BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ---/--- BỘ NỘI VỤ ---/---

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ MẠNH TÚ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

1

HÀ NỘI - 2020

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ---/--- BỘ NỘI VỤ ---/---

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

HÀ MẠNH TÚ

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 83801.02

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN QUANG THÁI

2

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là có

căn cứ và trung thực. Những kết luận khoa học của luận

văn chưa từng công bố trong bất cứ công trình nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

3

Hà Mạnh Tú

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm chân thành nhất, tác giả xin được cảm ơn sâu sắc tới

TS. Nguyễn Quang Thái đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong quá

trình tiếp cận, nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Tác giả chân thành cảm ơn các Thầy, Cô Ban Quản lý đào tạo Khoa

Sau đại học, cô giáo chủ nhiệm đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả có cơ hội bảo

vệ luận văn trước Hội đồng đánh giá luận văn thạc sỹ.

Xin được cảm ơn tới các Thầy, Cô giáo giảng dạy tại Học viện Hành

chính Quốc gia đã truyền đạt cho tác giả những kiến thức lý luận vô cùng hữu

ích để ứng dụng, thực hành trong thực tiễn của bản thân và hoàn thành luận

văn.

Xin cảm ơn bạn bè lớp, gia đình, cơ quan, đồng nghiệp đã nhiệt tình

giúp đỡ về thời gian, tinh thần, cung cấp thông tin, số liệu để tác giả hoàn

thành luận văn này.

TÁC GIẢ

4

Hà Mạnh Tú

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ

QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ CẤP TỈNH ................................................. 9

1.1. Khái niệm, đặc điểm tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự

cấp tỉnh .............................................................................................................. 9

1.2. Các đảm bảo về tổ chức và hoạt động Cơ quan thi hành án cấp tỉnh .............. 20

Chương 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CỤC THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY ..................................... 29

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của tỉnh Phú Thọ ảnh hưởng tới tổ

chức, hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ ........................... 29

2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ giai

đoạn 2011-2020 ............................................................................................... 35

Chương 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT

ĐỘNG CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN

NAY ................................................................................................................ 54

3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục thi hành án dân sự cấp

tỉnh ................................................................................................................... 54

3.2. Các giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục thi hành án

dân sự cấp tỉnh ................................................................................................. 56

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75

5

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 77

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TAND : Tòa án nhân dân

THADS : Thi hành án dân sự

6

UBND : Ủy ban nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thi hành án là hoạt động đưa các bản án, quyết định của Tòa án, cơ

quan, tổ chức có thẩm quyền có hiệu lực pháp ra thi hành để đảm bảo tính

nghiêm minh của pháp luật; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước,

tổ chức, cá nhân và xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng

cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.

Đối với công tác Thi hành án nói chung, công tác Thi hành án dân sự nói

riêng, từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, Đảng ta đã đưa ra nhiều chủ

trương, định hướng quan trọng tạo cơ sở cho việc hoàn thiện pháp luật về tổ

chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự; tăng cường pháp chế

trong hoạt động thi hành án dân sự thể hiện trong Nghị quyết số 49- NQ/TW

ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đế năm

2020.Thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành Luật Thi hành

án dân sự năm 2008 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2009) và Luật sửa đổi, bổ sung

một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 (có hiệu lực từ ngày

01/7/2015).

Trên cơ sở Luật Thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành,

hệ thống cơ quan thi hành án dân sự đã không ngừng được hoàn thiện, góp

phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành án dân sự. Tuy nhiên, công tác thi

hành án dân sự thời gian qua cho thấy rằng bên cạnh những kết quả đạt được

cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định trong tổ chức và hoạt động của các

cơ quan thi hành án như: hiệu quả công tác thi hành án dân sự chưa tương ứng

những yêu ầu đặt ra. Nhiều bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhưng

các đương sự không tự nguyện chấp hành, chưa được các cơ quan thi hành án

dan sự thực hiện, giải quyết dứt điểm nên còn nhiều vụ tồn đọng, phức tạp;

1

Khiếu nại tố cáo thi hành án diễn ra nhiều đang là vấn đề bức xúc trong nhân

dân và các cơ quan tổ chức; đội ngũ chấp hành viên, công chức thi hành án

vừa thiếu về sơ lượng vừa yếu về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức trách hiệm

công vụ; điều kện , phương tiện làm việc của cơ quan thi hành án chưa tương

ứng với nhiệm vụ được giao.

Những hạn chế, bất cập trên chủ yếu do cơ sở pháp lý cho tổ chức, hoạt

động của các cơ quan thi hành án dân sự chưa đầy đủ và đồng bộ. Nhiều quy

định pháp luật về thi hành án dân sự chưa quy định đồng bộ, cụ thể, hướng

dẫn kịp thời nên gây khó khăn, không tạo sự thống nhất giữa các cơ quan

trong việc tổ chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật;

Tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự chưa được nhận thức và quan

tâm đứng mức từ các cơ quan nhà nước, tổ chức và xã hội; Các cơ quan hữu

quan liên quan trực tiếp đến thi hành án dân sự như: HĐND, UBND, Công

an, Tòa án, Viện kiểm sát chưa thể hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc giám

sát, chỉ đạo, phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự khi tổ chức cưỡng chế

thi hành các bản, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.

Để phát huy những kết quả đã đạt được đông thời khắc phục những tồn

tại, hạn chế trên đây thấy rằng cần còn có sự nghiên cứu có hệ thống và toàn

diện hơn cả về lý luận và thực tiễn về pháp luật thi hành án dân sự, về tổ chức và

hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự , trong đó có tổ chức và hoạt

động của cơ quan thi hành án ân sự cấp tỉnh. Từ tình hình trên, tác giả chọn đề

tài: “Tổ chức và hoạt động của Cục thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ hiện nay”

làm luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

Qua việc lựa chọn đề tài này, tác giả mong muốn đóng góp nhỏ bé về

mặt lý luận và thực tiễn trước yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thi

hành án dân sự hiện nay.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn

Dưới góc độ thực thi công lý, thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự

2

ở nước ta được xem xét và đề cập ở nhiều góc độ khác nhau.Trong quá trình

nghiên cứu tài liệu phục vụ cho đề tài này, tác giả tập hợp, phân loại và đánh

giá các tài liệu thành các nhóm cơ bản sau đây:

Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến pháp luật về thi hành

án dân sự, gồm có:

"Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam"

của tác giả Lê Thu Hà (2011). Cuốn sách là tài liệu tham khảo cho việc tiếp

tục nghiên cứu các cơ chế, biện pháp thực hiện pháp luật thi hành án dân sự

nói chung, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng.

"Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư

pháp" của tác giả Trần Phương Hồng (2012). Tác giả luận văn đã phân tích

một số vấn đề lý luận về hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự; đưa ra các

giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự, theo đó những đề

xuất hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự. Kết quả luận văn có giá trị

tham khảo cho việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự,

tạo cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về cưỡng chế thi

hành án dân sự.

Bài viết “Một số ý kiến về cơ chế và xử lý vi phạm hành chính pháp

luật trong hoạt động thi hành án dân sự’’ của tác giả Nguyễn Quang Thái

đăng trên Số chuyên đề về thi hành án dân sự - Tạp chí Dân chủ và Pháp luật

năm 2007. Bài viết đã phân tích một số nội dung cơ bản về cơ chế xử lý vi

phạm pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật thi hành án dân sự đồng thời nếu

lên một số vấn đề về thực trạng xử lý vi phạm pháp luật thi hành án dân sự.

Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các giải pháp nâng cao hoạt động xử lý vi phạm

pháp luật trong thi hành án dân sự thời gian tới.

"Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu"

của tác giả Lại Anh Thắng (2010). Tác giả luận văn phân tích một số vấn đề

lý luận về thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự Trên cơ sở đánh giá thực

3

trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự trên địa bàn cụ thể là tỉnh Bà Rịa

- Vũng Tàu, tác giả luận văn đã đưa ra các giải nâng cao chất lượng hiệu quả

công tác thi hành án dân sự và xã hội hóa về thi hành án dân sự … Tuy luận

văn chỉ đề cập đến thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói chung nhưng

có giá trị tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu thực hiện pháp luật về

cưỡng chế thi hành án dân sự trong điều kiện hiện nay.

Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan về tổ chức và hoạt động

thi hành án dân sự, gồm có

"Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi

hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" của Nguyễn Đình Lộc (2012). Kết

quả nghiên cứu đề tài đã khái quát thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động

thi hành án; kiến nghị đổi mới công tác thi hành án, trong đó có hoàn thiện

pháp luật về mô hình tổ chức thi hành án tạo cơ sở cho việc tổ chức thi hành

án nói chung và cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng.

"Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự hiện

nay" của tác giả Lê Hùng Cường (2017). Bài viết tập trung phân tích những

vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn trong quá trình thi hành Luật Thi

hành án dân sự năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Từ đó, tác giả

đề xuất một số giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả công tác thi hành án

dân sự. Những phân tích và kiến nghị của tác giả có giá trị tham khảo cho

việc nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp

luật thi hành án dân sự.

"Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam" của Trường Đại học

Luật Hà Nội. Đây là cuốn giáo trình có tính chuyên ngành về thi hành án dân

sự, được sử dụng để giảng dạy tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Nội dung

giáo trình đề cập đến những kiến thức cơ bản về pháp luật thi hành án dân sự

trên cơ sở pháp luật hiện hành, phân tích cụ thể mô hình tổ chức và hoạt động

thi hành án dân sự; các trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, trong đó có nội

4

dung liên quan trực tiếp đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện

pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Vì vậy, những nội dung của giáo

trình có giá trị tham khảo quan trọng trong việc đánh giá thực hiện pháp luật

về cưỡng chế thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.

"Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" của tác giả Hoàng

Thế Anh (2015). Luận án đã nghiên cứu một số vấn đề lý luận về giám sát thi

hành án dân sự. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả giám sát thi hành án dân sự hiện

nay, tác giả luận án đã đưa ra các giải pháp cụ thể để cải cách, nâng cao hiệu

quả giám sát thi hành án dân sự hiện nay

"Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan

hữu quan trong thi hành án dân sự" của tác giả Lê Thị Lệ Duyên (2013).

Trong bài viết, tác giả cho rằng sự phối hợp có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng

trong thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nói chung, cưỡng chế thi hành

án dân sự nói riêng. Trên cơ sở phân tích trách nhiệm của cơ quan, tổ chức có

liên quan trong thi hành án dân sự, tác giả đưa ra một số yêu cầu đối với chấp

hành viên, công chức thi hành án dân sự nhằm nâng cao hiệu quả của quan hệ

phối hợp trong thi hành án dân sự.

Qua nghiên cứu các công trình khoa học trên đã giúp cho tác giả có cơ

sở để chọn lọc, kế thừa để làm rõ:

Một là, cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự nói

chung và cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nói riêng.

Hai là, phân tích, đánh giá các yếu tố bảo đảm về tổ chức và hoạt động

thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh nói riêng.

Ba là, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự

hiện nay để từ đó xác định những yêu cầu cơ bản để nghiên cứu, đề xuất các giải

pháp đổi mới về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở cơ quan thi hành án

dân sự cấp tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

5

nghĩa, cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta trong thời gian tới.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động

thi hành án dân sự; thực trạng về tổ chức bộ máy và hoạt động thi hành án

dân sự (trong đó tập trung là đánh giá những ưu điểm, hạn chế, bất cập và

nguyên nhân), luận văn đề xuất quan điểm, các giải pháp đổi mới tổ chức và

hoạt động thi hành án dân sự ở Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ trước những

yêu cầu mới của công tác thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.

Để đạt được các mục đích đặt ra trên đây, luận án thực hiện các nhiệm

vụ chủ yếu sau đây:

- Nghiên cứu, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến tổ

chức và hoạt động thi hành án dân sự.

- Phân tích khái niệm, đặc điểm của tổ chức và hoạt động thi hành án

dân sự và những yếu tố đảm bảo đến tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự.

- Phân tích, đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động của Cục Thi

hành án tỉnh Phú Thọ từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi

năm 2014 có hiệu lực đến nay.

- Đề xuất các quan điểm, giải pháp về đổi mới tổ chức và hoạt động thi

hành án dân sự ở Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động thi

hành án dân sự; đánh giá thực trạng về tổ chức và hoạt động thi hành án dân

sự cũng như chính sách, pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động thi hành

án dân sự ở cấp tỉnh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu về tổ chức và hoạt động thi hành án dân

6

sự dưới góc độ Luật Hiến pháp và Luật Hành chính; nghiên cứu tổ chức và

hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, Chấp hành viên làm việc tại

Cục thi hành án dân sự tỉnh và mối quan hệ với cơ quan, tổ chức có liên quan

trên phạm vi tỉnh Phú Thọ (không bao gồm thực hiện pháp luật về cưỡng chế

thi hành án dân sự của thừa phát lại). Thời gian nghiên cứu được giới hạn từ

năm 2011 đến nay.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Về phương pháp luận

Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư

tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; xây dựng nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa; về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; các quan

điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta có đề cập đến vấn đề xây dựng nhà

nước pháp quyền, về cải cách tư pháp trong đó có tổ chức và hoạt động thi

hành án dân sự.

5.2. Các phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, chứng

minh được sử dụng chủ yếu xuyên suốt nội dung của luận văn

- Phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê được áp dụng nhằm

làm rõ những nội dung của chương 2. Đây là chương đánh giá thực trạng về tổ

chức thi hành án dân sự với những ví dụ, số liệu cụ thể qua đó rút ra những ưu

điểm, tồn tại, hạn chế tạo cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp ở chương 3

Ngoài ra, phương pháp phân tích cũng được áp dụng nhằm làm sáng tỏ

những nhận định, quan điểm đã được đưa ra về những vấn đề liên quan đến

nội dung nghiên cứu của đề tài luận văn.

Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu tại

chương 3 để làm rõ những giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành

án dân sự ở tỉnh Phú Thọ phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp và xây

7

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Về lý luận

Kết quả của luận văn góp phần nhỏ bé vào hoàn thiện lý luận về tổ

chức và hoạt động của cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh; chỉ rõ thực trạng

và đề xuất giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự trong

điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

6.2. Về thực tiễn

Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,

giảng dạy, học tập trong các cơ sở đào tạo luật và các cơ sở đào tạo chức danh

tư pháp.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành

án dân sự cấp tỉnh

Chương 2: Thực trạng về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự của

Cục Thi hành án dân sự ở tỉnh Phú Thọ hiện nay (từ 2011 đến nay)

Chương 3: Quan điểm, giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành

8

án dân sự ở Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ hiện nay.

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

CƠ QUAN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ CẤP TỈNH

1.1. Khái niệm, đặc điểm tổ chức và hoạt động của cơ quan thi

hành án dân sự cấp tỉnh

1.1.1. Khái niệm

1.1.1.1. Khái niệm tổ chức của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh

Thuật ngữ “Tổ chức” được nhiều ngành khoa học sử dụng với ý nghĩa

không giống nhau:

- Triết học định nghĩa “Tổ chức, nói rộng là cơ cấu tồn tại của sự vật.

Sự vật không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu

tố thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”.

- Tổ chức là thuộc tính của sự vật, nói cách khác sự vật luôn tồn tại

dưới dạng tổ chức nhất định;

- Y học cho rằng trong sinh vật đơn bào, các tế bào đơn lẻ thực hiện tất

cả các chức năng sống, nó hoạt động một cách độc lập. Tuy nhiên, sinh vật đa

bào (nhiều bào) có mức độ khác nhau của tổ chức cơ thể của chúng. Các tế

bào cá nhân có thể thực hiện chức năng cụ thể và cũng làm việc cùng nhau vì

lợi ích của toàn bộ cơ thể. Các tế bào trở nên phụ thuộc vào nhau. Từ quan

niệm của y học cho thấy tổ chức chỉ có ở sinh vật đa bào, các tế bào phụ

thuộc vào nhau vì lợi ích của toàn bộ;

- Nhân loại học khẳng định từ khi xuất hiện loài người, tổ chức xã hội

loài người cũng đồng thời xuất hiện. Tổ chức ấy không ngừng hoàn thiện và

phát triển cùng với sự phát triển của nhân loại. Theo nghĩa hẹp đó, tổ chức là

một tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung

hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó. Như vậy, tổ chức là

9

tập thể, có mục tiêu, nhiệm vụ chung;

Ngay trong những chuyên ngành khoa học có giao thoa về đối tượng,

phạm vi nghiên cứu cũng có những cách tiếp cận, cắt nghĩa khác nhau về “Tổ

chức”, cụ thể là:

- Theo Chester I. Barnard, thì tổ chức là một hệ thống những hoạt động

hay nỗ lực của hai hay nhiều người được kết hợp với nhau một cách có ý

thức. Như vậy theo lý thuyết quản trị công, để hình thành tổ chức phải có từ

hai người trở lên (điều kiện về chủ thể) và các hoạt động của họ được kết hợp

với nhau một cách có ý thức. Quản trị công nhấn mạnh đến hai yếu tố là chủ

thể và nguyên tắc hoạt động của tổ chức (sự kết hợp có ý thức của các chủ

thể) khi nhận thức về khái niệm tổ chức.

- Luật học (khoa học luật dân sự) gọi tổ chức là pháp nhân để phân biệt

với thể nhân (con người) là các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Theo

quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự thì một tổ chức được công nhận là pháp

nhân khi có đủ các điều kiện sau: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức

chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm

bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc

lập. Luật học nhấn mạnh đến các điều kiện thành lập tổ chức và các yêu cầu

đảm bảo hoạt động của tổ chức;

- Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với ý nghĩa hẹp là

“tập thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung

hoặc nhằm đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó”. Quan niệm về tổ

chức theo Khoa học tổ chức và quản lý có nhiều điểm tương đồng với Luật

học, Quản trị công ở chỗ đều xác định tổ chức thuộc về con người, là của con

người trong xã hội; vì là tổ chức của con người, có các hoạt động chung do

vậy mục tiêu của tổ chức là một trong những điều kiện quan trọng, không thể

thiếu của tổ chức;

- Trong cuốn “Sổ tay nghiệp vụ cán bộ làm công tác tổ chức nhà nước”

10

định nghĩa: “Tổ chức là một đơn vị xã hội, được điều phối một cách có ý

thức, có phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều

mục tiêu chung (của tổ chức). Quan niệm của những người làm công tác tổ

chức nhà nước có nhiều điểm tương đồng với khoa học quản lý, luật học trong

đó nhấn mạnh tới mục tiêu chung, nguyên tắc hoạt động của tổ chức (điều

phối một cách có ý thức). Điểm mới quan trọng của quan niệm này về tổ chức

thể hiện ở ý nói về phạm vi của tổ chức, mỗi tổ chức có phạm vi hoạt động

khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ

cấu, nguồn lực của tổ chức đó. Các yếu tố này là những điều kiện của tổ chức.

- Trên phương diện ngôn ngữ: Tuỳ theo ngữ cảnh, tính chất, yêu cầu,

mục đích… có thể sử dụng các thuật ngữ: cơ quan, đơn vị, pháp nhân, công

ty, hội… thay thế thuật ngữ tổ chức. Sự đa dạng trên phương diện ngôn ngữ

còn thể hiện ở việc thuật ngữ tổ chức được dùng với các chức năng khác nhau

như: là danh từ, là động từ, là tính từ (tiếng Anh Organization là danh từ, khác

với Organize là động từ, khác với Constitutive là tính từ).

- Theo Đại từ điển Tiếng Việt trang 1662, “tổ chức” là “sắp xếp, bố trí

thành các bộ phận để cùng thực hiện một nhiệm vụ hoặc cùng một chức năng

chung”, “tập hợp người được tổ chức theo cơ cấu nhất định để hoạt động vì

mục tiêu chung” [64]. Theo từ điển Tiếng Việt và thực tế cho thấy trong từng

hoàn cảnh cụ thể mà “tổ chức” có thể được hiểu và thực hiện ở nghĩa danh từ

“tổ chức” hoặc động từ” tổ chức”, hay nói cách khác tùy vào mỗi công việc,

ngành nghề, lĩnh vực… có nhiều định nghĩa khác nhau về “tổ chức”. Tổ chức

bao gồm hai nội dung cơ bản là tổ chức cơ cấu và tổ chức quá trình.

Với thực tế như vậy, cần có tư duy biện chứng, kế thừa, không cứng

nhắc, máy móc, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của nhiệm vụ nghiên cứu về

khái niệm “Tổ chức”. Với cách tư duy, tiếp cận như vậy khi tìm hiểu khái

niệm chung về tổ chức cần nằm vững một số nội dung căn bản như:

- Tổ chức là của con người trong xã hội gắn với một hình thái kinh tế -

11

xã hội và một kiểu nhà nước;

- Con người trong tổ chức gắn kết với nhau bởi những mục đích xác

định và hành động để đạt đến mục tiêu chung;

- Có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và cơ cấu xác định;

- Được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định phù

hợp với quy định pháp luật.

Nếu nhất thiết phải đưa ra một định nghĩa về tổ chức thì đó ‘’là tập hợp

của con người trong xã hội có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ

cấu xác định; được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định

phù hợp với quy định pháp luật nhằm gắn kết con người với nhau bởi những

mục đích xác định và hành động để đạt đến mục tiêu chung’’.

Từ các khái niệm “tổ chức”, trên đây, tác giả đưa ra khái niệm tổ chức

cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh là: “Tổ chức cơ quan thi hành án dân sự

cấp tỉnh là việc sắp xếp, bố trí các bộ phận cấu thành cơ quan thi hành án

dân sự cấp tỉnh nhằm bảo đảm cho mỗi bộ phận và cả hệ thống tổ chức của

cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh đạt được hiệu suất tổng thể, phối hợp với

nhau để hoàn thành nhiệm vụ quyền hạn được giao”.

1.1.1.2. Khái niệm hoạt động của cơ quan thi hành án cấp tinh

Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về hoạt động tùy theo góc độ

xem xét.

- Dưới góc độ triết học, hoạt động là quan hệ biện chứng giữa chủ thể

với khách thể. Trong quan hệ đó chủ thể là con người khách thể là hiện thực

khách quan. ở góc độ này hoạt động là một quá trình mà trong đó có sự

chuyển hóa lẫn nhau giữa hai cực “chủ thể- khách thể”.

- Dưới góc độ sinh học, hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh

và bắp thịt của con người khi tác động vào hiện thực khách quan nhằm thỏa

mãn nhu cầu vật chất hay tinh thần của con người.

- Dưới góc độ tâm lý học, hoạt động là mối tác động qua lại giữa con

12

người (chủ thể) và thế giới (khách thể) để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới

và phía con người. Trong mối quan hệ đó có 2 quá trình diễn ra đồng thời, bổ

sung cho nhau thống nhất với nhau.

Theo Đại từ điển Tiếng Việt, trang 827 “hoạt động” là “làm những

việc khác nhau với mục đích nhất định; là vận động, vận hành để thực hiện

các chức năng nào hoặc tác động nào đó” [64]. Trong đời sống hằng ngày,

“hoạt động” thường được hiểu là quá trình tác động qua lại giữa con người

với thế giới xung quanh để tạo ra sản phẩm, khi nói đến “hoạt động” thì bao

gồm hoạt động của một cá nhân hoặc hoạt động của một tổ chức để tạo ra

một sản phẩm, một kết quả nhất định, hay nói cách khác “hoạt động” là vận

động, cử động của cá nhân hoặc tổ chức nhằm đạt mục đích nào đó, hoạt

động là thực hiện một chức năng nào đó trong một chỉnh thể hoặc tiến hành

những việc làm có quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm mục đích chung trong

lĩnh vực nhất định.

Từ các khái niệm “hoạt động” trên đây, dưới góc độ xem xét hoạt động

của một tổ chức, tác giả đưa ra khái niệm hoạt động của cơ quan thi hành án

dân sự cấp tỉnh là: “Hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh là

duy trì và phát huy những việc làm của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh

để hoàn thành thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao theo quy

định pháp luật”.

1.1.2. Đặc điểm tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh

1.1.2.1. Tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh gắn

liền với hoạt động tố tụng Tư pháp

Thi hành án dân sự là quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện

các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hay nói cách khác là

quá trình hiện thực hóa trên thực tế các Quyết định, Bản án của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật. Vì vậy, có thể khẳng định quá trình tố tụng là quá trình đi

tìm sự thật để áp dụng pháp luật còn thi hành án là quá trình thực thi pháp luật.

13

Quá trình thực thi pháp luật có thể do các chủ thể phải thi hành án, tự giác thi

hành án hoặc do các cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải thi hành

án.Thi hành án dân sự là hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, người được

thi hành án, người phải thi hành án và các chủ thể khác trong việc thực hiện

bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án” [64]. Đối tượng của thi hành án

dân sự là các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,

thương mại và lao động; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý

vật chứng là tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án

quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phân tài sản trong bản án,

quyết định của Tòa án về hành chính, quyết định tuyên bố phá sản; quyết định

của trọng tài thương mại Việt Nam; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước

ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận.

Thi hành án dân sự đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định thi hành

án; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi ích pháp của tổ chức, kinh

tế, tổ chức xã hội và công dân” [72]

Thi hành án dân sự của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thành

phố trực thuộc trung ương là hoạt động thực hiện bản án, quyết định đã có

hiệu lực của Tòa án về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại

và lao động; quyết định về dân sự, phạt tiền, tịch thu tài sản, xử lý vật

chứng là tài sản, truy thu tiền tài sản thu lợi bất chính, án phí trong bản án,

quyết định của Tòa án về hình sự; quyết định về phân tài sản trong bản án,

quyết định của Tòa án về hành chính, quyết định tuyên bố phá sản; quyết

định của trọng tài thương mại Việt Nam; bản án, quyết định dân sự của Tòa

án nước ngoài, quyết định của trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam

công nhận nhằm đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định thi hành án; bảo

vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi ích pháp của tổ chức, kinh tế, tổ

chức xã hội và công dân.

Lý luận và thực tiễn đã chứng minh thi hành án dân sự là hoạt động nối

14

liền giữa hoạt động xét xử của Tòa án và để bản án, quyết định thành hiện thực.

Do đó tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự nói chung, cơ quan thi

hành án dân sự cấp tỉnh nói riêng phải gắn liền với cải cách tư pháp. Theo đó,

tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh phải luôn gắn liền với

cải cách tư pháp với các nội dung trọng tâm là: Hoàn thiện thể chế hình sự, dân

sự, thủ tục tư pháp; Cải cách các cơ quan tư pháp và thiết chế bổ trợ tư pháp

đặc biệt là Tòa án; Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ

trợ tư pháp nhất là các cán bộ có chức danh tư pháp; Đổi mới, tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng, giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp.

1.1.2.2. Tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thể

hiện tính độc lập tương đối

Thi hành án dân sự là một hoạt động mang tính chất hành chính- tư

pháp của Nhà nước nhằm thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực tư

pháp, bảo đảm hiệu lực thực tế của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng phải thi hành ngay do

pháp luật qui định. Hoạt động này do các cơ quan thi hành án dân sự, Chấp

hành viên trực tiếp thực hiện.

Hoạt động thi hành án dân sự được tiến hành theo một trình tự, thủ tục

chặt chẽ do pháp luật về thi hành án dân sự qui định từ khi bắt đầu cho đến

khi kết thúc trên một cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo sự công bằng

trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong thi hành án. Cơ quan thi

hành án dân sự cấp tỉnh là cơ quan trực tiếp thi hành án dân sự trong quá trình

thực hiện thi hành án dân sự cũng phải tiến hành theo một trình tự, thủ tục

chặt chẽ do pháp luật về thi hành án dân sự từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc

trên một cơ sở pháp lý đầy đủ, rõ ràng, đảm bảo sự công bằng trong thực hiện

quyền và nghĩa vụ của các bên trong thi hành án. Cơ quan thi hành án dân sự

cấp tỉnh trong quá trình thi hành các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật thì căn cứ vào thực tế của mỗi vụ việc phải thi hành được chủ

15

động lựa chọn các biện pháp thích hợp do pháp luật qui định, chủ động giải

quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thi hành án sao cho đạt được mục

đích thi hành án, quyết định của Tòa án.

Hoạt động tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự được

thực hiện bởi Chấp hành viên là ngạch công chức ngành tư pháp được Bộ

trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm khi đủ điều kiện do pháp luật quy định tại Điều

18 Luật Thi hành án dân sự 2008. Theo quy định pháp luật thi hành án dân

sự, Chấp hành viên là người được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức thi

hành các bản án, quyết định về dân sự của tòa án Việt Nam và bản án, quyết

định về dân sự của Tòa án nước ngoài đã được tòa án Việt Nam công nhận.

Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Luật Thi hành án dân sự

quy định: triệu tập đương sự, người có liên quan đến trụ sở cơ quan thi hành

án hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thi hành án để thực hiện

việc thi hành án; yêu cầu người phải thi hành án tự nguyện thi hành trong thời

hạn 10 ngày kể từ ngày có quyết định thí hành án trước khi áp dụng biện pháp

cưỡng chế thi hành án; áp dụng các biện pháp cưỡng chế theo quy định của

pháp luật; yêu cầu chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh

tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, cá nhân có liên quan cung cấp tài

liệu để xác minh địa chỉ, tài sản của người phải thi hành án hoặc phối hợp xử

lí tang vật, tài sản và những việc khác có liên quan đến việc thi hành án; đề

nghị thủ trưởng cơ quan thi hành án nơi chấp hành viên công tác ra quyết định

hoãn thi hành án, tạm đình chỉ thi hành án, đình chỉ thi hành án, trả lại đơn

yêu cầu thi hành án, phạt tiền hoặc trực tiếp phạt tiền người cố tình không thi

hành án; yêu cầu tòa án đã ra bản án hoặc quyết định giải thích những điểm

chưa rõ để thi hành án; lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi

hành án và đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí kỉ luật, xử phạt

hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.

Trong quá tình thực hiện chức năng nhiệm vụ ấy Chấp hành viên luôn thể

16

hiện tính độc lập tương đối của mình. Do vậy, việc tổ chức và hoạt động của cơ

quan thi hành án dân sự cấp tỉnh phải đảm bảo Chấp hành viên phải có phẩm

chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng và có kiến thức nghiệp vụ vững

vàng trong công tác THADS để không bị chi phối tác đọng bởi các hành vi can

thiệp trái pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào hoặc bị mua chuộc,

cám dỗ bởi các lợi ích tinh thần vật chất trái pháp luật đặc biệt không được làm

những việc không được làm quy định trong Luật Thi hành án dân sự.

Hoạt động THADS là lĩnh vực hoạt động có tính chất nghề nghiệp

chuyên biệt, chuyên sâu nên đòi hỏi đội ngũ chấp hành viên phải có kiến thức

nghiệp vụ vững vàng. Theo quy định của pháp luật, để được bổ nhiệm làm

chấp hành viên thì ngoài tiêu chuẩn phải có trình độ cử nhân luật trở lên và có

thời gian công tác nhất định trong lĩnh vực pháp luật, người đó còn phải có

chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ ngạch chấp hành viên (trừ một số trường hợp

đặc biệt). Do vậy, cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và người

đứng đầu cơ quan thi hành án dân sự cần làm tốt công tác giáo dục bồi dưỡng,

quy hoạch và đề nghị bổ nhiệm chấp hành viên cũng như quản lý đánh giá

chấp hành viên. Bản thân công chức làm nhiệm vụ thi hành án dân sự, chấp

hành viên cần phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện đạo đức, bản lĩnh chính

trị và thường có ý thức học tập và tự học tập không ngừng nhằm nâng cao

trình độ về mọi mặt; phải biết rèn luyện phong cách, tư duy, xây dựng cho

mình phương pháp làm việc khoa học, phải có kế hoạch, có sự chuẩn bị kỹ

lưỡng về mọi mặt; luôn cầu thị thông qua trao đổi, học hỏi kinh nghiệm thực

tiễn từ các đồng nghiệp.Từ đó, đảm bảo trong hoạt động thực hiện nhiệm vụ

của chấp hành viên vừa độc lập vừa thuần thục trở thành kỹ năng nghiệp vụ

được biểu hiện trên nhiều lĩnh vực, như: xây dựng, soạn thảo văn bản, các

quyết định về THADS; kỹ năng xây dựng kế hoạch tổ chức THADS, tính độc

lập tổ chức thực hiện công việc được giao; kỹ năng vận động, thuyết phục

người phải thi hành án tự nguyện thi hành án; kỹ năng hòa giải những mâu

17

thuẫn giữa các bên đương sự; kỹ năng phối hợp với các đồng nghiệp và cơ

quan có liên quan trong giải quyết THADS; kỹ năng lập kế hoạch và phương

án cưỡng chế, triển khai việc cưỡng chế và chỉ huy lực lượng cưỡng chế

THADS; kỹ năng tham mưu cho thủ trưởng đơn vị, Ban chỉ đạo THADS địa

phương... Trong số những kỹ năng nghiệp vụ cụ thể nêu trên thì chấp hành

viên cần quan tâm nhất là vận động, thuyết phục đương sự, kỹ năng xây dựng

kế hoạch, tổ chức cưỡng chế THADS.

1.1.2.3. Tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh

thực hiện theo nguyên tắc song trùng trực thuộc theo ngành và phối hợp chặt

chẽ với chính quyền địa phương

Đặc điểm này của tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự

cấp tỉnh trước hết xuất phát từ vai trò của thi hành án dân sự cấp tỉnh là góp

phần giữ gìn trật tự kỷ cương, an toàn xã hội, bảo vệ tính nghiêm minh pháp

luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; thi hành án dân sự đạt hiệu quả sẽ

mang lại niềm tin cho nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật, góp

phần lập lại trật tự kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; thi hành

án dân sự là thước đo hiệu quả hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân và các

hoạt động tư pháp khác; thi hành án dân sự góp phần nâng cao ý thức pháp

luật của nhân dân; thi hành án dân sự góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát

triển kinh tế-xã hội của đất nước và của từng địa phương. Mặt khác còn xuất

phát từ tính chất rộng lớn, phức tạp nhưng rất quan trọng của lĩnh vực thi

hành án dân sự nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả, công khai, minh bạch

hoạt động thi hành án dan sự cũng như thấy rõ trách nhiệm, phát huy năng

động, sáng tạo của Tổng Cục thi hành án dân sự và chính quyền địa phương.

Tổ chức và hoạt động cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh theo nguyên

tắc song trùng trực thuộc theo ngành dọc và phối hợp chặt chẽ với chính

quyền địa phương trước hết phải đảm bảo Tổng Cục thi hành án dân sự thuộc

Bộ Tư pháp được tổ chức thành hệ thống dọc từ trung ương tới địa phương

18

đảm bảo nguyên tắc tập trung thống nhất, có cơ cấu tổ chức gồm các cơ quan

trực thuộc Tổng Cục thi hanh án dân sự ở trung ương và các cơ quan thi hành

án dân sự ở địa phương (Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và Chi cục Thi hành

án dân sự ở cấp huyện). Theo đó Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh là cơ quan

trực thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự, thực hiện chức năng thi hành án dân

sự, thi hành án hành chính, có nhiệm vụ giúp Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi

hành án dân sự quản lý một số mặt công tác tổ chức, cán bộ của cơ quan thi

hành án dân sự địa phương và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo

quy định của pháp luật. Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh chịu

trách nhiệm trước Tổng Cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự và trước

pháp luật về toàn bộ hoạt động của Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh. Phó Cục

trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước Cục trưởng

Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và trước pháp luật về lĩnh vực công tác được

phân công phụ trách. Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện là cơ quan trực

thuộc Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh, thực hiện chức năng thi hành án dân

sự, đôn đốc thi hành án hành chính và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn

khác theo quy định của pháp luật.

Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện chịu trách nhiệm

trước Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và trước pháp luật về toàn

bộ hoạt động của Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện. Phó Chi cục trưởng

Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện chịu trách nhiệm trước Chi cục trưởng

Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện và trước pháp luật về lĩnh vực công tác

được phân công phụ trách.

Như vậy, cơ quan thi hành án dân sự ở địa phương trong hoạt động

phải thực hiện sự hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy

phạm pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án

về thi hành án dân sự, quản lý thi hành án hành chính sau khi được phê duyệt,

ban hành của Tổng Cục thi hành án dân sự.

19

Đồng thời Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo của Ủy

ban nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại Điều 173 Luật Thi hành án dân sự, có

trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân dân cùng cấp về chủ trương, biện pháp

tăng cường công tác thi hành án dân sự, công tác quản lý, đôn đốc thi hành án

hành chính trên địa bàn và thực hiện báo cáo công tác thi hành án dân sự,

công tác quản lý, đôn đốc thi hành án hành chính trước Hội đồng nhân dân

cùng cấp theo quy định của pháp luật. Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện

chịu sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cấp huyện theo quy định tại Điều 174

Luật Thi hành án dân sự, có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân dân cùng

cấp về chủ trương, biện pháp tăng cường công tác thi hành án dân sự, công

tác đôn đốc thi hành án hành chính trên địa bàn và thực hiện báo cáo công tác

thi hành án dân sự, công tác đôn đốc thi hành án hành chính trước Hội đồng

nhân dân cùng cấp theo quy định của pháp luật.

Thực tiễn thời gian qua cho thấy để thực hiện có hiệu lực, hiệu quả việc

hướng dẫn, kiểm tra thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự thì Tổng cục

Thi hành án dân sự luôn có sự phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương;

bản thân Cục Thi hành án cấp tỉnh cũng như Chi cục Thi hành án dân sự cấp

huyện phải luôn đảm bảo sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cùng cấp và có

trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân dân cùng cấp về chủ trương, biện pháp

tăng cường công tác thi hành án dân sự, công tác quản lý, đôn đốc thi hành án

hành chính trên địa bàn và thực hiện báo cáo công tác thi hành án dân sự,

công tác quản lý, đôn đốc thi hành án hành chính trước Hội đồng nhân dân

cùng cấp theo quy định của pháp luật.

Do vậy, có thể khẳng định tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành

án dân sự cấp tỉnh đảm bảo nguyên tắc song trùng trực thuộc theo ngành và

phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương.

1.2. Các đảm bảo về tổ chức và hoạt động Cơ quan thi hành án cấp tỉnh

Các đảm bảo về tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành án tỉnh,

20

thành phố trực thuộc trung ương là những điều kiện nhất thiết phải có trong tổ

chức và hoạt động của cơ quan này để đạt được kết quả theo yêu cầu, mục

đích đã xác định cũng như thể hiện và phát huy vai trò của mình. Để công tác

tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương đạt được hiệu quả cao, cần phải có các đảm bảo sau đây:

1.2.1. Đảm bảo về kinh tế

Sự phát triển về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước

ta cũng như ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là bảo đảm hết sức cơ

bản mang tính quyết định đối với tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành

án tỉnh. Một trong những việc làm có thể nói đó là sự sáng tạo mang tính đặc

thù của tỉnh, thành phố trung ương là cần phải tập trung cho công tác qui

hoạch tổng thể và qui hoạch phát triển kinh tế xã hội một cách hợp lý phù hợp

với thực tế của địa phương và xu hướng phát triển của đất nước trong thời kỳ

mới. Trong lĩnh vực kinh tế có một việc làm mang tính đột phá tạo nên thành

công đó là việc xác định chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng điều kiện khách

quan của tỉnh.

Trước hết, để thúc đẩy sản xuất công nghiệp của tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương theo đúng quy hoạch, cơ cấu kinh tế đã đề ra, Đại hội đại

biểu Đảng bộ tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải đặt ra mục tiêu tổng

quát là: phấn đấu có đủ các yếu tố cơ bản của một tỉnh công nghiệp vào năm

2020 với nhiệm vụ cụ thể là tập trung phát triển công nghiệp và coi công

nghiệp là nền tản của kinh tế, kích thích các ngành dịch vụ, nông nghiệp phát

triển, tạo thêm nhiều việc làm cho nông nghiệp nhằm đẩy nhanh chuyển dịch

cơ cấu nông nghiệp trên địa bàn…

Căn cứ Nghị quyết của Đại hội đại biểu tỉnh, BTV tỉnh ủy, thành ủy

phải có Nghị quyết chuyên đề về đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phát

triển kinh tế- xã hội; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

ban hành chiến lược phát triển công nghiệp dài hạn và tầm nhìn đến 10 hoặc

21

20 năm sau. Từ việc ra các chủ trương đúng đắn thể hiện sự ưu đãi đối với các

nhà đầu tư như: giảm tiền thuế đất, hỗ trợ tiền đền bù giải phóng mặt bằng,

cải cách hành chính và đẩy mạnh xây dựng hoàn thiện hệ thống giao

thông.v.v, mạnh mẽ nhất để công nghiệp phát triển phù hợp với các điều kiện

tự nhiên, xã hội của tỉnh.

Cùng với việc lãnh đạo phát triển sản xuất công nghiệp, Tỉnh ủy, Thành

ủy còn có Nghị quyết chuyên đề phát triển thương mại dịch vụ, du lịch nhằm

sự dụng, khai thác hợp lý các tiềm năng trên tất cả các lĩnh vực từ tài chính,

ngân hàng, bưu chính viễn thông đến thương mại, du lịch trong đó tập trung

đầu tư xây dựng hạ tầng và khai thác có hiệu quả các khu du lịch Quốc Gia,

Khu du lịch cấp tỉnh.

Về phát triển sản xuất nông nghiệp phải được Tỉnh ủy, Thành ủy và Ủy

ban nhân dân tỉnh, thành phố đặc biệt quan tâm trong lãnh, chỉ đạo để phát

triển mạnh mẽ về trồng trọt và chăn nuôi, về trồng trọt trên địa bàn tỉnh đã

hình thành các vùng sản xuất mang tính chuyên canh có năng suất chất lượng

cao; Về chăn nuôi cũng phát triển mạnh các gia súc, gia cầm và thủy sản có

thế mạnh của địa phương.

Sự tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế một cách toàn diện của Tỉnh ủy,

Thành ủy, Ủy ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là đảm bảo cho

tỉnh có tốc độ tăng trưởng cao và đạt tổng giá trị kinh tế lớn; đời sống vật chất

và tinh thần của cán bộ, nhân dân nâng lên rõ rệt và là cơ sở vững chắc để mọi

người thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ mình đối với nhà nước và xã hội, trong

đó có quyền và nghĩa vụ tham gia xây dựng quản lý nhà nước và tham gia xây

dựng việc tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương. Kinh tế tỉnh thành phố trực thuộc trung ương phát

triển tạo điều kiện loại bỏ những nguyên nhân kinh tế- xã hội của nhiều vi

phạm pháp luật vì khi đời sống được nâng lên thì dân trí cũng được nâng lên

và hạn chế được nạn “túng ăn vụng, đói làm càn” của người dân nói chung và

cán bộ công chức của tỉnh nói riêng, trong đó có cả cán bộ làm công tác thi

22

hành án dân sự, do vậy giảm bớt áp lực cho hoạt động của cơ quan thi hành án

các cấp trong đó có Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh đặc biệt trong việc

giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Mặt khác, kinh tế của tỉnh phát triển

thì các mâu thuẫn, xung đột, tranh chấp về dân sự, kinh tế, lao động và hôn

nhân gia đình… sẽ giảm bớt việc phải khởi kiện ra tòa án đồng thời cũng tạo

điều kiện rất thuận lợi cho Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh nâng cao cơ sở vật

chất và phương tiện làm việc.

Tuy nhiên, để đảm bảo về kinh tế cho việc tổ chức, hoạt động của các

cơ quan nhà nước trong đó có Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh thì cần

phát triển kinh tế mạnh mẽ, toàn diện và vững chắc hơn nữa thông qua việc

tiếp tục điều chỉnh công tác qui hoạch xây dựng, công tác tổ chức thực hiện

các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế một cách hợp lý cho từng

ngành, từng huyện, thị của tỉnh trên cơ sở phân bổ hợp lý nguồn lực lao

động, tài nguyên; tôn trọng và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho các hình

thức sở hữu và các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ, vững chắc; chú

trọng hướng dẫn, hỗ trợ các huyện vùng khó khăn; tăng cường công tác quản

lý nhà nước về kinh tế bằng pháp luật, coi pháp luật là công cụ quản lý hữu

hiệu quan trọng nhất đi đôi với việc thực hiện phân cấp quản lý một cách

hợp lý; giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân, tập thể và nhà nước

làm cho “dân giàu, nước mạnh” trên cơ sở phát huy hết tiềm năng của người

lao động trong tỉnh.

1.2.2. Đảm bảo về chính trị

Đây là một đảm bảo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của của

Cơ quan thi hành án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

Trước hết, đó là sự ổn định chính trị trên địa bàn tỉnh thực tế cho thấy

chỉ khi nào trên địa bàn tỉnh an ninh chính trị được bảo đảm, trật tự an toàn xã

hội được giữ vững thì khi đó tổ chức, hoạt động của Cơ quan thi hành án dân

sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương mới thuận lợi, đỡ vất vả và phát huy

được vai trò, tác dụng thiết thực. Còn khi tình hình chính trị không ổn định,

23

lòng dân không yên thì vi phạm pháp luật xảy ra nhiều, việc đấu tranh, khiếu

kiện đông người xảy ra liên tục, các bản án quyết định của TAND có hiệu lực

bị tồn đọng nhiều chắc chắn khiến tổ chức, hoạt động cuả Cơ quan thi hành án

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hết sức khó khăn, vất vả và thậm chí

không ổn định về tổ chức và hiệu quả hoạt động không cao.

Tiếp đến là hoạt động lãnh đạo có hiệu quả của Tỉnh ủy, Thành ủy đối

với chính quyền và xã hội thông qua các chủ trương, Nghị quyết, thông qua

công tác tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ và công tác kiểm tra; chỉ khi nào

nội bộ Tỉnh ủy, Thành ủy đoàn kết, thống nhất cao trong đó có sự quan tâm

và nhận thức đúng đắn về vai trò của thi hành án nói chung và thi hành án dân

sự nói riêng, tăng cường lãnh đạo công tác thi hành án thì tổ chức, hoạt động

của các cơ quan thi hành án dân sự mới được đẩy mạnh phát huy tác dụng

thiết thực, trong đó có Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương. Để tập trung lãnh đạo đảm bảo giữ ổn định chính trị, trật tự an

toàn xã hội- Tỉnh ủy phải ban hành Chương trình hành động về tăng cường

lãnh đạo công tác KNTC; Chương trình hành động thực hiện kết luận hội nghị

Trung ương lần thứ 9- Khóa X về PCTN, lãng phí; đặc biệt BTV Tỉnh ủy

thường xuyên nghe Cơ quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và Cơ

quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo các vụ

việc phức tạp và cho ý kiến chỉ đạo, giải quyết kịp thời; khi xuất hiện những

điểm nóng thì các lãnh đạo chủ chốt của Tỉnh Ủy, UBND tỉnh phải trực tiếp

đối thoại với dân và giải quyết trực tiếp tại chỗ đảm bảo quyền lợi cho dân và

được nhân dân tin tưởng. Tỉnh ủy cũng phải ban hành Chỉ thị về tăng cường

lãnh đạo các cấp ủy đảng, chính quyền trong tuyên truyền phổ biến pháp luật

cho cán bộ và nhân dân; trong công tác thi hành án dân sự ở địa phương.

Hoạt động quản lý nhà nước có hiệu lực, hiệu quả của Ủy ban nhân dân

tỉnh trong việc thực hiện bảo đảm pháp chế thông qua thông qua các hoạt

động tuyên truyền giáo dục pháp luật cho mọi đối tượng trên địa bàn tỉnh,

thông qua hoạt động kiểm tra, thanh tra và các hoạt động có tính tổ chức khác

24

trên cơ sở pháp luật là đảm bảo chính trị cho tổ chức, hoạt động của Cơ quan

thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung. Ngược lại nếu Uỷ ban

nhân dân tỉnh không quan tâm thực hiện tốt các nội dung trên thì hoạt động

của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung cũng khó

khăn, thậm chí không hoàn hành nhiệm vụ được giao. Hàng năm, Chủ tịch Ủy

ban nhân dân tỉnh đều ban hành các Chị thị về công tác tiếp dân, giải quyết

khiếu nại, tố cáo, thi hành án dân sự. Ủy ban nhân dân tỉnh rất coi trọng việc

xem xét chỉ đạo kế hoạch công tác thi hành án dân sự hàng năm của Cơ

quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung, đồng thời thường

xuyên nghe Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung báo

cáo việc thực hiện kế hoạch đó và cho ý kiến chỉ đạo tiếp theo.

Hoạt động năng động, tích cực của Mặt trận Tổ quốc tỉnh và các thành

viên của Mặt trận Tổ quốc tỉnh trong việc tham gia quản lý nhà nước trong

đó có hoạt động quản lý nhà nước về thi hành án dân sự và hoạt động thi

hành án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là bảo đảm

về mặt chính trị cho hoạt động thanh tra vì theo quy định của pháp luật, Mặt

trận Tổ quốc tỉnh và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc tỉnh có vị trí vai

trò rất quan trọng, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận Tổ

quốc tỉnh phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về

chính trị và tinh thần trong nhân dân tham gia xây dựng củng cố chính quyền

nhân dân, cùng với chính quyền tỉnh chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của

nhân dân, động viên nhân dân trong tỉnh thực hiện quyền làm chủ, nghiêm

chỉnh chấp hành pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại

biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước. Tuy nhiên, để Mặt trận Tổ quốc

tỉnh và các thành viên của Mặt trận hoạt động đảm bảo được vai trò trên thì

một mặt Mặt trận phải hoạt động trong khuôn khố Hiến pháp, pháp luật và

mặt khác Chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương không được

dùng quyền lực nhà nước để can thiệp vào hoạt động theo Điều lệ của họ.

Dân chủ hóa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, sự tham gia

25

đông đảo của nhân dân trong tỉnh vào các công việc quản lý nhà nước và xã

hội, đấu tranh phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội là bảo đảm cụ thể về

chính trị cho tổ chức, hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành

phố trực thuộc trung. Khi dân chủ được thực hiện, nhân dân sẽ tạo điều kiện

giúp đỡ các cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ quan thi hành án dân sự tỉnh

phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật thông qua các tin báo, thông qua

tố cáo các hành vi vi phạm của cán bộ, công chức mà không sợ trù úm.

Đó là những bảo đảm chính trị cho tổ chức và hoạt động của Cơ quan

Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.

1.2.3. Đảm bảo về tư tưởng

Trước hết đó là hệ tư tưởng, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, những giá trị tư tưởng truyền thống và đạo đức của dân

tộc, những phong tục tập quán, bản sắc văn hóa tốt đẹp của tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương được khơi dậy và phát huy là những bảo đảm quan

trọng cho việc tổ chức và hoạt động Cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương. Đặc biệt, khi những bảo đảm đó được quán triệt,

học tập, tuyên truyền phổ biến làm cho nó thấm nhuần trong nhân dân nhất là

cán bộ công chức Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh đã làm cho họ nâng cao

tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm từ đó đảm bảo đoàn kết, thống nhất

trong tổ chức và nâng cao chất lượng hiệu quả hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ

được giao đáp ứng yêu cầu của Đảng, Nhà nước và mong mỏi của nhân dân.

Những bảo đảm về tư tưởng đã tạo điều kiện quan trọng đối với công

tác tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh. Tuy nhiên,

Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh vẫn phải coi trọng công tác lãnh đạo đấu tranh

kiên quyết chống lại và loại bỏ các tư tưởng phản động, phản khoa học cũng

như những phong tục tập quán lạc hậu ở địa phương vì đó chính là những lực

cản không nhỏ đối với sự nghiệp đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước nói chung

và tổ chức, hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh nói riêng. Trong

điều kiện cụ thể ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng như cả nước ta

26

hiện nay, cần kiên quyết đấu tranh loại bỏ tư tưởng đa nguyên, đa đảng, muốn

xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; chống lại tư tưởng bảo

thủ trì trệ muốn quay lại thời kỳ quan liêu bao cấp của một bộ phận không

nhỏ cán bộ Đảng viên; chống lại cách làm ăn chụp giật bất chấp pháp luật, lối

sống thực dụng buông thả của nhiều cán bộ tha hóa biến chất trong đó phải kể

đến một bộ phận nhỏ cán bộ, công chức do bị mặt trái của kinh tế thị trường

tác động, chi phối; chống lại tư tưởng cục bộ, bè phái, vây cánh trong công

tác tổ chức cán bộ, chống lại việc "mua quan, bán chức"; chống lại các phong

tục tập quán lạc hậu bảo thủ vẫn còn trong nếp nghĩ và lối sống của một bộ

phận nhân dân, cán bộ công chức.

1.2.4. Đảm bảo về pháp luật

Đó là việc Nhà nước ta đã ban hành Luật Thi hành án dân sự, nhiều văn

bản pháp luật về công tác tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự cũng như các

luật có liên quan tới thi hành án dân sự như: Luật thanh tra, Luật Khiếu nại, Luật

Tố cáo, Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Tiếp Công dân…. Mặt khác, ở

tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND tỉnh, thành phố cũng đã có các

Quyết định, Chỉ thị, Nghị quyết về công tác thi hành án dân sự hàng năm và

trong các thời điểm cụ thể. Đây là các bảo đảm rất quan trọng về mặt pháp luật

cho việc tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ương và các tổ chức trực tiếp bảo vệ pháp luật như: Công an,

Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp nhằm đấu tranh chống các vi

phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích hợp pháp của xã hội, quyền tự do và lợi ích hợp

pháp của công dân, ngăn ngừa vi phạm pháp luật của các đối tượng.

Những bảo đảm trên đây luôn được hoàn thiện thường xuyên, liên tục

về nội dung, hình thức cùng với sự phát triển của nền dân chủ, sự phát triển

về mọi mặt của đời sống xã hội đã giúp cho công tác tổ chức, hoạt động của

Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thực

27

hiện thuận lợi hơn, hiệu quả hơn.

Tiểu kết chương 1

Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Cơ quan thi hành

án dân sự cấp tỉnh, rút ra một số kết luận sau:

Thứ nhất, hoạt động thi hành án dân sự có vai trò quan trọng được thực

hiện bởi cơ quan thi hành án dân sự theo một trình tự, thủ tục do pháp luật

quy định (chủ yếu do Luật Thi hành án dân sự) nhằm thực thi các bản án,

quyết định của TAND đã có hiệu lực pháp luật góp phần tăng cường pháp chế

xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền lợi ích hợp pháp của

cơ quan, tổ chức, cá nhân được thi hành án.

Thứ hai, trải qua 75 năm hoạt động và phát triển ngành Thi hành án

Việt Nam nói chung và thi hành án dân sự nói riêng luôn thể hiện được vai

trò là phương thức bảo đảm pháp chế, bảo đảm thực hiện các quyền, lợi ích

hợp pháp của công dân đồng thời thể hiện vị trí là một cơ quan không thể

thiếu được trong hệ thống cơ quan hành pháp. Trong 75 năm qua, hệ thống

cơ quan thi hành án dân sự nói chung và Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh

nói riêng đã luôn được hoàn thiện về tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động

để hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình góp phần xứng

đáng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Tuy nhiên bên cạnh những thành

tựu đã đạt được tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự của cơ quan thi

hành án trong đó có Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, vẫn có những hạn

chế, khuyết điểm nhất định.

Thứ ba, tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan Cơ quan thi hành

án dân sự và Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh cần được củng cố là một đòi

hỏi bức thiết và phù hợp với đường lối đổi mới bộ máy nhà nước của Đảng và

Nhà nước ta. Quá trình đó phải đảm bảo các yêu và cần phải có các điều kiện

đảm bảo về kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật đồng thời phải tiếp thu học

tập có chọn lọc kinh nghiệm của các nước, các địa phương phù hợp với thực

28

tiễn ở Việt Nam nói chung và ở mỗi tỉnh nói riêng.

Chương 2

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội của tỉnh Phú Thọ ảnh hưởng

tới tổ chức, hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ

2.1.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Phú Thọ

- Ví trí địa lý

Tỉnh Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi, có ví trí trung tâm vùng và

là cửa ngõ phía Tây Bắc của Thủ đô Hà Nội. Tỉnh Phú Thọ nằm trên trục

hành lang kinh tế Hải Phòng-Hà Nội-Côn Minh (Trung Quốc), phía Đông

giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía Tây giáp Hà Nội, phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình,

phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái và Tuyên Quang. Tỉnh Phú Thọ cách sân bây quốc

tế Nội Bài 80km; cách Cảng Hải Phòng 170km; cách cửa khẩu quốc Hà Khẩu

(Lào Cai -Vân Nam Trung Quốc) và cửa khẩu Thanh Thủy 200km và là nơi

hợp lưu của 3 con sông: Sông Hồng - Sông Đà - Sông Lô.

Vị trí địa lý của tỉnh Phú Thọ đã tạo cho Phú Thọ có nhiều điều kiện

thuận lợi và tiềm năng to lớn để sản xuất kinh doanh phát triển và giao lưu

kinh tế với các ngành, địa phương trong nước và nước ngoài. Tỉnh Phú Thọ là

cội nguồn, vùng đất tổ của dân tộc Việt Nam và có hệ thống di tích lịch sử, lễ

hội, mỗi di tích lễ hội có một sắc thái riêng độc đáo và đặc sắc, là tiềm năng

to lớn để phát triển du lịch, dịch vụ.

- Diện tích đất đai

Tỉnh Phú Thọ có diện tích tự nhiên 3.532 km2, trong đó diện tích đất

nông nghiệp 97.610ha, đất rừng 195.000ha (trong đó 64.064ha rừng tự nhiên),

đất mặt nước nuôi trồng thủy sản 10.000ha, các loại đất khác là 19.299ha.

- Địa hình, khí hậu

29

Tỉnh Phọ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ hằng năm khoảng

230c, lượng mưa trung bình hằng năm 1.700mm, độ ẩm trung bình hằng năm

86%. Địa hình tỉnh Phú Thọ được phân bổ gồm 2 tiểu vùng:

+ Tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Tây Nam của tỉnh chủ yếu thuộc

các huyện Tân Sơn, Thanh Sơn, Yên Lập và Cẩm Khê là vùng có nhiều tiềm

năng về lâm nghiệp và khai thác khoáng sản.

+ Tiểu vùng đồi, gò thấp và xen kẽ đồng ruộng, bãi bồi ven sông Hồng,

sông Đà, sông Lô đây là vùng thuận lợi cho trồng các loại cây cây lương thực,

rau màu và cây ăn quả; thuận lợi cho phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và

thủy sản. Tiểu vùng này có tiềm năng lớn để phát triển công nghiệp điện tử,

tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến…

- Độ tuổi lao động

Tỉnh Phú Thọ có trên 1,4 triệu người, với 21 dân tộc cùng sinh sống, số

người trong độ tuổi lao động 800.000 người (60% dân số), trong đó lực lượng

lao động trẻ 65%, số lao động đã qua đào tạo 40%.

Đơn vị hành chính

Tỉnh Phú Thọ có có 13 đơn vị hành chính cấp huyện gồm: TP Việt trì

(là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh và là thành phố về miền Lễ

hội cội nguồn các dân tộc Việt Nam), Thị xã Phú Thọ, các huyện: Lâm Thao,

Phù Ninh, Thanh Ba, Đoan Hùng, Hạ Hòa, Yên Lập, Cẩm Khê, Thanh sơn,

Tân Sơn, Thanh Thủy, Tam Nông với 277 đơn vị hành chính cấp xã.

Điều kiện tự nhiên như trên, tác giả thấy rằng tỉnh Phú Thọ là một tỉnh

trung du miền núi phía bắc bên cạnh những thuận lợi ở dạng tiềm năng vẫn

còn khó khăn về nhiều mặt như: giao thông đi lại khó khăn nhất là các huyện

miền núi, đất đai khô cằn, mưa lũ thường xảy ra nhiều… đã tạo ra những khó

khăn, ảnh hưởng không thuận lợi tới phát triển kinh tế- xã hội, nâng cao đời

sống vật chất, tinh thần của nhân dân cũng như tổ chức và hoạt động của các

cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị của tỉnh trong đó có Cục Thi hành

30

án dân sự tỉnh.

2.1.2. Điều kiện kinh tế- xã hội tỉnh Phú Thọ

2.1.2.1. Về kinh tế

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2016-2020 ước đạt 8,2%,

trong đó nông lâm nghiệp tăng 4,3%; CN- XD tăng 11,2%; DV tăng 7,5%. Quy

mô GRDP năm 2020 ước đạt 68, 5 nghìn tỷ đồng bằng 1,6 lần so 2015. GRDP

bình quân đầu người 47,32 triệu đồng tăng 15,8 triệu đồng. Các khu vực kinh

tế, các ngành kinh tế đều có bước phát triển về quy mô, hiệu quả. Cơ cấu kinh

tế đã chuyển từ NLN- CN, XD- DV sang cơ cấu CN, XD - DV- NLN và CN-

XD giữ vai trò chủ đạo. Kết quả phát triển KT- XH của tỉnh trong các lĩnh

vực 5 năm 2016- 2020 thể hiện khái quát như sau:

+ Sản xuất công nghiệp được đẩy mạnh à duy trì đà tăng trưởng cao

hằng năm với tốc độ bình quân 11,2%, giá trị tăng thêm 18,818 tỷ đồng; cơ

cấu ngành chuyển dịch đúng hướng sang công nghiệp chế biến và công

nghiệp phụ trợ, đã thu hút được một số dự án qui mô lớn công nghệ hiện đại,

hiệu quả kinh tế cao; các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã đi vào sản

xuất có hiệu quả như: Thụy Vân, Phù Ninh, Hạ Hòa, Cẩm Khê

+ Các ngành dịch vụ tiếp tục phát triển, đáp ứng nhu cầu phục vụ sản

xuất và đời sống nhân dân, với độ tăng trưởng bình quân hằng năm 7,5%; giá

trị tăng 1,6 lần so 2015 chất lượng các ngành dịch vụ phục vụ sản xuất và dời

sống nhân dân ngày càng tốt hơn. Phát triển du lịch được coi là đột phá và đạt

kết quả tích cực kể cả về đầu tư xây dựng hạ tầng, thu hút khách du lịch, nâng

cao chất lượng phục vụ.

+ Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới được quan tâm triển

khai có sự chuyển biến tích cực và duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao. Giá trị

tăng bình quân hàng năm 4,3%, vượt chỉ tiêu đề ra và cao hơn bình quân của

cả nước. Trong nông nghiệp tích cực chuyển dịch cơ cấu vật nuôi; cây trồng

theo hướng hiệu quả (giá trị sản phẩm đạt 108 triệu đồng/ha, tăng 28% so với

31

năm 2015). Xây dựng nông thôn mới được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng, đến

hết năm 2019 có 2 đơn vị cấp huyện hoàn thành tiêu chí nông thôn mới (TP

Việt Trì và Thị xã Phú Thọ), 90 xã đạt chuẩn nông thôn mới.

+ Ngoài các kết quả trên đầu tư phát triển quản lý qui hoạch đạt kết quả

quan trọng; hoạt động tài chính, ngân hàng được chú trọng nâng cao hiệu quả;

công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và phát triển, các thành phần

kinh tế tiếp tục được quan tâm chỉ đạo phát triển đúng hướng; công tác quản

lý tài nguyên, môi trường hoạt động khoa học và công nghệ có được phát

triển tích cực theo hướng hiệu quả, bền vững.

Từ các kết quả phát triển kể trên, qua đánh giá chỉ số phát triển chung

của tỉnh Phú Thọ so với 13 tỉnh vùng trung du, miền núi Bắc Bộ (hết năm

2019 tỉnh Phú Thọ xếp thứ 2 của vùng về trình độ phát triển vượt 2 bậc so với

2015, chỉ đứng sau Thái Nguyên). Tỉnh Phú Thọ đã trở thành trung tâm công

nghiệp của Việt Nam, là 1 trong 14 trung tâm vùng của cả nước với thế mạnh

công nghiệp sản xuất chế biến các sản phẩm giấy, chè, thủy sản.

2.1.2.2. Về văn hóa xã hội

+ Giáo dục, đào tạo tiếp tục phát triển, khâu đột phá nguồn nhân lực

được chú trọng, trong đó qui mô các trường lớp, ngành nghề đào tạo các cấp

học tiếp tục phát triển; phát triển nguồn nhân lực nhanh về số lượng, chất

lượng, về thể lực, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp; các hoạt động văn hóa

thông tin, báo chí, xuất bản, phát thanh truyền hình, văn học nghệ thuật có

nhiều khởi sắc rõ rệt; công tác y tế, dân số, gia đình, trẻ em được chú trọng

thực hiện đạt kết quả khá (100% xã phường đạt chuẩn y tế); công tác giải

quyết việc làm đảm bảo an sinh xã hội; công tác dân tộc, tôn giáo đạt kết quả

tích cực; tỷ lệ giảm nghèo bình quân 1,52%/năm, huyện Tân Sơn được công

nhận thoát nghèo; xuất khẩu lao động 3,0 nghìn người/năm, tỷ lệ dân tham gia

bảo hiểm y tế đạt 90%.

32

( Nguồn Báo cáo của Sở Ngoại vụ tỉnh Phú Thọ).

2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng khác

Trong 5 năm qua đặc biệt 3 năm gần đây cải cách hành chính, sắp xếp

lại tổ chức bộ máy từ tỉnh tới cơ sở, tổ chức sắp lại bên trong các sở, ngành,

sắp xếp triển khai sáp nhập các xã, khu dân cư được triển khai tích cực theo

hướng tinh gọn, bước đầu ổn đinh, hoạt động có hiệu quả. Ý thức và thái độ

phục vụ doanh nghiệp và người dân của bộ máy hành chính và đội ngũ cán

bộ, công chức, viên chức được nâng lên, cơ bản chuyển từ cơ chế quản lý

hành chính sang phục vụ. Sự đoàn kết nhất trí trong lãnh đạo của các cơ quan

Đảng, chính quyền, đoàn thể ở tất cả các cấp, các ngành được nâng cao. Quốc

phòng an ninh được củng cố và giữ vững. Công tác phòng chống tham nhũng,

lãng phí được đẩy mạnh và có chuyển biến tích cực.

Tóm lại, về điều kiện kinh tế- xã hội của tỉnh Phú Thọ như trên về cơ

bản đã tạo ra những thuận lợi cho tổ chức và hoạt động của ngành THADS

tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những khuyết điểm hạn chế như: việc

huy động các nguồn lực đầu tư một số ngành, lĩnh vực còn khó khăn; sản xuất

nông nghiệp an toàn, chất lượng cao còn hạn chế; sản xuất công nghiệp ở một

số ngành truyền thống chững lại, thậm chí mai một giảm sút; một số sản phẩm

giá trị cạnh tranh thấp (giấy, phân bón); chất lượng dịch vụ chưa đáp ứng yêu

cầu; tình trạng lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường chậm được khắc

phục. Trong các lĩnh vực xã hội, việc đầu tư cho giáo dục chưa cao, còn trông

chờ, ỷ lại vào cấp trên, nhà nước. Trình độ chuyên môn của đội ngũ giáo viên,

cán bộ tế, văn hóa du lịch chưa đáp ứng nhu cầu. Công tác xã hội hóa, huy

động nguồn lực đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, đô thị còn ở mức thấp; tội

phạm, tệ nạn xã hội còn nhiều và tiềm ẩn yếu tố phức tạp; công tác cải cách

hành chính; phối hợp các lực lượng, các cơ quan chức năng trong việc nắm

tình hình, xử lý các vấn đề về an ninh trật tự, khiếu nại tố cáo, tham nhũng

còn có lúc, có nơi chưa chặt chẽ, kịp thời.

33

Những khó khăn, khuyết điểm, hạn chế trên đây là những ảnh hưởng

tác động không thuận lợi tới việc tổ chức và hoạt động của ngành thi hành án

dân sự tỉnh Phú Thọ, thể hiện:

Trước hết, cho đến nay so với mặt bằng chung cả nước thì Phú Thọ vẫn

là tỉnh nghèo, kinh tế phát triển chậm dẫn tới đời sống nhân dân còn khó khăn

trong đó có cả đội ngũ công chức thi hành án dân sự. Do vậy, tội phạm, vi

phạm pháp luật diễn ra phức tạp kể cả trong các cơ quan thi hành án dân sự

phải khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Tình hình trên ảnh hưởng

không tốt tới tổ chức, uy tín cơ quan thi hành án dân sự trong tỉnh và số việc

phải thực hiện thi hành án dân sự hàng năm đều tăng;

Thứ hai, cùng với kinh tế phát triển chậm, công tác quản lý nhà nước

về mọi mặt kinh tế- xã hội nhất là về đất đai, về tài chính, thị trường, về lao

động… của các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh chưa tốt, chưa tạo điều

kiện cho nhân dân, doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi, ổn

định dẫn đến mâu thuẫn, tranh chấp khởi kiện nhiều nên số vụ việc tòa án

thụ lý, xét xử tăng nên khi bản án có hiệu lực phải thi hành về tài sản về tiền

rất khó khăn dẫn tới tồn đọng lớn, kéo dài;

Thứ ba, công tác phối hợp giữa các cấp các ngành, đoàn thể trong lãnh

đạo chỉ đạo công tác thi hành án dân sự chưa nhịp nhàng, chặt chẽ đồng thời

chưa tạo điều kiện thuận lợi một cách cụ thể, mạnh mẽ về tổ chức, hoạt động

cho các cơ quan thi hành án dân sự và toàn thể cán bộ, công chức, viên chức

của ngành THADS.

Thư tư, là tỉnh trung du miền núi địa bàn rộng, giao thông không tốt đi

lại khó khăn trong khi lương, các chế độ phụ cấp còn thấp, kinh tế gia đình

còn khó khăn nên cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tâm tư tình cảm cũng như

thái độ, trách nhiệm thực thi công vụ của một số công chức trong cơ quan thi

34

hành án của tỉnh.

2.2. Thực trạng tổ chức bộ máy của Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Phú Thọ giai đoạn 2011-2020

2.2.1. Kết quả đạt được

2.2.1.1. Về tổ chức

Ngày 06 /11/2009, Bộ trởng Bộ Tư pháp đã ký Quyết định về việc

thành lập Cục thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ và ở cấp huyện là Chi cục thi

hành án dân sự. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ là cơ quan trực thuộc

Tổng cục Thi hành án dân sự, chịu trách nhiệm trước Tổng Cục trưởng Tổng

cục Thi hành án dân sự, đồng thời chịu sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh

Phú Thọ theo quy định tại Điều 173 Luật thi hành án dân sự, có trách nhiệm

báo cáo công tác với Uỷ ban nhân dân tỉnh về chủ trương, biện pháp tăng

cường công tác thi hành án dân sự trên địa bàn; thực hiện báo cáo công tác thi

hành án dân sự trước Hội đồng nhân dân tỉnh theo quy định của pháp luật và

giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự quản lý một số mặt công

tác tổ chức cán bộ các cơ quan Thi hành án dân sự tại địa phương.

Từ năm 2011 đến nay Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ về tổ chức

bộ máy và hoạt động đã đạt được kết quả chủ yếu dưới đây:

Một là, cơ cấu tổ chức của Cục được giữ ổn định, không tăng đầu mối

- Về Ban lãnh đạo của Cục thi hành án dân sự gồm có: Cục trưởng và

03 Phó Cục trưởng theo hướng dân của Tổng cục thi hàn án (Bộ Tư pháp). Cụ

thể Ban lãnh đạo của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ hiện nay:

+ Cục trưởng: Lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành mọi mặt hoạt động

của Cục theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cục Thi hành án dân sự

tỉnh Phú Thọ. Trực tiếp chỉ đạo công tác xây dựng và phát triển ngành, công

tác tổ chức cán bộ, tài chính của Cục và các Chi Cục Thi hành án dân sự trực

thuộc, công tác ngoại giao.

+ Phó Cục trưởng: Tham mưu giúp Cục trưởng phụ trách lĩnh vực

35

Nghiệp vụ thi hành án, chỉ đạo công tác xây dựng văn bản pháp luật, các văn

bản hướng dẫn nghiệp vụ các chương trình tập huấn nghiệp vụ đối với các

phòng chuyên môn, Chi cục THADS huyện thành phố trong tỉnh, thực hiện

các công việc khi được Cục trưởng ủy quyền và các công việc khác được Cục

trưởng phân công.

+ Phó Cục trưởng: Tham mưu giúp Cục trưởng phụ trách lĩnh vực

Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; chỉ đạo công tác xây dựng kế hoạch

kiểm tra định kỳ, đột xuất đối với Chi cục THADS huyện, thành phố trực

thuộc tỉnh; xem xét, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và chuyển cơ quan

khác giải quyết theo thẩm quyền… . Thực hiện các công việc khi được Cục

trưởng ủy quyền và các công việc khác được Cục trưởng phân công.

+ Phó Cục trưởng: Tham mưu giúp Cục trưởng phụ trách lĩnh vực Văn

phòng và các nhiệm vụ do Văn phòng Cục tham mưu; chỉ đạo xây dựng các

loại báo cáo, báo cáo thống kê, chương trình, kế hoạch công tác của Cục, Chi

cục THADS huyện, thành phố trực thuộc…Thực hiện các công việc khi được

Cục trưởng ủy quyền và các công việc khác được Cục trưởng phân công.

- Các Phòng chuyên môn gồm có 04 Phòng gồm

Văn phòng: Văn phòng là cơ quan chuyên môn có trách nhiệm giúp

Cục trưởng, các Phó Cục trưởng trong công tác quản lý, chỉ đạo điều hành các

hoạt động của Cục; Tổ chức thực hiện công tác hành chính, văn thư, lưu trữ,

thông tin liên lạc và bảo mật thông tin, tài liệu; Tổ chức thực hiện công tác lễ

tân, quản trị, quản lý kinh phí, tài sản, cơ sở vật chất; Đôn đốc, theo dõi, kiểm

tra việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong cơ quan Cục và việc thực

hiện Quy chế làm việc, Quy chế về quản lý tài sản, Quy chế chi tiêu nội bộ và

các quy định khác của Cục và các đơn vị trực thuộc; Thực hiện nhiệm vụ cải

cách hành chính, cải cách tư pháp theo mục tiêu và nội dung chương trình cải

cách hành chính, cải cách tư pháp được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong

lĩnh vực Văn phòng; Thực hiện ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ thông

36

tin trong công tác Văn phòng; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy

định của pháp luật hoặc do Cục trưởng giao.

Cơ cấu tổ chức, biên chế của Văn phòng hiện nay có Chánh Văn phòng

chịu trách nhiệm trước Cục trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện các

nhiệm vụ, quyền hạn được giao của Văn phòng; Phó Chánh Văn phòng giúp

Chánh Văn phòng quản lý, điều hành hoạt động của Văn phòng; trực tiếp

quản lý một số lĩnh vực, nhiệm vụ công tác theo sự phân công của Chánh Văn

phòng; chịu trách nhiệm trước Chánh Văn phòng và trước pháp luật về những

lĩnh vực, nhiệm vụ công tác được phân công.

Biên chế của Văn phòng hiện nay thuộc biên chế hành chính của Cục

do Cục trưởng quyết định phân bổ trên cơ sở đề nghị của Phòng Tổ chức cán

bộ và Chánh Văn phòng.

Phòng Tổ chức cán bộ: Phòng Tổ chức cán bộ có trách nhiệm tham

mưu giúp Cục trưởng thực hiện chức năng quản lý về tổ chức, cán bộ của

Ngành; Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác phòng ngừa đấu tranh

chống tham nhũng, công tác cải cách hành chính, thi đua khen thưởng. Phòng

tổ chức cán bộ hiện nay gồm có Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước Cục

trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được

giao của Phòng Tổ chức cán bộ. Các Phó Trưởng phòng giúp Trưởng phòng

quản lý, điều hành hoạt động của Phòng; trực tiếp quản lý một số lĩnh vực,

nhiệm vụ công tác theo sự phân công của Trưởng phòng; chịu trách nhiệm

trước Trưởng phòng và trước pháp luật về những lĩnh vực, nhiệm vụ công tác

được phân công. Biên chế của Phòng Tổ chức cán bộ hiện nay thuộc biên chế

hành chính của Cục do Cục trưởng quyết định phân bổ trên cơ sở đề nghị của

Phòng Tổ chức cán bộ.

Phòng Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án dân sự: Phòng Nghiệp vụ và

Tổ chức thi hành án dân sự có trách nhiệm tham mưu giúp Cục trưởng thực

hiện chức năng quản lý về nghiệp vụ và tổ chức thi hành án dân sự và trực

37

tiếp thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Phòng

Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án dân sự hiện nay có Trưởng phòng chịu

trách nhiệm trước Cục trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện các nhiệm

vụ, quyền hạn được giao của Phòng Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án dân sự.

Phó Trưởng phòng giúp Trưởng phòng quản lý, điều hành hoạt động của

Phòng; trực tiếp quản lý một số lĩnh vực, nhiệm vụ công tác theo sự phân

công của Trưởng phòng; chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng và trước pháp

luật về những lĩnh vực, nhiệm vụ công tác được phân công. Biên chế của

Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án dân sự hiện nay thuộc biên chế hành chính

của Cục do Cục trưởng quyết định phân bổ trên cơ sở đề nghị của Phòng Tổ

chức cán bộ và Phòng Nghiệp vụ và Tổ chức thi hành án dân sự.

Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự:

Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự là cơ quan

tham mưu giúp Cục trưởng thực hiện chức năng quản lý về Kiểm tra và giải

quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự và trực tiếp Kiểm tra và giải quyết

khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp

luật. Phòng Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự

hiện nay có Trưởng phòng chịu trách nhiệm trước Cục trưởng và trước pháp

luật về việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao của Phòng Kiểm tra

và giải quyết khiếu nại, tố cáo thi hành án dân sự. Phó Trưởng phòng giúp

Trưởng phòng quản lý, điều hành hoạt động của Phòng; trực tiếp quản lý một

số lĩnh vực, nhiệm vụ công tác theo sự phân công của Trưởng phòng; chịu

trách nhiệm trước Trưởng phòng và trước pháp luật về những lĩnh vực, nhiệm

vụ công tác được phân công.

Biên chế của Phòng Kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay

thuộc biên chế hành chính của Cục do Cục trưởng quyết định phân bổ trên cơ

sở đề nghị của Phòng Tổ chức cán bộ và Phòng Phòng Kiểm tra và giải quyết

38

khiếu nại, tố cáo.

Như vậy về cơ cấu tổ chức bộ máy của Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ

đã được kiện toàn đúng theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và đã đi

vào hoạt động ổn định.

- Về tổ chức bộ máy của các Chi cục THADS cấp huyện

Tỉnh Phú Thọ có có 13 đơn vị hành chính cấp huyện và ở mỗi đơn vị

hành chính này đều có Chi Cục thi hành án dân sự:

+ Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt trì

+ Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Thọ

+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Khê

+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đoan Hùng

+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hạ Hòa

+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Thao

+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Ninh

+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Ba

+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Thủy

+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Nông

+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Sơn

+ Chi cục Thi hành án dân sự huyện Yên Lập

Cơ cấu tổ chức bộ máy của toàn bộ các Chi cục trên đều thực hiện theo

đúng quy định của Bộ Tư pháp.

Hai là, giữ ổn định số lượng các Phòng của Cục, các Chi cục

Từ năm 2011 đến nay số lượng các Phòng của Cục Thi hành án dân sự

tỉnh và các Chi cục được giữ ổn định không có sự thay đổi. Việc giữ ổn

định, không thay đổi này là do Cục Thi hành án tỉnh thực hiện đúng sự

hướng dẫn của Tổng cục Thi hành án dân sự, sự chỉ đạo của UBND tỉnh Phú

Thọ và phù hợp với tình hình thực tế của tỉnh. Đặc biệt việc giữ ổn định 04

Phòng của Cục Thi hành án dân sự của tỉnh Phú Thọ là do đã được phân

39

định rõ chức chức nhiệm của từng Phòng không có sự chồng chéo nên công

việc của từng Phòng và của cả Cục thông suốt không có ách tắc đồng thời

tinh gọn giảm chức danh lãnh đạo cấp phòng. Ví dụ như ở một số Cục thi

hành án các tỉnh có Phòng Tài chính- Kế toán nhưng ở Cục Thi hành án tỉnh

Phú Thọ thì nhiệm vụ tài chính- kế toán do Văn phòng thực hiện là phù hợp

không cần thiết thành lập Phòng Tài chính- Kế toán. Đối với cấp huyện thì

do Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi nên địa giới các huyện rộng, giao

thông khó khăn, nhiều huyện có nhiều đồng bào dân tộc ở phân tán nên việc

thành lập và giữ ổn định các Chi cục Thi hành án dân sự là hợp lý đảm bảo

cho thi hành án dân sự ở huyện hiệu quả.

Ba là, chức năng, nhiệm vụ của Cục tập trung vào tổ chức thi hành án

dân sự thuộc thẩm quyền và quản lý các Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện

Hàng năm căn cứ vào chỉ tiêu thi hành án dân sự Tổng cục Thi hành án

dân sự giao và thực tế ở tỉnh, Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ đã tập trung lãnh

chỉ đạo các công việc chủ yếu sau đây:

+ Về thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ: Tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn

đốc giải quyết thi hành án phấn đấu nâng cao chất lượng, tỷ lệ THADS xong

về việc và về tiền đạt và vượt chỉ tiêu được giao theo quy định mới của luật

sửa đổi, sửa đổi bổ sung một số điều luật của THADS, đảm bảo kết quả

THADS, thi hành án hành chính thực chất, bền vững trong đó có các vụ khó

khăn, phức tạp, kéo dài trên cơ sở có phân tích đánh giá đề ra các kế hoạch

cụ thể tổ chức thi hành bản án đồng thời phát huy trách nhiệm, chủ động,

sáng tạo của đội ngũ Chấp hành viên.

+ Về công tác tổ chức cán bộ: Hàng năm đều thực hiện việc tiếp tục

rà soát bổ sung, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ, công

chức làm công tác thi hành án dân sự đủ về số lượng, đảm bảo về chất

lượng, trong đó tập trung chú trọng vào những địa bàn, đơn vị còn nhiều tồn

tại, hạn chế thông qua công tác tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, luân

40

chuyển, bổ nhiệm. Tập trung rà soát cán bộ, công chức để cử tham gia tập

huấn, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ đồng thời rèn luyện phẩm chất

đạo đức, phẩm chất cho cán bộ, công chức; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm

minh những trường hợp cán bộ, công chức trong các cơ quan Thi hành án

dân sự nếu có hành vi vi phạm.

+ Về hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ đối với các Chi cục và giải quyết

khiếu nại, tố cáo: Từ lãnh đạo Cục đến các Phòng chuyên môn của Cục hàng

năm đều tích cực học tập nghiên cứu nâng cao trình độ nghiệp vụ đồng thời

căn cứ vào hướng dẫn nghiệp vụ của Tổng cục để nâng cao chất lượng và

hiệu quả công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, công tác giải quyết khiếu

nại, tố cáo, nhất là tại Chi cục THADS huyện, thành, thị, khắc phục những

khó khăn, vi phạm thiếu sót về chuyên môn, nghiệp vụ, những sai sót không

đáng có thông qua tập huấn hoặc văn bản hướng dẫn cụ thể. Chủ động xử lý

kịp thời, đúng luật các vụ việc khiếu nại, tố cáo của công dân, hạn chế xảy ra

các trường hợp khiếu nại, khiếu kiện vượt cấp làm phức tạp tình hình.

Đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng công nghệ thông

tin trong hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành và trong công tác chuyên môn

nghiệp vụ, góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS, tạo sự minh bạch

công khai trong hoạt động thi hành án.

- Các công tác khác: Chú trọng nâng cao chất lượng công tác tham

mưu, tổng hợp, báo cáo, thống kê, công tác thi đua khen thưởng. Tổ chức thực

hiện các nhiệm vụ khác theo chương trình, kế hoạch công tác năm của Cục,

(Nguồn Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự các năm từ 2011 đến

nay của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ).

Tổng cục Thi hành án dân sự.

2.2.1.2. Về hoạt động

- Về hoạt động thi hành án dân sự theo Nghị quyết số 111/2015/QH13

của Quốc hội

41

Hàng năm Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ đã có nhiều cố gắng thi hành

án dân sự một cách tích cực cả về số việc (đạt tỷ lệ 75% so với chỉ tiêu được

Quốc hội giao, vượt 3 %)và về tiền, trong số việc có điều kiện, đã giải quyết

xong đạt tỷ lệ 38% (so với chỉ tiêu Quốc hội giao, vượt 5%). Trong đó:

* Tích cực, quyết tâm cao thi hành án đối với các khoản thu cho Ngân

sách Nhà nước, đạt tỷ lệ 69,4%; giải quyết các vụ việc liên quan đến tín dụng,

ngân hàng: đã giải quyết đạt tỷ lệ 11,2% về việc và 20,7% về tiền; xét miễn,

giảm thi hành án, các cơ quan Thi hành án dân sự đã tích cực phối hợp với

Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp rà soát, lập hồ sơ và đề nghị Tòa án nhân

dân có thẩm quyền xét miễn, giảm đúng việc, đứng pháp luật; tổ chức thi

hành phần dân sự trong các bản án hình sự đối với phạm nhân tại các Trại

giam thuộc Bộ Công an hàng năm đều đạt, đạt tỷ lệ 50% về việc, 18% về tiền;

tổ chức cưỡng chế thi hành án đối với phải tổ chức cưỡng;

* Chủ động và có nhiều nỗ lực thực hiện một số chỉ tiêu khác theo Nghị

quyết số 37 của Quốc hội như: hàng năm, Cục THADS tỉnh đã chỉ đạo Phòng

chuyên môn thuộc Cục, Chi cục THADS huyện, thành, thị thực hiện một số

chỉ tiêu khác theo Nghị quyết số 37 của Quốc hội về “Ra quyết định thi hành

án đúng thời hạn đối với 100% các bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu

lực theo đúng quy định của pháp luật”; chỉ tiêu về “bảo đảm chính xác, đúng

pháp luật trong việc xác minh, phân loại án dân sự có điều kiện thi hành và

chưa có điều kiện thi hành”; Các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đã

“Cơ bản khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động thi hành án”.

- Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo

* Công tác tiếp công dân: Cục THADS tỉnh đã làm tốt Công tác tiếp

công dân và chỉ đạo các Phòng chuyên môn và Chi cục THADS cấp huyện

thực hiện việc tiếp công dân tại trụ sở làm việc, có bố trí phòng tiếp công dân,

lịch tiếp công dân đảm bảo theo quy định. Do đó, mọi yêu cầu của công dân

đều được tiếp nhận và giải quyết theo đúng thẩm quyền không xảy ra việc

42

phức tạp, bức xúc lớn, đặc biệt là khiếu kiện tập trung đông người.

* Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong công tác thi hành án dân

sự được coi trọng và thực hiện nghiêm túc quy định pháp luật về giải quyết

khiếu nại, tố cáo và giải quyết được đạt tỷ lệ 87,8%.

- Công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ và công tác kiểm tra

* Công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ

Lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đã coi trọng và thường

xuyên chỉ đạo Phòng chuyên môn, Chi cục THADS huyện, thành, thị thực

hiện đầy đủ Quy trình hướng dẫn nghiệp vụ trong nội bộ Hệ thống THADS

(kèm theo Quyết định số 824/QĐ-TCTHADS ngày 03/12/2014) do Tổng cục

THADS ban hành. Bên cạnh đó, tại các cuộc họp giao ban tháng, quý, và tổng

kết hàng năm Lãnh đạo Cục THADS tỉnh đã trực tiếp nghe các Thủ trưởng

các đơn vị báo cáo về tình hình triển khai Kế hoạch công tác, kết quả công

tác, các vụ việc có khó khăn, vướng mắc… qua đó Cục kịp thời nắm bắt, chỉ

đạo, hướng dẫn giải quyết kịp thời góp phần đẩy nhanh tiến độ tổ chức thi

hành án, phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ được giao.

* Công tác kiểm tra

Hàng năm, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ luôn chú trọng và

tăng cường công tác kiểm tra thường xuyên đối với 13 đơn vị thi hành án dân

sự cấp huyện và Phòng nghiệp vụ & TCTHADS. Bên cạnh đó Cục Thi hành

án dân sự tỉnh đã thực hiện kiểm tra đột xuất và ban hành kết luận Kiểm tra

theo chuyên đề về công tác Kế toán Nghiệp vụ Thi hành án ở 13 Chi cục Thi

hành án dân sự cấp huyện. Qua công tác kiểm tra đã kịp thời phát hiện thiếu

xót để chấn chỉnh và phát hiện vi phạm xử lý theo thẩm quyền hoặc đề nghị

cơ quan nhà nước khác xử lý theo pháp luật như vụ việc vi phạm nghiêm

trọng trong công tác quản lý tiền thi hành án tại Chi cục Thi hành án dân sự

thành phố Việt Trì.

Việc kiểm tra được lãnh đạo Cục được thực hiện đúng ngay từ khi ban

43

hành quyết định kiểm tra, kế hoạch kiểm tra, công bố quyết định sau đó tiến

hành kiểm tra và ban hành kết luận kiểm tra theo đúng Quy trình kiểm tra

được ban hành kèm theo Quyết định số 83/QĐ-TCTHADS ngày 28/01/2015

của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự.

- Công tác thi hành án hành chính

Cục Thi hành án dân sự tỉnh quán triệt đến các phòng chuyên môn

thuộc Cục, Chi cục Thi hành án dân sự huyện, thành, thị tiếp tục triển khai,

thực hiện có hiệu quả các văn bản về công tác thi hành án hành chính như:

Luật Tố tụng hành chính 2015; Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016

của Chính Phủ quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và

xử lý trách nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Toà án

hành chính; Quyết định số 1856/QĐ-BTP ngày 01/9/2016 của Bộ Tư pháp

ban hành kế hoạch triển khai thi hành Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày

01/7/2016 nhằm đưa công tác thi hành án hành chính trên địa bàn tỉnh Phú

Thọ ngày càng đi vào nề nếp. Đến nay, các cơ quan Thi hành án dân sự đã

thực hiện rà soát, đối chiếu với Tòa án nhân dân cùng cấp trong việc xét xử

các vụ án hành chính. Kết quả: trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đã theo dõi 3 việc,

quá trình theo dõi, có 03/03 việc đã thực hiện xong việc hủy Giấy chứng nhận

quyền sử dụng đất.

- Công tác tài chính, kế toán

* Công tác quản lý kinh phí, ngân sách: Trên cơ sở dự toán ngân sách

do Bộ Tư pháp cấp hàng năm, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã thực hiện

xong quyết toán kinh phí ngân sách năm và giao dự toán ngân sách năm sau,

đồng thời chỉ đạo các đơn vị rà soát để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới

quy chế chi tiêu nội bộ cho phù hợp với tình hình thực tế tại đơn vị, thực

hiện công khai tài chính định kỳ nhằm quản lý chặt chẽ việc sử dụng kinh

phí phục vụ hoạt động chuyên môn đảm bảo đúng quy định, tiết kiệm, đúng

mục đích, hiệu quả.

44

* Công tác quản lý tài sản, đầu tư xây dựng cơ bản: đã thực hiện việc

theo đúng hướng dẫn của Tổng Cục theo đúng quy định pháp luật. Công tác

điều hòa phí luôn được rà soát đến từng đơn vị trong toàn tỉnh và báo cáo số

phí thu được để lại làm cơ sở cho Tổng Cục điều hòa kinh phí hàng năm.

- Công tác phối hợp trong thi hành án dân sự

Các cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ thường xuyên tăng

cường mối quan hệ và phối hợp tốt với một số cơ quan có liên quan trong giải

quyết thi hành án dân sự như: Phối hợp với các Trại giam, Trại tạm giam để

giải quyết các khoản tiền thi hành án còn tồn tại các Trại giam, Trại Tạm

giam theo Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC kịp thời cấp

giấy xác nhận thi hành xong hình phạt tiền và trách nhiệm dân sự làm cơ sở

để xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, đặc xá cho phạm nhân; Phối hợp

tốt với Tòa án nhân dân cùng cấp trong việc đối chiếu, giao nhận Bản án, vận

động gia đình bị cáo tự nguyện nộp các khoản tạm thu án phí, sung công quỹ

nhà nước tại phiên toà xét xử. Rà soát, đối chiếu bản án quyết định của Toà án

để đảm bảo 100% bản án đã có hiệu lực pháp luật được đưa ra thi hành; Phối

hợp với Viện Kiểm sát nhân dân hai cấp trong công tác hiện tốt quy chế phối

hợp liên Ngành số 431/QCPH-VKS-TA-CA-THADS ngày 14/3/2014 về việc

phối hợp liên Ngành trong hoạt động thi hành án dân sự; Phối hợp với Sở Tư

pháp trong công tác tuyên truyền, PBGDPL về THADS; thực hiện các nhiệm

vụ được Bộ Tư pháp giao; phối hợp cung cấp kết quả thi hành án để thực hiện

Luật Lý lịch Tư pháp; Phối hợp với Ngân hàng Nhà nước trong việc thực thi

những vụ việc liên quan đến các tổ chức tín dụng, ngân hàng; rà soát, tổng

hợp các bản án, quyết định của Tòa án liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm

của các khoản nợ xấu đã có hiệu lực đang được thi hành hoặc chưa thi hành

để tổng hợp báo cáo lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự trong việc triển

khai thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH; Phối hợp với các cơ quan: Tài

chính, Tài nguyên môi trường, Công an, bảo hiểm xã hội... trong việc thi hành

45

án như: Xác minh điều kiện phải thi hành án của người phải thi hành án và

những người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan; Tổ chức xử lý, tiêu huỷ tang

vật; Giao nhận vật chứng, tài sản; Định giá tài sản; Cưỡng chế thi hành án,

thực hiện việc cưỡng chế khấu trừ thu nhập lương trong các việc phải thi hành

án cấp dưỡng nuôi con...; Phối hợp thường xuyên với UBND các xã, phường,

thị trấn trong quá trình xác minh điều kiện thi hành án, tống đạt các thông báo

về thi hành án làm các thủ tục niêm yết, giải quyết thi hành án dân sự và tham

gia cưỡng chế, kê biên tài sản của người phải thi hành án, niêm yết Quyết

định chưa có điều kiện thi hành án của người phải thi hành án theo quy định.

- Một số mặt công tác khác

* Hoạt động của Ban Chỉ đạo THADS từ tỉnh đến huyện được củng cố,

kiện toàn theo đúng văn bản chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, đảm bảo thiết

thực, có hiệu quả, nhất là trong việc chỉ đạo thi hành; Cục Thi hành án dân sự

tỉnh Phú Thọ đã tham mưu giúp BCĐ THADS tỉnh, Chủ tịch UBBND tỉnh

thực hiện quản lý nhà nước về công tác Thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh;

chỉ đạo các cơ quan có liên quan trong việc phối hợp giải quyết dứt điểm

những vụ, việc phải thi hành án có điều kiện thi hành và chỉ đạo việc tổ chức

cưỡng chế thi hành các vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng về an ninh, chính

trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương; Chủ động báo cáo Trưởng Ban chỉ đạo

THADS cấp mình về việc xin ý kiến chỉ đạo giải quyết những việc thi hành

án có khó khăn, vướng mắc trên địa bàn, đồng thời chỉ đạo các các cơ quan

hữu quan phối hợp chặt chẽ với cơ quan thi hành án dân sự để giải quyết có

hiệu quả đối với việc thi hành án dân sự trên địa bàn quản lý.

* Việc thực hiện Quy chế dân chủ dân chủ cơ sở và công tác phòng

chống tham nhũng, tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã thực hiện nghiêm túc

việc phổ biến cho công chức, viên chức trong đơn vị về các chủ trương của

Nhà nước, của ngành, những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ;

đảm bảo thông tin đến công chức, viên chức trong toàn đơn vị về việc sử

46

dụng công quỹ, tài sản công; việc thu chi tài chính, công tác quy hoạch, bổ

nhiệm, đào tạo và thi đua - khen thưởng.Vì vậy, công chức, viên chức trong

các cơ quan thi hành án dân sự tỉnh luôn giữ thái độ đúng đắn trong việc tiếp

dân không gây phiền hà sách nhiễu nhân dân; nội bộ đơn vị luôn đoàn kết,

thống nhất cao góp phần xây dựng đơn vị ngày càng vững mạnh.

* Công tác phòng chống tham nhũng tiếp tục tổ chức thực hiện Chỉ thị

số 01/CT-BTP ngày 11/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Kế hoạch số 15-

KH/TU ngày 07/7/2016 của Tỉnh ủy Phú Thọ về việc triển khai thực hiện Chỉ thị

số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị; Kế hoạch số 6022/KH-UBND

ngày 27/12/2016 của UBND tỉnh Phú Thọ về công tác Phòng chống tham

nhũng. Hàng năm, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã ban hành “Kế hoạch Công tác

phòng chống tham nhũng’’ và quán triệt nội dung đến toàn thể cán bộ, công

chức trong Cục, Chi cục THADS huyện, thành, thị thực hiện nghiêm Chỉ thị

về Công tác Phòng chống tham nhũng trong hoạt động THADS tại đơn vi

mình quản lý đồng thời luôn kiểm tra việc thực hiện. Do vậy, thời gian qua

không có xảy ra tham nhũng trong toàn ngành.

* Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật luôn được quan tâm và

được coi là một trong những giải pháp hữu hiệu để đẩy mạnh, nâng cao hiệu

quả công tác thi hành án dân sự. Thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến

pháp luật thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật khác liên quan đã tác

động tích cực đến nhận thức của người dân đối với công tác thi hành án dân

sự, từ đó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự

trên địa bàn toàn tỉnh.

Tóm lại, trong điều kiện tình hình công tác thi hành án dân sự còn gặp

nhiều khó khăn, song trong mấy năm qua Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú

Thọ đã tích cực chỉ đạo các cơ quan thi hành án dân sự trên địa bàn phấn đấu

hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ THADS, hành chính được giao. Tuy nhiên,

bên cạnh những kết quả đạt được tương đối toàn diện, tổ chức và hoạt động

47

của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ vẫn còn những hạn chế, bất cấp cần

(Nguồn: Báo cáo Tổng kết công tác thi hành án dân sự các năm từ 2011 đến nay)

sửa chữa, khắc phục trong thời gian tới.

2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân

2.2.2.1. Một số hạn chế và nguyên nhân về tổ chức

- Hạn chế

Thời gian qua, việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của Cục Thi

hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đạt được kết quả tích cực, đã khắc phục được

nhiều bất hợp lý trong tổ chức bộ máy của đơn vị, tuy nhiên vẫn còn một số

hạn chế, đó là:

Thứ nhất, tổ chức bộ máy bên trong của Cục vẫn còn những điểm chưa

hợp lý; chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền, trách nhiệm giữa các phòng tuy

đã cơ bản khắc phục được sự chồng chéo, nhưng trên một số lĩnh vực vẫn còn

giao thoa, đan xen hoặc phân công chưa thực sự phù hợp hoặc chưa đủ rõ, dẫn

đến khó xác định trách nhiệm khi có vấn đề xảy ra.

Thứ hai, công tác phối hợp thực hiện chức năng, nhiệm vụ giữa các

Phòng trong Cục, giữa Cục với một số cơ quan và giữa các cơ quan có trách

nhiệm liên quan đến thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh còn hạn chế, chưa

thực hiện nguyên tắc một việc chỉ giao cho một cơ quan, một người chủ trì,

chịu trách nhiệm chính. Thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực vẫn còn

phức tạp, rườm rà, chậm được khắc phục ảnh hưởng không tốt đến công tác

thi hành án.

Thứ ba, tổ chức bộ máy tại Cục và các Chi cục chưa hợp lý, biên chế

thiếu ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thi hành án chung của toàn ngành. Từ

đó, lãnh đạo một số Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện có lúc, có việc còn

chưa sâu sát, thiếu kiểm tra, giám sát, nhắc nhở cán bộ dưới quyền dẫn đến

xảy ra thiếu xót, khuyết điểm thậm trí có nới vi phạm nghiêm trọng trong

công tác quản lý tiền thi hành án làm thất thoát tiền thi hành án với số lượng

48

lớn phải xử lý trách nhiệm hình sự đối với cán bộ, công chức vi phạm. Một số

Chấp hành viên ý thức trách nhiệm nghề nghiệp chưa cao, chưa thật sự nêu

cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực thi nhiệm vụ ảnh hưởng trực

tiếp đến kết quả thi hành án chung của toàn ngành; một bộ phận công chức

chưa tích cực học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ,

trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng tình hình hiện nay;

Thứ năm, một số nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương về

quản lý nhà nước về thi hành án dân sự chưa được quy định rõ và cụ thể nên

chưa tạo thuận lợi cho tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở địa phương.

- Nguyên nhân của hạn chế

Một là, về pháp lý nói chung và pháp luật thi hành án dân sự còn chưa

đồng bộ thống nhất thậm trí vẫn còn mâu thuẫn với nhau và mâu thuẫn với

các luật chuyên ngành như: cung cấp thông tin về tài sản thi hành án của

người có đơn yêu cầu thi hành án, quy định về bảo quản tài sản thi hành án,

quy định về miễn giảm thi hành án, về xác định tài sản chung, kê biên tài sản

chung, thủ tục xác định, phân chia, xử lý tài sản của người phải thi hành án

dân sự trong tài sản chung…, chưa có quy định đảm bảo về thẩm quyền và

tính độc lập của cơ quan thi hành án dân sự nên khi phát hiện các sai phạm

của các tổ chức, cá nhân phải thi hành án dân sự thì thẩm quyền của Cục thi

hành án dân sự và Chấp hành viên hầu như chỉ dừng lại ở mức đề xuất kiến

nghị xử lý mà chưa được áp dụng những biện pháp, chế tài nghiêm khắc thể

hiện tính quyền lực nhà nước, có đủ sức răn đe và phòng ngừa nên hiệu lực,

hiệu quả chưa cao.

Hai là, vấn đề giáp ranh, đan xen, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ

giữa một số bộ, ngành là do bản thân những vấn đề quản lý rất phức tạp nên

không đơn giản phân định về mặt hành chính, nhất là trong điều kiện thiếu cơ

chế phối hợp hiệu quả, nên vẫn chưa giải quyết được dứt điểm các vấn đề bất

hợp lý trong quá trình tổ chức thực hiện đã tác động không nhỏ tới tổ chức bộ

máy và hoạt động thi hành án dân sự từ trung ương tới địa phương trong đó

49

có tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ.

Ba là, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công

tác của cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan có liên quan chưa cụ thể

hoá đầy đủ; thiếu quy định khung về việc thành lập cơ quan, tổ chức hành

chính nhà nước cũng như xác định trình tự thủ tục và nội dung phối hợp trong

hoạt động thi hành án dân sự, thi hành án hành chính.

Bốn là, mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ,

quyền hạn của hệ thống thi hành án dân sự chưa được hoàn thiện, một số quy

định của pháp luật chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ thi hành án dân sự

của thời kỳ mới.

Năm là, tinh giản biên chế còn cào bằng chưa có quy định cụ thể với

các cơ quan ở các lĩnh vực, vùng miền có điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội

khác nhau. Mặt khác thực hiện tinh giản chưa quyết liệt nên vẫn còn một số

công chức, Chấp hành viên ý thức trách nhiệm nghề nghiệp chưa cao, chưa

thật sự nêu cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình thực thi nhiệm vụ ảnh

hưởng trực tiếp đến kết quả thi hành án chung của toàn ngành; một bộ phận

công chức chưa tích cực học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức chuyên môn

nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng tình hình hiện nay;

2.2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế về hoạt động

- Hạn chế

Thứ nhất, kết quả thi hành án về tiền đạt tỷ lệ thấp, toàn tỉnh đạt 17%

(thiếu 13% so với chỉ tiêu Quốc hội giao, thiếu 16% so với chỉ tiêu Tổng cục

THADS giao. Số việc, số tiền thi hành án chuyển sang kỳ sau vẫn còn nhiều.

Thứ hai, việc tổ chức xác minh, phân loại án ở một số đơn vị còn chưa

phản ánh được đầy đủ các nội dung cần phải xác minh, chưa đề xuất được các

biện pháp tích cực để giải quyết dứt điểm các vụ việc phải thi hành án có điều

kiện thi hành, các vụ việc có số tiền phải thi hành án lớn.

Thứ ba, việc nghiên cứu áp dụng pháp luật còn chưa sâu, dẫn đến việc

áp dụng, vận dụng để giải quyết một số việc thi hành án cụ thể còn chưa chính

50

xác, kém hiệu quả.

Thứ tư, trong việc thi hành án đối với một số việc khó khăn, phức tạp

chưa chủ động tích cực mà còn có tư tưởng chông chờ, ỉ nại hướng dẫn của

cấp trên.

Thứ năm, một số việc khó khăn phức tạp, kéo dài chưa chủ động phối

hợp với các cơ quan hữu quan cũng như tranh thủ sự quan tâm lãnh đạo của

cấp ủy, chính quyền địa phương.

- Nguyên nhân

+ Do pháp luật nói chung và pháp luật thi hành án dân sự còn chưa

đồng bộ, thống nhất với nhau và với các luật chuyên ngành (như đã nêu ở

phần trên) nên đã ảnh hưởng tới hoạt động thi hành án dân sự ở địa phương.

+ Số việc, số tiền phải thi hành án dân sự hàng năm tăng cao hơn so với

cùng kỳ các năm 2015 về trước do tác động của mặt trái cơ chế thị trường,

của hội nhập quốc tế trong khi chỉ tiêu, biên chế của các cơ quan thi hành án

dân sự tỉnh Phú Thọ không được tăng dẫn đến tình trạng quá tải trong qúa

trình thực hiện nhiệm vụ.

+ Số lượng việc thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự chiếm tỷ

lệ tương đối lớn, ngày càng tăng, như các khoản án phí, tiền phạt, tịch thu

xung công,... trong các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản, về ma túy, đánh bạc

chiếm số lượng lớn, nhiều người phải thi hành án không có tài sản, đang phải

chấp hành án phạt tù hoặc khi mãn hạn tù đi làm ăn, sinh sống ở nơi khác,

không có mặt tại địa phương nên không thể đôn đốc thi hành án.

+ Nhiều việc phải thi hành án, cơ quan thi hành án đã tổ chức bán đấu

giá, tài sản song không bán được do không có người mua mặc dù đã giảm giá

nhiều lần theo quy định của pháp luật. Cá biệt có việc giảm giá và bán đấu giá

lần thứ 18 như việc thi hành án đối với Công ty Cổ phần đầu tư Việt Nhật

Quang, địa chỉ xã Tiên kiên, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ phải thanh toán

trả cho Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Việt Trì số tiền

6.406.901.329,đ; Việc thi hành án đối với Công ty TNHH Phú Nam, địa chỉ:

51

phường Vân Phú, TP. Việt Trì phải thanh toán trả cho Ngân hàng Nông nghiệp

và PTNT Việt Nam chi nhánh Đống Đa, Hà Nội số tiền: 13.113.541.666,đ, tài

sản này đã giảm giá và bán đấu giá lần thứ 15 chưa có người mua.

+ Ý thức chấp hành pháp luật của người phải thi hành án chưa tốt,

không tự nguyện thi hành, trong đó rất nhiều vụ việc có tính chất khó khăn,

phức tạp, đương sự luôn tìm cách đối phó, chống đối quyết liệt hoặc khiếu nại

nhằm mục đích trì hoãn nên phải tổ chức cưỡng chế, có nhiều vụ việc cưỡng

chế liên quan đến đất đai phải tuân theo trình tự thủ tục quy định nên thời gian

thi hành án bị kéo dài.

+ Công tác chỉ đạo, điều hành của một số lãnh đạo các Phòng của Cục,

lãnh đạo các Chi Cục còn chưa thường xuyên quan tâm, đôn đốc, kiểm tra,

đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các Chấp hành viên, công chức trong

đơn vị mình phụ trách thậm trí còn biểu hiện chủ quan, quá tin tưởng vào bộ

phận cán bộ tham mưu, giúp việc.

+ Một số Chi cục THADS huyện chưa tạo được mối quan hệ phối hợp

chặt chẽ với cơ quan hữu quan ở địa phương như: Công an, Tòa án, Viện

kiểm sát, BHXH, Phòng Tài nguyên- Môi trườn..., chưa tranh thủ được sự

quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền và sự phối hợp với các

đoàn thể nhân dân của huyện, của các xã trong công tác thi hành án dân sự

hoặc chưa thực hiện tốt vai trò là cơ quan thường trực của Ban chỉ đạo Thi

hành án dân sự, chưa làm tốt công tác tham mưu, báo cáo, chưa có biện pháp,

phương án cụ thể giúp cho Ban chỉ đạo thi hành án dân sự kịp thời nắm bắt và

quản lý, chỉ đạo chung về công tác thi hành án dân sự trên địa bàn.

+ Việc rà soát, phân loại, lập kế hoạch tổ chức thi hành án của Chấp

hành viên có việc còn chưa khoa học; Một số Chấp hành viên, công chức làm

công tác thi hành án của Cục còn ngại va chạm. Việc vận dụng, áp dụng các

quy định mới của Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân

sự và Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính Phủ vào từng

vụ việc cụ thể còn lúng túng vì vậy kết quả thi hành án dân sự ở một số đơn vị

52

còn hạn chế.

Tiểu kết chương 2

Trong gần 10 năm trở lại đây Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đã

có những tiến bộ mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động, thể hiện ở một số kết quả

nổi bật là: Tổ chức bộ máy của Cục và các Chi Cục đã được tổ chức theo

đúng chỉ đạo của Bộ Tư pháp, phù hợp với điều kiện của tỉnh và hoạt động

đạt kết quả tương đối toàn diện; Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã tích cực chỉ

đạo các Chi Cục thi hành án dân sự trên địa bàn phấn đấu hoàn thành các chỉ

tiêu, nhiệm vụ THADS, thi hành án hành chính được giao; Chỉ đạo công tác

xác minh, phân loại án tiếp tục được quan tâm chú trọng; Công tác theo dõi

thi hành án hành chính ngày càng đi vào nề nếp; Công tác phối hợp liên

ngành, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương tiếp tục được củng cố;

Công tác kiểm tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo đã dần đem lại hiệu quả;

Công tác tiếp công dân được thực hiện nghiêm túc.

Thông qua kết quả công tác thi hành án dân sự cho thấy: Trình độ,

chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần, trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, tác phong,

lề lối làm việc của của đội ngũ cán bộ, công chức Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Phú Thọ đã được nâng cao. Tổ chức bộ máy của Cục và các Chi cục THADS

các huyện của tỉnh Phú Thọ tiếp tục được quan tâm củng cố, kiện toàn; kỷ

cương, kỷ luật hành chính không ngừng được tăng cường; cơ sở vật chất,

phương tiện làm việc của các cơ quan THADS tiếp tục được quan tâm.

Tuy nhiên bên cạnh những kết quả to lớn trên Cục Thi hành án Phú

Thọ vẫn còn có những hạn chế bất cập nhất định do những nguyên nhân

khách quan, nguyên nhân chủ quan mang lại.

Để phát huy những thành tích đã được, khắc phục những khuyết

điểm hạn chế về tổ chức và hoạt động đòi hỏi Cục Thi hành án tỉnh Phú

Thọ phải quán triệt các quan điểm và những giải pháp về tổ chức và hoạt

53

động nhất định.

Chương 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG

CỦA CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỈNH PHÚ THỌ HIỆN NAY

Bước vào thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

việc đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung

và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ nói riêng là một yêu cầu tất yếu

khách quan phù hợp với hoạt động cải cách bộ máy nhà nước và đòi hỏi của

thực tiễn. Do vậy, quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành

án dân sự tỉnh Phú Thọ cần bám sát những quan điểm, những định hướng cơ

bản mà Nghị quyết 48/ NQ- TW, Nhị quyết 49/ NQ- TW ngày 24/5/ 2005 của

Bộ Chính trị và Nghị quyết Đại hội Đảng Khóa 11, 12 đã đề ra.

Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của Cục Thi hành án dân sự và từ

thực tiễn tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ, việc

đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và Cục Thi

hành án tỉnh Phú Thọ cần quán triệt quan điểm và thực hiện các giải pháp sau:

3.1. Quan điểm đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục thi hành án

dân sự cấp tỉnh

3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà

nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã

hội và quyền làm chủ của nhân dân

Trong qua trình thực hiện quan điểm trên cần bám sát Cương lĩnh, Hiến

pháp, Điều lệ và các văn kiện của Đảng trong việc đổi mới, sắp xếp tổ chức

bộ máy của hệ thống chính trị; đặt trong tổng thể nhiệm vụ xây dựng, chỉnh

đốn Đảng; thực hiện đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng,

hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị

54

trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

3.1.2. Có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ

lực lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả

Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị cần đảm bảo sự lãnh đạo tập

trung, thống nhất; thực hiện thường xuyên, liên tục, tích cực, mạnh mẽ, có

trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình, bước đi vững chắc, đáp ứng yêu cầu cả

trước mắt và lâu dài. Những việc đã rõ, cần thực hiện thì thực hiện ngay;

những việc mới, chưa được quy định, hoặc những việc đã có quy định nhưng

không còn phù hợp thì mạnh dạn chỉ đạo thực hiện thí điểm, vừa làm vừa rút

kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện, mở rộng dần, không cầu toàn, không

nóng vội; những việc chưa rõ, phức tạp, nhạy cảm, còn có ý kiến khác nhau

thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để có chủ trương, giải pháp phù hợp.

3.1.3. Giữ vững các nguyên tắc tổ chức, hoạt động và đề cao kỷ luật,

kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước

Thực hiện quan điểm trên phải thể hiện nghiêm túc thực hiện nguyên

tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ

máy, biên chế của hệ thống chính trị trong đó tất nhiên có hệ thống cơ quan

thi hành án dân sự. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của

Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng

cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá

nhân, nhất là người đứng đầu.

3.1.4. Bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hoà

giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển

Quán triệt và thực hiện quan điểm trê cần gắn đổi mới tổ chức bộ máy

với đổi mới phương thức lãnh đạo, tinh giản biên chế và cải cách chế độ tiền

lương; cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức; thu hút người có đức, có tài; bố trí đủ nguồn lực cần thiết và có cơ chế,

chính sách phù hợp đối với những người chịu tác động trực tiếp trong quá

55

trình sắp xếp.

3.1.5. Thực hiện nguyên tắc một cơ quan thực hiện nhiều việc và một

việc chỉ giao cho một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính

Mô hình và quy mô tổ chức bộ máy phải phù hợp với tính chất, đặc

điểm, chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, địa phương và của hệ

thống các cơ quan tư pháp.

3.1.6. Cả hệ thống cơ quan thi hành án dân sự thống nhất nhận thức

và hành động, quyết tâm thực hiện tinh giản biên chế, nhưng không làm

ảnh hưởng đến hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, bảo đảm hoàn

thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao cho các cơ quan thi hành án dân sự

Tinh giản biên chế đi đôi với cải cách tiền lương và đổi mới tổ chức bộ

máy của cả hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Tỉ lệ

tinh giản biên chế được xác định theo từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, phù hợp

với thực tế số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của cơ

quan, đơn vị.

3.2. Các giải pháp tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục

thi hành án dân sự cấp tỉnh

3.2.1. Giải pháp chung

3.2.1.1. Về pháp luật

- Hoàn thiện hệ hống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự về tổ

chức thi hành án dân sự

Thứ nhất, nâng cao vị thế, vai trò và trách nhiệm của cơ quan THADS.

Theo đó, trao mạnh hơn quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị cho hệ

thống THADS bằng các quy định về mở rộng chủ thể có quyền THADS quy

định ở Trung ương cũng có cơ quan THADS, nghĩa là trao quyền cho Tổng

cục THADS có thẩm quyền trực tiếp tổ chức THADS và bổ nhiệm Chấp hành

viên ở Tổng cục THADS để tiến hành thi hành án đối với những vụ việc có

56

giá trị rất lớn, có yếu tố nước ngoài, liên quan đến nhiều địa phương.

Thứ hai, đảm bảo sự chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền, sự phối hợp

của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tổ chức và hoạt động THADS.

Quy định cụ thể về nghĩa vụ và chế tài xử lý đối với các cơ quan, tổ

chức có liên quan trong THADS khi không thực hiện hoặc thực hiện không

đầy đủ nghĩa vụ của mình trong thi hành án dân sự như Chính phủ, Bộ Tư

pháp, của Ủy ban nhân dân các cấp, của Kho bạc nhà nước, Ngân hàng, các tổ

chức tín dụng, Bảo hiểm xã hội, cơ quan đăng ký tài sản, đăng ký giao dịch

bảo đảm và cơ quan ra bản án, quyết định trong thi hành án.

Thứ ba, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên để kịp thời

trấn áp, xử lý hành vi chây ỳ, chống đối thi hành án

Tăng mức xử phạt vi phạm hành chính, quyền ra quyết định bắt giữ

người, khám xét địa điểm, phương tiện liên quan đến việc thi hành án dân sự

của Chấp hành viên. Mặt khác, cần quy định chức danh Thẩm phán thi hành

án để hỗ trợ Chấp hành viên trong THADS, trao cho Thẩm phán thi hành án

một số quyền hạn trong THADS, gắn kết chặt chẽ trách nhiệm, quyền hạn của

Tòa án trong THADS. Đồng thời, tăng cường vai trò, trách nhiệm của chính

quyền địa phương trong công tác THADS.

Thứ tư, cần bổ sung quy định về sự tham gia, mức độ tham gia và vai

trò của Luật sư trong hoạt động thi hành án dân sự để đảm bảo khách quan,

dân chủ, công khai, minh bạch hơn nữa trong thi hành án dân sự;

Thứ năm, đi đôi với việc sửa đổi Luật Thi hành án dân sự, cần sửa đổi,

bổ sung các văn bản pháp luật có liên quan đến thi hành án dân sự.

Trong thời gian tới Quốc hội cần sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, Luật

Tố tụng dân sự, Luật Đất đai, Luật Bảo hiểm xã hội.v.v.v. Bên cạnh việc sửa

đối, bố sung, ban hành pháp luật còn phải rà soát để hủy bỏ, thay thế các văn

bản pháp luật đã lỗi thời hoặc chồng chéo, kể cả các văn bản quy phạm pháp

luật về công tác thi hành án dân sự của UBND tỉnh làm cho việc thực hiện

57

pháp luật trong thi hành án dân sự thuận lợi, thống nhất. Đây không chỉ là yêu

cầu mà còn là một giải pháp quan trọng tiếp tục đối mới tố chức và hoạt động

của Cục thi hành tỉnh

- Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về hoạt động Thi hành án

dân sự

Thứ nhất, Mở rộng phạm vi THADS đối với hợp đồng có công chứng,

chứng thực và biên bản hòa giải thành. Theo đó, bên có quyền được yêu cầu

thi hành theo thủ tục THADS đối với hợp đồng có công chứng hoặc chứng

thực, biên bản hòa giải thành mà khi hết thời hạn thực hiện nghĩa vụ nhưng

bên có nghĩa vụ không tự nguyện thực hiện. Hợp đồng và biên bản hòa giải

thành nêu trên được thi hành theo thủ tục THADS thì cũng tương đồng với

pháp luật về THADS Việt Nam hiện nay là thi hành quyết định của Trọng tài

thương mại và Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và cũng tương đối giống với

thi hành dân sự ở Nhật Bản.

Thứ hai, thi hành án dân sự là thủ tục tố tụng thi hành các bản án, quyết

định và văn bản khác về dân sự theo quy định của pháp luật. Trong thời gian

tới Nhà nước phải hoàn thiện trình tự, thủ tục thi hành án với các giai đoạn,

các bước chặt chẽ, khuôn mẫu mang tính mực thước, từ khởi động đến tiến

hành, dừng, thay đổi và kết thúc tiến trình thi hành án. Trong đó cần sửa đổi

thời hạn thông báo thi hành án dân sự, thời hạn khởi kiện trong trường hợp

các biện pháp bảo đảm thi hành án, thời hạn thỏa thuận về giá, thẩm định giá,

thời hạn liên quan đến đấu giá các tài sản kê biên, thời hạn thông báo trong

trường hợp người được thi hành án nhận tài sản để trừ vào tiền thi hành án.

Quy định cụ thể các biện pháp hỗ trợ THADS, như chế tài nghiêm khắc

hơn đối với hành vi vi phạm THADS. Thủ tục buộc người phải thi hành án

tập trung lao động bắt buộc và tính toán tiền công cho phạm nhân khi họ tập

trung cải tạo. Cơ chế ưu tiên cho người bị cưỡng chế giao nhà, trả nhà không

có nơi ở được mua, thuê nhà ở xã hội. Hợp tác quốc tế về THADS.

58

Thứ ba, Luật Thi hành án dân sự cần có điều luật quy định cụ thể về tài

sản chung bị cưỡng chế kê biên để thi hành án. Quy định cụ thể về tài sản

chung bị cưỡng chế bao gồm những loại tài sản nào và quy định rõ ràng và cụ

thể hơn về tiêu chí xác định các loại tài sản chung. Cần quy định người có tài

sản sở hữu chung với người phải THA không phải là người có quyền lợi và

nghĩa vụ trong bản án, quyết định đang được tổ chức THA. Có hướng dẫn cụ

thể về việc xử lý kê biên với tài sản chung không chia được và tài sản chung

chia được nhưng không làm giảm giá trị của tài sản và ảnh hưởng tới quyền

sở hữu chung của các chủ thể khác. Trình tự, thủ tục, thời hạn trong việc bán

tài sản, ưu tiên mua lại phần tài sản phải thi hành án của chủ sở hữu chung

cũng cần được quy định theo hướng ngắn gọn và phù hợp với thực tiễn.

Thứ tư, hoàn thiện các quy định về ứng dụng công nghệ thông tin

trong THADS. Theo đó, quy định hình thức thông báo về thi hành án trên

phương tiện thông tin điện tử (Cổng, Trang, Báo điện tử), kể cả mạng xã

hội của cơ quan thi hành án tạo lập như: Cơ chế thu chi, thanh toán tiền thi

hành án bằng giao dịch điện tử; hiệu lực của văn bản sử dụng chữ ký số đối

với cá nhân, tổ chức ngoài cơ quan thi hành án. Kết nối liên thông chia sẻ

thông tin, dữ liệu điện tử giữa các cơ quan, tổ chức, nhất là Tòa án, Ngân

hàng với cơ quan THADS. Sử dụng hồ sơ thi hành án điện tử; tăng cường

các phần mềm; xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về THADS. Chấp hành viên

và các cơ quan thi hành án dân sự phải nắm vững và sử dụng thành thục

các ứng dụng công nghệ thông tin trong thực thi nhiệm vụ quyền hạn được

giao theo quy định pháp luật.

3.2.1.2. Xác định rõ các nhiệm vụ chủ yếu theo từng giai đoạn để tổ

chức thi hành án dân sự

Nhiệm vụ chủ yếu giai đoạn 2021-2030

- Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Hệ thống thi hành án

dân sự.

59

- Kiện toàn cơ cấu tổ chức của Hệ thống Thi hành án dân sự

- Sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức bên trong của các Cục theo tiêu chí

Tổng cục Thi hành án dân sự đã xây dựng, ban hành.

- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp .

Nhiệm vụ trọng tâm của Kế hoạch 5 năm 2021-2025

- Triển khai đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính của Hệ thống

Thi hành án dân sự theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW, Nghị quyết số

56/2017/QH14, Kết luận số 34-KL/TW, Luật Thi hành án dân sự và các văn

bản hướng dẫn thi hành.

- Hoàn thiện các quy định về tiêu chí thành lập tổ chức, biên chế tối

thiểu và số lượng cấp phó tối đa trong các cơ quan thi hành án dân sự.

- Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền phù hợp.

3.2.1.3. Xác định rõ các nội dung chủ yếu về hoạt động của Hệ thống

thi hành án dân sự

Nội dung hoạt động cơ quan thi hành án dân sự luôn được thể hiện sâu

sắc trong các Nghị quyết của Đảng, trong Hiến pháp, Nghị quyết của Quốc Hội

và của Chính Phủ, đặc biệt từ Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X, XI, XII.

Trong thời gian gần đây thì Nghị quyết 18-NQ/TƯ ngày 25/10/2017 của Hội

nghị Trung ương 6 khóa 12 về tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại tổ chức bộ máy của

hệ thống chính trị tinh gọn hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết

53/2017/QH14 ngày 24/11/2017 về tiếp tục cải cách bộ máy hành chính nhà

nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011

về cải cách hành chính nhà nước (được sửa đổi bổ sung bởi Nghị quyết

76/NQ-CP ngày 13/6/2013) của Chính phủ đã chỉ rõ nội dung đổi mới hoạt

động của ngành Thi hành án dân sự gồm những nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới thể chế về hoạt động thi hành án dân sự đặc

biệt là hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, cấp huyện. Trong

đó, tiếp tục tập trung sửa đổi Luật Thi hành án dân sự 2008, Luật Phòng

60

chống tham nhũng, Luật Khiếu nại, Luật Tiếp công dân… và ban hành các

Nghị định của Chính phủ qui định chi tiết hướng dẫn thi hành các Luật này

sau khi được Quốc hội thông qua, vì đây là các văn bản qui định về tổ chức,

hoạt động của bộ máy thi hành án dân sự. Thực tiễn thực hiện các văn bản

pháp luật này trong những năm qua thấy rằng còn nhiều vấn đề chưa phù hợp,

thiếu tính đồng bộ, thống nhất, gây khó khăn, ách tắc thậm chí cản trở trong tổ

chức và hoạt động của ngành Thi hành án dân sự bao gồm các cơ quan thi

hành án dân sự từ trung ương tới địa phương, do vậy đòi hỏi phải luôn đổi

mới một cách triệt để.

Thứ hai, đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan Thi hành án

dân sự cấp tỉnh và cơ quan thi hành án cấp huyện với các nội dung chủ yếu:

Hàng năm các cơ quan này phải ban hành kế hoạch công tác hàng năm trên cơ

sở các chỉ tiêu kế hoạch được giao phù hợp với thực tế ở địa phương để làm

căn cứ triển khai thống nhất kịp thời toàn diện các mặt công tác. Căn cứ

hướng dẫn của Tổng cục thi hành án dân sự, Lãnh đạo Cục, Chi Cục chủ động

quyết liệt chỉ đạo điều hành, kịp thời phát hiện tháo gỡ khó khăn vườn mắc

trong thi hành án cũng như uốn nắn chấn chỉnh các vi phạm trong thi hành án

của Chấp hành viên và xử lý các vi phạm pháp luật về THADS của đối tượng

thi hành án. Thực hiện giao chỉ tiêu THA cho từng Chấp hành viên.

Thứ ba, tăng cường phối hợp liên ngành với các cơ quan hữu quan như

Tòa án, Viện kiểm sát, Bảo hiểm xã hội, Ngân hàng, Trung tâm đấu giá, Tài

nguyên- Môi trường…thông qua việc xây dựng và thực hiện quy chế phối hợp

qua đó phát huy hiệu quả thi hành án và tháo gỡ khó khăn vướng mắc, nâng

cao hiệu quả thi hành án dân sự.

Thứ tư, thường xuyên báo cáo, đề nghị cấp ủy, chính quyền và BCĐ

THADS các cấp quan tâm tháo gỡ khó khăn trong THADS nhất là về công tác

tổ chức cán bộ, hoạt động chỉ đạo giải quyết các vụ án lớn, phức tạp, kéo dài.

Thứ năm, nội dung, hình thức tuyên truyền phổ biến GDPL nói

61

chung và PL về THADS phải có sự thay đổi hợp lý để nâng cao ý thức

pháp luật cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân và đối tượng thi hành án dân sự

trong đó chú trọng vận động, giáo dục, thuyết phục giảm tối đa cưỡng chế

thi hành án dân sự.

Thứ sáu, làm tốt hơn nữa công tác tiếp dân giải quyết khiếu nại tố cáo

về THADS trên cơ sở thực hiện đúng pháp luật, sâu sát tôn, trọng, lắng nghe

thấu hiểu người dân về thi hành án dân sự.

3.2.2. Giải pháp cụ thể đổi mới tổ chức, hoạt động đối với Cục Thi

hành án dân sự tỉnh Phú Thọ

Đi đôi với thực hiện đồng bộ các giải pháp đổi mới tổ chức hoạt động

chung đối với Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh trên đây, trong thời gian tới

Cục Thi hành án tỉnh Phú Thọ cần thực hiện tốt các giải pháp đổi mới tổ

chức và hoạt động cụ thể sau đây:

3.2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền trong

tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành án tỉnh và các Chi cục Thi hành án

huyện

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành án dân sự

là hoàn toàn phù họp với chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về

thi hành án và phù hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà

nước ta được quy định tại Hiến pháp 2013. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy

đảng và chính quyền của tỉnh có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực, hiệu quả

hoạt động của công tác thi hành án dân sự nói chung và hoạt động của Cục

Thi hành án tỉnh nói riêng. Do vậy, trách nhiệm của Đảng và Chính quyền

các cấp ở tỉnh phải trực tiếp kiểm tra, thanh tra và lãnh đạo, chỉ đạo công tác

thi hành án dân sự. Thực tế trong những năm qua ở các tỉnh Phú Thọ đã làm

sáng tỏ vấn đề này, đó là: Cục Thi hành án dân sự tỉnh chỉ hoàn thành tốt

nhiệm vụ khi có sự lãnh đạo, kiểm tra thường xuyên của Tỉnh ủy, UBND

tỉnh. Mặt khác, Tỉnh ủy và các cấp ủy đảng ở tỉnh phải thường xuyên quan

62

tâm, giúp đỡ và yêu cầu Cục Thi hành án dân sự tỉnh làm tròn nhiệm vụ.

Hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh là để phục vụ sự lãnh đạo của

Tỉnh ủy và sự quản lý của Nhà nước của UBND tỉnh về công tác thi hành án

dân sự. Sự quan tâm của Tỉnh ủy và UBND tỉnh đối với Cục Thi hành án

dân sự tỉnh phải được thể hiện ở việc tăng cường cán bộ cả về số lượng, chất

lượng và củng cố tổ chức của các cơ quan thi hành án dân sự đặc biệt là Cục

Thi hành án dân sự tỉnh và các Chi cục Thi hành án dân sự ở cấp huyện.

Tỉnh ủy, UBND tỉnh phải quan tâm đến việc thực hiện thi hành án dân sự và

chỉ đạo thực hiện kiến nghị của Cục Thi hành án dân sự tỉnh. Hiệu lực, hiệu

quả của Cục Thi hành án dân sự tỉnh phụ thuộc rất nhiều vào việc Tỉnh ủy,

UBND tỉnh có quan tâm, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự và các kiến

nghị của Cục Thi hành án dân sự tỉnh về công tác thi hành án dân sự hay

không. Nếu như các kế hoạch công tác, các kiến nghị của Cục Thi hành án

dân sự tỉnh không được các cấp ủy và chính quyền các cấp quan tâm, giải

quyết thì vai trò của Cục Thi hành án dân sự tỉnh bị ảnh hưởng, uy tín của

Cục Thi hành án dân sự tỉnh cũng sẽ giảm sút và nói chung hoạt động của

Cục Thi hành án dân sự tỉnh sẽ kém hiệu lực và hiệu quả.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi hành án dân sự

còn đòi hỏi chính sự tăng cường lãnh đạo của Chi bộ Cục Thi hành án dân sự

tỉnh, Đảng ủy khối cơ quan tỉnh. Việc Chi bộ Cục Thi hành án dân sự tỉnh làm

tốt công tác chính trị tư tưởng, công tác tổ chức cán bộ, công tác kiểm tra

giám sát và công tác dân vận trong cơ quan là nhân tố giữ vai trò cực kỳ quan

trọng trong việc tham mưu cho Tỉnh ủy, UBND tỉnh các biện pháp lãnh đạo,

chỉ đạo công tác thi hành án dân sự trong toàn tỉnh, đảm bảo thắng lợi các

hoạt động thi hành án dân sự đặc biệt các cuộc cưỡng chế thi hành án dân sự

do Cục Thi hành án dân sự tỉnh tiến hành cũng như công tác thẩm tra, xác

minh chính xác các vụ việc thi hành án dân sự kịp thời, đúng pháp luật. Đây

là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của

63

Cục thi hành án dân sự tỉnh. Đảm bảo và coi trọng sự lãnh đạo của Chi bộ

đảng tại các Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thành, thị rất quan trọng

làm trong sạch tổ chức, nâng cao chất lượng Chấp hành viên, công chức và

hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự. Việc để xảy ra vi phạm pháp luật

nghiêm trọng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Việt Trì là minh

chứng cho nhận định này.

3.2.1.2. Đổi mới mạnh mẽ tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của

Cục Thi hành án tỉnh và các Chi cục Thi hành án ở các huyện, thị

Để thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ này, Cục Thi hành án dân sự

tỉnh Phú Thọ phải tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy, điều động, luân chuyển,

chuyển đổi vị trí công tác cán bộ theo chủ trương chung của ngành; đảm bảo

thực hiện hiệu quả công tác tổ chức cán bộ, trong đó có việc kiện toàn tổ chức

bộ máy, đội ngũ công chức đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng; chú trọng

nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác hướng dẫn, chỉ đạo nghiệp vụ, công

tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; khắc phục những vi phạm thiếu sót, những sai

sót về chuyên môn, nghiệp vụ; chủ động xử lý kịp thời, đúng luật các vụ việc

khiếu nại, tố cáo của công dân, hạn chế xảy ra các trường hợp khiếu nại,

khiếu kiện vượt cấp làm phức tạp tình hình.

Về tổ chức, theo chúng tôi Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ cần

bổ nhiệm đủ số công chức lãnh đạo của các Phòng chuyên môn đang còn

thiếu là Văn phòng và Phòng Nghiệp vụ và tổ chức thi hành án đồng thời

tích cực đề nghị Tổng cục Thi hành án dân sự bổ sung biên chế cho Cục và

các Chi cục ở các huyện miền núi.

Về hoạt động cần tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện cải cách thủ tục

hành chính và áp dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong công tác thi

hành án dân sự và xem xét giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khi tiến hành thi hành

án dân sự cần phải coi trọng và đặt lên hàng đầu vấn đề chất lượng, hiệu quả

thi hành án phải đảm bảo các nguyên tắc của luật thi hành án dân sự đó là:

64

Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định; Nguyên tắc bảo

đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương sự; Nguyên tắc bảo đảm quyền,

lợi ích hợp pháp của đương sự và người có quyền, nghĩa vụ liên quan;

Nguyên tắc trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong thi hành án dân sự; Nguyên

tắc kết hợp biện pháp tự nguyện và cưỡng chế thi hành án; Nguyên tắc trách

nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và cơ quan thi hành án dân

sự và chấp hành viên; Nguyên tắc thoả thuận thi hành án dân sự; Nguyên tắc

tiếng nói, chữ viết dùng trong thi hành án dân sự; Nguyên tắc giám sát hoạt

động thi hành án dân sự; Nguyên tắc kiểm soát hoạt động thi hành án dân sự.

Việc thi hành án dân sự phải tuân thủ những quy định pháp luật trong

quá trình đảm bảo tính độc lập, nghiêm túc, không ai được can thiệp làm lung

lạc ý chí của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên khi đang làm nhiệm

vụ thi hành án. Mặt khác, thủ trưởng cơ quan thi hành án án sự, bản thân

Chấp hành viên và các công chức thi hành án dân sự phải chịu trách nhiệm

trước pháp luật trong việc thi hành án nên họ phải rèn luyện ý chí và bản lĩnh

thì mới có thể thực hiện tốt công vụ được giao. Có như vậy mới đảm bảo hiệu

lực về thi hành án dân sự, ngăn chặn được những vi phạm làm vô hiệu hóa

hoạt động thi hành án dân sự nhất là trong cưỡng chế thi hành án. Hoạt động

thi hành án dân sự còn phải bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, kịp

thời, công khai, dân chủ, không làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ

quan, tổ chức, cá nhân là đương sự trong thi hành án dân sự. Trong hoạt động

thi hành án dân sự, chỉ khi nào thực hiện đầy đủ và đúng nguyên tắc trong

Luật Thi hành án dân sự thì mới có thể đảm bảo hiệu lực, hiệu quả. Hoạt động

thi hành án dân sự phải tuân thủ trình tự do pháp luật thi hành án dân sự quy

định từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Trong thời gian vừa qua ở tỉnh Phú Thọ

do Chấp hành viên chưa quán triệt nghiêm túc, triệt để nguyên tắc trong Luật

Thi hành án dân sự nên có cuộc thi hành án dân sự thất bại và không quy

trách nhiệm cụ thể. Khi tiến hành thi hành án dân sự lập kế hoạch, chương

65

trình chi tiết cụ thể. Trong hoạt động thi hành án dân sự phải sử dụng đúng

quyền hạn được pháp luật quy định, không được lạm quyền, vượt quyền làm

sai lệch kết quả bóp méo sự việc, v.v.

Tiến hành thi hành án dân sự cần có trọng tâm, trọng điểm, nhanh

gọn, chính xác, tập trung vào những bản án, quyết định của Tòa án đã có

hiệu lực pháp luật nổi cộm, bức xúc được dư luận xã hội quan tâm như về

đất đai, thu hồi nợ, tài sản, tiền trong các vụ án tham nhũng để vừa góp

phần làm ổn định tình hình, vừa kịp thời xử lý những sai phạm; phát hiện,

đề xuất sửa đổi những vướng mắc, bất cập, góp phần hoàn thiện cơ chế,

pháp luật thi hành án dân sự. Các vi phạm trong thi hành án dân sự phải

được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời xử lý và tổ chức thực

hiện một cách kiên quyết triệt để.

Trong thực hiện chức năng, quyền hạn của mình, Cục Thi hành án tỉnh

Phú Thọ cần mở rộng dân chủ, tăng cường đối thoại trong công tác giải

quyết khiếu nại, tố cáo. Thường xuyên tăng cường kiểm tra, giám sát, chỉ

đạo Chấp hành viên thực hiện đúng trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm

quá trình tổ chức thi hành án tuân thủ nghiêm các quy định của pháp luật về

thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật có liên quan, hạn chế thấp nhất

những vi phạm xảy ra trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định

của Tòa án kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các trường hợp công chức có

hành vi sai phạm; đối với các hành vi sai phạm có dấu hiệu tội phạm đề nghị

chuyển cơ quan điều tra xử lý nghiêm.

3.2.1.3. Đổi mới việc đẩy mạnh công tác xây dựng, đào tạo đội ngũ cán

bộ công chức thi hành án dân sự

Như Bác Hồ đã dạy, mọi chủ trương, chính sách dù hay, suy cho cùng

việc thực hiện vẫn do con người quyết định. Công tác thi hành án dân sự là

loại công tác khó khăn và phức tạp. Vì vậy, nó đòi hỏi người cán bộ làm công

tác thi hành án dân sự phải vừa có bản lĩnh chính trị vững vàng, vừa có trình

66

độ chuyên môn nghiệp vụ cao, lại phải có lòng nhiệt tình, yêu nghề, vừa tận

tụy và có tinh thần trách nhiệm trong công việc, dũng cảm đấu tranh chống

mọi biểu hiện tiêu cực, bảo vệ chân lý, lẽ phải.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ công tác thi hành án dân sự trong tình hình

mới, việc tiếp tục củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức thi hành án nói

chung, đội ngũ cán bộ, công chức ở Cục thi hành án tỉnh Phú Thọ nói riêng là

một yêu cầu, đòi hỏi bức thiết.

Trong thời gian tới, trước hết cấp ủy, chính quyền tỉnh, Cục Thi hành

án dân sự tỉnh Phú Thọ phải tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo

dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, pháp luật thi

hành án dân sự cho đội ngũ cán bộ công chức trong ngành và toàn xã hội.

Triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây

dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến” “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn

với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy

mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; biểu

dương, khen thưởng kịp thời đối với những tổ chức, cá nhân có thành tích trong

công tác thi hành án dân sự, đấu tranh phòng chống tham nhũng.

Cục Thi hành án dân sự cần tích cực, chủ động phối hợp với các cơ

quan báo chí, Đài Phát thanh và Truyền hình, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức

đoàn thể các cấp tiếp tục tổ chức triển khai tốt việc tuyên truyền, phổ biến

giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng cho

các tổ chức, cá nhân và nhân dân, trong đó cần tập trung tuyên truyền giáo

dục về quyền, nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân là đối tượng phải thi hành án

dân sự; quyền và trách nhiệm của các Cơ quan Thi hành án dân sự. Trong

tuyên truyền phổ biến và giáo dục pháp luật về thi hành án dân sự cũng cần

chú trọng đến các đối tượng là cán bộ, công chức, trong đó có cán bộ chủ chốt

các cấp, các ngành thông qua các hội nghị, toạ đàm, trao đổi công tác, nghiệp

67

vụ nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, người đứng

đầu cơ quan, đơn vị, công chức và người lao động về công tác thi hành án dân

sự, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng trong thi hành án dân sự.

Ngoài ra cũng cần chú ý đến việc tuyên truyền để nhân dân tham gia thực

hiện việc giám sát phản ánh tới các cơ quan có thẩm quyền các vi phạm trong

hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự và việc thực hiện các quyết định

xử lý về thi hành án dân sự.

Cùng với tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, tuyên truyền

phổ biến, giáo dục pháp luật thi hành án dân sự, Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Phú Thọ đổi mới mạnh mẽ nhận thức về xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ

công chức, phải nâng cao chất lượng cán bộ thông qua việc tiêu chuẩn hóa đội

ngũ Chấp hành viên và các chức danh khác trong hoạt động thi hành án dân

sự gắn với thực tiễn ở Phú Thọ.

Trước hết, đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự nói chung và Cục Thi

hành án tỉnh Phú Thọ nói riêng phải có phẩm chất của cán bộ thi hành án dân

sự phải thấm nhuần và luôn trung thành với mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", phải có bản lĩnh chính trị vững vàng,

luôn đặt lợi ích nhà nước và lợi ích nhân dân lên trên hết, từ đó khi thực hiện

công vụ phải đối mặt với nhiều khó khăn như: tác động từ gia đình, bạn bè

cũng như có thể có những cám dỗ tiêu cực đến từ đối tượng phải thi hành án

đòi hỏi cán bộ thi hành án dân sự phải có bản lĩnh, dũng cảm vượt qua. Nếu

không có được những phẩm chất đó, họ sẽ bị mua chuộc, sa ngã, không hoàn

thành nhiệm vụ hoặc thậm chí vi phạm pháp luật. Người cán bộ thi hành án

dân sự phải có phong cách làm việc tốt, phải coi trọng và luôn ứng xử theo

tiêu chuẩn, nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đồng thời họ phải có

lối sống lành mạnh, tư cách trong sáng, thực sự là tấm gương trong công việc

và trong cuộc sống đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Cán bộ là công

bộc, là đầy tớ của nhân dân "…. Cùng với việc rèn luyện phẩm chất, cán bộ

68

thi hành án dân sự còn phải rèn luyện và nâng cao kĩ năng thi hành án; họ

phải được đào tạo cơ bản về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, khoa học, kỹ

thuật, tinh thông về nghiệp vụ, có kĩ năng cơ bản chuyên sâu về lĩnh vực thi

hành án dân sự và có thời gian thử thách trong thực tế hoạt động thi hành án

dân sự; họ phải có kỹ năng pháp lí, am hiểu pháp luật, biết khai thác và áp

dụng pháp luật trên cơ sở biết phân tích, tổng hợp, bao quát vấn đề và luôn

chủ động linh hoạt sáng tạo trong áp dụng pháp luật. Chấp hành viên phải coi

trọng việc tự bồi dưỡng, tự đào tạo ngay trong quá trình thực thi nhiệm vụ

được giao, nhằm không ngừng nâng cao nghiệp vụ mọi mặt của bản thân.

Từ những yêu cầu đó, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ cần củng

cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy theo quy định của pháp luật về thi hành án dân

sự nhằm xác định rõ vị trí cho các tổ chức trong Cục Thi hành án dân sự tỉnh

Phú Thọ, đảm bảo về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng, tạo điều kiện

để thực hiện tốt chức năng tham mưu giúp lãnh đạo Cục và UBND tỉnh thực

hiện tốt công tác thi hành án dân sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,

chống tham nhũng trong công tác quản lý, công tác thi hành án dân sự trên địa

bàn.

Trên cơ sở bộ máy đã được xác định, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú

Thọ cần rà soát lại số cán bộ công chức hiện có để bố trí công việc cho từng

người một cách khách quan, hợp lý đi đôi với việc tiếp tục tăng cường công

tác thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kinh nghiệm cho họ, nhất là

về kỹ năng tác nghiệp, kỹ năng tham mưu, nâng cao bản lĩnh trong việc thi

hành án dân sự và ra quyết định xử lý trong thi hành án dân sự đối với tổ chức

cá nhân vi phạm; tiến hành tuyển chọn để đề nghị bổ nhiệm các chức danh

lãnh đạo quản lý, Chấp hành viên và các chức danh, chức vụ khác theo quy

hoạch được phê duyệt đảm bảo đúng theo tiêu chuẩn, đúng quy trình, khách

quan dân chủ, từng bước thực hiện tiêu chuẩn hóa đội ngũ công chức thi hành

án dân sự cho phù hợp với cơ sở kinh tế và trình độ dân trí của tỉnh Phú Thọ.

69

Đổi mới công tác đánh giá cán bộ hàng năm, nâng cao tinh thần tự phê bình

và phê bình, đánh giá trên cơ sở chú trọng đến kết quả, hiệu quả công việc

được giao, coi trọng công tác thi đua, khen thưởng, khen thưởng kịp thời các

tổ chức, cá nhân có thành tích và xử lý nghiêm các tổ chức cá nhân có vi

phạm, coi việc sơ tổng kết hàng năm để chỉ rõ những tồn tại, hạn chế và đề ra

các biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác. Cục cần tích cực

đè nghị Tổng cục thi hành án dân sự bổ sung đủ biên chế để đảm bảo thực

hiện nhiệm vụ được giao được xác định trên cơ sở vị trí việc làm, gắn với

chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động.

Đối với Chấp hành viên: Cần trau dồi, nâng cao năng lực chuyên môn,

nghiệp vụ, nắm vững các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự và các

văn bản pháp luật có liên quan trong việc ban hành các quyết định và tổ chức

thi hành án; đề cao trách nhiệm cá nhân trong thực thi công vụ để bảo đảm

việc ra hoặc không ra các quyết định thi hành án, tổ chức hoặc không tổ chức

thi hành các quyết định về thi hành án luôn đúng quy định pháp luật. Quá

trình tổ chức thi hành án, phải kịp thời báo cáo và xin ý kiến chỉ đạo, hướng

dẫn nghiệp vụ đối với những vụ việc có khó khăn, vướng mắc phát sinh.

Trên cơ sở xem xét tính chất đặc thù của công tác thi hành án dân sự và

thực trạng tình hình đội ngũ cán bộ công chức hiện nay, chúng tôi tin rằng

trong thời gian trước mắt, cán bộ, công chức Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú

Thọ sẽ hoàn thành tốt chức năng nhiệm vụ quyền hạn do pháp luật quy định

góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Phú Thọ.

3.2.1.4. Đổi mới công tác thi đua khen thưởng

Công tác thi đua khen thưởng đóng một vai trò rất quan trọng trong

việc thúc đẩy, tạo nên động lực, khí thế để các cán cộ, công chức, các đơn vị

Thi hành án dân sự nỗ lực, quyết tâm hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ được

giao. Chính vì vậy, có thể xem đây là “Công cụ” cơ bản nhằm tạo “Đòn bẩy”

cơ bản để đẩy nhanh tiến độ giải quyết án tồn đọng. Để làm được điều đó,

70

Cục Thi hành án dân sự tỉnh và các Chi cục Thi hành án dân sự trong toàn

tỉnh cần làm tốt công tác thi đua khen thưởng nói chung và công tác thi đua

khen thưởng về giảm án tồn đọng nói riêng, cụ thể:

- Phải đảm bảo công tác thi đua khen thưởng thật sự mang tính thực

chất, biểu dương, ghi nhận những tập thể, cá nhân đã có nhiều nỗ lực, cố

gắng, đạt được nhiều thành tích quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ,

đồng thời cần nghiêm khắc phê bình, xử lý kỷ luật bằng hình thức thích hợp

những đơn vị, cá nhân chưa làm tốt vai trò của mình, chưa phát huy tốt tinh

thần trách nhiệm dẫn đến ăn tồn đọng, kéo dài, làm ảnh hưởng đến quyền lợi

hợp pháp của đương sự, khiến dư luận bức xúc nảy sinh khiếu kiện, khiếu nại

về thi hành án dân sự;

- Đưa chỉ tiêu “Thi hành án” hiệu quả trở thành tiêu chí quan trọng để

bình xét thi đua khen thưởng cuối năm nhằm tạo động lực thúc đẩy các cơ

quan Thi hành án dân sự, các cán bộ, công chức của Ngành nỗ lực, cố gắng

hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ được giao;

- Tổ chức phát động phong trào thi đua giảm án tồn đọng theo từng giai

đoạn cụ thể, mỗi năm có thể tổ chức từ 1-2 đợt để góp phần tạo nên những

hiệu ứng tốt về tư tưởng, tinh thần, đẩy nhanh kết quả giải quyết án tồn đọng.

Trên cơ sở đó cần chú trọng biểu dương, khen thưởng, nhân rộng những điển

hỉnh tiên tiến, những cách làm hay để các đơn vị học tập, noi theo, đồng thời

nên xây dựng danh hiệu “Lá cờ đầu” về công tác giảm án tồn đọng theo từng

năm để các đơn vị cố gắng phấn đấu đạt được danh hiệu này. Động lực thi

đua sẽ là yếu tố thúc đẩy hết sức cơ bản để công tác giải quyết án tồn đọng đạt

được kết quả mong đợi.

3.2.1.5. Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và tăng

cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động thi hành án dân sự

Trong điều kiện ngày nay, khi mà tri thức, thông tin, công nghệ đã trở

thành mũi nhọn, xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội thì

71

việc nắm bắt, ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật trở thành yếu tố có

ý nghĩa quyết định không chỉ đối với hoạt động thi hành án dân sự mà đối với

toàn bộ hoạt động quản lý nói chung. Việc đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu

khoa học kỹ thuật ở Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ là một việc làm có

ý nghĩa rất lớn và xuất phát từ những yêu cầu cụ thể sau:

Phạm vi hoạt động thi hành án dân sự trên địa giới rộng giao thông đi

lại khó khăn; nội dung thi hành án dân sự đa dạng, phức tạp, số vụ việc ngày

càng tăng bao gồm tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; đối tượng

phải thi hành án dân sự ngày càng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt

và phương tiện hiện đại để trốn tránh thi hành án thậm trí chống đối trong thi

hành án dân sự. Do vậy hoạt động thi hành án dân sự luôn đòi hỏi người cán

bộ, Chấp hành viên không chỉ có bản lĩnh chính trị vững vàng mà còn phải

tinh thông về nghiệp vụ về kiến thức pháp luật, có trình độ khoa học, kỹ thuật,

đủ khả năng ứng dụng tri thức khoa học hoặc sử dụng những phương tiện,

thiết bị kỹ thuật hiện đại vào giải quyết những vấn đề mà thực tiễn hoạt động

thi hành án dân sự đặt ra.

Yêu cầu của hoạt động thi hành án dân sự là phải có tính nhanh nhạy,

chính xác, khách quan. Hồ sơ, tài liệu thi hành án dân sự phải được lưu trữ,

bảo vệ một cách khoa học, vừa an toàn, bí mật, vừa dễ tra cứu, sử dụng. Hệ

thống thông tin phải thông suốt, đầy đủ, trung thực, kịp thời phục vụ yêu cầu

quản lý và sự chỉ đạo điều hành của lãnh đạo các cấp. Vì vậy, việc ứng dụng

các thành tựu của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công

nghệ số chắc chắn sẽ nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác thi

hành án dân sự, phục vụ tốt hơn yêu cầu của công tác quản lý.

Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động thi

hành án dân sự là giải pháp quan trọng nhằm tiếp tục đổi mới hoạt động của

Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ. Cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị

là những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Cục Thi

72

hành án dân sự tỉnh Phú Thọ, trong khi đó cơ sở vật chất, trang thiết bị hiên

nay còn thiếu và thô sơ, lạc hậu vì vậy để góp phần nâng cao chất lượng,

hiệu quả hoạt động của các của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ trong

thời gian tới thì một trong những giải pháp quan trọng là cần tập trung xây

dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị, phương tiện làm việc hiện đại, phù

hợp cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ, cụ thể:

- Về phương tiện, điều kiện làm việc: Tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất,

trang thiết bị phục vụ cho hoạt động thi hành án, giải quyết khiếu nại, tố cáo

và phòng, chống tham nhũng trong thi hành án dân sự tại Cục Thi hành án

dân sự tỉnh Phú Thọ; đầu tư kinh phí mua sắm trang thiết bị chuyên dùng,

thiết bị phục vụ cho Chấp hành viên, Thẩm tra viên.., trong thực thi công vụ

như: máy tính xách tay, máy ảnh, máy ghi âm; Trang bị máy Scanner có cấu

hình cao, quét 02 mặt tự động, tốc độ cao để phục vụ vận hành, phần mềm tác

nghiệp “Hồ sơ công việc” (eOffice). Cần mua sắm, trang bị máy tính để bàn và

máy in không kết nối mạng Internet cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ

để soạn thảo, in ấn, lưu trữ tài liệu Mật theo quy định tại Thông tư số

08/2015/TT- BCA ngày 27/01/2015 của Bộ Công an quy định Danh mục bí

mật nhà nước độ Mật trong ngành Thi hành án. Đầu tư mua sắm trang thiết bị

số hóa dữ liệu hồ sơ thi hành án dân sự thông suốt từ Cục Thi hành án tỉnh Phú

Thọ đến các Chi Cục thi hành án dân sự các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh

Về kinh phí đảm bảo hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú

Thọ hàng năm: Ngoài kinh phí được phân bổ theo định mức chung của ngành

do Tổng Cục thi hành án dân sự cấp Sở Tài chính cần tính toán tham mưu để

bổ sung kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của thi hành án dân sự theo quy định

của Luật Ngân sách nhà nước; Luật Thi hành án dân sự. Bố trí hỗ trợ kinh phí

hàng năm cho Cục Thi hành án dân sự tỉnh từ nguồn kinh phí được trích qua

sai phạm đã thu hồi của các cơ quan Thi hành án dân sự theo quy định của Bộ

Tài chính để công tác giảm án tồn đọng trong thời gian tới đạt kết quả cao,

73

góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự thì việc áp

dụng một cách quyết liệt, đồng bộ, khoa học, có hệ thống các giải pháp nêu

trên là hết sức cần thiết. Bởi vì thực tiễn cho thấy bản án, quyết định của Tòa

án được tổ chức thi hành án nghiêm túc sẽ có ý nghĩa đối với đời sống xã hội

và đây cũng là minh chứng quan trọng nhất thể hiện các cơ quan Tư pháp đã

hoàn thành chức năng nhiệm vụ được giao, điều này sẽ tạo nên dư luận xã hội

tốt, làm cho uy tín quản lý điều hành của Nhà nước ngày càng được nâng cao

hơn, góp phần phấn đấu hoàn thiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền

của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tiểu kết chương 3

Trong quá trình phát triển, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đã góp

phần quan trọng trong những thành tựu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.

Trong những năm qua, Cục Thi hành án dân sự tỉnh đã có những đổi mới

trong tổ chức và hoạt động và đạt kết quả tương đối toàn diện trên các mặt

công tác. Tuy vậy, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ vẫn còn những hạn

chế, bất cập. Trước yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam và thực

hiện quá trình cải cách hành chính nhà nước đòi hỏi Cục Thi hành án dân sự

tỉnh Phú Thọ phải đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cả về tổ chức và hoạt động

thông qua một số giải pháp tổ chức và hoạt động là: Tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng đối với công tác thi hành án dân sự; Hoàn thiện hệ thống văn bản

pháp luật về thi hành án dân sự; Sắp xếp lại cơ cấu tổ chức một cách hợp lý,

phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính nhà nước và thực tế ở địa phương;

Xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ công chức; Ứng dụng các thành tựu khoa

học kỹ thuật công nghệ thông tin, tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị vào

74

hoạt động thi hành án dân sự;

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động thi

hành án dân sự; sau khi khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động

của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ, tác giả luận văn xin đưa ra một số

kết luận như sau:

1. Thi hành án dân sự là hoạt động hành chính- tư pháp của Nhà nước

do cơ quan thi hành án tiến hành theo trình tự thủ tục luật định nhằm đảm bảo

thi hành các bản án, quyết định về dân sự của Tòa án hoặc quyết định của các

cơ quan có thẩm quyền. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về thi hành án

dân sự đồng thời đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự, giải quyết

khiếu nại tố cáo, phòng chống tham nhũng trong thi hành án dân sự là hết sức

cần thiết, là biện pháp hữu hiệu nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước;

hoàn thiện thể chế pháp luật và cơ chế quản lý về thi hành án dân sự.

Cùng với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam,

tổ chức của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ ngày càng được củng cố và

hoàn thiện. Hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ đã góp phần

xứng đáng vào việc bảo vệ chế độ, giữ gìn trật tự kỷ cương, tăng cường pháp

chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ quyền tự do dân chủ và

đảm đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đặc biệt là người được thi

hành án dân sự.

2. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong tổ chức và

hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung và Cục Thi hành án

dân sự tỉnh Phú Thọ nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như: cơ cấu tổ

chức chưa hợp lý, tổ chức thi hành án dân sự đạt tỷ lệ chung toàn tỉnh chưa

hoàn thành kế hoạch được giao, một bộ phận cán bộ công chức nghiệp vụ

chuyên môn và bản lĩnh nghề nghiệp chưa vững vàng còn vi phạm pháp luật

75

trong thực thi công vụ... Từ thực trạng trên, tổ chức và hoạt động thi hành án

dân sự của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ cần phải đổi mới đáp ứng

yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN và cải cách bộ máy nhà nước

đang là một yêu cầu khách quan, là đòi hỏi hết sức bức xúc phải giải quyết.

3. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú

Thọ cần phải gắn liền với đổi mới hoạt động của toàn ngành thi hành án dân

sự và quá trình cải cách hành chính đang được thực hiện tại tỉnh Phú Thọ trên

cơ sở học tập, kế thừa những yếu tố hợp lý, những kinh nghiệm hay về tổ

chức và hoạt động của các tỉnh trong cả nước.

Một số quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Cục

Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ mà tác giả đưa ra được thực hiện đồng bộ sẽ

bảo đảm Cục Thi hành án dân sự tỉnh Phú Thọ nâng cao chất lượng tổ chức và

hoạt động đáp ứng yêu cầu đổi mới và phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế-

xã hội của đất nước đồng thời để tỉnh Phú Thọ sớm trở thành một trong những

76

tỉnh giàu có, văn minh xứng đáng là vùng đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam./.

1.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Hoàng Thế Anh (2015), Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện

2.

nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

Nguyễn Công Bình (1998), “Mấy vấn đề về thi hành án dân sự trong

3.

việc soạn thảo Bộ luật Tố tụng dân sự”, Tạp chí Luật học, số (05).

Nguyễn Công Bình (2000), “Một số ý kiến về thi hành án dân sự”, Hội

4.

thảo khoa học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo số 63/BC-BTP ngày 13/3/2014 tổng kết 4

5.

năm thi hành Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.

Hồ Quân Chính (2014), "Bất cập trong quy định về việc lập kế hoạch

cưỡng chế thi hành án dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số

6.

chuyên đề về thi hành án dân sự), (33).

Chính phủ (2008), Tờ trình số 31/TTr-CP ngày 04/04/2008 về dự án

7.

Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.

Chính phủ (2012), Tăng cường tiếp cận công lý và bảo vệ quyền tại

Việt Nam, Bản dịch tài liệu hội thảo, Chính phủ Việt Nam - Chương

8.

trình Phát triển Liên hiệp quốc, Hà Nội.

Chính phủ (2014), Tờ trình số 120/TTr-CP ngày 08/05/2014 về dự án

9.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.

Chính phủ (2014), Báo cáo số 395/BC-CP ngày 14/10/2014 công tác

10. Chính phủ (2015), Báo cáo số 566/BC-CP ngày 22/10/2015 công tác

thi hành án năm 2014, Hà Nội.

11. Chính phủ (2015), Báo cáo số 538/BC-CP ngày 19/10/2015 tổng kết

thi hành án năm 2015, Hà Nội.

việc triển khai tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo

12. Chính phủ (2016), Báo cáo số 426/BC-CP ngày 17/10/2016 công tác

Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội, Hà Nội.

77

thi hành án năm 2016, Hà Nội.

13. Chính phủ (2017), Báo cáo số 439/BC-CP ngày 14/10/2017 công tác

14. Lê Hùng Cường (2017), "Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác

thi hành án năm 2017, Hà Nội.

thi hành án dân sự hiện nay", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số

15. N.M.Duchene (2008), “Cưỡng chế phạt tiền và cưỡng chế trả nhà”, Tài

chuyên đề về thi hành án dân sự), (15).

16. Lê Thị Lệ Duyên (2013), "Những vướng mắc trong phối hợp thực hiện

liệu hội thảo về dự thảo Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.

17. Lê Thị Lệ Duyên (2013), "Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi

quy định về cưỡng chế trả giấy tờ", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (02).

hành án với các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự", Tạp chí

18. Nguyễn Tấn Dũng (2008), Bài phát biểu tại Hội nghị triển khai công

Dân chủ và Pháp luật, (01).

19. Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam,

tác năm 2009 của Ngành Tư pháp, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

Nxb CAND.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

26. Lê Thu Hà (Chủ biên) (2009), Sổ tay chấp hành viên, Nxb Thống kê,

78

lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

27. Lê Thu Hà (2011), Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật thi hành án

Hà Nội.

28. Vũ Trọng Hách (2006), Hoàn thiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực thi

dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2017), "Thực tiễn áp dụng biện pháp bảo đảm

hành án hình sự ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

và cưỡng chế thi hành án dân sự tại thành phố Huế", Tạp chí Dân chủ

30. Lê Võ Hồng Hạnh (2013), "Chi phí cưỡng chế thi hành án trong trường

và Pháp luật, (Số chuyên đề về thi hành án dân sự), (9).

31. Chu Thị Hoa (2012), "Mô hình tổ chức thi hành án dân sự công ở một

hợp bảo lãnh sẽ do ai chịu", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (7).

số nước trên thế giới", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (Số chuyên đề về

32. Học viện Tư pháp (2005), Kỹ năng thi hành án dân sự, Nxb Thống kê,

thi hành án dân sự), (26).

33. Trần Phương Hồng (2012), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự áp

Hà Nội.

đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện

34. Hoàng Thọ Khiêm (chủ biên, 2006), Đổi mới tổ chức cơ quan thi hành

Xã hội, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

35. Tuấn Lê (2010), "Một số vấn đề lưu ý chung về cưỡng chế thi hành án

án, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề về thi hành án

36. Hoàng Thế Liên (chủ nhiệm đề tài), (2006), Cơ sở lý luận và thực tiễn

dân sự), (20).

hoàn thiện cơ chế bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động

37. Mai Kim Liên (2006), "Nâng cao tính độc lập trong hoạt động của các

của cơ quan tư pháp, Đề tài nghiên cứu cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

cơ quan thi hành án", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (số chuyên đề về

79

Thi hành án dân sự), tr.31- 47.

38. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan

tư pháp theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án

39. Nguyễn Đình Lộc (Chủ nhiệm) (2004), Luận cứ khoa học và thực tiễn

tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

của việc đổi mới tổ chức hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai

40. Nguyễn Văn Luyện, Nguyễn Thanh Thủy (Chủ biên) (2012), Sổ tay

đoạn mới, Đề tài khoa học cấp nhà nước độc lập, Hà Nội.

41. Lê Thị Tuyết Minh (2012), "Một số giải pháp để giải quyết hiệu quả

Nghiệp vụ thi hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

việc thi hành án dân sự tồn đọng", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (Số

42. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2006), Tài liệu hội thảo Quốc tế các mô

chuyên đề thi hành án dân sự), (14).

43. Nhà pháp luật Việt - Pháp (2008), Tài liệu hội thảo dự thảo Luật thi

hình tổ chức thi hành án trên thế giới, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

44. M.D.Parrish (2010), Thi hành các phán quyết của Hoa Kỳ ở Canađa:

hành án dân sự, Bộ Tư pháp, Hà Nội.

45. Nguyễn Thanh Phương (2011), Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản

Hướng dẫn thực tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

trong thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học

46. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố

Luật, Hà Nội.

47. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp

tụng hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

48. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Cạnh

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

49. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Nhà

tranh, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

50. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Phá

80

ở, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

51. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật thi

sản, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

52. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật

hành án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

53. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật

Trọng tài thương mại, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

54. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật

Dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

55. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ luật Tố

Hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

56. Đặng Đình Quyền (2012), Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành

tụng dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

án dân sự ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị -

57.

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Sakai (2013), Bán và phân chia tài sản trong cưỡng chế thi hành, Tài

58. Bùi Văn Tấn (2014), "Một số vướng mắc trong việc kê biên, bán đấu

liệu hợp tác của Tổ chức JICA Nhật Bản, Nhật Bản.

giá quyền sử dụng đất nông nghiệp ở Đồng Tháp", Tạp chí Dân chủ và

59. Lê Thị Hoàng Thanh (2012), "Đánh giá các quy định pháp luật về thi

Pháp luật, (3).

hành án dân sự hiện hành trong mối quan hệ với hệ thống pháp luật",

60. Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (Số chuyên đề thi hành án dân sự), (10).

động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học,

61. Điền Đức Thành (2010), "Tìm hiểu về tổ chức thi hành án của nước

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Cộng hòa Pháp", tại trang http://www.hcmcbar.org, truy cập ngày

62. Lại Anh Thắng (2010), Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở

81

16/12/2017.

tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị -

63. Trần Công Thịnh (2008), "Thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế kê

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

biên tài sản để thi hành án dân sự và một số khuyến nghị", Tạp chí

64. Nhiều tác giả (1998), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa Thông tin.

65. Nguyễn Thanh Thuỷ, Lê Thị Kim Dung (Chủ biên) (2010), Xử lý tình

Khoa học, (24).

huống trong thi hành án dân sự và các văn bản pháp luật về thi hành

66. Nguyễn Thanh Thuỷ (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở

án dân sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc

67.

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

Phan Hữu Thư, Lê Thu Hà (Chủ biên) (2005), Giáo trình kỹ năng thi

68. Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo tổng kết

hành án dân sự, Nxb Thống kê, Hà Nội.

69. Tổng cục Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp (2017), Báo cáo tổng kết

công tác năm 2016, Hà Nội.

70. Nguyễn Thùy Trang (2012), "Hoàn thiện các quy định pháp luật về trình

công tác năm 2017, Hà Nội.

71. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật thi hành án dân

tự, thủ tục thi hành án dân sự", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (12).

72. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2006), Từ điển Luật học, Nxb

sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

82

Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp.