VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN HÙNG
ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN HÙNG
ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
THEO PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838 01 07
PGS. TS. VŨ THỊ HỒNG VÂN
Hà Nội, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học từ công sức,
suy nghĩ, nghiên cứu của tác giả, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS. TS Vũ Thị Hồng Vân. Các số liệu, các tư liệu, những kết quả nghiên cứu
được trình bày trong luận văn này là trung thực. Luận văn chưa từng được công bố
dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của
mình.
Tác giả
Nguyễn Văn Hùng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ VÀ PHÁP LUẬT VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ..................... 9
1.1 Khái quát chung về ủy thác thi hành án dân sự ........................................................ 9
1.2 Khái quát về pháp luật ủy thác thi hành án dân sự ................................................. 15
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HIỆN
HÀNH VỀ ỦY THÁC THI HÁNH ÁN DÂN SỰ ..................................................... 30
2.1 Căn cứ thực hiện ủy thác thi hành án dân sự .......................................................... 30
2.2 Các trường hợp thực hiện ủy thác thi hành án ........................................................ 37
2.3 Thẩm quyền ủy thác thi hành án dân sự .................................................................. 43
2.4 Trình tự, thủ tục ủy thác thi hành án dân sự............................................................ 45
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN,
NÂNG CAO HIỆU QỦA THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ỦY THÁC THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI GIAN TỚI ...................... 50
3.1 Thực tiễn thi hành pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự tại TP. HCM .............. 50
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự tại
TP. HCM trong thời gian tới ......................................................................................... 68
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 87
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Từ viết tắt Từ được viết tắt
XHCN 01 Xã hội chủ nghĩa
CQQLNN 02 Cơ quan quản lý Nhà nước
UBND 03 Ủy ban nhân dân
KTTT 04 Kinh tế thị trường
BA 05 Bản án
QĐ 06 Quyết định
TA 07 Tòa án
TAND 08 Tòa án nhân dân
VKSND 09 Viện kiểm sát nhân dân
THA 10 Thi hành án
THADS 11 Thi hành án dân sự
CQTHA 12 Cơ quan Thi hành án
13 CQTHADS Cơ quan Thi hành án dân sự
14 CHV Chấp hành viên
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi hành án dân sự là công tác phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong
đời sống xã hội, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền cơ bản của con người (quyền về tài
sản, nhân thân của các bên đương sự và những người có liên quan). Việc tổ chức thi
hành bản án, quyết định của Tòa án sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền
và nghĩa vụ của các bên có liên quan theo bản án, quyết định của Tòa án và theo
quy định của pháp luật.
Để thi hành bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan THADS, CHV phải
thực hiện rất nhiều các biện pháp nghiệp vụ như: Giao quyết định thi hành án; Xác
minh điều kiện thi hành án của đương sự như: Nơi có tài sản, nơi làm việc, nơi cư
trú hoặc nơi có trụ sở; Ủy thác thi hành án…
Thực tế hiện nay, một cá nhân có thể có đăng ký thường trú tại địa chỉ này
nhưng lại tạm trú, sinh sống, làm việc tại một địa chỉ khác, hoặc có tài sản ở nhiều địa
phương khác nhau. Mặt khác, cơ quan hành chính Nhà nước lại được phân quyền
theo lãnh thổ nên chỉ thực hiện hoạt động của mình trên lãnh thổ phân định, việc thực
hiện hoạt động THADS trở nên khó khăn hơn khi tính chất đa lãnh thổ của các vụ
việc trở nên phức tạp hơn, khi đương sự có nhiều nơi cư trú, nhiều nơi có tài sản. Do
đó, chế định ủy thác THADS được đặt ra là một yêu cầu khách quan và tất yếu, có ý
nghĩa rất quan trọng đối với việc giải quyết khó khăn trong công tác thi hành án về
mặt điều kiện thực thi, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan THADS trong việc thực thi
các bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế, tạo điều kiện thuận lợi, tiết kiệm chi
phí cho đương sự trong việc tuân thủ theo các nội dung do Tòa án phán quyết, sau
cùng là tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước trong việc đảm bảo pháp chế XHCN.
Pháp luật về uỷ thác THADS được ban hành nhằm làm giảm bớt chi phí của
nhà nước và của đương sự, đồng thời làm tăng hiệu quả của việc tổ chức thi hành
bản án, quyết định bởi vì CQTHA nhận uỷ thác là cơ quan có điều kiện thuận lợi và
dễ dàng hơn để thi hành vụ việc. Tuy nhiên, pháp luật về ủy thác THADS vẫn còn
một số hạn chế, bất cập như: việc xác định nơi có tài sản giá trị lớn nhất, nơi có
1
nhiều tài sản nhất; trường hợp thi hành án nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; trường
hợp trước khi ủy thác, cơ quan THADS phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài
sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác; trường hợp áp dụng biện
pháp ngăn chặn xuất cảnh, cơ quan chức năng yêu cầu cơ quan THADS đã yêu cầu
ngăn chặn xuất cảnh phải là cơ quan yêu cầu giải tỏa ngăn chặn xuất cảnh...
Trên thực tế, vấn đề uỷ thác thi hành án cần phải được hiểu và thực hiện đúng
quy định của pháp luật mới phát huy được hết vai trò và ý nghĩa của nó. Thực tiễn
khi thực hiện quy định của pháp luật về ủy thác THADS tại TP. Hồ Chí Minh hiện
nay bên cạnh những kết quả tích cực, cũng có những vấn đề còn khó khăn, bất cập,
việc phối hợp thực hiện ủy thác THADS giữa các Chi cục vẫn còn chưa thống nhất
với nhau về nhận thức về ủy thác trong một số trường hợp như (ủy thác không đúng
đối tượng, chưa xác minh cụ thể điều kiện thi hành án của người phải thi hành án
nhưng vẫn ủy thác), hoặc việc các cơ quan THADS né tránh, đùn đẩy việc thi hành
án cho cơ quan THADS nơi khác ngay khi căn cứ để uỷ thác…
Từ những lý do nêu trên, đồng thời nhằm góp phần nâng cao hiệu quả pháp
luật THADS nói chung và việc ủy thác THADS nói riêng, thì việc nghiên cứu và
hoàn thiện các quy định của pháp luật về ủy thác THADS là cần thiết, có ý nghĩa về
mặt pháp luật và thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Ủy
thác THADS theo pháp luật THADS Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố
Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài, có một số giáo trình và công
trình nghiên cứu khoa học liên quan như sau:
- Học viện tư pháp (2010), Giáo trình kỹ năng THADS, phần nghiệp vụ, Nhà
xuất bản Tư pháp. Đây là cuốn sách chuyên khảo trình bày một cách khoa học, hệ
thống các vấn đề cơ bản về ủy thác THADS, các tác giả đã phân tích, đánh giá các
quy định của pháp luật hiện hành, đưa ra các kỹ năng áp dụng pháp luật THADS
nói chung, cũng như chế định ủy thác THADS nói riêng để góp phần hoàn thiện
pháp luật về hoạt động THADS.
2
- Trần Công Huân (2012), “Xử lý ủy thác thế nào cho đúng với Luật
THADS”, Dân chủ và Pháp luật (Số 5). Bài viết đưa ra tình huống thực tế, các quan
điểm trái chiều, còn tranh cãi, mong muốn sự đóng góp, trao đổi ý kiến của các bạn
đồng nghiệp để giúp cho việc xây dựng pháp luật THADS nói chung, vấn đề ủy
thác nói riêng ngày càng được hoàn thiện, góp phần nâng cao hiệu quả công tác thi
hành pháp luật về THADS. Tuy nhiên đây chỉ là bài viết thể hiện quan điểm cá
nhân của tác giả, tính pháp lý khoa học chưa cao, không phải là sự nghiên cứu
chuyên sâu.
- Hà Tuấn Phương, Trương Văn Đới, Đỗ Minh Tiến (2007), “Ủy thác THADS
như thế nào là đúng pháp luật”, Dân chủ và Pháp luật, (Chuyên đề tháng 4/2007).
Bài viết đề cập vướng mắc trong quá trình ủy thác THADS như “ủy thác trực tiếp
có đúng pháp luật không, có cần quy định ủy thác xác minh điều kiện của người
phải thi hành án không, CQTHA nào giải quyết tiền đã tạm thu”. Theo tác giả, do
việc quy định không rõ ràng của Pháp lệnh THADS năm 2004 và các văn bản
hướng dẫn thi hành, cụ thể là các quy định của Nghị định 173/2004/NĐ-CP ngày
30/9/2004 của Chính phủ về thủ tục cưỡng chế thi hành án nên trong quá trình áp
dụng pháp luật đã nảy sinh vướng mắc. Theo tác giả, cần có quy định cụ thể về
trường hợp ủy thác trực tiếp cũng như trường hợp ra quyết định thi hành án rồi mới
ủy thác. Pháp luật cần có quy định về ủy thác xác minh điều kiện của người phải thi
hành án nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án, cũng như đảm bảo
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và công dân. Thống nhất
thi hành trên thực tế về cơ quan giải quyết tiền đã tạm thu để tránh chồng chéo, mâu
thuẫn và thi hành không đúng quy định. Tuy nhiên đây chỉ là bài đăng trên tạp chí
nên tác giả chưa thể nghiên cứu đầy đủ về ủy thác THADS trên thực tế.
- Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật THADS Việt Nam, Nhà
xuất bản Tư pháp. Đây là giáo trình thể hiện nội dung chi tiết về THADS, cung cấp
cho người đọc những nội dung cơ bản có hệ thống về THADS nói chung và ủy thác
THADS nói riêng. Nội dung quyển sách cho người đọc cái nhìn tổng quan về những
vấn đề cơ bản của pháp luật về ủy thác THADS như khái quát khái niệm, đặc điểm,
3
phân loại, nguyên tắc của chế định này.
- Lại Văn Thắng (2013), “Tình huống ủy thác THADS cần hiểu và áp dụng
cho đúng”, Dân chủ và Pháp luật (Số 9). Bài viết đưa ra tình huống ủy thác còn
vướng mắc trên thực tế, đề xuất cách thức giải quyết với mong muốn đóng góp suy
nghĩ của cá nhân, cũng như chỉ ra cái nhìn rõ hơn về các quy định của pháp luật liên
quan đến ủy thác THADS, để từ đó thực hiện việc ủy thác và nhận ủy thác một cách
chặt chẽ, đúng pháp luật. Tuy nhiên đây chỉ là bài viết mang tính chung chung, thể
hiện quan điểm cá nhân về ủy thác THADS, chứ không phải là sự nghiên cứu
chuyên sâu về từng vấn đề ủy thác THADS.
- Lê Anh Tuấn, Tổng cục THADS, Bộ Tư pháp (tháng 7/2017), “Những lưu ý
trong thực hiện uỷ thác THADS” đăng trên cổng thông tin điện tử - Tổng cục
THADS - Bộ Tư pháp. Bài viết nói lên việc Ủy thác THADS có vai trò rất quan
trọng trong hoạt động THADS góp phần bảo đảm thi hành kịp thời, đầy đủ nội dung
phần quyết định của bản án, quyết định được thi hành theo thủ tục THADS, bảo
đảm thực thi quyền, nghĩa vụ của các đương sự trong THADS, mặt khác giúp cho
cơ quan THADS giải quyết việc THADS, giảm thiểu việc thi hành án tồn đọng.
Việc ủy thác THADS nhìn chung đã được cơ quan THADS thực hiện đúng quy
định của pháp luật, tuy nhiên thực tiễn cho thấy có lúc, có nơi còn lúng túng, thực
hiện chưa đúng dẫn đến sai sót, vi phạm về thủ tục ủy thác THADS. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến thực hiện ủy thác THADS chưa đúng là do nhận thức
chưa đầy đủ, chưa chính xác quy định về ủy thác THADS.
- Hồ Quân Chính – giảng viên Học viện Tư pháp (tháng 10/2019) “Cần có
thêm cơ chế “Ủy thác xử lý tài sản thi hành án” đăng trên cổng thông tin điện tử -
Tông cục THADS - Bộ Tư pháp. Bài viết đề cập đến thủ tục ủy thác trong THADS
hiện nay còn thiếu những quy định mang tính nguyên tắc do vậy gây ra không ít
khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trên thực tế. Do vậy, cần phải tiếp tục nghiên
cứu, hoàn thiện, bổ sung đầy đủ nguyên tắc về ủy thác thi hành án và nghiên cứu bổ
sung cơ chế “ủy thác xử lý tài sản” trong thi hành án. Đây là một cách tiếp cận mới
và nếu được áp dụng nó sẽ giải quyết được những bất cập hiện nay, bảo đảm tốt
4
nhất quyền lợi hợp pháp của đương sự, đồng thời, đặc biệt có ý nghĩa trong ủy thác
tổ chức thanh lý tài sản của Doanh nghiệp, Hợp tác xã bị tuyên bố pháp sản theo
Luật phá sản năm 2014. Mặt khác bài viết cũng nêu lên một số bất cập, hạn chế của
pháp luật về ủy thác thi hành án, khó khăn, bất cập khi áp dụng pháp luật vào thực
tế, đề xuất hướng hoàn thiện.
Các công trình nghiên cứu trên đã đạt được những kết quả lớn, có giá trị phục
vụ cho khoa học pháp lý. Có công trình nghiên cứu ở mức độ chung chung, thể hiện
quan điểm cá nhân, có công trình nghiên cứu tổng quan, đưa ra các vấn đề cơ bản
xoay quanh ủy thác THADS. Tuy nhiên, việc tách riêng để nghiên cứu về chế định ủy
thác THADS thì tác giả chưa thấy công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, có tính hệ
thống những vấn đề liên quan đến ủy thác THADS. Hơn nữa, việc nghiên cứu, khảo
sát và đánh giá hoạt động ủy thác THADS tại một địa bàn rộng lớn như Thành phố
Hồ Chí Minh còn chưa có công trình nào nghiên cứu đề cập đến. Thiết nghĩ THADS
là một trong những lĩnh vực rất phức tạp và nhạy cảm, vì nó động chạm trực tiếp đến
lợi ích của người phải thi hành án, cũng như quyền lợi của người được thi hành án, do
đó việc hoàn thiện chế định “ủy thác THADS” là một việc làm cần thiết, góp phần
hoàn thiện pháp luật thi hành án cũng như đảm bảo tốt cho quá trình thực thi các quy
định liên quan đến ủy thác THADS.
Việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về quy định ủy thác THADS và
quá trình áp dụng trong thực tế tại thành phố Hồ Chí Minh là đề tài không có tính trùng
lặp, là cơ sở quan trọng cho việc hoàn thiện về mặt pháp luật đồng thời tìm ra
được những thiếu sót, vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn của quy định ủy
thác THADS, từ đó nâng cao hiệu quả khi áp dụng quy định ủy thác THADS góp
phần vào việc đẩy mạnh công tác THADS nói chung và tại địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh nói riêng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận, phân tích những quy
định pháp luật và khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về ủy thác
THADS. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
5
thực thi quy định về ủy thác THADS trong pháp luật THADS Việt Nam hiện hành.
Để đạt được mục đích trên đề tài, có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về ủy thác THADS;
- Phân tích quy định về ủy thác THADS trong pháp luật THADS Việt Nam
hiện hành;
- Khảo sát, đánh giá về thực trạng áp dụng các quy định pháp luật hiện hành
về ủy thác THADS tại thành phố Hồ Chí Minh;
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả thi hành quy định pháp luật về ủy thác THADS.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là các quy định của pháp luật
Việt Nam (Luật THADS và các văn bản pháp luật hiện hành hướng dẫn thi hành) về
ủy thác THADS và việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn, phương hướng
hoàn thiện những quy định về ủy thác THADS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Ủy thác THADS là một vấn đề khá phức tạp, có liên
quan đến nhiều hành vi từ việc xác minh điều kiện thi hành án, tống đạt các quyết
định ủy thác, quyết định thu hồi… Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, theo
đúng tên đề tài “ủy thác THADS” tác giả chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu chế định ủy
thác THADS theo Luật THADS hiện hành và văn bản pháp luật liên quan, theo đó,
tác giả tập trung nghiên cứu phân tích những vướng mắc, khó khăn làm cho chế
định ủy thác THADS khó thể thực hiện theo quy định của pháp luật để từ đó đưa ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành của pháp luật
về ủy thác THADS.
- Phạm vi về thời gian và không gian: Luận văn khảo sát, đánh giá về thực
trạng áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về ủy thác THADS tại thành phố
Hồ Chí Minh trong thời gian từ năm 2014 đến hết năm 2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt luận văn tác giả đã chọn các phương pháp sau:
6
- Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh được tác giả sử dụng ở
Chương 1 và Chương 2 để nghiên cứu một số vấn đề lý luận và phân tích các nội
dung của các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành với các vấn đề, quy định liên
quan nhằm làm sáng tỏ thêm các quy định về ủy thác THADS; đồng thời tác giả còn
sử dụng phương pháp này trong việc phân tích những khó khăn, vướng mắc của
việc áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về ủy thác THADS từ đó đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
- Phương pháp thống kê được tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thu thập
được liên quan đến ủy thác THADS.
- Phương pháp tổng hợp được tác giả sử dụng để hoàn thành luận văn trên cơ
sở tập hợp các tài liểu và các số liệu đã thu thập được.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Ý nghĩa khoa học của luận văn: Luận văn đã giải quyết vấn đề cơ sở của những
quy định về ủy thác THADS và việc áp dụng pháp luật vào thực tiễn; Nhận diện được
những hạn chế, bất cập của chế định ủy thác THADS và các tồn tại, vướng mắc trong
thực tiễn thực hiện chúng. Từ đó, tìm ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn
chế, bất cập, vướng mắc, tồn tại đã nhận diện, góp phần giải quyết các khó khăn,
vướng mắc đặt ra trong công tác THADS hiện nay.
Giá trị của đề tài: Luận văn này có thể sử dụng để làm tài liệu tham khảo trong
quá trình tác nghiệp của CHV, Thư ký thi hành án, Luật sư. Ngoài ra luận văn còn
có thể sử dụng để học tập nghiên cứu.
7. Bố cục và nội dung cơ bản của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn bao gồm 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Một số vấn đề chung về ủy thác thi hành án dân sự và pháp luật về
ủy thác thi hành án dân sự.
Chương 2. Quy định của pháp luật thi hành án dân sự hiện hành về ủy thác thi
hành án dân sự.
Chương 3. Thực tiễn thi hành và giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực
7
thi pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời
gian tới.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái quát chung về ủy thác thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm về ủy thác thi hành án dân sự
Trước hết, để làm rõ khái niệm ủy thác THADS, cần tìm hiểu thi hành án là gì?
Thi hành án được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
được tiến hành theo thủ tục trình tự pháp luật quy định, nhằm thực hiện các bản án
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án.
Thi hành án, xuất phát từ thuật ngữ gốc là “Thi hành” theo tác giả Đào Duy
Anh, thì thi hành là: “Đem cái việc đã trù định sẵn mà làm ra cho có hiệu quả” [Từ
điển Hán - Việt của Đào Duy Anh tr.791] . Như vậy thi hành án có thể được hiểu là
đem bản án của Tòa án ra thi hành trên thực tế cho có hiệu quả; còn THADS là việc
đưa các bản án, quyết định của Tòa án về dân sự đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành
trên thực tế. Điều này có ý nghĩa chỉ các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực và đang có hiệu lực mới được đem thi hành; đó là các bản án, quyết định sau
đây của Tòa án: bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh
tế; quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã; quyết định về tài sản
trong bản án, quyết định hành chính; quyết định về dân sự trong bản án, quyết định
hình sự; các bản án, quyết định dân sự khác do pháp luật quy định.THADS là hoạt
động của cơ quan THADS, người được thi hành án, người phải thi hành án và các
chủ thể khác trong việc thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của tòa án.
THADS chủ yếu là thi hành các quyết định của TA mang tính chất tài sản - đặc
trưng của quan hệ dân sự, vì vậy, quyền tự định đoạt của đương sự luôn được tôn
trọng trong suốt quá trình THA. Điều này thể hiện ở chỗ: khác với THA hình sự,
người được THA trong THADS luôn giữ vai trò chủ động, có quyền quyết định việc
có đưa ra yêu cầu THA hay không? đưa ra vào thời điểm nào (miễn là trong thời
hiệu quy định), yêu cầu THA một phần.
THADS là hoạt động có định hướng của Nhà nước được thực hiện bởi các chủ
9
thể được Nhà nước trao quyền, để thực hiện trên thực tế các bản án, quyết định dân
sự, phần dân sự trong các bản án, quyết định hình sự và các quyết định khác theo
quy định của pháp luật bằng cách áp dụng các biện pháp tác động phù hợp với pháp
luật trên cơ sở tuân thủ một cách đầy đủ, chính xác các trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định.
Do vậy, có thể hiểu về THADS như sau: THADS là hoạt động của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền nhằm đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp thời, nghiêm chỉnh các
bản án, quyết định về dân sự của Tòa án đã có hiệu lực thi hành theo trình tự, thủ
tục pháp luật quy định.
Trên thực tế, trong quá trình tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự,
không ít những trường hợp bản án, quyết định dân sự có liên quan đến nhiều người
phải thi hành án ở những nơi khác nhau, tài sản, thu nhập của người phải thi hành
án ở những nơi khác nhau hoặc trong quá trình thi hành án người phải thi hành án
chuyển đi nơi khác… đã gây ra rất nhiều khó khăn trong quá trình thi hành án.
Trong trường hợp này, để tăng hiệu quả của việc tổ chức thi hành bản án, quyết
định thì phải tổ chức ủy thác cho CQTHA nhận uỷ thác là cơ quan có điều kiện
thuận lợi và dễ dàng hơn để thi hành vụ việc, đồng thời góp phần giảm bớt chi phí
của nhà nước và đương sự, từ đó phát sinh việc ủy thác THADS.
Ủy thác là việc bên ủy thác giao cho cá nhân, pháp nhân - bên được ủy thác,
nhân danh người ủy thác để làm một việc nhất định mà người ủy thác không thể làm
trực tiếp hoặc không muốn làm.
Uỷ thác THADS là việc chuyển giao toàn bộ hoặc từng phần quyết định thi
hành án từ CQTHA này sang CQTHA khác theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
nhằm đảm bảo việc thi hành án các bản án, quyết định của Toà án liên tục và trên thực
tế, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân được pháp luật
bảo vệ.
Ủy thác thi hành án còn được hiểu là việc cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền thi hành án chuyển giao quyền ra quyết định và tổ chức thi hành án đến
cơ quan thi hành án nơi khác- nơi mà người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư
10
trú hoặc nơi có trụ sở để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự tham
gia vào việc thi hành án; uỷ thác thi hành án là trách nhiệm của cơ quan thi hành án
nơi có thẩm quyền nhưng không có điều kiện để tổ chức thi hành mà phải chuyển
hồ vụ việc cho cơ quan thi hành án khác có điều kiện tổ chức thi hành vụ việc.
Bên cạnh đó, uỷ thác thi hành án dân sự được coi là hoạt động của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án bằng một Quyết định để chuyển hồ sơ vụ việc thi hành
án thuộc thẩm quyền của mình cho một cơ quan thi hành án khác có điều kiện để tổ
chức thi hành; Ủy thác thi hành án là nghĩa vụ của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự nơi có thẩm quyền thi hành bản án, quyết định khi có căn cứ người phải thi
hành án có tài sản hoặc làm việc hoặc cư trú hoặc có trụ sở ở địa phương khác.
Hiện nay, pháp luật về THADS chưa có văn bản nào quy định cụ thể khái
niệm về ủy thác THADS mà chỉ quy định về nguyên tắc, điều kiện, thẩm quyền và
trình tự, thủ tục ủy thác THADS. Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của pháp
luật cũng như khảo sát thực tế áp dụng các quy định của pháp luật về ủy thác thi
hành án, có thể đưa ra khái niệm ủy thác THADS như sau:
Ủy thác THADS là việc CQTHA có thẩm quyền thi hành án chuyển giao quyền
ra quyết định và tổ chức thi hành án đến CQTHA nơi khác, nơi mà người phải thi
hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc nơi có trụ sở để đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự tham gia vào việc thi hành án.
* Từ khái niệm trên, có thể nhận thấy một số đặc điểm cơ bản của ủy thác
THADS như sau:
- Chủ thể thực hiện ủy thác
Chủ thể của hoạt động ủy thác THADS bao gồm bên ủy thác và bên nhận ủy
thác, trong đó:
Bên ủy thác: là cơ quan THADS có nhu cầu giao cho bên nhận ủy thức để
thực hiện việc thi hành bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo yêu
cầu của mình.
Bên nhận ủy thác: là cơ quan THADS nơi có điều kiện hơn, thường là nơi
người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở để thực hiện việc
11
THADS.
- Nội dung ủy thác thi hành án dân sự
Nội dung của hoạt động ủy thác THADS là xác định căn cứ, thẩm quyền của
CQTHA nhận ủy thác và trình tự, thủ tục thực hiện việc ủy thác thi hành bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
- Cơ sở của việc ủy thác THADS
Ủy thác THADS có những điều kiện nhất định mới phải thực hiện ủy thác
THADS như: trước khi ủy thác THADS thì phải xem xét người phải thi hành án có
đủ điều kiện để ủy thác đến cơ quan THADS ở địa phương khác hay không thì phải
xác minh điều kiện của người phải thi hành án xem có tài sản hay đang cư trú ở địa
phương đó hay không, nếu tổ chức thì phải xem trụ sở tổ chức đó có đăng ký hoạt
động tại đại phương đó hay không…
Ủy thác THADS là một khâu riêng trong THADS, muốn ủy thác THADS
trong quá trình tổ chức THADS thì CHV ngoài việc phải thực hiện đầy đủ trình tự,
thủ tục THADS, còn phải xác minh đầy đủ, chặt chẽ, đủ điều kiện thì mới đủ căn cứ
để thực hiện việc ủy thác THADS.
- Ủy thác THADS có mục đích góp phần bảo đảm thi hành kịp thời, đầy đủ
nội dung phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa
án được thi hành theo thủ tục THADS, bảo đảm thực thi quyền, nghĩa vụ của các
đương sự trong THADS, bảo đảm quyền lợi cho người được thi hành án và cho
ngân sách Nhà nước; mặt khác giúp cho cơ quan THADS giải quyết việc THADS,
giảm thiểu việc thi hành án tồn đọng.
1.1.2. Vai trò của ủy thác thi hành án dân sự
- Ủy thác THADS bảo đảm thực thi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
góp phần giữ gìn trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN.
Trong hoạt động Nhà nước, công tác THADS nói chung và ủy thác THADS
nói riêng, có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông qua hoạt động THADS, những phán
quyết của TA nhân danh Nhà nước, thể hiện ý chí của Nhà nước được trở thành
12
hiện thực, công lý xã hội được thực hiện. Quá trình giải quyết một vụ án chỉ kết
thúc khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thi hành kịp
thời và đầy đủ. Ủy thác THADS có vai trò bảo đảm các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội và công dân.
Nếu công tác ủy thác THADS không được quan tâm đầy đủ và không có hiệu
quả thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực, tác động đến toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra,
truy tố, xét xử; trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước bị xem
thường, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm phạm. Ủy thác THADS đạt
hiệu quả sẽ mang lại niềm tin cho nhân dân đối với tính nghiêm minh của pháp luật,
góp phần lập lại kỷ cương, tăng cường pháp chế XHCN.
- Ủy thác THADS góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động xét xử
Việc điều tra, hòa giải, xét xử vụ án mới chỉ là giai đoạn đầu của quá trình bảo
vệ quyền lợi của đương sự. Ở giai đoạn này, TA mới chỉ giải quyết nội dung vụ án,
xác định được quyền và nghĩa vụ của các đương sự. Phán quyết của TA có trở thành
hiện thực hay không tuỳ thuộc vào quá trình thực thi nó trong cuộc sống. Thông qua
giai đoạn THADS, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mới có
hiệu lực trên thực tế, công lý mới được thực hiện. Với ý nghĩa đó, Ủy thác THADS
là một hoạt động không thể thiếu được của quá trình bảo vệ quyền và lợi ích của
đương sự. Thông qua THADS, kết quả của công tác xét xử được củng cố, hiệu lực
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được bảo đảm. Mặt
khác, ủy thác THADS còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán
quyết của TA, phản ánh trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử.
Thông qua hoạt động THADS, các thẩm phán TAND có thể rút ra cho mình những
bài học bổ ích, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác xét xử.
- Ủy thác THADS góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân
Đặc thù của ủy thác THADS là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát
huy trách nhiệm của CHV, Cơ quan THADS và sự chỉ đạo sát sao cụ thể của chính
13
quyền địa phương, sự phối hợp của các cơ quan tổ chức có liên quan, sự đồng tình
của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng
đồng trong hoạt động ủy thác THADS. THADS không chỉ là hoạt động nghiệp vụ
riêng của cơ quan THADS, CHV mà còn là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính
quyền địa phương, đoàn thể xã hội và mọi thành viên trong cộng đồng. Thông qua
các quy định của pháp luật ủy thác THADS và áp dụng trong việc xử lý các hành vi
chống đối, cản trở hoặc can thiệp trái pháp luật vào quá trình THADS, mọi người
càng thấy được thái độ cụ thể của pháp luật đối với những người cố ý vi phạm từ đó
nhận thức pháp luật được nâng lên, ý thức pháp luật của nhân dân, vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan, tổ chức được nâng cao, niềm tin của mọi tầng lớp nhân dân
vào tính nghiêm minh của pháp luật và sức mạnh của Nhà nước ngày càng được
củng cố vững chắc.
- Ủy thác THADS nói chung, đặc biệt ủy thác THADS trong việc giải quyết
hồ sơ, xử lý tài sản thi hành án góp phần giúp thực thi bản án, quyết định của Tòa
án một cách đầy đủ.
Việc ủy thác THADS trong việc giải quyết hồ sơ, xử lý tài sản thi hành án là
rất quan trọng, nó giữ vai trò trọng tâm khi ủy thác thi hánh án, khi bản án, quyết
định tuyên người phải thi hành án có tài sản hay địa chỉ ở địa phương khác thì cần
phải xác định:
+ Về phần chủ động (khoản nộp Ngân sách Nhà nước) thì bộ phận thụ lý kiểm
tra, xem xét người phải thi hành án không có cư trú tại địa phương, có đủ cơ sở ủy
thác thì làm thủ tục ủy thác thẳng đến địa phương mà người phải thi hành án đang
cư trú.
+ Về phần theo đơn yêu cầu thi hành án (khoản người phải THA là cá nhân
hay tổ chức phải trả nợ cho người được THA) trường hợp nay bộ phận thụ lý phải
thụ lý đơn va ra quyết định THA phân công cho CHV thụ lý, khi CHV thụ lý xem
xét hồ sơ người phải thi hành án hiện đang cư trú hoặc tài sản đang ở địa phương
khác thi làm thủ tục ủy thác ngay cho cơ quan THA nơi người phải thi hành dang cư
trứ, có tài sản để tiếp tục thi hành án theo quy định, ngăn chặn việc người phải THA
14
tẩu tán tài sản hoặc trốn ra nước ngoài.
Về trường hợp người phải THA có tài sản ở nhiều địa phương khác nhau thì
trước khi ủy thác, cơ quan THA đang thi hành phải thi hành hết tài sản của người
phải THA rồi sau đó mới ủy thác đến địa phương người phải THA có tài sản nhiều
nhất, có giá trị lớn nhất để tiếp tục thi hành (khi thi hành thì phải ngăn chặn tất cả
các tài sản của người phải THA ở nhiều địa phương khác, tránh việc người phải
THA tẩu tán tài sản dẫn đến việc thi hành án găp khó khăn làm ảnh hưởng đến
quyền lợi cho người được THA). Việc ủy thác thi hành án kịp thời, đúng quy định
pháp luật, đúng nội dung của bản án, quyết định của Tòa án trong quá trình tổ chức
THA là rất quan trọng, giữ vai trò trọng tâm khi thực hiện ủy thác THADS, đảm
bảo góp phần thực thi bản án, quyết định của Tòa án một cách đầy đủ.
Tóm lại, ủy thác THADS có vai trò rất quan trọng trong hoạt động THADS
góp phần bảo đảm thi hành kịp thời, đầy đủ nội dung phần quyết định của bản án,
quyết định được thi hành theo thủ tục THADS, bảo đảm thực thi quyền, nghĩa vụ
của các đương sự trong THADS. Mặt khác, ủy thác THADS còn giúp cho cơ quan
THADS giải quyết việc THADS, giảm thiểu việc thi hành án tồn đọng...
1.2. Khái quát về pháp luật ủy thác thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự
Pháp luật về ủy thác thi hành án là một chế định của pháp luật về THADS, bao
gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình ủy thác thi hành các bản án, quyết định về dân sự bao gồm các quy định
về quyền, nghĩa vụ của người được THA, người phải THA, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan; các tổ chức, cá nhân có liên quan đến THA; quy định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quản lý, tổ
chức việc ủy thác thi hành án; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của CHV và trình
tự, thủ tục ủy thác thi hành án.
Pháp luật về ủy thác THADS do là một bộ phận cấu thành của pháp luật
THADS nên cũng mang đặc điểm chung của pháp luật về ủy thác THADS. Bên
cạnh đó, pháp luật ủy thác thi hành án có một số đặc điểm riêng như sau:
15
+ Pháp luật về ủy thác THADS là một bộ phận cấu thành không thể tách rời
của hệ thống pháp luật về THADS (như Luật THADS, các nghị định, thông tư
hướng dẫn thi hành pháp lệnh). Đặc điểm này bắt nguồn từ đặc thù của ủy thác
THADS chính là một khâu, một hoạt động nhằm mục đích thi hành bản án, quyết
định dân sự đã có hiệu lực cảu Tòa án.
+ Phạm vi điều chỉnh của pháp luật về ủy thác THADS khá hẹp, chỉ bao gồm
một số quy phạm pháp luật nằm trong hệ thống pháp luật THADS, nhưng có đặc
điểm riêng là phản ánh tính đặc thù của ủy thác THADS, vừa có những quy phạm
mang tính hành chính, vừa có những quy phạm mang tính tố tụng. Nhóm quy phạm
pháp luật mang tính chất hành chính thể hiện chủ yếu trong việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, mối quan hệ phối hợp CQTHA ủy thác và cơ quan THADS nhận
ủy thác; nhiệm vụ, quyền hạn của CHV, cán bộ trong các CQTHA... Nhóm quy
phạm pháp luật mang tính chất tố tụng chủ yếu thể hiện trong các quy định về thẩm
quyền; trình tự, thủ tục ủy thác thi hành án...
+ Đối tượng điều chỉnh của pháp luật ủy thác THADS là quá trình ủy thác và
nhận ủy thác thực hiện việc THADS
Pháp luật ủy thác THADS quy định mối quan hệ giữa CQTHA là bên ủy thác
và cơ quan nhận ủy thác trong những trường hợp nhất định, quy định về căn cứ,
điều kiện, thẩm quyền, trình tự, thủ tục ủy thác thi hành các bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật của tòa án, làm cho chúng kịp thời được thực thi
trên thực tế một cách hiệu quả nhất. Sự vi phạm các căn cứ, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục ủy thác THADS có thể dẫn đến hậu quả không khắc phục được, gây thiệt
hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, tổ chức và công dân.
+ Pháp luật ủy thác THADS có mối quan hệ mật thiết mang tính nhân quả với
pháp luật THADS, pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung khác, ví dụ các quy định
về thời hạn cấp bản án, quyết định có hiệu lực của toà án, kháng nghị, xét xử giám
đốc thẩm, tái thẩm... đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động THA; hoặc các quy
định về đăng ký tài sản, giữ bí mật tài khoản, đăng ký giao dịch có bảo đảm... đều
tác động đến hiệu quả của việc ủy thác THADS. Đồng thời đến lượt mình, các quy
16
định của pháp luật ủy thác THADS cũng tác động ngược trở lại đối với pháp luật
THADS; pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung khác.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự
Nội dung của pháp luật về ủy thác THADS là tổng thể các quy phạm pháp luật
bao gồm đạo luật; các văn bản hướng dẫn thi hành và các văn bản pháp luật liên
quan. Nó điều chỉnh trình tự, thủ tục ủy thác THADS. Pháp luật ủy thác THADS luôn
xoay chuyển, vận động cho phù hợp với các đặc điểm, yêu cầu của nền kinh tế, của
hoạt động tư pháp ở mỗi quốc gia. Trong thời gian qua, các văn bản pháp luật này
bước đầu tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho CQTHA thực hiện ủy thác THADS . Cụ
thể là:
- Luật THADS năm 2014 gồm các điều: Điều 55, 56, 57 và khoản 2 Điều 130;
- Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS: Điều 16, 34, 35;
- Nghị định 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 về sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 62/2015/NĐ-CP về hướng dẫn Luật thi hành án sửa đổi, bổ sung năm
2014.
- Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp hướng dẫn
thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong
THADS;
- Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016
của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
- Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 hướng dẫn Chế độ báo cáo
thống kê THADS được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Thông tư số 08/TT-BTP
ngày 26/6/2015 của Bộ Tư pháp;
- Thông tư số 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2006 của Bộ Tài chính quy định
mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí THADS: Khoản 6 Điều 5;
- “Quy trình tổ chức thi hành án trong nội bộ cơ quan THADS” ban hành kèm
theo Quyết định số 273/QĐ-TCTHADS ngày 22/02/2017 của Tổng cục trưởng
Tổng cục THADS;
17
- Công văn số 3089/BTP-TCTHADS ngày 09/9/2016 của Bộ Tư pháp “về việc
thi hành quyết định của Tòa án liên quan đến giải quyết phá sản”.
Những văn bản pháp luật về ủy thác THADS nêu trên ghi nhận những nội
dung cơ bản như: Căn cứ THADS; các trường hợp ủy thác THADS; thẩm quyền ủy
thác thi hành án; thủ tục ủy thác thi hành án, thủ tục nhận ủy thác. Như vậy, pháp
luật về ủy thác THADS đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu trong công tác thi hành án
nói chung và ủy thác THADS nói riêng, góp phần xác lập cơ chế thi hành án một
cách có hiệu quả cũng như bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về THADS, đáp
ứng được phần lớn yêu cầu của thời kỳ đổi mới.
Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng thực trạng hệ thống pháp luật về ủy
thác THADS và pháp luật về THADS ở nước ta vẫn còn một số thiếu sót, bất cập,
văn bản quy phạm pháp luật không phải ít nhưng thiếu thống nhất, một số văn bản
chồng chéo nhau làm cho thực tiễn áp dụng pháp luật vào thi hành án gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc, nhiều lúc không biết áp dụng văn bản nào để giải quyết và việc áp
dụng pháp luật để thi hành án giữa các CQTHA và giữa các địa phương thiếu thống
nhất. Tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về ủy thác THADS cho phù hợp với
điều kiện kinh tế-xã hội của đất nước là việc làm vô cùng cần thiết và ý nghĩa trong
giai đoạn hiện nay.
1.2.3. Ý nghĩa pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự
Ủy thác THADS là một khâu rất quan trọng trong hoạt động THADS. Do vậy,
pháp luật về ủy thác THADS cũng có một vai trò, ý nghĩa quan trọng.
- Pháp luật Ủy thác THADS tạo ra hành lang pháp lý bảo đảm cho
CQTHADS, CHV thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
Thông qua các quy định cụ thể, chặt chẽ về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
trong quá trình THADS, pháp luật Ủy thác THADS tạo ra hành lang pháp lý bảo
đảm cho CQTHADS, CHV thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, các tổ
chức, cá nhân liên quan thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ được quy định làm
cho các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thực thi trên
thực tế.
18
- Pháp luật về uỷ thác THADS góp phần giải quyết khó khăn trong công tác
thi hành án, bởi trong thực tế, việc một cá nhân đăng ký hộ khẩu một nơi nhưng
làm việc hay cư trú ở nơi khác, có nhiều tài sản ở nhiều địa phương khác nhau là
hiện tượng khá phổ biến trong xã hội, trong khi các cơ quan THADS được tổ chức
thực hiện, chức năng theo địa bàn lãnh thổ. Để khắc phục thực tế này, quy định về
cơ chế uỷ thác đã giải quyết khó khăn trên cho hoạt động thi hành án và để đảm bảo
quyền, nghĩa vụ cá nhân, tổ chức được thực hiện bình đẳng trước pháp luật thì cơ
chế uỷ thác thi hành án đặt ra là yêu cầu khách quan và tất yếu.
- Pháp luật về ủy thác THADS xác định căn cứ để ủy thác THADS
Căn cứ ủy thác THADS là cơ sở để xác định điều kiện ủy thác đến cơ quan
THADS khác, nơi người phải THA có điều kiện thi hành án (nơi có tài sản, nơi cư
trú, nơi tạm trú) để thi hành án. Căn cứ quan trọng để ủy thác THADS là khi phát
hiện tài sản của người phải THA ở nơi khác để cơ quan THADS nơi khác xử lý,
nhằm đảm bảo các bản án, quyết định của Tòa được thi hành một cách nghiêm chỉnh,
nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm được tiền bạc, thời gian đi lại.
- Pháp luật về uỷ thác THADS xác định thẩm quyền ủy thác THADS
Pháp luật về uỷ thác THADS quy định thẩm quyền của cơ quan THADS cấp
tỉnh, thẩm quyền của cơ quan THADS cấp huyện và thẩm quyền của cơ quan thi
hành án cấp quân khu để việc ủy thác THADS được thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật nhằm tránh sự nhầm lẫn, chồng chéo hoặc đùn đẩy lẫn nhau khi thực
hiện ủy thác THADS và khi các cơ quan THADS có căn cứ để ủy thác THADS .
- Pháp luật về ủy thác THADS xác định trình tự, thủ tục ủy thác thi hành án
Thủ tục ủy thác thi hành án được quy định đối với cơ quan THADS trước khi
ủy thác THADS phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên trên địa
bàn có liên quan đến ủy thác rồi mới ủy thác THADS đến cơ quan THADS khác
tiếp tục thực hiện thi hành án đối với người phải thi hành án có tài sản tại đại
phương, mặt khác cơ quan THADS nhận ủy thác không được trả lại quyết định ủy
thác cho cơ quan THADS đã ủy thác mà phải tiếp tục thực hiện việc thi hành án
theo quy định của Luật THADS hiện hành và trong thời hạn nhất định, Thủ trưởng
19
cơ quan THADS ra quyết thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan
THADS đã nhận ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác.
- Pháp luật về ủy thác THADS là căn cứ để bảo vệ quyền lợi của đương sự
trong THADS
Thông qua pháp luật về ủy thác THADS , đương sự biết được việc hồ sơ của
họ khi cơ quan THADS đã thực hiện xong tài sản tại địa phương nhưng người phải
THA vẫn còn nợ thì cơ quan THADS sẽ ủy thác tới cơ quan THADS nơi khác khi
người phải THA có điều kiện THA ở đó để các bên đương sự có căn cứ thỏa thuận
thi hành án, thỏa thuận cách thức xử lý tài sản ở nơi nào trước.
Tóm tại, ủy thác THADS là một thủ tục rất quan trọng trong quá trình
THADS. Pháp luật THADS đã quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục ủy thác
THADS.
1.2.4. Khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về ủy thác
THADS tại Việt Nam
Qua hơn 70 năm hình thành và phát triển, THADS Việt Nam đã góp phần
quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Qua từng giai đoạn lịch
sử, tổ chức và hoạt động THADS Việt Nam ngày càng được củng cố, tăng
cường, pháp luật THADS ngày càng được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
mà Nhà nước đặt ra. Trong giai đoạn hiện nay, sự nghiệp đổi mới đất nước đang
đòi hỏi cấp thiết phải cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nghiên cứu sự
hình thành và phát triển của pháp luật THADS và những quy định về ủy thác thi
hành án có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu thực chất cũng như vai trò, vị
trí công tác THADS trong hệ thống tổ chức, hoạt động của các cơ quan Tư pháp
Việt Nam qua các giai đoạn giúp chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm quý
báu trong qúa trình cải cách tư pháp, cũng như trong việc nghiên cứu, xây dựng
và hoàn thiện pháp luật THADS nói chung, pháp luật ủy thác THADS nói riêng
ở nước ta theo phương hướng của các hội nghị Trung ương Đảng đã đề ra.
* Thời kỳ từ tháng 8 – 1945 đến năm 1989
20
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Pháp lệnh
THADS năm 1989, là giai đoạn mà tổ chức hoạt động THADS chưa được dựa trên
một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành, thậm chí có thời kỳ chỉ căn cứ vào Điều lệ tạm thời về công
tác Chấp hành án ban hành kèm theo Công văn số 827/CV ngày 23.10.1979 của
TAND tối cao. Công tác THADS đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của TA. Tuy nhiên,
về vấn đề quản lý Nhà nước, hình thức tổ chức và pháp luật THADS có những thay
đổi nhất định qua các thời kỳ 1945 -1949, 1950 - 1980, 1981 - 1989.
Có thể nói, trong giai đoạn này công tác xét xử và công tác THADS đã được
thực thi bởi Tòa án. Việc ủy thác THADS chưa được quy định trong Luật tổ chức
tòa án năm 1960 cũng như các văn bản pháp luật về thi hành án ở giai đoạn này.
Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1989: Với sự ra đời của Hiến pháp 1980,
hàng loạt các đạo luật về tổ chức của bộ máy Nhà nước cũng được ban hành nhằm
kiện toàn bộ máy Nhà nước, phân định rõ chức năng của từng loại cơ quan, tăng
cường hiệu lực quản lý Nhà nước bằng pháp luật. Hiến pháp năm 1980 là cơ sở cho
nhiều văn bản pháp luật khác liên quan đến công tác THADS được ban hành. Theo
quy định của Điều 16 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1981 và Nghị định số
143-HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trưởng về “Chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của Bộ Tư pháp” đã giao cho Bộ Tư pháp đảm nhiệm công tác quản lý
Toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức, trong đó có công tác THADS.
Để nâng cao hiệu quả THADS, Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh số 23-
LCT/HĐNN8 ngày 28/8/1989 về THADS và Pháp lệnh này có hiệu lực lực từ ngày
01/01/1990. Pháp lệnh THADS năm 1989 đã quy định rõ về đối tượng, thẩm quyền,
thủ tục THADS, quyền hạn của chấp hành viên, xử lý vi phạm trong THADS… Tuy
nhiên, thủ tục ủy thác THADS chưa được ghi nhận trong Pháp lệnh này. Việc ban
hành pháp lệnh THADS năm 1989 đã tạo ra bước ngoặt về THADS, đã đề cao được
quyền định đoạt của các đương sự, xác định rõ được chức danh, nhiệm vụ, quyền
hạn của chấp hành viên, người được giao trọng trách trong công tác THADS.
* Thời kỳ từ năm 1990 đến năm 2008
21
Đầu những năm 1990, công cuộc đổi mới nói chung và cải cách bộ máy Nhà
nước nói riêng đã được tiến hành một cách khá tích cực, khẩn trương. Hiến pháp
năm 1992 và các Luật về tổ chức bộ máy Nhà nước được Quốc hội khoá IX thông
qua vào tháng 10/1992, đã đặt ra những nguyên tắc nền tảng cho quá trình cải cách
Tư pháp, trong đó công tác THADS được đổi mới một cách cơ bản. Khác với Luật
Tổ chức TAND năm 1981, Luật Tổ chức TAND năm 1992 không quy định thẩm
quyền của TAND trong việc THA. Trong khi đó Luật Tổ chức Chính phủ năm 1992
lần đầu tiên đã xác định việc “quản lý công tác THA” là một trong những nhiệm vụ
và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và hành chính tư pháp. Để
thực hiện quy định của các đạo luật trên đây về công tác THA, tại kỳ họp thứ nhất
Quốc hội khóa IX ngày 6/10/1992 đã thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công
tác THA từ TAND các cấp sang các cơ quan của Chính phủ “chậm nhất vào tháng
6/1993”. Ngày 21/4/, Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành Pháp lệnh THADS có
hiệu lực ngày 1/6/1993 thay thế Pháp lệnh THADS ban hành ngày 28/8/1989.
Trong chưa đầy bốn năm, với việc ban hành hai Pháp lệnh THADS đã chứng tỏ sự
quan tâm đặc biệt của Nhà nước đối với việc hoàn thiện pháp luật THADS nhằm
đảm bảo hiệu lực của bản án, quyết định của TA, bảo vệ trật tự kỷ cương và bảo
vệ một cách thực sự quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc ban hành Pháp
lệnh THADS năm 1993 là có cơ sở thực tiễn và cần thiết. Thực tế cho thấy, so
với Pháp lệnh THADS năm 1989 thì PLTHADS năm 1993 đã quy định về thẩm
quyền, thủ tục THADS, quyền hạn của chấp hành viên và xử lý vi phạm trong
THADS tương đối cụ thể hơn1. Với Pháp lênh THADS năm 1993 thì lần đầu tiên
việc ủy thác THADS được quy định trong lĩnh vực THADS. Ủy thác THADS
được ghi nhận tại Điều 4 Pháp lệnh THADS năm 1993 nhưng chưa thể hiện rõ
ràng cụ thể về vấn đề ủy thác trong thi hành án cho đến khi Nghị định 69/CP
ngày 18/10/1993 được ban hành.
Vấn đề ủy thác THADS đã được thể hiện trong các quy định của Nghị định
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, 2012, trang 32.
22
69/CP ngày 18/10/1993, thể hiện cụ thể từ Điều 1 cho đến Điều 5 của Nghị định
này. Các quy định trong Nghị định 69/CP đã làm rõ mối quan hệ ủy thác giữa
các Phòng thi hành án ở cấp tỉnh và các Đội thi hành án ở cấp quận, huyện. Tuy
nhiên, Nghị định này cũng chưa nêu rõ được các trường hợp phải thực hiện ủy
thác, chưa quy định về nội dung các quyết định ủy thác, cơ chế thực hiện ủy
thác2... Có thể thấy, việc lần đầu tiên các văn bản pháp luật đề cập quy định về
ủy thác THADS là bước tiến quan trọng trong tiến trình hoàn thiện thủ tục
THADS. Điều này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của thủ tục ủy thác thi
hành án trong quá trình thực hiện công tác THADS của cơ quan thi hành án.
Qua hơn 10 năm thi hành, Pháp lệnh THADS năm 1993 đã bộc lộ nhiều bất
cập trước những đòi hỏi của quá trình đổi mới, cải cách hành chính, cải cách tư
pháp. Nhiều vướng mắc về cơ chế quản lý, mô hình tổ chức, thủ tục THADS chưa
được tháo gỡ kịp thời, dẫn đến tình trạng án tồn đọng có xu hướng gia tăng, đòi hỏi
pháp luật THADS cần có sự bổ sung, hoàn thiện kịp thời để nâng cao hiệu quả công
tác THADS. Vì vậy, ngày 14/01/2004 Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua
Pháp lệnh THADS sửa đổi thay thế Pháp lệnh THADS năm 1993.
Pháp lệnh THADS năm 2004 đã có những bước tiến mới về lập pháp, theo đó
quy định cụ thể, đầy đủ hơn về tổ chức các cơ quan thi hành án và thủ tục thi hành
án. Pháp lệnh THADS năm 2004 bao gồm 8 chương với 70 điều luật. So với
PLTHADS năm 1993 thì Pháp lệnh này đã quy định đầy đủ, rõ ràng, hợp lý hơn về
các vấn đề trong THADS, ví dụ như trình tự thủ tục thi hành án đã cụ thể hóa các
trường hợp phải thi hành án theo yêu cầu hoặc chấp hành viên phải chủ động thi
hành án, các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án đã được hoàn thiện hơn, cơ
cấu tổ chức của cơ quan thi hành án cũng đã được quy định rõ ràng cụ thể, nhiệm
vụ, quyền hạn, tiêu chuẩn của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án đã
được bổ sung đầy đủ hơn so với trước đó… Đối với ủy thác THADS cũng đã có
những sự thay đổi nhất định. So với PLTHADS năm 1993, Pháp lệnh này đã bổ
2 Xem Điều 1 đến Điều 5 Nghị định 69/CP ngày 18/10/1993.
23
sung riêng một điều luật về ủy thác THADS, được quy định tại Điều 243. Theo quy
định tại Điều 24 Pháp lệnh THADS năm 2004 thì thủ trưởng Cơ quan thi hành án có
thẩm quyền ra quyết định thi hành án có quyền uỷ thác thi hành án cho Cơ quan thi
hành án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc, có tài sản hoặc nơi có trụ sở.
Thời hạn ra quyết định uỷ thác thi hành án không quá năm ngày làm việc, kể từ
ngày xác định có căn cứ uỷ thác. Với quy định như trên, PLTHADS năm 2004 đã
làm rõ thẩm quyền ra quyết định ủy thác thi hành án thuộc về thủ trưởng cơ quan
THADS. Có thể hiểu rằng, trong trường hợp cần thiết thì thủ trường cơ quan
THADS có thể ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án nơi người phải thi hành
án cư trú, làm việc trong những trường hợp cụ thể hoặc trong trường hợp tài sản
nằm ở địa phương khác hoặc trụ sở làm việc ở nơi khác.
Các quy định về ủy thác THADS còn được thể chế hóa cụ thể hơn trong Nghị
định 173/2004/NĐ-CP đã được ban hành ngày 30/9/2004. Theo Nghị định này,
nguyên tắc ủy thác thi hành án đã được thiết lập. Đây là những nguyên tắc cơ bản
đầu tiên giúp cho việc thực hiện ủy thác thi hành án được thuận lợi hơn và có cơ sở
để thực thi, thẩm quyền ủy thác THADS và thủ tục ủy thác THADS.
Như vậy, có thể thấy rằng đến Pháp lệnh THADS năm 2004 thì các quy định
cơ bản về ủy thác THADS đã được xác lập. Đây là những quy định đầu tiên làm rõ
nguyên tắc về ủy thác THADS, thẩm quyền ra quyết định ủy thác THADS và thủ
tục THADS. Những quy định này thực sự đã tạo nên nền tảng chung cho việc thực
hiện ủy thác THADS và thực tiễn cho thấy các quy định này dần dần đã được hoàn
thiện hơn trong các văn bản pháp luật về thi hành án được ban hành sau này. Trên
3 Điều 24. Uỷ thác thi hành án
1. Thủ trưởng Cơ quan thi hành án có thẩm quyền ra quyết định thi hành án có quyền uỷ thác thi hành án cho Cơ quan thi hành án nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc, có tài sản hoặc nơi có trụ sở.
Thời hạn ra quyết định uỷ thác thi hành án không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày xác định có căn cứ uỷ thác.
2. Chính phủ quy định việc uỷ thác thi hành án.
24
cơ sở các quy định chung về ủy thác thi hành án như đã nêu trên, Luật THADS năm
2008 được ban hành đã có sự điều chỉnh bổ sung, sửa đổi để các quy định về ủy
thác THADS hoàn thiên hơn, đầy đủ hơn.
* Thời kỳ từ năm 2008 đến năm 2014
Lĩnh vực THADS ngày càng phức tạp, nhiều vụ án được tuyên mà phải thi
hành đối với giá trị tài sản lớn, nhiều tình tiết phức tạp trong THADS đã xảy ra trên
thực tế, đồng thời các quy định của Pháp lệnh THADS năm 2004 còn chưa đầy đủ,
chưa toàn diện… Do vậy, việc phải bản hành Luật thi hành án là cần thiết. Việc ban
hành Luật THADS năm 2008 là một việc làm cấp bách đặt ra cho Quốc hội trong
bối cảnh rất nhiều bản án được tuyên và có hiệu lực thi hành nhưng lại chưa thể đưa
ra thi hành trong thực tiễn vì những vướng mắc, bất cập của Pháp lệnh THADS năm
2004. Đồng thời, mặc dù Pháp lệnh THADS mới ban hành trước đó không lâu
những nhiều quy định còn thiếu sót, trình tự thủ tục về thi hành án còn cần phải bổ
sung hoàn thiện.
Với việc Luật THADS năm 2008 được ban hành, công tác THADS đã được
chú trọng hơn và dường như đã được nâng lên một tầm cao hơn. Theo đó, các quy
định về thủ tục ủy thác THADS cũng đã được bổ sung hoàn thiện hơn. Điển hình
như quy định về ủy thác THADS đã được đưa cụ thể, trực tiếp vào trong Luật
THADS năm 2008 tại Điều 55, Điều 56, Điều 57. Các trường hợp phải ủy thác cũng
đã được sửa đổi, bổ sung, mở rộng như quy định về ủy thác khi người phải thi hành
án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở làm việc ở nhiều nơi khác nhau; hay
quy định làm rõ ủy thác thi hành án trong trường hợp thi hành nghĩa vụ liên
đới…Có thể thấy, việc ghi nhận trực tiếp các quy định về thủ tục ủy tục THADS
vào Luật THADS năm 2008 đã cho thấy tầm quan trọng của các quy định này, đồng
thời cũng khẳng định rằng thủ tục ủy thác là một trong những thủ tục cần thiết trong
quá trình THADS.
Qua quá trình thực thi Luật THADS năm 2008, nhiều quy định đã bộc lộ
những vướng mắc, bất cập trong quá trình THADS. Điển hình như các quy định về
thủ tục gửi đơn, nhận đơn, từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án; quy định về thủ
25
tục hoãn thi hành án; quy định về thời hạn tự nguyện thi hành án quá dài; quy định
về thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án; quy định về áp dụng biện pháp bảo đảm,
cưỡng chế THADS… Nhiều những quy định trong Luật THADS năm 2008 tạo ra
những khó khăn, hạn chế trong việc triển khai công tác THADS, dẫn đến hiệu quả
của công tác THADS chưa cao, lượng án tồn đọng có xu hướng tăng lên. Do vậy,
việc sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật THADS năm 2008 là cần thiết.
*Thời kỳ từ năm 2014 đến nay
Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 được ban hành với nhiều quy định rõ
ràng hơn, phù hợp hơn, bao quát rộng hơn các hoạt động THADS. Bên cạnh đó,
Nghị định 62/2015/NĐ-CP được ban hành nhằm quy định chi tiết Luật thi hành án
sửa đổi, bổ sung năm 2014 cũng đã tạo nên những cơ sở pháp lý hoàn thiên hơn
trong việc thực hiện công tác THADS.
Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 tiếp tục làm rõ thêm các quy định về
ủy thác THADS tại các Điều 55, Điều 56, Điều 57. Bên cạnh đó, Nghị định
62/2015/NĐ – CP cũng đã có quy định tại Điều 16 để hướng dẫn về thực hiện ủy
thác THADS. Theo đó, trường hợp người phải THADS có nhiều tài sản khác nhau ở
nhiều nơi thì cơ quan thi hành án thi hành theo thứ tự ưu tiên như sau: a) theo thỏa
thuận của đương sự; b) Nơi có tài sản đủ để THADS; c) trường hợp tài sản không
đủ để thi hành án thì ủy thác đến nơi có tài sản có giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài
sản nhất. Như vậy, có thể thấy quy định về thủ tục ủy thác THADS qua quá trình
thực hiện thì ngày càng được bổ sung, hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn
khách quan của công tác THADS.
Như vậy, từ khi Luật thi hành án sửa đổi, bổ sung năm 2014 có hiệu lực thi
hành cùng với sự ra đời của Nghị định 62/2015/NĐ-CP và các Nghị định hướng dẫn
khác có liên quan được ban hành thì công tác THADS cũng đã dần đi vào thực tiễn
đời sống xã hội. Các quy định về trình tự thủ tục THADS, hệ thống cơ quant hi
hành án dân sự, các biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hạnh án dân sự… đã góp
phần không nhỏ vào việc thực thi công tác THADS thời gian qua. Đối với việc ủy
thác THADS cũng đã được thực thi một cách ổn định, đáp ứng được yêu cầu của
26
thực tiễn thực thi công tác này. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của đời sống xã
hội, các quy định về THADS cũng cần sửa dổi, bổ sung cho phù hợp. Do vậy, Nghị
định 33/2020/NĐ-CP được ban hành ngày 17/3/2020 và có hiệu lực ngày 01/5/2020
đã có những sửa đổi, bổ sung đối với một số quy định của Nghị định 62/2015/NĐ-
CP. Đối với công tác ủy thác thi hành án dân sự, Nghị định 33/2020/NĐ-CP đã sửa
đổi, bổ sung về căn cứ để thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định ủy thác thi
hành án; đồng thời Nghị định này cũng đã sửa đổi, bổ sung về ủy thác thi hành án
trong trường hợp người phải thi hành án có tài sản ở nhiều nới khác nhau4. Đây là
những sửa đổi, bổ sung cần thiết góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định về ủy
thác THADS.
4 Xem Khoản 9 Điều 1 Nghị định 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 62/2015/NĐ-CP về hướng dẫn Luật thi hành án sửa đổi, bổ sung năm 2014.
27
Tiểu kết chương
Qua nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn THA ở nước ta hiện nay,
chúng tôi cho rằng cần phải xem xét THA như là một hiện tượng phức tạp, có tính
đặc thù, không nên quy kết, đưa nó về một dạng hoạt động thuần tuý, coi đó là hoạt
động hành chính hoặc hoạt động tư pháp đơn thuần. Chúng tôi đồng tình với quan
niệm cho rằng THA là dạng hoạt động hành chính- tư pháp, vừa mang tính chất của
hoạt động hành chính, vừa có những yếu tố của hoạt động tư pháp. Quá trình THA
nhằm khôi phục lại tình trạng ban đầu về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, do đó,
các trình tự, thủ tục THA cũng được quy định chặt chẽ bởi pháp luật giống như
những thủ tục tố tụng trước đó vì đều liên quan đến quyền con người, quyền công
dân.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, việc hoàn
thiện pháp luật THADS trong đó có quy định về ủy thác thi hành án dân sự phải
đảm bảo nâng cao tính hiệu lực của các văn bản quy phạm pháp luật, đáp ứng
những đòi hỏi về kỹ thuật lập pháp để các bản án, quyết định của TA thực sự có
hiệu lực thi hành trong cuộc sống, đảm bảo các quyền, lợi ích của Nhà nước, xã hội
và công dân, đánh giá được hiệu quả kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật
THADS, xử lý vi phạm pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật về THADS trong xã
hội. Đồng thời, trong điều kiện hội nhập quốc tế, quá trình hoàn thiện pháp luật
THADS phải tiếp thu được những nội dung pháp luật phù hợp của các nước trên thế
giới trong việc bảo đảm hiệu lực của các BA, QĐ của TA nhằm không những đảm
bảo tính tương thích của pháp luật về THADS ở nước ta đối với các nước trên thế
giới mà còn làm giảm những chi phí cho nhà nước, phát huy tính tự nguyện của
công dân trong quá trình tổ chức THA.
28
Chương 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ HIỆN HÀNH
VỀ ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
2.1. Căn cứ thực hiện ủy thác thi hành án dân sự
Căn cứ thực hiện việc ủy thác THADS được pháp luật quy định tại Điều 55,
56, 57 Luật THADS năm 2014 và Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS
(sau đây gọi chung là Nghị định 62/2015/NĐ-CP). Theo đó, để thực hiện ủy thác
THADS, cơ quan THADS phải đảm bảo các căn cứ sau:
2.1.1. Phải uỷ thác thi hành án cho CQTHA dân sự nơi người phải thi hành án
có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở
Căn cứ này được quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật THADS năm 2014: Thủ
trưởng cơ quan THADS phải uỷ thác thi hành án cho cơ quan THADS nơi người
phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Đây là căn cứ đầu tiên
để CQTHA đang giải quyết hồ sơ thi hành án tiến hành thủ tục ủy thác. Theo đó, thì
khi có căn cứ xác định người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ
sở nơi khác, thì Thủ trưởng CQTHA phải ủy thác cho cơ quan THADS nơi đó tổ
chức thi hành. Như vậy, khi thực hiện việc uỷ thác cần xác định rõ các căn cứ cụ thể
sau đây:
+ Uỷ thác đến cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản: Việc
xác định người phải thi hành án có tài sản ở địa phương nào được thực hiện thông
qua công tác xác minh điều kiện thi hành án và để việc uỷ thác được chính xác thì
công tác xác minh cũng phải đúng và đầy đủ.
+ Uỷ thác đến cơ quan THADS nơi người phải thi hành án làm việc: Thông
thường, nơi làm việc của người phải thi hành án cũng là nơi chi trả thu nhập cho họ,
chính vì vậy để thuận tiện hơn trong việc áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với
người phải thi hành án trong trường hợp họ không tự nguyện thi hành án. Khi xác
minh nơi làm việc cần chú ý xác định rõ hình thức làm việc của họ như thế nào
(công chức hay làm việc theo hợp đồng dài hạn, ngắn hạn...). Việc làm rõ những
29
vấn đề trên đảm bảo việc uỷ thác được chặt chẽ và đúng với mục đích, ý nghĩa của
nó.
+ Uỷ thác đến cơ quan THADS nơi người phải thi hành án cư trú: Hiện nay,
một số cơ quan THADS còn lúng túng trong việc xác định nơi cư trú hoặc xác định
không đúng nơi cư trú của người phải thi hành án, dẫn đến việc uỷ thác tràn lan, gây
khó khăn cho CQTHA được uỷ thác. Khi xác định nơi cư trú của người phải thi
hành án, CHV cần căn cứ vào quy định tại Luật Cư trú năm 2006. Ví dụ Điều
12 Luật Cư trú năm 2006 quy định xác định nơi cư trú của công dân.
Ngoài ra, các Điều 13, 14, 15, 16 và Điều 17 của Luật Cư trú năm 2006 quy
định cách xác định nơi cư trú trong từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, trước khi thực
hiện việc uỷ thác thi hành án, CHV cần nghiên cứu kỹ và xác định rõ ràng địa
phương nào là nơi cư trú của người phải thi hành án theo quy định của Luật Cư
trú năm 2006 để tham mưu cho Thủ trưởng đơn vị ra quyết định uỷ thác đúng đến
nơi cần uỷ thác, đảm bảo việc tổ chức thi hành án được thuận lợi.
+ Uỷ thác đến cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có trụ sở: Trong
trường hợp người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức thì việc uỷ thác có thể thực
hiện đến cơ quan THADS nơi có trụ sở của cơ quan, tổ chức đó.
2.1.2. Phải xác định cơ quan thi hành án nơi nhận ủy thác thi hành án là nơi có
điều kiện thi hành
Điều 55 Luật THADS năm 2014 quy định việc xác định cơ quan nơi nhận ủy
thác thi hành án phải phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể sau đây:
a) Trường hợp người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có tài
sản ở nhiều địa phương
Theo quy định tại khoản 2 Điều 55 Luật THADS: Trường hợp người phải
THA có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở ở nhiều địa phương thì Thủ trưởng
cơ quan THADS ủy thác THA từng phần cho cơ quan THADS nơi người phải THA
có điều kiện THA để thi hành phần nghĩa vụ của họ.
Thủ trưởng cơ quan THADS phải ủy thác THA cho cơ quan THADS nơi
người phải THA có tài sản có tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền
30
sở hữu, quyền sử dụng; đối với loại tài sản khác thì có thể ủy thác cho cơ quan
THADS nơi có tài sản tổ chức thi hành.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP: Trường hợp
người phải THA có tài sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở ở nhiều nơi thì cơ quan
THADS thực hiện ủy thác theo thứ tự sau đây:
Thứ nhất, theo thỏa thuận của đương sự;
Thứ hai, nơi có tài sản đủ để THA;
Thứ ba, trường hợp tài sản không đủ để THA thì ủy thác đến nơi có tài sản
giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản nhất.
Tuy nhiên, cơ quan THADS có thể ủy thác từng phần của một người phải
THA cho từng nơi có điều kiện THA trong trường hợp nếu trong cùng một bản án,
quyết định mà người phải THA cư trú, làm việc, có tài sản hoặc có trụ sở ở nhiều
địa phương. Theo quy định tại khoản 2 Điều 55 Luật THADS thì sẽ có 02 trường
hợp xảy ra:
Trường hợp thứ nhất: Bản án, quyết định có nhiều người phải thi hành án
nhưng có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở ở nhiều địa phương và họ không có
nghĩa vụ liên đới thì căn cứ khoản 2 Điều 55 Luật THADS năm 2014 cơ quan
THADS nơi có thẩm quyền thi hành sẽ uỷ thác thi hành án từng phần cho các cơ
quan THADS nơi từng người phải thi hành án có điều kiện thi hành để thi hành
phần nghĩa vụ của họ.
Lưu ý, nhiều người phải thi hành án có nghĩa vụ liên đới thì không áp dụng
quy định trên (việc ủy thác nghĩa vụ liên đới sẽ được trình bày ở phần sau).
Trường hợp thứ hai, bản án, quyết định của Tòa án chỉ có một người phải thi
hành án nhưng người phải thi hành án có tài sản ở nhiều nơi. Đối với trường hợp
này, cơ quan THADS không thể tùy tiện chia, tách nghĩa vụ của người phải thi hành
án ra ủy thác thi hành án đến từng nơi có tài sản của người phải thi hành án được
mà phải căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để
thực hiện việc ủy thác. Cụ thể:
Thứ nhất, theo thỏa thuận của đương sự;
31
Thứ hai, nơi có tài sản đủ để thi hành án;
Thứ ba, trường hợp tài sản không đủ để thi hành án thì ủy thác đến nơi có tài
sản giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản nhất.
Trên thực tế, cơ quan THADS khó xác định chính xác giá trị của từng loại tài
sản để làm căn cứ xác định tài sản nào đủ nghĩa vụ thi hành án hoặc tài sản nào là
lớn nhất. Mặt khác, việc thẩm định giá chỉ được thực hiện sau khi cơ quan THADS
thực hiện việc kê biên nên trong trường hợp người phải thi hành án có nhiều tài sản
ở nhiều nơi, cơ quan THADS ủy thác đến nơi có bất động sản, động sản phải đăng
ký trước. Trường hợp các tài sản đều là bất động sản thì cơ quan THADS cần ủy
quyền xác minh giá trị tài sản hoặc tham khảo các thông tin về giá cả thị trường của
bất động sản gần với tài sản của người phải thi hành án để có cơ sở xem xét, quyết
định việc ủy thác một cách phù hợp nhất.
b) Trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên quan đến tài sản
Theo quy định tại khoản 2 Điều 55 Luật THADS, trường hợp ủy thác thi
hành nghĩa vụ liên quan đến tài sản thì Thủ trưởng cơ quan THADS ủy thác đến cơ
quan THADS nơi người phải THA có tài sản, nếu không xác định được nơi có tài
sản hoặc nơi có tài sản trùng với nơi làm việc, cư trú, có trụ sở của người phải THA
thì ủy thác đến nơi làm việc, cư trú hoặc nơi có trụ sở của người đó.
c) Trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới
Trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới thì CQTHA cần phải ủy thác thi
hành toàn bộ nghĩa vụ liên đới đến Cơ quan THADS thuộc một trong các địa phương
nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành.
Nghĩa vụ liên đới được quy định tại các điều 288, 289, 290, 291 Bộ luật dân sự
năm 2015. Cụ thể Điều 288 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thực hiện nghĩa
vụ liên đới như sau:
“1. Nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và bên
có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực hiện
toàn bộ nghĩa vụ.
2. Trường hợp một người đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu
32
những người có nghĩa vụ liên đới khác phải thực hiện phần nghĩa vụ liên đới của họ
đối với mình.
3. Trường hợp bên có quyền đã chỉ định một trong số những người có nghĩa
vụ liên đới thực hiện toàn bộ nghĩa vụ, nhưng sau đó lại miễn cho người đó thì
những người còn lại cũng được miễn thực hiện nghĩa vụ.
4. Trường hợp bên có quyền chỉ miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho một trong số
những người có nghĩa vụ liên đới không phải thực hiện phần nghĩa vụ của mình thì
những người còn lại vẫn phải liên đới thực hiện phần nghĩa vụ của họ.”
Như vậy, nghĩa vụ liên đới là nghĩa vụ do nhiều người cùng phải thực hiện và
bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người có nghĩa vụ phải thực
hiện toàn bộ nghĩa vụ. Có hai loại nghĩa vụ liên đới, đó là nghĩa vụ liên đới phân
chia được theo phần và nghĩa vụ liên đới không phân chia được theo phần. Trong
quá trình xét xử tùy từng trường hợp Tòa án cũng thực hiện việc tuyên nghĩa vụ liên
đới phân chia được theo phần và nghĩa vụ liên đới không phân chia được theo phần.
Việc nghĩa vụ liên đới phân chia theo phần chỉ có ý nghĩa là khi một trong
những người phải thi hành án đã thi hành toàn bộ nghĩa vụ có quyền yêu cầu những
người phải thi hành án khác hoàn trả lại mình tương ứng với số phần đã được Tòa án
phân chia cho họ. Xuất phát từ nguyên lý trên, tại khoản 2 Điều 55 Luật THADS năm
2014 quy định về việc ủy thác trong trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới như sau:
“Trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư trú
hoặc có tài sản ở các địa phương khác nhau thì Thủ trưởng cơ quan THADS uỷ
thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến cơ quan THADS thuộc một trong các địa
phương nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án”.
Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định: Trường
hợp thi hành quyền, nghĩa vụ liên đới thì Thủ trưởng cơ quan THADS ra một quyết
định thi hành án chung cho những người có quyền, nghĩa vụ liên đới mà không phân
biệt nghĩa vụ liên đới phân chia được theo phần hay là nghĩa vụ liên đới không phân
chia được theo phần được phần. Do đó, cơ quan THADS có thể buộc một trong
những người có điều kiện thi hành án có trách nhiệm thi hành toàn bộ nghĩa vụ thi
33
hành án.
Ngoài ra, khi thực hiện ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới cơ quan THADS cần
lưu ý một số vấn đề sau:
- Trường hợp những người phải thi hành nghĩa vụ liên đới có tài sản ở nhiều
nơi
Trường hợp này, cơ quan THADS cũng phải áp dụng khoản 2 Điều 16 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP để lựa chọn nơi ủy thác thi hành án. Cụ thể, cơ quan
THADS thực hiện ủy thác theo thứ tự sau đây: Thứ nhất, theo thỏa thuận của đương
sự; Thứ hai, nơi có tài sản đủ để thi hành án; Thứ ba, trường hợp tài sản không đủ
để thi hành án thì ủy thác đến nơi có tài sản giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản
nhất.
Tuy nhiên, đối với trường hợp có nhiều người phải thi hành án và ở nhiều địa
phương như trường hợp này thì trên thực tế các đương sự khó có thể thỏa thuận
được nên thông thường CHV sẽ chủ động lựa chọn nơi có tài sản đủ để thi hành án
hoặc nơi có tài sản có giá trị lớn nhất hoặc nơi có nhiều tài sản nhất để ủy thác thi
hành án.
- Trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư
trú hoặc có tài sản ở nhiều địa phương khác nhau mà tài sản ở địa phương nhận ủy
thác không đủ để thi hành án thì cơ quan THADS nơi nhận ủy thác có quyền áp
dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án đối với tất cả những người, tài sản có liên
quan đến việc thi hành án để tránh trường hợp tẩu tán, trốn tránh việc thi hành án.
Như vậy, cơ quan THADS có trách nhiệm phải xác minh một cách chính xác
nhất nơi có điều kiện thi hành án đảm bảo nhất để ủy thác việc thi hành án đến nơi
đó. Trong trường hợp những người phải thi hành án ở những địa phương khác nhau
thì cơ quan THADS nên ủy quyền xác minh điều kiện của những người phải thi
hành án trước khi xem xét, quyết định ủy thác việc thi hành án đến nơi nào.
Khi thực hiện ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới, cơ quan THADS cần lưu ý
một số vấn đề sau:
- Trường hợp những người phải thi hành nghĩa vụ liên đới có tài sản ở nhiều
34
nơi.
Trường hợp này, cơ quan THADS cũng phải áp dụng khoản 2 Điều 16 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP để lựa chọn nơi ủy thác thi hành án. Cụ thể, cơ quan
THADS thực hiện ủy thác theo thứ tự sau đây: Thứ nhất, theo thỏa thuận của đương
sự; Thứ hai, nơi có tài sản đủ để thi hành án; Thứ ba, trường hợp tài sản không đủ
để thi hành án thì ủy thác đến nơi có tài sản giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài sản
nhất.
Tuy nhiên, đối với trường hợp có nhiều người phải thi hành án và ở nhiều địa
phương như trường hợp này thì trên thực tế các đương sự khó có thể thỏa thuận
được nên thông thường CHV sẽ chủ động lựa chọn nơi có tài sản đủ để thi hành án
hoặc nơi có tài sản có giá trị lớn nhất hoặc nơi có nhiều tài sản nhất để ủy thác thi
hành án.
- Trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư
trú hoặc có tài sản ở nhiều địa phương khác nhau mà tài sản ở địa phương nhận ủy
thác không đủ để thi hành án thì cơ quan THADS nơi nhận ủy thác có quyền áp
dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án đối với tất cả những người, tài sản có liên
quan đến việc thi hành án để tránh trường hợp tẩu tán, trốn tránh việc thi hành án.
2.1.3. Chỉ ủy thác thi hành án khi đã xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, kê
biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác
Căn cứ này được quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật THADS năm 2014, theo
đó, trước khi ủy thác, cơ quan THADS phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài
sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác.
Như vây, đối với những tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên
quan đến khoản uỷ thác, thì CQTHA mới cần phải xử lý trước khi thực hiện việc uỷ
thác. Các tài sản có liên quan đến khoản uỷ thác trong quy định trên là các trường hợp
tài sản đã được tuyên kê biên hoặc được tuyên hoàn trả cho đương sự nhưng dùng để
đảm bảo thi hành án. Còn đối với khoản tiêu huỷ tang vật không có liên quan đến các
khoản phải thi hành khác thì cơ quan THADS có thể thực hiện ngay việc uỷ thác mà
không cần phải chờ tiêu huỷ tang vật xong. Các CQTHA nhận uỷ thác cần lưu ý thực
35
hiện và không được trả lại hồ sơ uỷ thác mà phải tiếp nhận và tổ chức thi hành theo
đúng quy định.
2.2. Các trường hợp thực hiện ủy thác thi hành án
2.2.1. Uỷ thác trước khi ra quyết định thi hành án
Uỷ thác trước khi ra quyết định thi hành án còn được gọi là ủy thác thẳng. Đây
là trường hợp khi CQTHA nhận được bản án, quyết định thuộc diện chủ động thi
hành án hoặc yêu cầu thi hành án kèm theo bản án, quyết định, nếu xét thấy việc thi
hành án có căn cứ ủy thác thì Thủ trưởng CQTHA ra quyết định uỷ thác cho
CQTHA nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc, có tài sản hoặc nơi có trụ sở
mà không ra quyết định thi hành án. Tuy nhiên, cần lưu ý chỉ ra quyết định ủy thác
thẳng trong những trường hợp pháp luật quy định rõ ràng, gồm: trường hợp bản án,
quyết định tuyên tài sản bảo đảm cho khoản thi hành án cụ thể mà tài sản đó ở nơi
khác; và thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Cụ thể là
a) Ủy thác thi hành án trong trường hợp bản án, quyết định tuyên tài sản bảo
đảm
Theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ thì trong trường hợp bản án, quyết định tuyên tài sản bảo
đảm cho khoản phải THA cụ thể mà tài sản đó ở nơi khác thì cơ quan THADS có
thể ủy thác khoản phải THA mà tài sản đó bảo đảm cho cơ quan THADS nơi có tài
sản bảo đảm, (kể cả tài sản bảo đảm là tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của
người phải THA hay thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người thứ ba).
Theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì:
“Trường hợp bản án, quyết định tuyên tài sản bảo đảm cho khoản phải thi hành án
cụ thể mà tài sản đó ở nơi khác thì có thể ủy thác khoản phải thi hành án mà tài sản
đó bảo đảm cho cơ quan THADS nơi có tài sản bảo đảm”.
Đây là quy định mới nhằm cho phép các cơ quan THADS cùng xử lý các tài
sản đảm bảo ở các địa phương khác nhau để thực hiện nghĩa vụ thi hành án mà
không đợi xử lý xong tài sản đảm bảo ở địa phương mình mới được ủy thác cho cơ
quan THADS nơi khác tiếp tục xử lý tài sản. Điều kiện để áp dụng quy định này là
36
mỗi tài sản đảm bảo phải được đảm bảo cho nghĩa vụ cụ thể:
Trong trường hợp các tài sản bảo đảm không phân chia nghĩa vụ bảo đảm của
từng tài sản bảo đảm thì cơ quan THADS không được tùy tiện phân chia nghĩa vụ
bảo đảm của từng tài sản để ủy thác (trừ trường hợp có sự thỏa thuận của các đương
sự).
Quy định trên chỉ nhằm mục đích cho việc xử lý tài sản đảm bảo ở các địa
phương khác nhau có thể được xử lý cùng một thời điểm mà không phải tiến hành
xử lý lần lượt nhằm thu hồi các khoản nợ vay được nhanh chóng và tránh phát sinh
các khoản lãi do chậm xử lý tài sản đảm bảo. Quy định này không phải thay thế quy
định tại khoản 1 Điều 55 Luật THADS về việc “phải ủy thác” đến nơi có tài sản.
Một số cơ quan THADS cho rằng quy định “có thể ủy thác” của khoản 3 Điều 16
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì cơ quan THADS không buộc phải ủy thác thi
hành án mà có thể tiến hành xử lý tài sản đảm bảo ở tại địa phương khác là không
phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật THADS năm 2014.
b) Ủy thác thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định tại khoản 2 Điều 130 Luật THADS năm 2014, Điều 35 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP thì Thủ trưởng cơ quan THADS chỉ được ủy thác thi hành
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp sau:
- Chỉ được ủy thác cho cơ quan THADS nơi người phải THA cư trú hoặc có
tài sản khi người phải THA cư trú hoặc có tài sản ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương khác.
- Chỉ được ủy thác đối với các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau:
+ Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định; giao người chưa
thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục;
tạm đình chỉ quyết định sa thải người lao động;
+ Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; buộc thực hiện trước
phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏa bị xâm phạm; buộc
người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai
nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động;
37
+ Kê biên tài sản đang tranh chấp;
+ Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm hàng hóa khác.
Đối với các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác không thuộc các trường hợp đã
liệt kê ở trên thì cơ quan THADS không được ủy thác.
Tại khoản 2 Điều 130 Luật THADS năm 2014 quy định: Trường hợp người
phải thi hành án cư trú hoặc có tài sản ở địa phương khác thì tuỳ từng trường hợp
cụ thể, Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định uỷ thác cho cơ quan THADS nơi
người đó cư trú hoặc nơi có tài sản tổ chức thi hành quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời.
Do tính chất đặc thù của biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án là để tạm
thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản,
thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại
không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án,
nên quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp phải được tổ chức thi hành ngay. Do đó,
để tránh việc tùy tiện trong việc ủy thác làm ảnh hưởng đến việc tổ chức thi hành
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Điều 35 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP thì việc ủy thác thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời được thực hiện theo những nguyên tắc sau:
Thứ nhất, chỉ được ủy thác cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án cư
trú hoặc có tài sản khi người phải thi hành án cư trú hoặc có tài sản ở tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương khác.
Thứ hai, chỉ được ủy thác đối với các biện pháp khẩn cấp tạm thời sau:
- Cấm hoặc buộc đương sự thực hiện hành vi nhất định; giao người chưa thành
niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; tạm đình
chỉ quyết định sa thải người lao động;
- Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng; buộc thực hiện trước
một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm; buộc
người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền công, tiền bồi thường, trợ cấp tai
nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động;
38
- Kê biên tài sản đang tranh chấp;
- Cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm hàng hóa khác.
Ngoài những trường hợp nêu trên, cơ quan THADS khi nhận được quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải tổ chức thi hành án ngay theo quy định
tại khoản 1 Điều 130 Luật THADS năm 2014.
Việc uỷ thác trước khi ra quyết định thi hành án tùy từng trường hợp cụ thể có
thể là ủy thác toàn bộ hoặc một phần nội dung quyết định của bản án, quyết định
được thi hành theo thủ tục THADS.
Đối với các trường hợp khác thì cần ra quyết định thi hành án rồi mới tiến
hành ủy thác thi hành án để đảm bảo chặt chẽ về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo
đảm căn cứ chắc chắn mới thực hiện việc ủy thác THADS. Trong việc thực hiện ủy
thác này, nhất là trường hợp người phải thi hành án có nhiều tài sản ở nhiều nơi
khác nhau thì cần thực hiện tốt quy định về ủy quyền xác minh điều kiện thi hành
án tại khoản 3 Điều 44 Luật THADS năm 2014 để ủy thác đến đúng nơi có thẩm
quyền thi hành án, hạn chế đùn đẩy trách nhiệm giữa các các cơ quan THADS.
Ví dụ, ông A phải thi hành nghĩa vụ trả tiền cho ông B, ông A có tài sản là 01
căn nhà ở địa bàn Chi cục THADS quận C thuộc thành phố tỉnh D và 03 ngôi nhà ở
địa bàn quận Đ, E, G thuộc thành phố H. Trong trường hợp này, Chi cục THADS
quận C ủy quyền xác minh điều kiện thi hành án cho Chi cục THADS quận Đ, E, G
để xác minh xem giá trị tài sản lớn nhất ở địa bàn quận nào, trên cơ sở đó sau khi xử
lý xong tài sản của ông A ở địa bàn Chi cục mình thì ủy thác thi hành án đến Chi
cục THADS quận Đ hoặc E hoặc G là nơi tài sản có giá trị lớn nhất.
Ủy thác thi hành án khi chưa ra quyết định thi hành án thì chưa được coi là
một việc ủy thác THADS mặc dù đã ra quyết định ủy thác THADS. Trường hợp
này, CHV cơ quan THADS không thống kê và chỉ tiêu ủy thác thi hành án nhưng
cần lập sổ theo dõi riêng về ra quyết định ủy thác thẳng.
2.2.2. Uỷ thác sau khi ra quyết định thi hành án
Đối với bản án, quyết định đã được CQTHADS ra quyết định thi hành án
nhưng qua xác minh cho thấy có cơ sở xác định CQTHADS khác có điều kiện thực
39
hiện việc thi hành án (CQTHADSD nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc, có
tài sản hoặc nơi có trụ sở) thì Thủ trưởng CQTHAS đã ra quyết định thi hành án uỷ
thác cho CQTHADS nơi có điều kiện thi hành quyết định thi hành án và tổ chức
việc thi hành án. Các trường hợp ủy thác sau khi ra quyết định thi hành án gồm có:
- Uỷ thác toàn bộ
Là trường hợp uỷ thác tất cả các khoản phải thi hành của quyết định thi hành
án khi đã ra quyết định THADS mà chưa thi hành được phần nào của quyết định
THADS.
- Uỷ thác một phần đồng thời thi hành phần còn lại
Đây là trường hợp sau khi ra quyết định thi hành án, CQTHADS xác minh
cho thấy có căn cứ ủy thác một phần, phần còn lại tổ chức thi hành án. Trong
trường hợp có tài sản đảm bảo việc thi hành án đã được Tòa án chuyển giao thì phải
xử lý xong tài sản này mới được uỷ thác phần còn lại cho CQTHADS nơi có điều
kiện thi hành. Trường hợp trong bản án, quyết định của Tòa án có nhiều người phải
thi hành án khác nhau cư trú hoặc có tài sản ở nhiều địa phương khác nhau thì có
thể uỷ thác từng phần cho các CQTHADS nơi có điều kiện thi hành nếu xét thấy
việc uỷ thác không ảnh hưởng đến quyền lợi của người được thi hành án.
- Uỷ thác phần còn lại và khi kết thúc hồ sơ
Thủ trưởng CQTHA ra quyết định thi hành án, trong quá trình thi hành án
CHV đã thi hành hết các khoản có điều kiện thi hành án ở địa phương mình xét thấy
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án ở nơi khác thì CQTHADS ra quyết
định uỷ thác phần còn lại cho CQTHADS nơi người phải thi hành án có điều kiện
thi hành và kết thúc hồ sơ thi hành án.
- Uỷ thác trong trường hợp thực hiện nghĩa vụ liên đới
Trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư trú
hoặc có tài sản ở các địa phương khác nhau thì Thủ trưởng CQTHADS ủy thác
toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến CQTHADS thuộc một trong các địa phương nơi
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án.
- Ủy thác thi hành án khi thi hành quyết định tuyên bố phá sản
40
Việc ủy thác thi hành án khi thi hành quyết định tuyên bố phá sản thực hiện
theo hướng dẫn tại mục 4 Công văn số 3089/BTP-TCTHADS ngày 09/9/2016 của
Bộ Tư pháp “về việc thi hành quyết định của Tòa án liên quan đến giải quyết phá
sản”. Theo đó, theo Điều 17 Luật Phá sản năm 2014, cơ quan THADS có nhiệm vụ
thi hành quyết định tuyên bố phá sản (khoản 1); thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
khác theo quy định của pháp luật về THADS (khoản 7). Khi thi hành quyết định
tuyên bố phá sản, theo điểm c khoản 2 Điều 120 Luật Phá sản năm 2014, CHV có
nhiệm vụ thực hiện cưỡng chế để thu hồi tài sản, giao tài sản cho người mua được
tài sản trong vụ việc phá sản theo quy định của pháp luật về THADS. Như vậy,
trong quá trình thi hành án đối với quyết định tuyên bố phá sản, khi có căn cứ ủy
thác thi hành án, cơ quan THADS (cơ quan A) có thể ủy thác đến cơ quan THADS
nơi có điều kiện thi hành án theo quy định của pháp luật THADS (cơ quan B).
Theo Luật Phá sản năm 2014, sau khi nhận được quyết định phân công của
Thủ trưởng cơ quan THADS, CHV phải “Mở một tài khoản tại ngân hàng đứng
tên cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản để gửi
các khoản tiền thu hồi được của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản” (điểm a khoản
2 Điều 120). Như vậy, các khoản tiền thu được từ người mắc nợ sẽ được chuyển
vào 01 tài khoản mở tại ngân hàng để thực hiện phương án phân chia theo quyết
định tuyên bố phá sản. Do đó, khi thực hiện ủy thác thi hành quyết định thi hành
quyết định tuyên bố phá sản, cơ quan THADS cần lưu ý:
+ Trường hợp ủy thác toàn bộ quyết định thi hành quyết định tuyên bố phá sản
cho duy nhất 01 cơ quan THADS (cơ quan B), cơ quan nhận ủy thác (cơ quan B) mở
một tài khoản đứng tên cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố
phá sản (cơ quan B) để gửi các khoản tiền thu hồi được của doanh nghiệp, hợp tác xã
phá sản và thực hiện việc phân chia theo phương án phân chia tài sản theo quyết định
tuyên bố phá sản. Trường hợp cơ quan ủy thác thi hành án (cơ quan A) đã mở tài
khoản thì sau khi có thông báo nhận ủy thác, số tiền trong tài khoản (nếu có) được
chuyển đến tài khoản mới của cơ quan nhận ủy thác (cơ quan B) để xử lý theo quy
định; tài khoản mà cơ quan ủy thác (cơ quan A) đã mở trước đó cần được xem xét,
41
hủy bỏ.
+ Trường hợp ủy thác một phần quyết định thi hành án thì cơ quan nhận ủy
thác (cơ quan B) ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành vụ việc theo quy
định. Khi thu được tiền, tài sản, CQTHA nhận ủy thác phải gửi ngay vào tài khoản
tạm giữ của cơ quan mình. Sau khi đã thi hành xong các khoản có điều kiện theo
quyết định ủy thác, cơ quan nhận ủy thác thực hiện chuyển số tiền thu được vào tài
khoản của CQTHA đã ủy thác (cơ quan A) để thực hiện phương án phân chia tài
sản theo quyết định tuyên bố phá sản. Trách nhiệm của CQTHA nhận ủy thác (cơ
quan B) hoàn thành sau khi kết thúc việc thi hành án đối với nội dung được ủy thác
và chuyển tiền cho cơ quan đã ủy thác (cơ quan A).
Những vấn đề khác phát sinh, liên quan đến trách nhiệm, thẩm quyền của cơ
quan THADS, Quản tài viên, Thẩm phán trong quá trình ủy thác thi hành án thực
hiện theo quy định của pháp luật về phá sản - Trường hợp ủy thác thi hành án, cơ
quan ủy thác phải ghi rõ số phí THADS đã thu, số phí THADS còn phải thu.Cơ
quan nhận ủy thác phải căn cứ vào quyết định ủy thác để tiếp tục thu phí THADS và
được quản lý, sử dụng tiền phí THADS thu được theo quy định tại Thông tư số
216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2006 của Bộ Tài chính [Lại Thanh Hà – Những
lưu ý trong thực hiện ủy thác thi hành án dân sự].
2.3. Thẩm quyền ủy thác thi hành án dân sự
Theo quy định tại Điều 56 Luật THADS năm 2014, thẩm quyền ủy thác thi
hành án theo cấp của các cơ quan THADS như sau:
2.3.1. Thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
Cơ quan THADS cấp tỉnh ủy thác thi hành các bản án, quyết định sau đây:
- Ủy thác cho cơ quan THADS cấp tỉnh nơi khác thi hành các bản án, quyết
định về nhận người lao động trở lại làm việc hoặc bồi thường thiệt hại mà người
phải thi hành án là cơ quan nhà nước cấp tỉnh trở lên; bản án, quyết định có yếu tố
nước ngoài hoặc liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; quyết định của Trọng tài
thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh
tranh.
42
- Ủy thác cho CQTHA cấp quân khu thi hành vụ việc mà đương sự hoặc tài
sản có liên quan đến quân đội trên địa bàn.
- Ủy thác cho cơ quan THADS cấp huyện vụ việc khác, trừ những trường hợp
thi hành các bản án, quyết định về nhận người lao động trở lại làm việc hoặc bồi
thường thiệt hại mà người phải thi hành án là cơ quan nhà nước cấp tỉnh trở lên; bản
án, quyết định có yếu tố nước ngoài hoặc liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ; quyết
định của Trọng tài thương mại; quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh; vụ việc mà đương sự hoặc tài sản có liên quan đến quân
đội trên địa bàn.
Như vậy, khi xác định thẩm quyền ủy thác thi hành án của CQTHA cấp tỉnh
cần phải xác định mỗi CQTHA nhận ủy thác khác nhau sẽ nhận thi hành những bản
án, quyết định không giống nhau, quy định này góp phần hạn chế việc chồng chéo
và đùn đẩy trong việc ủy thác THADS.
2.3.2. Thẩm quyền của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện
Cơ quan THADS cấp huyện ủy thác vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành án
của mình cho cơ quan THADS cấp tỉnh nơi khác, CQTHA cấp quân khu, cơ quan
THADS cấp huyện khác có điều kiện thi hành.
2.3.3. Thẩm quyền của CQTHA dân sự cấp quân khu
CQTHA cấp quân khu ủy thác vụ việc thuộc thẩm quyền thi hành án của
mình cho CQTHA cấp quân khu khác, cơ quan THADS cấp tỉnh hoặc cơ quan
THADS cấp huyện có điều kiện thi hành.
Sau khi xác định được thẩm quyền của CQTHA cấp tỉnh hoặc cấp huyện và
cấp quân khu, thì câu hỏi đặt ra là CQTHA nào mới có thẩm quyền nhận ủy thác để
thi hành án, để tìm được câu trả lời, cần phải xác định thẩm quyền theo lãnh thổ,
theo đó, CQTHA có thẩm quyền nhận ủy thác thi hành án là cơ quan có điều kiện
để thi hành án như đã trình bày tại tiểu mục 2.1.2 của Chương 2 Luận văn.
2.4. Trình tự, thủ tục ủy thác thi hành án dân sự
2.4.1. Thời hạn thực hiện việc ủy thác thi hành án dân sự
Nhằm hạn chế việc tẩu tán tài sản của người phải thi hành án, việc ủy thác
43
phải thực hiện kịp thời, theo đó, Khoản 3 Điều 55 Luật THADS năm 2014 quy
định: trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày xác định có căn cứ ủy thác.
Trường hợp cần thiết phải ủy thác việc thi hành quyết định của Tòa án về áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời thì việc uỷ thác phải thực hiện ngay sau khi có căn cứ
uỷ thác.
2.4.2. Thủ tục ủy thác thi hành án trực tiếp (ủy thác thẳng)
Uỷ thác trước khi ra quyết định thi hành án còn được gọi là ủy thác thẳng. Đây
là trường hợp khi CQTHA nhận được bản án, quyết định thuộc diện chủ động thi
hành án hoặc yêu cầu thi hành án kèm theo bản án, quyết định, nếu xét thấy việc thi
hành án có căn cứ ủy thác thì Thủ trưởng CQTHA ra quyết định uỷ thác cho
CQTHA nơi người phải thi hành án cư trú, làm việc, có tài sản hoặc nơi có trụ sở
mà không ra quyết định thi hành án, các bước tiến hành gồm:
a) Đối với cơ quan ủy thác thi hành án dân sự
Thứ nhất, tổ chức xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên trước khi
ủy thác (nếu có).
Thứ hai, ban hành quyết định ủy thác
Trước khi ban hành quyết định ủy thác, cơ quan ủy thác phải rà soát các điều
kiện, căn cứ ủy thác, theo quy định tại Điều 55 Luật THADS và Khoản 1 Điều 16 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết “Thủ trưởng cơ quan THADS phải ủy thác
thi hành án cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản là bất động sản,
động sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng; đối với loại tài sản khác thì có thể
ủy thác cho cơ quan THADS nơi có tài sản tổ chức thi hành”.
Như vậy, về nguyên tắc chung bắt buộc Thủ trưởng cơ quan THADS phải ủy
thác thi hành án cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản là bất
động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng; đối với loại tài sản
khác thì có thể ủy thác cho cơ quan THADS nơi có tài sản tổ chức thi hành, tức là
cơ quan THADS trực tiếp thi hành mà không bắt buộc phải ủy thác.
Sau khi rà soát căn cứ, điều kiện ủy thác, nếu đảm bảo đủ các điều kiện thì
CHV hoặc cán bộ xây dựng dự thảo và đề xuất Thủ trưởng Cơ quan THADS ký ban
44
hành quyết định ủy thác THADS. Quyết định ủy thác thi hành án phải được lập
thành văn bản trong đó phải ghi rõ nội dung ủy thác, khoản đã thi hành xong, khoản
cần tiếp tục thi hành và các thông tin cần thiết cho việc thực hiện ủy thác.
Thứ ba, gửi quyết định ủy thác, các văn bản, tài liệu kèm theo
Theo quy định tại Điều 38 Luật THADS năm 2014, trong thời hạn 03 ngày
làm việc, kể từ ngày ra quyết định, quyết định ủy thác thi hành án phải được gửi cho
Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, trừ trường hợp Luật THADS năm 2014 có quy
định khác. Quyết định cưỡng chế thi hành án phải được gửi cho Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn nơi tổ chức cưỡng chế thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan đến việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án.
Ngoài ra, quyết định ủy thác THADS phải thông báo cho đương sự, người có
quyền, nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội dung của văn
bản đó (kèm theo là giấy báo, giấy triệu tập và văn bản khác có liên quan đến việc
thi hành án). Việc thông báo phải thực hiện trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ
ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản,
trốn tránh việc thi hành án. Việc thông báo được thực hiện theo các hình thức sau
đây:
- Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định
của pháp luật;
- Niêm yết công khai;
- Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng (Điều 39 Luật THADS
năm 2014).
Khi gửi quyết định ủy thác thi hành án, cơ quan THADS phải gửi kèm theo
bản án, quyết định; bản sao biên bản kê biên, tạm giữ tài sản và các tài liệu khác có
liên quan, nếu có. Trong trường hợp phải ủy thác cho nhiều nơi thì cơ quan THADS
sao chụp bản án, quyết định và các tài liệu khác có liên quan thành nhiều bản, có
đóng dấu của cơ quan THADS nơi ủy thác để gửi cho cơ quan THADS nơi nhận ủy
thác (Khoản 4, Điều 16 Nghị định số 62).
b) Đối với cơ quan nhận ủy thác thi hành án dân sự
45
Thứ nhất, Cơ quan nhận ủy thác THADS có trách nhiệm nhận ủy thác
THADS
Cơ quan THADS nhận ủy thác không được trả lại quyết định ủy thác cho cơ
quan THADS đã ủy thác mà phải tiếp tục thực hiện việc thi hành án theo quy định
của Luật THADS năm 2014, trừ trường hợp quyết định ủy thác có sự nhầm lẫn, sai
sót rõ ràng về thẩm quyền của cơ quan nhận ủy thác thi hành án, nội dung thi hành
án.
Thứ hai, ra quyết định thi hành án và thông báo về việc nhận được quyết định
ủy thác thi hành án
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác,
Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định thi hành án và thông báo bằng văn bản
cho cơ quan THADS đã ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác.
Thứ ba, xử lý trong trường hợp việc thi hành án chưa có điều kiện thi hành
hoặc người phải thi hành án có tài sản hoặc cư trú, làm việc hoặc có trụ sở ở địa
phương khác
Trường hợp người phải thi hành án không có tài sản hoặc không cư trú, làm
việc hoặc không có trụ sở ở địa phương thì cơ quan THADS nhận ủy thác thực hiện
như sau:
+ Trường hợp người phải thi hành án không có tài sản hoặc không cư trú, làm
việc hoặc không có trụ sở ở địa phương thì cơ quan THADS nhận ủy thác ra quyết
định về việc chưa có điều kiện THADS theo quy định tại Điều 44a Luật THADS;
+ Trường hợp xác định người phải thi hành án có tài sản hoặc cư trú, làm việc
hoặc có trụ sở ở địa phương khác thì ủy thác tiếp cho cơ quan THADS nơi có điều
kiện thi hành.
Thực hiện các thủ tục và các công việc cần thiết khác theo quy định.
2.4.3. Thủ tục ủy thác thi hành án sau khi ra quyết định thi hành án
Trình tự, thủ tục ủy thác thi hành án này được áp dụng đối với cả trường hợp thi
hành án chủ động và thi hành án theo yêu cầu, theo đó gồm các bước tương tự như thủ
tục ủy thác trực tiếp. Nhưng trước khi thực hiện theo thủ tục đó thì cần phải tiến
46
hành ban hành quyết định thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án,
theo đó, trong trường hợp Thủ trưởng cơ quan THADS đã ra quyết định thi hành án,
nhưng khi rà soát căn cứ, điều kiện thi hành án, xét thấy cần ủy thác (không tự thực
hiện thi hành án) thì phải CHV phải dự thảo và đề xuất Thủ trưởng cơ quan ký ra
quyết định thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án đồng thời ra quyết
định ủy thác cho nơi có điều kiện thi hành.
47
Tiểu kết chương
Ủy thác THADS là một trong các biện pháp để giải quyết khó khăn, nhằm
nâng cao hiệu quả trong công tác THADS. Bởi trong thực tế, việc một cá nhân đăng
ký hộ khẩu một nơi nhưng làm việc hay tạm trú ở nơi khác, có nhiều tài sản ở nhiều
địa phương khác nhau là hiện tượng khá phổ biến trong xã hội, trong khi các cơ
quan THADS được tổ chức thực hiện, chức năng theo địa bàn lãnh thổ. Để khắc
phục thực tế này, cơ chế ủy thác đã góp phần giải quyết khó khăn trên cho hoạt
động THADS và để đảm bảo quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức được thực hiện
bình đẳng trước pháp luật thì cơ chế ủy thác THADS đặt ra là yêu cầu khách quan
và tất yếu.
Nghiên cứu chế định ủy thác THADS, thể rút ra được một số kết luận sau:
Thứ nhất, các điều kiện ủy thác THADS không được quy định cụ thể trong
luật. Thực tế thi hành xuất hiện một số hạn chế, bất cập của các quy định về ủy thác
THADS đã tạo ra những rào cản, trở ngại về mặt pháp lý làm giảm hiệu lực, hiệu
quả trong quá trình ủy thác THADS. Do đó, việc hoàn thiện những quy định của
pháp luật về nơi nhận thực hiện ủy thác THADS là một nội dung quan trọng trong
pháp luật THADS nói riêng và pháp luật nói chung.
Thứ hai, Phân tích những quy định của pháp luật về ủy thác thi hành án dân để
làm căn cứ cho việc đánh giá thực tiễn thi hành tại thành phố Hồ chí Minh ở
chương 3.
48
Chương 3
THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN,
NÂNG CAO HIỆU QỦA THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ
ỦY THÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về ủy thác thi hành án dân sự tại Thành
phố Hồ Chí Minh
Điều kiện kinh tế, xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ngày càng
phát triển từ cở sở hạ tầng đến điều kiện sinh hoạt và trình độ dân trí của người dân
Thành phố ngày càng cao, bên cạnh những mặt đạt được thì vẫn còn một bộ phận
nhỏ của người dân Thành phố vẫn còn hạn chế về sự hiểu biết của Pháp luật nên nó
cũng ảnh hưởng đến quá trình giải quyết việc thi hành án của CQTHA, có nhiều vụ
án kéo dài. Trong thời qua Lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh đã hỗ trợ của Ban chỉ
đạo THADS Thành phố nên Cục THADS Thành phố đã đạt được những thành tích
đáng kể.
Ban chỉ đạo THADS Thành phố rất đa dạng, không chỉ dừng lại ở việc chỉ đạo
phối hợp, chỉ đạo các vụ việc cưỡng chế mà còn thực hiện với vai trò là một bộ
phận tham mưu, giúp cho Lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố trong thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về công tác THADS tại địa phương. Theo đó, các hoạt
động trong công tác THADS như: Kiện toàn bộ máy và tổ chức cán bộ, bố trí mặt
bằng xây dựng trụ sở, kho vật chứng, tài chính… đều được Lãnh đạo Ủy ban nhân
dân thành phố chỉ đạo triển khai thực hiện bằng các đề án. Hàng năm, bên cạnh việc
cấp kinh phí cho hoạt động của Ban chỉ đạo THADS Thành phố theo quy định của
pháp luật, Ủy ban nhân dân thành phố còn cấp thêm kinh phí để chi trả cho phụ cấp
kiêm nhiệm của các thành viên Ban chỉ đạo THADS hai cấp của Thành phố. Điều
này tạo thêm động lực không nhỏ cho hoạt động của Ban chỉ đạo THADS Thành
phố. Bên cạnh đó, để giải quyết một lượng án lớn có hiệu quả, Ban chỉ đạo THADS
Thành phố cũng đã có ý kiến đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố về đề án của Cục
THADS thành phố trong việc cho phép tuyển và chi trả lương cho một số hợp đồng
49
lao động ngoài biên chế của Tổng Cục THADS giao (Hợp đồng sinh viên nhưng
hiện nay đã cắt, những năm trước bộ phận này hỗ trợ cho Cục THADS Thành phố
Hồ Chí Minh rất nhiều thành tích trong quá trình giải quyết hồ sơ thi hành án).
3.1.1. Kết quả đạt được
Những năm qua việc thực hiện ủy thác THADS tại Cục THADS Thành phố
Hồ Chí Minh cũng đạt được những thành tích cao, được thể hiện cụ thể qua từng
năm sau:
Số việc ủy STT Năm Số tiền ủy thác THA (đồng) Ghi chú thác THA
1633 1 2017 3.967.780.532.000
1638 2 2018 10.205.910.752.000
1536 3 2019 3.414.697.393.000
Nhờ vào việc ủy thác THADS mà Cục THADS Thành phố Hồ Chí Minh đã
kịp thời ủy thác những hồ sơ thi hành án tới những Cơ quan THADS ở địa phương
khác để họ kịp thời xử lý tài sản, hạn chế việc đương sự tẩu tán tài sản, tài sản bị
giảm và quan trọng nhất là việc ủy thác THADS kịp thời đã giúp cho Cục THADS
Thành phố Hồ Chí Minh những năm qua đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, đạt
kết quả cao trong nghành THADS cả nước nói chung và Cục THADS Thành phố
Hồ Chí Minh nói riêng.
Như vậy, việc ủy thác THADS thời gian qua nhìn chung đã được cơ quan
THADS thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy có
lúc, có nơi còn lúng túng, thực hiện chưa đúng dẫn đến sai sót, vi phạm về thủ tục
ủy thác THADS.
3.1.2. Những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân
Bên cạnh những mặt đạt được thì việc ủy thác THA trong thời gian qua cũng
gặp những khó khăn, vướng mắc, đó sự nhận thức về việc ủy thác THA chưa đúng
nên vẫn còn hiện tượng ủy thác sai sót, không đúng đối tượng, không xác minh chặt
chẽ tài sản của người phải THA, chưa xử lý xong tài sản của người phải THA
nhưng vẫn ủy thác cho cơ quan THA khác tiếp tục thi hành án, khi cơ quan nơi
50
nhận ủy thác thụ lý và tiến hành xác minh điều kiện của người phải THA thì phát
hiện ra họ không có tài sản, cơ quan ủy thác chưa thi hành xong tài sản của người
phải THA đã ủy thác đi hoặc người phải THA không có cư trú tại địa phương nên
cơ quan THA nhận ủy thác phải ủy thác ngược lai cho cơ quan lúc đầu ủy thác, như
vậy làm mất thời, kéo dài thời gian THA, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người
được THA, gây bức xúc cho người dân.
3.1.2.1. Những khó khăn, vướng mắc
Việc ủy thác THADS trong quá trình cơ quan THADS tổ chức thi hành các bản
án, quyết định của tòa án hiện nay diễn ra khá phổ biến, do người phải thi hành án có
tài sản ở nhiều địa phương khác nhau. Thực tiễn cho thấy trình tự, thủ tục ủy thác thi
hành án theo pháp luật về THADS hiện nay có khá nhiều vấn đề bất cập. Một trong
những vấn đề bất cập đó là nguyên tắc xác định điều kiện ủy thác chưa rõ ràng và thiếu
cơ chế ủy thác trong một số trường hợp đặc biệt. Điều này đã gây ra không ít khó khăn,
lúng túng cho các CHV khi áp dụng các quy định về ủy thác để giải quyết các vụ việc
thi hành án, đồng thời ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự. Cụ thể là:
Thứ nhất, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện căn cứ ủy thác thi hành
án
- Khoản 1, Điều 55 Luật THADS năm 2014 quy định, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan THADS nơi người phải thi
hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở…; đồng thời các Khoản 2 và 3,
Điều 55 cũng xác định các căn cứ thực hiện việc ủy thác thi hành án được thực hiện
đối với người phải thi hành án. Tuy nhiên, quy định này đã “bỏ sót” các trường hợp
người thi hành án phải thi hành các khoản tiền tạm ứng án phí, trả lại tiền, tài sản
cho đương sự trong trường hợp thi hành án chủ động. Pháp luật chưa quy định,
nhưng thực tiễn vẫn diễn ra. Chính vì lẽ đó, mỗi địa phương có cách áp dụng khác
nhau, nghĩa là việc ủy thác THADS trong các trường hợp nêu trên vẫn được thực
hiện.
Thực tiễn, các cơ quan THADS, trong đó có cơ quan THADS thành phố Hồ
Chí Minh vẫn ủy thác đến nơi người được thi hành án đã nộp tạm ứng án phí, hoặc
51
địa phương nơi đang tạm giữ tài sản, tang vật. Tuy nhiên, vẫn có cơ quan khác lại
cho rằng việc ủy thác như vậy là không có căn cứ pháp lý nên đã yêu cầu cơ quan
THADS đang thụ lý phải có văn bản đề nghị cơ quan THADS nơi đương sự nộp
tiền tạm ứng án phí thực hiện chuyển tiền qua tài khoản kho bạc để xử lý theo quy
định. Yêu cầu này nhằm “dự phòng” khi có khiếu nại xảy ra, nhưng lại phát sinh thủ
tục hành chính, tạo thêm áp lực cho CHV, nhất là ở các địa phương có số lượng án
phải thi hành nhiều như Thành phố Hồ Chí Minh.
- CQTHA nơi có tài sản có được thực hiện việc ủy thác ngay cho nơi khác
không khi giá trị tài sản ước tính không đủ để thi hành án?
Tại khoản 1 Điều 55 quy định “Thủ trưởng cơ quan THADS phải ủy thác thi
hành án cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú
hoặc có trụ sở”. Đây là căn cứ đầu tiên để CQTHA đang giải quyết hồ sơ thi hành
án tiến hành thủ tục ủy thác. Theo đó, thì khi có căn cứ xác định người phải thi hành
án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở nơi khác, thì Thủ trưởng CQTHA phải
ủy thác cho cơ quan THADS nơi đó tổ chức thi hành.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nếu như tại nơi thụ lý ban đầu mà người phải thi
hành án có tài sản và CQTHA đang xử lý tài sản đó, nhưng giá trị tài sản ước tính
không đủ để thi hành án thì có được thực hiện việc ủy thác ngay cho nơi khác không
(nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở)? Đồng thời,
sẽ ủy thác toàn bộ nghĩa vụ hay ủy thác một phần nghĩa vụ và việc tính phí thi hành
án đối với người phải thi hành án sẽ được giải quyết như thế nào giữa các CQTHA
nơi ủy thác và nơi nhận ủy thác? Rõ ràng quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật Thi
hành án dân sự năm 2014 cũng như các quy định khác có liên quan đến việc ủy thác
thi hành án đã chưa trả lời được những câu hỏi trên.
- Trường hợp người phải thi hành án có tài sản ở nhiều nơi nhưng CQTHA
nơi ủy thác chưa xử lý xong tài sản liên quan đến khoản ủy thác, trong khi CQTHA
nơi ủy thác đang tiến hành xử lý tài sản có liên quan đến khoản ủy thác tại địa bàn
thì đương sự đã tẩu tán tài sản nơi khác...
- Trường hợp khi ra Quyết định ủy thác THADS cho địa phương khác tiếp
52
tục thụ lý nhưng CHV lại chưa thực hiện việc xác minh về tài sản của người phải
THA ở địa phương nhận ủy thác, khi địa phương nhận ủy thác tiếp nhận hồ sơ và
tiếp tục thi hành án theo quy định thì CHV tiến hành xác minh tài sản của người
phải THA thi lại không có tài sản tại địa phương nên bắt buộc phải ủy thác ngược
lại cho cơ quan THA ban đầu đã ủy thác, dẫn đến việc ủy thác phức tạp, mất thời
gian, không hiệu quả trong quá trình THADS, ảnh hưởng đến quyền lợi, thời gian
của người được THA.
- Trường hợp ủy thác THADS có sai sót trong việc ủy thác THA khi mà phải
xử lý tài sản ở nhiều nơi để THA. Luật quy định khi ủy thác THA phải ủy thác về
nơi có tài sản nhiều nhất, giá trị tài sản cao nhất, trong khi đó Luật không quy định
căn cứ vào đâu để biết giá trị tài sản cao nhất, ai là người phải chịu chi phí thẩm
định giá để biết giá trị tài sản cao nhất để ủy thác, cho nên khi CHV tiến hành ủy
thác THA gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến việc sai sót trong việc ủy thác THA đến
nơi có tài sản nhiều nhất, có giá trị tài sản cao nhất trong quá trình tổ ủy thác THA.
Đây cũng là những khó khăn của cơ quan THA khi xác định giá trị cao nhất để ủy
thác THA trong quá trình tổ chức THA.
Thứ hai, khó khăn trong việc xác định nơi nhận thực hiện ủy thác THADS
trong trường hợp người phải thi hành án có cả nơi thường trú và nơi tạm trú
Mặc dù khoản 1 Điều 55 Luật THADS đã quy định cụ thể về các căn cứ ủy
thác THADS. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng thực tiễn hiện nay vẫn còn phát
sinh nhiều khó khăn, bất cập về nơi nhận ủy thác thi hành án trong trường hợp
người phải thi hành án có cả nơi thường trú và nơi tạm trú làm ảnh hưởng không
nhỏ đến kết quả thi hành án.
Ví dụ 1: Theo bản án 508/2015/HSPT ngày 16/10/2015 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh (xét xử theo trình tự phúc thẩm bản án sơ thẩm
số 84/2015/HSST ngày 30/3/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh)
ghi nhận bị cáo Nguyễn Minh Tuấn, thường trú tại: thôn Phú Tài, xã Trà Phú, huyện
Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Tạm trú: 31 đường 59B, phường Tân Tạo, quận Bình
Tân, thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình thi hành án, nhận thấy người phải thi
53
hành án có nơi tạm trú tại quận Bình Tân. Cục THADS thành phố Hồ Chí Minh đã
ủy thác nghĩa vụ thi hành án về nơi tạm trú của người phải thi hành án (theo quyết
định ủy thác thi hành án số 178/QĐ-CTHADS ngày 21/12/2015 ủy thác về Chi cục
THADS quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh).
Ví dụ 2: Bản án 945/2006/HSST ngày 19/7/2006 của Tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh ghi nhận bị cáo Nguyễn Văn Sơn, thường trú: thôn Doãn Văn, xã
Đắk Tích, huyện Đăkplop, tỉnh Đắk Nông. Tạm trú: 193, khu phố 2, phường Tân
Phú, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình thi hành án, nhận thấy người
phải thi hành án có nơi thường trú tại huyện Đăkplop, tỉnh Đắk Nông. Cục THADS
thành phố Hồ Chí Minh đã ủy thác nghĩa vụ thi hành án về nơi thường trú của người
phải thi hành án (theo quyết định ủy thác thi hành án số 694/QĐ- CTHADS ngày
17/7/2014 ủy thác về Chi cục THADS huyện Đăkplop, tỉnh Đắk Nông).
Qua hai ví dụ trên có thể thấy, người phải thi hành án cùng có điều kiện để ủy
thác thi hành án là địa chỉ thường trú và tạm trú được ghi nhận trong bản án, quyết
định nhưng quá trình tác nghiệp thi hành án đã xảy ra hai trường hợp ủy thác khác
nhau.
Sự khác nhau này xuất phát từ nguyên nhân Luật THADS hiện hành không có
quy định cụ thể là ủy thác đến thi hành án nơi đăng ký thường trú trước hay ủy thác
tới thi hành án nơi đăng ký tạm trú trước. Trên thực tế, nhiều cơ quan ủy thác đến
nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, hoặc theo cảm tính của CHV phụ trách hồ sơ thi
hành án mà ủy thác, sau đó cơ quan THADS nơi đó lại xác minh rồi lại tiếp tục ủy
thác dẫn đến mất rất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người được thi hành án.
Thứ ba, khó khăn trong việc xác định nơi nhận ủy thác trong trường hợp thi
hành nghĩa vụ liên đới
Khoản 2 Điều 55 Luật THADS quy định: “Trường hợp thi hành nghĩa vụ liên
đới mà những người phải thi hành án cư trú hoặc có tài sản ở các địa phương khác
nhau thì thủ trưởng cơ quan THADS ủy thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến cơ
quan THADS thuộc một trong các địa phương nơi người phải thi hành án có điều
54
kiện thi hành án”.
Như vậy, theo quy định trên thì khi xử lý tài sản của những người phải thi
hành án có nghĩa vụ liên đới ở nhiều địa phương khác nhau thì cơ quan THADS
không được tách ra để ủy thác vì đối với việc thi hành nghĩa vụ liên đới chỉ được
ban hành một quyết định thi hành án. Trong trường hợp này theo quy định của pháp
luật trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư trú hoặc có
tài sản ở các địa phương khác nhau thì thủ trưởng cơ quan THADS ủy thác toàn bộ
nghĩa vụ thi hành án đến cơ quan THADS nơi một trong số những người phải thi
hành án có điều kiện thi hành mà không phân biệt đó là nghĩa vụ liên đới có chia
theo phần hoặc không chia theo phần.
Pháp luật quy định, nếu có nhiều người có nghĩa vụ liên đới cư trú ở nhiều địa
phương khác nhau thì việc lựa chọn cơ quan THADS nào nhận ủy thác để tổ chức thi
hành là quyền của cơ quan THADS nơi ủy thác. Chính quy định không cụ thể, mang
tính chất cảm tính này của Luật THADS năm 2014 đã dẫn đến việc áp dụng không
thống nhất, tùy tiện, dẫn đến ủy thác lòng vòng làm lãng phí thời gian, tiền của, gây
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án.
Ví dụ: Theo bản án 176/2015/HSST ngày 03/6/2015 của Tòa án nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh ghi nhận bị cáo Trương Văn Huệ, thường trú: tổ 6/2 Ô 1, khu phố
Hải Lộc, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chỗ ở: 157
Phạm Hữu Lầu, phường Phú Mỹ, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh. Dương Thị
Chiêu, thường trú: tổ 6/2 Ô 1, khu phố Hải Lộc, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền,
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Chỗ ở: tổ 4 khu phố Hải Lộc, thị trấn Long Hải, huyện Long
Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phải thi hành nghĩa vụ: Buộc Trương Văn Huệ và
Dương Thị Chiêu có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho ông Đặng Văn Hên và bà
Đặng Thị Kết số tiền 69.000.000 đồng . Sau khi thụ lý hồ sơ thi hành án, CHV Cục
THADS thành phố Hồ Chí Minh đã ủy thác toàn bộ nghĩa vụ bồi thường của Trương
Văn Huệ và Dương Thị Chiêu bồi thường cho ông Đặng Văn Hên và bà Đặng Thị
Kết về Chi cục THADS Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh vì đương sự có nơi cư trú
tại Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
55
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Đồng ý với cách làm của Cục THADS thành
phố Hồ Chí Minh. Sau khi thụ lý hồ sơ thi hành án, căn cứ vào nội dung bản án,
quyết định của Tòa án, thể hiện Trương Văn Huệ và Dương Thị Chiêu có nơi cư trú
tại hai địa phương khác nhau, luật cho phép việc lựa chọn nơi có điều kiện thi hành
án thuộc một trong các địa phương của người phải thi hành án và việc lựa chọn địa
phương nào là do cơ quan THADS nơi tiến hành ủy thác lựa chọn, cho nên việc ủy
thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án của người phải thi hành án nêu trên về nơi cư trú
của một trong các nơi có điều kiện của người phải thi hành án để thi hành của Cục
THADS thành phố Hồ Chí Minh là hoàn toàn hợp lý.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Không đồng ý với cách làm của Cục THADS
thành phố Hồ Chí Minh, đối với trường hợp này, khi nhiều người phải thi hành án
cùng có nghĩa vụ phải liên đới bồi thường, đều có điều kiện thi hành án thì CHV
cần mời người được thi hành án lên làm việc, lắng nghe ý kiến của người được thi
hành án về nơi có điều kiện ủy thác thi hành, để tránh sự áp đặt ý chí chủ quan của
các cơ quan THADS dẫn đến ủy thác tùy tiện, lòng vòng, tốn thời gian, tiền của của
người được thi hành án.
Theo ý kiến tác giả: Theo quan điểm thứ hai là hoàn toàn hợp lý, vì khi có
nhiều người phải thi hành nghĩa vụ liên đới cùng có điều kiện thi hành thì nên chăng
luật cần quy định cụ thể quyền được thể hiện ý chí của người được thi hành án bởi
việc ủy thác đến nơi có điều kiện của người phải thi hành án sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền, lợi ích thực tế của người được thi hành án. Việc Luật THADS bỏ ngỏ,
để quyền lựa chọn nơi có điều kiện thi hành án để ủy thác trong trường hợp thi hành
nghĩa vụ liên đới cho cơ quan THADS là hoàn toàn bất hợp lý. Thực tế đã phát sinh
rất nhiều bất cập, nhiều trường hợp ủy thác đến nơi không có điều kiện thi hành án
hoặc điều kiện thi hành án không đủ sau đó lại tiến hành ủy thác đến cơ quan
THADS khác, làm mất thời gian, công sức, tiền của của người được thi hành án,
đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người phải thi hành án tẩu tán tài sản. Vì vậy,
cần phải quy định rõ tránh bỏ ngỏ vấn đề này.
Thứ tư, khó khăn trong thi hành các vụ án lớn mà bản án tuyên kê biên tài sản
56
để bảo đảm thi hành án ở nhiều địa phương và thanh toán tiền thi hành án thu theo
quyết định cưỡng chế trong trường hợp phải ủy thác
Theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật THADS thì trước khi ủy thác, cơ quan
THADS phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên
quan đến khoản ủy thác. Thực tế thực hiện quy định này, CQTHA đang gặp khó
khăn trong việc thi hành các vụ án lớn mà bản án tuyên kê biên tài sản để bảo đảm
thi hành án ở nhiều tỉnh thành phố khác nhau. Trong những trường hợp này, nếu
thực hiện thi hành án tuần tự theo quy định là phải xử lý xong tài sản kê biên tại địa
bàn sau đó mới được ủy thác thì sẽ chậm trễ thu hồi tài sản và có nguy cơ tài sản bị
thay đổi hiện trạng hoặc bị chiếm dụng trái phép. Vướng mắc nhiều hơn cả lại liên
quan đến thanh toán tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế trong trường
hợp phải ủy thác. Hiện nay, do pháp luật thi hành án không phân biệt người được
thi hành án ở địa phương này hay địa phương khác. Cùng 01 người phải thi hành án,
cùng phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án ở nhiều bản án khác nhau, ở nhiều tỉnh
khác nhau là có thể xảy ra trong thời điểm hiện nay. Do đó, khi CQTHA tỉnh A ban
hành quyết định cưỡng chế thì người được thi hành án trong hồ sơ thi hành án ở tỉnh
B (có cùng 01 người phải thi hành án ở tỉnh A) theo quy định tại điểm b khoản 2
Điều 47 Luật THADS thì người được thi hành án ở tỉnh B vẫn có quyền được thanh
toán tiền khi được ủy thác đến tỉnh A.
Như vậy sẽ xảy ra trường hợp ra quyết định cưỡng chế thi hành án cho 02
người được thi hành án, nhưng có người được thi hành án thứ 03 ở tỉnh khác đang
ủy thác về. Khi CQTHA nhận được hồ sơ ủy thác thì khi thanh toán tiền cho người
được thi hành án theo Điều 47 Luật THADS có thanh toán cho người thứ 03 hay
không đang khiến địa phương lúng túng.
Thứ năm, khó khăn, vướng mắc trong việc xác định nơi nhận thực hiện ủy thác
THADS trong trường hợp người phải thi hành án đang chấp hành án phạt tù
Theo Điều 12 của Luật cư trú thì nơi cư trú của công dân được xác định như
sau:
“1. Nơi cư trú của công dân là chỗ ở hợp pháp mà người đó thường xuyên
57
sinh sống. Nơi cư trú của công dân là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú.
Chỗ ở hợp pháp là nhà ở, phương tiện hoặc nhà khác mà công dân sử dụng để
cư trú. Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu của công dân hoặc được cơ
quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật.
Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống thường xuyên, ổn định, không có
thời hạn tại một chỗ ở nhất định và đã đăng ký thường trú.
Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã
đăng ký tạm trú.
2. Trường hợp không xác định được nơi cư trú của công dân theo quy định tại
khoản 1 Điều này thì nơi cư trú của công dân là nơi người đó đang sinh sống”.
Từ quy định pháp luật về cư trú, thực tiễn THADS đang phát sinh vấn đề tranh
chấp, liệu trường hợp đương sự từ nơi này đến nơi khác làm thuê trong thời gian ngắn,
hay trường hợp người phải thi hành án đang chấp hành án tại trại giam thì có được
xem là căn cứ về nơi cư trú của đương sự để ủy thác thi hành án không.
Ví dụ: Theo bản án 595/2014/HSPT ngày 23/9/2014 của Tòa phúc thẩm Tòa
án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh (xét xử theo trình tự phúc thẩm bản
án sơ thẩm số 241/2014/HSST ngày 19/6/2014 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh) ghi nhận bị cáo Trần Phi Hùng. Thường trú: thôn 7, xã Hòa An, huyện
Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk. Tạm trú: 304/25 đường số 10, phường Bình Hưng Hòa,
quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh phải thi hành nghĩa vụ: bồi thường cho ông
Huỳnh Đức Hùng số tiền 64.500.000 đồng. Kể từ ngày người đại diện hợp pháp của
người bị hại có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Trần Phi Hùng chưa thanh toán đủ số
tiền bồi thường thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất
nợ quá hạn do ngân hàng nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành
án. Trần Phi Hùng phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.225.000
đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Trong bản án này, bị cáo có hai địa chỉ là nơi thường trú và nơi tạm trú, bị Tòa
án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kết án 7 năm 6 tháng tù và đang chấp hành án
tại trại giam. Vậy ủy thác đến cơ quan THADS nào là hợp lý, cơ quan THADS nơi
58
thường trú, nơi tạm trú hay cơ quan THADS nơi trại giam mà người phải thi hành
án đang chấp hành.
Trong trường hợp này, Cục THADS thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành
quyết định ủy thác thi hành án số 177/QĐ-CTHA ngày 18/12/2015 ủy thác cho Chi
cục THADS quận Bình Tân, thành phố Hồ Chi Minh thi hành (tức nơi tạm trú của
người phải thi hành án).
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Ủng hộ việc ủy thác này của Cục THADS
thành phố Hồ Chí Minh bởi theo đúng quy định của pháp luật về thi hành án thì
người phải thi hành án có nơi cư trú (thường trú huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk và
nơi tạm trú tại quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh) và do luật THADS không
quy định cụ thể về việc ủy thác đến nơi đăng ký thường trú hay nơi đăng ký tạm trú
trước nên cơ quan THADS ủy thác về một trong những nơi cư trú là hoàn toàn phù
hợp với quy định của pháp luật.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Việc ủy thác này là đùn đẩy công việc của các cơ
quan THADS. Bởi đa số những người đang chấp hành hình phạt tù, nhất là tội phạm
về ma túy, thì làm gì còn tài sản để thi hành án. Vô hình chung, dẫn đến tình trạng cơ
quan THADS này xong một phần việc thì cơ quan THADS khác lại thêm một phần
việc, dẫn đến việc ủy thác không còn ý nghĩa trên thực tế.
Quan điểm tác giả: Đồng ý với quan điểm thứ hai. Bởi, trong khi các cơ quan
THADS đang quá tải với công việc, với các vụ án phức tạp thì họ lại mất không ít
thời gian với việc thi hành án phần dân sự trong các bản án hình sự, mà người phải
thi hành án đang trong trại giam. Mất công nhất là các vụ thu án phí hình sự. Có trại
giam cách cơ quan THADS hàng trăm kilomet, để thu được tiền án phí, cơ quan
THADS phải chi phí gấp nhiều lần số tiền đó, chưa kể thêm nhân lực và thời gian.
Hơn nữa, theo quy định pháp luật thì cơ quan THADS không thể ủy thác cho cơ
quan THADS nơi có trại giam vì không thuộc trường hợp được ủy thác.
Thứ sáu, khó khăn, vướng mắc trong việc hiểu và áp dụng khác nhau về quy
định các căn cứ thực hiện ủy thác
Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn về căn cứ để lựa chọn nơi ủy thác
59
trong trường hợp người phải thi hành án có tài sản ở nhiều nơi. Tuy nhiên, một số
người vẫn hiểu nhầm và xem nó là điều kiện để thực hiện việc ủy thác.
Như vậy, từ các căn cứ pháp lý quan trọng cho việc ủy thác thi hành án như đã
nêu trên thì chúng ta vẫn chưa có được câu trả lời cụ thể và chắc chắn, mang tính
nguyên tắc là: khi nào thì cơ quan THADS đang thụ lý thi hành được ủy thác cho cơ
quan THADS nơi khác? Điều này đã dẫn đến cách hiểu và áp dụng pháp luật không
thống nhất trong thực tiễn giữa các CQTHA và giữa các CHV.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: cơ quan THADS đang tổ chức thi hành án có
thể ủy thác cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư
trú hoặc có trụ sở nếu các đương sự có thỏa thuận đồng ý ủy thác, trừ trường hợp
chưa xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến
khoản ủy thác. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng do không có quy định
nào buộc CQTHA phải xử lý xong hết toàn bộ tài sản của người phải thi hành án
trên địa bàn của mình trước khi ủy thác. Đồng thời, điểm a khoản 1 Điều 16 Nghị
định 62/2015/NĐ-CP quy định cho đương sự có quyền thỏa thuận nơi ủy thác. Do
vậy, có thể ủy thác thi hành án cho nơi khác tổ chức thi hành cho dù nơi đang thụ lý
vẫn có tài sản.
Quan điểm thứ hai cho rằng: cơ quan THADS nơi đã thụ lý thi hành chỉ được
ủy thác khi xử lý xong hết tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật THADS
năm 2014 và các tài sản khác của người phải thi hành án (nếu có). Còn việc thực
hiện ủy thác theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP chỉ là cơ
sở để xác định nơi ủy thác chứ việc thỏa thuận của đương sự không phải là căn cứ
để trả lời cho câu hỏi có được ủy thác hay không. Những người ủng hộ cho quan
điểm này không đưa ra cơ sở pháp lý cụ thể. Tuy nhiên, họ đang dựa trên tư duy
pháp lý theo hướng do không có quy định pháp luật nào hướng dẫn, cho phép
CQTHA được ủy thác trong trường hợp nơi thụ lý ban đầu vẫn đang có điều kiện thi
hành án nên CQTHA không được ủy thác thi hành án cho nơi khác.
Để hiểu rõ hơn việc áp dụng pháp luật của các quan điểm trên vào thực tế,
chúng ta xem xét cách giải quyết trong tình huống sau:
60
Bản án huyện N tuyên: buộc ông A phải trả cho Ngân hàng B số tiền 3 tỷ đồng
và lãi suất chậm thi hành án thời hạn trả nợ là ngày 20/9/2019. Trường hợp, đến
hạn mà ông A không trả hoặc không trả đủ số nợ cho Ngân hàng B thì Ngân hàng
có quyền yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền xử lý các tài sản bảo đảm của ông
A để thi hành án.
Tài sản thế chấp của ông A gồm:
Nhà đất tại huyện N trị giá khoảng 1,200 tỷ đồng; Nhà đất tại huyện H trị giá
khoảng 1,2 tỷ đồng; Nhà đất tại huyện M trị giá khoảng 800 triệu đồng
Khi Chi cục THADS huyện N đang xử lý tài sản tại đây thì tài sản này phát sinh
tranh chấp và các bên đã khởi kiện ra Tòa án.
Để giải quyết tình huống trên:
- Cách giải quyết theo quan điểm thứ nhất: CHV Chi cục huyện N thông báo
cho đương sự thỏa thuận về nơi ủy thác để tiếp tục tổ chức thi hành án. Nếu các bên
thỏa thuận được nơi sẽ tiếp tục xử lý, thì CQTHA sẽ ủy thác về nơi đó. Nếu các bên
đương sự không thỏa thuận được thì CQTHA sẽ ủy thác về nơi có giá trị tài sản lớn
là Chi cục THADS huyện H để tiếp tục tổ chức thi hành.
- Cách giải quyết theo quan điểm thứ hai: Chờ đến khi có kết quả giải quyết
của Tòa án, xử lý tài sản tại huyện N xong mới tiến hành thực hiện việc ủy thác.
Chúng tôi cho rằng cách giải quyết theo quan điểm thứ nhất sẽ có hiệu quả vì không
phải kéo dài thời gian thi hành án, đảm bảo quyền lợi cho đương sự. Tuy nhiên, nó
lại không phù hợp với quy định của pháp luật (Không có quy định pháp luật nào
hướng dẫn được ủy thác trong trường hợp này). Trên thực tế thì hầu hết ý kiến của
các Kiểm sát viên trong quá trình kiểm sát việc THADS cũng không đồng tình với
quan điểm này. Đồng thời, thường thi nơi nhận ủy thác cũng sẽ trả lại hồ sơ ủy thác
vì họ cho rằng tại Chi cục thi hành án huyện N vẫn có tài sản, vẫn có điều kiện thi
hành án.
Đối với cách giải quyết theo quan điểm thứ hai chúng tôi cho rằng đây là cách
giải quyết phù hợp với các quy định của pháp luật về thi hành án hiện nay. Tuy
nhiên, trong trường hợp đương sự có tài sản ở nhiều nơi thì việc thi hành án sẽ
61
không có hiệu quả đặc biệt là khi tài sản đang xử lý có tranh chấp như trong trường
hợp này vì vậy sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của đương sự.
Như vây, cả hai cách giải quyết theo hai quan điểm trên đều có những khó
khăn, vướng mắc khi thực hiện.
Thứ bảy, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các quy định tại Nghị định
62/2015/NĐ-CP
- Trong việc thực hiện ủy thác thi hành án tại theo quy định tại Điều 16 Nghị
định 62/2015/NĐ-CP còn một số nội dung chưa thống nhất với Luật THADS, theo
đó: Điều 55 Luật THADS quy định: Thủ trưởng cơ quan THADS phải ủy thác thi
hành án cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú
hoặc có trụ sở. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP hướng
dẫn thi hành Luật THADS quy định: có thể ủy thác cho cơ quan THADS nơi có tài
sản tổ chức thi hành là chưa phù hợp dẫn đến việc áp dụng tùy nghi, không thống
nhất, đòi hỏi cần sửa đổi bổ sung kịp thời để áp dụng đồng bộ.
- Tại điểm c khoản 2 Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định “trường
hợp tài sản không đủ để thi hành án thì ủy thác đến nơi có tài sản giá trị lớn nhất,
nơi có nhiều tài sản nhất”. Tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể ủy thác đến đâu trong
trường hợp có cả “nơi có tài sản giá trị lớn nhất” và “nơi có nhiều tài sản nhất”.
Trong khi đó, tổng giá trị tài sản mới là điều cần quan tâm.
- Nội dung khoản 2 Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP đang xem xét về thứ tự
thực hiện ủy thác chứ không phải về căn cứ để ủy thác. Do đó, đoạn “trường hợp tài
sản không đủ để thi hành án thì ủy thác” là không cần thiết và không phù hợp khi
quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP.
- Trước khi ủy thác, cơ quan THADS phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ,
tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác (khoản 1 Điều 57 Luật
THADS). Tuy nhiên, có nhiều trường hợp tài sản tại nơi ủy thác đang có tranh chấp,
đã được tòa án thụ lý nhưng người phải thi hành án vẫn còn tài sản ở các địa
phương khác. Hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về trường hợp này;
- Hiện nay, pháp luật quy định trước khi ủy thác thì cơ quan THADS phải thu
62
hồi quyết định thi hành án. Trong trường hợp này, sẽ có khoảng trống trong thời
gian cơ quan nhận ủy thác chưa nhận được quyết định ủy thác và chưa ra quyết định
mới. mà pháp luật
- Theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính
phủ quy định hồ sơ thi hành án phải thể hiện toàn bộ quá trình tổ chức thi hành án
của CHV đối với việc thi hành án, lưu giữ tất cả các tài liệu đã, đang thực hiện và
được lưu trữ theo quy định của pháp luật về lưu trữ.
Theo quy định trên thì hồ sơ ủy thác được đưa vào lưu trữ khi cơ quan
THADS ủy thác nhận được văn bản của cơ quan THADS nhận ủy thác thông báo về
việc nhận được quyết định ủy thác. Tuy nhiên, một số cơ quan nhận ủy thác thi
hành án không trả lại hoặc chậm thông báo ủy thác cho CQTHA kịp thời vì vậy làm
ảnh hưởng đến kết quả thi hành án và chậm hoặc không thực hiện được việc lưu trữ
hồ sơ thi hành án theo quy định.
3.1.2.2. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
Bên cạnh những kết quả thì việc ủy thác THADS vẫn còn gặp không ít khó
khăn, vướng mắc như nêu trên và nguyên nhân dẫn đến thực hiện ủy thác THADS
còn nhiều khó khăn, vướng mắc là do:
Thứ nhất, do bất cập của các quy định pháp luật
+ Một số quy định pháp luật ủy thác thi hành án chưa hoàn thiện, còn mâu
thuẫn và chưa thực sự phù hợp khi áp dụng vào thực tiễn. Mặt khác, nhà làm luật
chưa kịp thời bổ sung, hoàn thiện các văn bản hướng dẫn dẫn tới cách hiểu khác
nhau khi áp dụng (những bất cập của pháp luật thi hành án dân sự đã được đề cập
trong mục 3.1.1.2. khó khăn, vướng mắc).
Thứ hai, do chất lượng bản án, quyết định dân sự chưa bảo đảm
Có thể khẳng định hoạt động THADS xuất phát và gắn liền với hoạt động xét
xử của Tòa án. Xét xử và thi hành án là hai mặt của quá trình bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự. Xét xử là tiền đề của thi hành án, không có xét xử thì
không có thi hành án. Ngược lại, thi hành án tiếp nối với xét xử làm cho bản án,
quyết định có hiệu lực trên thực tế nên có tác dụng củng cố kết quả xét xử. Do vậy,
63
một bản án, quyết định được tuyên đầy đủ, rõ ràng, chính xác, phù hợp thực tế, là
cơ sở để đảm bảo hiệu quả của hoạt động THADS, ngược lại, nếu tuyên không
chính xác, không đầy đủ, rõ ràng hoặc không phù hợp tình hình thực tế, sẽ gây khó
khăn rất lớn cho hoạt động THADS, nhiều trường hợp bế tắc, không thi hành được.
Trong thời gian qua, TANDTC đã thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng bản án, quyết định của Tòa án. Đó là việc xây dựng Nghị quyết số
01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/1/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành
một số biểu mẫu trong tố tụng dân sự và Nghị quyết số 02/2017/NQ-HĐTP ngày
13/1/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ban hành một số biểu mẫu trong tố
tụng hành chính; Công văn số 155/TANDTC-PC về việc áp dụng thống nhất về thể
thức và kỹ thuật trình bày các văn bản tố tụng. Từ ngày 1/7/2017, các bản án, quyết
định của TAND các cấp theo quy định tại Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP của
Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao được công bố trên Cổng thông tin điện tử của
Tòa án. Để thực hiện có hiệu quả quy định trên, TAND tối cao đã tổ chức Hội nghị
trực tuyến tập huấn viết bản án cho Thẩm phán, Thẩm tra viên TAND các cấp tại
gần 800 điểm cầu. Hội nghị tập huấn là cơ hội để các Thẩm phán, Thẩm tra viên
trong toàn quốc trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm trong việc viết bản án nhằm hạn chế
khắc phục những tồn tại, bất cập trong thời gian vừa qua.
Tuy nhiên, theo TAND tối cao, hiện nay còn không ít những bản án viết cẩu
thả, không thống nhất theo mẫu hướng dẫn, không phản ánh hết các hoạt động tố
tụng trong quá trình giải quyết vụ án cũng như kết quả tranh tụng. Một số bản án
còn sai sót về văn phong, chính tả, nhận định không sâu sắc, lập luận thiếu chặt chẽ,
thậm chí có bản án giữa phần nhận định và phần quyết định còn mâu thuẫn với nhau
dẫn đến khó khăn cho công tác thi hành án nói chung và ủy thác thi hành án nói
riêng, vì vậy cần phải nâng cao chất lượng của bản án, quyết định dân sự có hiệu
lực pháp luật [Phương Nam, Nâng cao chất lượng bản án, quyết định của Tòa
án tại chuyên mục Tòa án của Báo điện tử Công lý].
Thứ ba, do tổ chức, bộ máy còn bất cập, vướng mắc
+ Khối lượng công việc thi hành án nói chung, việc nhận ủy thác cũng như
64
giao ủy thác đến CQTHA khác ở địa bàn thành phố Hồ Chí Minh lớn, phức tạp
kèm theo sức ép của số lượng bản án, quyết định dân sự đã tuyên có hiệu lực thi
hành ngày càng gia tăng, công tác tổ chức cán bộ bị phụ thuộc vào chỉ tiêu biên
chế dần tinh giản, số lượng cán bộ, CHV tại CQTHA hai cấp chưa thực sự đáp
ứng yêu cầu công tác thi hành án dân sự.
Thứ tư, do đội ngũ CHV và cán bộ cơ quan thi hành chưa đáp ứng được yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ
- Do chất lượng CHV và cán bộ tại các cơ quan THA không đồng đều
Bên cạnh số ít những CHV và cán bộ có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng
chuyên môn nghiệp vụ, cơ cấu cán bộ đang có xu hướng trẻ hóa, khó đáp ứng ngay
lập tức vấn đề về kinh nghiệm, kỹ năng thi hành án dân sự cũng như ủy thác thi
hành án dân sự. Tuy nhiên, các CQTHA chưa có kế hoạch cụ thể tận dụng nguồn
nhân lực tại chỗ, đào tạo, giúp đỡ nâng cao trình độ cho đội ngũ này.
- Do hạn chế về năng lực, trình độ và kỹ năng nghiệp vụ của CHV, cán bộ
làm công tác thi hành án
Năng lực, trình độ và kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng soạn thảo, phân tích, tổng
hợp, nghiên cứu hồ sơ và bản án, quyết định để thi hành và giải quyết tình huống
phát sinh của một số CHV trong ủy thác thi hành án còn hạn chế, đặc biệt trong việc
xử lý các tình huống liên quan đến tài sản ở nhiều nơi, nghĩa vụ tài sản liên đới...
Khi thực hiện các thủ tục ủy thác thi hành án dân sự, CHV chưa đầu tư thời gian;
chưa bám sát thủ tục tố tụng, chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong công việc;
nghiên cứu văn bản pháp luật cũng như các tình tiết cụ thể không kỹ, bỏ sót hoặc
không tuân thủ quy trình nghiệp vụ.
- Do sự trang bị kiến thức pháp luật chưa tốt của CHV, cán bộ làm công tác
thi hành án
Một số CHV, cán bộ làm công tác thi hành án thiếu sự chủ động thời gian
cập nhật các quy định pháp luật, không kịp thời nắm bắt được các văn bản mới liên
quan đến pháp luật thi hành án dân sự dân sự, pháp luật tố tụng dân sự và pháp luật
có liên quan để phục vụ quá trình ủy thác thi hành án dân sự khiến cho việc áp
65
dụng pháp luật khi gặp không ít khó khăn.
Thứ năm, do sự phối hợp chưa hiệu quả
- Sự phối hợp giữa CQTHA và Tòa án nhân dân ở một số nơi chưa hiệu quả,
dẫn đến việc thi hành án và ủy thác thi hành án chưa tốt.
- Sự phối hợp giữa trong ngành (giữa CQTHA ủy thác và CQTHA nhận ủy
thác; giữa CQTHA cấp trên và cấp đưới; giữa CHV với Thủ trưởng CQTHA…) còn
chưa chặt chẽ, đôi khi còn áp đặt theo nguyên tắc “thủ trưởng chế”. Nhiều trường
hợp có sự đùn đẩy trách nhiệm giữa, công tác thỉnh thị và trả lời thỉnh thị còn “e
dè”, chưa đạt hiệu quả. Nhiều trường hợp CHV cấp huyện yêu cầu thỉnh thị nhưng
cấp trên kéo dài thời hạn trả lời hoặc phải thỉnh thị nhiều lần mới có hướng dẫn thực
hiện. Mặt khác, tại đơn vị, trong quá trình thực hiện, một số CHV chưa chủ động
trong báo cáo đề xuất để xác minh điều kiện thi hành án hoặc đề xuất ủy thác…
phải để Lãnh đạo nhắc nhở, ngược lại, có trường hợp Lãnh đạo phó mặc việc
nghiên cứu bản án, quyết định phải thi hành cho CHV và chỉ nghe báo cáo, không
đọc hồ sơ.
Thứ sáu, do chưa đáp ứng về cơ sở vật chất và chế độ chính sách cho CHV,
cán bộ khi làm việc
CQTHA thành phố Hồ Chí Minh với bộ máy hoạt động lớn gồm nhiều đơn vị
trực thuộc, thực tế đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc bố trí xây dựng trụ sở, đáp
ứng các vấn đề về trang thiết bị phục vụ công việc. Nhiều CQTHA dân sự cấp huyện
hiện vẫn đang phải ở các cơ sở tạm bợ, trật trội, thiếu không gian cho công chức tập
trung tinh thần làm việc. Việc cấp phát trang thiết bị đặc biệt là máy tính và máy in
chưa đảm bảo về số lượng và chất lượng, một số cán bộ, công chức phải dùng chung
hoặc tự chuẩn bị. Về chế độ chính sách, đối với cán bộ, công chức ngành thi hành án,
vấn đề lương, thưởng, phụ cấp chưa được cải thiện trong khi áp lực công việc lớn.
Đối với các CHV có chuyên môn cao, hiện không có đãi ngộ đặc biệt nào, cơ hội
thăng tiến trong công việc không cao, khó thu hút những người có trình độ, năng lực.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về ủy thác thi hành
án dân sự tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian tới
66
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, hoàn thiện Luật thi hành án dân sự năm 2014
Thứ nhất, hoàn thiện các quy định về căn cứ ủy thác thi hành án
- Do pháp luật chưa quy định trường hợp người thi hành án phải thi hành các
khoản tiền tạm ứng án phí, trả lại tiền, tài sản cho đương sự trong trường hợp thi
hành án chủ động dẫn đến khó khăn trong thực tiễn áp dụng, do vậy, cần có quy
định bổ sung trường hợp nội dung phải thi hành là hoàn tiền tạm ứng án phí, trả lại
tiền, tài sản cho đương sự trong trường hợp thi hành án chủ động. Theo đó, cơ
quan THADS ủy thác về địa phương nơi đang tạm giữ tiền, tài sản của đương sự để
tiếp tục tổ chức thi hành.
- Liên quan đến câu hỏi CQTHA nơi có tài sản có được thực hiện việc ủy thác
ngay cho nơi khác không khi giá trị tài sản ước tính không đủ để thi hành án, nếu có
thì ủy thác toàn bộ nghĩa vụ hay ủy thác một phần nghĩa vụ và việc tính phí thi hành
án đối với người phải thi hành án sẽ được giải quyết như thế nào giữa các CQTHA
nơi ủy thác và nơi nhận ủy thác? Tác giả đề xuất cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề
này, theo hướng:
Khi giá trị tài sản ước tính không đủ để thi hành án thì cần phải ra quyết định
thu hồi quyết định thi hành án và xác minh điều kiện thi hành án để ủy thác đến nơi
nhận ủy thác có điều kiện thi hành án tốt nhất (nơi người phải thi hành án có tài sản,
làm việc, cư trú hoặc có trụ sở) và đương nhiên trong trường hợp này cần quy định
ủy thác toàn bộ việc thực hiện nghĩa vụ, đối với phần đã thi hành thì cơ quan thi
hành án bên ủy thác sẽ bàn giao cho kết quả bên nhận ủy thác và việc tính phí sẽ chỉ
áp dụng đối với cơ quan nhận ủy thác.
- Nhằm hạn chế sai sót trong việc ủy thác THA, Luật cần quy định căn cứ,
trách nhiệm và thẩm quyền để xác định giá trị tài sản cao nhất, ai là người phải chịu
chi phí thẩm định giá để biết giá trị tài sản cao nhất để ủy thác
Thứ hai, đối với việc xác định nơi nhận thực hiện ủy thác THADS trong
trường hợp người phải thi hành án có cả nơi thường trú và nơi tạm trú
Đối với trường hợp người phải thi hành án có cả nơi thường trú và nơi tạm trú,
67
Bộ Tư pháp cần có văn bản hướng dẫn khoản 1 Điều 55 Luật THADS năm 2014
theo hướng: thống nhất ủy thác trực tiếp đến nơi tạm trú trước. Cơ quan THADS tại
nơi tạm trú của người phải thi hành án nhận thấy có cơ sở để thi hành án thì sẽ tiếp
tục thi hành hoặc nhận thấy có điều kiện thi hành án tại nơi thường trú thì sẽ ủy
thác đến nơi đăng ký thường trú để tránh tình trạng ủy thác lòng vòng hoặc theo
cảm tính của Chấp hành viên, dẫn đến mất thời gian, chi phí của Nhà nước cũng
như ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Đồng thời,
để việc ủy thác đúng pháp luật và có cơ sở chấm dứt ủy thác lòng vòng nên quy
định nguyên tắc: trong trường hợp ủy thác đến nơi thường trú của người phải thi
hành án mà không phát hiện được nơi ở mới thì phải giữ lại hồ sơ không được trả
lại hồ sơ hoặc ủy thác thiếu căn cứ.
Từ những phân tích nêu trên, thiết nghĩ Bộ Tư pháp cần có văn bản hướng
dẫn đối với trường hợp người phải thi hành án đang chấp hành án tại trại giam, cụ
thể là khoản 1 Điều 55 Luật THADS theo hướng: Thủ trưởng cơ quan THADS phải
uỷ thác thi hành án cho cơ quan THADS nơi người phải thi hành án có tài sản, làm
việc, cư trú, có trụ sở hoặc cơ quan THADS nơi có trại giam mà người phải thi
hành án đang chấp hành.
Hướng giải quyết này, không chỉ giảm bớt áp lực công việc cho cơ quan
THADS mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho người phải thi hành án cũng như thân
nhân của họ trong việc thực hiện nghĩa vụ, giúp tiết kiệm công sức, nguồn lực, chi
phí cho Nhà nước và công dân. Bởi, theo Điều 128 Luật THADS và Điều 3, Điều 4
Thông tư số 07/2013/TTLT/BTP-BCA-BTC quy định trách nhiệm của Giám thị trại
giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện và Thủ trưởng cơ
quan THADS như sau:
Giám thị trại giam, Thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự phải thông báo cho
cơ quan THADS nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm họ, tên, địa chỉ của phạm nhân là
người phải THADS hoặc phạm nhân là người được THADS theo bản án hình sự,
trong thời gian 15 ngày kể từ ngày tiếp nhận phạm nhân vào trại giam. Giám thị trại
giam, Thủ thưởng cơ quan thi hành án hình sự có trách nhiệm tiếp nhận tiền, giấy tờ
68
mà phạm nhân là người phải THADS hoặc thân nhân của họ tự nguyện nộp.
Chuyển giao tiền, giấy tờ và trích sao giấy tờ liên quan gửi cơ quan THADS đã
chuyển giao quyết định THADS hoặc cơ quan THADS nơi Tòa án đã xét xử sơ
thẩm.
Thủ trưởng cơ quan THADS gửi quyết định THADS, quyết định ủy thác
THADS cho trại giam, cơ quan thi hành án hình sự nơi phạm nhân là người phải
THADS đang chấp hành án. Trường hợp cơ quan THADS ủy thác cho cơ quan
THADS khác thì phải thông báo bằng văn bản cho trại giam, cơ quan thi hành án
hình sự nơi phạm nhân đang chấp hành án biết về việc ủy thác THADS; kết quả
THADS.
Đồng thời, theo khoản 5 Điều 30 Luật Cư trú năm 2006 thì trường hợp người
đã đăng ký tạm trú nhưng không sinh sống, làm việc, lao động, học tập từ sáu tháng
trở lên tại địa phương đã đăng ký tạm trú thì cơ quan đã cấp sổ tạm trú phải xóa tên
người đó trong sổ đăng ký tạm trú. Do đó, việc ủy thác về nơi cư trú của người phải
thi hành án là không đạt hiệu quả, ý nghĩa trên thực tế.
Việc ủy thác cho cơ quan THADS nơi có trại giam mà người phải thi hành án
đang chấp hành hình phạt tù sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơ chế phối hợp giữa cơ
quan THADS và trại giam nơi người phải thi hành án đang chấp hành. Bảo đảm
nghĩa vụ THADS được thu đúng, thu đủ, kịp thời và giúp chấp hành viên giải quyết
nhanh chóng hồ sơ.
Thứ ba, việc xác định nơi nhận ủy thác trong trường hợp thi hành nghĩa vụ
liên đới
Để xác định nơi nhận ủy thác trong trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới, cần
quy định cụ thể: khi có nhiều người phải thi hành nghĩa vụ liên đới cùng có điều
kiện thi hành thì quyền được thể hiện ý chí của người được thi hành án bởi việc ủy
thác đến nơi có điều kiện của người phải thi hành án sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền, lợi ích thực tế của người được thi hành án.
Vì vậy, Bộ tư pháp nên có văn bản hướng dẫn khoản 2 Điều 55 Luật THADS
theo hướng: Trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư
69
trú hoặc có tài sản ở các địa phương khác nhau thì Thủ trưởng cơ quan THADS ủy
thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến cơ quan THADS sau: Theo ý chí của người
được thi hành án. Trường hợp sau khi được Chấp hành viên giải thích về quyền
được thể hiện ý chí nhưng người được thi hành án không thể hiện ý chí của mình về
việc ủy thác thi hành án thì cơ quan THADS ủy thác về nơi có tài sản đủ để thi hành
án. Trường hợp tài sản không đủ để thi hành án thì ủy thác đến nơi có tài sản giá trị
lớn nhất, nơi có nhiều tài sản nhất.
Bởi, nguyên tắc tự do, tự nguyện, cam kết, thỏa thuận là nguyên tắc đặc
trưng của pháp luật dân sự. Việc cho người được thi hành án quyền được lựa chọn
nơi có điều kiện ủy thác trong trường hợp có nhiều người cùng có nghĩa vụ liên đới
bồi thường có tài sản ở nhiều địa phương khác nhau (đối với thi hành án theo yêu
cầu) sẽ tránh được suy nghĩ chủ quan của người được thi hành án về việc áp đặt của
cơ quan quyền lực nhà nước, tạo tâm lý thoải mái, hạn chế tối đa các khiếu nại, tố
cáo không đáng có trong quá trình thi hành án. Tránh được việc ủy thác tùy tiện, ủy
thác theo ý chí chủ quan của chấp hành viên trong quá trình tác nghiệp thi hành án,
gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án. Đồng thời,
việc quy định cụ thể nơi nhận ủy thác trong trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới là
nơi có tài sản đủ để thi hành án, hoặc nơi có tài sản giá trị lớn nhất, nơi có nhiều tài
sản nhất (đối với trường hợp tài sản không đủ để thi hành) sẽ hạn chế sự tùy tiện,
cảm tính trong quá trình tác nghiệp thi hành án của Chấp hành viên so với quy định
hiện hành là: ủy thác đến cơ quan THADS thuộc một trong các địa phương nơi
người phải thi hành án có điều kiện thi hành án. Tránh tình trạng người phải thi
hành án có tài sản một nơi mà cơ quan THADS lại ủy thác về nơi người phải thi
hành án không có tài sản, hoặc tài sản không đủ thi hành án, để người phải thi hành
án khác kịp thời tẩu tán tài sản.
Ngoài ra, để tránh tình trạng tẩu tán tài sản trong trường hợp cùng có nhiều
nơi có điều kiện thi hành nghĩa vụ liên đới thì cơ quan THADS cần xem xét thực
hiện: đối với tài sản là bất động sản thì cần ủy thác ngay khi có điều kiện ủy thác;
đối với tài sản là động sản do sẽ dễ dàng bị tẩu tán trong thời gian các cơ quan
70
THADS thực hiện việc ủy thác và nhận ủy thác nên cần áp dụng theo hướng cơ
quan THADS đang tổ chức thi hành có thể áp dụng các biện pháp bảo đảm như: gửi
trước văn bản cho các cơ quan có trách nhiệm phối hợp thực hiện (như Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất nếu tài sản là nhà đất hay Phòng cảnh sát giao thông nếu
tài sản là xe ô tô…) để kịp thời ngăn chặn các trường hợp tài sản phải kê biên, đảm
bảo việc thi hành án bị đem ra giao dịch hoặc tẩu tán sau đó mới gửi hồ sơ ủy thác
thi hành án.
Thứ tư, việc thanh toán tiền thi hành án thu theo quyết định cưỡng chế trong
trường hợp phải ủy thác
Để giải quyết quyền lợi của người được thi hành án, đối với trường hợp thanh
toán tiền cho người được thi hành (người thứ 03) do nhận ủy thác thì cần có văn bản
hướng dẫn chia ra các trường hợp. Cụ thể:
- Trường hợp nhận được quyết định ủy thác nhưng cơ quan thi hành án chưa
chi tiền thi hành án thì căn cứ vào quyết định thi hành án ban đầu, nếu quyết định
thi hành án ban đầu có trước khi ra quyết định cưỡng chế thì cơ quan THADS thanh
toán tiền cho tất cả những người được thi hành án.
- Trường hợp nhận được quyết định ủy thác nhưng cơ quan thi hành án đã chi
tiền thi hành án, nếu còn tiền thi hành án thì cơ quan thi hành án căn cứ vào quyết
định thi hành án ban đầu: Nếu quyết định thi hành án ban đầu có trước khi ra quyết
định cưỡng chế thì cơ quan THADS thanh toán tiền cho người được thi hành án
(người thứ 3).
Số tiền còn lại mới thanh toán cho những người được thi hành án theo các
quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán. Nếu quyết định thi hành
án ban đầu có sau quyết định cưỡng chế thì người được thi hành án (người thứ 3)
được thanh toán theo quy định “thanh toán cho những người được thi hành án theo
các quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán”.
Thứ sáu, cần tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung chế định về ủy thác thi hành
án trong Luật THADS để ngày càng hoàn thiện hơn với mục tiêu cao nhất là bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thi hành
71
án. Đồng thời phải giảm thiểu được các trình tự, thủ tục rườm rà không đáng có và
để thống nhất trong nhận thức và áp dụng về quy định các căn cứ thực hiện ủy thác.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành
Hiện nay, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật THADS năm 2014 có nhiều
văn bản nhưng trung tâm vẫn là quy định của Nghị định 62/2015/NĐ-CP, tuy nhiên,
quá trình áp dụng vào thực tiễn, một số quy định của Nghị định đã bất cập và chưa
giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành, vì vậy, cần
phải sửa đổi, bổ sung như sau:
Thứ bảy, hoàn thiện các quy định tại Nghị định 62/2015/NĐ-CP
- Để khắc phục bất cập giữa Điều 55 Luật THADS và khoản 1 Điều 16 Nghị
định 62/2015/NĐ-CP, cần sửa đổi khoản 1, Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP
theo hướng khẳng định “phải” ủy thác theo quy định tại Điều 55 Luật THADS. Bên
cạnh đó, để đảm bảo việc thi hành án kịp thời, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành
án, Nghị định sửa đổi Nghị định 62/2015/NĐ-CP cũng cần quy định rõ cơ quan
THADS có thể căn cứ vào bản án, quyết định được thi hành hoặc kết quả xác minh
để làm cơ sở cho việc ủy thác (có thể không cần ra quyết định thi hành án mà ủy
thác thẳng trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã xác định rõ địa chỉ,
nơi cư trú, nơi có tài sản của người phải thi hành án).
- Cần sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 62/2015/ND-CP trong
trường hợp có cả “nơi có tài sản giá trị lớn nhất” và “nơi có nhiều tài sản nhất” theo
hướng ủy thác đến nơi có giá trị tài sản lớn nhất. Ngoài ra, khoản 2 Điều 16 nên bỏ
cụm từ “trường hợp tài sản không đủ để thi hành án thì ủy thác”.
- Để đảm bảo việc thi hành án kịp thời, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành
án, Nghị định sửa đổi Nghị định 62/2015/NĐ-CP cũng cần quy định rõ cơ quan
THADS có thể căn cứ vào bản án, quyết định được thi hành hoặc kết quả xác minh
để làm cơ sở cho việc ủy thác (có thể không cần ra quyết định thi hành án mà ủy
thác thẳng trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã xác định rõ địa chỉ,
nơi cư trú, nơi có tài sản của người phải thi hành án).
- Đối với trường hợp trước khi ủy thác, khi cơ quan THADS xử lý tài sản tạm
72
giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản ủy thác mà xuất hiện
những trường hợp tài sản tại nơi ủy thác đang có tranh chấp, đã được tòa án thụ lý
nhưng người phải thi hành án vẫn còn tài sản ở các địa phương khác, cần phải có
quy định về việc ủy thác để xử lý đối với những tài sản này để đảm bảo thi hành án
hiệu quả, rút ngắn thời gian tổ chức thi hành án, vì vậy cần bổ sung quy định theo
hướng:
“Trường hợp tài sản đang xử lý để thi hành án nhưng có tranh chấp và đã
được tòa án thụ lý giải quyết mà đương sự có tài sản ở địa phương khác thì ủy thác
đến cơ quan THADS nơi có tài sản để thi hành án”.
Đồng thời quy định trách nhiệm để các cơ quan ủy thác và nhận ủy thác phải
thường xuyên thông tin trao đổi để biết về kết quả tổ chức thi hành án của nhau để
phối hợp và xử lý tài sản cho phù hợp.
- Hiện nay, pháp luật quy định thì phải. Đối với trường hợp cơ quan THADS
thu hồi quyết định thi hành án trước khi ủy thác, nhằm khắc phục việc tẩu tán tài
sản và khoảng trống trong thời gian cơ quan nhận ủy thác chưa nhận được quyết
định ủy thác và chưa ra quyết định mới, cần quy định rõ hiệu lực của các quyết định
áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, quyết định tạm hoãn xuất cảnh đối với
người phải thi hành án đã được ban hành (nếu có) để tránh trường hợp đương sự
cho rằng quyết định thi hành án đã được thu hồi thì các quyết định kèm theo cũng
hết hiệu lực để tẩu tán tài sản.
Vì vậy, cần sửa đổi khoản 4, Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP theo hướng:
Các quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, quyết định tạm hoãn xuất
cảnh và các quyết định về thi hành án khác liên quan đến khoản ủy thác có hiệu lực
cho đến khi có quyết định thay thế của cơ quan nhận ủy thác. Quyết định thay thế
trong trường hợp này là các quyết định liên quan đến việc xử lý hoặc không xử lý tài
sản, duy trì hoặc giải tỏa việc tạm hoãn xuất cảnh…của cơ quan nhận ủy thác.
3.2.2. Giải pháp về tổ chức và bảo đảm thi hành pháp luật về ủy thác thi
hành án dân sự
Thứ nhất, nâng cao chất lượng bản án, quyết định
73
Để nâng cao chất lượng bản án, quyết định dân sự, Ngành Tòa án nhân dân
cần phải:
- Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục hoàn thiện các mẫu bản án, quyết định dân
sự; nghiên cứu, xây dựng các giáo trình đào tạo chuyên sâu về kỹ năng viết từng
loại bản án, quyết định (từng nhóm quan hệ pháp luật trong vụ việc dân sự).
- Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục tổ chức các hội nghị tập huấn về kỹ năng
viết bản án, quyết định cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, trong đó tập
trung vào những hướng dẫn mới về bản án, quyết định như: Lập luận, nhận định, áp
dụng, viện dẫn án lệ. Nghiên cứu, xây dựng “Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng của
bản án, quyết định của Tòa án”. Nghiên cứu, xây dựng tiêu chí thi đua khen thưởng
đối với các Thẩm phán có những bản án, quyêt định có tính chuẩn mực để khuyến
khích Thẩm phán tự trau dồi, nâng cao kỹ năng viết bản án và kịp thời động viên
các Thẩm phán có nhiều bản án, quyết định có tính chuẩn mực.
- Đối với các Tòa án khác, trong đó có TAND Thành phố Hồ Chí Minh tổ
chức quán triệt nhằm thực hiện đúng các hướng dẫn về mẫu bản án, quyết định;
nâng cao nhận thức, trách nhiệm của Thẩm phán đối với chất lượng của bản án,
quyết định được ban hành. Định kỳ hàng quý/năm tổ chức các hội nghị tập huấn
viết bản án cho các Thẩm phán thuộc quyền quản lý; tổ chức các cuộc họp chuyên
đề hoặc kết hợp trong nội dung giao ban để tổng kết, rút kinh nghiệm đối với những
sai sót trong việc viết bản án, quyết định của Thẩm phán.
- Các Tòa án cần chủ động góp ý về những điểm chưa phù hợp trong các
mẫu bản án do TAND tối cao ban hành để sửa đổi, hoàn thiện và áp dụng chung
trong toàn hệ thống. Tổ chức phong trào thi đua về viết bản án, quyết định tại đơn vị
và có hình thức khen thưởng phù hợp với các Thẩm phán thực hiện tốt nội dung
này; đồng thời cũng cần xác định trách nhiệm đối với các Thẩm phán có nhiều bản
án không đạt yêu cầu [Phương Nam, Nâng cao chất lượng bản án, quyết định
của Tòa án tại chuyên mục Tòa án của Báo điện tử Công lý].
Thứ hai, kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ quan thi hành án dân sự
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì:“Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”,
74
“công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đối với lĩnh vực
thi hành án dân sự cũng vậy, cán bộ có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện có
hiệu quả hay không hiệu quả nhiệm vụ chính trị của ngành. Thực tiễn cho thấy,
trong những năm gần đây, công tác cán bộ của ngành thi hành án dân sự được Đảng
và Nhà nước đặc biệt quan tâm, đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan thi hành án dân
sự đã có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhờ đó, đã góp phần từng
bước nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự ở nước ta, bảo đảm cho bản
án, quyết định của Tòa án được chấp hành, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật
và pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
và Nhà nước, góp phần giữ vững ổng định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực,
hiệu quả của bộ máy Nhà nước.
Công tác THADS ngày càng có chuyển biến tích cực và đạt được những kết
quả quan trọng: Kết quả thi hành án xong về việc, về tiền năm sau cao hơn năm
trước và ngày càng thực chất, bền vững.
- Năm 2018: về việc, tổng số thụ lý là 927.249 việc, tăng 44.512 việc (5,04%)
so với năm 2017. Tổng số phải thi hành là 914.083 việc, trong đó số có điều kiện thi
hành là 711.990 việc (77,89%). Kết quả, thi hành xong hơn 34 nghìn tỷ đồng, đạt tỷ
lệ 38,35%.
Những kết quả đạt được nêu trên đã góp phần tích cực bảo đảm tính nghiêm
minh của pháp luật; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức và cá nhân; giải phóng các nguồn lực kinh tế, bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mô; cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Báo cáo công tác Thi hành
án năm 2018 của Chính phủ trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 vừa qua đã được các
Đại biểu Quốc hội ghi nhận.
Về công tác tổ chức cán bộ, đã hoàn thành Kỳ thi nâng ngạch CHV, Thẩm tra
viên, thi tuyển CHV sơ cấp. Hiện toàn quốc có 4.112 CHV; 729 Thẩm tra viên và
1.791 Thư ký thi hành án. Công tác đào tạo, bồi dưỡng tiếp tục được quan tâm, chú
trọng với việc tổ chức 15 lớp bồi dưỡng cho các đối tượng.
- Năm 2019: Trong bối cảnh, số việc và tiền thụ lý mới tiếp tục tăng cao, tăng
75
24.200 việc và tăng trên 65.509 tỷ đồng (97,14%), song Tổng cục đã chỉ đạo các cơ
quan THADS địa phương tập trung, nỗ lực tổ chức thi hành án để đạt và vượt chỉ
tiêu đã đề ra; với tỉ lệ 78,59% về việc và 35,43% về tiền. Số tuyệt đối thi hành xong
về tiền là trên 52.715 tỷ, tăng trên 18.207 tỷ đồng (tương ứng 52,77%), đây là kết
quả cao nhất từ trước đến nay và đã được ghi nhận là một trong 10 sự kiện nổi bật
năm 2019 của ngành Tư pháp.
Công tác xây dựng đề án, văn bản tiếp tục được quan tâm triển khai thực hiện,
trong đó có việc đẩy nhanh tiến độ xây dựng các văn bản, đề án tồn đọng từ những
năm trước chuyển sang, cân nhắc kỹ tính khả thi của các văn bản, đề án khi đăng ký
mới.
Đặc biệt, Tổng cục tập trung cao độ vào việc xây dựng, ban hành các văn bản
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
THADS; chỉ đạo sâu sát, quyết liệt đối với những vụ án lớn, những vụ việc liên
quan đến tín dụng, ngân hàng, thu hồi tài sản cho Nhà nước trong các vụ án tham
nhũng; tăng cường phối hợp, tổ chức các cuộc họp liên ngành, cử các đoàn công tác
về địa phương hoặc yêu cầu các cơ quan THADS trực tiếp báo cáo để tháo gỡ khó
khăn, đưa ra hướng giải quyết vụ việc.
Tổ chức bộ máy và đội ngũ công chức của cơ quan Tổng cục, nhất là đội ngũ
lãnh đạo quản lý đã được quan tâm kiện toàn và ngày càng lớn mạnh cả về số lượng
và chất lượng, kỷ luật, kỷ cương hành chính được siết chặt và ngày càng đi vào nền
nếp; kiên quyết thay thế cán bộ quản lý có vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc hạn
chế về năng lực, trình độ nghiệp vụ. Chế định Thừa phát lại được triển khai tại 13
địa phương và đạt được những kết quả bước đầu. Các mặt công tác khác cũng đã đạt
nhiều kết quả tích cực.
Năm 2020, Tổng cục THADS xác định tiếp tục nâng cao chất lượng, tỷ lệ
THADS xong về việc và về tiền trên tổng số án có điều kiện thi hành theo quy định
mới của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS, bảo đảm kết quả
THADS, hành chính thực chất bền vững, phấn đấu năm sau cao hơn năm trước; tổ
chức thực hiện tốt Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS và các bộ
76
luật, luật liên quan đến công tác thi hành án; kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ
công chức làm công tác THADS đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, trong đó
tập trung vào những địa bàn, đơn vị còn nhiều hạn chế, yếu kém;
Triển khai tổ chức thực hiện Kế hoạch hoạt động hướng tới tổ chức kỷ niệm
74 năm Ngày truyền thống THADS (19/7/1946 - 19/7/2020) tạo không khí thi đua
sôi nổi, đảm bảo đây thực sự là đợt sinh hoạt chính trị quan trọng, rộng khắp Tổng
cục và các cơ quan THADS; đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động quản lý, chỉ đạo điều hành và trong công tác
chuyên môn nghiệp vụ, góp phần nâng cao hiệu qủa công tác THADS, tạo sự minh
bạch, công khai trong hoạt động thi hành án...
Bên cạnh những mặt đạt được đã nêu trên để kiện toàn tổ chức, bộ máy cơ
quan THADS thì toàn ngành Thi hành án tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, nhất là
đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý, tập trung vào những địa bàn, đơn vị để xảy ra
nhiều vi phạm hoặc còn nhiều hạn chế, yếu kém; công tác tuyển dụng cần lựa chọn
được những người có phẩm chất đạo đức tốt, được đào tạo bài bản; tăng cường công
tác điều động, luân chuyển, biệt phái, chuyển đổi vị trí công tác đối với Lãnh đạo,
CHV,… phù hợp với vị trí địa lý, đặc điểm vùng miền, khối lượng công việc của
các cơ quan THADS đảm bảo nguồn lực tăng cường cho các địa phương có số việc,
số tiền phải thi hành lớn, phức tạp.
Thứ ba, tăng cường năng lực, trình độ chuyên môn và đạo đức của CHV
và cán bộ của cơ quan thi hành án dân sự
CHV và cán bộ thi hành án là nhân tố quyết định hiệu quả công tác THADS.
Sự tin tưởng của nhân dân đối với hiệu lực của bản án, quyết định sau khi Tòa án
xét xử cao hay thấp, việc tổ chức thi hành án có nghiêm minh hay không đều phụ
thuộc vào công việc của họ. Báo cáo Tổng kết 10 năm công tác thi hành án của Bộ
Tư pháp đã đánh giá, đội ngũ cán bộ thi hành án hiện vừa thiếu vừa yếu, là một
thách thức lớn cho các cơ quan THADS trong cả nước. Trong khi đó, việc đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp lại đang còn nhiều hạn chế, chưa kết
hợp tốt giữa việc giảng dạy lý luận với thực tiễn, đào tạo dàn trải, thiên về số lượng,
77
phương pháp giảng dạy chưa hợp lý, thiếu cập nhật kiến thức mới, đôi khi còn thiếu
tính thực tiễn. Vì vậy, để đảm bảo năng lực tổ chức thi hành án của đội ngũ CHV và
cán bộ thi hành án, công tác đào tạo, bồi dưỡng cho họ phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục cả về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và lý luận chính trị, đạo đức
nghề nghiệp nhằm tạo ra những CHV, cán bộ thi hành án có kỹ năng nghề nghiệp
và kiến thức thực tiễn, có phẩm chất chính trị, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu
tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế XHCN.
Từ góc độ quản lý vĩ mô, Bộ Tư pháp cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng và ban
hành các văn bản hướng dẫn thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức
THADS ở địa phương, tạo cơ chế hợp lý đảm bảo tính chủ động cho các đơn vị tổ
chức tốt hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện triệt để việc phân cấp đào tạo, bồi
dưỡng cho các địa phương, hạn chế tình trạng tập trung về Bộ như hiện nay. Các địa
phương cần chủ động xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cho CHV,
cán bộ thi hành án thuộc quyền quản lý. Đồng thời, Bộ cũng phải xây dựng tiêu chí
đảm bảo chất lượng, đánh giá chất lượng sau đào tạo, bồi dưỡng; phát triển và nâng
cao chất lượng đội ngũ giảng viên đào tạo các chức danh tư pháp của Học viện Tư
pháp. Có như vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ CHV và cán bộ thi hành
án mới đi vào nề nếp, có chất lượng và có định hướng phát triển lâu dài.
Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác đào tạo nguồn bổ nhiệm CHV, bảo đảm
các CHV trước khi bổ nhiệm phải được qua đào tạo nghề. Cán bộ, chuyên viên thi
hành án là lực lượng dự nguồn để bổ nhiệm CHV, đa số hiện nay còn rất trẻ, hầu hết
được trang bị những kiến thức cơ bản, nhưng khi được tuyển chọn vào nghề thì hầu
hết đều rất yếu về hiểu biết thực tế, đặc biệt là kiến thức chuyên ngành, kỹ năng
nghề nghiệp. Chính vì vậy, sau khi được tuyển dụng, ngoài học tập lý luận họ cần
phải được đào tạo nghề trong một thời gian nhất định tại Học viện Tư pháp, để giúp
họ nhận thức tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, từ đó chủ động, tích cực giúp đỡ
CHV trong công tác thi hành án, tránh những thiếu sót, sai lầm không đáng có.
Đồng thời, giúp họ “làm mới” những kiến thức pháp luật đã được học tại chương
trình đại học luật, liên quan trực tiếp và thường xuyên đến công tác THADS, trong
78
đó đặc biệt nhấn mạnh là những nội dung về pháp luật đất đai, pháp luật thừa kế,
pháp luật hôn nhân, gia đình và pháp luật về doanh nghiệp, phá sản. Chương trình
đào tạo nguồn CHV cần tập trung đào tạo kỹ năng thi hành án, bao gồm toàn bộ quy
trình thi hành án từ khi nhận bản án, quyết định của tòa án cho đến khi kết thúc việc
thi hành án, vì đây chính là phần dạy kỹ năng nghề nghiệp cho CHV tương lai. Và
đặc biệt, cần bổ sung cho chức danh tư pháp nói chung và chức danh CHV nói riêng
một môn học mới, đó là môn “Giáo dục đạo đức và quy tắc ứng xử nghề nghiệp”.
Nội dung chủ yếu của môn học này là giới thiệu lịch sử hình thành và phát triển
nghề, nhằm cung cấp hiểu biết và khơi gợi lòng yêu nghề; giới thiệu vị trí các chức
danh tư pháp trong xã hội, nhấn mạnh những yêu cầu đối với đạo đức nghề nghiệp
của các chức danh tư pháp nói chung và của chức danh CHV nói riêng để học viên
biết những đòi hỏi của nghề là gì để chuẩn bị tư tưởng trước khi quyết định đứng
vào hàng ngũ; nêu những tấm gương tốt, điển hình để học tập, phấn đấu cũng như
công bố những trường hợp vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong thực tế đã bị xử lý
để răn đe; bố trí những buổi nói chuyện của những người đứng đầu ngành… để tiếp
thêm tinh thần cho học viên.
Cùng với việc tăng cường đào tạo nguồn bổ nhiệm CHV, cần thường xuyên
mở các lớp bồi dưỡng cho những người đã có chức danh nghề nghiệp, tức cho đội
ngũ CHV lâu năm. Đây là những người đang hành nghề CHV, nhưng thời gian
hành nghề đã có bề dày nên cần được “làm mới”, cập nhật kiến thức đã có, tránh
việc chỉ hành nghề theo kinh nghiệm, thói quen tích lũy lâu năm mà thành. Ở những
lớp bồi dưỡng này, cần giới thiệu cho học viên những nội dung mới của pháp luật
về thi hành án và pháp luật có liên quan, hoặc khẳng định lại những vấn đề đang cần
được hướng dẫn thống nhất, quán triệt lại những vấn đề có thể có vướng mắc, sai
sót trong thực tiễn áp dụng. Ví dụ như giới thiệu những điểm mới của các văn bản
pháp luật về THADS mới được ban hành (những vấn đề lý thuyết, những vướng
mắc gặp phải, những kinh nghiệm thực tế…); những vướng mắc trong nghiệp vụ
THADS (phần án dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình, lao động, phá sản…); những
vướng mắc trong nghiệp vụ THADS (phần dân sự trong vụ án hình sự, hành chính);
79
kinh nghiệm giải quyết những vụ án lớn, phức tạp, những vướng mắc và kinh
nghiệm thực tiễn trong công tác THADS; giải đáp các thắc mắc của học viên.
Do đối tượng của khóa bồi dưỡng là những người đã có nhiều kinh nghiệm
hành nghề CHV, việc giảng dạy cho các khóa học này cũng đòi hỏi có sự phù hợp.
Ở đây, không có sự thuyết trình dài dòng, tỷ mỷ, bài vở, mà là sự giới thiệu những
quy định mới và sự nhấn mạnh đến những điểm mấu chốt của từng nội dung có khả
năng học viên sẽ quan tâm nhiều nhất. Học viên sẽ sử dụng tài liệu viết để nghiên
cứu sau khi trở về địa phương, còn tại lớp học, họ sẽ quan tâm nhiều đến việc làm
sao để có câu trả lời thỏa đáng cho những vấn đề phát sinh từ những quy định của
pháp luật, từ thực tiễn mà họ đang gặp phải. Tại các khóa học này, đương nhiên
cũng sẽ không có những hồ sơ tình huống, những bài thu hoạch, những bài kiểm tra,
những bài thi học phần, không có thi tuyển sinh và thi tốt nghiệp như khóa đào tạo
nguồn CHV. Giảng viên của các khóa học này chủ yếu là lãnh đạo Cục THADS,
lãnh đạo các phòng nghiệp vụ Cục THADS cùng với lãnh đạo của một số cơ quan
THADS cấp tỉnh, nơi có những kinh nghiệm thiết thực có thể trao đổi cùng học viên
của khóa học.
Cần phải thấy rằng, những khóa học này là rất cần thiết cho CHV. Lý do là, từ
những quy định tưởng chừng như rất đơn giản của pháp luật về THADS đến thực
tiễn vô cùng đa dạng của cuộc sống, những “tình huống” những hồ sơ thi hành án
có thật là một khoảng cách khá lớn mà không phải lúc nào CHV cũng tìm ra được
phương án giải quyết. Hơn nữa, thực tiễn áp dụng pháp luật thông thường là có sự
thống nhất, nhưng cũng có thể có quan điểm khác nhau giữa CHV này với CHV
khác, giữa CQTHA này và cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân khác trong việc hiểu
cùng một quy định của pháp luật. Ví dụ: Liên quan đến căn cứ đình chỉ thi hành án
khi “người được thi hành án có văn bản từ bỏ quyền và lợi ích mà họ được hưởng
theo bản án, quyết định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”, trong thực tế,
khi gặp những tình huống như người được thi hành án có đơn rút đơn yêu cầu thi
hành án, không yêu cầu CQTHA tổ chức thi hành án nữa do không đủ khả năng nộp
phí thi hành án hoặc người được thi hành án là tổ chức miễn cho người phải thi
80
hành án nghĩa vụ thi hành án mà tổ chức này cần phải thu hồi đưa vào quỹ dự
phòng chống bão lụt của cơ quan… thì việc áp dụng vẫn còn lúng túng.
Ngoài những lớp tập huấn, những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án như trên,
cần có những hình thức bồi dưỡng không chính thức như giải đáp về nghiệp vụ
THADS tại Hội nghị tổng kết ngành Tư pháp hàng năm, thông qua kết luận kiểm tra
công tác thi hành án địa phương chỉ ra những thiếu sót về mặt nghiệp vụ thi hành án
cần được khắc phục, giải đáp pháp luật trên các tạp chí chuyên ngành, phát hành các
sách chuyên khảo về thi hành án…
Như vậy, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện chương trình đào tạo nguồn CHV,
những lớp tập huấn, những lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thi hành án cần được tổ chức
thường xuyên, liên tục cho CHV các CQTHA địa phương. Việc được hướng dẫn
kịp thời khi có khó khăn, vướng mắc về mặt nghiệp vụ, về các quy định của pháp
luật, về xử lý các tình huống đa dạng của thực tiễn sẽ giúp cho việc xử lý vụ việc
được đúng pháp luật, tránh việc phải xử lý hậu quả nặng nề về sau, vừa ảnh hưởng
đến uy tín của CHV và CQTHA, vừa ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên đương sự.
Thứ tư, giải pháp về quan hệ phối hợp
- Quan hệ phối hợp với Tòa án
Thi hành án dân sự có vai trò quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung
và trong quá trình ủy thác thi hành án dân sự nói riêng. Hoạt động Thi hành án dân
sự là hoạt động cuối cùng bảo đảm cho bản án, quyết định của Toà án được chấp
hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, pháp chế XHCN, bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và nhà nước góp phần giữ vững
ổn định chính trị, xã hội; tăng cường hiệu lực hiệu quả của bộ máy nhà nước. Quyết
định, bản án của toà án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trong thực tế. Để
đảm bảo hiệu quả việc thi hành án và ủy thác thi hành án dân sự, giải pháp về tăng
cường mối quan hệ phối hợp khăng khít giữa hai ngành Tòa án và CQTHA dân sự
và là rất cần thiết. Hai ngành phải có các biện pháp hỗ trợ, phối hợp nhau trong toàn
bộ quá trình thi hành án dân sự, trong đó, riêng đối với CQTHA hai cấp của thành
81
phố Hồ Chí Minh đều phải thực hiện xây dựng các quy chế phối hợp với Tòa án
nhân dân cùng cấp để chuyển giao bản án, quyết định, tài liệu và vật chứng có liên
quan cho CQTHA dân sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự; Xem xét,
quyết định việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách
nhà nước; giải quyết kháng nghị về quyết định miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối
với khoản thu nộp ngân sách nhà nước theo quy định của Luật thi hành án dân sự…
- Quan hệ phối hợp trong ngành
Các mối quan hệ phối hợp trong ngành gồm CQTHA cấp trên với cấp dưới,
Lãnh đạo với CHV ngày càng chặt chẽ, ăn ý trong vấn đề ủy thác thi hành án dân sự
sẽ giúp nâng cao hiệu quả công tác này. Để làm được như vậy, CQTHA hai cấp
phải thường xuyên tổ chức các hội nghị rút kinh nghiệm, trao đổi thẳng thắn về các
vướng mắc của khi phối hợp làm việc và đề ra kế hoạch khắc phục. Đối với mối
quan hệ giữa Lãnh đạo và Kiểm sát viên, sự phối hợp trong trường hợp này được
xây dựng từ việc có trao đổi, thống nhất ý kiến khi nghiên cứu và đưa ra quan điểm
giải quyết, bảo vệ quan điểm lẫn nhau trước cơ quan khác. Vì vậy, sự phối hợp nhịp
nhàng, ăn ý này phải xuất phát từ việc CHV tích cực, chủ động và tôn trọng ý kiến
của cấp trên; ngược lại, lãnh đạo đơn vị phải lắng nghe, thấu hiểu những vướng mắc
và đề ra phương án tháo gỡ giúp CHV trong quá trình ủy thác thi hành án.
Thứ năm, giải pháp về tăng cường cơ sở vật chất và chế độ chính sách cho
cán bộ và CHV
Về cơ sở vật chất, phải đảm bảo cho cán bộ, CHV có đủ không gian phòng
làm việc, máy tính, máy in văn phòng phẩm đảm bảo tiêu chuẩn để tập trung nghiên
cứu án. Khắc phục kịp thời và có biện pháp tìm kiếm sự hỗ trợ từ chính quyền địa
phương để giải quyết vấn đề trụ sở không đảm bảo yêu cầu. CQTHA thành phố Hồ
Chí Minh cần chú trọng quan tâm đến vấn đề xây dựng kế hoạch, giải ngân để đảm
bảo trang thiết bị thiết yếu cho cán bộ, CHV tại các phòng nghiệp vụ và các
CQTHA cấp huyện.
Thực tế cho thấy, dù Bộ Tư pháp trong những năm gần đã có nhiều sự quan
tâm chú trọng khâu công tác thi hành án dân sự và việc ủy thác thi hành án dân sự.
82
Tuy nhiên, việc đầu tư về cơ sở vật chất, nguồn lực, đãi ngộ dành cho cán bộ chưa
tốt, chưa thu hút được cán bộ, CHV nhiệt huyết, tận tâm theo đuổi. Cần có chính
sách đãi ngộ xứng đáng, điển hình như tăng lương trước hạn, tăng phụ cấp, có chế
độ khen thưởng kịp thời.
83
Tiểu kết chương
1. Hoàn thiện pháp luật THADS và ủy thác THADS là một vấn đề quan
trọng trong việc bảo đảm thực thi các bản án, quyết định có hiệu lực của TA, góp
phần đảm bảo các quyền con người, quyền công dân. Việc hoàn thiện pháp luật
THADS và ủy thác THADS phải được đặt trong những yêu cầu, đòi hỏi chung của
xã hội, đồng thời việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, của dân,
do dân, vì dân; sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và điều kiện
tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập của nước ta cũng đặt ra yêu cầu khách quan
phải sớm hoàn thiện pháp luật THADS và ủy thác THADS, góp phần thúc đẩy sự
phát triển và ổn định của xã hội.
2. Việc hoàn thiện pháp luật THADS và ủy thác THADS phải quán triệt
các quan điểm: thể chế kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối, chính sách của
Đảng về THA thể hiện trong các Nghị quyết của Ban chấp hành trung ương và
Bộ Chính trị; tổng kết thực tiễn THA nói chung và THADS nói riêng ở nước ta
qua từng giai đoạn, kế thừa, phát triển và pháp điển hoá các quy định còn phù
hợp, tiến bộ, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước; thể hiện rõ quan
điểm cải cách hành chính, cải cách tư pháp, từng bước xã hội hoá THA; phát huy
dân chủ, tăng cường sự tham gia của nhân dân và các tổ chức xã hội vào hoạt
động xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật THADS và ủy thác
THADS.
3. Hoàn thiện pháp luật THADS và ủy thác THADS không chỉ dừng lại ở
việc xây dựng, ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về
THADS, mà còn bao hàm cả việc bổ sung, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật
có liên. Các văn bản quy phạm pháp luật phải có đầy đủ những quy định liên quan
đến mô hình, tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý THA, CQTHADS, cơ
chế THADS và sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan trong quá trình
THA và các trình tự, thủ tục ủy thác THA khả thi.
4. Việc hoàn thiện pháp luật về THADS và ủy thác THADS phải đảm bảo
84
tăng cường cơ chế kiểm tra, giám sát đối với hoạt động THADS, đồng thời huy
động được sự tham gia của các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong việc chỉ đạo,
phối hợp, giám sát, hỗ trợ hoạt động THA, từng bước xã hội hoá hoạt động THA.
Bên cạnh đó, hoàn thiện pháp luật THADS và ủy thác THADS còn nhằm
giải quyết tình trạng án tồn đọng, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các
CQTHADS, nâng cao trình độ, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, công chức các
CQTHA trước những yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
85
KẾT LUẬN
Từ kết quả của việc nghiên cứu đề tài tác giả đã rút ra được những kết luận sau
đây:
Ủy thác THADS là một cơ chế tạo điều kiện thuận lợi, trước hết là cho cơ quan
THADS trong việc thực thi các bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế, tiếp theo
là các đương sự trong việc tuân thủ theo các nội dung do Tòa án phán quyết và sau
cùng là Nhà nước trong việc đảm bảo pháp chế XHCN. Do đó, ủy thác THADS là
một chế định đóng vai trò quan trọng đối với công tác THADS nói riêng và công tác
tư pháp nói chung.
Pháp luật quy định khá cụ thể, rõ ràng chế định này và cũng phần nào đáp ứng
được nhu cầu thực tiễn trong quá trình thi hành án. Tuy nhiên, trong quá trình áp
dụng còn một số điểm chưa được quy định và giải thích rõ để có chung một cách
hiểu và áp dụng thống nhất như đã nêu trên.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn đã luận giải và chỉ ra được những hạn
chế, bất cập của pháp luật THADS hiện hành về chế định ủy thác THADS. Do vậy,
để chế định ủy thác được hoàn thiện hơn, kiến nghị các cơ quan chức năng sớm
nghiên cứu để có văn bản sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn các quy định về ủy thác để
các cơ quan THADS có cơ sở áp dụng thống nhất, tránh tình trạng hồ sơ ủy thác bị
ủy thác lòng vòng, tốn thời gian, tiền bạc, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Trên cơ sở tổng hợp toàn bộ kết quả nghiên cứu lý luận, pháp luật và thực tiễn
ủy thác THADS, luận văn đã đưa ra kiến nghị về những vấn đề chưa cụ thể, chưa
hợp lý và kiến nghị một số giải pháp nhằm khắc phục những vướng mắc, khó khăn
đang tồn tại trong quá trình áp dụng, nâng cao hơn nữa hiệu quả các quy định của
pháp luật về THADS. Những giải pháp, đề xuất mà tác giả luận văn đưa ra có thể
chưa được toàn diện nhưng có ý nghĩa cả về lý luận cũng như thực tiễn.
86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Văn bản pháp luật
1. Bộ luật Dân sự (Luật số 91/2015/QH13) ngày 24/11/2015.
2. Luật THADS (Luật số 26/2008/QH12) ngày 14/11/2008.
3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS (Luật số
64/2014/QH13) ngày 25/11/2014.
4. Luật Cư trú (Luật số 81/2006/QH11) ngày 29/11/2006.
5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú (Luật số 36/2013/QH13)
ngày 20/6/2013.
6. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 18/7/2015 quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS.
7. Thông tư số 01/2016/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 01/02/2016 hướng dẫn
thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong
THADS.
8. Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT/BTP-BCA-BTC của Bộ Tư pháp, Bộ
Công an, Bộ Tài chính ngày 06/02/2013 hướng dẫn trình tự, thủ tục thu, nộp, quản
lý tiền, giấy tờ của người phải THADS và trả tiền, giấy tờ cho người được THADS
là phạm nhân.
B. Tài liệu tham khảo
9. Học viện Tư pháp (2010), Giáo trình kỹ năng THADS, phần nghiệp vụ, Nhà
xuất bản Tư pháp.
10. Trần Công Huân (2012), “Xử lý ủy thác thế nào cho đúng với Luật
THADS”, Dân chủ và Pháp luật, (5), tr. 51-52.
11. Hà Tuấn Phương, Trương Văn Đới, Đỗ Minh Tiến (2007), “Ủy thác
THADS như thế nào là đúng pháp luật”, Dân chủ và Pháp luật, (4), tr. 6-8.
12. Trần Đại Sỹ (2014), “Thực tiễn ủy thác THADS và một số giải pháp”, Dân
chủ và Pháp luật, (3), tr. 4-9.
13. Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật THADS Việt Nam,
Nhà xuất bản Tư pháp.
87
14. Lại Văn Thắng (2013), “Tình huống ủy thác THADS cần hiểu và áp dụng
cho đúng”, Dân chủ và Pháp luật, (09), tr. 53-55.
15. Nguyễn Đức Tuấn (2001), “Bàn thêm về ủy thác THADS”, Kiểm sát, (4),
tr. 27.
16. Nguyễn Thùy Trang (2012), “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về
17. Đỗ Bình Hà (2016), Định giá tài sản trong pháp luật THADS Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh.
18. Nguyễn Văn Hiệp (2003), Hoàn thiện pháp luật về THADS Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh.
19. Học viện Tư pháp (2012), Giáo trình kỹ năng THADS, Lê Thu Hà, Nhà
xuất bản Tư pháp.
20. Học viện Tư pháp (2015), Tài liệu bồi dưỡng ngạch CHV trung cấp.
21. Nguyễn Thị Khanh (2010), “Những vướng mắc từ thực tiễn thi hành Luật
THADS”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (05), tr.13-16.
22. Nguyễn Thị Quỳnh Phượng (2011), Tổ chức và hoạt động của cơ quant hi
hành án dân sự cấp tỉnh (từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh), Luận văn thạc sĩ
luật học, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí Minh.
23. Lê Minh Tâm (2001), “Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án”, Tạp
chí Luật học.
24. Nguyễn Văn Tú (2011), Tổ chức và hoạt động của Cục THADS, thực
trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
TP.Hồ Chí Minh.
25. Nguyễn Văn Tú (2011), Tổ chức và hoạt động của Cục THADS, thực
trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
TP.Hồ Chí Minh.
26. Nguyễn Hoàng Hạnh Thảo (2016), Thủ tục thi hành các khoản nộp ngân
sách nhà nước trong THADS, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
TP.Hồ Chí Minh.
88
27. Nguyễn Ngọc Thiện (2014), Pháp luật về khiếu nại và giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực THADS, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật TP.Hồ Chí
Minh.
28. Ngô Minh Thuận (2013), Pháp luật về xử lý tài sản thế chấp Ngân hàng để
thu hồi nợ thông qua thi hành án, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
TP.Hồ Chí Minh.