách thủ tục
hành chính và áp dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong công tác thi
hành án dân sự và xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khi tiến hành thi hành
án dân sự cần phải coi trọng và đặt lên hàng đầu vấn đề chất lượng, hiệu quả
thi hành án phải đảm bảo các nguyên tắc của luật thi hành án dân sự đó là:
64
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định; Nguyên tắc bảo
đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự; Nguyên tắc bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự và người có quyền, nghĩa vụ liên quan;
Nguyên tắc trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong thi hành án dân sự; Nguyên
tắc kết hợp biện pháp tự nguyện và cưỡng chế thi hành án; Nguyên tắc trách
nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và cơ quan thi hành án dân
sự và chấp hành viên; Nguyên tắc thoả thuận thi hành án dân sự; Nguyên tắc
tiếng nói, chữ viết dùng trong thi hành án dân sự; Nguyên tắc giám sát hoạt
động thi hành án dân sự; Nguyên tắc kiểm soát hoạt động thi hành án dân sự.
Việc thi hành án dân sự phải tuân thủ những quy định pháp luật trong
quá trình đảm bảo tính độc lập, nghiêm túc, không ai được can thiệp làm lung
lạc ý chí của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên khi đang làm nhiệm
vụ thi hành án. Mặt khác, thủ trưởng cơ quan thi hành án án sự, bản thân
Chấp hành viên và các công chức thi hành án dân sự phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật trong việc thi hành án nên họ phải rèn luyện ý chí và bản lĩnh
thì mới có thể thực hiện tốt công vụ được giao. Có như vậy mới đảm bảo hiệu
lực về thi hành án dân sự, ngăn chặn được những vi phạm làm vô hiệu hóa
hoạt động thi hành án dân sự nhất là trong cưỡng chế thi hành án. Hoạt động
thi hành án dân sự còn phải bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, kịp
thời, công khai, dân chủ, không làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ
quan, tổ chức, cá nhân là đương sự trong thi hành án dân sự. Trong hoạt động
thi hành án dân sự, chỉ khi nào thực hiện đầy đủ và đúng nguyên tắc trong
Luật Thi hành án dân sự thì mới có thể đảm bảo hiệu lực, hiệu quả. Hoạt động
thi hành án dân sự phải tuân thủ trình tự do pháp luật thi hành án dân sự quy
định từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Trong thời gian vừa qua ở tỉnh Phú Thọ
do Chấp hành viên chưa quán triệt nghiêm túc, triệt để nguyên tắc trong Luật
Thi hành án dân sự nên có cuộc thi hành án dân sự thất bại và không quy
trách nhiệm cụ thể. Khi tiến hành thi hành án dân sự lập kế hoạch, chương
65
trình chi tiết cụ thể. Trong hoạt động thi hành án dân sự phải sử dụng đúng
quyền hạn được pháp luật quy định, không được lạm quyền, vượt quyền làm
sai lệch kết quả bóp méo sự việc, v.v.
Tiến hành thi hành án dân sự cần có trọng tâm, trọng điểm, nhanh
gọn, chính xác, tập trung vào những bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật nổi cộm, bức xúc được dư luận xã hội quan tâm như về
đất đai, thu hồi nợ, tài sản, tiền trong các vụ án tham nhũng để vừa góp
phần làm ổn định tình hình, vừa kịp thời xử lý những sai phạm; phát hiện,
đề xuất sửa đổi những vướng mắc, bất cập, góp phần hoàn thiện cơ chế,
pháp luật thi hành án dân sự. Các vi phạm trong thi hành án dân sự phải
được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời xử lý và tổ chức thực
hiện một cách kiên quyết triệt để.
Trong thực hiện chức năng, quyền hạn của mình, Cục Thi hành án tỉnh
Phú Thọ cần mở rộng dân chủ, tăng cường đối thoại trong công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Thường xuyên tăng cường kiểm tra, giám sát, chỉ
đạo Chấp hành viên thực hiện đúng trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm
quá trình tổ chức thi hành án tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật về
thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan, hạn chế thấp nhất
những vi phạm xảy ra trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định
của Tòa án kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp công chức có
hành vi sai phạm; đối với các hành vi sai phạm có dấu hiệu tội phạm đề nghị
chuyển cơ quan điều tra xử lý nghiêm.
3.2.1.3. Đổi mới việc đẩy mạnh công tác xây dựng, đào tạo đội ngũ cán
bộ công chức thi hành án dân sự
Như Bác Hồ đã dạy, mọi chủ trương, chính sách dù hay, suy cho cùng
việc thực hiện vẫn do con người quyết định. Công tác thi hành án dân sự là
loại công tác khó khăn và phức tạp. Vì vậy, nó đòi hỏi người cán bộ làm công
tác thi hành án dân sự phải vừa có bản lĩnh chính trị vững vàng, vừa có trình
66
độ chuyên môn nghiệp vụ cao, lại phải có lòng nhiệt tình, yêu nghề, vừa tận
tụy và có tinh thần trách nhiệm trong công việc, dũng cảm đấu tranh chống
mọi biểu hiện tiêu cực, bảo vệ chân lý, lẽ phải.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ công tác thi hành án dân sự trong tình hình
mới, việc tiếp tục củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thi hành án nói
chung, đội ngũ cán bộ, công chức ở Cục thi hành án tỉnh Phú Thọ nói riêng là
một yêu cầu, đòi hỏi bức thiết.
Trong thời gian tới, trước hết cấp ủy, chính quyền tỉnh, Cục Thi hành
án dân sự tỉnh Phú Thọ phải tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo
dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, pháp luật thi
hành án dân sự cho đội ngũ cán bộ công chức trong ngành và toàn xã hội.
Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn
với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy
mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; biểu
dương, khen thưởng kịp thời đối với những tổ chức, cá nhân có thành tích trong
công tác thi hành án dân sự, đấu tranh phòng chống tham nhũng.
Cục Thi hành án dân sự cần tích cực, chủ động phối hợp với các cơ
quan báo chí, Đài Phát thanh và Truyền hình, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
đoàn thể các cấp tiếp tục tổ chức triển khai tốt việc tuyên truyền, phổ biến
giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng cho
các tổ chức, cá nhân và nhân dân, trong đó cần tập trung tuyên truyền giáo
dục về quyền, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân là đối tượng phải thi hành án
dân sự; quyền và trách nhiệm của các Cơ quan Thi hành án dân sự. Trong
tuyên truyền phổ biến và giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự cũng cần
chú trọng đến các đối tượng là cán bộ, công chức, trong đó có cán bộ chủ chốt
các cấp, các ngành thông qua các hội nghị, toạ đàm, trao đổi công tác, nghiệp
67
vụ nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, người đứng
đầu cơ quan, đơn vị, công chức và người lao động về công tác thi hành án dân
sự, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong thi hành án dân sự.
Ngoài ra cũng cần chú ý đến việc tuyên truyền để nhân dân tham gia thực
hiện việc giám sát phản ánh tới các cơ quan có thẩm quyền các vi phạm trong
hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự và việc thực hiện các quyết định
xử lý về thi hành án dân sự.
Cùng với tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền
phổ biến, giáo dục pháp luật thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Phú Thọ đổi mới mạnh mẽ nhận thức về xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ
công chức, phải nâng cao chất lượng cán bộ thông qua việc tiêu chuẩn hóa đội
ngũ Chấp hành viên và các chức danh khác trong hoạt động thi hành án dân
sự gắn với thực tiễn ở Phú Thọ.
Trước hết, đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự nói chung và Cục Thi
hành án tỉnh Phú Thọ nói riêng phải có phẩm chất của cán bộ thi hành án dân
sự phải thấm nhuần và luôn trung thành với mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", phải có bản lĩnh chính trị vững vàng,
luôn đặt lợi ích nhà nước và lợi ích nhân dân lên trên hết, từ đó khi thực hiện
công vụ phải đối mặt với nhiều khó khăn như: tác động từ gia đình, bạn bè
cũng như có thể có những cám dỗ tiêu cực đến từ đối tượng phải thi hành án
đòi hỏi cán bộ thi hành án dân sự phải có bản lĩnh, dũng cảm vượt qua. Nếu
không có được những phẩm chất đó, họ sẽ bị mua chuộc, sa ngã, không hoàn
thành nhiệm vụ hoặc thậm chí vi phạm pháp luật. Người cán bộ thi hành án
dân sự phải có phong cách làm việc tốt, phải coi trọng và luôn ứng xử theo
tiêu chuẩn, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đồng thời họ phải có
lối sống lành mạnh, tư cách trong sáng, thực sự là tấm gương trong công việc
và trong cuộc sống đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cán bộ là công
bộc, là đầy tớ của nhân dân "…. Cùng với việc rèn luyện phẩm chất, cán bộ
68
thi hành án dân sự còn phải rèn luyện và nâng cao kĩ năng thi hành án; họ
phải được đào tạo cơ bản về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, khoa học, kỹ
thuật, tinh thông về nghiệp vụ, có kĩ năng cơ bản chuyên sâu về lĩnh vực thi
hành án dân sự và có thời gian thử thách trong thực tế hoạt động thi hành án
dân sự; họ phải có kỹ năng pháp lí, am hiểu pháp luật, biết khai thác và áp
dụng pháp luật trên cơ sở biết phân tích, tổng hợp, bao quát vấn đề và luôn
chủ động linh hoạt sáng tạo trong áp dụng pháp luật. Chấp hành viên phải coi
trọng việc tự bồi dưỡng, tự đào tạo ngay trong quá trình thực thi nhiệm vụ
được giao, nhằm không ngừng nâng cao nghiệp vụ mọi mặt của bản thân.
Từ những yêu cầu đó, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ cần củng
cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy theo quy định của pháp luật về thi hành án dân
sự nhằm xác định rõ vị trí cho các tổ chức trong Cục Thi hành án dân sự tỉnh
Phú Thọ, đảm bảo về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng, tạo điều kiện
để thực hiện tốt chức năng tham mưu giúp lãnh đạo Cục và UBND tỉnh thực
hiện tốt công tác thi hành án dân sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng trong công tác quản lý, công tác thi hành án dân sự trên địa
bàn.
Trên cơ sở bộ máy đã được xác định, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú
Thọ cần rà soát lại số cán bộ công chức hiện có để bố trí công việc cho từng
người một cách khách quan, hợp lý đi đôi với việc tiếp tục tăng cường công
tác thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kinh nghiệm cho họ, nhất là
về kỹ năng tác nghiệp, kỹ năng tham mưu, nâng cao bản lĩnh trong việc thi
hành án dân sự và ra quyết định xử lý trong thi hành án dân sự đối với tổ chức
cá nhân vi phạm; tiến hành tuyển chọn để đề nghị bổ nhiệm các chức danh
lãnh đạo quản lý, Chấp hành viên và các chức danh, chức vụ khác theo quy
hoạch được phê duyệt đảm bảo đúng theo tiêu chuẩn, đúng quy trình, khách
quan dân chủ, từng bước thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ công chức thi hành
án dân sự cho phù hợp với cơ sở kinh tế và trình độ dân trí của tỉnh Phú Thọ.
69
Đổi mới công tác đánh giá cán bộ hàng năm, nâng cao tinh thần tự phê bình
và phê bình, đánh giá trên cơ sở chú trọng đến kết quả, hiệu quả công việc
được giao, coi trọng công tác thi đua, khen thưởng, khen thưởng kịp thời các
tổ chức, cá nhân có thành tích và xử lý nghiêm các tổ chức cá nhân có vi
phạm, coi việc sơ tổng kết hàng năm để chỉ rõ những tồn tại, hạn chế và đề ra
các biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác. Cục cần tích cực
đè nghị Tổng cục thi hành án dân sự bổ sung đủ biên chế để đảm bảo thực
hiện nhiệm vụ được giao được xác định trên cơ sở vị trí việc làm, gắn với
chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động.
Đối với Chấp hành viên: Cần trau dồi, nâng cao năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và các
văn bản pháp luật có liên quan trong việc ban hành các quyết định và tổ chức
thi hành án; đề cao trách nhiệm cá nhân trong thực thi công vụ để bảo đảm
việc ra hoặc không ra các quyết định thi hành án, tổ chức hoặc không tổ chức
thi hành các quyết định về thi hành án luôn đúng quy định pháp luật. Quá
trình tổ chức thi hành án, phải kịp thời báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo, hướng
dẫn nghiệp vụ đối với những vụ việc có khó khăn, vướng mắc phát sinh.
Trên cơ sở xem xét tính chất đặc thù của công tác thi hành án dân sự và
thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ công chức hiện nay, chúng tôi tin rằng
trong thời gian trước mắt, cán bộ, công chức Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú
Thọ sẽ hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ quyền hạn do pháp luật quy định
góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Phú Thọ.
3.2.1.4. Đổi mới công tác thi đua khen thưởng
Công tác thi đua khen thưởng đóng một vai trò rất quan trọng trong
việc thúc đẩy, tạo nên động lực, khí thế để các cán cộ, công chức, các đơn vị
Thi hành án dân sự nỗ lực, quyết tâm hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ được
giao. Chính vì vậy, có thể xem đây là “Công cụ” cơ bản nhằm tạo “Đòn bẩy”
cơ bản để đẩy nhanh tiến độ giải quyết án tồn đọng. Để làm được điều đó,
70
Cục Thi hành án dân sự tỉnh và các Chi cục Thi hành án dân sự trong toàn
tỉnh cần làm tốt công tác thi đua khen thưởng nói chung và công tác thi đua
khen thưởng về giảm án tồn đọng nói riêng, cụ thể:
- Phải đảm bảo công tác thi đua khen thưởng thật sự mang tính thực
chất, biểu dương, ghi nhận những tập thể, cá nhân đã có nhiều nỗ lực, cố
gắng, đạt được nhiều thành tích quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ,
đồng thời cần nghiêm khắc phê bình, xử lý kỷ luật bằng hình thức thích hợp
những đơn vị, cá nhân chưa làm tốt vai trò của mình, chưa phát huy tốt tinh
thần trách nhiệm dẫn đến ăn tồn đọng, kéo dài, làm ảnh hưởng đến quyền lợi
hợp pháp của đương sự, khiến dư luận bức xúc nảy sinh khiếu kiện, khiếu nại
về thi hành án dân sự;
- Đưa chỉ tiêu “Thi hành án” hiệu quả trở thành tiêu chí quan trọng để
bình xét thi đua khen thưởng cuối năm nhằm tạo động lực thúc đẩy các cơ
quan Thi hành án dân sự, các cán bộ, công chức của Ngành nỗ lực, cố gắng
hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ được giao;
- Tổ chức phát động phong trào thi đua giảm án tồn đọng theo từng giai
đoạn cụ thể, mỗi năm có thể tổ chức từ 1-2 đợt để góp phần tạo nên những
hiệu ứng tốt về tư tưởng, tinh thần, đẩy nhanh kết quả giải quyết án tồn đọng.
Trên cơ sở đó cần chú trọng biểu dương, khen thưởng, nhân rộng những điển
hỉnh tiên tiến, những cách làm hay để các đơn vị học tập, noi theo, đồng thời
nên xây dựng danh hiệu “Lá cờ đầu” về công tác giảm án tồn đọng theo từng
năm để các đơn vị cố gắng phấn đấu đạt được danh hiệu này. Động lực thi
đua sẽ là yếu tố thúc đẩy hết sức cơ bản để công tác giải quyết án tồn đọng đạt
được kết quả mong đợi.
3.2.1.5. Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và tăng
cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động thi hành án dân sự
Trong điều kiện ngày nay, khi mà tri thức, thông tin, công nghệ đã trở
thành mũi nhọn, xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội thì
71
việc nắm bắt, ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật trở thành yếu tố có
ý nghĩa quyết định không chỉ đối với hoạt động thi hành án dân sự mà đối với
toàn bộ hoạt động quản lý nói chung. Việc đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu
khoa học kỹ thuật ở Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ là một việc làm có
ý nghĩa rất lớn và xuất phát từ những yêu cầu cụ thể sau:
Phạm vi hoạt động thi hành án dân sự trên địa giới rộng giao thông đi
lại khó khăn; nội dung thi hành án dân sự đa dạng, phức tạp, số vụ việc ngày
càng tăng bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; đối tượng
phải thi hành án dân sự ngày càng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt
và phương tiện hiện đại để trốn tránh thi hành án thậm trí chống đối trong thi
hành án dân sự. Do vậy hoạt động thi hành án dân sự luôn đòi hỏi người cán
bộ, Chấp hành viên không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng mà còn phải
tinh thông về nghiệp vụ về kiến thức pháp luật, có trình độ khoa học, kỹ thuật,
đủ khả năng ứng dụng tri thức khoa học hoặc sử dụng những phương tiện,
thiết bị kỹ thuật hiện đại vào giải quyết những vấn đề mà thực tiễn hoạt động
thi hành án dân sự đặt ra.
Yêu cầu của hoạt động thi hành án dân sự là phải có tính nhanh nhạy,
chính xác, khách quan. Hồ sơ, tài liệu thi hành án dân sự phải được lưu trữ,
bảo vệ một cách khoa học, vừa an toàn, bí mật, vừa dễ tra cứu, sử dụng. Hệ
thống thông tin phải thông suốt, đầy đủ, trung thực, kịp thời phục vụ yêu cầu
quản lý và sự chỉ đạo điều hành của lãnh đạo các cấp. Vì vậy, việc ứng dụng
các thành tựu của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công
nghệ số chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác thi
hành án dân sự, phục vụ tốt hơn yêu cầu của công tác quản lý.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động thi
hành án dân sự là giải pháp quan trọng nhằm tiếp tục đổi mới hoạt động của
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ. Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị
là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Cục Thi
72
hành án dân sự tỉnh Phú Thọ, trong khi đó cơ sở vật chất, trang thiết bị hiên
nay còn thiếu và thô sơ, lạc hậu vì vậy để góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của các của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ trong
thời gian tới thì một trong những giải pháp quan trọng là cần tập trung xây
dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc hiện đại, phù
hợp cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ, cụ thể:
- Về phương tiện, điều kiện làm việc: Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất,
trang thiết bị phục vụ cho hoạt động thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng, chống tham nhũng trong thi hành án dân sự tại Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Phú Thọ; đầu tư kinh phí mua sắm trang thiết bị chuyên dùng,
thiết bị phục vụ cho Chấp hành viên, Thẩm tra viên.., trong thực thi công vụ
như: máy tính xách tay, máy ảnh, máy ghi âm; Trang bị máy Scanner có cấu
hình cao, quét 02 mặt tự động, tốc độ cao để phục vụ vận hành, phần mềm tác
nghiệp “Hồ sơ công việc” (eOffice). Cần mua sắm, trang bị máy tính để bàn và
máy in không kết nối mạng Internet cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ
để soạn thảo, in ấn, lưu trữ tài liệu Mật theo quy định tại Thông tư số
08/2015/TT- BCA ngày 27/01/2015 của Bộ Công an quy định Danh mục bí
mật nhà nước độ Mật trong ngành Thi hành án. Đầu tư mua sắm trang thiết bị
số hóa dữ liệu hồ sơ thi hành án dân sự thông suốt từ Cục Thi hành án tỉnh Phú
Thọ đến các Chi Cục thi hành án dân sự các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh
Về kinh phí đảm bảo hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú
Thọ hàng năm: Ngoài kinh phí được phân bổ theo định mức chung của ngành
do Tổng Cục thi hành án dân sự cấp Sở Tài chính cần tính toán tham mưu để
bổ sung kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của thi hành án dân sự theo quy định
của Luật Ngân sách nhà nước; Luật Thi hành án dân sự. Bố trí hỗ trợ kinh phí
hàng năm cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh từ nguồn kinh phí được trích qua
sai phạm đã thu hồi của các cơ quan Thi hành án dân sự theo quy định của Bộ
Tài chính để công tác giảm án tồn đọng trong thời gian tới đạt kết quả cao,
73
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự thì việc áp
dụng một cách quyết liệt, đồng bộ, khoa học, có hệ thống các giải pháp nêu
trên là hết sức cần thiết. Bởi vì thực tiễn cho thấy bản án, quyết định của Tòa
án được tổ chức thi hành án nghiêm túc sẽ có ý nghĩa đối với đời sống xã hội
và đây cũng là minh chứng quan trọng nhất thể hiện các cơ quan Tư pháp đã
hoàn thành chức năng nhiệm vụ được giao, điều này sẽ tạo nên dư luận xã hội
tốt, làm cho uy tín quản lý điều hành của Nhà nước ngày càng được nâng cao
hơn, góp phần phấn đấu hoàn thiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tiểu kết chương 3
Trong quá trình phát triển, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đã góp
phần quan trọng trong những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Trong những năm qua, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã có những đổi mới
trong tổ chức và hoạt động và đạt kết quả tương đối toàn diện trên các mặt
công tác. Tuy vậy, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ vẫn còn những hạn
chế, bất cập. Trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam và thực
hiện quá trình cải cách hành chính nhà nước đòi hỏi Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Phú Thọ phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cả về tổ chức và hoạt động
thông qua một số giải pháp tổ chức và hoạt động là: Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác thi hành án dân sự; Hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật về thi hành án dân sự; Sắp xếp lại cơ cấu tổ chức một cách hợp lý,
phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính nhà nước và thực tế ở địa phương;
Xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ công chức; Ứng dụng các thành tựu khoa
học kỹ thuật công nghệ thông tin, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị vào
74
hoạt động thi hành án dân sự;
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự; sau khi khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động
của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ, tác giả luận văn xin đưa ra một số
kết luận như sau:
1. Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính- tư pháp của Nhà nước
do cơ quan thi hành án tiến hành theo trình tự thủ tục luật định nhằm đảm bảo
thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định của các
cơ quan có thẩm quyền. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi hành án
dân sự đồng thời đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự, giải quyết
khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng trong thi hành án dân sự là hết sức
cần thiết, là biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước;
hoàn thiện thể chế pháp luật và cơ chế quản lý về thi hành án dân sự.
Cùng với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,
tổ chức của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ ngày càng được củng cố và
hoàn thiện. Hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đã góp phần
xứng đáng vào việc bảo vệ chế độ, giữ gìn trật tự kỷ cương, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ quyền tự do dân chủ và
đảm đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đặc biệt là người được thi
hành án dân sự.
2. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong tổ chức và
hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung và Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Phú Thọ nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như: cơ cấu tổ
chức chưa hợp lý, tổ chức thi hành án dân sự đạt tỷ lệ chung toàn tỉnh chưa
hoàn thành kế hoạch được giao, một bộ phận cán bộ công chức nghiệp vụ
chuyên môn và bản lĩnh nghề nghiệp chưa vững vàng còn vi phạm pháp luật
75
trong thực thi công vụ... Từ thực trạng trên, tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ cần phải đổi mới đáp ứng
yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và cải cách bộ máy nhà nước
đang là một yêu cầu khách quan, là đòi hỏi hết sức bức xúc phải giải quyết.
3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú
Thọ cần phải gắn liền với đổi mới hoạt động của toàn ngành thi hành án dân
sự và quá trình cải cách hành chính đang được thực hiện tại tỉnh Phú Thọ trên
cơ sở học tập, kế thừa những yếu tố hợp lý, những kinh nghiệm hay về tổ
chức và hoạt động của các tỉnh trong cả nước.
Một số quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục
Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ mà tác giả đưa ra được thực hiện đồng bộ sẽ
bảo đảm Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ nâng cao chất lượng tổ chức và
hoạt động đáp ứng yêu cầu đổi mới và phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế-
xã hội của đất nước đồng thời để tỉnh Phú Thọ sớm trở thành một trong những
76
tỉnh giàu có, văn minh xứng đáng là vùng đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam./.
1.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hoàng Thế Anh (2015), Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
2.
nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Công Bình (1998), “Mấy vấn đề về thi hành án dân sự trong
3.
việc soạn thảo Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật học, số (05).
Nguyễn Công Bình (2000), “Một số ý kiến về thi hành án dân sự”, Hội
4.
thảo khoa học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo số 63/BC-BTP ngày 13/3/2014 tổng kết 4
5.
năm thi hành Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
Hồ Quân Chính (2014), "Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch
cưỡng chế thi hành án dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số
6.
chuyên đề về thi hành án dân sự), (33).
Chính phủ (2008), Tờ trình số 31/TTr-CP ngày 04/04/2008 về dự án
7.
Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
Chính phủ (2012), Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại
Việt Nam, Bản dịch tài liệu hội thảo, Chính phủ Việt Nam - Chương
8.
trình Phát triển Liên hiệp quốc, Hà Nội.
Chính phủ (2014), Tờ trình số 120/TTr-CP ngày 08/05/2014 về dự án
9.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
Chính phủ (2014), Báo cáo số 395/BC-CP ngày 14/10/2014 công tác
10. Chính phủ (2015), Báo cáo số 566/BC-CP ngày 22/10/2015 công tác
thi hành án năm 2014, Hà Nội.
11. Chính phủ (2015), Báo cáo số 538/BC-CP ngày 19/10/2015 tổng kết
thi hành án năm 2015, Hà Nội.
việc triển khai tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo
12. Chính phủ (2016), Báo cáo số 426/BC-CP ngày 17/10/2016 công tác
Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội, Hà Nội.
77
thi hành án năm 2016, Hà Nội.
13. Chính phủ (2017), Báo cáo số 439/BC-CP ngày 14/10/2017 công tác
14. Lê Hùng Cường (2017), "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác
thi hành án năm 2017, Hà Nội.
thi hành án dân sự hiện nay", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số
15. N.M.Duchene (2008), “Cưỡng chế phạt tiền và cưỡng chế trả nhà”, Tài
chuyên đề về thi hành án dân sự), (15).
16. Lê Thị Lệ Duyên (2013), "Những vướng mắc trong phối hợp thực hiện
liệu hội thảo về dự thảo Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
17. Lê Thị Lệ Duyên (2013), "Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi
quy định về cưỡng chế trả giấy tờ", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (02).
hành án với các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự", Tạp chí
18. Nguyễn Tấn Dũng (2008), Bài phát biểu tại Hội nghị triển khai công
Dân chủ và Pháp luật, (01).
19. Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam,
tác năm 2009 của Ngành Tư pháp, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
Nxb CAND.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
26. Lê Thu Hà (Chủ biên) (2009), Sổ tay chấp hành viên, Nxb Thống kê,
78
lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
27. Lê Thu Hà (2011), Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án
Hà Nội.
28. Vũ Trọng Hách (2006), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi
dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2017), "Thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm
hành án hình sự ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
và cưỡng chế thi hành án dân sự tại thành phố Huế", Tạp chí Dân chủ
30. Lê Võ Hồng Hạnh (2013), "Chi phí cưỡng chế thi hành án trong trường
và Pháp luật, (Số chuyên đề về thi hành án dân sự), (9).
31. Chu Thị Hoa (2012), "Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một
hợp bảo lãnh sẽ do ai chịu", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (7).
số nước trên thế giới", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề về
32. Học viện Tư pháp (2005), Kỹ năng thi hành án dân sự, Nxb Thống kê,
thi hành án dân sự), (26).
33. Trần Phương Hồng (2012), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự áp
Hà Nội.
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện
34. Hoàng Thọ Khiêm (chủ biên, 2006), Đổi mới tổ chức cơ quan thi hành
Xã hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
35. Tuấn Lê (2010), "Một số vấn đề lưu ý chung về cưỡng chế thi hành án
án, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề về thi hành án
36. Hoàng Thế Liên (chủ nhiệm đề tài), (2006), Cơ sở lý luận và thực tiễn
dân sự), (20).
hoàn thiện cơ chế bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động
37. Mai Kim Liên (2006), "Nâng cao tính độc lập trong hoạt động của các
của cơ quan tư pháp, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
cơ quan thi hành án", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề về
79
Thi hành án dân sự), tr.31- 47.
38. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan
tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án
39. Nguyễn Đình Lộc (Chủ nhiệm) (2004), Luận cứ khoa học và thực tiễn
tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai
40. Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Thanh Thủy (Chủ biên) (2012), Sổ tay
đoạn mới, Đề tài khoa học cấp nhà nước độc lập, Hà Nội.
41. Lê Thị Tuyết Minh (2012), "Một số giải pháp để giải quyết hiệu quả
Nghiệp vụ thi hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
việc thi hành án dân sự tồn đọng", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (Số
42. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2006), Tài liệu hội thảo Quốc tế các mô
chuyên đề thi hành án dân sự), (14).
43. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2008), Tài liệu hội thảo dự thảo Luật thi
hình tổ chức thi hành án trên thế giới, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
44. M.D.Parrish (2010), Thi hành các phán quyết của Hoa Kỳ ở Canađa:
hành án dân sự, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
45. Nguyễn Thanh Phương (2011), Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản
Hướng dẫn thực tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
trong thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học
46. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố
Luật, Hà Nội.
47. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
48. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Cạnh
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
49. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Nhà
tranh, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
50. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Phá
80
ở, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
51. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật thi
sản, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
52. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật
hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
53. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật
Trọng tài thương mại, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
54. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật
Dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
55. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố
Hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
56. Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành
tụng dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
án dân sự ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị -
57.
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Sakai (2013), Bán và phân chia tài sản trong cưỡng chế thi hành, Tài
58. Bùi Văn Tấn (2014), "Một số vướng mắc trong việc kê biên, bán đấu
liệu hợp tác của Tổ chức JICA Nhật Bản, Nhật Bản.
giá quyền sử dụng đất nông nghiệp ở Đồng Tháp", Tạp chí Dân chủ và
59. Lê Thị Hoàng Thanh (2012), "Đánh giá các quy định pháp luật về thi
Pháp luật, (3).
hành án dân sự hiện hành trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật",
60. Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề thi hành án dân sự), (10).
động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học,
61. Điền Đức Thành (2010), "Tìm hiểu về tổ chức thi hành án của nước
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Cộng hòa Pháp", tại trang http://www.hcmcbar.org, truy cập ngày
62. Lại Anh Thắng (2010), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở
81
16/12/2017.
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị -
63. Trần Công Thịnh (2008), "Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
biên tài sản để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị", Tạp chí
64. Nhiều tác giả (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin.
65. Nguyễn Thanh Thuỷ, Lê Thị Kim Dung (Chủ biên) (2010), Xử lý tình
Khoa học, (24).
huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về thi hành
66. Nguyễn Thanh Thuỷ (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở
án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc
67.
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Phan Hữu Thư, Lê Thu Hà (Chủ biên) (2005), Giáo trình kỹ năng thi
68. Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo tổng kết
hành án dân sự, Nxb Thống kê, Hà Nội.
69. Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp (2017), Báo cáo tổng kết
công tác năm 2016, Hà Nội.
70. Nguyễn Thùy Trang (2012), "Hoàn thiện các quy định pháp luật về trình
công tác năm 2017, Hà Nội.
71. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật thi hành án dân
tự, thủ tục thi hành án dân sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (12).
72. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2006), Từ điển Luật học, Nxb
sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
82
Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp.