BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
____________________
Lê Thùy Dung
YẾU TỐ KÌ ẢO
TRONG VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI
(THẾ KỈ XV ĐẾN THẾ KỈ XIX)
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ____________________ Lê Thùy Dung
YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI (THẾ KỈ XV ĐẾN THẾ KỈ XIX)
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số
: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2012
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí
Minh, tôi đã nhận được sự giúp đỡ từ những tấm lòng mà tôi trân trọng tri
ân:
Tôi xin gửi lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS Lê Thu Yến, giảng viên
trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh, người hướng dẫn luận văn.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô khoa ngữ văn trường Đại học Sư
Phạm thành phố Hồ Chí Minh, phòng Sau đại học đã tạo điều kiện cho tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện và động viên tôi trong
thời gian vừa qua.
Người viết luận văn
Lê Thùy Dung
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ................................................................ 7
1.1. Các khái niệm ................................................................................................... 7
1.1.1.Văn xuôi trung đại ....................................................................................... 7
1.1.2. Yếu tố kì ảo ............................................................................................... 13
1.2. Cơ sở hình thành các yếu tố kì ảo trong văn học trung đại ............................ 21
1.2.1. Văn học trung đại mang đậm dấu ấn văn học dân gian ........................... 21
1.2.2. Văn học trung đại chịu ảnh hưởng của các tư tưởng Nho - Phật - Đạo ... 25
1.2.3. Văn học trung đại gắn liền với tín ngưỡng dân gian người Việt .............. 27
Chương 2 : NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI ............................................ 31
2.1. Cốt truyện kì ảo .............................................................................................. 31
2.1.1. Cốt truyện bắt nguồn từ các môtip kì ảo .................................................. 31
2.1.2. Cốt truyện bắt nguồn từ các tình huống kì ảo .......................................... 41
2.2. Nhân vật kì ảo ................................................................................................. 44
2.2.1. Nhân vật có yếu tố kì ảo ........................................................................... 45
2.2.2. Nhân vật kì ảo ........................................................................................... 52
2.3. Không gian, thời gian kì ảo ............................................................................ 63
2.3.1. Không gian kì ảo ...................................................................................... 64
2.3.2. Thời gian kì ảo .......................................................................................... 72
Chương 3 : GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI .......................................... 81
3.1. Cái kì ảo là yếu tố phản ánh hiện thực và phản ánh nhận thức, tư tưởng về
cuộc sống ............................................................................................................... 81
3.1.1. Phản ánh hiện thực cuộc sống .................................................................. 81
3.1.2. Phản ánh nhận thức, tư tưởng về cuộc sống ............................................. 91
3.2. Kì ảo có ý nghĩa như một thủ pháp nghệ thuật có sức hấp dẫn riêng ............. 94
3.2.1. Kích thích trí tưởng tượng ........................................................................ 94
3.2.2. Khơi dậy sự ham muốn khám phá ............................................................ 98
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 102
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 105
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong suốt chặng đường mười thế kỉ hình thành và phát triển, văn học
trung đại đã có nhiều đóng góp cho nền văn học nước nhà đầy đủ các thể loại
với nhiều tác phẩm nổi tiếng và các tác giả tên tuổi. Bên cạnh các thể loại
khác, bộ phận văn xuôi tự sự đã có những đóng góp nhất định. Văn xuôi tự sự
trung đại đã để lại rất nhiều những tác phẩm đậm chất kì ảo, hoang đường.
Theo quan niệm truyền thống, văn chương muốn có sức đi xa phải được chắp
thêm đôi cánh của cái kì, cái lạ, “vô truyền bất kì, vô kì bất truyền”. Quan sát
tình hình văn xuôi trung đại Việt Nam, nhất là từ thế kỉ XV trở đi, ta có thể
thấy yếu tố kì ảo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tổ chức cũng như
tạo cho tác phẩm cái vẻ riêng, hấp dẫn, có một sức mê hoặc kì lạ.
Yếu tố kì ảo đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử văn học nhân loại. Sử
dụng yếu tố kì ảo là một trong những thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu và độc đáo
của kho tàng văn xuôi thế giới. Ngoài vai trò tạo sự "lạ hoá" nhằm hấp dẫn
người đọc, yếu tố kì ảo còn có tác dụng giúp nhà văn biểu hiện, khám phá
hiện thực và thể hiện những quan niệm mới mẻ về nhân sinh, thế sự, con
người. Phương thức sử dụng cái kì ảo để sáng tác văn học nghệ thuật, đã được
các nghệ sĩ phương Đông và phương Tây áp dụng từ thời cổ đại và cho đến
ngày nay. Có lẽ, trong các tác phẩm văn học dân gian cổ đại, yếu tố kì ảo đã
có mặt, phản ánh nhận thức còn “ngây thơ”, niềm tin lý tưởng của người cổ
đại về thế giới. Yếu tố kì ảo thành một dòng chảy liên tục trong dòng chung
của lịch sử văn học nhân loại từ thời cổ đại, qua trung đại đến cận đại. Nó đã
tôn tạo cho tác phẩm văn chương vẻ đẹp lung linh huyền ảo, đa màu sắc. Các
nghệ sĩ đã sử dụng nó như một biện pháp nghệ thuật nhằm khai thác sâu hơn,
rõ hơn bản chất của xã hội thực tại và đi thẳng vào đời sống với muôn mặt
của nó. Yếu tố kì ảo là cầu nối để đưa ta vào thế giới chưa biết, huyền diệu và
bí ẩn trong trí tưởng tượng, vào những giấc mơ không thật, tìm lí tưởng trong
suốt như pha lê đã bị thực tại đen tối phá vỡ. Yếu tố kì ảo đã đem đến cảm
giác mới lạ cho người đọc, mở ra một chân trời mới của sức tưởng tượng bay
bổng. Mặt khác, nó khiến con người không quay đi với đời sống thực tại mà
luôn sẵn sàng đối diện thẩm định nhận thức cuộc sống một cách sâu sắc hơn.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài luận văn: “Yếu tố kì ảo trong văn
xuôi trung đại (thế kỉ XV đến thế kỉ XIX)”. Tìm hiểu yếu tố kì ảo trong văn
xuôi trung đại sẽ giúp chúng tôi có cái nhìn sâu sắc hơn về thế giới nghệ thuật
của các nhà văn cũng như có những nhìn nhận, đánh giá xác đáng hơn về quá
trình vận động của văn xuôi giai đoạn này.
2. Lịch sử vấn đề
Xung quanh đề tài luận văn “Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại”,
trong phạm vi tư liệu sưu tầm được, chúng tôi điểm qua một số bài nghiên
cứu sau:
Về yếu tố kì ảo, vấn đề này đã nhận được sự quan tâm của rất nhiều
nhà nghiên cứu từ những thập niên đầu của thế kỉ XIX. Có thể kể ra một số
công trình nghiên cứu đáng chú ý: Hợp tuyển văn chương kì ảo, Từ truyện
thần tiên đến truyện khoa học kì ảo của Cailois, Dẫn nhập văn học kì ảo của
Todorov, Cái kì ảo trong văn học của Rabkin … Ở Việt Nam, yếu tố kì ảo chỉ
được bàn luận vào sau những năm 1975 và thực sự sôi nổi vào những năm
đầu thế kỉ XXI. Có thể kể đến bài viết Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo
trong nghiên cứu văn học của Lê Nguyên Long. Bài viết đã bước đầu thể hiện
sự quan tâm đến văn học kì ảo và khái niệm cái kì ảo. Trong bài viết này, tác
giả đã tổng hợp nhiều quan niệm về thuật ngữ kì ảo và văn học kì ảo của các
tác giả nước ngoài. Từ đó tác giả đưa ra ý kiến của mình: “cái kì ảo là cái
không thể cắt nghĩa được bằng lý tính từ điểm nhìn của chúng ta với tầm
nhận thức hiện tại. Chính sự không cắt nghĩa được bằng lý tính ấy đã tạo nên
một “sự đứt gãy trong chuỗi liên kết vũ trụ”(Rogee Caillois), gây ra tâm
trạng hoang mang cho người nào đối diện với nó”. Hay trong bài nghiên cứu
Cái kì ảo và văn học huyễn ảo của Lê Huy Bắc, tác giả đã đề xuất dùng khái
niệm “văn học huyễn ảo” “với mục đích nhằm bao quát cả một lịch sử sáng
tạo văn chương nơi xuất hiện sự đan cài của hai yếu tố thực và ảo mà hàm
lượng bao giờ cũng nghiêng qua phần ảo”. Từ đó tác giả đã nhấn mạnh “thế
giới của văn học huyễn ảo là thế giới của trí tưởng tượng, nơi sự khác lạ
hoang đường, thần diệu … luôn ngự trị. Có lúc nó giúp người đọc bình tâm,
tự tại; có lúc nó khiến họ hoang mang, khiếp đảm và có lúc khiến họ hoài
nghi, bối rối…”. Bài viết này đã có những đóng góp nhất định trong việc xác
định quan niệm về văn học kì ảo.
Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu công phu, có chất lượng và uy
tín khoa học cao cũng đã giới thiệu cho bạn đọc thêm những cách hiểu cơ bản
về khái niệm “kì ảo” như: Tìm hiểu các dạng truyện kì ảo trong văn học cổ
trung đại và cận đại Đông Tây của Nguyễn Huệ Chi, Dư ba của truyện truyền
kì, chí dị trong văn học Việt Nam hiện đại của Vũ Thanh, Yếu tố kì ảo trong
truyện ngắn Việt Nam hiện đại sau 1975 của Phùng Hữu Hải, Đi tìm nguyên
nhân hồi sinh của yếu tố kì ảo trong văn học đương đại Việt Nam của Bùi
Thanh Truyền… Nhìn chung, các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam đã đưa
ra một cơ sở lý thuyết khá xác thực về yếu tố kì ảo.
Riêng ở bộ phận văn xuôi trung đại, trong bài viết Văn xuôi tự sự Việt
Nam thời trung đại - những bước đi lịch sử cùng với các cuốn tuyển soạn,
Nguyễn Đăng Na đã có cái nhìn khái quát, hệ thống về tiến trình phát triển
của văn xuôi tự sự nói chung và các thể loại truyện ngắn, kí, tiểu thuyết
chương hồi nói riêng. Bộ phận văn học này đã có những đóng góp nhất định
cho văn học trung đại. Văn xuôi tự sự không chỉ là một bộ phận cấu thành văn
học dân tộc mà còn là ảnh xạ phản chiếu trình độ tư duy nghệ thuật của nền
văn học đã sản sinh ra nó.
Nghiên cứu về yếu tố kì ảo trong văn học đã được các nhà nghiên cứu
bàn luận ở nhiều phạm vi, mức độ khác nhau. Nhưng nhìn chung các bài viết
nghiêng nhiều về nghiên cứu lý luận. Còn nghiên cứu về thực tiễn sáng tác thì
chủ yếu gắn với văn học hiện đại Việt Nam như Nghệ thuật kì ảo trong văn
xuôi đương đại Việt Nam, Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt Nam
của Bùi Thanh Truyền, Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt Nam
sau 1975 của Hoàng Thị Văn, Vai trò của yếu tố kì ảo trong truyện Việt Nam
sau 1975 của Nguyễn Văn Kha, Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu
thuyết Việt Nam của Đặng Anh Đào… Thực tế cho thấy chưa có nhiều bài
viết về yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại, nếu có thì chỉ ở vài tác phẩm
riêng lẻ hoặc chỉ ở dạng phác họa, điểm qua. Chúng tôi tìm thấy có những bài
viết như: Cái kì trong tiểu thuyết truyền kì của Đinh Phan Cẩm Vân, Những
biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện ngắn truyền kì Việt Nam của Vũ
Thanh, Yếu tố kì ảo trong Thánh Tông di thảo của Lê Nhật Ký, Thể loại
truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại của Vũ Thanh, Tìm hiểu khuynh hướng
sáng tác trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ của Nguyễn Phạm Hùng,
Vũ Trinh và Lan Trì kiến văn lục trong dòng truyện truyền kì Việt Nam của
Trần Thị Băng Thanh… Các bài viết trên đã đưa ra những nhận định, phân
tích, lý giải yếu tố kì ở những góc nhìn khác nhau.
Vì những nguyên nhân khách quan và năng lực chủ quan, chúng tôi rất
lấy làm tiếc khi chưa thể tiếp cận và thống kê thật đầy đủ các bài viết, công
trình nghiên cứu về yếu tố kì ảo trong văn học đã được công bố. Trong phạm
vi của một luận văn chúng tôi rất trân trọng những ý kiến, quan điểm, đánh
giá, nhận xét của các nhà khoa học đã đề xuất. Những ý kiến quý báu đó sẽ
giúp chúng tôi có những định hướng đúng đắn, vững chắc về mặt phương
pháp luận và phương pháp nghiên cứu, cũng như về mặt tư liệu tham khảo để
có thể hoàn thành mục tiêu đề ra của luận văn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là khảo sát, phân tích lý giải những biểu hiện
của yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại Việt Nam (thế kỉ XV đến hết thế kỉ
XIX) và tìm ra những giá trị thẩm mĩ đặc sắc mà những yếu tố kì ảo đó mang
lại.
4. Phạm vi nghiên cứu và những đóng góp của luận văn
Trên bước đường mười thế kỉ hình thành và phát triển, văn xuôi trung
đại đã để lại rất nhiều những tác phẩm đậm chất kì ảo, hoang đường. Yếu tố
kì ảo trong văn xuôi trung đại gắn liền với thể loại truyện truyền kì. Do vậy, ở
đề tài này, chúng tôi tập trung khảo sát và tìm hiểu yếu tố kì ảo trong một số
tác phẩm văn xuôi tiêu biểu như: Nam ông mộng lục, Thánh Tông di thảo (thế
kỉ XV); Truyền kì mạn lục (thế kỉ XVI); Công dư tiệp kí, Sơn cư tạp thuật,
Truyền kì tân phả (giữa thế kỉ XVIII); Lan Trì kiến văn lục (cuối thế kỉ
XVIII), Tang thương ngẫu lục, Hát đông thư dị, Việt Nam kì phùng sự lục
(thế kỉ XIX)… Từ đó, luận văn đi vào miêu tả, lý giải sức hấp dẫn của các
yếu tố kì ảo trong những tác phẩm văn học này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho mục đích nghiên cứu, luận văn chúng tôi không loại trừ
phương pháp luận nghiên cứu văn học nào, song đối với đối tượng nghiên cứu
của mình, chúng tôi sử dụng chủ yếu một số phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu thi pháp học (vận dụng lí thuyết thi pháp về
không gian và thời gian nghệ thuật và thi pháp nhân vật để làm sáng tỏ yếu tố
kì ảo trong văn xuôi trung đại).
- Phương pháp hệ thống, thống kê, khảo sát (nhằm nhận biết những
biểu hiện kì ảo trong một số tác phẩm văn xuôi trung đại làm cơ sở để hệ
thống hóa thành những luận điểm khoa học của vấn đề).
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh (làm rõ những đặc điểm và
giá trị thẩm mĩ của các yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại)
- Phương pháp lịch sử - xã hội (lí giải các yếu tố kì ảo trong văn học
một thời đại)…
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn được tổ
chức thành ba chương:
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỂ CHUNG
1.1.Các khái niệm
1.2. Cơ sở hình thành các yếu tố kì ảo trong văn học trung đại
Chương 2: NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI
2.1. Cốt truyện kì ảo
2.2. Nhân vật kì ảo
2.3. Không gian, thời gian kì ảo
Chương 3: GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG MỘT SỐ
TÁC PHẨM VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI
3.1. Cái kì ảo là yếu tố phản ánh hiện thực và phản ánh nhận thức, tư tưởng về cuộc sống
3.2. Kì ảo có ý nghĩa như một thủ pháp nghệ thuật có sức hấp dẫn riêng
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Các khái niệm
1.1.1.Văn xuôi trung đại
1.1.1.1. Thời kì trung đại trong văn học Việt Nam
“Trung đại” là một thuật ngữ của khoa học lịch sử phương Tây để chỉ
một thời đại nằm giữa thời cổ đại và thời cận đại, có nghĩa là giai đoạn lịch sử
gắn liền với chế độ phong kiến. Thời trung đại được xem là thời đại văn hóa
lớn trong lịch sử nhân loại. Đó cũng là thời đại hình thành các giá trị văn hóa
truyền thống có ảnh hưởng đến ngày nay. Đối với Việt Nam, thời trung đại là
thời hình thành toàn bộ di sản văn hóa thành văn của dân tộc.
Thời trung đại chuyển sang thời hiện đại thông qua thời kì quá độ là
thời cận đại. Xét về mặt lịch sử, thời cận đại ở nước ta được đánh dấu bằng sự
kiện Pháp xâm lược (1858). Về mặt văn học, thời cận đại không thật rõ nét,
chỉ là giai đoạn giao thời chuyển sang thời hiện đại (30 năm đầu thế kỷ XX).
Thời hiện đại được tính từ cái mốc tiếp nhận và sáng tạo các hình thái văn hóa
mới. Đầu thế kỉ XX là thời điểm đánh dấu sự tiếp xúc, giao lưu toàn diện về
văn hóa, văn học của Việt Nam với các nước trong khu vực và thế giới. Đó là
nền văn học mới với đề tài, phương thức truyền bá, và những quan niệm văn
học, lí tưởng thẩm mĩ, phương pháp sáng tác, sự xuất hiện của báo chí, in ấn,
xuất bản… Sự thay đổi cơ bản này đã đem đến cho văn học Việt Nam một
diện mạo mới, bắt đầu vào quá trình hiện đại hóa. Do vậy có thể xem văn học
Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX thuộc phạm trù trung đại và từ đầu XX
đến nay thuộc phạm trù hiện đại. Thời kỳ văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ
XIX ở ta, trước đây có nhiều nhà văn học sử đã gọi nhiều tên khác nhau: Văn
học viết thời phong kiến; Văn học cổ; Văn học cổ điển; Văn học Hán Nôm;
Văn học trung đại; Văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX.
Văn học Việt Nam đã hình thành và phát triển cùng với quá trình hình
thành và phát triển của dân tộc. Đó là quá trình xây dựng văn học viết bằng
cách dựa vào truyền thống và những thành tựu văn hóa, văn học dân gian, trên
cơ sở tiếp thu một cách chủ động ảnh hưởng của văn hóa, văn học nước
ngoài. Đó cũng là quá trình nền văn học phát triển gắn liền với vận mệnh đất
nước và số phận con người, thể hiện ý thức dân tộc mạnh mẽ, đồng thời mang
những đặc điểm loại hình thi pháp văn học trung đại trong sự vận động theo
hướng dân tộc hóa và dân chủ hóa.
Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, ngay từ khi ra đời, văn học trung đại
Việt Nam đã gắn với vận mệnh đất nước và con người. Chủ đề nổi bật của
văn học thời kì này là chủ nghĩa yêu nước, tư tưởng nhân đạo và chủ nghĩa
anh hùng. Chủ đề ấy là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nền văn học, từ thơ ca của các
nhà sư đời Lí, các vị tướng đời Trần đến các nhà thơ nhà văn lớn Nguyễn
Trãi, Nguyễn Du…Ở những giai đoạn lịch sử khác nhau, tư tưởng yêu nước
và nhân đạo có những biểu hiện khác nhau.
Đã trở thành qui luật, nền văn học trung đại của dân tộc nào cũng được
xây dựng trên cơ sở nền văn hóa, văn học dân gian của dân tộc đó. Văn học
dân gian Việt Nam là nền tảng hình thành nền văn học viết trên nhiều phương
diện. Tiếp thu nguồn mạch văn học dân gian, văn học viết có cơ sở vững chắc
để phát triển. Từ những tác phẩm văn xuôi thành văn đầu tiên: Việt điện u
linh, Lĩnh Nam chích quái... ra đời trên cơ sở sưu tầm ghi chép các truyền
thuyết dân gian đến những tác phẩm có qui mô lớn như Đại Việt sử kí toàn
thư cũng sử dụng nhiều yếu tố của văn học dân gian. Cũng không ai có thể
phủ nhận ảnh hưởng đậm đà của văn học dân gian về văn liệu, thi liệu, bút
pháp… đối với những tác phẩm truyền kì như Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục, thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… Khẳng định giá trị và tìm hiểu
đặc điểm của văn học viết trung đại cũng đồng thời là sự đánh giá cao vai trò,
vị trí của văn học dân gian – nguồn mạch nuôi dưỡng văn học viết.
Trong thời kì trung đại, sự giao lưu ảnh hưởng của các nền văn học lâu
đời (Trung Hoa, Ấn Độ…) với các nền văn học hình thành sau (Nhật Bản,
Triều Tiên…) là một tất yếu khách quan. Ở Việt Nam mặc dù đã trải qua hàng
ngàn năm Bắc thuộc, nền văn hóa văn học dân tộc vẫn không bị đồng hóa. Sự
tiếp thu ảnh hưởng văn học Trung Hoa không làm mất đi bản sắc dân tộc mà
càng làm cho nền văn học thêm phong phú đậm đà bản sắc. Đặc biệt trên
phương diện thể loại, sự tiếp thu đã diễn ra một cách toàn diện. Tuy nhiên con
đường phát triển của văn học dân tộc vừa là tiếp thu vừa Việt hóa những yếu
tố Hán song song với việc sáng tạo những yếu tố hình thức mang tính dân tộc.
Sự tiếp thu một cách chủ động tinh hoa văn học Trung Quốc trên tinh thần
dân tộc vừa làm giàu có cho nền văn học, vừa thể hiện ý thức dân tộc mạnh
mẽ của cha ông ta trong quá trình xây dựng nền văn hóa của dân tộc mình.
Cũng như văn học viết trung đại các nước trên thế giới, văn học Việt
Nam thế kỉ X – XIX chịu sự qui định của thi pháp văn học trung đại nói
chung. Nổi bật hơn cả là tính chất ước lệ của hình thức biểu hiện. Tính ước lệ
trung đại được biểu hiện ra ở tính chất tập cổ, tính qui phạm, tính công thức,
nghi thức, tính trang trí, nệ truyền thống rất nặng. Ngoài ra văn học trung đại
cũng ưu tiên cho các chức năng hành chính, giáo huấn, nghi lễ… coi nhẹ biểu
hiện cá tính. Tuy nhiên các đặc điểm thi pháp trên không làm hạn chế sự
phong phú và phát triển của văn học. Bằng trí tuệ, tâm hồn, tài năng sáng tạo
của các tác giả, văn học trung đại đã để lại nhiều áng thơ văn làm say đắm
lòng người. Trên đường sáng tạo, nền văn học luôn vận động theo hướng dân
tộc hóa, dân chủ hóa, thường xuyên tự đổi mới bằng cách bám sát cuộc sống
của dân tộc để phản ánh. Văn học đã dần trở nên gần gũi với tâm thức người
dân. Đó cũng chính là nhu cầu tự thân để văn học trung đại ngày càng làm
cho các qui phạm dần bị lỏng lẽo, phá vỡ, đồng thời tạo tiền đề cho quá trình
hiện đại hóa nền văn học đầu thế kỉ XX.
Các đặc điểm cơ bản trên giúp ta nhận rõ đặc trưng của văn học trung
đại Việt Nam trong qui luật chung của các nền văn học trung đại thế giới. Và
qua những đặc trưng ấy mới có thể hiểu được văn học trung đại như là một bộ
phận hữu cơ của nền văn hóa trung đại. Đi trọn mười thế kỉ, văn học trung đại
kết thúc vai trò lịch sử của mình trong tiến trình văn học dân tộc: phản ánh
chân thực sinh động đời sống của con người Việt Nam trên các phương diện
vật chất và tinh thần để lại cho nền văn học nhiều kinh nghiệm quí giá.
1.1.1.2. Thể loại văn xuôi trung đại
Theo thi pháp học, văn xuôi gồm hai thể văn xuôi tự sự và văn xuôi trữ
tình. Thời trung đại chưa xuất hiện văn xuôi trữ tình. Có hai loại hình tự sự
trong văn học Việt Nam thời trung đại: tự sự bằng văn vần (truyện Nôm) và
tự sự bằng văn xuôi (văn xuôi chữ Hán). Theo Nguyễn Đăng Na, dựa vào quy
mô và tính chất từng tác phẩm, có thể chia văn xuôi tự sự thành ba nhóm:
truyện ngắn, kí và tiểu thuyết chương hồi.
Về tiểu thuyết chương hồi – một thể loại tác phẩm tự sự dài hơi của
Trung Quốc thịnh hành vào đời Minh Thanh, loại này ở Việt Nam thời trung
đại không nhiều. Ta có thể kể ra những tác phẩm như: Nam triều công nghiệp
diễn chí (Nguyễn Khoa Chiêm), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái),
Tây Dương Gia Tô bí lục (Phạm Ngộ Hiên)… Các tác phẩm hoàn toàn theo
mô hình chương hồi Trung Quốc, quy mô lớn. Mỗi tác phẩm viết về một vấn
đề trọn vẹn và dài trên trăm trang. Đó là đề tài về lịch sử - lịch sử đương đại
nên tính thời sự chính trị của chúng rất cao.
Về truyện và kí, thời trung đại, hai thể loại này thật khó tách bạch đâu
là truyện đâu là kí. Ngoài một số đặc điểm về cốt truyện, nhân vật, thời gian
không gian, đặc biệt là tính chất hư cấu – yếu tố giúp tách truyện ra khỏi các
hình thức ghi chép khác như lục, kí, chí thì thái độ người cầm bút, sự thể hiện
cái tôi cá nhân của tác giả là dấu hiệu làm nên sự phân biệt giữa kí với truyện.
Nhưng không chỉ có thế, ở nhiều tác phẩm văn xuôi trung đại, khái niệm
truyện và tiểu thuyết cũng gần như không có sự phân biệt. Chính vì vậy việc
tách biệt thể loại tác phẩm của văn học trung đại là điều khó khăn. Đó là lí do
lâu nay người ta chấp nhận những cách gọi khác nhau tên nhiều tác phẩm tự
sự: truyện văn xuôi chữ Hán; truyện ngắn, kí, tiểu thuyết chương hồi, tiểu
thuyết chữ Hán; truyện ngắn truyền kì; tiểu thuyết truyền kì…
Truyện Việt Nam thời trung đại có một tỉ lệ lớn truyện truyền kì.
Truyền kì được hiểu là truyền đi một sự lạ. Truyền kì có tính chất là những
truyện kì lạ được lưu truyền lại. Truyện truyền kì có nguồn gốc trong văn học
Trung Quốc. Nó thúc đẩy sự ra đời của thể loại truyền kì trong văn học vùng
Đông Á trong đó có Việt Nam. Truyền kì trở thành một thể loại truyện mang
tính chất “kì văn dị sự” – một bộ phận tạo nên diện mạo nền văn xuôi trung
đại Việt Nam. Trên bước đường mười thế kỉ hình thành và phát triển, văn
xuôi trung đại đã để lại rất nhiều những tác phẩm đậm chất kì ảo, hoang
đường. Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại gắn liền với thể loại truyện
truyền kì. Những cái kì lạ, phi thường, siêu nhiên trong truyện truyền kì đã tạo
nên những “kì văn” với những “kì nhân”, “kì sự”. Chúng tạo nên sức hấp dẫn
lạ lùng, góp phần làm nên sức sống lâu bền cho tác phẩm. Chúng không chỉ
thể hiện trình độ tư duy nghệ thuật độc đáo mà còn là phương tiện, thủ pháp
nghệ thuật có hiệu quả cao trong phản ánh hiện thực và chuyển tải những vấn
đề nhân sinh. Do vậy, ở đề tài này, luận văn tập trung khảo sát và tìm hiểu yếu
tố kì ảo trong một số tác phẩm tiêu biểu như: Nam Ông mộng lục, Thánh
Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục…
1.1.1.3. Văn xuôi trung đại từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XIX
Trên các chặng đường thịnh suy, các giai đoạn phát triển khác nhau của
lịch sử - xã hội Việt Nam thời trung đại, nền văn học cũng vận động phát triển
qua nhiều giai đoạn. Tiến trình phát triển của văn xuôi trung đại có thể tạm
chia qua ba chặng đường: từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV, từ đầu thế kỉ XV
đến hết thế kỉ XVII, từ đầu thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX.
Giai đoạn đầu văn xuôi tự sự chưa tách khỏi văn học chức năng và văn
học dân gian. Dù vậy, những tác phẩm giai đoạn này vẫn giữ vị trí cực kì
quan trọng bởi chúng làm nhiệm vụ đặt nền móng về nội dung cũng như
phương thức tư duy nghệ thuật cho văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại nói
riêng và cho văn xuôi cận hiện đại nói chung.
Từ thế kỉ XV, văn xuôi tự sự đã thoát li khỏi mối ràng buộc của văn
học dân gian và văn học chức năng, tự sáng tạo ra loại hình truyện ngắn văn
học; loại truyện ngắn đó vừa mang đậm sắc thái dân tộc, vừa phản ánh sinh
động hiện thực đương thời. Thành tựu nổi bật ở thế kỉ XV – XVII phải kể đến
hai tác phẩm Thánh Tông di thảo (Lê Thánh Tông) và “thiên cổ kì bút”
Truyền kì mạn lục (Nguyễn Dữ). Ngoài ra, ta còn có thể kể thêm Nam Ông
mộng lục của Hồ Nguyên Trừng…Có thể nói, thế kỉ XV – XVII chủ yếu là
thế kỉ của truyện ngắn truyền kì. Các tác giả đã phóng thành công con tàu văn
xuôi tự sự vào quỹ đạo nghệ thuật: văn học lấy con người làm đối tượng và
trung tâm phản ánh. Với đặc điểm dùng hình thức kì ảo làm phương thức
chuyển tải nội dung, truyện truyền kì có sức hấp dẫn mọi lứa tuổi, mọi thời
đại. Từ đầu thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX, giai đoạn này đánh dấu sự trưởng
thành của nền văn học trung đại và về cơ bản, các hình thức tự sự bằng văn
xuôi như truyện ngắn, kí, tiểu thuyết chương hồi đều được hoàn thiện. Thành
tựu phong phú nhất thuộc về thể truyện, kí với các tác giả tác phẩm như:
Công dư tiệp kí (Vũ Phương Đề), Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Lan
Trì kiến văn lục (Vũ Trinh), Tang thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ)…
1.1.2. Yếu tố kì ảo
1.1.2.1. Yếu tố kì ảo
Mấy chục năm gần đây, cái kì ảo trong văn học nghệ thuật đã trở thành
đối tượng hấp dẫn, lôi cuốn giới nghiên cứu và phê bình văn học. Kì ảo vốn là
một khái niệm xuất phát từ thời cổ đại. Cách hiểu về nó cũng thay đổi theo
thời gian. Theo từ điển ngôn ngữ Pháp, “kì ảo” là tính từ, bắt nguồn từ tiếng
Hy Lạp“Phantastitos”, tiếng La tinh“Phantasticus” để chỉ những gì được tạo
nên bởi trí tưởng tượng chứ không tồn tại trong thực tế. Các từ ngữ Hy Lạp và
La Tinh trên đều có liên quan với từ “Phantasia” (tiếng Pháp: “Fantasie”,
tiếng Anh: “Fantasy”) có nghĩa là trí tưởng tượng phóng túng. Trong Hán
ngữ đại tự điển, “kì” là “khác thường”, còn “ảo” là “không thực”. Nó thiên về
tính chất li kì, hiếm thấy. Trong tiếng Việt,“kì ảo” là từ Hán Việt, “kì” là “lạ
lùng”, “ảo”là không có thật. Cái kì ảo là cái lạ lùng, không có thật, không thể
bắt gặp trong thực tế. Theo định nghĩa của “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê,
nxb Đà Nẵng, 1998) thì “ Kì ảo là kì lạ, tựa như không có thật mà chỉ có trong
tưởng tượng”. Và tất nhiên, một tác phẩm văn chương kì ảo phải có những
yếu tố siêu nhiên, kì lạ, hư ảo, huyễn hoặc trong nhân vật, cốt truyện, chủ đề
tạo nên những phản ứng nhận thức của người tiếp nhận một cách mạnh mẽ.
Trên thế giới, người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ cái kì ảo là một học
giả người Anh tên là Joseph Addison (1672-1719). Theo ông, những sáng tác
kì ảo “tạo ra một khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thoả
mãn trí tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác
thường của những con người được miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong
trí nhớ của chúng ta những câu chuyện ma mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ
và thích thú với những nỗi khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con
người phải lệ thuộc vào nó một cách tự nhiên”[37]. Sau đó có rất nhiều ý kiến
khác nhau về khái niệm kì ảo như R. Cailois, Todorov… Tên gọi yếu tố kì ảo
đã gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu văn học, mỗi học giả đưa ra mỗi
cách hiểu khác nhau. Vì thế, việc tìm ra một khái niệm chính danh là hoàn
toàn không đơn giản. Để tiện cho công việc nghiên cứu, chúng tôi điểm qua
một số ý kiến về yếu tố kì ảo trong các bài viết, công trình nghiên cứu văn
học, từ đó có thể làm sáng tỏ một quan niệm mang tính khái quát nhất.
Theo các nhà nghiên cứu phương tây, "cái kì ảo là một phạm trù tư duy
nghệ thuật, nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được biểu hiện bằng các
yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo… Nó có mặt trong văn học
dân gian, văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực - ảo và tồn
tại độc lập, không hoà tan vào các dạng thức khác nhau của trí tưởng
tượng… Yếu tố kì ảo trong văn học tạo nên sự đứt gãy trong chuỗi liên kết vũ
trụ, tạo ra sự do dự, phân vân trong lòng độc giả. Nó là quãng lặng, là sự
ngắt mạch, là sự xâm lấn của cái siêu nhiên trong cuộc sống đời thường, là
sự xâm lấn của cái phi lôgic trong một thế giới lôgic”[4;16]
Todorov cho rằng: “Trong một thế giới chính là thế giới của chúng ta
này, thế giới như chúng ta vẫn biết là chẳng có quỷ dữ, thiên thần hay ma cà
rồng… xảy ra một sự kiện không thể giải thích được bằng các quy luật của
thế giới thân thuộc. Người chứng kiến sự kiện này phải lựa chọn một trong
hai giải pháp có thể xảy ra: hoặc anh ta là nạn nhân của một ảo giác trong
nhận thức, một sản phẩm của trí tưởng tượng và những quy luật của thế giới
do vậy vẫn tiếp tục tồn tại, hoặc sự kiện này đã thực sự xảy ra, nó là một bộ
phận trọn vẹn của hiện thực – nhưng thế thì hiện thực này bị kiểm soát bởi
những quy luật mà chúng ta không biết…Cái kì ảo diễn ra trong một khoảnh
khắc của sự không xác định được này (…). Cái kì ảo là do sự do dự được cảm
nhận bởi một người đang đối mặt với một sự kiện có vẻ siêu nhiên, mà anh ta
lại chỉ biết các quy luật tự nhiên” [56]. Roger Cailois gọi yếu tố kì ảo trong
văn học là: “Mọi cái kì ảo đều là một sự vi phạm trật tự quen thuộc, một sự
đảo lộn của cái không thể tiếp nhận được trong lòng những quy luật bất biến
của đời thường” [4]. Còn Vax thì nhận định: “ Truyện kì ảo… thích giới thiệu
những con người giống như chúng ta, sống trong thế giới thực tại mà ta đang
sống, họ đột nhiên bị đối diện với cái không thể giải thích được”[4].
Trong khi đó, ở Việt Nam, yếu tố kì ảo cũng được nhiều nhà nghiên
cứu bàn đến. Phùng Hữu Hải định nghĩa: “Cái kì ảo là sản phẩm của trí
tưởng tượng… được biểu hiện bằng những năng lực, yếu tố có tính siêu nhiên,
nằm ngoài tư duy lí tính của con người… Yếu tố kì ảo không phải là cái gì hư
vô bên ngoài con người mà nó được bắt nguồn từ chính thế giới tưởng tượng,
tinh thần, thế giới nội tâm bí ẩn của con người”[23]. Ngô Tự Lập đưa ra nhận
định: “Kì ảo, đó chính là mê lộ nghệ thuật, và cũng như trong những lĩnh vực
khác, nó xuất hiện ở mọi nơi, khi trật tự đã trở nên bó buộc, vừa đáng ghét
vừa đáng sợ và tính hợp lý của trật tự ấy bị đặt thành câu hỏi. Tuy nhiên,
những thiết chế văn minh càng chặt chẽ, càng ráo riết thì sự xuất hiện của nó
càng kịch tính, như những gì chúng ta chứng kiến ở phương Tây”[33; 29].
Tác giả Lê Huy Bắc thì cho rằng: “Thế giới của văn học huyễn ảo là thế giới
của trí tưởng tượng, nơi sự khác lạ hoang đường, thần diệu… luôn ngự trị.
Có lúc nó giúp người đọc bình tâm, tự tại; có lúc nó khiến người đọc hoang
mang khiếp đảm và có lúc khiến họ hoài nghi bối rối…[3]”
Tác giả Lê Nguyên Long nhận xét: “Cái kì ảo là cái không thể cắt
nghĩa được bằng lí tính từ điểm nhìn của chúng ta với tầm nhận thức hiện tại.
Chính cái không thể cắt nghĩa bằng lý tính ấy đã tạo nên một “sự đứt gãy
trong chuỗi liên kết vũ trụ”, gây ra tâm trạng hoang mang cho những người
nào đối diện với nó, bởi theo Vax, khi con người không còn xem mê tín của
mình là điều nghiêm túc nữa thì họ sử dụng chúng để sáng tạo nên nghệ
thuật”. Và ông cũng nói: “trong việc đi tìm một định nghĩa cho cái kì ảo,
không nên đồng nhất cái kì ảo với cái huyền diệu, và tất cả các dạng thức
tưởng tượng huyễn hoặc đối lập với hiện thực, theo đó văn học kì ảo đã ra đời
từ xa xưa, và các hình thức cụ thể của nó thì bao trùm một lĩnh vực rộng lớn
từ kiểu truyện cổ tích thần kì đến văn học viễn tưởng trong thời hiện đại. Cái
kì ảo phải diễn ra trong một môi trường có tính hiện thực ở đó, sự tưởng
tượng được phép phát triển ồ ạt và đi cùng với điều đó thì tính chất mơ hồ,
lưỡng trị là đặc trưng của thể loại. Cái kì ảo chỉ tồn tại khi đối diện với nó,
người ta luôn ý thức về một sự độc lập giữa những cái siêu nhiên, hư huyễn
với thế giới thực tại.”[36]
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng yếu tố kì ảo là sản
phẩm của trí tưởng tượng khó xảy ra trong thực tế. Nó thường nằm ngoài tư
duy lí tính của con người nhưng lại có mối quan hệ với bản chất của cái có
thật trong đời sống. Yếu tố kì ảo góp phần cùng với các yếu tố nghệ thuật
khác để xây dựng cốt truyện, nhân vật hướng đến việc bộc lộ chủ đề tư tưởng
tác phẩm. Chính các sắc thái thẩm mĩ của yếu tố kì ảo không hề làm giảm giá
trị hiện thực của tác phẩm mà nó còn cung cấp cho chúng ta cách nhận diện
về cuộc sống, làm gia tăng điểm nhìn nghệ thuật và các chiều tiếp cận hiện
thực.
Như vậy, những tài liệu nghiên cứu về văn học kì ảo đã dần dần làm
sáng rõ quan niệm: yếu tố kì ảo trong văn học thuộc phạm trù tư duy nghệ
thuật, là sản phẩm trí tưởng tượng của người nghệ sĩ và được tiếp nhận qua trí
tưởng tượng. Nó là phương tiện nghệ thuật để nhà văn bộc lộ quan niệm về
đời sống, về con người, là một phương thức nghệ thuật để gây nên cảm giác
mãnh liệt, sức hấp dẫn của tác phẩm. Những biểu hiện chủ yếu của yếu tố kì
ảo trong văn học là: không gian, thời gian chứa đựng các yếu tố siêu nhiên;
nhân vật kì dị, biến hóa, giấc mơ... Quan niệm này là cơ sở để chúng tôi tìm
hiểu yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại Việt Nam.
1.1.2.2. Văn học kì ảo
Văn học kì ảo là khái niệm đặc trưng của một vấn đề văn học mà ở đây
là cái kì ảo. Văn học kì ảo chứa đựng trong nó những yếu tố ma quái, những
điều lạ lùng hay những sự kiện, con người không có thực. Có thể kể ra những
gương mặt văn học kì ảo nổi tiếng như: Balzac, Hoffman, Akinari, Lỗ Tấn…
Ở Việt Nam, yếu tố kì ảo thật ra không hề xa lạ, trái lại nó gắn liền với văn
học dân tộc ngay từ lúc mới chào đời. Điều này được phản ánh rõ trong các
sáng tác văn học dân gian và trong các tác phẩm cổ xưa, những tác phẩm
hoang đường kì lạ chiếm lĩnh đời sống của mọi thành viên, tầng lớp xã hội.
Bằng cách khai thác tối đa thế mạnh từ đặc trưng của yếu tố kì ảo, những sáng
tác ngôn từ của các nhà văn trung đại xứng đáng được gọi là những “kì văn”.
Với đặc trưng nhận thức và phản ánh cuộc sống bằng những yếu tố thần kì,
linh dị, kì ảo, các sáng tác này dễ dàng giúp tầng lớp nho sĩ vốn bị kìm tỏa
trong tam cương ngũ thường tìm được con đường để giải thoát những ẩn ức
dồn nén, đồng thời qua đó bộc lộ suy tư chiêm nghiệm về cuộc đời. Và như
một tất yếu, người đọc đón nhận và xem những chuyện kì lạ hoang đường đó
là có thật – điều này xuất phát từ niềm tin mang tính chất tâm linh vào những
lực lượng thần bí, siêu nhiên trong vũ trụ. Đây chính là nhân tố quan trọng
khiến văn xuôi có yếu tố kì ảo đương đại, dù chịu ảnh hưởng và tác động của
văn học phương Tây vẫn không ngừng bám chặt để hút dưỡng chất từ truyền
thống. Càng về sau, với sự đa dạng của đề tài, nội dung, các sáng tác kì ảo
phần nào lột tả được chân thực cuộc sống với đủ mọi gam màu sáng tối. Như
vậy, văn học kì ảo được xem như là bộ phận văn học nhận thức và phản ánh
cuộc sống từ đặc trưng và thế mạnh của những yếu tố khác lạ, phi thường, đôi
khi vượt ra khỏi khả năng nhận thức thông thường của lí trí.
Khác với các thể loại văn học khác từ lâu đã được các nhà lí luận văn
học nghiên cứu, văn học kì ảo là một thể loại tương đối mới. Mặc dù cho đến
nay vẫn còn nhiều tranh cãi chưa hoàn toàn thống nhất nhưng nhìn chung các
nhà nghiên cứu phương Tây như Vax, R. Cailois, Todorov… đều cho rằng
văn học kì ảo là một thể loại văn học độc lập, ra đời khoảng từ thế kỉ XIX
hoặc sớm hơn một chút. Tuy nhiên, có một số nhà nghiên cứu còn đưa ra một
cái mốc chính xác là năm 1764 với tác phẩm "Lâu đài Otrante” của Horace
Walpole. Nói như P. Castex trong cuốn "Truyện kì ảo Pháp từ Nodier đến
Maupassant”, bản chất thể loại này là "sự đột nhập dữ dội của cái huyền bí
vào khuôn khổ đời thực”. Và để minh hoạ cho quan điểm này của mình ông
đã so sánh một câu chuyện cổ tích với một tác phẩm văn học kì ảo hiện đại để
thấy được rằng sự khác nhau căn bản ở đây chính là trong câu chuyện cổ phép
màu là tự thân nó, mọi khả năng đều có thể xảy ra và chẳng gây nên bất kì
một sự ngờ vực nào. Còn trong một tác phẩm văn học kì ảo hiện đại thì sự
linh ứng buộc người ta phải ngờ vực, phải đặt câu hỏi: liệu đó có phải là sự
trùng hợp ngẫu nhiên.
Quan điểm trên của P. Castex đã tìm được sự đồng tình của các nhà
nghiên cứu khác ở Pháp, Vax khẳng định: "Truyện kì ảo trong khi vẫn trú ngụ
trong thế giới của chúng ta, muốn giới thiệu với chúng ta những người cũng
giống như chúng ta, nhưng bất ngờ phải chứng kiến những điều mà chúng ta
không thể giải thích nổi”[33;17]. Như vậy, có thể thấy "sự kì ảo" về bản chất
là sự hiện diện của cái bất khả thi trong khuôn khổ những quy luật đã được
chấp nhận. Tác phẩm kì ảo thường đưa ra những bí ẩn không thể giải thích
nổi, làm xáo trộn trật tự tự nhiên và thách thức những đầu óc duy lí thông
thường. Đó là một thế giới, nơi cái thực và cái ảo, cái tự nhiên và cái siêu
nhiên xâm nhập lẫn nhau. Trong một sáng tác kì ảo chân chính, yếu tố "thực"
sẽ làm cho tác phẩm có ý nghĩa xã hội thực tiễn và nhân văn, còn yếu tố "ảo"
sẽ tạo ra một hiệu ứng tâm lý thẩm mĩ mạnh mẽ và trực tiếp. Vai trò của yếu
tố này trong tác phẩm kì ảo là ở chỗ nó làm đầu óc độc giả đôi khi phải làm
việc hết công suất, bởi vì đây là loại truyện thường có kết cấu mở, có tính đa
nghĩa để độc giả có nhiều khả năng chọn lựa cho mình một lời giải.
Lần theo hành trình của văn học kì ảo thế giới, ta thấy đó thật sự là một
dòng chảy liên tục từ quá khứ đến hiện tại và trở nên gần gũi, quen thuộc với
con người. Trước tiên là dòng truyện kì ảo cổ đại, thường gắn với thần thoại,
cổ tích, truyền thuyết… Nó gắn với niềm tin chất phác, ngây thơ và tuyệt đối
của con người vào các thế lực siêu nhiên, thể hiện nhu cầu, khát vọng nhận
thức, cải tạo thế giới cũng như số phận của mình ở mức độ sơ khai, đơn giản
nhờ vào sự phù trợ của những bà tiên ông bụt. Đồng thời đó cũng là lời giải
thích cho những hiện tượng tự nhiên, xã hội mà họ không thể lý giải nếu
không tìm đến yếu tố kì ảo. Ở Việt Nam, khởi nguồn là những sáng tác như:
Thần trụ trời - giải thích sự hình thành mặt đất, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh - lí giải
lũ lụt hàng năm và cách phòng ngừa những cơn lũ đó. Hay những truyền
thuyết về người thực, việc thực song lại được bao phủ bởi ánh sáng lung linh,
hư ảo như Thánh Gióng, An Dương Vương… Còn dòng truyện kì ảo trung -
cận đại, dù vẫn mang bóng dáng của văn học dân gian nhưng đây là những
sáng tác đậm dấu ấn cá nhân tác giả, gắn với sự giác ngộ, sự ý thức của con
người với thực tế cuộc sống. Nó không còn tính chất nguyên sơ, thuần khiết
như buổi ban đầu mà như một thế giới riêng, một thế giới với những lâu đài,
hầm mộ, thành quách… một thế giới con người không thể đặt chân đến được.
Các sáng tác văn học nước ngoài càng tô đậm thêm cho khuynh hướng sáng
tác kì ảo giai đoạn này, chẳng hạn như: Miếng da lừa của Banzăc, Rượu ngon
và quỷ của Hoffmann, Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu… Trong xã hội trung
đại Việt Nam, trình độ tư duy của con người đã phát triển, thoát khỏi thế giới
quan thô sơ, ấu trĩ. Ở thời kì này, con người phải chịu nhiều áp bức, bất công
do sự hà khắc của chế độ phong kiến. Khi thất vọng trước thực tại đầy đen tối,
người ta mượn yếu tố kì ảo để thể hiện ước mơ về hạnh phúc, công lí (ví dụ
truyện cổ tích Tấm Cám, Thạch Sanh....). Bởi theo tư duy của người xưa, chỉ
các lực lượng siêu phàm mới đủ sức thay đổi trật tự xã hội, đem lại chiến
thắng cho cái đẹp. Trong văn học viết trung đại nước ta, yếu tố kì ảo được
biểu hiện rõ rệt nhất ở thể loại truyền kì. Đó là những câu truyện cổ kim mang
nhiều yếu tố hoang đường, được các bậc trí giả sử dụng với dụng ý phản ánh
hiện thực cuộc sống và thể hiện quan niệm sống trước cuộc đời. Ví dụ:
Truyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả... Cũng qua thể văn này, họ có thể gửi
gắm vào đó những bài học để răn dạy, giáo huấn con người. Màu sắc hoang
đường kì ảo làm mềm đi, mờ đi tính giáo huấn lộ liễu. Văn học kì ảo hiện đại
ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XVIII, đầu XIX ở phương Tây với những đại
diện ưu tú như Hoffmann, Edgar Poe… nó đi sâu khai thác nội tâm, khám phá
những khoảng sáng tối ngay trong tâm hồn mỗi con người. Khác với tư duy
của các nhà văn cổ -trung đại, người ta không còn tin một cách ngây thơ vào
thế giới huyền thoại, cổ tích nữa. Giờ đây, nó đã trở thành một thủ pháp nghệ
thuật đắc lực để nhà văn nắm bắt mọi biểu hiện của cuộc sống.
Yếu tố kì ảo xuất hiện từ truyền thống đến hiện đại ở cả Đông - Tây và
đều mang những đặc trưng riêng. Càng về sau các sáng tác đậm chất kì ảo
xuất hiện trong văn học ngày càng đa dạng, phong phú. Cùng với đó là sự đổi
mới về tư duy nghệ thuật trong sáng tạo văn chương, khiến văn học kì ảo trở
thành một bộ phận không thể thiếu trong dòng chảy của văn học nhân loại. Dù
trải qua các thời kì lịch sử khác nhau, nhưng đặc trưng chung nhất của văn
học kì ảo là tính ước lệ, ẩn dụ, tạo ra những biểu tượng nghệ thuật, những
hình tượng đa nghĩa. Độc giả khi đứng trước một sáng tác có yếu tố kì ảo vẫn
không bị thoát li hay tuyệt vọng trước hiện thực, mà trái lại, sau khi kết thúc
tác phẩm, con người càng thêm tin yêu vào cuộc sống.
Trong những năm gần đây, các nhà xuất bản liên tục in nhiều tập truyện
được lựa chọn trên một tiêu chí chung là có sử dụng yếu tố kì ảo trong sáng
tác chẳng hạn như: "Truyện kì ảo thế giới" (NXB Văn Hoá Hà Nội 1999);
"Truyện ngắn kinh dị" (NXB Văn Hoá Hà Nội 1997); "Truyện dị thường"
(NXB Văn Hoá Thông Tin, năm 2002); "Truyện ngắn kì lạ” (NXB Lao động,
2003) … Điều này chứng tỏ yếu tố kì ảo càng ngày càng đứng vững trên văn
đàn.
Như vậy, cho đến nay khái niệm "kì ảo" và "văn học kì ảo" vẫn đang
còn tồn tại nhiều vấn đề phức tạp. Nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng văn
học kì ảo là một loại hình văn học độc lập với những đặc trưng riêng biệt. Đó
là một loại hình lớn, bao hàm trong nó nhiều loại tiểu hình, có sức hấp dẫn đối
với công chúng bạn đọc ở cả phương Đông và Phương Tây.
1.2. Cơ sở hình thành các yếu tố kì ảo trong văn học trung đại
1.2.1. Văn học trung đại mang đậm dấu ấn văn học dân gian
Văn học viết Việt Nam hay bất kỳ một nền văn học dân tộc nào khác
đều phát triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của văn học dân gian. Kho
tàng truyện kể dân gian người Việt bao gồm các truyện kể miệng như thần
thoại, truyền thuyết, cổ tích… đã xuất hiện từ rất xa xưa, trước khi có chữ
viết. Trong đó nhiều truyện kì vĩ nói về cội nguồn dân tộc, giống nòi, có phần
chắc là đã xuất hiện từ thời Văn Lang – Âu Lạc, và vượt qua mọi thử thách
của thời gian với một sức sống trường tồn bất diệt. Chính vì vậy mà khi từ
thời khởi phát, nền văn học viết dân tộc, trong đó có văn xuôi tự sự, đã không
thể không lấy các truyện kể dân gian làm nền tảng. Và cứ thế suốt mười thế
kỉ, kho tàng truyện kể dân gian vẫn cứ luôn luôn như là một tác nhân mạnh
mẽ, chẳng những đã góp phần vào sự hình thành của các thể loại văn học tự
sự mà còn luôn giữ vai trò cơ sở tư tưởng – thẩm mĩ trong các thể loại đó.
Mối quan hệ giữa văn học viết trung đại Việt Nam và văn học dân gian biểu
hiện ở chỗ: văn học viết tiếp thu văn học dân gian từ đề tài, thi liệu, ngôn ngữ,
quan niệm thẩm mĩ ở khía cạnh ngôn ngữ và thể loại. Trong quá trình phát
triển hai thể loại luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung lẫn nhau
để cùng phát triển. Văn học dân gian là nền tảng của sự hình thành các thể
loại tự sự, các tập văn xuôi chữ Hán, các truyện Nôm và các tập thơ ca của
các tác giả… chẳng hạn Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục đã đưa môtip
truyện dân gian như “lấy vợ kì dị”, “gặp gỡ người chết”, “xuống thủy cung”,
“đối thoại người sống và người chết… để tạo ra câu chuyện mới. Qua nghệ
thuật truyền kì, Nguyễn Dữ, Đoàn Thị Điểm đã làm cho văn xuôi chữ Hán
mang màu sắc Việt Nam đậm nét khi ông khéo khai thác những đề tài, cốt
truyện và cả tinh thần tư tưởng chung của truyện dân gian. Truyện Tùng bách
thuyết thoại (Truyền kì tân phả) có thể xem là một dị bản của truyện Lưu
Bình – Dương Lễ; ở đây tuy nhân vật mang những tên khác, nhưng cốt lõi của
truyện cũng vẫn là môtip cho vợ đi nuôi bạn ăn học để giúp bạn thành tài.
Truyện Long Đình đối tụng lục vốn được xây dựng từ những huyền thoại có
môtip cốt lõi là rắn hoặc thuồng luồng quan hệ với người phụ nữ. Hoặc truyện
Dạ xoa bộ soái lục chính là được sáng tạo trên cơ sở truyền thuyết Văn Dĩ
Thành, người thời Trần Trùng Quang, vốn là anh hùng địa phương đã có công
giúp dân trừ dịch bệnh và chống giặc sau được thờ làm thành hoàng làng.
Truyện Nam Xương nữ tử truyện là tác phẩm mà Nguyễn Dữ dựa vào truyện
cổ tích dân gian “Vợ chàng Trương” để sáng tác. Ông đã thêm phần “xuống
thủy cung” cho truyện ngắn của mình thêm đậm sắc điệu truyền kì. “Xuống
thủy cung” vốn là môtip rất phổ biến trong kho tàng truyện dân gian và truyền
kì của các dân tộc Đông Á và Đông Nam Á (ở Việt Nam truyện cổ tích Thạch
Sanh có đoạn nhân vật Thạch Sanh xuống cung vua Thủy Tề, được tặng cây
đàn thần rất đặc trưng cho môtip này). Hay trong Thánh Tông di thảo, ta có
thể nhận rõ các môtip truyện dân gian người lấy ma quỉ, tinh vật, tiên… qua
các truyện cổ tích người mang lốt vật; môtip phép thần phù trợ qua hàng loạt
truyện dân gian có xuất hiện lực lượng thần kì, hiện tượng tương thông với
thế giới khác (địa phủ, âm cung, tiên giới…). Mặc dù nhân vật trong Thánh
Tông di thảo không có sẵn trong dân gian hay lịch sử nhưng với xu hướng
trần tục hóa thần thánh, tác giả đã tạo nên những cuộc tương ngộ tiền duyên
giữa con người và thần thánh nhằm nhấn mạnh đối tượng phản ánh là trung
tâm con người. Truyện Hoa quốc kì duyên của Thánh Tông và cả truyện Từ
Thức hôn tiên lục của Nguyễn Dữ đều được hai nhà văn sử dụng môtip
“người trần lạc vào thế giới thần tiên và kết duyên với tiên nữ” hết sức phổ
biến trong truyện cổ tích thần kì. Trong tác phẩm của Thánh Tông đó là xứ sở
của loài bướm và kết duyên cùng công chúa. Ở Nguyễn Dữ là thế giới hoang
đảo đầy mây nước, nhà nho tài tử Từ Thức sánh duyên cùng tiên đảo. Nhưng
nếu Hoa quốc kì duyên của Thánh Tông còn giữ lại nhiều tình tiết huyền ảo
của cốt truyện dân gian cũ với hương vị tình yêu đầy lãng mạn của các vị thần
thì truyện của Nguyễn Dữ tràn đầy những vấn đề của cuộc sống với những
mâu thuẫn xã hội gay gắt. Nhân vật của Thánh Tông dẫu sao vẫn còn xa lạ
với cuộc đời thường. Chu Sinh khi lạc vào thế giới hoa bướm đã lãng quên cố
hương. Còn Từ Thức khi kết hôn với tiên vẫn khôn nguôi nỗi nhớ dương gian,
nhớ quê hương, người thân với những buồn vui trần tục. Dưới ngòi bút của
nhà văn, cái thần kì cái cổ tích đã được nhào nặn để trở thành chất liệu của
hiện thực, gắn liền với đời thường. Tiếp tục thể truyền kì, Đoàn Thị Điểm
cũng đã có sự tương đồng trong quan niệm về cái đẹp của các tác giả truyện
cổ khi tiếp tục khẳng định tài năng và đức hạnh của người phụ nữ, ca ngợi
những người đẹp biết dùng nhan sắc của mình vào việc cứu nước giúp dân
(truyện Hai nàng công chúa giúp dân, truyện Nguyễn Thị Bích Châu…). Từ
thế kỉ XVIII trở đi là sự bùng nổ các loại thần, ma trong văn xuôi. Cuộc sống
đầy biến động, khi đạo Phật, đạo Giáo được phục hồi, các nhà Nho vốn không
tin vào những sự quái dị theo truyền thống thì lại thấy cần chấp nhận nhiều
yếu tố thần quái khi ghi chép những điều mắt thấy tai nghe, đặc biệt khi ghi
chép lại các truyền thuyết và truyện cổ tích. Vì vậy các tác phẩm giai đoạn
này đều chứa đựng nhiều tư liệu văn học dân gian: Công dư tiệp kí, Lan Trì
kiến văn lục, Tang thương ngẫu lục… Nhiều truyện của Vũ Trinh mang dáng
dấp và lưu giữ một số môtip của truyện kể dân gian. Ví dụ như truyện Thanh
Trì tình trái, gần như một dị bản của Truyện Trương Chi. Truyện phu nhân
Lan Quận công có thể là chuyện thật về trạng nguyên Nguyễn Thực nhưng lại
lưu giữ môtip cô em gái út (trong ba chị em) và việc kén chồng trong truyện
kể dân gian. Cô em gái út bao giờ cũng hiếu thảo, tốt bụng chịu thương chịu
khó, dù vất vả gian nan nhưng cuối cùng sẽ được hạnh phúc. Truyện Tiên ăn
mày lại lưu giữ môtip hai anh em mồ côi và việc phân chia tài sản của cha mẹ.
Người em bao giờ cũng chịu thiệt thòi, thường bị người anh ngược đãi, nhưng
tính tình nhân hậu, hay giúp đỡ người nghèo khó nên cuối cùng được đền đáp
trở nên giàu sang, còn người anh thì bị quả báo, bị trừng phạt, theo như quan
niệm nhân quả của Đạo Phật. Các truyện Báo ân tháp, Thần giữ của, Lôi thủ
pha, Quan thượng thư họ Đỗ… đều lưu giữ trong nội dung và cách kể hạt
nhân của những lời truyền ngôn, đồn đại “đầu đường góc phố” mà tác giả
“nghe và thấy”. Kho tàng truyện dân gian với nhiều tín ngưỡng mà vào lúc
thịnh thời của chế độ phong kiến, nhiều nhà nho coi là dị đoan, đến giai đoạn
này được khai thác rộng rãi như giấc mộng, điềm báo, sự thụ thai thần kì, cầu
cúng khấn vái, biến hóa linh dị…
Dấu ấn văn học dân gian trong văn xuôi trung đại là bằng chứng xác
thực khẳng định ảnh hưởng mạnh mẽ của nó đối với văn học viết. Từ những
môtip, cốt truyện dân gian, các tác giả văn xuôi trung đại đã hư cấu thành
những câu chuyện hoàn chỉnh, vừa có yếu tố hiện thực vừa có yếu tố lãng
mạn, vừa có tính tư tưởng sâu sắc vừa có giá trị nghệ thuật cao.
1.2.2. Văn học trung đại chịu ảnh hưởng của các tư tưởng Nho - Phật -
Đạo
Là một bộ phận của văn hóa trung đại, văn học trung đại không nằm
ngoài qui luật chung chịu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng, tôn giáo Nho – Phật
– Đạo trong quá trình phát triển. Tư tưởng kinh điển và tôn giáo đã cung cấp
cảm hứng, đề tài, chủ đề và gợi ý các thể loại văn học trung đại. Các tôn giáo
và học thuyết Phật, Nho, Đạo đã ảnh hưởng và tạo nên những nét đặc thù
trong quan niệm của người trung đại về bản chất vũ trụ, không gian và thời
gian, thiên nhiên, con người. Tư tưởng tôn giáo và kinh điển còn đem lại hệ
quả quan trọng như: phân biệt văn học linh thiêng và phàm tục; hạn chế sự
biểu hiện cá nhân và ý thức cá nhân; mặt khác đem đến việc đề cao nội dung
đạo đức và tính chất giáo huấn, văn học có mối quan hệ trực tiếp với tư tưởng.
Những quan điểm này có quan hệ đến việc hình thành những đặc trưng về nội
dung và hình thức nghệ thuật của văn chương trung đại. Vì vậy muốn lí giải
những vấn đề thuộc về bản chất của văn chương, cái hay cái đẹp của tác phẩm
văn chương thời trung đại tất yếu phải dựa trên những quan niệm nghệ thuật
đặc thù về thế giới con người thời trung đại. Chẳng hạn, khi tìm hiểu các
truyện trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ hay Thánh Tông di thảo của
Lê Thánh Tông, chúng ta phải thấy được các truyện được viết chịu ảnh hưởng
của quan điểm Nho giáo và Phật giáo, thuyết “nhân quả” của đạo Phật ảnh
hưởng khá rõ trong các kết thúc câu chuyện qua các môtip “tiên được trần tục
hóa”, “người tục được thần tiên hóa”. Các truyện được viết theo quan điểm
Nho gia nhưng tác giả lại bảo lưu những tư tưởng phi Nho khi nói đến những
việc quái dị thường thấy trong tư tưởng của Đạo, Phật: những phép thuật, bói
toán, cầu cúng, tư tưởng luân hồi nghiệp báo hoặc nói về đề tài học hành, coi
trọng đạo học, nghĩa khí, lòng trung thành của nhà nho lại được lạ hóa qua
các yếu tố thần quái, bùa phép. Ở các tác phẩm thế kỉ XVIII-XIX sự ảnh
hưởng của Đạo giáo và Phật giáo càng rõ nét hơn qua các môtip về sự thụ thai
thần kì để nhấn mạnh nguồn gốc vũ trụ của các nhân vật (Công dư tiệp kí,
Tang thương ngẫu lục). Môtip này vốn từ thuật phong thủy và môtip giấc
mộng của Đạo giáo. Trong Lan Trì kiến văn lục lại là quá trình tu tâm của
Phật giáo để có những khả năng phi thường..
Ở Việt Nam, Nho giáo có lịch sử phát triển lâu dài. Theo Nho giáo, mọi
việc đều do ý trời. Họa hay phúc, may hay rủi, vui hay buồn, giàu hay
nghèo… tất cả đều do thiên mệnh tiền định. Để tư tưởng nhân nghĩa, hiếu, lễ,
trí, tín của Nho gia được trọn vẹn thì phải có sự trợ giúp của trời phật, thần
tiên, phải có sự hỗ trợ của phép thuật nhiệm màu, con người phải có niềm tin
vào duyên số, phải tin rằng chết đi vẫn chưa hết vẫn còn linh hồn tồn tại và có
thể tái sinh từ cõi chết trở về.
Phật giáo được truyền bá đến Việt Nam từ đầu công nguyên. Do thâm
nhập một cách hòa bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến rộng
khắp và có ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân. Tư tưởng của Phật giáo cho
rằng nếu ở kiếp này ta làm điều lành, điều tốt thì sẽ có nghiệp tốt, báo ứng
điều lành điều tốt cho kiếp sau. Ngược lại nếu ở kiếp này ta làm điều ác, điều
xấu thì sẽ có nghiệp xấu, báo ứng xấu cho kiếp tiếp theo. Có thể nói trong tâm
hồn mỗi con người Việt Nam đều chứa đựng ít nhiều triết lí nhà Phật, về tiên,
bụt, về kiếp luân hồi, nhân quả, thờ cúng tổ tiên…
Bên cạnh Phật giáo và Nho giáo, Đạo giáo khi vào Việt Nam đã sớm
tìm được chỗ đứng do tư tưởng của Đạo giáo tìm thấy ngay những tín ngưỡng
tương đồng có sẵn từ lâu của người Việt bởi từ xa xưa họ đã rất sùng bái ma
thuật, những quyền lực siêu nhiên, phù phép… Họ có những niềm tin tôn giáo
hết sức mãnh liệt: người chết có thể giao tiếp với người sống, linh hồn đã chết
cần phải được cầu cúng, lập đàn tràng để giải oan, có những phép thuật linh
nghiệm có thể cứu giúp con người… Các phép thuật, bói toán… của Đạo giáo
đã ảnh hưởng và được thể hiện khá phổ biến trong tư tưởng của nhân dân.
So với văn học dân gian, ảnh hưởng của Nho – Phật – Đạo đối với văn
học viết sâu đậm hơn. “Văn hoá Nho giáo không khuyến khích hư cấu, tưởng
tượng, chủ trương không nói chuyện “quái, lực, loạn, thần”, “kính quỷ thần
nhi viễn chi” thì chính học thuyết đề cao vai trò của Tâm, “vạn pháp duy tâm
tạo” (toàn bộ thế giới là hình ảnh do tâm tạo ra) đã đề cao vai trò của trí
tưởng tượng bay bổng của nhà văn, giúp người viết vượt lên trên tình trạng
sao chép đơn giản hiện thực để hư cấu, tưởng tượng. Học thuyết về kiếp, về
cuộc sống sau cái chết và vấn đề tái sinh của Phật đã mở ra cho văn học
truyền kì một nguồn mạch tư duy hết sức phong phú. Và triết học Lão Trang,
triết học biện chứng tự nhiên, lại đặc biệt nhấn mạnh sự biến hoá qua lại giữa
hai mặt đối lập, những hiện tượng pháp thuật phù phép để cứu cánh cho cuộc
sống. Theo đó, âm và dương, hoạ và phúc, thực và hư, nhược và cường, chân
và ảo, v.v... là một loạt những cặp phạm trù có thể được nhìn dưới quan điểm
biến dịch [62]”. Như vậy, sự ảnh hưởng của các tư tưởng Nho – Phật – Đạo
cũng là cơ sở quan trọng hình thành nên yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại.
1.2.3. Văn học trung đại gắn liền với tín ngưỡng dân gian người Việt
Tín ngưỡng có thể hiểu một cách nôm na là niềm tin, sự ngưỡng mộ đối
với một đối tượng siêu nhiên nào đó có ảnh hưởng, chi phối đến đời sống sinh
hoạt của con người. Như vậy, tín ngưỡng là một sản phẩm văn hoá do con
người quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành. Tín
ngưỡng là niềm tin về những điều linh thiêng, những sức mạnh huyền bí, vĩ
đại mà con người chỉ cảm nhận được mà khó có thể nhận thức được. Tín
ngưỡng dân gian Việt Nam chủ yếu dựa trên lòng biết ơn và ngưỡng mộ của
các thế hệ sau đối với tiền thần, tiền nhân. Tín ngưỡng dân gian khá phong
phú, nó là tâm thức tôn sùng các lực lượng siêu nhiên như: tôn sùng tự nhiên
(mặt trời, mặt trăng, nước, mưa, gió, sấm, chớp…), các loại cây trồng (bầu bí,
lúa, ngô, đậu…), vật nuôi (trâu, bò, lợn…); tôn sùng vật tổ (vật tổ chim, cá,
cây, trâu…), tôn sùng tổ tiên (quốc tổ, thành hoàng, tổ tiên, ông bà); tôn sùng
các anh hùng dân tộc, anh hùng địa phương, người có công lớn với dân với
nước: Thánh Gióng, Đức thánh Trần, Tản Viên Sơn Thánh, Bà Trưng, Lý
Ông Trọng… Từ tâm thức sùng bái đó, trong các cộng đồng hình thành các
phong tục tập quán và nghi lễ thờ cúng. Con người thờ cúng tổ tiên, cúng tế
người chết, thờ nhiên thần, thiên thần… Bởi con người có quan niệm về thế
giới: mọi vật đều có linh hồn, thuyết luân hồi đầu thai chuyển kiếp của đạo
Phật, triết lý sinh tử của Nho giáo, quan niệm chết là về cõi tiên của Đạo giáo,
nhận thức của dân gian chết là một dạng sống mới ở môi trường khác và niềm
tin âm phù dương trợ đã hình thành tục thờ cúng. Và bởi mọi người quan
niệm rằng khói hương sau khi khấn vái, thờ cúng sẽ là mối liên thông giữa
người sống và người chết, giữa con người với trời, phật, thần tiên, ma quỷ,
giữa cõi trần với cõi âm… Những nghi lễ và phong tục thờ cúng vì thế rất
quen thuộc đối với người Việt khắp nơi trong cả nước. Mỗi loại tín ngưỡng
này đều có nguồn gốc sâu xa từ quan hệ giữa con người với các đối tượng
siêu nhiên kia. Chẳng hạn, tại sao con người lại sùng bái tự nhiên? Là bởi
trong sinh hoạt và lao động, hằng ngày hằng giờ tự nhiên gắn bó mật thiết và
chi phối sự thành bại, tốt xấu, hay dở trong hoạt động của con người. Nó nảy
sinh sự sợ hãi hay e ngại, tâm lí ngưỡng mộ hay sùng bái, cũng từ đó con
người nhìn nhận tự nhiên như những đấng linh thiêng, thần thánh. Con người
đưa tự nhiên vào bàn thờ các gia đình hay trong miếu điện. Tự nhiên thành
biểu tượng trong tín ngưỡng thờ cúng, trong văn hóa mỗi dân tộc, trong văn
học và nghệ thuật nhiều thời đại. Hoặc tại sao lại có tín ngưỡng sùng bái con
người? Con người xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” để bắt đầu chú ý
về mối quan hệ giữa thế giới hữu hình và vô hình, nhất là giữa sự sống và cái
chết. Họ tin rằng mỗi con người đều có phần hồn và phần xác. Trong nhận
thức dân gian, thể xác và linh hồn của con người vừa gắn bó vừa tách biệt.
Khi con người chết đi, xác hòa vào cát bụi nhưng phần hồn vẫn tồn tại ở một
thế giới khác và liên hệ với người sống bằng hiện tượng linh hồn. Người ta tin
rằng người sống có thể liên thông với người đã khuất qua giấc mộng, chiêm
bao… Người sống có thể cầu xin người chết che chở, phù trợ cho sự bình yên
của cuộc sống hàng ngày. Không biết sự cầu xin đó có hiệu quả như thế nào
nhưng trước hết con người thấy thanh thản về mặt tinh thần, điểm tựa tinh
thần quan trọng cho cuộc sống. Người chết cần có sự cúng lễ của người sống
để có thể yên ổn ở thế giới bên kia, không thành ma đói lang thang, còn người
sống có thể an bình, thanh thản khi được che chở, phù trợ một cách bí ẩn của
người chết. Với mong ước bình dị và niềm tin có thật ở người Việt, thờ tổ tiên
được coi là thứ tín ngưỡng ở mọi lớp người. Việc ứng xử với quá khứ, với
những người đã khuất không phải chủ yếu vì họ, cho họ mà là vì những người
đang sống, chính vì thế tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên tồn tại vững chắc trong
mọi thời gian. Lý do cho sự tồn tại đó còn là lòng yêu nước, tinh thần tự hào
dân tộc. Một đất nước luôn bị giặc ngoại xâm dòm ngó, vận mệnh đất nước và
số phận giống nòi phụ thuộc vào ý chí tự lực, tự cường của mỗi người dân đất
Việt. Trong tâm thức người Việt, họ tôn sùng những người anh hùng đã góp
phần quan trọng giữ gìn đất nước. Tín ngưỡng thờ thần vì vậy được mọi
người chấp nhận một cách hết sức tự nhiên.
Tín ngưỡng dân gian người Việt giản dị như chính con người họ. Đối
với người Việt, tín ngưỡng đôi khi chỉ là sự tin tưởng vào lời thề son sắt trong
tình yêu đôi lứa, lòng tin vào quy luật nhân quả trong cuộc đời, tin vào duyên
kiếp, số mệnh, bói toán. Từ lòng tin đó họ tự răn dạy bản thân, con cháu, tự an
ủi trong những lúc khó khăn… Cũng từ đó, người xưa tin vào thế giới trời,
phật, thần, tiên. Thế giới siêu nhiên với những phép lạ nhiệm màu, huyền bí
có thể giúp con người thực hiện công lý, trừng trị những kẻ bạc ác, đem đến
hạnh phúc cho con người, nhất là những con người nhỏ bé, số phận bất hạnh.
Như vậy, tín ngưỡng dân gian chính là cơ sở để các tác giả trung đại tạo nên
những tác phẩm chứa đựng những yếu tố kì ảo, hoang đường – phương tiện
để khám phá thế giới tâm linh huyền bí tồn tại ngay trong cuộc sống con
người.
Chương 2
NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI TRUNG ĐẠI
2.1. Cốt truyện kì ảo
“Cái kì ảo tạo ra cách phản ánh riêng biệt” (Todorov) bởi năng lực sáng
tạo, tìm ra một hình thức nghệ thuật phù hợp, tương ứng với chất liệu là một
trong những tiêu chí quan trọng trong sáng tác của nhà văn. Sự hiện diện của
nó làm cho tác phẩm mang những nét đặc trưng về hình thức khiến người đọc
dễ nhận diện và có những ấn tượng nhất định.
2.1.1. Cốt truyện bắt nguồn từ các môtip kì ảo
Một trong những phương tiện hữu hiệu làm cho tác phẩm trở nên mơ
hồ, đa nghĩa nhuốm màu sắc hoang đường là việc vận dụng các môtip thần
thoại, các hình thức biến hoá hư ảo. Dấu ấn thần thoại, truyền thuyết, cổ tích
trong cách xây dựng thế giới hình tượng của tác phẩm, việc vận dụng các
môtip kì ảo để khắc hoạ tính cách, số phận nhân vật cũng như xây dựng cốt
truyện có tác dụng lớn trong việc gia tăng biên độ ý nghĩa và mở rộng phạm
vi liên tưởng ở người đọc.
Môtip là “thành tố bền vững, vừa mang tính hình thức vừa mang tính
nội dung của văn bản văn học; Môtip có thể được phân xuất ra từ trong một
hoặc một số tác phẩm văn học của một nhà văn, hoặc trong văn cảnh một
khuynh hướng văn học, một thời đại văn học nào đó” [1; 204]. “Các môtip
thường di trú theo thời gian và thay đổi hàm nghĩa bởi mỗi thời đại tiếp sau.
Nhiều môtip văn học gần giống như môtip thần thoại, luôn đi vào kinh
nghiệm tinh thần của văn hóa nhân loại”[1; 206].
Môtip kì ảo là một thành tố bền vững, một bộ phận lớn hoặc nhỏ đã
được hình thành ổn định và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học
nghệ thuật. Vì vậy môtip kì ảo có thể được hiểu là một thành tố được hình
thành từ trí tưởng tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố kì lạ, siêu nhiên,
khác lạ. Nó trở thành một hệ thống mang tính ổn định trong sáng tác văn học.
Đó là quan niệm của chúng tôi về môtíp kì ảo. Những môtip được các nhà văn
đã sử dụng trong các tác phẩm như: môtip gặp Tiên, môtip hoá thân, môtip
quả báo, đầu thai chuyển kiếp, thần chú...
Trước hết là môtip người gặp Tiên. Đây là kiểu môtip thường thấy
trong các truyện thần thoại hay cổ tích. Khi nhân vật trong truyện gặp nạn,
cần được giúp đỡ (những nhân vật này phải có hoàn cảnh khó khăn, nghèo
khổ hoặc đang rơi vào bế tắc tuyệt vọng) lúc này những ông Bụt bà Tiên hiền
lành có phép thuật sẽ xuất hiện. Họ hiện ra để giúp nhân vật hoàn thành mơ
ước mà kết thúc tác phẩm bao giờ cũng là cuộc sống hạnh phúc sẽ đến với
người lương thiện. Kế thừa môtip này của truyện xưa, các tác giả trung đại đã
sáng tạo thêm nhiều tình tiết mới khác truyền thống, góp phần mang đến cho
tác phẩm sự mới lạ và hấp dẫn đối với người đọc. Trong Thánh Tông di thảo,
đó là sự phù trợ của thần tiên đối với nhân vật “ta”, giúp nhân vật “ta” giải
quyết mâu thuẫn. Chẳng hạn trong Mai Châu yêu nữ truyện, nhờ sự giúp đỡ
của Phù Đổng Thiên Vương nhân vật “ta” đã trừ được con yêu nữ ở Mai Châu
khiến cho “nữ yêu kinh sợ, ẩn trong cỏ rậm ven sông đầm, không dám tác
quai tác quái như trước nữa”. Trong Mộng kí khi mà nhân vật “ta” tưởng
chừng như bế tắc trước những điều bí ẩn trong bài thơ kêu oan của hai oan
hồn ở hồ Trúc Bạch thì chính sự xuất hiện và chỉ dẫn của vị tiên thổi địch đã
giúp nhân vật “ta” khám phá được những điều thần bí trong hai bài thơ ấy và
giải được án oan của “quả chuông vàng và cây đàn tỳ bà bên bờ hồ”. Với
Lãng Bạc phùng tiên hình thức phù trợ của các vị thần tiên dành cho nhân vật
“ta” lại được thể hiện dưới dạng lời khuyên của vị khách tiên dành cho Lê
Thánh Tông giúp nhà vua làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình: “…Vương tử
phải giữ tấm thân trong sáng, chí khí tinh nhanh, cắt đặt hợp lòng người,
ngôn hành đáng gương mẫu làm cho đời được thịnh trị, lên chốn xuân đại.”
Như vậy môtip chung của hình thức thần tiên phù trợ này là: nhà vua gặp việc
nan giải – cầu khấn thần tiên – thần tiên hiện về giúp đỡ.
Ngoài ra, yếu tố kì ảo còn được thể hiện dưới dạng các thế lực siêu
nhiên (thần tiên, ma quỷ) giúp đỡ con người đạt được ước nguyện, ban cho
con người những khả năng vượt trội mà thông thường khó có thể có được,
đem đến cho con người danh vọng, hạnh phúc. Điều này được xây dựng bằng
các môtip như: môtip phù trợ bằng cách tặng cho con người những bảo vật,
phú cho họ những khả năng mà người thường không có được giúp con người
chống chọi, đối phó với những thử thách, khó khăn. Nàng Ngọa Vân trong
Ngư gia chí dị trước khi chia tay về lại với Đảo ấp đã trao cho Thúc Ngư “một
tí nước bọt trắng, đem hòa với nước mặn mà uống thì xuống nước không
chìm, không bao giờ bị nạn chết đuối” (Thánh Tông di thảo). Môtip thứ hai là
môtip phù trợ bằng cách giúp cho nhân vật đỗ đạt công danh công thành danh
toại, đem lại vinh hiển cho bản thân, họ hàng, dòng tộc và người giúp đỡ
thường có quan hệ thân thích máu mủ với nhân vật từ kiếp trước. Trong Hiếu
đễ nhị thần truyện, nhân vật người anh sau khi chết đi thành Sơn Âm đã giúp
con mình bằng cách đưa hai phong bì thư cho Tử Khanh giấu kĩ, “đợi đến ba
ngày trước khi vào trường thi, xem chữ ghi ở trên, bắt cháu học thuộc lòng,
và có thể đỗ nhỏ”. Đến kì thi, Tử Khanh nhất nhất làm theo lời anh dặn, “quả
nhiên khoa ấy con của anh đỗ tú tài. Gia tư từ đấy dần trở nên giàu có”.
Như vậy nếu không có sự phù trợ, giúp đỡ của các thế lực siêu nhiên
thì con người khó lòng có thể thực hiện được những việc kì lạ và khó khăn ấy.
Qua đó, dường như các tác giả muốn gửi gắm ước mơ của con người muốn
làm được những điều phi thường, chế ngự được thiên nhiên, vũ trụ, định đoạt
hạnh phúc cho chính mình và ban tặng phần thưởng xứng đáng cho những
con người hiền lành, nhân nghĩa.
Loại môtip thứ hai là môtip hoá thân. Kiểu môtip này đã trở nên quen
thuộc trong văn học phương Tây hiện đại. Chúng ta có thể bắt gặp chuyện con
người bị biến thành con gián, con tê giác, con bọ, cái ghế... trong các tác
phẩm của Kafka, Ionetxcô... Tất cả những truyện kì quặc đó đều phản ánh
tình trạng con người bị tha hoá, mất dần nhân tính, trở nên xa lạ với chính
mình. Ở Việt Nam, cũng có khá nhiều tác phẩm sử dụng thành công môtip
này, không chỉ nhằm làm biến dạng hình hài mà còn có sự thay đổi trong tâm
hồn, tính cách nhân vật. Vì một nguyên nhân hay sau một sự kiện nào đó nhân
vật biến dạng theo một trong hai chiều hướng: tốt hoặc xấu. Trong văn học
dân gian, kiểu biến hoá này có ở nhiều truyện: chàng Sọ Dừa biến thành một
chàng trai khôi ngô tuấn tú, chàng Cóc chính là một hoàng tử đẹp trai... Trong
văn xuôi trung đại, môtip hóa thân này được thể hiện ở hai dạng thức: hóa
kiếp người thành vật, vật thành người và hóa kiếp người thành tiên, tiên thành
người.
Hóa kiếp người thành vật thể hiện ở hiện tượng người hóa rắn, hóa hổ.
Các truyện về sự hóa kiếp người – hổ - người như: Hóa hổ - Tang thương
ngẫu lục, Hổ bộc – Hát đông thư dị… Hóa kiếp người thành rắn, người mang
lốt rắn: Thị Lộ hóa thành rắn bò xuống nước khi Nguyễn Trãi bị kết tội,
hoàng tử khi bị lên đậu hóa ra con thuồng luồng bò đi (Tang thương ngẫu
lục), hai con trai Nhược Chân hóa hai con rắn vàng khi sư làm phép trừ tà
(Truyền kì mạn lục); rắn hóa làm chàng trai đẹp cưỡng hiếp người phụ nữ
(Lan Trì kiến văn lục), bà già đội lốt giao long xin ngủ trọ nhà mẹ con người
nghèo (Truyện hồ Ba Bể - Công dư tiệp kí)… Môtip này được nhà văn vận
dụng một mặt tạo sự lạ hóa cho cốt truyện đồng thời qua đó thể hiện tín
ngưỡng về vật thiêng của nhân dân. Hiện tượng hóa kiếp này xuất phát từ học
thuyết về linh hồn trong lí thuyết vật linh nguyên thủy: những con vật nhờ có
thuộc tính thay da nên thường đóng vai trò quan trong về phục sinh và bất tử.
Theo đó, một số con vật như rắn, hổ, thuồng luồng… rất được kính trọng.
Chúng được xem là do người biến ra nên rất linh thiêng. Chúng ta cũng có thể
nhìn nhận hiện tượng này từ quan niệm của Đạo giáo. Con người chết đi rồi
sống lại theo nguyên hình hay chuyển sang dạng sống khác.
Xuất phát từ quan niệm vạn vật hữu linh, dân gian ta cho rằng vật sống
tồn tại lâu ngày sẽ thành yêu. Trong các tác phẩm văn xuôi trung đại, đó là sự
biến hiện của các tinh vật: tinh dê (con dê cô gái gặp một ngày hóa thành
chàng trai chung sống hàng đêm – Dương phu truyện, Thánh Tông di thảo),
tinh chuột (con chuột đêm đêm hóa tên gian phu ân ái với vợ anh học trò –
Thử tinh truyện, Thánh Tông di thảo ), tinh khỉ (lân đá và tinh khỉ hóa thành
Kiều Nương và Dương Giới để lấy nhau – Việt Nam kì phùng sự lục) hay con
cáo và con khỉ hóa thành hai người đàn ông vào yết kiến vua (Đà giang dạ ẩm
kí – Truyền kì mạn lục). Không chỉ là con vật, đồ vật, cây cối lâu ngày không
dùng đến cũng thành yêu. Chúng thường hóa ra cô gái đẹp đêm đêm tình tự,
trêu đùa cùng các thư sinh: tinh hoa Đào, Liễu (Tây viên kì ngộ kí – Truyền kì
mạn lục), tinh bướm (Hoa quốc kì duyên – Thánh Tông di thảo)… Thậm chí
chúng còn hóa hình thành người: chuông và đàn tì bà (Mộng kí – Thánh Tông
di thảo); mảnh sành và quần áo rách hóa người đi ăn trộm cá nhà Nguyễn Hãn
(Qủy đấu – Lan Trì kiến văn lục).
Hóa kiếp người thành tiên biểu hiện quan niệm hóa thân của Đạo giáo.
Đạo giáo thần tiên chủ trương sống với trăng sao, sông nước, cây cỏ, luyện
thuốc tiên đan cầu trường sinh và tu tiên kéo dài sự sống là mục đích tối cao.
Có thể thấy hiện tượng hóa kiếp thành tiên ở các tác phẩm như Áp Lãng chân
nhân – Nam Ông mộng lục, Từ Thức hôn tiên lục –Truyền kì mạn lục, Hoa
quốc kì duyên – Thánh Tông di thảo, Bích câu kì ngộ - Truyền kì tân phả…
Hóa kiếp thành tiên dù bằng cách tu luyện hay có phép thần tiên thể hiện quan
niệm báo ứng luân hồi trong dân gian: “người chăm làm việc thiện tuy hãy
còn sống, tên đã ghi ở Đế Đình, người hay làm ác không đợi đến chết, án đã
thành ở địa phủ” (Truyền kì mạn lục). Cũng theo quan niệm dân gian, hai cõi
tiên – tục rất gần nhau, thường diễn ra những cuộc kì ngộ giữa người và tiên:
tiên hóa thành người với những thú chơi thanh tao nơi cao sơn lưu thủy như
đánh cờ, thổi sáo (Lãng bạc phùng tiên – Thánh Tông di thảo, Hải đảo tiên –
Lan Trì kiến văn lục), có thể hiện thành người để thử lòng nhân, hay đến cõi
trần làm người thế tục với những nhu cầu ăn ở, tình cảm, xây dựng gia đình,
sinh con đẻ cái…Với những duyên cớ này hầu hết những thần tiên được trần
tục hóa đều là những cô gái đẹp, tốt bụng, giỏi giang – xem như là phần
thưởng cho những chàng trai có hoàn cảnh khó khăn, có tình yêu chân thành.
Đó là các tiên nữ: Giáng Hương (Từ Thức hôn tiên lục), nữ thần (Nhất thư thủ
thần nữ), Giáng Kiều (Bích câu kì ngộ), Ngọa Vân (Ngư gia chí dị)…
Môtip linh ứng gắn với triết lí thiện giả thiện báo, ác giả ác báo. Môtip
này xuất phát từ tư tưởng báo oán của đạo Phật, nếu con người làm điều ác tất
sẽ gặp quả báo. Nghệ thuật dùng luật báo ứng vừa để cảnh tỉnh người đời lại
vừa chứa đựng niềm khát khao công lý, vừa là sự khúc xạ nỗi thất vọng trước
một thực tại còn nhiều phi lý, bất công. Chân lí mà môtip này thể hiện là mọi
người đều phải trả giá thích đáng cho những hành động tội lỗi của mình.
Những hành vi trái đạo đức lập tức gặp sự hiển linh của thần: Ngô Tuấn Củng
suốt đời không đỗ đạt vì đã phụ bạc một người con gái (Thi đỗ do tiền định -
Sơn cư tạp thuật), Nguyễn Tự Cường chết, dòng dõi con cháu nghèo khổ vì
khi đương quan đã đánh tráo hai cây đèn thờ bằng vàng trong chùa Quang
Minh (Nhà sư Bật Sô – Công dư tiệp kí), tên vô lại bị thần đuổi ra khỏi nhà vì
tham của mà giết hai đứa con (Thần giữ của – Lan trì kiến văn lục)… Không
chỉ là sự báo ứng vì những điều sai trái, môtip linh ứng còn thể hiện ở sự ứng
báo, sự gặp trở lại những điều lành ứng với việc làm thiện của con người hay
sự ứng nghiệm có tính tích cực những tiên tri, đoán định của thần. Hai mẹ con
nhà nọ tốt bụng cho bà già ăn ngủ nhờ qua đêm nên được báo trước tai họa và
cách tránh thoát khỏi nạn lụt, sản sinh ra dòng họ (Truyện hồ Ba Bể - Công dư
tiệp kí), Phạm Tử Hư một lòng thành kính thờ thầy học Dương Trạm trong ba
năm đã cảm kích đến thiên đế nên cho anh đỗ tiến sĩ, mọi việc họa phúc gia
đình đều được thầy báo cho biết trước (Phạm Tử Hư du thiên tào lục – Truyền
kì mạn lục), Nguyễn Tử Khanh với tấm lòng “thờ anh như cha nuôi cháu như
con” được thượng đế thương tình nên con cháu đều đỗ tú tài, gia tư trở nên
giàu có (Hiếu đễ nhị thần truyện – Thánh Tông di thảo)… Hay sự ứng
nghiệm những lời tiên đoán, phản báo của thầy tướng số về sự thay đổi triều
đại trong Tang thương ngẫu lục: việc vua Ý Tông nhường ngôi cho Hiển
Tông thật đúng với lời thầy bói xem cho Nguyễn Công Hãng (Nguyễn Công
Hãng) hay việc nhà Lê mất không bao lâu sau đúng như lời hồn ma trong giấc
mơ của ông Trần Văn Vỹ. Sự linh ứng còn thể hiện thông qua những giấc
mộng của con người. Mộng trở thành thật: sự thật cuộc đời Chu Sinh (lấy
Đồng Nhân rồi sinh con trai, 12 năm sau đi đánh giặc ở núi Hoa Điệp, dâng
công triều đình rồi mất…) y hệt giấc mộng với mối tình hẹn ước Châu Trần
cùng Mộng Trang, làm phò mã quốc mẫu núi Hoa… Hai con trai của Trọng
Qùy đúng như lời hồn ma Nhị Khanh báo mộng lớn lên đi theo chân nhân họ
Lê và làm quan (Khoái Châu nghĩa phụ truyện – Truyền kì mạn lục). Vợ quan
Hành Khiển có mang sinh ra hai con trai ngay sau giấc mơ bị hai con rắn cắn
vào mạng sườn trái (Đào Thị Nghiệp oan kí - Truyền kì mạn lục ). Chính
những môtip thần kì quái dị này tham gia vào diễn biến cốt truyện tạo sự lôi
cuốn, hấp dẫn và ý muốn tìm kiếm khám phá nơi người đọc.
Môtip đầu thai chuyển kiếp lại phản ánh mơ ước của con người được
sống vĩnh cửu, mãi mãi. Dù đã chết ở kiếp này nhưng vẫn có thể sống lại ở
kiếp sau. Kiểu môtip này có nhiều trong văn học dân gian (Tấm Cám, Sọ
Dừa…). Trong văn xuôi trung đại, đặc biệt là ở thể loại truyền kì môtip này
thể hiện khá rõ. Trương Ba nhờ có tư tính tốt nên khi chết được thần làm phép
cho hóa sinh vào xác anh hàng thịt (Đế Thích - Công dư tiệp kí, Truyện
Trương Ba – Thính văn dị lục), nhà sư Bật Sô vì có công với Phật giáo nên
được hóa kiếp làm Minh Đế Trung Hoa (Sư Bật Sô – Công dư tiệp kí). Con
người sau khi chết đi, linh hồn có các phẩm chất tốt là thần thánh, những linh
hồn đi theo những đam mê sẽ mang lại hình người và những linh hồn chìm
vào nơi tăm tối của cái ác thì hạ xuống trình độ động vật. Luật tương ứng này
thể hiện trong các truyện có môtip phạm lỗi với Ngọc hoàng nên bị giáng
xuống trần gian: chàng trai đội lốt dê (Dương phu truyện – Thánh Tông di
thảo), Mỗ đội lốt hổ (Cọp báo số mệnh người - Công dư tiệp kí)… Có trường
hợp nhân vật bị hóa nhiều kiếp: nhà giàu bất nghĩa hóa kiếp qua ba lần thành
gà, lợn, người (Ký tam sinh – Lan trì kiến văn lục, Biết chuyện kiếp trước –
Thoái thực kí văn). Cũng có khi với khát khao không cùng về hạnh phúc lứa
đôi, do ước hẹn Châu Trần chưa trọn vẹn nên nhiều cô gái được đầu thai kiếp
khác: vợ chàng Sinh (Tái sinh – Lan trì kiến văn lục), cô gái con Binh Phiên
và vợ Thượng thư Vũ Cẩn (Truyện luân hồi kiếp trước – Thính văn dị lục).
Một dạng khác là đầu thai vào đứa trẻ con người khác: hoàng tử Trần Nhật
Duật được đầu thai từ Chiêu văn đồng tử trên thượng giới (Tấu chương minh
nghiệm – Nam ông mộng lục), con trai một người nông dân thác sinh vào con
trai người họ Trần ở Đông Ngàn (Ngộ tiền sinh – Lan trì kiến văn lục), cha
Nghè Khoan chết đầu thai làm con một người mõ làng khác (Nguyễn Khắc
Hoành – Lan trì kiến văn lục).
Loại môtip tiếp theo là môtip giấc mơ. Văn học mọi thời đại thường
mượn giấc mơ để thể hiện quan niệm nhân sinh, nhân thế. Tâm lí con người
càng phát triển thì giấc mơ càng nhiều dạng, phức tạp. Trình độ nghệ thuật
văn chương càng cao thì thủ pháp “giấc mơ” càng trở nên biến ảo linh hoạt.
Khi xem xét những câu chuyện về các giấc mơ trong văn học, thật khó để
phân biệt cái gì là có thật, cái gì là bịa đặt. Nhưng một điều chắc chắn rằng,
trong thế giới nghệ thuật của các tác phẩm văn xuôi trung đại, giấc mơ là có
thực với nhân vật truyện và chi phối tiến trình phát triển của cốt truyện. Môtip
giấc mơ xuất hiện không nhiều nhưng lại rất tiêu biểu cho việc tạo dựng cốt
truyện, chẳng hạn như trong Truyền kì mạn lục. Đó là việc Hồ Tông Thốc đi
sứ Trung Quốc, ngày đề thơ ở đền Hạng Vương, tối về nhà trọ mơ thấy đến
cung điện Hạng Vương rồi cùng nhau tranh luận về nhân nghĩa, thời thế, cho
đến đoạn kết: “Rồi đó canh tàn trà cạn, ông đứng dậy từ giã xin về. Hạng
Vương đưa chân ra đến cửa thì phương Đông đã gần rạng sáng. Ông xốc áo
vùng dậy, té ra là một giấc chiêm bao, bèn mua rượu và nem bày một lễ
cúng ở đầu thuyền trước khi rời khỏi đấy” (Hạng Vương từ kí); có viên quan
họ Hoàng đời Lê lấy nhầm phải yêu ma nên hoá điên, được đạo sĩ chữa khỏi,
sau nằm mơ bị hai tên lính bắt đến cung điện Diêm Vương rồi bị trách phạt:
“Bỏ nết cương thường, theo đường tà dục, giảm thọ một kỷ”, “Lại sai hai tên
lính đưa Hoàng về nhà. Hoàng vươn vai bừng tỉnh, mồ hôi toát ra đầy mình”
(Xương Giang yêu quái lục); có học trò Mao Tử Biên vừa đi lạc vào nơi âm
thất nữ sĩ Ngô Chi Lan rồi nằm mơ được dự cuộc bình văn, đến khi mặt trời
đã mọc, chàng ngồi vùng dậy, “hoá ra thấy mình nằm trên cỏ, áo đầm
những sương, chỉ có đông tây hai ngôi mộ nhà ai nằm đó” (Kim Hoa thi
thoại kí)… Rõ ràng giấc mơ chỉ là hoạt động của trí tưởng tượng nhưng diễn
biến những sự kiện, hoạt động, đối thoại trong giấc mơ lại tạo nên tuyến cốt
truyện và có ý nghĩa hiện thực sâu sắc. Giấc mơ là phần nội dung cơ bản,
bao quát toàn bộ diễn biến cốt truyện và hoạt động của nhân vật. Môtip giấc
mơ trong một số tác phẩm văn xuôi trung đại đã được sử dụng như một thủ
pháp nghệ thuật, nghĩa là giấc mơ đã “có nội dung”, bản thân giấc mơ đã trở
thành cốt truyện, đồng nhất với cốt truyện. Như vậy nội dung giấc mơ đã là
một cốt truyện nhỏ nằm trong cấu trúc cốt truyện trước và sau khi xảy ra
giấc mơ. Đến khi nhân vật tỉnh mộng, thoát khỏi ảo mộng và trở lại cuộc
sống thực tại cũng là khi chấm dứt một phần quan trọng của toàn bộ nội
dung thiên truyện. Giấc mơ gắn liền với các vấn đề trong cuộc sống: sự thay
thế các triều đại, báo trước đường quan hoạn, mệnh số, đỗ đạt vinh hiển, gặp
gỡ với người thân đã chết… Sự suy sụp của triều Lê được hồn ma báo trong
giấc mộng của một thư sinh “một hôm mỏi mệt nằm ngủ, thấy có người con
gái trẻ đẹp đến gõ vào giường nói: nhà Lê sắp mất, ông cũng không đỗ, đừng
đọc sách để nạt tôi nữa… Năm ấy ông Trần đi thi không đỗ, chưa bao lâu xảy
ra quốc biến” (Đồng xuân quỉ - Tang thương ngẫu lục). Hồn cô gái hiện về
trong giấc mộng của quan trường xin cho chàng Sinh thi đỗ (Báo ân tháp –
Lan Trì kiến văn lục), Nguyễn Giám Sinh trúng nhất cử được báo trong giấc
mộng của quan hiến sứ (Truyện Nguyễn Giám Sinh - Công dư tiệp kí). Hay
trạng nguyên Giáp Hải về trí sĩ đúng như giấc mơ cách đây 11 năm (Nhận ra
mẹ đẻ - Công dư tiệp kí). Đó còn là sự nhập mộng cảm tạ của hai cô gái được
Sinh làm cỗ cúng trong Tây Viên kì ngộ kí, là lời hẹn của ông già trong mộng
với Tú Uyên do chàng quá thương nhớ nàng tiên đã gặp (Bích Câu kì ngộ -
Truyền kì tân phả). Ngược lại là loại giấc mộng như là sự quả báo với người
nằm mộng: Tử Văn thấy thần đòi lại đền đã bị đốt (Tản Viên từ phán sự lục),
Hồ Tông Thốc thấy bị Hạng Vương trách móc vì đã đề thơ chê bai ở đền
(Hạng Vương từ kí), thần hiện lên đòi chỗ ở của tên vô lại tham của đã giết
hai đứa con (Thần giữ của – Lan trì kiến văn lục)… Còn có trường hợp con
người tìm đến mộng để được gặp người yêu, ân ái với vợ (chồng) mình đã
khuất (Lệ Nương truyện, Khoái Châu nghĩa phụ truyện – Truyền kì mạn lục,
An ấp liệt nữ - Truyền kì tân phả).
Thế giới hồn và mộng là thế giới của sự huyễn tưởng, kì ảo nhưng hầu
hết giấc mơ trong văn xuôi trung đại, đó lại là thế giới rất thực. Vì trong
mộng, dù con người đi vào thế giới nào (thiên đình, âm cung hay thủy phủ)
thì trở về hiện thực họ cũng được thưởng phạt tương ứng từ thế giới ấy.
Từ những môtip kì ảo trên đã hé mở cánh cửa huyền bí để người viết
xới lên những vỉa hiện thực, đặc biệt là thể hiện những vấn đề nhân sinh sâu
sắc. Nhờ vậy câu chuyện trở nên lung linh đa nghĩa. Sự hiện diện của những
môtip này đã cho thấy thế giới siêu nhiên không vô can mà tác động trực tiếp
nhằm tạo ra sự răn đe, cảnh tỉnh và hướng đạo đối với con người.
Việc tái lập những môtip trên không chỉ chủ tâm tác động vào tâm lí
hiếu kì của độc giả hiện nay mà sự hiện diện của chúng còn là phương tiện
hữu hiệu để nhà văn khắc hoạ tính cách nhân vật, phản ánh một cách chân
thực, sinh động hoàn cảnh xã hội, đồng thời dễ dàng bộc lộ nội dung tư tưởng,
chủ đề của tác phẩm. Sự xuất hiện của những môtip nhuốm màu sắc hư ảo,
thần kì này không gây cảm giác xa lạ, quái đản vì chúng xuất hiện như một tất
yếu trong mạch vận động chân thực của cốt truyện.
2.1.2. Cốt truyện bắt nguồn từ các tình huống kì ảo
Tình huống của truyện, ngay từ người nghiên cứu đến người sáng tác
đều thừa nhận vai trò quan trọng, hay nói cách khác là quyết định của nó đối
với sự thành công của tác phẩm. Tình huống là những thời khắc tiêu biểu (có
người gọi là "khoảnh khắc”, "chốc lát”) có ý nghĩa cực kì quan trọng. Tại
thời khắc đó, các nhân vật có cơ hội gặp gỡ, gắn kết với nhau mà trước đó họ
vẫn xa lạ với nhau hoặc gần gũi mà chưa có điều kiện quen biết nhau.
Tình huống truyện chính là hoàn cảnh để kết tinh xung đột truyện, khắc
hoạ hình tượng nhân vật. Bởi vì trong các tình huống truyện ấy, nhân vật gặp
gỡ nhân vật để yêu thương hay đấu tranh, và nhân vật gặp gỡ các sự kiện biến
cố để bộc lộ bản chất thật hoặc bộc lộ tính cách. Các tình huống kì ảo cũng
mang ý nghĩa tương tự với các nhân vật kì ảo. Sự hiển xuất của các hoàn cảnh
kì ảo được xem như những tình huống quan trọng tạo ra sự chuyển biến của
cốt truyện. Nó gắn kết các nhân vật cùng tham gia vào một sự kiện, một biến
cố có ý nghĩa nào đó. Do “mọi cái kì ảo đều là sự vi phạm trật tự quen thuộc,
một sự đảo lộn không thể chấp nhận được trong lòng những quy luật bất biến
của đời thường” [4] nên khi cái kì ảo xuất hiện, nó sẽ tạo ra sự “đứt gãy” của
hiện thực khách quan, đặt người đọc vào thế lưỡng lự hoang mang và buộc
phải theo dõi quá trình diễn biến của câu chuyện.
Qua khảo sát, ta có thể thấy đó là tình huống các nhân vật gặp gỡ, đối
mặt với những sự việc lạ, những con người thần bí và cả bọn ma quỷ, yêu
tinh. Nhân vật “ta” trong Lưỡng Phật đấu thuyết kí vào một đêm tình cờ đã
gặp và chứng kiến cuộc đấu thuyết giữa hai pho tượng Phật bằng đất và bằng
gỗ ở bên bến đò Văn Giang. Theo dõi và chứng kiến diễn đàn tranh luận ấy,
từ tính cách của các vị Phật người ta thấy rõ bộ mặt tiêu cực của Phật giáo
đương thời: Phật gỗ và Phật đất tranh giành địa vị, bổng lộc và khoác lác còn
Phật Thích ca thì khật khưỡng, khề khà với bầu rượu trong tay. Nhà nho già
trong Nhị nữ thần truyện vào một đêm tối trời bên bến đò Bồ Đề đã gặp và trò
chuyện với hai vị thần nữ. Nhân vật “ta” trong Lãng bạc phùng tiên vào một
lần dạo chơi hồ Lãng Bạc đã có dịp gặp gỡ vị tiên thổi địch đầy bí ẩn. Còn
trong Mộng kí nhân vật “ta” lại phải đối diện với hai oan hồn nữ dâng thư kêu
oan trong một giấc mộng… Trong các tác phẩm, nhân vật chính thường gặp
gỡ một nhân vật ma quái khác, rời bỏ nơi ở của mình tìm đến một không gian
xa lạ khác, kết thúc bao giờ cũng là sự giải thoát, thức tỉnh của các nhân vật
trước “bức tranh vân cẩu” cõi nhân thế, hoặc nhân vật chính được đạo sĩ cứu
thoát trở lại cõi đời, hoặc hoá thân sang một kiếp đời khác. Đối với phần lớn
các truyện, ngay sau khi giới thiệu nhân vật thì tình huống câu chuyện liền
xảy ra và lôi cuốn nhân vật chính vào dòng xoáy của các sự kiện, tạo nên các
tình tiết, chi tiết, hành động, cốt truyện. Thông thường, tình huống truyện
đóng vai trò quyết định tạo tác, khởi động và vận hành hệ thống cốt truyện
chính là những giấc mơ, sự gặp gỡ và lạc bước đến một không gian xa lạ,
huyền ảo nào khác. Một số truyện kéo dài dung lượng mô tả đời sống hiện
thực và đến nửa phần sau mới nảy sinh biến cố, do đó cốt truyện và hành
động nhân vật trong thế giới ảo bị co hẹp lại, có khi chỉ còn mấy dòng giới
thiệu vắn tắt, thoáng qua (Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Túy Tiêu truyện, Lệ
Nương truyện…). Từ những cuộc gặp gỡ, từ những cuộc kì ngộ ấy đã nảy
sinh những mối kì duyên, đó là mối lương duyên giữa Ngư Nương – vốn là
một nữ yêu tinh có khả năng biến hiện nhiều hình thù quái gở và Lương Nhân
trong Mai Châu yêu nữ truyện, giữa Chu Sinh – người học trò nghèo, mồ côi
cả cha lẫn mẹ và Mộng Trang – công chúa bướm trong Hoa quốc kì duyên,
giữa Thúc Ngư – con trai nhà thuyền chài và Ngọa Vân – vốn là nữ học sỹ ở
Long cung trong Ngư gia chí dị, giữa anh chồng dê và người con gái hiếu
thảo trong Dương phu truyện, giữa anh đồ nghèo và cô con gái thần trong
Nhất thư thủ thần nữ… Môtip để nhân vật lạc vào thế giới khác và kết hôn
với người thần trong một số ví dụ trên là môtip khá phổ biến của truyện
truyền kì viễn đông và xuất phát từ môtip của cổ tích thần kì. Yếu tố kì ảo tồn
tại dưới dạng thức này là cái kì ảo trong cuộc gặp gỡ của những oan hồn có
tiền duyên từ kiếp trước (Mai Châu yêu nữ truyện, Ngư gia chí dị, Dương phu
truyện), trong việc người chung sống với hồn ma, hồn cây cỏ, tinh loài vật
(Hoa quốc kì duyên), trong việc người trần lấy nhau nhưng hoàn cảnh kết hôn
kì lạ và được sự trợ giúp của thần tiên như anh học trò lấy được vợ ở thủy phủ
dưới sự sắp đặt của ông tổ tam đại của mình (Trần nhân cư thủy phủ).
2.2. Nhân vật kì ảo
Văn học là nhân học, là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện con người. Con
người là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả ma quỷ, thần linh, đồ vật
hay các con vật đi chăng nữa, văn học đều thể hiện con người và tất cả những
gì thuộc về con người.
Cuốn 150 thuật ngữ văn học của Lại Nguyên Ân định nghĩa: “Nhân vật
văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không thể bị đồng
nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những nét
rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm
nghệ thuật của nhà văn về con người; nó có thể được xây dựng chỉ dựa trên
cơ sở quan niệm ấy”; “nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung
tâm để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái
hoặc dòng phong cách” [1; 242-243]; “Nhân vật văn học được miêu tả qua
các biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn
nội tại của nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật kia, giữa
tuyến nhân vật này với tuyến nhân vật khác, cho nên nhân vật luôn gắn liền
với cốt truyện...”[21;236]. Nhân vật luôn là trung tâm của các sáng tác văn
học, là tấm gương phản chiếu tư tưởng và năng lực nghệ thuật của nhà văn.
Một tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó chính là phương
tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng. Nhà văn sáng
tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá nhân nào đó, về một
loại người nào đó và về một vấn đề nào đó của hiện thực. Nhân vật chính là
người dẫn dắt người đọc đi vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời
kì lịch sử nhất định. Nhân vật văn học rất đa dạng về loại hình. Nếu xét về vai
trò nhân vật trong tác phẩm, có thể nói tới nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân
vật trung tâm. Nếu xét về phương diện hệ tư tưởng, về quan hệ đối với lí
tưởng xã hội của nhà văn, lại có thể nói tới nhân vật chính diện, nhân vật phản
diện, nhân vật lí tưởng… Nhìn chung khi phân định loại hình nhân vật phải
rất linh hoạt dựa trên cơ sở khả năng phản ánh hiện thực của chúng và ý đồ tư
tưởng của nhà văn. Những tác phẩm văn xuôi trung đại đặc biệt là những tác
phẩm truyền kì thường gắn với yếu tố kì ảo, do đó thế giới nhân vật trong các
tác phẩm cũng mang đậm dấu ấn của sự kì lạ, khác thường.
2.2.1. Nhân vật có yếu tố kì ảo
Đây là những người trần mắt thịt trong cuộc sống, tự bản thân nhân vật
không thể tự tạo ra những điều kì lạ. Yếu tố kì ảo của nhân vật chủ yếu do
ngoại cảnh và các lực lượng siêu nhiên bên ngoài đem lại. Loại nhân vật này
thường có những đặc điểm như: có nguồn gốc, lai lịch, chỗ ở xác thực; sự ra
đời lẫn cái chết có những yếu tố kì lạ; hành tung kì lạ hoặc được phú cho một
sức mạnh thần kì, một khả năng siêu nhiên. Những tác phẩm tiêu biểu như
Nhị thần nữ truyện, Mộng ký, Lãng bạc phùng tiên – Thánh Tông di thảo,
Hạng vương từ ký, Mộc miên thụ truyện, Na Sơn tiều đối lục – Truyền kì mạn
lục, Hải khẩu linh từ lục – Truyền kì tân phả…)
Ở kiểu loại nhân vật này, trước hết, nhân vật là những anh hùng dân
tộc, danh nhân lịch sử. Hình tượng anh hùng dân tộc, danh nhân lịch sử trong
các tác phẩm văn xuôi trung đại đặc biệt là trong truyện truyền kì nguyên là
những con người có thật và đã được sử sách ghi chép. Chẳng hạn như Lê
Thánh Tông, một vị vua anh minh, đã đưa nước Đại Việt trở thành một nước
hùng cường vào bậc nhất trong khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ và bậc
nhất trong suốt cả thời kì lịch sử phong kiến Việt Nam sau đó. Nhận xét về Lê
Thánh Tông, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “ Vua húy là Tư Thành, lại húy là
Hạo, con thứ tư của Thái Tông, ở ngôi 38 năm… Vua sáng lập chế độ, văn vật
khả quan, mở mang đất đai, bờ cõi khá rộng, thực là vua anh hùng tài lược, dù
Vũ đế nhà Hán, Thái tông nhà Đường cũng không hơn được.”
Các danh nhân lịch sử cũng đã xuất hiện, chẳng hạn như hai nhân vật
đã từng nổi tiếng, đó là Hồ Tông Thốc và Phùng Khắc Khoan.
Hồ Tông Thốc là người sống vào thời Trần. Ông người Thổ Thành
thuộc Diễn Châu, thi đỗ tiến sĩ thời Trần Nghệ Tông, từng làm quan tới chức
Hàn lâm phụng chỉ, rồi An Phủ sứ, được người đời tôn kính. Ông học thứ
uyên bác, giỏi thơ văn, từng làm thơ trong bữa tiệc tới hơn trăm bài.
Phùng Khắc Khoan (1528-1613) người Phùng Xá, huyện Thạch Thất
tỉnh Sơn Tây. Từ nhỏ, ông thông minh học giỏi, không theo nhà Mạc, phù nhà
Lê làm nên sự nghiệp Trung hưng. Khi làm quan, ông rất được triều đình tin
cẩn. Năm 1580, ông 53 tuổi đi thi, đỗ nhị giáp tiến sĩ, rồi làm quan tới chức
hộ bộ thượng thư. Cuộc đời sự nghiệp của Phùng Khắc khoan đã được huyền
thoại hóa bởi những công lao đóng góp của ông, nhất là lĩnh vực ngoại giao,
điều này đã thể hiện rõ trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm Đinh Dậu (1596)
Các vị anh hùng dân tộc, những danh nhân lịch sử được đưa vào truyện
với một hình ảnh nguyên mẫu đời thường. Hình ảnh Lê Thánh Tông cầm
quân đi đánh dẹp Chiêm Thành, được miêu tả trong Truyền kì tân phả: “Vua
nghe tin bảo tả hữu rằng: Ngày nay hôn chuá Chiêm Thành kiêu căng khinh
mạn, đảo ngược luân thường, tàn hại sinh dân, nếu không đem binh trị tội thì
làm sao cứu được nhân dân địa phương ấy”. Sự miêu tả này phù hợp với các
sự kiện được ghi trong sách sử. Người ta nhận thấy nghệ thuật miêu tả các
anh hùng dân tộc, các danh nhân này đều dựa trên sự thực, các tác giả không
làm méo mó hình tượng của họ, điều này thể hiện lòng tôn kính của các tác
giả đối với họ. Nhưng chúng ta cũng nhận thấy những người được tôn kính,
trong quá trình truyền kì hóa, được phủ lên một lớp hào quang. Lê Thánh
Tông ở ngôi chấp chính, ông không chỉ cầm quyền chăm dân mà còn cai quản
cả thần linh. “ Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp
sức, sinh, sát, thưởng, phạt đều nắm trong tay. Ai uất ức đau khổ ta có thể giả
đi được, ai có công đức ngầm kín ta có thể nêu lên được. Khấn với các thần ở
địa phương, nếu có u hồn nào còn uất ức cứ bảo chúng cứ thực tâu bày…
muốn nêu lên không rõ công đâu mà nêu, muốn giải cho không biết oan đâu
mà giải ”(Thánh Tông di thảo)
Hoặc với thế đắc thắng bao dung như Hồ Tông thốc tranh biện với
Hạng vương trong Hạng vương từ ký. Phùng Khắc Khoan xướng họa thơ ca
với công chúa Liễu Hạnh. Có thể nói các hình tượng nhân vật này không chỉ
thể hiện lòng thành kính, ngưỡng mộ của tác giả, mà còn là những tấm gương
sáng để cổ vũ mọi người.
Loại nhân vật tiếp theo là hình tượng người đạo sỹ. Đạo sỹ là những
người theo học thuyết của Lão Trang. Cái cốt lõi của học thuyết này là con
người có một triết lý sống phóng khoáng và tư tưởng thoát ly hiện thực, tìm tự
do lạc thú ở thiên nhiên, ở cuộc sống yên bình, vắng bóng lợi danh, tiền tài,
quyền lực.
Hình tượng người đạo sỹ được khắc họa theo một tinh thần lãng mạn:
không ai biết những người đạo sỹ sống ở đâu, nơi ở của họ ra sao? Họ xuất
hiện ở đời khi thì ngủ trong chùa, khi thì ở trong núi đi ra, khi thì xuất hiện
nơi đàng tràng… Họ thường là những người có thể hóa thân thành người khác
với một hình dáng mang đậm nét khắc khổ: “áo rách giày nát, thất thểu đi
đến”. Hoặc có khi là “một người khăn cũ giày rách, ăn mặc lôi thôi đi vào”.
Có khi lại xuất hiện với dáng vẻ: “Cưỡi trên ngựa tốt, mặc áo vải săn, túi da
tên thiếc”, có khi lại là lão tiều phu đốn củi hoặc giả dạng người đi xem bói.
Hình thức bên ngoài đã thể hiện phần nào triết lý sống phóng khoáng và giản
dị.
Người đạo sỹ có một cuộc sống lang thang nay đây mai đó, khi thì làm
nghề tướng số, khi thì làm nghề y, khi thì làm nghề săn bắn. Họ coi thường
tiền tài danh lợi, luôn luôn quan tâm tới việc trị bệnh cứu người. Có nhiều căn
bệnh để trị, đó là bệnh do ma quỷ mê hoặc, tác oai tác quái. Song các tác giả
còn sử dụng nghĩa bóng của từ bệnh để chỉ các bệnh hoạn của xã hội, bao
gồm sự xuống cấp về đạo đức, những thói hư tật xấu của con người. Để chữa
trị các bệnh hoạn này, người đạo sỹ đã dùng bùa phép. Quy trình thực hiện
bùa phép như sau: lập một đàn tràng, viết đạo bùa để đóng vào cây, hoặc thả
chìm xuống sông, hoặc đốt ở giữa trời; sau đó là hô hoán và quát mắng. Ở các
trường hợp khác, bùa phép đôi khi là những cánh cung, mũi tên.
Một phương pháp trị bệnh khác đó là người đạo sỹ thường sử dụng sự
hiểu biết của mình để chỉ cho người những nguyên nhân gây ra các bệnh hoạn
xã hội. Có nguyên nhân đã do con người “ham tích của cải”, có nguyên nhân
do con người “quá tin vào thần linh…”. Biện pháp chữa trị là khuyên con
người hãy chăm làm điều thiện, hoặc khuyên người đứng quá tin vào quỷ
thần. Người đạo sỹ trong truyện luôn có tâm huyết với đời. Họ vẫn tự quan
niệm “tuy quên đời và tự cao, nhưng đối với thời thì vô dụng” (Thánh Tông di
thảo).
Đạo sỹ là con người thực của cõi trần gian. Trong quá trình truyền kì
hóa, tác giả đã phú cho họ phép thần thông như đi mây về gió, “thoắt chốc đã
thấy một cỗ xe mây bay đến”. Khả năng xuất quỷ nhập thần là một trong
những khả năng quan trọng của một đạo sỹ. Bởi từ khả năng này họ mới có
thể hành đạo giúp đời. Không chỉ thế sự thần thông còn thể hiện qua phép
thuật phù chú, hô phong hoán vũ, bài trừ yêu ma. Sự linh nghiệm của phép
thuật được thể hiện: “Một lúc mây gió nổi lên đùng đùng… dưới sông sóng
tung cuồn cuộn vang trời động đất. Sau một hồi, gió lặng mây quang, thấy
cây gạo bị nhổ bật, cành cây gãy nát và bị tước như đay vậy. Kế đó nghe thấy
trên không có tiếng roi vọt và tiếng kêu khóc. Mọi người ngẩng lên trông, có
sáu, bảy trăm lính đầu trâu gông trói hai người dẫn đi ”(Mộc miên thụ truyện
– Truyền kì mạn lục) hoặc “người ấy lấy một đạo bùa ném ra, người con gái
liền ngã bổ nhào xuống đất thành ra một đốt xương trắng”. Đạo sỹ còn có
khả năng biết trước được mọi việc và giúp đỡ người nho sĩ để họ tránh được
những tai ương, phiền toái: “Ông làm tể tướng, kể thì không có lỗi lầm gì. Chỉ
có rằng tại chức lâu ngày, hay yêu người này ghét người khác. Nay thì sự thù
oán đã sâu cay lắm, hồn oan đã đầy dẫy ở ngoài đường rồi”.
Hình tượng người ẩn sỹ cũng được xếp trong nhóm nhân vật có yếu tố
kì ảo trong văn xuôi trung đại. Người ẩn sỹ là những nhà Nho trí thức có quan
niệm sống ẩn dật, trốn đời để giữ khí tiết và biểu thị sự bất hợp tác với tầng
lớp thống trị đương thời. Người ẩn sỹ thường thích sống nơi tĩnh lặng trong
rừng núi sâu thẳm trong cái động “dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu, bụi
trần không bén tới, chân người không bước tới”, hoặc nơi vùng quê hẻo lánh
xa chốn kinh thành. Họ luôn thiên về đời sống tinh thần, cốt cho tâm hồn
mình thanh thản, không thấy xấu hổ với cuộc đời. Họ sống tiêu dao cùng với
thiên nhiên, nơi ở của họ thường đơn sơ và giản dị, khi là một cái am cỏ, hai
bên tả hữu trồng mấy cây kim tiền chen lẫn bích đào, hồng hạnh. Trong am
chỉ có giường mây, chiếc đàn sáo và chiếc gối dựa. Hai bên vách trắng, treo
các bài thơ “Thích ngủ” và “ Thích cờ”.
Người ẩn sỹ thường đi kiếm củi độ nhật. Ngày ngày họ gánh củi ra chợ
đổi lấy cá và rượu, cốt được no say chứ không lấy một đồng tiền nào cả, sống
thanh bạch, không vương vấn sự đời. Cũng có người đi dạy học, quay quần
với dăm ba đứa trẻ. Cuộc sống và nghề nghiệp của người ẩn sỹ toát lên một
quan niệm có vẻ thờ ơ với cuộc đời. Một “kẻ dật dân trốn đời, ông lão già
lánh bụi, gửi tính mệnh nơi lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu
trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng hết chân khách tục, bạn cùng là
hươu nai tôm cá, quấn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà
hè đơn, năm mây mà ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn” (Na Sơn tiều
đối lục - Truyền kì mạn lục). Thế nhưng từ trong tâm khảm của người ẩn sỹ
“hễ gặp ông già, trẻ con dưới đồng bằng, lại nói chuyện những việc trồng dâu
gai rất là vui vẻ” (Truyền kì mạn lục). Không chỉ việc nông tang, người ẩn sỹ
còn am tường cả công việc triều chính. Không chịu ra làm quan, họ tố cáo
triều đình trọc loạn, vua quan tham bạo và đề thơ tiên đoán sự sụp đổ của kẻ
đương quyền. Những lời lẽ vạch trần bản chất tham lam, hèn kém, ham sống,
sợ chết, dâm ô, lừa lọc của giai cấp thống trị chứng tỏ tính cách thẳng thắn,
dám nói lên những điều xấu xa hiện đang chất chứa trong lòng xã hội. Có thể
nói ở ẩn là một phương thức, một quan niệm sống của nhà nho, khả dĩ giúp họ
có thể nói hết những điều cần nói, không sợ sự khống chế của giai cấp thống
trị. Đà Giang dạ ẩm kí, Từ Thức hôn tiên lục(Truyền kì mạn lục) ít hoặc nhiều
cũng đã thể hiện tư tưởng thoát tục của tác giả.
Tuy đi ở ẩn, những người ẩn sỹ luôn hy vọng vào một triều đại, ở đó có
vua thánh tôi hiền, xã hội có kỷ cương, người tài được trọng dụng. Tính cách
của người ẩn sỹ, ở một khía cạnh nào đó cũng giống với tính cách của người
đạo sỹ. Bề ngoài họ có vẻ phớt đời nhưng trong nội tâm, họ luôn là người ưu
thời mẫn thế. Người tiều phu ở núi Nưa ngay sau khi nói rằng mình chỉ là kẻ
“trốn đời… lánh bụi”, ở chốn rừng núi “có biết ở ngoài là triều đại nào, vua
quan nào đâu”, thì lại không giấu niềm phẫn nộ đối với vua quan “ông vua
bây giờ… thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dưng
cung…”. Dù là chọn con đường “lánh đục về trong” nhưng dường như họ vẫn
coi vị trí của mình là ở giữa cuộc đời.
Sự thần kì hóa của hình tượng người ẩn sỹ được tác giả thể hiện dưới
hai dạng: người ẩn sỹ sau khi làm tròn trách nhiệm của mình, trừ bạo xong
không biết họ đã đi đâu. Trong Na Sơn tiều đối lục, người ẩn sỹ hình như
“biến thành hạc đen lượn trên không bay múa”. Trong Đà giang dạ ẩm ký,
người ẩn sỹ biến thành con cáo và con vượn, đi đâu không ai biết. Dạng thứ
hai là người ẩn sỹ có đầu óc tinh tường, có đôi tai thính cảm, họ có thể nghe
hiểu âm thanh của côn trùng muông thú.
Có thể thấy yếu tố kì ảo thể hiện rõ ở hai kiểu nhân vật người đạo sỹ và
ẩn sỹ. Họ có thể nói là hình mẫu lí tưởng về một người có thể trừ yêu diệt bạo
mang lại cuộc sống yên bình cho nhân dân.
Ngoài ra, ở nhóm nhân vật kì ảo này còn phải kể đến những con người
hiện thực nhưng được tác giả cài vào một số yếu tố kì lạ. Đây là những nhân
vật thường xuất hiện trong mối quan hệ với các nhân vật là thần tiên. Các tác
giả đã phú cho loại nhân vật này những khả năng kỳ diệu để tạo nên sự tương
xứng trong mối quan hệ ấy. Đặc điểm đầu tiên của loại nhân vật này là có
nguồn gốc, lai lịch, hoàn cảnh và chỗ ở xác thực. Mục đích của việc làm ấy là
để khẳng định với người đọc: những câu chuyện kì lạ sắp sửa được kể ra là
hoàn toàn có thực, từ đó củng cố thêm niềm tin ở người đọc vào tính xác thực
của câu chuyện truyền kì. Chàng Chu Sinh là người ở “động Sơn La, tỉnh
Hưng Hóa”, mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc lọt lòng và được chú ruột đưa về
nuôi dưỡng (Hoa quốc kì duyên – Thánh Tông di thảo). Hoặc Nguyễn Tử
Khanh, ở Sơn Bắc, cha mẹ mất sớm, chỉ có một người anh. Khi lớn tuổi anh
và chị dâu đều mất cả, để lại một cháu. Tử Khanh coi như con. Thời gian câu
chuyện cũng có tính cụ thể và xác thực. Đặc điểm thứ hai là các nhân vật thể
hiện quan niệm sống chết của Đạo giáo. Đó là quan niệm thể xác và linh hồn
sống đều sống mãi. Đạo giáo tin tưởng rằng người đời sau khi chết chẳng
những có thể biến thành giống có sinh mệnh mà còn có thể biến thành giống
không có sinh mệnh. Người tuy chết nhưng lại đầu thai hoặc vẫn sống thậm
chí trường tồn. Trong Hoa quốc kì duyên, “Sinh biết mình sắp làm chúa Hoa
Quốc, tất nhiên không thể ở lâu cõi trần, bèn dâng sớ xin về quê liệu việc nhà.
Về chưa được một ngày thì mất”. Người con gái trong Dương phu truyện:
“qua bốn tháng nàng ốm, biết thế không khỏi được, nàng mới gọi chú họ bày
tỏ sự tình, xong thì tắt nghỉ. Đến hôm đưa đám, người ta mới nghe trong quan
tài có tiếng nhảy nhót, khiêng lên không được. Mở ra xem thì thấy một con
ngỗng vàng mỏ ngậm cành hoa bay lên trời…”. Đặc điểm chung của những
cái chết này đều là chết đúng vào thời điểm đã định trước hoặc hẹn trước với
một nhân vật khác. Chu Sinh chết vì đã nhận lời với quốc mẫu, chết là để trở
về Hoa quốc sau mười lăm năm năm xa cách như đã hẹn ước với Mộng
Trang. Tử Khanh chết đúng vào thời điểm mà hai anh em đã hẹn vào mười
năm trước “mười năm sau tháng giêng đúng ngày Thượng Nguyên, hai miếu
thờ đối nhau, thì giờ đi lại chuyện trò còn nhiều”. Hoặc anh đồ trong Nhất
thư thủ thần nữ sau khi vợ chết đã ở vậy lo cho các con chu toàn và cũng chết
đúng vào năm mà người vợ đã định khi xưa. Rõ ràng, sự ra đời lẫn cái chết
của họ có những yếu tố kì lạ, chẳng hạn sự ra đời của chàng Thúc Ngư trong
Ngư gia chí dị(Thánh Tông di thảo). Bố mẹ chàng gần 60 tuổi mới sinh được
một mụn con trai. Chẳng biết nhân vật có tiền kiếp thế nào, chỉ biết chàng ta
có mối duyên Chu Trần với nàng Ngọa Vân vốn là nữ học sĩ ở Long cung.
Chừng ấy cũng tạo cho nhân vật một vỏ ngoài đậm màu sắc kì ảo. Ngoài ra,
các nhân vật này đều chết một cách đột ngột: đang khỏe mạnh sau một đêm
thì mất, bệnh rất nhanh và mất, đột nhiên gọi người nhà đến dặn dò mọi
chuyện rồi mất… Sau khi chết đi, có người được nhân gian thờ tự xem như
thần. Các chi tiết về những đền thờ ấy được mô tả cụ thể, linh thiêng, tạo tính
thuyết phục cho câu chuyện: “đến nay ở núi Vũ Ninh hai đền thờ người họ
Nguyễn Sinh vẫn còn linh ứng”(Hiếu đễ nhị thần truyện – Thánh Tông di
thảo).
2.2.2. Nhân vật kì ảo
Khác với nhân vật có yếu tố kì ảo, nhân vật kì ảo bị “ảo hoá” hoàn toàn
từ xuất thân đến ngoại hình, hành động, yếu tố kì ảo có sẵn ngay trong bản
chất của nhân vật, không phải do bên ngoài đem lại.
Đó là các nhân vật phi vật thể (ma quỷ, thần tiên…). Chúng có thể xuất
thân từ loài ma quỷ, yêu tinh hoặc vốn là người chết được sống lại; hay các vị
thần tiên được nhân cách hóa. Những tác phẩm tiêu biểu cho nhóm nhân vật
này như: Mai Châu yêu nữ truyện, Lưỡng Phật đấu thuyết ký, Trần nhân cư
thủy phủ - Thánh Tông di thảo, Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Mộc miên thụ
truyện, Xương Giang yêu quái lục – Truyền kì mạn lục, Hải khẩu linh từ lục,
Bích Câu kỳ Ngộ lục –Truyền kì tân phả…
Trước hết, nhân vật là ma quỷ, yêu tinh biến thành người thật. Loại
nhân vật này có nguồn gốc xuất thân từ loài ma quỷ, yêu tinh, có thể biến hiện
nhiều hình thù quái gở: “khi nó hiện ra người đầu to bằng bánh xe, hoặc hai
đầu sáu mình ai trông thấy cũng chết khiếp. Khi nó biến thành cô gái đẹp
hoặc nhẹ như Phi Yến, hoặc béo tốt như Trương Phi, ai say mê tất phải thiệt
mạng. Người địa phương bị khổ sở vì nó đã dùng nhiều phép trừ yểm, nhưng
đều vô hiệu”(Mai Châu yêu nữ truyện – Thánh Tông di thảo). Nguồn gốc đặc
biệt nên chúng có tài phép biến hóa thần thông. Khi nó biến thành người thì
lại có dung mạo xinh đẹp. Loại nhân vật này được trong văn xuôi trung đại
được các tác giả phú cho một diện mạo và cuộc sống như con người. Hình
tượng của loại nhân vật này đôi khi là hình ảnh của một người con gái đẹp
“trạc 16 tuổi, mắt long lanh như nước mùa thu, môi đỏ như son vẽ, tóc mây
mặt hoa cười nói duyên dáng” (Mai Châu yêu nữ truyện – Thánh Tông di
thảo). Hoặc khi là người phụ nữ 40 tuổi “tóc xanh đã điểm sương trắng, mặt
ngọc đã nhạt màu hồng, nhưng cái vẻ thùy mị còn đủ làm cho thiên hạ xiêu
lòng”(Nhị nữ thần truyện - Thánh Tông di thảo). Tuy nhiên cũng có truyện đã
miêu tả hình dáng của lũ ma quỷ trông thật đáng sợ “đứa cụt chân, đứa mất
đầu, hình dáng kì quái, phần nhiều không được trọn vẹn”. Khi gia nhập hồng
trần, bản thân chúng cũng phải chịu đựng nhiều bất hạnh, ấm ức giống như
con người.
Cuộc sống của loại nhân vật này thực đa dạng. Nơi ở của chúng khi thì
ở ngọn cây, khi thì nơi rừng rậm, khi là vùng cỏ rậm đầm lầy. Có loại làm
nghề hát xướng, có loại làm nghề bói toán. Cách đoán số “chỉ khẽ bấm đốt
ngón tay mà đoán được giàu nghèo, thọ yểu, việc sinh tiền, việc tử hậu…rất
thần tình”(Nhị nữ thần truyện - Thánh Tông di thảo). Tính cách của họ chung
thủy, tuy biến thành người con gái đẹp nhưng không bao giờ tỏ ra sàm sỡ,
lẳng lơ.
Loại người chết được sống lại cũng là nhóm nhân vật được nhắc đến
trong kiểu nhân vật kì ảo. Đây là những người hoặc khi sống lập được nhiều
công đức nên khi chết đi được Ngọc Hoàng thượng đế thương tình cho giữ
một chức vụ nào đó. Ví như nhân vật trong Trần nhân cư thủy phủ sau khi
chết được được giữ chức là cai quản một cõi ma quỷ. Có khi những nhân vật
này tuy không được hoàn sinh nơi trần thế nhưng lại được chuyển sang tồn tại
trong một thế giới khác, hoặc là những người chưa dứt nợ với lương duyên từ
kiếp trước nên lại trở lại thành người dưới một hình dạng khác để tiếp tục
được yêu, được sống với mối tiền duyên của mình. Do đó khái niệm sống lại
ở đây là nhân vật sau khi chết đi nhưng oan hồn còn lẫn khuất không tan biến
được mà tụ lại thành người với vóc dáng hoàn toàn khác.
Nghệ thuật khắc họa hình tượng người chết sống lại được thể hiện dưới
hình thức tác giả phú cho người chết trình bày những điều mà họ trông thấy
hoặc những nhận xét về một thế giới mà họ từng trải qua. Ở loại này, tác giả
không miêu tả dáng vóc, bởi họ vốn dĩ là con người. Tác giả chỉ tập trung
miêu tả về cuộc sống của họ. Nơi ở của họ hoặc là thiên đình, hoặc là thủy
cung, hoặc là nơi đình miếu… Cuộc sống nơi ấy cũng có ánh đèn. Ánh lửa là
vật thiết yếu cho cuộc sống, ở nơi cõi người chết cũng có ngọn lửa, thể hiện
cuộc sống ấm áp không lạnh lẽo. Có người lại có cả kẻ hầu người hạ, phương
tiện đi lại là “cỗ xe nạm hạt châu, có tán vàng, kiệu ngọc”. Họ có đời sống
văn hóa như ở trần gian, trong buổi liên hoan, có bày bánh trái hoa quả, có
rượu và có thơ. Và khi giao tiếp, tác giả đã để cho những nhân vật này nói lên
những điều có liên quan tới đời sống con người. Khi thì là lời bàn về nhân
tình thế thái ở cõi âm, khi thì là lời nhận xét về nhân tình thế thái ở cõi dương.
Nàng Ngư Nương, một nữ yêu tinh hiện hình đã nói với Lương Nhân - người
nàng cần tìm sau 30 năm xa cách: “Thiếp ở trong vách tối nhìn ra chỉ thấy rặt
những phường ngoài mặt thì như ngọc vàng mà trong lòng thì như bông nát”
(Mai Châu yêu nữ truyện – Thánh Tông di thảo). Trong Trần nhân cư Thủy
phủ, người tướng năm xưa đã có những đánh giá rất đúng về cuộc khởi nghĩa
kháng Minh của dân tộc và đức độ của vua Lê Thái Tổ. Có thể thấy ngôn từ
của loài ma quỷ được nhân hóa này đều có nguồn gốc từ cuộc sống trần tục.
Tác giả đã mượn lời ma quỷ để nói chuyện người, chuyện đời. Loại nhân vật
này cũng cho thấy quan niệm của con người trung đại: con người không bao
giờ biến mất hoàn toàn, ngay cả khi chết họ vẫn tồn tại ở một dạng khác. Đó
chính là khát vọng của con người muốn mãi mãi được sống ở thế gian này.
Loại nhân vật tiếp theo là Tiên, Thần, Phật biến thành người. Tiên,
Thần, Phật là những hình tượng của tôn giáo tín ngưỡng được tác giả phú cho
dáng vẻ một cuộc sống, một tính cách như con người. Nhưng mỗi loại lại xuất
hiện với dáng vẻ, cuộc sống, tính cách khác nhau.
Tiên là một trong những hình tượng mang dấu ấn của truyện cổ tích
khá rõ nét. Người đọc đã quá quen với hình ảnh những ông bụt, ông tiên hiền
lành ban phát niềm vui, hạnh phúc cho những con người bất hạnh. Theo quan
niệm văn hóa phương Đông, con người lí tưởng xét về nguồn gốc là những
con người được vũ trụ, trời đất sinh ra. Và tiên là những con người được kết
tinh từ những gì tinh túy nhất của vũ trụ. Xây dựng kiểu nhân vật này nhà văn
đi sâu vào miêu tả hình dáng, hành động với màu sắc phi thường. Hình tượng
tiên trong các tác phẩm văn xuôi, đặc biệt trong truyện truyền kì giai đoạn này
là hình ảnh của một “ người trạc hai mươi tuổi, tóc xòa chấm vai, môi son
mắt phượng, thoang thoảng có mùi hương chi lan. Người đó đầu đội khăn
vuông, mặc áo xanh, vận quần đỏ, ngang thắt lưng đeo ống địch bằng
trúc”(chân dung người thần thổi địch trong Lãng Bạc hồ tiên). Nhưng đối với
tiên nữ thì “ phấn son điểm phớt, nhan sắc xinh đẹp tuyệt vời”. Khác với các
vị tiên, vóc dáng của những linh hồn vất vưởng nơi đền miếu hoặc “ đầu đội
mũ trụ, nói năng, ăn vận quần áo giống người phương Bắc”. Nhưng vị thổ
thần lại là một “ông già áo vải mũ đen, phong độ nhàn nhã, thủng thỉnh đi
vào trước thềm”(Tản Viên từ phán sự lục – Truyền kì mạn lục).
Trong khi đó, dáng vẻ của Phật được tác giả dựa vào những bức tượng
bằng đất hay bằng gỗ để miêu tả nhưng không theo một khuôn mẫu nào, ví dụ
như trong Lưỡng Phật đấu thuyết kí (Thánh Tông di thảo). Có vị hình thể cao
lớn, có vị mặt vuông đầy thước, lưng rộng ba ôm, sắc mặt giận dữ.
Các hình tượng tiên, thần, phật cũng có một đời sống riêng tư. Nơi tiên
ở là những chốn bồng lai tên gọi Nam Nhạc. Cuộc sống của tiên lúc ẩn lúc
hiện. Song người ta vẫn thấy đây là loại nhân vật phóng khoáng, đượm vẻ
thoát ly cuộc sống đời thường. Cuộc sống của tiên nữ Quỳnh Hoa:
“ Vân tác y thường, phong tác xa
Triêu du đâu xuất mộ yên hà
Thế nhân dục thức ngô danh tính
Nhất đại sơn nhân Ngọc Quỳnh Hoa”(Truyền kì tân phả)
Các bậc tiên nữ cũng có đời sống gia đình. Hôn lễ của họ được tổ chức
với các nghi thức “đốt đèn mỡ phượng, rải đệm vằn rồng để hai người làm lễ
giao bái”. Khách mời từ bốn phương trời tới dự. Có người mặc áo gấm cưới
con ly, có người bận xiêm lụa cưỡi rồng, có người đi kiệu ngọc, có người cưỡi
xe gió. Yến tiệc bày mâm bằng mã não, đĩa bằng ngọc thạch, các món ăn đều
rất kỳ lạ, lại có thứ rượu kim tương, ngọc lễ, mùi hương đưa lên thơm nức”
(Từ Thức hôn tiên lục).
Khác với cuộc sống của các vị tiên, cuộc sống của các vị thần mang
nặng nghĩa “giúp dân độ vật”. Nơi ở của thần là đền miếu. Tính cách của thần
khéo vẻ nhún nhường. Khi thì tỏ rõ oai linh, nhưng có khi lại bị kẻ khác lấn
át. Hình tượng Phật lại được nhân cách hóa với cuộc sống nặng phần tọa
thưởng kỳ thành. Có tác giả miêu tả Phật ngồi hưởng lộc ba phẩm. Có tác giả
đã nhận xét “kể thì hai Phật đều vô công mà còn đem việc ngồi trên ngồi dưới
lộc hậu, lộc bạc để tranh nhau, nên Phật Thích Ca chê là phải” (Lưỡng Phật
đấu thuyết kí).
Tính cách mỗi loại hình tượng cũng khác nhau. Với các vị tiên là sự coi
thường tiền tài, danh lợi. Các vị tiên cho rằng cuộc sống đài cao tàn vàng
đường đi trải thảm lông, có quân hộ vệ không thể phóng khoáng tự do bằng
cuộc sống đi mây, về ngựa hạc, sáng đón mặt trời ở bể khơi, chiều trông mây
núi ở Vu Giáp. Đồ ăn có các món sơn hào hải vị, đủ thức trâu cam, không quý
bằng rượu ngọc chén quỳnh, ăn tinh hoa của muôn loại cây cỏ, cùng thứ bàn
đào ba ngàn năm khai hoa, ba ngàn năm kết quả. Cuộc đời tự nhiên và giản
dị, mặc thì lá sen làm áo, đội thì mo rụng làm mũ, thơ ngâm ngàn cuốn, rượu
quẩy một bầu, ngắm trăng hát gió sẽ sướng hơn người có chức có quyền. Đời
sống của các vị tiên rất nhàn nhã, luôn trong trạng thái ung dung, tự do, tự tại:
“có hai cụ già đang đánh cờ trên đó. Lại có đứa hầu nhỏ pha trà, trên phiến
đá đầy la liệt tê táo… Hai cụ già vừa uống rượu vừa đánh cờ. Đến khi ván cờ
gần tàn, vẫn tỏ vẻ không hay biết có người ngồi đó” (Hải đảo tiên). Cho nên
được một ngày nhàn rỗi thì dù đem ngôi vạn thặng đến đổi cũng không thiết.
Tiên có khả năng biến hóa khôn lường, hành động phi thường kì vĩ, có thể
sống bất tử cùng thời gian: “xua tay lên quãng không, chỉ chỉ vào cung khuyết
ở trước mặt Ngọc Hoàng, lập tức biến thành gò núi. Có ngọn lờ mờ như Bích
Phong, có chỗ rõ ràng như Quần Ngọc, có chim đẹp bay đậu, có thú lạ lại
qua. Không phải nhích đi một bước mà cảnh tượng đã khác nghìn vạn lần.
Một lát, quỷ khóc thần sầu, núi reo hang ứng, có hổ gầm gấu rống có thứ rắn
mồm nuốt được con voi, có thứ chim cánh giương như mây phủ. Những người
hầu chung quanh, tai nghe mà tựa hồ không muốn nghe, mắt trông tựa hồ
không dám trông”(Lãng Bạc Phùng Tiên – Thánh Tông di thảo). Điều này đã
tạo nên tính cách kì lạ của thần tiên, chính sự khác thường ấy đã mang lại cho
người đọc một cảm giác bí ẩn, lạ lẫm và sợ hãi.
Tính cách của các vị thần lại thiếu vẻ cẩn trọng. Mặc dù vị thổ thần
giúp dân độ vật đã hơn ngàn năm, nhưng khi bị lấn át thì đành ẩn nhẫn, đến
nương tựa ngồi xó một nơi ở đền Tản Viên. Tính cách của các vị Phật thì
đượm vẻ từ bi. Phật cho rằng: “Thế gian vạn sự bất như thường, hựu bất
khinh nhân, hựu cửu trường”(mọi việc ở trên đời thay đổi luôn luôn, nhưng
không làm cho người kinh sợ, cho nên Phật vẫn giữ nguyên được bản thể lâu
dài. Tuy nhiên, có khi các vị Phật được mô tả với tất cả tính cách, tư tưởng,
tình cảm giống như con người khiến thế giới Phật giáo mất đi vẻ uy nghiêm,
tôn kính mà trở nên gần gũi với thế giới con người. Các vị Phật cũng tham
lam, tị hiềm, ghen ghét và cũng có những ham muốn, dục vọng như con
người: Phật đất quan niệm mình là người nhà Phật, là “chỗ cho bọn áo nâu tay
chùng nấp bóng” nên đương nhiên phải kiếm được “một bữa cúng chay”;
trong cuộc đấu khẩu gay gắt giữa hai Phật, Phật đất đã mắng Phật gỗ vô dụng,
bất tài khiến Phật gỗ cũng phát khùng mắng lại. Cuộc tranh cãi đang đến hồi
gay cấn thì Phật Thích Ca tay xách bầu rượu, dáng say lảo đảo, bước ra mà
rằng: “chao ôi! Hai ngươi đều có lỗi cả! Trong khi nước lớn mênh mông, các
ngươi đã không biết vận ngũ thông, dùng lục trí, thét lui muôn dòng nước ở
biển Đông mà chỉ biết giữ cái hình hài bằng gỗ, đất, ngồi hưởng rượu thịt của
dân chúng, như thế đã không biết xấu hổ, lại còn đấu khẩu với nhau, không
sợ vách có tai ư?” (Lưỡng Phật đấu thuyết kí). Cuối cùng thì Phật Thích Ca
chính là người đã phá vỡ nốt hình tượng tôn kính của nhà Phật khi bản thân
mình cũng chất chứa những dục vọng, đam mê rượu thịt như con người. Cách
xây dựng nhân vật từ hư tới thực, từ thần kì đến phàm tục đã mang đến cho
người đọc sức truyền cảm đặc biệt.
Bên cạnh các nhân vật phi vật thể, văn xuôi trung đại còn phải kể đến
nhân vật là các vật thể hữu hình (thú vật, cây cối, đồ vật…). Loại nhân vật
này biến thành người với những dáng vẻ, diện mạo đa dạng, không những thế
còn có khả năng trò chuyện và cũng mang những tính cách, tâm tư, suy nghĩ
như con người như trong Hoa quốc kỳ duyên, Ngư gia chí dị, Dương phu
truyện – Thánh Tông di thảo, Long đình đối tụng, Đào thị nghiệp oan ký –
Truyền kì mạn lục, Miêu khuyển đối thoại – Tân truyền kỳ lục…
Loại thứ nhất là muông thú côn trùng biến thành người. Về hình thức
bề ngoài, loại nhân vật này thật nhiều màu, nhiều vẻ. Loài vật khi thì biến
thành cô gái đẹp, nét đẹp được thể hiện qua làn da trắng nõn, ngón tay búp
măng, hàm răng hạt bầu, “nếu không là gái dưới trăng Dao Đài, thì cũng là
tiên trên núi Quần Ngọc, trần gian làm gì có người như vậy?”(Hoa quốc kì
duyên). Có loài vật biến thành chàng trai trẻ, dáng vẻ đẹp như Tống Ngọc,
Phan Lang: “Nhìn lại chàng trai thì thấy một người đẹp vô cùng, dù Tống
Ngọc vin hoa, Phan Lang ném quả cũng không sánh kịp” (Dương phu truyện).
Có loài biến thành ông lão nét mặt gầy guộc, nhưng tinh thần trong sáng hoặc
một ông lão dưới cằm có hai chiếc râu dài, miệng cười niềm nở. Có loài vật
biến thành tú tài, hoặc người xử sỹ. Có tác giả còn đi sâu miêu tả sự biến hóa
của loài vật giống người như hệt đến cả những chi tiết nhỏ nhất: con chuột
tinh biến thành anh chồng giống từ nốt ruồi đỏ ở cổ, mụn hạt cơm ở trong tai,
tiếng nói trong như tiếng khánh, hai môi đỏ như son, đến giống cả về tầm
thước, dáng vóc và cách ăn mặc (Thử tinh truyện)…
Cuộc sống của loài vật sau khi biến thành người cũng khác nhau. Mộng
Trang do loài bướm hiện hình, nhân vật trong Hoa quốc kì duyên sau khi lấy
chồng vẫn ở bên nhà mẹ giúp việc trị vì đất nước. Ông già có nét mặt gầy
guộc hàng ngày vẫn làm nghề bói toán trong chợ phía nam. Người tú tài họ
Viên và xử sỹ họ Hồ sống dưới chân núi phía nam thấy vua tôi Xương Phù
vào rừng đi săn đã cùng nhau bàn tính ngăn cản cuộc đi săn đó để cứu đồng
loại; nàng Ngọa Vân do loài cá hiện hình sau khi về làm dâu nhà Thúc Ngư
đã làm trọn bổn phận dâu hiền vợ thảo; anh chồng dê thì sống một cuộc sống
đội lốt dê, ngày thì làm dê, đêm đến biến thành một người chồng trẻ đẹp vui
hưởng tình vợ chồng với người vợ tiền kiếp… Các con vật sau khi bước ra
khỏi thế giới loài vật đến với thế giới con người với khát khao tìm kiếm hạnh
phúc đích thực.
Tính cách của loài vật sau khi biến thành người cũng rất đa dạng.
Mộng Trang trong Hoa quốc kì duyên, nàng Ngọa Vân trong Ngư gia chí dị
đều chung thủy trong tình yêu lứa đôi. Ông lão có nét mặt gầy guộc do Bạch
Long hầu hiện hình thì lại hết lòng với bè bạn, bày đường chỉ lối cho quan
thái thú họ Trịnh đi kiện quan thuồng luồng mào đỏ, đòi được người vợ họ
Dương mang về.
Tú tài họ Viên và xử sỹ họ Hồ biết lo lắng cho cộng đồng, quan tâm tới
đồng loại: “Nếu tuyết chưa xuống, gió chậm về, tính mệnh loài chim muông
thật treo ở sợi dây cung”. Họ bàn nhau đem lời nói để giải vây. Những lý lẽ
mà họ đưa ra đã thể hiện những bản lĩnh “uy vũ bất năng khuất” của
họ.(Truyền kì mạn lục)
Ngoài ra trong một số truyện, nhân vật vốn là loài vật nhưng chúng
không biến thành người. Các loài vật này được các tác giả phú cho những suy
nghĩ và tiếng nói như con người: khiêm tốn, giản dị, hoang dâm, bạo ngược,
nhân nghĩa, độc ác, hung dữ, khoe khoang, hợm hĩnh… Lời nói của chúng thể
hiện những quan niệm và biểu tỏ thái độ đối với xã hội đương thời trong một
số tác phẩm khác như Miêu khuyển đối thoại, Long hổ đấu kỳ ký… Tác giả
còn khắc họa loài vật trực tiếp trò chuyện với người như Bần gia nghĩa
khuyển truyện…
Loại thứ hai là loài cỏ cây biến thành người. Loài cỏ cây được nhân
hóa có vóc dáng và những xúc cảm tình người. Loài cỏ cây biến thành người
con gái xinh đẹp. Nét đẹp của người con gái là nét đẹp của các loài hoa, vẻ
kiều diễm của đào liễu. Cuộc sống của các cô gái mang đậm nét cộng đồng,
khách đến chơi họ trải chiếu giát trúc, đốt đèn nhựa thông, bóc bánh lá hòe,
rót rượu hạt hạnh. Thức ăn đồ uống đều chiết xuất từ những loài thảo mộc.
Bạn bè đều là người mang họ loài hoa như họ Vi, họ Lý, họ Mai, họ Dương…
Họ vui chơi đến gần sáng mới về. Tính cách của các cô gái này mang đậm nét
gợi tình. Chàng thư sinh họ Hà hằng ngày đi học qua dinh cơ cũ của quan
Thái sư triều Trần, thường thấy hai người con gái họ Đào, họ Liễu đứng bên
trong bức tường đổ cười đùa, họ chủ động “hái những quả ngon, bẻ bông đẹp
ném ho chàng” (Tây Viên kì ngộ kí). Họ biểu lộ tình cảm hờn giận khi nhận
được lời khen chê.
Một loại nhân vật không thể không nhắc tới ở nhóm nhân vật kì ảo này
là loại đồ vật biến thành người. Đây là loại nhân vật có dạng là đồ vật biến
thành người hoặc ma, dù là người hay ma thì các loại đồ vật này đều được
phú cho những khả năng của một sinh thể sống. Loại đồ vật nhân hóa khi là
chuông đồng, hoặc đàn tỳ bà, khi thì là chiếc chổi rễ tre, thoi vàng và cái chày
gỗ. Diện mạo, hình dáng của chúng khi là những người con gái đẹp, khi là
những con ma có hình dáng “một con rất cao, hình dung to lớn, sắc đen trên
dưới đều tròn, giữa thắt nhỏ lại, hình dáng rất lạ không giống người. Một con
thấp nhỏ cũng chẳng ra hình người nhưng da dẻ bóng lộn, có thể soi gương
được, ngang lưng thắt đai gấm rất đẹp.” Đời sống tâm hồn của những loại
hình tượng này mang những nét khác nhau. Chúng ta nhận thấy sự hiện hình
của nhân vật này qua “tiếng khóc thảm thiết”. Nhưng ở truyện của Sơn Nam
Thúc thì lại bằng cử chỉ “ném thơ và tiếng cười khúc khích”.
Cuộc sống của mỗi hình tượng nhân vật khi thì được vua Lý Cao Tông
yêu dấu, khi thì bị kẻ gian bắt trộm và bị giam ở một nơi. Còn đối với cô gái
con của quan nội triều, bị cha mẹ cai quản nghiêm ngặt, quanh năm không
cho ra khỏi cửa, người trong ấp chưa ai thấy mặt. Hai oan hồn của cái thoi
vàng và cái chày gỗ quanh năm trú ngụ trong một tòa nhà ba gian ngói lợp,
chỉ chờ đến đêm thì mới rời chỗ ẩn nấp để chọc ghẹo, phá phách người khác.
Về tính cách của những nhân vật này, mỗi người mỗi vẻ. Người tỳ thiếp trong
Mộng ký mang vẻ u sầu, hàm oan khi gặp đức thánh minh thì mới dám “liều
chết đến dâng thư”. Còn tính cách của của người con gái trong truyện của Sơn
Nam Thúc thì lại thể hiện niềm khát khao tình yêu tự do, muốn phá bỏ những
quy định ngặt nghèo đối với người con gái của lễ giáo phong kiến. Cho nên
khi gặp người đẹp, tài cao đúng ý trung nhân đã chủ động lân la làm quen, đã
bất chấp cả gia giáo, “chui theo lối ngạch đi ra, quên cả hổ thẹn”. Mặc dù vậy
trong lòng nàng vẫn còn những đắn đo, e sợ dư luận: “Nếu mãi nằm vui, nằm
lâu, có người biết được, thì không những mang tiếng chê bai như thơ Nhuế
đống, suốt đời không ai dám hỏi nữa, mà lại còn điếm nhục đến cả gia thanh,
để buồn cho cha mẹ, đến phải tự tử mà chết mất (Thánh Tông di thảo).” Bởi
vì dư luận dù sao vẫn là sợi dây vô hình trói chặt số phận người phụ nữ vào
các quy định của lễ giáo phong kiến, muốn phá bỏ nó nhưng lại không nhận
được sự ủng hộ từ phía gia đình, người con gái lại sợ làm liên lụy tới gia đình,
làm xấu hổ bố mẹ, nên họ đến với người yêu bằng hình thức lén lút, chấp
nhận thiệt thòi.
Cái khéo léo của tác giả khi xây dựng các nhân vật là ở chỗ để nhân vật
của mình trong quá trình giao tiếp vẫn thấp thoáng để lộ xuất xứ, nói cách
khác, người đọc vẫn nhận ra chân tướng của chúng. Ở loại yêu quái biến
thành người, chân tướng của chúng thường được thể hiện ra ở chỗ hình thù
quái gỡ, biến hiện vô thường “khi nó hiện ra đầu người to bằng bánh xe, hoặc
hai đầu sáu mình ai trông thấy cũng phải chết khiếp” (Mai Châu yêu nữ
truyện). Còn ở loại động thực vật biến thành người, chân tướng của chúng
thường được thể hiện ra ở chỗ không che giấu nổi một vài bộ phận của thân
hình. Chu Sinh trong Hoa quốc kì duyên đứng trước một người con gái đẹp,
nghĩ rằng trên trần gian khó có ai đẹp như thế. Nhưng nhìn kỹ, nhận thấy “sau
lần áo lót mình, ở bụng Mộng Trang có nhiều ngấn ngang”. Cái ngấn ngang
ấy chính là các khớp nối ở thân con bướm, mặc dù biến thành người, con
bướm ấy không thể biến và cất các khớp nối đi được. Hoặc như loài cá có râu,
khi biến thành người, cái râu cá không thể biến đi được. Chúng ta còn có thể
nhận ra chân tướng của loại nhân vật này thông qua những biến động trong
cuộc sống của chúng. Nàng Ngọa Vân trong truyện Ngư gia chí dị trở lại
nguyên hình là một con cá mình lớn, nằm dài để ngăn sóng biển. Và một điều
có thể nhận thấy nữa, đó là mặc dù chúng có cuộc sống như con người, nhưng
chúng vẫn không tách rời môi trường sống trước khi chúng hóa thành người.
Loại yêu tinh ma quỷ khi trở lại thành người thường nương náu trên ngọn cây,
hoặc nơi danh làm cổ tích. Loài cá trở về với môi trường sông nước, loài thú
trở về với rừng xanh, loài hoa cỏ vẫn không tách khỏi môi trường hoa lá.
Trong Tây viên kỳ ngộ ký, ông già đã chỉ cho Hà Nhân: “Đây chẳng phải là
nơi cậu đến chơi ư? Chị ả họ Kim, thì đây là hoa Kim tiền, cô nàng họ Thạch
thì đây là cây Thạch lựu. Đến như họ Lý, họ Vi, họ Dương, họ Mai thì cũng
đều là nhân tên hoa mà làm họ cả”.
2.3. Không gian, thời gian kì ảo
Không gian cùng với thời gian làm nên hình thức tồn tại của thế giới
của vật chất. Không gian, thời gian cũng chính là hình thức tồn tại của con
người. Con người cũng như vật chất không thể tồn tại ngoài không gian và
thời gian.
2.3.1. Không gian kì ảo
Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật.
Không hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không nhân vật nào
không có nền cảnh tồn tại của nó. Trong các tác phẩm nghệ thuật, con người
xuất hiện với tư cách là hình tượng con người và không gian được tạo dựng là
hình tượng không gian. Vì thế, không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của
hiện tượng. Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: "không gian nghệ thuật là
hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó.
Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm
nhìn, diễn ra trong một trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật
được cụ thể …"[21;160]. Nhờ có điểm nhìn của chủ thể mà không gian có
chiều – thấp, rộng – hẹp, xa- gần, sâu - cạn … gắn với cảm thụ về không gian
của con người.
Không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sỹ nhằm
biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống.
"Không gian nghệ thuật gắn với sự cảm thụ không gian nên mang tính chủ
quan, ngoài không gian vật thể còn có không gian tâm tưởng”[21;160]. Vì
vậy, ta không thể quy về không gian địa lý hay vật chất được. Trong tác
phẩm, ta thường bắt gặp sự miêu tả về con đường, căn nhà, dòng sông…
Nhưng bản thân các sự vật chưa phải là không gian nghệ thuật. Chúng chỉ
được xem là không gian nghệ thuật trong chừng mực biểu hiện mô hình thế
giới. Không gian nghệ thuật chẳng những cho thấy cấu trúc nội tại của tác
phẩm văn học, các ngôn ngữ tượng trưng mà còn cho thấy quan niệm về thế
giới của tác giả hay một giai đoạn văn học. Nó cung cấp cơ sở khách quan để
khám phá tính độc đáo cũng như tính loại hình của các hiện tượng nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật là phương diện quan trọng của thi pháp học hiện
đại. Nó là phương diện để tác giả xây dựng thế giới nghệ thuật của mình,
đồng thời cũng là "cánh cửa" để qua đó người đọc hiểu hình tượng và tư
tưởng được tác giả gửi gắm vào tác phẩm.
Người phương Đông, họ coi cái chết và cái sống chẳng qua là hai mặt
của đời sống, chết chẳng qua là sự tiếp nối của sự sống ở một thế giới khác,
dưới một hình thức khác. Thế giới của người sống và người chết, cõi dương
và cõi âm vẫn có sự tương thông, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau mà sứ giả của
chúng thường là những vị thần tiên, ma quỷ, đạo sỹ, thầy pháp, chân nhân hay
những người được chọn lựa khác. Quan niệm ấy thể hiện rất rõ trong các tác
phẩm văn học trung đại, đặc biệt là các truyện truyền kì.
Như vậy, không gian nghệ thuật như là một trong những phương thức
chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc và khái quát tư tưởng
thẩm mĩ. Là “sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể
hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống”, không gian nghệ thuật biến
thiên do nhiều nguyên nhân; trong đó giữ vai trò quyết định vẫn là quan niệm
nghệ thuật về con người. Hệ thống nhân vật kì ảo trình bày trên đây cũng đã
chi phối đến việc xây dựng không gian nghệ thuật của văn xuôi trung đại qua
những bình diện sau:
2.3.1.1. Không gian phi thực
Không gian phi thực là những không gian nghệ thuật không tồn tại
trong thực tế. Đó là một thế giới mà bản nguyên của chúng chỉ có trong thần
thoại, cổ tích với những biểu hiện cụ thể như thiên đình, âm phủ, thủy cung,
tiên cảnh…Tư duy cổ đại không tách con người ra khỏi tự nhiên. Vì vậy mà
có sự nhân hóa tự nhiên, so sánh ẩn dụ, thậm chí là có sự đồng nhất giữa tự
nhiên và những vật thể văn hóa. Ở những thể loại sáng tác dân gian với mục
đích chính là nhân cách hóa môi trường tự nhiên bao quanh mình, yếu tố thần
kì tạo nên một đặc trưng nổi bật trong phương thức phản ánh hiện thực và ước
mơ. Chính vì thế, không gian nghệ thuật trong thần thoại, cổ tích thường có
tính chất linh thiêng. Những đặc trưng này chúng ta cũng có thể rõ trong văn
xuôi trung đại.
Loại không gian thứ nhất được các tác giả khai thác là không gian
thiên đình. Đây là không gian do con người tưởng tượng (bên ngoài thế giới
trần tục) nhằm cổ vũ con người làm điều thiện. Không gian này được khắc
họa theo hình mẫu xã hội loài người. Chung quanh thế giới đó, “có những bức
tường bọc bao quanh, có những tòa lầu, điện ngọc, ánh sáng vằng vặc như
ban ngày. Sông Ngân bến Sao ôm ấp đằng trước, gió thơm phưng phức, đượm
ngát quanh hiên, hơi lạnh thấu da”(Truyền kì mạn lục)
Chức năng của thiên đình là trông coi mọi hoạt động của các thế giới,
do vậy ở đây, kỷ cương phép tắc nghiêm minh. Trên thiên đình có tòa tích
đức dành cho những con người khi sống giàu lòng yêu thương đồng loại; có
tòa thuận hạnh dành cho những người hiếu thuận, biết che chở cho nhau trong
lúc khó khăn; có tòa nho thần dành cho bề tôi tận trung với nước. Các tòa sở
đặt ra trên thiên đình là nơi ở tương lai cho con người sống ở trần gian chăm
làm điều thiện, sống đúng theo những quy tắc đạo lý, chuẩn mực đạo đức, khi
thác đi linh hồn sẽ được siêu thoát lên cõi phúc, được phong thần hưởng lộc.
Không gian này thể hiện trong những tác phẩm như Hiếu đễ nhị thần ký,
Dương phu truyện –Thánh Tông di thảo, Phạm Tử Hư du thiên tào lục –
Truyền kì mạn lục, Vân Cát thần nữ, Bích Câu kỳ ngộ -Truyền kì tân phả…
Bên cạnh không gian thiên đình là không gian âm phủ. Trái với thiên
đình là nơi dành cho ngững con người chí thiện, âm phủ lại là nơi xét xử
những kẻ làm điều ác khi sống ở nhân gian. Thế giới này cũng được mô
phỏng theo thế giới của xã hội loài người. Dưới âm phủ cũng có nhiều tòa lâu
đài, cung điện nguy nga. Các tòa sở bao bọc bởi thành cao vách sắt, đặt vạc
dầu sôi, có lính mặc áo giáp, đội mũ sắt, một kiểu kiến trúc của những trại
giam.
Những người bị xét xử ở âm phủ gồm những kẻ có thế lực với tội danh
như “kết bạn thì mây mưa tráo trở”,”cư tâm thì yêu quái ghê gớm”, “chiếm
ruộng”, “giết hại mạng người”, “vu oan giá họa”… Hoặc là những kẻ vi phạm
đạo đức xã hội mà tội danh của chúng “bất mục với anh em, chẳng hòa với
dòng tộc, chữa lại chúc thư để chiếm đất, khiến người ta không đất cắm dùi”.
Âm phủ còn xét xử cả những kẻ dâm đãng, mới lên quan mà đã vào cõi dục.
Hình phạt đối với những người mắc các tội danh trên là lấy roi đánh cho tuốt
xương, cách chức đem giam vào ngục tối, lấy dao rạch bụng moi gan, hoặc
lấy dây da chít chẹt đầu, lấy dùi lửa đóng vào chân, cho chim cắt mổ ngực,
cho rắn độc cắn vào bụng, không cho đầu thai sang kiếp khác. Còn đối với
những kẻ đi xâm lược, tội trạng của chúng chồng chất như núi, nhưng chưa có
một hình thức nào xét xử những kẻ xâm lược đó. Chúng không những quấy
phá trên trần, sau khi tử trận đã hưng yêu tác quái trong dân gian. Dưới âm
phủ, vua Diêm vương đã xử viên tướng họ Thôi tội danh: “tranh chiếm miếu
đền, giả mạo họ tên, quan chức dối lừa, làm trò phản ngược, bưng bít thượng
đế, tác quái hưng yêu”(Tản Viên từ phán sự lục – Tryền kì mạn lục). Hình
phạt đối với loại này là “sai lấy lồng sắt chụp vào đầu, nhét khẩu gỗ vào
miệng, đưa giam vào ngục cửu u”. Có thể nói việc xét xử dưới âm phủ rất
nghiêm minh. Mọi loại tội phạm đều bị nghiêm trị. Mộc miên thụ truyện, Tản
Viên từ phán sự lục, Xương Giang yêu quái lục – Truyền kì mạn lục, Ngọc
thân ảo hóa –Việt Nam kì phùng sự lục… là những tác phẩm thể hiện rõ nhất
loại không gian này.
Cùng với không gian thiên đình là không gian thủy cung. Không gian
này cũng được khắc họa theo hình mẫu thế giới con người, với chủ nhân là
các loài thủy tộc. Ở thủy cung cũng có các cung gấm đài dao, nguy nga lộng
lẫy. Đây là nơi ở của vua Thủy tề và cũng là nơi ở của bà Long phi – phu
nhân của Nam Hải Long Vương. Chức năng của thủy cung, trước hết là trừng
trị những viên lại quan mắc tội dâm đãng, không lo diệt trừ tai họa cho dân.
Thủy cung là nơi cứu vớt những kẻ thác oan. Chàng họ Phan khi sống đã làm
một việc thiện là không giết rùa mai xanh, bị chết đuối ngoài biển, chàng đã
được cứu vớt. Thủy cung còn là nơi trông coi số mệnh con người. Trong Trần
nhân cư thủy phủ, ông tổ tam đại của anh học trò đã tiết lộ cho anh biết về số
mệnh của chính bản thân anh: “Lìa trần ba năm, cưới vợ thủy phủ. Rễ tội đã
trừ, hoàn hồn như cũ. Tuổi ba mươi tám, mới được thành danh. Đầy sân lan
quế, phúc trạch còn dành”. Nàng Vũ Thị Thiết đã phải nhảy xuống sông tự
tử vì tính ghen tuông nghiệt ngã của người chồng. Chư tiên trong thủy cung
thương nàng vô tội, rẽ một đường nước cho nàng khỏi chết. Ngoài tác phẩm
Nam Xương nữ tử lục – Truyền kì mạn lục, người đọc còn có thể khám phá
loại không gian này trong Nhị thần nữ truyện, Ngư Gia chí dị - Thánh Tông di
thảo, Long đình đối tụng, Hải khẩu linh từ lục – Truyền kì tân phả …
Không gian tiên cảnh là không gian mà con người thường ao ước được
đặt chân đến khám phá. Cảnh tiên là một loại thế giới cực lạc, được tạo ra bởi
trí tưởng tượng của con người. Đó là một thế giới bồng bềnh, ẩn hiện hư ảo,
tạo không khí huyền diệu cho truyện, chủ yếu là những hang động, do con
người tưởng tượng ra như núi Phù Lai, động tiên thứ 6 bồng bềnh ở ngoài
biển cả, như núi La Phù tan hợp theo gió mưa, hoặc như các ngọn Bồng Lai
co duỗi theo với sóng gợn.
Không gian tiên cảnh được quan niệm là một không gian lí tưởng. Ở đó
có các hội hè vui chơi, những nghi thức long trọng, các loại cỗ bàn cùng các
thứ của ngon vật lạ mà trần gian không bao giờ có được. Và không phải ai
cũng được sống trong không gian này. Tiên cảnh chỉ dành cho những người
khi ở trần thế suốt đời chăm lo gây trồng cây đức, hoặc những người thanh
bạch, vì chán sự đời mà lên với cõi tiên, chẳng hạn trong Từ Thức hôn tiên
lục, Lãng bạc phùng tiên, Bích Câu kỳ ngộ…
2.3.1.2. Không gian mộng ảo
Con người lạc vào trong giấc mộng tìm kiếm được tri âm, tri kỉ và được
sống một khoảng thời gian rất đẹp nhưng khi tỉnh mộng thì tất cả không còn
nữa. Hoa quốc kì duyên trong Thánh Tông di thảo là một ví dụ điển hình,
trong truyện mộng và thực đan xen vào nhau làm tăng thêm màu sắc huyền
ảo, bí ẩn. Hay chàng thư sinh Hà Nhân trong Tây viên kì ngộ kí quên cả học
hành, sống với hồn hoa nàng Đào nàng Liễu ở Trại Tây, khi tỉnh táo trở lại chỉ
thấy mấy loài hoa nơi vườn hoang. Giấc mơ thường đưa con người vào một
thế giới phi thực, ở đó họ tiếp tục thực hiện những giấc mộng đời hư ảo để rồi
khi tỉnh ra, đối diện với thực tế phũ phàng lại bàng hoàng tiếc nuối, thất vọng
vì thế càng chìm sâu hơn vào những bi kịch tinh thần, nhiều lắm cũng chỉ giải
quyết được những bế tắc trong cuộc sống theo những cách thức đầy tính siêu
nhiên mà thôi.
Khi đi vào thế giới kì ảo trong mộng, nhân vật đã thực hiện một cuộc
chu du trong tâm tưởng để đến với một miền đất đầy bí ẩn, mới lạ nhưng cũng
hết sức chân thực, sinh động bởi đó là một thế giới nơi cái thực được hư hóa,
cái hư được thực hóa. Có thể là những tâm trạng, hồi ức, ước muốn… tất cả
đều được thực hóa hoàn toàn trong cõi mộng. Chàng Chu Sinh mục đích đến
Hoa quốc là để thực hiện mối duyên với công chúa bướm theo lời hẹn ước
của cha mẹ. Do đó chàng đã lạc vào cõi mộng và những ngày đi lại với thần
chàng không ăn gì mà vẫn có cảm giác no say. Và cuối cùng chàng đã từ bỏ
tất cả bổng lộc của triều đình, chức tước, để trở về hòa nhập thế giới thần tiên
trong cõi mộng. Nơi đó có ngôi vương, có vợ đẹp con ngoan đang đợi chàng.
Con người dường như quá khát khao hạnh phúc trong cõi mộng nên sẵn sàng
đánh đổi mọi thứ, kể cả cuộc sống của họ nơi thế giới trần tục này.(Hoa quốc
kì duyên, Mộng ký – Thánh Tông di thảo)
Thế giới kì ảo trong mộng là môi trường lí tưởng để con người trở về
với cái tôi đích thực của mình. Bằng việc sử dụng giấc mơ, tác giả đã thực
hiện những cuộc du hành vào các mạng mạch của lí trí, tư duy từ đó tạo dựng
không khí huyền ảo, li kì cho tác phẩm. Một khi ngòi bút nhà văn hướng ra
bên ngoài thì cũng là do sự thôi thúc từ thế giới bên trong. Đây là một sự nối
dài, nới rộng không gian hiện thực, nhờ đó mạch truyện phát triển tự nhiên,
không bị đứt gãy, lưu giữ ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Có thể xem
giấc mơ như là tấm bản lề khép mở hai không gian mộng – thực. Và cõi mộng
là thế giới lí tưởng mà trong cuộc đời thực nhân vật khó hoặc không bao giờ
đạt tới. Thế giới kì ảo trong mộng thường gắn với những bậc minh quân, nho
sinh, hiền sĩ… Phần lớn các nhân vật xuất hiện để làm chức năng báo mộng
đều ít nhiều mang tính chất siêu nhiên. Họ là các thần linh, thần nhân, dị
nhân, đạo nhân, ma quỷ… tuyệt nhiên không có bóng dáng người thường.
Chẳng hạn, hồn cô gái hiện về trong giấc mộng của quan trường xin cho
chàng Sinh thi đỗ (Báo ân tháp – Lan Trì kiến văn lục), thần hiện lên trong
giấc mộng của Trần Bá Kiên cầm dao rạch bụng rửa sạch ruột anh để học
hành sáng suốt hơn (Mộng lạ Trần Bá Kiên – Thính văn dị lục), hay hai ông
cử họ Nguyễn và họ Trần đi thi mộng thấy được thần đọc đầu đề bài phú (Kỳ
mộng – Lan Trì kiến văn lục)… Chuyện thường kết thúc theo kiểu “nằm
mộng ứng nghiệm”, “âm báo dương phù” – thế giới siêu nhiên thông linh và
chi phối mạnh mẽ đời sống con người. Sự kiện xảy ra trong truyện thường ở
hai thời điểm: quá khứ hoàn thành và nhiều nhất là một tương lai có tính chất
dự báo. Cuộc sống hiện tại với những sinh hoạt tâm lí thường hằng của con
người ít được đề cập đến. Con người trần thế dường như thụ động hoàn toàn
trước sự chi phối của các thế lực siêu nhiên và những gì diễn ra trong thế giới
kì ảo ấy.
2.3.1.3. Không gian thần bí
Loại không gian này tồn tại song song với không gian trần thế, vừa
thực vừa ảo. Về mặt hình thức, không gian này không được kiến tạo bằng các
lâu đài đồ sộ, cung điện nguy nga nhưng lại được xem là nơi để cho các loại
phi vật thể và vật thể được nhân cách hóa có quyền phát ngôn tự do, tranh
biện về đạo lý ở đời. Không gian này xuất hiện với tư cách một diễn đàn được
thể hiện ở các truyện như Lưỡng Phật đấu thuyết kí - Thánh Tông di thảo,
Đông triều phế tự lục - Truyền kì mạn lục, Việt Nam kì phùng sự lục…
Không gian này là chính những đình chùa, miếu, đền, nơi thờ thần phật,
ma quỷ, thậm chí “thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”. Mọi thực thể
sống đều có linh hồn. Linh hồn sống trong một ngôi nhà nhỏ đặc biệt và
không bao giờ chết. Khi con người từ giã cõi trần, linh hồn thoát ra khỏi cơ
thể và đến trú ngụ tại một ngôi nhà khác – nấm mộ. Với người xưa không
gian này bao giờ cũng gắn với niềm tin mang đậm sắc thái văn hóa phương
Đông : chết không phải là hết mà linh hồn vẫn tiếp tục sống ở thế giới bên
kia. Đó chính là biểu hiện sinh động của quan niệm phi nhị nguyên về thế
giới. Cuộc tử sinh ở đây chỉ đơn giản là sự thay đổi địa điểm cư trú của linh
hồn. Vì thế mộ địa là điểm hẹn cho những cuộc kì ngộ giữa người sống và
người đã khuất. Nơi âm thịnh dương suy chính là chốn để các hồn ma sinh
hoạt, là cánh cửa để những người ở thế giới bên kia bước chân vào dương thế.
Khi tà dương lụi tắt, cõi dương say ngủ, cũng là lúc tưng bừng của thế giới
cõi âm nơi nghĩa địa, nghĩa trang. Nói cách khác, đây chính là tấm bản lề
khép mở cả về hai phía không gian: một cõi âm của những người đã khuất,
một về trần gian ấm nóng hơi thở của con người trần tục.
2.3.2. Thời gian kì ảo
Đồng hành với không gian, thời gian là hình tồn tại của vật chất. Thời
gian là một đại lượng để xác định quá trình tồn tại, vận động và phát triển của
mọi sự vật trong thế giới. Hình tượng nghệ thuật cũng có thể xác định trong
không gian và thời gian. Sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao
giờ cũng xuất phát tại một điểm nhìn nhất định trong thời gian và cái được
trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần
thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố này tạo thành thời gian nghệ thuật, một hình
tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật.
Khác với thời gian khách quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian
nghệ thuật có thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai
xa xôi, có thể dồn nén một khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo
dài chốc lát thành vô tận. Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo
khác nhau, bằng sự lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức:
sự sống, cái chết, gặp gỡ, chia tay mùa này, mùa khác… tạo nên nhịp điệu
trong tác phẩm.
Trong thế giới nghệ thuật, thời gian nghệ thuật xuất hiện như một hệ
quy chiếu có tính tiêu đề được giấu kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm,
cho thấy đặc điểm tư duy của tác giả. Thời gian nghệ thuật thể hiện sự cảm
thấy của con người trong thế giới, nó luôn luôn mang tính cảm xúc và tính
quan niệm nên đầy tính chất của chủ quan. Thời gian nghệ thuật là thời gian
của thế giới hình tượng hay nói cách khác, "thời gian nghệ thuật là hình
tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm” (Trần Đình Sử). Ở đây,
thời gian được dùng làm phương tiện để phản ánh đời sống và thể hiện cảm
xúc, tư tưởng của nhà văn với hiện thực đời sống ấy.
Trong tiến trình lịch sử văn học, thời gian nghệ thuật cũng đã có một
qúa trình vận động. Tương ứng với mỗi giai đoạn, mỗi loại hình có một kiểu
thời gian xác định. Khi nào ngòi bút nghệ sĩ chạy theo diễn biến sự kiện thì
thời gian trôi nhanh, khi nào dừng lại miêu tả chi tiết thì thời gian chậm lại.
Đi cùng khát vọng cảm nhận toàn bộ thế giới qua thời gian và trong
không gian, thời gian nghệ thuật đã trở thành một phạm trù thi pháp càng
ngày càng có tầm quan trọng. Tóm lại, thời gian trong văn học không còn đơn
giản là cái dung chứa các quá trình đời sống mà còn là một yếu tố nội dung
tích cực, một kẻ tham gia độc lập vào hành động, là một trong những phương
tiện hữu hiệu nhất để tổ chức nội dung của nghệ thuật.
2.3.2.1. Thời gian đêm
Thời gian nghệ thuật là một phạm trù của hình thức nghệ thuật, thể
hiện phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Trong văn xuôi
trung đại, thời gian được các tác giả chú ý miêu tả đó là thời gian vào lúc trời
tối, đêm khuya. Khi thể hiện tính chất mơ hồ, không xác định của thời gian,
các tác giả hay sử dụng những thời điểm đặc biệt như mờ sáng, ban đêm. Từ
xưa con người đã quan niệm, giống như người sống, người chết cũng có thời
gian của mình. Sử dụng những thời điểm đặc biệt ấy, các tác giả đã tạo cho
thời gian nghệ thuật của tác phẩm một sắc thái kì lạ, huyền bí mà ánh sáng
ban ngày khó có thể đem đến. Đây là thời khắc ma quỷ hiện hình, để những
chuyện lạ, kì quái xảy ra.
Văn xuôi trung đại với rất nhiều tác phẩm trong đó miêu tả cuộc gặp gỡ
giữa người và các nhân vật ảo vào lúc chập tối, đêm khuya, tảng sáng… Nói
chung cứ về đêm, các lực lượng siêu nhiên lại xuất hiện trà trộn vào thế giới
của loài người. Trong quan niệm dân gian, con người và các lực lượng siêu
nhiên có một ranh giới ngăn cách. Ban ngày là thời gian con người làm việc,
sinh hoạt cùng cộng đồng loài người, còn ban đêm là khoảng thời gian của
các nhân vật ảo. Dĩ nhiên, tất cả đều xuất phát từ tâm lý lo sợ của con người
khi đối diện với đêm tối mênh mông huyền bí.
Đêm là khoảng thời gian các nhân vật ảo xâm nhập thế giới trần tục:
giữa lúc “sông quạnh trăng mờ, bốn bề im lặng, đạo nhân thấy một đôi trai
gái thân thể lõa lồ mà cùng cười đùa nô giỡn” (Mộc miên thụ truyện), trong
cảnh “trăng tỏ sao thưa, bốn bề im lặng với tiếng khóc ai oán” thấy xuất hiện
hồn ma Thị Nghi (Xương Giang yêu quái lục); đang nữa đêm có người gọi bà
đỡ trong làng đi; “bấy giờ trăng sáng mờ mờ”, ngủ trong cái quán trọ người
nông phu trông thấy “đằng xa quân mã kéo đi đông nghịt”(An Mô nông phu),
“lúc nữa đêm, mưa tạnh gió yên, bóng trăng lờ mờ”, Tử Khanh thấy trong
miếu đền lửa sáng trưng… Đêm là thời gian quen thuộc để các tác giả dựng
lên thế giới của người chết, của những bóng ma, thật huyền hoặc và thần bí.
Mặt khác đêm cũng giúp cho các tác giả tránh được nhiệm vụ tả cụ thể ma
quái, điều mà không ai trông thấy bao giờ.
Đêm tối là thời điểm thích hợp để các lực lượng siêu nhiên trà trộn vào
thế giới loài người thõa mãn ước muốn của chính bản thân mình. Vì là lực
lượng siêu nhiên nên ước mơ của họ chủ yếu là tình cảm yêu đương, bạn bè
nhưng phải là với con người. Là nhân vật ảo nhưng chúng cũng khát khao
tình cảm như con người, chỉ có điều phải mượn bóng đêm để che đi hình tích
mới có thể dễ dàng tận hưởng cuộc sống nơi trần thế. Xét đến cùng thì những
khát vọng đó đồng thời cũng là khát vọng của con người trần tục. Nhà văn sử
dụng bóng đêm để biến ước mơ, khát vọng chính đáng của con người đặc biệt
là tình yêu lứa đôi trở thành hiện thực. Trong Mộc miên thụ truyện, đêm nào
hồn ma Nhị Khanh cũng đến tình tự với chàng Trình Trung Ngộ. Sức hút của
khoái lạc trần thế khiến chàng Trung Ngộ dù biết Nhị Khanh là hồn ma vẫn
không thể nào dứt ra được. “Phàm những đêm tối trời người ta thường thấy
hai người dắt tay nhau đi dạo, khi thì hát, khi thì khóc. Hai người thường bắt
người ta phải khấn cầu lễ bái, hễ hơi không được như ý thì làm tai làm vạ.”
Yêu nữ ở Châu Mai cứ những đêm trăng sáng lại xuất hiện, nó thường ở trên
không mà ngâm nga: “ muốn mặc văn bào chơi đế đô, Lương nhân có biết
cho?; Ngư ông khắp đất một sông hồ, mai thưa thớt, liễu gầy gò, lục giáp, lục
giáp gặp chồng xưa”. Khát vọng yêu đương của lực lượng siêu nhiên đôi khi
lại làm hại con người trần tục. Vì cuộc tình nồng nàn với hai nàng Đào, Liễu
mà chàng nho sinh Hà Nhân vứt bỏ bút nghiên, đèn sách, từ bỏ công phu lặn
lội từ xa xôi đến kinh thành để ngày đêm đắm chìm trong yêu đương. Chàng
Trình Trung Ngộ say mê hồn ma Nhị Khanh, bị hồn ma Nhị Khanh theo
đuổi, bắt phải chết theo làm yêu quái, sau phải nhờ đạo sĩ yểm bùa mới trị
được.
Chính loại thời gian đêm đã góp phần tạo nên không khí kì ảo, hoang
đường của câu chuyện. Trong cái thời khắc tĩnh lặng, yên ắng của vũ trụ và
của cuộc sống dương trần chính là giờ “thiêng” để xảy ra các sự việc kì lạ
khác thường. Đó là thời khắc con người tạm dừng cuộc sống bề bộn của đời
thường để sống với chính mình. Chìm trong thế giới vô thức tâm của mỗi
người thức và nhiều sự khác thường không bình thường xảy đến.
2.3.2.2. Thời gian luân hồi nghiệp báo
Luân hồi là “chết ở kiếp này rồi lại sinh ra ở kiếp khác, cứ quay vòng
mãi mãi như vậy” [69, 590]. Nghiệp báo là “sự đáp lại điều ác hay điều thiện
đã làm ở kiếp trước bằng điều ác hay điều thiện trong kiếp sau”[69,797]. Như
vậy con người vẽ nên vận mệnh cho mình. Thời gian như một năng lượng vũ
trụ đóng vai trò lực vận hành như thời gian huyền thoại. Trong văn xuôi trung
đại, dòng thời gian của quan niệm luân hồi nghiệp báo thể hiện trong rất nhiều
câu chuyện.
Sự luân hồi thể hiện ở chỗ con người luôn tái sinh. Sự tái sinh này chủ
yếu là các nhân vật có thể kết thúc kiếp sống của mình, chuyển sang kiếp
sống khác với một thân xác mới. Truyện Ký tam sinh (Lan Trì kiến văn lục)
kể về một cử nhân tên Mỗ tự nói tự nhớ được sự việc của cả ba kiếp trước.
Kiếp thứ nhất làm người, nhà giàu có, tiền trình sáng sủa nhưng làm nhiều
điều bất nghĩa. Sau khi chết, xuống địa ngục, hắn bị Diêm vương phạt làm gà.
Mỗ chỉ muốn chóng chết, một lần giơ cựa đạp vào đứa con của chủ làm thằng
bé chảy máu, lại còn đuổi theo mổ mãi không thôi. Chủ giận bèn làm thịt, khi
chết Diêm vương cho là chống lại chủ nên phạt làm lợn. Mỗ nhiều lần muốn
chóng chết nhưng sợ kì hạn chưa đến, nghiệp chướng càng sâu nên nhẫn nại,
chờ đến khi chủ nhà bán cho hàng xóm mổ thị cúng thần. Hồn về đến âm phủ
trình bày, Diêm vương thấy kì hạn đã mãn, và đã biết nghĩ đến điều thiện mới
bằng lòng cho đầu thai làm người. Truyện Biết chuyện kiếp trước (Thoái thực
kí văn), nhân vật Nguyễn Quyến cũng biết được việc kiếp trước. Kiếp trước là
người Bắc Ninh. Một đêm thấy mình đi ra cửa, bước đi tựa như vô bệnh, được
vài dặm thì tối đen như mưc, hơi lạnh thấu xương mới biết mình đã chết.
Xuống phủ nha, ông bị phạt làm súc vật, chuyển sang kiếp nghé. Chưa lâu thì
lại bị dẫn xuống lại phủ nha vì tội húc người, bị quan âm ty phạt phải đầu thai
làm con một gia đình nghèo. Kiếp cuối cùng được trở lại làm người đậu tiểu
khoa. Bên cạnh việc đầu thai, sự luân hồi còn được thể hiện theo hướng nhập
hồn sống lại trong một thân xác khác. Truyện Ngộ tiền sinh (Lan Trì kiến văn
lục), con trai một người nông dân thác sinh vào con trai người họ Trần ở
Đông Ngàn. Nói chung, văn xuôi trung đại quan niệm cuộc đời mỗi nhân vật
đều nằm trong vòng luân hồi của chính mính tuy nhiên hiếm người có thể nhớ
được sự chuyển kiếp.
Sự luân hồi trong văn xuội trung đại thường có sự can thiệp của các lực
lượng siêu nhiên nhưng thực sự vận hành chúng lại chính là thời gian vì quá
trình luân hồi thường đi cùng với nghiệp báo. Con người không được chọn
lựa kiếp mà mình sẽ tái sinh bởi vì kiếp sau phụ thuộc vào tất cả những gì con
người đã làm được hay gây ra ở kiếp trước. Thế giới âm phủ dựa vào biểu
hiện của con người lúc còn sống để xác định địa vị, thọ yểu. Truyện Hai thần
tranh biện (Dã sử), một người nông dân bình sinh khốn quẫn nhưng hay làm
việc thiện nên sau khi chết ba ngày anh được gia ân sống lại thêm một kỷ.
Truyện về nhà sư Bật Sô vì có công với Phật giáo “một niệm từ bi, Phật tổ
chứng giám” nên được hóa kiếp làm Minh Đế Trung Hoa (Nhà sư Bật Sô -
Công dư tiệp kí). Hay chàng trai đội lốt dê trong Dương phu truyện (Thánh
Tông di thảo) vốn là “một kẻ đánh xe ngựa cho Ngọc Hoàng, không may
trượt chân đánh vỡ viên ngọc “sa kim”. Ngọc Hoàng nổi giận đày xuống hạ
giới mươi năm, hết hạn mới cho phục chức. Các nhân vật luôn phải chịu trách
nhiệm với những việc làm của mình ở kiếp trước.
Thời gian luân hồi nghiệp báo còn được sử dụng giúp nhân vật được
đầu thai kiếp khác để hưởng hạnh phúc trọn vẹn chốn trần gian. Trong truyện
Tái sinh (Lan Trì kiến văn lục), cô gái mà chàng Đào sinh yêu đã sống lại để
đoàn tụ với chàng sau khi kiếp trước không đến được với nhau vì gia cảnh
chàng nghèo khó hay cô gái con Binh Phiên và vợ Vũ Cẩn trong Truyện luân
hồi kiếp trước (Thính văn dị lục). Thời gian luân hồi nghiệp báo đã thể hiện
thái độ đồng tình, bênh vực của nhà văn đối với những tình cảm thủy chung,
vượt qua sự hữu hạn của một kiếp người.
Việc sử dụng dòng thời gian luân hồi nghiệp báo để khuyến thiện trừng
ác của các tác giả trung đại là do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ giáo lý nhà Phật.
Mỗi tội ác dù vô tình hay hữu ý cũng gieo quả xấu cho con người trong kiếp
sau cho nên con người luôn phải giữ mình.
2.3.2.3. Sự chênh lệch giữa thời gian thực và thời gian ảo
Yếu tố kì ảo chi phối cách cảm nhận về thời gian. “Truyền kì thường sử
dụng song song hai đơn vị thời gian: thời gian xác thực và thời gian hư ảo.
Thời gian trên trần thế là thời gian xác thực và thời gian nơi cõi mộng là thời
gian hư ảo. Độ chênh lệch giữa hai đơn vị thời gian này là rất lớn và thường
không tuân theo một quy luật, tỉ lệ nhất định” [65], thông thường là thời gian
quá ngắn ở thế giới siêu nhiên và thời gian quá dài ở thế giới thực. Chẳng hạn
trong Trần nhân cư thủy phủ - Thánh Tông di thảo: một đêm ở thủy cung
bằng mười tháng ở dương gian. Hoặc một người như Tri huyện Từ Thức bỏ
việc quan dạo chơi khắp chốn non nước, sau lạc động tiên ở núi Phù Lai, kết
duyên cùng tiên nữ Giáng Hương, khi trở về quê cũ thì đã qua hơn 80 năm
(Từ Thức tiên hôn lục – Truyền kì mạn lục). Nguyên nhân chủ yếu của sự
chênh lệch này là do cảm nhận chủ quan của con người. Khoảng thời gian ở
cõi tiên, cõi mộng thường đẹp đẽ, hạnh phúc cho nên một tối, nữa ngày hoặc
một ngày ở đó bằng năm hôm, nữa năm, một năm thậm chí mười năm, một
trăm năm ở nhân gian; còn trong khổ ải của cuộc sống hàng ngày, người ta
cảm thấy thời gian dài dằng dặc cho nên tưởng tượng về thời gian thường
ngắn hơn thời gian ở cõi tiên, cõi mộng.
Sự chênh lệch về thời gian tạo cảm giác hụt hẫng bởi những giờ phút
sung sướng trôi qua rất nhanh trong cảm giác. Cảm giác hụt hẫng càng trở nên
cụ thể hơn khi nhân vật bước qua thời gian hư ảo trở về thực tại và thường bị
thực tại chối bỏ. Môtip chung: nhân vật từ cõi tiên trở về thường già nua, bị
mọi người nghi ngờ, quên lãng, xa lánh. Từ Thức ở tiên cảnh, khi trở về làng
cũ “thì thấy vật đổi sao dời, thành quách nhân gian, hết thảy đều không như
trước nữa, duy có những cảnh núi khe là vẫn không thay đổi sắc biếc màu
xanh thuở nọ. Bèn đem tên họ mình hỏi thăm những người già cả thì thấy có
người nói: “Thưở bé tôi nghe ông cụ tam đại nhà tôi cũng cùng tên họ như
ông đi vào núi mất đến nay đã hơn tám mươi năm” (Từ Thức tiên hôn lục).
Thành Đạo tử, một chân nhân lên chơi núi nọ, cầm đuốc soi vào một hang đá,
rồi đuốc tắt, lạc không biết lối ra, đi sâu vào hang thấy những tủy đá nát nhẽo
như bùn, ăn thấy mùi thơm ngon, đỡ đói. Một hồi lâu trở về nhà, mới biết
người nhà để tang đã sắp mãn tang vì tưởng ông đã chết (Tang thương ngẫu
lục). Những thước đo không – thời gian khác biệt đã tạo nên ấn tượng thoát
tục, siêu việt của thế giới bên ngoài thế gian. Sự chênh lệch này còn cho thấy
cuộc sống chốn nhân gian khác xa cuộc sống nơi tiên cảnh, từ đó bộc lộ ảo
vọng của con người muốn thoát khỏi mọi ràng buộc của thế tục. Nhưng như
nhà nghiên cứu Trần Đinh Sử đã xác định: “Có thể nói Từ Thức kết tinh bao
nhiêu hình bóng và tâm sự kẻ sĩ Việt Nam đương thời. Từ Thức hôn tiên lục
có cảm hứng siêu thoát, nhưng chỉ là siêu thoát chính sự, không phải siêu
thoát cuộc đời. Chàng không chạy theo cảnh sống trường sinh bất tử… Nhưng
truyện Từ Thức còn là bi kịch của kẻ sĩ không chốn nương thân. Chàng lên
tiên thì nhớ mong quê cũ, chàng về quê thì thiên hạ đổi dời. Chàng thui thủi
mặc áo cừu nhẹ, đội nón lá ngắn vào núi Hoành Sơn rồi biến mất, chỉ để lại
hoài niệm về một cái chí thanh cao và một tấm lòng trần rất nặng”. Tuy cảnh
tiên tươi đẹp nhưng tất cả các nhân vật là người trần thế đều nhớ chốn trần
gian và cuối cùng quay về đó. Dẫu sao cũng không thể ăn đời ở kiếp nơi tiên
cảnh vì con người đến từ trần gian không thể quen với tiên cảnh, cho dù đó là
miền cực lạc. Miền nhân gian dẫu nhiều cực khổ, khốn khó vẫn là chuẩn mực
để so sánh với các kiểu thế giới tưởng tượng khác.
***
Qua khảo sát, ta có thể thấy yếu tố kì ảo được sử dụng rộng rãi trong
nhiều tác phẩm văn xuôi tự sự thời trung đại, biểu hiện tập trung ở các yếu tố
cốt truyện, nhân vật, không gian, thời gian. Yếu tố kì ảo có vai trò chi phối
trong mối quan hệ với các thành tố của kết cấu tác phẩm. Trước hết, cốt
truyện bắt nguồn từ các môtip kì ảo. Các môtip nghệ thuật này được vận dụng
rất linh hoạt, sáng tạo, gồm: môtip gặp tiên, môtip quả báo, môtip hoá thân,
môtip đầu thai chuyển kiếp, môtip giấc mộng… Bên cạnh đó là những tình
huống truyện có yếu tố kì ảo. Những tình huống này được xem như một “hạt
nhân” quan trọng trong việc gắn kết các nhân vật và tạo sự liền mạch cho cốt
truyện. Hệ thống nhân vật được chia làm hai loại. Những nhân vật có yếu tố
kì ảo: đây là những con người bình thường, gần gũi trong cuộc sống. Ta có
thể bắt gặp họ ở khắp nơi trong đời thực. Thậm chí còn có những con người
từng được vinh danh trong chính sử và được nhiều người biết đến như vua Lê
Thánh Tông. Sự kì ảo của những nhân vật này là do các lực lượng siêu nhiên
đem lại và do ngoại cảnh tác động đến chứ không nằm ở bản chất nhân vật.
Qua sự hư cấu, tưởng tượng đó, nhân vật trở nên hấp dẫn và kì bí hơn. Trái
lại, loại nhân vật thứ hai - nhân vật kì ảo lại mang tính “phi nhân” đậm hơn.
Yếu tố kì ảo nằm trong bản chất nhân vật chứ không phải do ngoại cảnh đem
lại. Tuy mức độ đậm nhạt của yếu tố kì ảo ở hai loại nhân vật trên là khác
nhau nhưng giữa chúng lại có một điểm chung thống nhất - đó là các dạng
thức biểu hiện giống nhau. Cả nhân vật có yếu tố kì ảo và nhân vật kì ảo đều
được ảo hoá ở số phận, hoàn cảnh xuất thân, ngoại hình, hành động và các chi
tiết nghệ thuật đắt giá. Nhưng dù ở phương diện nào thì tác giả cũng đều sử
dụng hai loại chi tiết nghệ thuật để miêu tả, đó là chi tiết phi thường hoá và lạ
hoá.
Yếu tố kì ảo cũng đã dựng nên một không gian – thời gian nghệ thuật
huyền bí, quái lạ. Bằng đôi cánh tưởng tượng, các tác giả dẫn người đọc vào
những thế giới siêu nhiên: thiên đình, âm phủ, thủy cung, tiên cảnh… Mỗi thế
giới lại có quy mô và chức năng khác nhau, thỏa mãn phần nào ước mơ của
con người về một xã hội tốt đẹp. Đồng hiện cùng không gian kì ảo là dòng
chảy của thời gian biến ảo với sự hư ảo chênh lệch của thời gian, thời gian
luân hồi nghiệp báo.
Chính những yếu tố kì ảo này đã tôn tạo cho các tác phẩm vẻ đẹp lung
linh huyền ảo, đa màu sắc, có sức mê hoặc kì lạ.
Chương 3
GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA YẾU TỐ KÌ ẢO
TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM VĂN XUÔI
TRUNG ĐẠI
3.1. Cái kì ảo là yếu tố phản ánh hiện thực và phản ánh nhận thức, tư
tưởng về cuộc sống
3.1.1. Phản ánh hiện thực cuộc sống
Các yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại có tác dụng to lớn trong việc
phản ánh hiện thực đời sống xã hội đương thời với những vấn đề cơ bản nhất.
Cái kì ảo chẳng phải là cái gì xa lạ mà chính là hiện thực đời sống – hiện thực
được lạ hóa, ảo hóa. Thực chất những câu chuyện truyền kì chính là hiện thực
xã hội, chuyện đã qua nhưng chính là chuyện trước mắt. Ở những chặng
đường phát triển của văn xuôi trung đại, hiện thực đời sống xã hội được phản
ánh có nhiều nét khác nhau.
Với bút pháp hài hòa, uyên bác, phóng tác xen lẫn hư cấu, các tác giả
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, và nhiều tác phẩm thế kỉ XVIII -
XIX đã phản ánh, phê phán những tệ lậu của chế độ phong kiến, tái hiện khá
bản chất hiện thực xã hội đương thời, đặc biệt thân phận con người trong buổi
chiến tranh li loạn. Qua Khoái Châu nghĩa phụ truyện (Truyền kì mạn lục)
thấy hiện lên cảnh chiến tranh khiến cho nhân dân khổ: “ bấy giờ binh lửa rối
ren, đường sá hiểm trở, phải lận đận hàng tuần mới vào được Nghệ An…”.
Những cuộc chiến tranh khiến cho bao gia đình phải chia ly: “cuộc đoàn viên
chưa được mấy lâu, thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành, bắt đến nhiều
lính tráng”. Chiến tranh xảy ra, nhân dân là đối tượng bị đọa đày tên xiết dưới
ách xâm lược bạo tàn. Dưới hình thức thần quái, truyện Dạ Xoa bộ soái lục
(Truyền kì mạn lục) cho thấy cảnh tượng thê thảm của nhân dân “sống chẳng
gặp thời, chết không phải số. Đói không có thứ gì cấp dưỡng, rét không có
chỗ nào tựa nương trong gò xương trắng rầu rĩ cỏ rêu, trên đống cát vàng
lạnh lùng sương gió”, cho nên có tình trạng “chết khá nhiều, những oan hồn
không chỗ tựa nương họp lại thành từng đàn lũ”. Hay trong truyện Lý tướng
quân là hình ảnh: “…dân trong vùng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em
đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách, rất là khổ sở…”. Đói
kém, giặc giã là những nỗi khổ mà người dân phải gánh chịu. Hiện tượng
người gặp ma và hồn ma thần thành hoàng hiện lên báo dâng lính sẽ nộp
(Nông phu An Mô – Tang thương ngẫu lục) hay hình thức điềm báo chuột phủ
lá lên mặt (Cọp báo số mệnh người – Công dư tiệp kí) đã có sức phản ánh và
tố cáo mạnh mẽ chiến tranh, lên án các tập đoàn Lê – Trịnh tuyển binh và xô
đẩy biết bao người vô tội vào những cuộc chiến vô nghĩa. Xã hội loạn li, nhân
dân đói khổ, nhiều người đã phải bỏ nhà cửa vợ con lang thang đó đây, vào
rừng kiếm ăn rồi bị hóa ra hổ mà không biết (Hổ bộc – Hát đông thư dị, Hóa
hổ - Tang thương ngẫu lục). Trong cảnh xã hội hỗn loạn ấy, người dân còn
luôn bị bọn lưu manh quấy nhiễu, cướp bóc, “nạn trộm cắp vặt”, “nạn đàn bà
con gái bị trêu ghẹo ngày càng hoành hành”. Đó là chân tướng của hai pho
tượng hộ pháp trong ngôi chùa hoang với những hành động bỉ ổi: biến thành
người vào bếp khoắng hũ rượu, vào buồng ghẹo vợ người, bắt trộm cá, kéo
ngã mía của dân ăn (Đông triều phế tự lục - Truyền kì mạn lục), là hai tên
trộm hóa hình từ mảnh sành và quần áo rách trong vườn trộm cá nhà Nguyễn
Hãn (Qủi đấu – Lan trì kiến văn lục), là tên gian phu dâm đãng giả dạng tư
thông với phụ nữ khi chồng đi vắng (Thử tinh truyện – Thánh Tông di thảo),
thậm chí giữa ban ngày ngang nhiên lôi đàn bà vào trong chùa làm chuyện đồi
bại. Ngòi bút của tác giả cũng rất sắc sảo khi miêu tả đám vua quan. Tác giả
không trực tiếp phê phán vua chúa mà thông qua đặc trưng thể loại truyền kì
để tố cáo. Mượn sự kiện, nhân vật khung cảnh trong triều đại trước nhưng với
những việc làm và tội ác mà bọn chúng gây ra người đọc không thể không
liên tưởng đến xã hội đương thời. Trong Na Sơn tiều đối lục, mượn lời người
tiều phu tố cáo nhà vua “ thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức
dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa Nhai, phao phí
gấm là, vung vãi châu ngọc… kẻ dâng lời ngay thì phải giết, kẻ nói điêu nịnh
thì được thưởng, lòng dân động lay…”. Hay mượn lời con cáo và con vượn
trong Đà Giang dạ ẩm kí, tác giả Nguyễn Dữ còn kịch liệt đả kích hành động
bạo ngược của Trần Phế Đế “lẩn quẩn ở công việc săn bắn”, “quanh đầm mà
vây, bọc núi mà đốt”, “đương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân không
phải thời, giầy trên lúa để thỏa cái ham thích săn bắn không phải chỗ”.
Những bộ mặt hôn quân vô đạo này khiến người ta nghĩ ngay đến Lê Uy
Mục, Lê Tương Dực của thế kỉ XVI. Bên cạnh đó là bọn quan lại tham lam
không đáy, nhũng nhiễu và hiếp bức dân làng: tên quốc trụ họ Thân nham
hiểm, chúa đục khoét của dân “lúc nào ở cửa cũng rộn rịp người ra vào, vàng
bạc châu báu trong nhà chồng chất đầy rẫy”, tên Lý Hữu Chi hung bạo, làm
những việc trái phép, dựa vào lũ trộm cướp như tâm phúc, thích sắc đẹp, ham
tiền tài, “dâm cuồng chém giết không kiêng dè gì cả”… Các tác giả đã nhìn
thấy sự thật: bọn quan lại trong thời ông, nhiều kẻ không hề có lý tưởng “trí
quân trạch dân”, mà lại dùng thủ đoạn xấu xa trèo lên bậc thang danh vọng để
vinh thân phì gia. Bản chất xấu xa của bọn quyền thần trong truyện là tình
trạng phổ biến thời bấy giờ. Vua quan thì như thế, còn sĩ phu thì không ít kẻ
cũng bị trụy lạc, hư hỏng. Bên cạnh đối tượng phê phán là giai cấp thống trị
thì ở những tác phẩm văn xuôi thời kì này, bằng cái kì, cái lạ, các tác giả còn
phê phán những con người bình thường trong xã hội. Họ mang trong mình
những cái xấu, chính họ chứ không phải ai khác làm đảo lộn thuần phong mĩ
tục, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt từ bao đời: một người cha vì
hạnh phúc riêng đang tâm để con cho hổ ăn thịt không hề động lòng, một
người anh chơi bời lêu lổng sẵn sàng gán em cho một người luống tuổi để lấy
tiền…(Lan Trì kiến văn lục)
Như vậy, ngoài hiện thực xấu xa của xã hội và sự đê tiện của một lớp
người thì bên cạnh đạo Nho, nhiều truyện còn làm rõ bộ mặt tiêu cực của Phật
giáo thời kì này. Trong cái xã hội ô trọc đương thời, Phật điện cũng là nơi ẩn
nấp của bọn tu hành giả dối, bọn vô lại chuyên nghề trộm cắp hay phường giá
áo túi cơm lười biếng. Tên sư Vô Kỷ sống thiếu trung thực, làm chuyện dâm
ô trong chùa. Truyện Đào thị nghiệp oan kí (Truyền kì mạn lục) đã miêu tả
một cuộc tình duyên say đắm giữa một sư bác và một ả ca kỹ. Đông Triều phế
tự lục lại cho ta thấy chân tướng của bọn người ẩn nấp trong chùa. Đó là bọn
chuyên ăn cắp “từ gà lợn ngỗng ngan đến cá trong ao, quả trong vườn, phàm
cái gì có thể ăn được đều bị mất hết”. Đến cả các thần tượng của Phật giáo
cũng là những kẻ sa đọa, tham bổng lộc, vô trách nhiệm (Lưỡng Phật đấu
thuyết kí – Thánh Tông di thảo). Nhà văn đã cho thấy rõ: nhà chùa lúc này là
nơi hành lạc, chứa chấp những kẻ gian dâm, du đãng. Thầy chùa phần nhiều
là những kẻ đầy dục vọng, không theo được lối sống chân tu khổ hạnh nên
cũng sa vào những cuộc tình duyên say đắm đầy lạc thú. Ngòi bút miêu tả tài
tình của các tác giả đã làm cho hiện thực trở nên sống động hơn, hư hư thực
thực – cái thực nhờ cái hư ảo khiến mỗi khi đọc truyện người ta không khỏi
thảng thốt, bàng hoàng.
Bằng bút pháp của truyền kì, các tác giả đã cho thấy nguyên nhân thúc
đẩy sự suy đồi của xã hội phong kiến chính là đồng tiền, quyền lực và những
quan niệm nhân sinh có tính chất thị dân. Chính mặt trái của của việc coi của
cải, tiền bạc trọng hơn tình nghĩa góp phần tạo nên một xã hội loạn lạc. Nhân
vật Trọng Qùy trong Khoái Châu nghĩa phụ truyện vì ham mê cờ bạc mà phải
gán vợ cho gã lái buôn ở Đỗ Tam – một tên lái buôn giàu có, quỷ quyệt, dẫn
đến cái chết đầy uất ức của nàng Nhị Khanh. Trong Mộc miên thụ truyện,
Trình Trung Ngộ là một gã phú thương ở đất bắc, si mê tình ái đến nỗi bỏ
mạng. Xương Giang yêu quái lục kể chuyện gã phú thương họ Phạm dùng
tiền bạc để mua một cô gái nhỏ, có nhan sắc để làm việc dâm ô. Những tên lái
buôn ấy dựa vào thế lực đồng tiền để tác phúc, tác họa, vung vãi bạc vàng để
thỏa mãn khoái lạc vật chất. Lối sống của chúng tiêu biểu cho tính chất trụy
lạc của tầng lóp thị dân hư hỏng và của cả giai cấp phong kiến đương thời.
Đặt nhân vật vào các thế giới ảo, thân phận con người trước các thế lực đen
tối được phản ánh rõ nét hơn, giá trị phê phán của tác phẩm càng sâu sắc hơn.
Thần thuồng luồng (Long đình đối tụng lục- Truyền kì mạn lục) lợi dụng
quyền lực của loài thủy quái mà bắt phu nhân quan Thái thú, nàng Bích Châu
(Hải khẩu linh từ lục – Truyền kì tân phả) phải tự quyên sinh, hiến mình cho
đô đốc Nam Hải và đó cũng là thân phận tì thiếp cho thần sông Giang Đông
Hầu của người đàn bà trong Sông Dùng (Tang thương ngẫu lục). Đồng tiền
và thói ham sắc dục cũng khiến cho nhiều người phải trả giá: Trình Trung
Ngộ si mê ân ái với hồn ma Nhị Khanh mà bỏ mạng (Mộc miên thụ truyện –
Truyền kì mạn lục), gã phú thương họ Phạm bị giảm thọ 10 năm vì ham mê
nữ sắc mà bệnh tình điêu đứng (Xương Giang yêu quái lục – Truyền kì mạn
lục). Phê phán quyền lực, đồng tiền và cũng qua cuộc kì duyên đó, tác giả
Truyền kì mạn lục thẳng thắn phê phán, đả kích lối sống đồi bại của nho sĩ
trụy lạc, lái buôn hãnh tiến, đặc biệt là những nho sinh đam mê sắc dục mà bê
tha học hành. Nhiều truyện trong Truyền kì mạn lục viết về quan hệ tình dục
của nhân vật được xây dựng theo một mô hình chung: nhân vật nam thường là
người, còn nhân vật nữ thường là ma. Hình dung nữ sắc có sức mạnh ma quái,
coi người con gái đẹp là hồ li tinh, là yêu nghiệt, là rắn báo oán. Mặt khác
cuối mỗi truyện lại có lời bình mang tính chất giáo huấn, phê phán lối sống
buông thả đầy bản năng và chỉ rõ tác hại của lối sống đó đối với sự thành bại
của người đàn ông. Các đôi lứa này thường buông thả trong những cuộc tình
hoan lạc ái ân, thường không gắn kết với mục đích hôn nhân. Đó là các truyện
Mộc miên thụ truyện, Xương Giang yêu quái lục, Tây viên kì ngộ kí. Có thể
cách bình luận đó phản ánh quan niệm của văn hóa xưa cho rằng người phụ
nữ đẹp – tượng trưng cho dục vọng bản năng – là đáng sợ như ma quỷ. Nàng
Nhị Khanh, chỉ là một hồn ma có những diễn ngôn đầy tính triết lí quan hệ
nam nữ và sự hưởng thụ thú vui nhục dục như : “ nghĩ đời người ta chẳng
khác gì giấc chiêm bao. Chẳng bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy
những thú vui kẻo một sớm mai chết đi sẽ thành người của suối vàng, dù có
muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân cũng không thể được nữa”, thậm chí là diễn
ngôn đề cập khá trực tiếp, táo tợn về chuyện tình ái nam nữ “nay dám mong
quân tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía
rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống của thiếp như
thế sẽ không phải phàn nàn gì nữa” (Mộc miên thụ truyện). Hoặc hai cô gái
Liễu Nhu Nương và Đào Hồng Nương chỉ là u hồn của hai giống cây liễu và
đào đã chủ động nói lên những triết lí hưởng thụ như “nay gặp tiết xuân tươi
đẹp, chúng em muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất
xuân quang” (Tây viên kì ngộ kí) và có quan hệ tình ái với chàng thư sinh Hà
Nhân rất mạnh bạo. Những quan niệm sống hưởng lạc đó thật xa lạ quan niệm
lành mạnh về cuộc sống và tình yêu của nhân dân. Tác giả lên án, phê phán
những quan niệm đồi trụy và khẳng định lại những giáo điều về đức hạnh, tiết
nghĩa. Sự phê phán và khẳng định đó xuất phát từ thái độ bảo thủ của Nho
giáo nhưng nếu xét về mặt khách quan thì cũng phù hợp với cuộc đấu tranh để
giữ gìn phẩm giá con người. Ngoài ra, phê phán lối sống phóng dục bằng việc
phủ màu sắc li kì ma quái lên những cuộc tình phóng túng còn là vấn đề thuộc
thi pháp của văn học trung đại. Cái ảo ở đây đóng vai trò như là một biện
pháp đối phó với sự cấm kị của tư tưởng diệt dục, quả dục đương thời. Trong
không gian văn hóa của Nho và Phật, để có thể nói ra cái bản năng tình dục
của con người thì những vỏ bọc của sự ma quái là cần thiết. Nó có ý nghĩa là
bức bình phong che chắn búa rìu dư luận. Hẳn người đọc cũng nhận ra mục
đích kể chuyện về sức mạnh của yếu tố bản năng vốn được xem có ma lực
quyến rũ và đáng sợ như ma mãnh mà các tác giả, tiêu biểu là Nguyễn Dữ
chuyển tải qua môtip sắc dục này.
Bên cạnh đó, thông qua những cuộc tình duyên giữa người với ma,
người với tiên, các tác giả còn lên tiếng bênh vực, cổ xúy cho những nhu cầu
tình cảm, những khát khao yêu đương trần thế của con người, đặc biệt của
người phụ nữ. Dù trong lốt thần tiên hay ma quỷ thì các cô gái trong các
chuyện tình ở Mai Châu yêu nữ truyện, Ngư gia chí dị, Từ Thức hôn tiên
lục… vẫn hiện lên với những cảm xúc chân thực nhất trong tình yêu. Họ cũng
là những người phụ nữ rất thủy chung, cao thượng: nàng Ngọa Vân hiếu
thuận giàu hi sinh, Nhị Khanh đảm đang, tiết liệt, Lệ Nương, Dương Thị,
Thúy Tiêu thủy chung với người yêu, với chồng. Sự hiện diện của họ giữa cõi
thế đều là để hưởng hạnh phúc vợ chồng, không khí gia đình đầm ấm mà bất
cứ đâu cũng không có được. Các tác giả trung đại đã nói lên được khá trọn
vẹn và sâu sắc tiếng nói tâm tình riêng tư của tuổi trẻ đương thời, phản ánh
nhu cầu tình cảm bức thiết đòi hỏi phải được giải phóng khỏi lễ giáo khắc
nghiệt, có phần thông cảm với khát vọng chính đáng khi miêu tả những cặp
trai gái công nhiên yêu nhau, đi lại, giao thiệp, hẹn hò, thề thốt với nhau và
khi thể hiện nỗi buồn thương nhớ của những cặp tình nhân phải xa cách nhau.
Khát vọng yêu đương là lẽ thường tình của con người nhưng trong xã hội
phong kiến nó đâu được dễ dàng chấp nhận. Hôn nhân của trai gái là do cha
mẹ đặt đâu con ngồi đấy, quyền chủ động tình yêu chỉ thuộc về người con
trai. Những người phụ nữ trung hậu, thủy chung (Túy Tiêu, Nhị Khanh, Vũ
Thị Thiết…) lại phải chịu một số phận cay nghiệt. Tình yêu mà họ dày công
vun xới cuối cùng thường gẫy đổ và thân phận họ bị vùi dập phũ phàng. Họ
bao giờ cũng là nạn nhân đau khổ trong xã hội. Vì vậy miêu tả những mối
tình đầy tính chất hư ảo ma quái, các tác giả văn xuôi đã làm cuộc đột phá bất
ngờ vào tường thành lễ giáo phong kiến khi đồng tình với thế chủ động của
người phụ nữ, cổ vũ khát vọng hạnh phúc tình yêu chính đáng của con người.
Đó cũng còn là sự khẳng định một vấn đề triết lí nhân sinh: trần thế có sức
hấp dẫn kì lạ, chỉ ở trần thế mới có hạnh phúc lứa đôi và hạnh phúc lứa đôi là
cuộc sống tự do, vượt khỏi mọi chế định và ràng buộc.
Thế nhưng, đưa vào tác phẩm đề tài số phận người phụ nữ trong xã hội
bất công, đầy biến loạn, cũng như các tác giả Truyện kiều, Chinh phụ ngâm,
Cung oán ngâm… các tác giả văn xuôi đã phơi bày một thực trạng phũ phàng:
người phụ nữ dù sống hết sức biết điều, dù khuôn mình vào đạo tam tòng
cũng khó tồn tại được nên họ có thể tìm đâu ra hạnh phúc. Ở nhiều khía cạnh
khác nhau, dưới áo khoác của những hồn ma, những yếu tố kì ảo, hư huyền,
họ đều ít nhiều tiêu biểu cho truyền thống những người phụ nữ Việt Nam:
thủy chung, giàu đức hi sinh. Họ đành chịu cảnh “ngày ở trong chợ, đêm ở
ngọn cây” để đi tìm chồng con (Nhị nữ thần truyện- Thánh Tông di thảo), vẫn
đảm đang, tiết liệt, yêu thương chồng con, dù âm dương cách biệt vẫn tìm
cách khuyên chồng con giữ đức đợi thời, chờ khi “từ miền tây nam xuất hiện
vị chân nhân họ Lê” thì theo về giúp nước (Khoái châu nghĩa phụ truyện-
Truyền kì mạn lục), vẫn giữ trọn tình mẫu tử thiêng liêng, làm tròn thiêng
chức người mẹ cho dù chỉ trong bóng đêm (Sản dị- Lan trì kiến văn lục), hoặc
tiết nghĩa, khuyên chồng chịu theo cha đến nhậm chức ở nơi “tử địa… lam
chướng nghìn trùng” rồi ở nhà một mực thủ tiết thờ chồng, “quyết không mặc
áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người khác” khi bị ép gả cho kẻ giàu
có… Là nạn nhân của tệ phân biệt đẳng cấp, bị ngược đãi họ vẫn giữ trọn tình
yêu chung thủy say đắm, lòng nhân ái và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng
(Báo ân tháp, Tái sinh – Lan trì kiến văn lục).
Sử dụng cái kì làm chất liệu nghệ thuật, các nhà văn đã phản ánh cuộc
sống sâu sắc hơn, những câu chuyện lạ về loài vật, về ma quỉ thần thánh trở
nên quen thuộc hơn, những điều hư ảo mà thấy rất thực. Dưới màu sắc hư ảo,
những truyện kể tâm huyết xoay quanh đề tài người phụ nữ của các tác giả
tiêu biểu như Nguyễn Dữ, Vũ Trinh, Đoàn Thị Điểm… chính là ánh sáng tư
tưởng nhân văn sáng ngời mà họ đóng góp vào trào lưu nhân văn trong văn
học trung đại.
Một hiện thực khác cũng hiện lên không kém phần chân thực là chuyện
thi cử, đỗ đạt. Thực trạng suy thoái của xã hội phong kiến thế kỉ XVIII – XIX
đã kéo theo sự suy vi của Nho giáo. Mặt tiêu cực nhất thể hiện ở chốn quan
trường và tầng lớp nho sinh trí thức. Môtip thi cử ở nhiều truyện mặc dù có
dáng dấp của giai thoại và được ẩn sau tấm màn thần bí của những giấc mộng,
cầu mộng, lời phán của thầy tướng số hay ân đức của tiền nhân để lại… song
từ các góc độ khác nhau, chuyện trường thi với tất cả sự thật trần trụi của nó
được phơi bày. Nhiều nhân vật trong các truyện kể thật chẳng xứng đáng với
danh tiếng, không thể được coi là thánh nhân, quân tử. Đơn giản vì họ không
có một chút tư chất nào xứng đáng là tinh hoa của vũ trụ, trời đất ngoài sự
may mắn ngẫu nhiên (Nhận ra mẹ đẻ, Trạng nguyên đạo sĩ – Công dư tiệp
kí…)
Nhờ vào may mắn cộng với sự gà mờ của vua và các quan trường mà
việc thi văn chương và sự đỗ đạt của nhiều người ở thế kỉ XVIII thành những
câu chuyện cười ra nước mắt. Gia đình ông Nguyễn Trật (Tang thương ngẫu
lục) được thầy địa lí chỉ cho đất tốt và ông cũng ngang nhiên tuyên bố “tiến sĩ
phải học mà có được thì có gì lạ”. Thế nên thầy địa lí bảo đem đốt hết sách
vở. Qua các trường nhất trường nhì thì được người quen giúp đỡ, đến trường
ba nhặt được mảnh giấy cứ thế chép cũng đỗ. Đến trường thứ tư ông nằm mơ
thấy thần nói chữ “gừng”. ông vào thi đem theo gừng. Chiều tối có thí sinh
lều bên cạnh đau bụng, ông đem nước gừng đổ cho uống. Rồi người ấy lấy
quyển văn của mình chưa đề tên làm vật báo đền. Sau ông đỗ trúng cách.
Nhưng việc bị lộ, kết quả kì thi cũng bị bãi bỏ. Cùng với môtip phong thủy,
qua các môtip thi đỗ từ giấc mộng, làm việc thiện được trả ơn, các tác giả đã
vén bức màn thần bí của những kiểu tiêu cực trong khoa cử. Những cái kì xen
lẫn cái thực đã chỉ rõ không phải các vị đại khoa đều có khả năng xứng đáng.
Khoa bảng chẳng qua chỉ là phía khuất lấp của cuộc sống đầy phức tạp mà
người ta thường cố che giấu. Trong tình hình Nho học suy đồi, những “người
mặc áo nhà nho, đeo dải nhà nho… thường đổi họ để đi học, thay tên để ra
thi”, việc học việc thi cử trở thành bậc thang công danh bám đầy bùn nhơ. Sự
đỗ đạt hiển vinh cũng không ngoài mưu lợi ích cá nhân của những ông nghè
ông cống. Kẻ sĩ chỉ chuộng hư văn, bo bo mưu lợi cho mình. Hơn nữa, kẻ sĩ
lắm khi chạy theo sự hưởng lạc đồi bại. Hà Nhân, người học trò quê ở Thiên
Trường lên kinh sư để ăn học, nhưng “bút nghiên nản chí, son phấn tình
nồng” vì Hà say sưa yêu dấu hai người con gái. Trong cuộc hoan lạc vụng
trộm, Hà đã tán dương những bài thơ đầy khoái lạc vật chất của tình nhân, rồi
để tỏ ra vốn là con nhà “thi lễ”, Hà cũng làm thơ đáp lại “sự may mắn” trong
cảnh “bướm giỡn, hoa phô” với hai cô gái “trai lơ dâm đãng” đó.(Tây viên kì
ngộ kí – Truyền kì mạn lục)
Như vậy, lấy cái ảo để nói cái thực, tạo nên một thế giới thực ảo lẫn lộn
là một thành công nghệ thuật đáng kể của các tác giả văn xuôi thời kì này.
Nhiều vấn đề của hiện thực đương thời được phản ánh trung thực từ những
yếu tố kì ảo, hoang đường.
3.1.2. Phản ánh nhận thức, tư tưởng về cuộc sống
Sử dụng yếu tố kì ảo như là một thủ pháp nghệ thuật, qua hiện thực
được phản ánh, các tác giả còn gửi gắm nhiều suy nghiệm sâu sắc. Trước hết,
ta nhìn thấy đó là môt tinh thần dân tộc mạnh mẽ, chẳng hạn ở Truyền kì mạn
lục, nhiều truyện bộc lộ rõ tinh thần tự hào và ý chí quật cường của dân tộc.
Hạng Vương từ kí kể lại cuộc tranh biện sôi nổi giữa Hồ Tông thốc, sứ giả đời
Trần sang sứ Trung Quốc và Hạng Võ, nhân vật bá vương của thời Tần –
Hán, trong đó Hồ Tông Thốc đã biện luận hùng hồn, chỉ trích cả Hạng Võ lẫn
Lưu Bang, một người chuộng bạo lực, thích tàn sát, một người lại hay xảo trá,
thủ đoạn, cả hai đều phi nhân nghĩa, không xứng là bậc vương giả. Tản Viên
từ phán sự lục thì vạch trần tội ác của tên tướng giặc Bắc phương – sống đi
xâm lược nước người, đến khi bại trận chết, cái hồn hung ác vẫn còn sách
nhiễu nhân dân để thỏa lòng tham và xây dựng nên nhân vật Tử Văn, kẻ sĩ
chân chính, tiêu biểu cho khí phách dân tộc đã đấu tranh quyết liệt đến cùng
để diệt trừ thế lực gian tà ấy. Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Lệ Nương truyện
phản ảnh cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được lòng dân nồng nhiệt; Kim hoa thi
thoại kí đầy ý vị tự hào về văn hóa và nhân tài nước Việt…
Không phải thế giới đầy ma quái rùng rợn trong các truyện thần quái
hay thế giới bồng lai thoát tục trong nhiều truyện truyền kì Trung quốc, các
thế giới ảo trong văn xuôi trung đại (âm phủ,thủy cung, tiên giới, thiên đình)
rất gần với thế giới thực, là diện mở rộng của thế giới thực để qua đó con
người nói lên khát vọng về cuộc sống, lí tưởng, về sự công bình. Những nơi
ấy cũng có cơ cấu tổ chức như ở cõi thế nhưng khác là, những gì không thể
thực hiện được ở trần gian lại có thể thực hiện được ở đây. Mỗi thế giới là
biểu tượng của một khát vọng của con người. Thiên đình tương ứng với cõi
phúc, âm phủ tương ứng với cõi họa. Thủy cung là thế giới cứu vớt những
sinh linh bị thác oan, tiên cảnh là thế giới dành cho lạc thú.
Thế giới thủy cung là nơi quan thái thú vạch mặt tên thủy quái háo sắc
và cứu phu nhân trở về, là nơi nàng Vũ Nương được phu nhân Long Hầu giúp
để tâm hồn được siêu thoát (Long Đình đối tụng lục, Nam Xương nữ tử
truyện). Còn âm phủ là nơi trừng trị thích đáng tên tham ô vô lại Lý Hữu Chi
(Lý tướng quân truyện – Truyền kì mạn lục). Trong tương quan với dương
thế, cõi âm phủ là nơi thực hiện sự công bình và chỉ nơi ấy con người mới có
hi vọng tìm thấy công lí. Nơi ấy người chăm học hành thi cử sẽ đỗ đạt chứ
không có chuyện đút lót, chạy vạy. Lý tưởng về sự công bằng, thưởng phạt
phân minh ấy cũng giải thích cho hiện tượng các nhân vật bị trích giáng hay
đầu thai qua nhiều kiếp: người – vật- người hay tiên- người- tiên trong các
truyện ở Lan trì kiến văn lục như Ký tam sinh, Ngộ tiền sinh.
Nếu cõi âm là nơi phán xét thì thượng giới, cõi tiên là nơi ban thưởng
cho người có tài đức trong cuộc đời. Thầy Dương Trạm được thượng đế khen
có bụng tốt, biết trọng chữ nghĩa thánh hiền nên khi từ trần được giao việc
trông coi thi cử ở Thiên tào (Phạm Tử Hư du thiên tào lục – Truyền kì mạn
lục). Là người tiết hạnh nên khi chết rồi, cô gái vợ người chồng dê được hóa
thành con ngỗng vàng ngậm cành hoa bay lện trời để mãi được hưởng hạnh
phúc với tình yêu (Dương phu truyện – Thánh Tông di thảo). Rõ ràng qua
lăng kính của cái kì ảo, nói về những không gian ảo không phải nói chuyện lạ,
siêu thực mà chính là nói chuyện con người, chuyện đời thực để nhìn hiện
thực sâu sắc hơn, trải thế thái nhân tình hơn.
Là không gian đậm chất kì ảo, thế giới mộng cũng là không gian mang
ý nghĩa tư tưởng. Ở đó ngoài các nhân vật là tiên, là hồn ma hay những người
có phép thần có khả năng đi mây về gió, thì những con người bình thường
cũng đôi khi được lạc vào đó để có những phút giây chứng kiến cuộc sống ở
thế giới khác mình. Ở đó, con người có được cơ hội tiếp xúc thần linh, thấy
“được phép nhiệm màu thần thánh”. Và hơn nữa, đó cũng là nơi mà nhân dân
qua nhiều thế hệ có thể gửi gắm vào đó tâm tình thiết tha của mình, cùng với
“ thơ và mộng” đối với những người anh hùng, người có công với đất nước;
gửi gắm bao ước mơ khát vọng về những điều tốt đẹp cho cuộc sống – những
điều nên có và có thể có. Tạo ra những cuộc kì ngộ giữa người với thần, với
tiên, để nhân vật lạc vào thế giới của thần tiên chính là điểm gặp gỡ của các
tác giả truyện với nhân dân trong tinh thần lãng mạn bay bổng, mong ước cao
xa mà rất đỗi bình dị về một cuộc sống sung túc, đẹp đẽ như tiên giới giữa
cuộc đời này. Dựng lên những không gian siêu trần còn là cách để con người
khám phá bao điều mới lạ, kì thú ở cái “thế giới bên ngoài ta, bên trên ta”, thể
hiện khát vọng không cùng về sự tương giao hòa hợp hai cõi âm – dương, tiên
– tục.
Ở một góc độ nhất định, các yếu tố kì ảo còn giúp các tác giả thể hiện
nhiều bài học luân lí để răn dạy, giáo dục con người. Màu sắc hoang đường kì
ảo làm mờ đi, mềm đi mục đích giáo huấn muốn gửi gắm. Có thể nhận ra
nhiều khía cạnh của mục đích giáo huấn này: qua chuyện cõi âm nói chuyện
cõi trần, lấy chuyện xưa nói chuyện nay, lấy thế giới cỏ cây loài vật ngụ ngôn
nói về chính sự, để răn lòng người, lấy sự biến hóa đội lốt thử lòng nhân, lấy
thế giới thần tiên để răn dạy cương thường, lấy thế giới yêu ma răn dạy kẻ tà
dâm, lấy chuyện quỷ thần nhắc nhở tình bằng hữu, lấy sự tương thông trời và
người để nảy mầm cái thiện…Chính những câu chuyện hết sức hoang đường,
huyễn hoặc ấy lại hàm chứa cái chí lí ở bên trong, nhờ vậy sự việc được nói
đến, ý nghĩa giáo huấn tránh được sự lộ liễu, trần trụi, nhàm chán.
Văn xuôi trung đại với việc sử dụng chất liệu huyền ảo đã chuyển tải
nhiều nội dung tư tưởng sâu sắc. Những câu chuyện được kể không dừng lại ở
việc ghi chép mà trở thành sản phẩm sáng tạo với tiêu chí trong ảo có lí, trong
kì có tình. Suy cho cùng, động cơ sáng tác truyện có tính kì ảo ở đây không
nằm ngoài phạm vi tải đạo ngôn chí cũng như lối diễn đạt ngụ ý của nghệ
thuật trung đại.
3.2. Kì ảo có ý nghĩa như một thủ pháp nghệ thuật có sức hấp dẫn riêng
3.2.1. Kích thích trí tưởng tượng
Con người thường có nhu cầu tưởng tượng. Tưởng tượng giúp họ có
thể thăng hoa và lạc quan hơn trong cuộc sống. Nhà nghiên cứu khoa học cần
tưởng tượng để lập nên những phát minh vĩ đại. Người nghệ sĩ cần đến tưởng
tượng để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật độc đáo.
Văn học là sân chơi của trí tưởng tượng, bước vào thế giới kì ảo là cách
để nhà văn thỏa mãn những khát khao giải phóng cá tính và giải phóng tự do
cá nhân của mỗi người. Thế giới ảo còn là nơi để nhà văn cân bằng đời sống
tinh thần. Vì thế, trong văn học giai đoạn này, yếu tố kì ảo như một liều thuốc
có sức kích thích năng lực tưởng tượng của nhà văn. Đồng thời nó như một
phép màu cung cấp cho người đọc một thế giới bay bổng, diệu kì, mở ra một
không gian rộng rãi nhiều chiều, kích thích trí tưởng tượng.
Bằng đôi cánh tưởng tượng kì ảo, các nhà văn đưa người đọc thoát ra
khỏi cõi trần tục để phiêu bồng vào thế giới thơ mộng, huyền bí. Đó là thế
giới của thiên đình, thượng đế, tiên cảnh trong Từ Thức hôn tiên lục, Phạm Tử
Hư du thiên tào, Bích Câu kì ngộ… Hay là thế giới của cõi âm hồn: Mộc miên
thụ truyện, Xương Giang yêu quái lục… Trong thế giới khác thường kì lạ ấy,
những câu chuyện về tình người tình đời được tác giả gửi gắm một cách tài
tình thông qua những biến cố, sự kiện của tác phẩm. Đó chính là sức hấp dẫn
của truyện kể mà hiệu quả nghệ thuật của nó được tạo ra từ chính khả năng
tưởng tượng độc đáo của nhà văn.
Yếu tố kì ảo còn tạo ra sự li kì, cuốn hút người đọc vào những câu
chuyện hoang đường, mới lạ. Những câu chuyện về phép thuật huyền bí của
các thiền sư như Giác Hải, Thông Huyền, hai người cùng trổ tài yểm trừ yêu
quái trên tường cung điện: Giác Hải lấy mấy hạt châu gõ vào nóc nhà thì tiếng
kêu khóc liền im bặt. Thông Huyền dùng lệnh bài đập vào cột, bỗng thấy hiện
ra một bàn tay to tướng lộ ra trên nền nhà, cầm con rắn mối vứt xuống, tiếng
yêu quái hết. Mặc dù mang tính chất hoang đường siêu nhiên nhưng chất kì ảo
trong truyện làm cho người đọc tin vào điều có thể có thực, điều có thể xảy ra.
Bằng khả năng hư cấu, khả năng sáng tạo, các tác giả trung đại đã tạo ra
những tác phẩm nghệ thuật đích thực.
Bên cạnh đó các yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại còn là phương
tiện để khám phá thế giới tâm linh huyền bí tồn tại ngay trong cuộc sống con
người. Đời sống tâm linh là một phần của đời sống tinh thần. Ở đó con người
có niềm tin vào cái thiêng. Và ở đó con người sống với phần tâm linh trong
mình và được thư giãn tinh thần, được cởi bỏ phiền muộn lo âu, cầu những
điều tốt đẹp cho mình và cho mọi người. Chính vì thế sự có mặt của các yếu
tố kì ảo trong văn xuôi trung đại không chỉ thỏa mãn nhu cầu tưởng tượng mà
còn thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người.
Con người phương Đông luôn tin rằng hiện hữu bên cạnh thế giới hằng
thường là thế giới của các thế lực siêu nhiên: ma quỷ, thần linh… Qua thời
gian với sự chuyển biến của lịch sử, xã hội niềm tin ấy có sự thay đổi dần
nhưng nó vẫn duy trì cho đến ngày hôm nay. Với người Việt, do sự giao lưu
ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa lớn như Ấn Độ, Trung Quốc cộng với văn
hóa tâm linh bản địa nên có quan niệm phong phú hơn. Nói về thế giới bên
kia bao gồm cả thiên đình, âm phủ, tiên giới. Đó là kết quả của việc tích hợp
nhiều tôn giáo đặc biệt là Phật giáo và Đạo giáo. Bên cạnh niềm tin vào thế
giới thần linh, ma quỷ, đời sống tâm linh còn được thể hiện qua tục thờ cúng.
Thờ cúng là một phong tục có vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của
người Việt từ xa xưa. Trong văn học trung đại, tín ngưỡng thờ cúng có mặt
trong hầu khắp các tác phẩm như Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục,
Công dư tiệp kí… Phong tục này trong văn xuôi trung đại bao gồm: thờ cúng
tổ tiên, cúng tế người chết, thờ nhiên thần và thờ nhân thần.
Thờ tổ tiên, cúng giỗ cha mẹ là một mĩ tục có từ lâu đời. Tục lệ này thể
hiện ở việc thờ phụng lo chu tất vẹn toàn các ngày cúng giỗ của tổ tiên, ông
bà. Đó vừa là trách nhiệm vừa là đạo lý của con cháu đối với nguồn cội: nhân
vật người chị gái trong Dương phu truyện (Thánh Tông di thảo), chàng Tử
Khanh trong Hiếu đễ nhị thần truyện… Cúng tế cũng là một tập tục khá quen
thuộc trong đời sống tâm linh của người Việt. Đó là nghi lễ thờ cúng hết sức
trang nghiêm thể hiện tính nhân đạo và mong muốn giải thoát cho các oan
hồn trong quan niệm dân gian. Tâm thức dân gian này được thể hiện trong
những tác phẩm như Tây viên kì ngộ ký (Truyền kì mạn lục), Hải khẩu linh từ
lục (Truyền kì tân phả).
Xuất phát từ tín ngưỡng bách thần, người Việt có tín ngưỡng thờ thần,
bao gồm cả phúc thần và nhiên thần. Phúc thần là những vị thần có công đức
đối với đời sống nhân dân: thờ Đức thánh Trần ở đền Vạn Kiếp là một minh
chứng cho niềm tin ấy. Thờ nhiên thần bắt nguồn từ quan niệm vạn vật hữu
linh trong đời sống tâm linh của dân tộc. Niềm tin ấy được hiện hữu trong các
tác phẩm như Lan Trì kiến văn lục, Tang thương ngẫu lục – tục thờ thần rắn,
thờ thần cây,…
Điềm báo cũng là một loại tín ngưỡng có thực và khá phổ biến trong
đời sống tâm linh người Việt. Hiện tượng điềm báo giúp con người biết trước
sự - hay, may – rủi… sắp và sẽ xảy ra trong cuộc sống. Đó không phải là sự
chiêm đoán mà còn là sự chiêm nghiệm từ thực tế. Trong tác phẩm Đào thị
nghiệp oan ký – Truyền kì mạn lục, cơn gió mưa dữ dội giữa đêm ứng với cái
chết oan nghiệt của Vô Kị và cũng là điềm dự báo cảnh điêu đứng của gia
đình Nhược Chân vì bị hai hồn ma Hàn Than và Vô Kị tác oai tác quái. Hoặc
ứng với cái chết định mệnh của Bích Châu khi nàng tự nguyện thác sinh để
bảo toàn cho quân cơ nhà vua giữa biển khơi mù mịt là cơn gió dữ dội. Trận
gió lốc gian tà ấy còn là sự ứng hiện của đô đốc Nam Hải chực cướp đi sinh
mệnh nàng. Đến đời Lê Thánh Tông, linh hồn nàng hiện về qua cơn mưa gió
dữ dội báo mộng cho vua trị tội hung thần và phù trợ vua đánh giặc (Hải khẩu
linh từ lục – Truyền kì tân phả). Điềm báo còn thể hiện ở chim thú, cỏ cây
như niềm tin vào điềm lạ chuột tha lá phủ mặt báo trước con người sẽ gặp nạn
– sắp bị hổ đảo (Cọp báo số mệnh người –Công dư tiệp kí). Trong Lê Công
Trãi –Tang thương ngẫu lục, cuộc đời oan khiên thảm khốc của Nguyễn Trãi
được dự báo trước bởi giọt máu của con rắn nhỏ đúng chữ đại và thấm qua ba
tờ giấy trên cuốn sách ông đọc… Như vậy, điềm báo chính là sự cảm ứng kì
lạ của cơ trời và con người trong mối quan hệ thiên nhân tương dữ. Ngày nay
điềm báo vẫn tiếp tục tồn tại trong đời sống tâm linh của con người: đó là
niềm tin vào sự linh cảm và lẽ huyền bí nhiệm màu của đất trời vạn vật.
Tạo nên xung quanh những nhân vật truyện một bức màn huyền bí của
sự báo mộng, mộng mị, hóa kiếp luân hồi… các tác giả đã thực sự tạo cho văn
chương những huyền thoại có sức sống khỏe khoắn lâu bền. Đồng thời giúp
cho người đọc thâm nhập, khám phá thế giới tâm linh, đời sống tâm linh
thường trực, bí ẩn một cách dễ dàng. Những giấc mộng, điềm báo, sự linh ứng
của phép thuật, sự biến hiện của người, vật và cả khả năng thông linh của
người trần với thế giới siêu nhiên là những điều thiêng liêng huyền bí khó lí
giải được. Văn học quan tâm nó không nhằm mục đích thuyết phục người ta
tin vào tính có thực hoặc chứng minh cho những quan niệm định mệnh, nhân
quả mà quan trọng hơn hết là khái quát cuộc sống, tìm về với đời sống tâm
linh của người Việt. Các yếu tố kì ảo trong văn học giai đoạn này đóng một
vai trò quan trọng trong việc hiển hiện đời sống tâm linh tín ngưỡng của con
người. Niềm tin mãnh liệt vào phép nhiệm màu huyền bí của đất trời, thần
thánh, của cuộc đời sẽ giúp con người tin tưởng lạc quan và hướng thiện hơn
trong cuộc sống. Sức cuốn hút của các yếu tố ấy còn là điểm tựa cho con
người tìm về với linh khí núi sông, hồn thiêng giống nòi, với nền văn hóa tín
ngưỡng dân tộc giàu bản sắc và cũng là nguồn mạch cho nhiều sáng tác văn
học mang tính kì ảo ở các giai đoạn sau.
3.2.2. Khơi dậy sự ham muốn khám phá
Trong văn xuôi trung đại, nhiều trường hợp, kì ảo có ý nghĩa như một
yếu tố, một thủ pháp nghệ thuật. Yếu tố kì ảo đóng vai trò song hành cùng cốt
truyện. Người ta lồng ghép vào cốt truyện những yếu tố kì ảo một cách có ý
thức, như một hạt nhân tự sự quan trọng trong kết cấu tác phẩm, tạo nên một
kiểu đan lồng giữa cái thực và cái ảo. Sự có mặt của yếu tố kì ảo không phải
để kì ảo hóa cốt truyện mà là để tôn tạo và soi sáng hiện thực, góp phần làm
cho tác phẩm có dáng vẻ mới lạ và hấp dẫn hơn. Gía trị phê phán của truyện
Lưỡng phật đấu thuyết kí của Thánh Tông trở nên sắc nhọn hơn và có hiệu
quả hơn chính là nhờ tác giả đã sử dụng bút pháp kì ảo khi dựng truyện. Các
bức tượng Phật bằng đất, bằng gỗ và Phật Thích Ca suy nghĩ và hành động
như con người: cũng khoác lác, giả dối, vô dụng, trụy lạc. Tác phẩm đạt đến
độ độc đáo và súc tích chính là vì đã kết hợp nhuần nhuyễn cái thực và ảo.
Cái ảo đã nâng cái thực lên một cấp độ phản ánh cao hơn chính bản thân nó.
Hoặc truyện Long đình đối tụng lục, cũng là vấn đề thân phận người dân
thường trước những thế lực xã hội đen tối như ở nhiều truyện khác, nhưng với
bút pháp kì ảo, việc nhà văn chuyển nó vào môi trường khác – thế giới thủy
cung đã làm tăng giá trị phê phán của tác phẩm, làm giàu thêm cốt truyện và
khám phá thêm những nét mới trong tâm hồn nhân vật. Chuyển những vấn đề
của đời sống hiện thực vào thế giới thần kì, Nguyễn Dữ rõ ràng đã tạo ra một
không gian tự do cho sự khám phá, sáng tạo.
Bút pháp kì ảo cho phép nhà văn khám phá tâm hồn nhân vật ở một thế
giới mới lạ mà nó lạc vào, với một hoàn cảnh và thử thách mới. Trong thế
giới đó, nhà văn đã thể hiện được lí tưởng của mình về lẽ công bằng xã hội,
nơi cái ác bị trừng phạt, cái thiện cuối cùng chiến thắng – điều mà họ không
thể đạt được trong cuộc sống thực tại. Ở Túy Tiêu truyện(Truyền kì mạn lục),
tên Trụ quốc họ Thân cuối cùng cũng bị trị tội nhưng vì xa xỉ chứ không vì tội
ác mà hắn gây ra. Còn thần Thuồng luồng trong Long Đình đối tụng
lục(Truyền kì mạn lục ) đã bị tòa án nghị tội và bị trừng phạt vì tội ác y gây
ra. Sự đối lập giữa hai thế giới với ngụ ý phê phán xã hội của tác giả đã đạt
được mục đích. Chính cốt truyện cùng với sự có mặt của yếu tố kì ảo đã cuốn
hút người đọc, tạo cho họ những khoảng không gian tưởng tượng, liên tưởng.
Không khí bí ẩn bao trùm từ đầu đến cuối câu chuyện. Các nhân vật trong
truyện của Thánh Tông thường có hành vi và cuộc đời bí hiểm. Như bà già ăn
xin trong Phú cái truyện, một người đàn bà góa không gia đình, con cái, sống
trong sự ghẻ lạnh của mọi người và cuối cùng chết trong sự cô đơn lạnh lẽo.
Thế nhưng sau khi bà ta chết, mọi người mới vỡ lẽ là bà chôn giấu rất nhiều
của cải dưới nền nhà: “những chuỗi sâu đều đặn, xanh xanh mà chồng chất
lên nhau toàn là tiền kẽm, đếm được hơn 200 chuỗi; những hố đất vùi sâu, do
đó mà mục nát toàn là thóc nếp, đem đong được 80 chục bát. Ngoài ra gạo tẻ,
thóc tẻ, món nào cũng nhiều như thế…Ai cũng cho là lạ quá, ngơ ngác nhìn
nhau không hiểu mụ hành khất lấy ở đâu ra.” Cô kĩ nữ trong Mai Châu yêu
nữ truyện cũng là một nhân vật đầy bí ẩn. Không ai biết cô ta là ai, từ đâu
phiêu bạt đến lầu xanh. Cũng như không ai có thể hiểu nỗi những câu hát
cũng như tâm trạng của cô. Cô còn có một giọng hát và chơi đàn rất giỏi. Ở
nhà hát nhưng cô không chịu tiếp khách vì “hễ có khách làng chơi nào vừa
bước chân vào cửa thì gót sen đã quay ngoắt, chỉ để lại hương ngát sau lưng,
phòng lan vội trở vào, chỉ còn thấy phất phơ giả yếm”. Khi gặp được Lương
Nhân thì vội bước ra nhận là “lang quân”, khóc lóc kể lễ nỗi trần ai, khổ nhục
trong 30 năm đợi chờ. Hai người phụ nữ trong Nhị nữ thần truyện cũng có
hành trạng khó hiểu. Hàng ngày họ ngồi giữa chợ xem bói, hát những bài hát
kì lạ như đang tìm kiếm và chờ đợi một điều gì đó. “Cả chợ chưa ai thấy họ
ăn uống ra sao. Hễ mặt trời lặn là họ ra về. Có kẻ hiếu kì dò theo, có ý muốn
xem họ trú ngụ nơi đâu, nhưng chỉ được vài bước là chóng mặt ngã lăn,
không theo được nữa.” Người vợ cá trong Ngư gia chí dị, công chúa bướm
trong Hoa quốc kì duyên, hay cô gái thần trong Nhất thư thủ thần nữ đều là
những nhân vật có một quá khứ bí ẩn. Họ đều là thần hoặc bán thần. Nhà văn
dẫn dắt người đọc, dần dần hé mở cho họ những bí mật của sự thật. Như vậy,
yếu tố kì ảo là một thành tố quan trọng tạo nên ý nghĩa của cốt truyện. Nếu
gạt bỏ yếu tố kì ảo, tác phẩm sẽ không có giá trị. Yếu tố kì ảo có tác dụng tạo
nên sự hấp dẫn, lôi cuốn mọi sự chú ý về nó buộc người đọc phải suy ngẫm, lí
giải.
Khi cái thực và cái ảo kết hợp, đan xen lẫn nhau thì ranh giới giữa
chúng dường như được thu hẹp. Cái kì ảo không hề tạo ra sự rùng rợn, ma
quái, không hướng người đọc vào những câu chuyện hoang đường kì lạ mà
tạo nên những kì văn làm cho độc giả yêu thích. Họ không còn quan tâm việc
tin hay không tin vào những chuyện lạ mà qua những cái lạ, cái ảo khuyến
khích họ phải suy ngẫm, tham gia vào quá trình khám phá hiện thực và tạo
nghĩa cho các tác phẩm.
Như vậy, chịu ảnh hưởng sâu đậm từ văn học và tín ngưỡng dân gian,
các tác giả văn xuôi trung đại đã tạo nên những tác phẩm đậm chất kì ảo,
hoang đường. Chính những yếu tố kì ảo đã tạo cho tác phẩm có một vẻ riêng,
hấp dẫn, có sức mê hoặc kì lạ. Sức hút của nó đã trở thành điểm tựa, là nguồn
mạch cho các sáng tác kì ảo ở giai đoạn sau. Chất liệu kì ảo tiếp tục có mặt
trong tác phẩm của các nhà văn hiện đại từ các nhà văn giai đoạn 1930 - 1945
đến các nhà văn thời kì đổi mới. Các nghệ sĩ đã sử dụng yếu tố kì ảo như một
thủ pháp nghệ thuật góp vào quá trình đổi mới nghệ thuật văn xuôi hiện đại.
Trong đời sống văn học sôi động đầu thế kỉ XX, sự xuất hiện của các tác
phẩm kì ảo mang phong cách riêng của nhiều văn nghệ sĩ làm cho văn đàn
ngày càng náo nhiệt. Bút pháp truyền kì đời mới của họ đã trở thành món ăn
tinh thần đối với thị hiếu chuộng sự mới lạ của độc giả thành thị. Những tác
giả và tác phẩm tiêu biểu như Lan rừng, Bóng người trong sương mù (Nhất
Linh), Cái đầu lâu, Lưỡi tầm sét (Thế Lữ)… Các sáng tác văn học giai đoạn
này hướng đến sự diễn đạt mới, cách tư duy văn học đầy sáng tạo để tạo nên
sức hấp dẫn cho văn học thời kì đổi mới. Tiếp nối văn học giai đoạn này, giai
đoạn văn học 1945- 1975 cũng sử dụng những yếu tố kì lạ như một thủ pháp
nghệ thuật thể hiện nội dung yêu nước, ý thức căm thù giặc của những nhà
văn yêu nước. Yếu tố kì ảo được xem như là tấm bình phong hữu hiệu để
vượt qua được sự kiểm duyệt gắt gao của chính quyền Sài Gòn. Sang giai
đoạn sau 1975 mà đặc biệt là văn học từ sau đổi mới, yếu tố kì ảo, hoang
đường lại được nhiều tác giả đưa vào tác phẩm của mình. Những giấc mơ, sự
báo ứng hiện hồn, không gian huyền thoại, các hình thức giễu nhại… đã mở
ra cho người đọc những liên tưởng thú vị, kích thích trí tưởng tượng phong
phú của con người từ hiện thực cuộc sống. Như vậy, nhìn một cách khái quát
yếu tố nghệ thuật này mang lại giá trị thẩm mĩ đích thực cho tác phẩm, chứng
tỏ sức sống mãnh liệt của nó trong tiến trình văn học Việt Nam.
KẾT LUẬN
1. Luận văn tìm hiểu khái niệm kì ảo trong văn học trên cơ sở những
đánh giá, nhận xét, những bài nghiên cứu của nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước. Việc xác định nội hàm khái niệm kì ảo quả thực không
hề dễ dàng. Bởi đây là một khái niệm chưa được thống nhất. Từ những cơ sở
lí thuyết và khảo sát một số tác phẩm của văn học kì ảo Việt Nam và nước
ngoài, chúng tôi chỉ xem kì ảo như một thủ pháp nghệ thuật được nhiều cây
bút vận dụng nhằm đạt được hiệu quả “lạ hoá” cho các tác phẩm và chuyển
tải những vấn đề tâm huyết của tác giả về cuộc sống. Bàn về khái niệm văn
học kì ảo, tuy có rất nhiều ý kiến khác nhau nhưng chúng tôi đồng tình với
quan niệm coi văn học có yếu tố kì ảo là một bộ phận văn học nhận thức và
phản ánh cuộc sống từ đặc trưng và thế mạnh của những yếu tố khác lạ, phi
thường, đôi khi vượt ra khỏi khả năng nhận thức thông thường của lí trí.
Từ những hiểu biết về cái kì ảo và cái kì ảo trong văn học, chúng tôi đi
tìm và phần nào xác lập mạch nguồn kì ảo trong văn xuôi trung đại. Trong
văn xuôi trung đại, yếu tố kì ảo chủ yếu gắn liền với thể loại văn học truyền
kì. Đó là những câu chuyện mang đậm yếu tố siêu nhiên huyền bí: hồn ma,
điềm báo, hóa kiếp, bùa phép, những phép thần thông… Chính những yếu tố
kì ảo, khác thường ấy đã thể hiện một niềm tin thiêng liêng và lòng tôn sùng
ngưỡng mộ của con người và thời đại đối với lực lượng ấy. Đồng thời thông
qua đời sống tâm linh của mình, của người, các tác giả trung đại còn thể hiện
nguyện vọng ước mơ về nhiều vấn đề trong cuộc sống.
2. Yếu tố kì ảo được sử dụng rộng rãi trong nhiều tác phẩm văn xuôi tự
sự thời trung đại, biểu hiện tập trung ở các yếu tố cốt truyện, nhân vật, không
gian, thời gian. Yếu tố kì ảo có vai trò chi phối trong mối quan hệ với các
thành tố của kết cấu tác phẩm. Trước hết, cốt truyện bắt nguồn từ các môtip kì
ảo. Các môtip nghệ thuật này được vận dụng rất linh hoạt, sáng tạo, gồm:
môtip gặp tiên, môtip quả báo, môtip hoá thân, môtip đầu thai chuyển kiếp,
môtip giấc mộng… Bên cạnh đó là những tình huống truyện có yếu tố kì ảo.
Những tình huống này được xem như một “hạt nhân” quan trọng trong việc
gắn kết các nhân vật và tạo sự liền mạch cho cốt truyện.
Hệ thống nhân vật được chia làm hai loại. Những nhân vật có yếu tố kì
ảo: đây là những con người bình thường, gần gũi trong cuộc sống. Ta có thể
bắt gặp họ ở khắp nơi trong đời thực. Thậm chí còn có những con người từng
được vinh danh trong chính sử và được nhiều người biết đến như vua Lê
Thánh Tông. Sự kì ảo của những nhân vật này là do các lực lượng siêu nhiên
đem lại và do ngoại cảnh tác động đến chứ không nằm ở bản chất nhân vật.
Qua sự hư cấu, tưởng tượng đó, nhân vật trở nên hấp dẫn và kì bí hơn. Trái
lại, loại nhân vật thứ hai - nhân vật kì ảo lại mang tính “phi nhân” đậm hơn.
Yếu tố kì ảo nằm trong bản chất nhân vật chứ không phải do ngoại cảnh đem
lại. Tuy mức độ đậm nhạt của yếu tố kì ảo ở hai loại nhân vật trên là khác
nhau nhưng giữa chúng lại có một điểm chung thống nhất - đó là các dạng
thức biểu hiện giống nhau. Cả nhân vật có yếu tố kì ảo và nhân vật kì ảo đều
được ảo hoá ở số phận, hoàn cảnh xuất thân, ngoại hình, hành động và các chi
tiết nghệ thuật đắt giá. Nhưng dù ở phương diện nào thì tác giả cũng đều sử
dụng hai loại chi tiết nghệ thuật để miêu tả, đó là chi tiết phi thường hoá và lạ
hoá.
Yếu tố kì ảo cũng đã dựng nên một không gian – thời gian nghệ thuật
huyền bí, quái lạ. Bằng đôi cánh tưởng tượng, các tác giả dẫn người đọc vào
những thế giới siêu nhiên: thiên đình, âm phủ, thủy cung, tiên cảnh… Mỗi thế
giới lại có quy mô và chức năng khác nhau, thỏa mãn phần nào ước mơ của
con người về một xã hội tốt đẹp. Đồng hiện cùng không gian kì ảo là dòng
chảy của thời gian biến ảo với sự hư ảo chênh lệch của thời gian, thời gian
luân hồi nghiệp báo.
3. Sự xuất hiện các yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại không đơn
thuần làm cho tác phẩm li kì hóa. Mượn yếu tố kì ảo, các nhà văn trung đại đã
phản ánh được hiện thực cũng như phản ánh nhận thức, tư tưởng về cuộc
sống, về xã hội của con người. Hiện thực xã hội thối nát đầy rẫy những tệ lậu
từ trên xuống dưới, trong đó cuộc sống người dân hết sức bấp bênh khốn đốn,
chiến tranh, đói kém, bọn tu hành làm điều xằng bậy… Bên cạnh đó, qua
phương thức kì ảo, các nhà văn còn đề cập đến tình yêu đôi lứa và phản ánh
khát vọng hạnh phúc của con người. Từ hiện thực được phản ánh đó, nhiều
suy nghiệm, triết lí sâu sắc được gửi gắm đến người đọc.
4. Yếu tố kỳ ảo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tổ chức cũng
như tạo cho tác phẩm cái vẻ riêng, có một sức mê hoặc kì lạ. Trong cấu trúc
chỉnh thể của tác phẩm, yếu tố kì ảo góp phần tạo nên những giá trị đặc sắc.
Sự song hành và gắn bó hữu cơ của các yếu tố kì ảo với tác phẩm giúp cho
câu chuyện trở nên li kì. Yếu tố kì ảo kích thích, phát huy cao độ trí tưởng
tượng đồng thời còn thỏa mãn nhu cầu về đời sống tâm linh của con người
như niềm tin vào ma quỷ, thánh thần, niềm tin vào điềm báo, mộng báo… Sự
đan xen giữa thực và ảo trong tác phẩm khiến cho ranh giới giữa chúng như
được thu hẹp. Người đọc không còn quan tâm việc tin hay không tin vào
những chuyện lạ mà qua những cái lạ, cái ảo khuyến khích họ phải suy ngẫm,
tham gia vào quá trình khám phá hiện thực và tạo nghĩa cho tác phẩm.
Như vậy, yếu tố kì ảo đã góp một phần quan trọng trong việc tạo nên
những thành tựu cho văn xuôi trung đại Việt Nam, nhất là ở thể loại truyền kì.
Nó là phương tiện thẩm mĩ, nghệ thuật tạo nên sức hấp dẫn cho câu chuyện
và tác phẩm như được khoác thêm chiếc áo sặc sỡ bắt mắt. Mặt khác, sự xuất
hiện của yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại Việt Nam như là bước chạy đà
quan trọng để hình thành nên dòng văn xuôi kì ảo Việt Nam hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, H
2. Nguyễn Quang Ân, Vũ Ngọc Khánh (biên soạn) (1995), Kho tàng
truyện truyền kì Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
3. Lê Huy Bắc (2006), Cái kỳ ảo và văn học huyễn ảo, Tạp chí nghiên cứu
văn học số 8.
4. Lê Nguyên Cẩn (1999), Cái kì ảo trong tác phẩm của Balzac, Nxb
Giáo dục.
5. Đoàn Thị Điểm (2001), Truyền kì tân phả, Nxb Văn học.
6. Nguyễn Huệ Chi (1999), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 1, Nxb
Giáo dục.
7. Nguyễn Huệ Chi (1999), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 2, Nxb
Giáo dục.
8. Nguyễn Huệ Chi (1999), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 3, Nxb
Giáo dục.
9. Nguyễn Huệ Chi, Đỗ Đức Hiểu, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá, Từ điển
văn học (bộ mới), Nxb Văn hóa.
10. Nguyễn Huệ Chi (1999), Tìm hiểu các dạng truyện kì ảo trong văn học
trung đại và cận đại Đông Tây (in trong những vấn đề lý luận và lịch
sử văn học, Viện Văn học).
11. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học, Lý luận và ứng dụng,
Nxb Giáo dục.
12. Nguyễn Đăng Duy (1998), Nho giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà
Nội.
13. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà
Nội.
14. Nguyễn Đăng Duy (2001), Đạo giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà
Nội.
15. Nguyễn Dữ (2001), Truyền kì mạn lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Đặng Anh Đào (2006), Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết
Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn học số 8.
17. Phan Cự Đệ (2007), Truyện ngắn Việt Nam – lịch sử - thi pháp – chân
dung, Nxb Giáo dục.
18. Lê Qúi Đôn toàn tập, Kiến văn tiểu lục, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội
19. Hà Minh Đức, (1999), Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện
Văn học.
20. Đoàn Lê Giang (2006), Thời trung đại trong trong văn học các nước
khu vực văn hóa chữ Hán, Tạp chí nghiên cứu văn học số 12.
21. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2006), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục.
22. Mai Thanh Hải (2005), Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống Việt Nam,
Nxb Văn hóa thông tin.
23. Phùng Hữu Hải (2006), Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam từ
sau 1975, Tạp chí nghiên cứu văn học.
24. Nguyễn Ngọc Hiệp (2005), Đời sống của nhân vật truyền kì ngoài tác
phẩm và trong lòng tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Tạp chí văn học số
5.
25. Nguyễn Văn Huyên (1996), Truyện Việt Nam thế kỉ XIX, Nxb KHXH.
26. Trương Thị Hoa (2011), Loại hình nhân vật trong truyện truyền kì Việt
Nam qua ba tác phẩm tiêu biểu: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn
lục, Lan Trì kiến văn lục, Luận văn thạc sĩ văn học.
27. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án (2001), Tang thương ngẫu lục, Nxb Văn
học. Nguyễn Phạm Hùng (1987), Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác
trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Tạp chí văn học số 2.
28. Đinh Gia Khánh (2002), Văn học Việt Nam từ nửa đầu thế kỉ X đến
nửa đầu thế kỉ XVIII, Nxb Giáo dục.
29. Vũ Ngọc Khánh (2001), Truyện thần linh ma quái và vấn đề giáo dục
con người, Tạp chí nghiên cứu văn học số 10.
30. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo, (2004), Từ điển Việt Nam văn hóa
tín ngưỡng phong tục, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội.
đường bay mê lộ, www.viet- 31. Ngô Tự Lập, Những
studies.info/Ngotulap-melo.htm.
32. Ngô Tự Lập, Ma với tư cách là nhân vật văn học, www.viet-
studies.info/Ngotulap-melo.htm.
33. Ngô Tự Lập (1999), Truyện kỳ ảo thế giới , Nxb Văn học
34. Ngô Tự Lập, Lưu Sơn Minh (1998), Đêm bướm ma, NXB Văn học.
35. Bồ Tùng Linh (1999), Liêu trai chí dị (Nguyễn Huệ Chi nghiên cứu,
tuyển chọn, hiệu đính), Văn nghệ, Tp HCM.
36. Nguyễn Trường Lịch (1997), Huyền thoại và sức sống của huyền thoại
trong văn chương xưa và nay, Tạp chí nghiên cứu văn học số 5.
37. Lê Nguyên Long,(2006), Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong
nghiên cứu văn học, Tạp chí nghiên cứu văn học số 9.
38. Phương Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, 2006.
39. Trần Thanh Mại (1961), Những câu chuyện thần linh ma quái, Tạp chí
nghiên cứu văn học số 2.
40. E.M.Meletinsky, Thi pháp của huyền thoại (Trần Nho Thìn, Song Mộc
dịch), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
41. Nguyễn Đăng Na (1997), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập
1, truyện ngắn, Nxb Giáo dục, Hà nội
42. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập
2, kí, Nxb Giáo dục, Hà nội
43. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập
3, tiểu thuyết chương hồi, Nxb Giáo dục, Hà nội
44. Nguyễn Đăng Na (1997), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại -
những bước đi lịch sử, Tạp chí văn học số 7.
45. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đưởng giải mã văn học trung đại Việt
Nam, Nxb Giáo dục.
46. Nguyễn Đăng Na (1999), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại –
những vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục.
47. Bùi Văn Nguyên (1968), Bàn về yếu tố văn học dân gian trong Truyền
kì Mạn Lục của Nguyễn Dữ, Tạp chí văn học số 11.
48. Bùi Duy Tân (1994), Khảo và luận một số thể loại tác giả - tác phẩm
văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.
49. Vũ Thanh (1999), Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện
ngắn truyền kì Việt Nam, Tuyển tập 40 năm tạp chí văn học, tập 2, Nxb
TPHCM.
50. Vũ Thanh, Thể loại truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại, Văn học
Việt Nam – thế kỉ X đến thế kỉ XIX, những vấn đề lý luận và lịch sử,
Trần Ngọc Vương (chủ biên), Nxb Giáo dục, 2005.
51. Trần Thị Băng Thanh (1999), Vũ Trinh và Lan Trì kiến văn lục trong
dòng truyện truyền kì Việt Nam, trích trong Những suy nghĩ từ văn học
trung đại, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.
52. Phạm Văn Thắm (1996), Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại
truyền kì viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thời trung đại, Luận án phó
tiến sĩ Ngữ Văn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà nội.
53. Trần Nho Thìn (2006), Thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam, Tạp
chí Văn học số 9, số 10.
54. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn
hóa, Nxb Giáo dục.
55. Ngô Đức Thịnh (2001), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Tezevan Todorov, Dẫn luận về văn chương kì ảo, (Lê Hồng Sâm,
Đặng Anh Đào dịch), Nxb Đại học Sư Phạm (2008)
57. Phùng Văn Tửu (2006), Những hướng đổi mới của văn học kì ảo thế
kỉ XX, Tạp chí nghiên cứu văn học số 5.
58. Phùng Văn Tửu (2007), Phương thức huyền thoại trong sáng tác văn
học, Tạp chí nghiên cứu văn học số 10.
59. Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, Nxb Thuận Hóa, 2005
60. Hồ Nguyên Trừng và các tác giả khác (2001), Nam ông mộng lục và
những truyện khác, Nxb Văn học.
61. Bùi Thanh Truyền (2005), Truyện kì ảo trong đời sống văn học Việt
Nam đương đại, Tạp chí nghiên cứu văn học
62. Bùi Thanh Truyền (2006), Sự hồi sinh của yếu tố kì ảo trong văn xuôi
đương đại Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn học số 11.
63. Trần Đình Sử, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Giáo dục.
64. Trần Đình Sử, Tự sự học (Một số vấn đề lý luận và lịch sử), Nxb Đại
học Sư Phạm.
65. Đinh Phan Cẩm Vân (2000), Cái kì trong tiểu thuyết truyền kì, Tạp chí
Văn học số 10.
66. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa
học xã hội Hà Nội.
67. Lê Thu Yến, Đoàn Thị Thu Vân, Lê Văn Lực, Phạm Văn Nhu (2003),
Văn học trung đại – những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục.
68. Nhiều tác giả (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.
69. Viện ngôn ngữ học (2004), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.