ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC –––––––––––––––––––
HOÀNG THỊ THÁI
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN QUANG THIỀU
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC –––––––––––––––––––
HOÀNG THỊ THÁI
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN QUANG THIỀU
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8220121 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THANH NGÂN
THÁI NGUYÊN - 2019
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hoàng Thị Thái
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí - Truyền thông và Văn học,Trường
Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp
giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn - TS Nguyễn Thị Thanh Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo
trong suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luậnvăn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2019
Tác giả luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Hoàng Thị Thái
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................... ii
MỤC LỤC ........................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu .............................................................. 13
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu ....................................................... 13
5. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 14
6. Cấu trúc của luận văn .................................................................................. 14
7. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 14
Chương 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG THIỀU VỚI DÒNG
CHẢY CỦA YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG
ĐẠI .................................................................................................................. 16
1.1. Khái niệm kì ảo và văn học có yếu tố kì ảo ............................................. 16
1.1.1. Khái niệm kì ảo ..................................................................................... 16
1.1.2. Yếu tố kỳ ảo trong văn học ................................................................... 19
1.2. Nguyễn Quang Thiều và khuynh hướng văn học đương đại có yếu tố kỳ ảo
ở Việt Nam ...................................................................................................... 24
1.2.1. Khuynh hướng văn học đương đại có yếu tố kỳ ảo ở Việt Nam .......... 24
1.2.2. Nguyễn Quang Thiều và các truyện ngắn có yếu tố kỳ ảo ................... 26
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................ 31
Chương 2: THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG KỲ ẢO TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN QUANG THIỀU .......................................................................... 33
2.1. Thế giới nhân vật kì ảo ............................................................................. 33
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2.1.1. Thế giới hồn ma hiển hiện .................................................................... 34
iv
2.1.2. Thế giới thần thánh hiển linh ................................................................ 45
2.1.3. Thế giới người có khả năng đặc biệt ..................................................... 50
2.2. Không gian kì ảo ...................................................................................... 59
2.2.1. Quãng sông nước bí hiểm ..................................................................... 59
2.2.2. Khu vườn ruộng hoang vu..................................................................................63
2.2.3. Vùng rừng núi thâm trầm ...................................................................... 65
2.3. Thời gian kì ảo ......................................................................................... 67
2.3.1. Thời gian tâm tưởng .............................................................................. 68
2.3.2. Thời gian huyền thoại ........................................................................... 70
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................ 72
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CÁC YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG THIỀU ........................................... 73
3.1. NT xây dựng cốt truyện kỳ ảo .................................................................. 72
3.1.1. Tình huống kì ảo ................................................................................... 77
3.1.2. Kết cấu lồng ghép .................................................................................. 73
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu ........................................................................... 81
3.2.1. Ngôn ngữ ............................................................................................... 81
3.2.2. Giọng điệu ............................................................................................. 84
3.3. Xây dựng môtip trần thuật ....................................................................... 89
3.3.1. Môtíp giấc mơ ....................................................................................... 90
3.3.2. Môtíp người chết báo oán ..................................................................... 93
3.3.3. Môtíp ở hiền gặp lành ........................................................................... 95
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................ 97
KẾT LUẬN .................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kỳ ảo là một thủ pháp hiệu quả và độc đáo của văn xuôi, đã được áp dụng
từ lâu đời để gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả. Thông qua yếu tố kỳ ảo, nhà
văn thể hiện cái nhìn về hiện thực, đồng thời bộc lộ những quan điểm mới mẻ
về thế sự, nhân sinh.
Lý luận về văn học kỳ ảo và yếu tố kỳ ảo trong văn học đã được xây dựng
từ thập niên 80 của thế kỷ trước và ngày càng được quan tâm rộng rãi, sâu sắc.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm của một nhà văn cụ
thể vừa đóng góp vào việc xây dựng hệ thống lý luận này, vừa góp phần khắc
họa rõ nét diện mạo văn học hiện đại Việt Nam đương đại.
Nguyễn Quang Thiều là cây bút đa tài và sung sức, xuất hiện thường
xuyên trên văn đàn, báo chí. Từ thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, chân dung văn
học, ở “cuộc chơi” nào Nguyễn Quang Thiều cũng định vị được cho mình một
cá tính riêng, độc đáo. Với quan niệm “Hãy sống, hãy mơ ước và sáng tạo
không ngưng nghỉ trong im lặng nếu không có lý do để than thở. Khi nhà văn
sống đến từng nào thì họ sẽ viết đến từng đó”, ông đã đóng góp cho nền văn
học nước nhà nhiều tác phẩm có giá trị. Những giải thưởng cao quý trong sự
nghiệp văn chương của ông: hơn 20 giải thưởng văn học trong nước và quốc
tế, trong đó có giải của Hội Nhà văn Việt Nam cho tập thơ Sự mất ngủ của
lửa (1993); Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật với các tác phẩm:
“Sự mất ngủ của lửa” (1992), “Những người đàn bà gánh nước sông” (1995)
và “Mùa hoa cả bên sông” (1989) năm 2017... và tháng 9/2018 là giải thưởng
văn học quốc tế Hàn Quốc Changwon đã khẳng định vị trí của Nguyễn Quang
Thiều trong nền văn học Việt Nam đương đại nói riêng, văn học Việt Nam nói
chung.
Nguyễn Quang Thiều từng dành nhiều giải thưởng về thơ, song bên cạnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đó ông cũng ghi dấu ấn đậm nét về tiểu luận, dịch thuật và góp phần quan trọng
2
quảng bá văn học Việt Nam ra thế giới, trong đó phải kể đến đóng góp trong
lĩnh vực truyện ngắn, đúng như nhận định của nhà biên tập cuốn Mùa hoa cải
bên sông: “Nguyễn Quang Thiều là một cây bút truyện ngắn tài hoa ...Văn
chương và con người anh như một thứ rượu để lâu, uống vào rất dễ say” (Dẫn
theo [18, tr 19]).
Trong phạm vi luận văn này, chúng tôi xin đi sâu nghiên cứu yếu tố kì ảo
trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều - một yếu tố có vai trò quan trọng, làm
nổi bật phong cách riêng của nhà văn. Từ đó giúp người đọc khám phá thêm lối
đi riêng về nghệ thuật viết truyện ngắn, đồng thời cảm nhận được chiều sâu nhân
văn và triết lý được ẩn chứa đằng sau mỗi câu chuyện kể của ông.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về yếu tố kỳ ảo trong văn học
Cội nguồn của yếu tố kỳ ảo trong văn học có từ sáng tác dân gian, nhưng
việc nghiên cứu những sáng tác thuộc về văn học kỳ ảo và những sáng tác có
yếu tố kỳ ảo chỉ bắt đầu được quan tâm ở Việt Nam từ những năm 80 của thế
kỷ XX. Một trong những bài viết đầu tiên về văn học kỳ ảo được công bố ở
Việt Nam là bài viết “Huyễn tưởng văn học - một hình thái nhận thức thẩm
mỹ” của Nguyễn Văn Dân. Ông cho rằng: "Văn học huyễn tưởng là những
truyện hay tiểu thuyết viết về cái lạ lùng, cái li kì, gây hồi hộp và có sức hấp dẫn
cao...Ở huyễn tưởng thì cái hư bao giờ cũng xen lẫn cái thực. Hai cái đó ràng
buộc nhau, kết hợp với nhau và có khi chuyển hóa lẫn nhau" [7, tr 7]. Từ đây,
nhà nghiên cứu đã đi đến nhận định: huyễn tưởng là một hình thái nhận thức
thẩm mĩ dùng thủ pháp kết hợp hư thực để thể hiện tư tưởng tác giả. Tuy ông
dùng khái niệm “huyễn tưởng” (không dùng khái niệm “kì ảo”) nhưng đây là
bài viết sớm nghiên cứu về yếu tố kì ảo và văn học kì ảo ở nước ta.
Cùng tiếp cận cái kì ảo ở phương diện thủ pháp nghệ thuật như tác giả
Nguyễn Văn Dân, nhà nghiên cứu Nguyễn Trường Lịch có nhận xét như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
"Cái kì ảo là một trong những yếu tố góp phần làm phong phú thêm cách
3
tiếp cận hiện thực ... Đối với nhà văn, huyền thoại không tồn tại tự nó, họ
dùng chúng như những hình tượng hoang đường để khắc họa quan niệm của
con người về cái thế giời mà nhà văn mô tả chứ không phải để giải thích
những hiện tượng nào đó cũng như diễn biến của chúng” [28, tr 16]. Như vậy,
theo tác giả, kì ảo là một phương tiện nghệ thuật giúp nhà văn tiếp cận hiện
thực để bày tỏ quan điểm về thế giới. Đây là một nhận xét quan trọng cho tác
giả luận văn khi tìm hiểu về yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Quang
Thiều.
Trong bài nghiên cứu “Dư ba của truyện truyền kỳ, chí dị trong truyện
Việt Nam hiện đại”, tác giả Vũ Thanh đã chỉ ra rằng: “Các tác phẩm truyền kỳ
đời mới cũng mang một đặc trưng lớn của thể loại truyền kỳ cổ điển: phần lớn
cốt truyện đều xuất phát từ các truyền thuyết và chuyện kể dân gian, trong đó,
yếu tố thần kỳ là một đặc trưng quan trọng”[47, tr 17]. Hay khi xem xét:
"Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện ngắn truyền kì Việt Nam"
tác giả cũng đưa ra ý kiến: "Trong truyện truyền kì các tác giả sử dụng yếu tố
kì không phải chỉ với chức năng là vỏ bọc, che đậy dụng ý sâu xa của nhà văn
mà còn với tư cách là một bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng của thể
loại. Các tác giả phản ánh hiện thực qua cái kì lạ" [47, tr 17]. Như vậy tác giả
Vũ Thanh cũng đồng quan điểm với Nguyễn Trường Lịch khi nhìn nhận yếu
tố kì ảo với tư cách là một phương thức nghệ thuật.
Trong chuyên luận "Cái kì ảo trong tác phẩm Balzac", PGS. TS Lê
Nguyên Cẩn cũng đã xem "Cái kì ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, nó
được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên,
khác biệt, phi thường, độc đáo... Nó có mặt trong văn học dân gian, văn học
viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực - ảo, và tồn tại độc lập, không
hòa tan vào các dạng thức của trí tưởng tượng" [6, tr 12]. Nhận định này đã
cho thấy tính chất độc đáo và tính chất tồn tại phổ biến của yếu tố kỳ ảo, một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
gợi ý quý báu cho việc nghiên cứu yếu tố kì ảo và văn học kì ảo của nước ta.
4
Trong bài viết Cái kì ảo và văn học huyễn ảo đăng trên Tạp chí nghiên
cứu Văn học số 8 năm 2006. Tác giả Lê Huy Bắc đã dùng khái niệm “huyễn
ảo” (còn gọi là “huyễn tưởng”) để chỉ chung những tác phẩm văn học chứa
đựng những yếu tố mà con người chúng ta không thể lí giải được bằng tư duy
logic thông thường. Trong những tác phẩm đó, tồn tại cả hai yếu tố “thực” và
“ảo” nhưng yếu tố “ảo” trở thành đối tượng chính của nội dung và nghệ thuật.
Từ đây ông nhấn mạnh: “thế giới của văn học huyễn ảo là thế giới của trí tưởng
tượng, nơi sự khác lạ, hoang đường, thần diệu luôn ngự trị. Có lúc nó giúp
người đọc bình tâm, tự tại; có lúc nó khiến họ hoang mang, khiếp đảm và có
lúc khiến họ hoài nghi, bối rối” [5, tr 37]. Đó là nhận định mới mẻ, sâu sắc về
văn học kỳ ảo, là gợi ý quan trọng cho việc tìm hiểu yếu tố kỳ ảo trong truyện
ngắn Nguyễn Quang Thiều.
Bàn “Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên cứu văn học”,
Lê Nguyên Long cũng nhận định: “Cái kì ảo không chỉ đơn thuần là cái siêu
nhiên, cái không thể xảy ra; cái siêu nhiên, cái không thể xảy ra ấy muốn trở
thành cái kì ảo thì phải có tác dụng tạo ra hiệu ứng hoang mang cho những
người nào đối diện với nó” [26, tr 7]. Theo ông “Ở truyện kì ảo, khép sách
lại, độc giả không thôi băn khoăn, hoang mang, chính bởi trong quá trình
đọc, độc giả luôn bị ràng buộc và liên hệ thường xuyên các sự kiện siêu nhiên
với tính hiện thực” [26, tr 9]. Và cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, ông
cho rằng “Ở những câu chuyện đó, thế giới ma quái hư ảo được tạo ra không
hoàn toàn nhằm mục đích cuối cùng là hiệu ứng hoang mang trước sự rạn
nứt của hiện thực mà chủ yếu chỉ là phương tiện để chuyển tải tư tưởng, bài
học nhân sinh, đạo lí của cuộc đời” [26, tr 9].
Nhà nghiên cứu Lã Nguyên đã có bài tổng thuật sâu sắc về văn học kỳ ảo
trên thế giới với những đặc trưng thi pháp quan trọng của loại hình tác phẩm
trong bài viết “Văn học kì ảo: nhìn từ hệ hình thế giới quan”. Tác giả đã đặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
các vấn đề như: Tuổi thọ của văn học kì ảo là tuổi thọ của văn học; Cơ sở
5
nghiên cứu loại hình văn học kì ảo là hệ hình thế giới quan; Kiểu tư duy hiện
thực và các dạng cấu trúc của văn học kì ảo [35]. Bài viết đã thể hiện cái nhìn
bao quát về văn học kì ảo trong tiến trình lịch sử phát triển của nó.
Trên cơ sở khảo cứu những tác phẩm tiêu biểu trên chặng đường phát triển
của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam, Đặng Anh Đào đã đưa ra
nhận định: “Cái kỳ ảo ở truyện Việt Nam hướng về cái thần diệu, siêu nhiên
của truyện dân gian... Ở nhiều truyện, nó không thể chỉ được coi là bút pháp.
Bởi mỗi chi tiết kì ảo đã là một đơn vị ngữ nghĩa tạo ra phản ứng đặc trưng
của nhân vật lan tỏa tới người đọc cảm giác mơ hồ, bất định trước sự đột nhập
của một hiện tượng siêu nhiên” [10, tr 22-23]. Bài viết đã tập trung, chú trọng
đến vai trò của yếu tố kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam tiêu biểu.
Thông qua việc liên hệ, so sánh với “truyện không kì ảo”, Đặng Anh Đào đã
nêu ra những nhận xét, đánh giá sâu sắc về vấn đề này, góp phần giúp người
đọc hiểu rõ hơn về văn học kì ảo nước ta.
Ở bài viết “Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam hiện đại sau năm
1975” - Phùng Hữu Hải đã tìm hiểu yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam
sau 1975 ở hai bình diện “vi mô” và “vĩ mô”. Tác giả cho rằng “Ở tầm vĩ mô,
yếu tố kỳ ảo thể hiện một quan niệm mới của nhà văn về thế giới, là sự mở
rộng và chiếm lĩnh hiện thực hết sức sinh động. Ở tầm vi mô, yếu tố kỳ ảo
chính là các hình thức nghệ thuật cụ thể như: đối thoại tâm linh, giấc mơ, cổ
tích hóa… Yếu tố kỳ ảo là một hình thức đắc dụng giúp nhà văn đi sâu khám
phá thế giới tinh thần hết sức trừu tượng khó nắm bắt của con người, để từ
đó “thấu” con người ở phần nhân tính, mơ hồ và huyền diệu ấy” (Dẫn theo
[24, tr 10]. Từ đó, tác giả bài viết chỉ ra yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt
Nam giai đoạn này vừa mang nét chung của cái kì ảo phương Đông, vừa mang
nét riêng của bầu không khí thời đại.
Cũng khảo cứu yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975, Phạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thị Thanh Nga trong bài viết “Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam sau
6
1975” lại tập trung trình bày mối quan hệ giữa yếu tố kì ảo với tình huống
truyện. Tác giả chỉ ra ba loại tình huống tiêu biểu trong các truyện có yếu tố kì
ảo: Tình huống kì lạ, ma quái; tình huống mang tính chất ngẫu nhiên, đột biến
và tình huống căng thẳng, kịch tính. Trên cơ sở đó tác giả đưa ra kết luận:
“trong các truyện ngắn, cái kì ảo đóng vai trò như một tình huống quan trọng
đối với sự chuyển biến của cốt truyện. Nó gắn kết các nhân vật cùng tham gia
một sự kiện, biến cố có ý nghĩa nào đó, góp phần bộc lộ quan hệ và tính cách
nhân vật hoặc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm” (Dẫn theo [24, tr 10].
Đi tìm nguyên nhân “Sự hồi sinh của yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương
đại Việt Nam”, tác giả Bùi Thanh Truyền cho rằng: từ những thay đổi trong
đời sống xã hội - văn học, những đổi thay trong giao lưu văn học, từ sự mở
rộng quan niệm về hiện thực và đối tượng phản ánh của văn học, từ sự mở rộng
quan niệm về phương pháp sáng tác tiếp cận hiện thực và xuất phát từ truyền
thống văn hóa, văn học dân tộc là những lý do khiến yếu tố kì ảo hồi sinh trở
lại trong văn xuôi Việt Nam đương đại [60].
Trong bài nghiên cứu “Cái kì ảo - một phương tiện hữu hiệu trong việc
thể hiện đời sống tâm linh, vô thức của con người trong truyện ngắn Việt Nam
sau 1975”, tác giả Nguyễn Thị Hải Phương đã chỉ ra các dạng thức biểu hiện
của yếu tố kì ảo trong tác phẩm văn học như: Yếu tố kì ảo thể hiện ở những lời
nói, hành động kì lạ của nhân vật; yếu tố kì ảo thể hiện qua sự hiện hồn của
người chết, hay như yếu tố kì ảo thể hiện ở hình thức hóa thân của nhân vật
(Dẫn theo [24, tr 11]).
Công trình nghiên cứu “Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau năm 1975” của Hoàng Thị Văn đã nêu lên những dạng thức biểu hiện,
đặc điểm và hiệu ứng thẩm mỹ của yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật
Việt Nam sau năm 1975, đồng thời chỉ ra vai trò của yếu tố huyền ảo trong tổ
chức tác phẩm văn học, hiệu quả nghệ thuật của yếu tố huyền ảo trong việc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
biểu đạt ý đồ nghệ thuật của nhà văn [63].
7
Ngoài ra, có thể đến kể đến những luận văn thạc sĩ nghiên cứu yếu tố kì
ảo của những tác giả cụ thể như: “Truyện kỳ ảo hiện đại - dư ba của truyện
truyền kỳ truyền thống” của Bùi Thị Thiên Thai; “Truyện ngắn kỳ ảo Việt Nam
thế kỷ XX” của Trần Thế Mạnh; “Đặc sắc thể tài yêu ngôn trong sáng tác
Nguyễn Tuân” của Nguyễn Thị Thanh Vân; “Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương” của Nguyễn Thị Ngọc Anh; “Yếu tố kì ảo trong sáng
tác Võ Thị Hảo qua tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện ngắn Những chuyện
không nên đọc lúc nửa đêm” của Cao Thị Thu Hoài...
Từ những khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy: các nhà nghiên cứu đã khảo
cứu và nhìn nhận yếu tố kì ảo trong văn học ở nhiều khía cạnh, đồng thời đã
chỉ ra vai trò và hiệu ứng thẩm mỹ của nó trong những phạm vi nghiên cứu
nhất định. Mặc dù chưa thật hoàn toàn thống nhất, song tựu trung các ý kiến
đều khẳng định vị trí, vai trò của cái kì ảo; phần nào giúp người nghiên cứu có
cái nhìn khái quát thế nào là kì ảo và phương thức thể hiện của yếu tố kì ảo
trong văn học. Đó là những đóng góp ban đầu nhưng vô cùng ý nghĩa, giúp
chúng ta có thể nhận ra được những tín hiệu lạc quan cho việc nghiên cứu
khuynh hướng văn học có yếu tố kì ảo ở Việt Nam đương đại nói chung cũng
như đi sâu nghiên cứu yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều nói
riêng.
2.2. Về văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều
2.2.1. Về đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều
Những tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều từ khi ra đời đã tạo
được nhiều ấn tượng, dư vang trong lòng bạn đọc nói chung và nhận được nhiều
sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình nói riêng.
Khi nghiên cứu “Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay”, Lê Thị
Hường cũng đã khảo sát và đánh giá kết thúc của truyện ngắn Mùa hoa cải bên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sông của Nguyễn Quang Thiều:“cách kết thúc của Nguyễn Quang Thiều tiêu
8
biểu cho kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay và là mô hình kết thúc phổ
biến” (Dẫn theo [18, tr 5].
Trong bài “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975” nhà nghiên cứu
Nguyễn Bích Thu cũng khẳng định “Nguyễn Quang Thiều cùng với nhiều nhà
văn khác như Tạ Duy Anh, Y Ban, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Thị Thu Huệ…
đã tạo nên một diện mạo mới cho truyện ngắn thời kì đổi mới” (Dẫn theo [18,
tr 5].
Học giả Nguyễn Khắc Viện cũng đã đọc và phân tích rất kỹ truyện ngắn
“Gió dại” trong tập truyện “Người đàn bà tóc trắng” của Nguyễn Quang Thiều
và ông đưa ra kết luận: “Chỉ qua một truyện ngắn mà tác giả đã nêu lên bao
nhiêu vấn đề tâm lý đi sâu vào những manh mối thầm kín nhất của tâm tư con
người. Nguyễn Quang Thiều quả là nhà tâm lý học xuất sắc (Dẫn theo [18, tr
8].
Trong bài Ra mắt tuyển thơ Nguyễn Quang Thiều in trong Tác phẩm và
dư luận ngày 26 - 1 - 2011, tác giả Hoài Khánh đã khẳng định:“Nguyễn Quang
Thiều không chỉ là nhà thơ tiên phong với trào lưu hiện đại mà còn là cây viết
văn xuôi giàu cảm xúc. Trong anh không chỉ có con người bay bổng, ưu tư với
những phiền muộn thi ca, mà còn có một nhà báo linh hoạt và nhạy bén” (Dẫn
theo [45, tr 2]).
Về tập “Có một kẻ rời bỏ thành phố”, trong bài “Vấn đề sinh thái - đô thị
trong văn xuôi Việt Nam thời đổi mới”, tác giả Đặng Thái Hà đã nhận định:
“Tập truyện là cách nhà văn trực tiếp nêu lên một tư thế, một thái độ sống,
hay, có thể nói, một phản ứng khá quyết liệt trước cuộc sống nhiễu nhương xô
bồ tù ngục nơi đô thị phồn hoa” (Dẫn theo [45, tr 5]).
Hưởng ứng Ngày sách Việt Nam lần thứ III, ngày 20/4/2016, Nhà xuất
bản Trẻ đã tổ chức buổi giao lưu giới thiệu cuốn sách mới nhất của nhà thơ
Nguyễn Quang Thiều “Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Trong buổi giao lưu này, TS Đỗ Hải Ninh cho biết tác giả đã gặp ở cuốn sách
9
này “một sự hòa quyện, hô ứng đến nhịp nhàng, nhuần nhuyễn giữa các văn
bản văn xuôi và thơ”. Nhà văn Nguyễn Việt Hà cho rằng mình đọc cuốn sách
này “thấy thích nhưng sẽ thích hơn nếu Nguyễn Quang Thiều không phải là
nhà thơ viết văn xuôi mà là nhà văn viết văn xuôi “toàn tòng”. Họa sĩ Lê Thiết
Cương lại cho rằng, “vì là nhà thơ viết văn xuôi nên văn xuôi Nguyễn Quang
Thiều càng độc đáo. 25 bài thơ như văn bản thứ hai của 25 câu chuyện. Ở đây
có sự tương tác, xâm nhập, giao thoa, mở rộng đường biên thể loại”. PGS, TS
Nguyễn Thị Minh Thái lại quan điểm:“chính sự rậm rịt, rườm rà, dài dòng,
ngồn ngộn chi tiết mới là thứ làm nên “văn hiệu” Nguyễn Quang Thiều, cho
thấy sức nghĩ ngợi và sự tham lam nghĩ cho đến đáy, tạo được hiệu ứng ám
ảnh nơi người đọc của Nguyễn Quang Thiều”. Để nói về tác phẩm mới của nhà
văn Nguyễn Quang Thiều, PGS-TS Nguyễn Đăng Điệp cho rằng: “Tác giả đã
khắc họa một không gian âm tính đậm nét. Văn phong của Nguyễn Quang Thiều
là sự giao thoa giữa trường phái văn học hiện đại và văn học hậu hiện đại”.Còn
PGS- TS Chu Văn Sơn chia sẻ: “Tôi là người đọc văn Nguyễn Quang Thiều
rất sớm và khá trọn vẹn. Trong văn của anh hình ảnh sông Đáy trở đi trở lại
như một ám ảnh. Nhưng ám ảnh sâu nhất trong tác phẩm của Nguyễn Quang
Thiều lại là ám ảnh về cái chết. Trong cuốn sách này ta sẽ bắt gặp hàng loạt
các sự vật, hiện tượng đối lập nhau cùng tồn tại như: bóng tối- ánh sáng, sự
sống- cái chết. Dường như Nguyễn Quang Thiều quan tâm nhiều đến “phần
âm” của cuộc sống. Nói về nó là cách anh khơi gợi lên sự phục sinh và cội
nguồn của cuộc sống” (Dẫn theo [45, tr 5]).
Các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều khi được dịch và xuất
bản ở nước ngoài cũng tạo được sự chú ý và nhận được những đánh giá cao.
Đó là “Những truyện ngắn bình dị nhưng đẹp và xót xa. Mỗi trang viết ngừng
lại trước một hình ảnh, hiện ra giữa vùng sáng một Việt Nam của hôm nay, một
mảng ghép hài hòa một cách lạ lùng giữa truyền thống và hiện đại…” (Dẫn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
theo [45, tr 5]). Hay: “Thế mạnh của nhà văn trẻ Việt Nam này (Nguyễn Quang
10
Thiều) tập trung trong sự giản dị nhưng đẹp ngời ngợi của câu chữ và vấn đề
được đặt ra! Đẹp và thống thiết!”(Dẫn theo [45, tr 5]).
Và: “Với phong cách viết nhẹ nhàng, trong sáng chảy xuyên yên ả như sông
Đáy chở ta đi giữa dòng yêu thương, tươi mát và tràn đầy xúc cảm, tác giả tìm
kiếm một nơi ẩn ngụ thanh bình... Vẻ thanh bình, giản dị và tươi mát kia chỉ là
một phần hiển hiện từ một tảng băng giấu che những vết thương chưa lành hẳn,
những kỷ niệm nặng nề, những nỗi đau còn sót lại của một cuộc chiến. Nhưng,
như con phượng hoàng, dân tộc Việt Nam hôm nay đang gắng làm sống lại từ tro
bụi một kỷ nguyên mới thanh bình” (Dẫn theo [45, tr 5]).
Trong những năm gần đây, một số luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu và tìm
hiểu những khía cạnh khác nhau trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều như:
Trương Thị Thường (2006) với đề tài “Chất thơ trong truyện ngắn của Nguyễn
Quang Thiều”, Nguyễn Thị Liên (2007) với đề tài “Nhân vật nữ trong truyện
ngắn Nguyễn Quang Thiều”, Trịnh Thị Thảo (2010) với đề tài “Cấu trúc truyện
ngắn của Nguyễn Quang Thiều”, Tăng Thị Hoàn (2012) với đề tài “Truyện
ngắn Nguyễn Quang Thiều nhìn từ góc độ thể loại”, Phạm Thị Thảo (2017) với
đề tài “Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Thiều qua truyện ngắn và
ký”,Nguyễn Thị Thu Hằng (2017) với đề tài “Truyện ngắn, tản văn Nguyễn
Quang Thiều từ góc nhìn phê bình sinh thái”,...
Nhìn chung, các ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu đều cho thấy vị
trí của văn xuôi Nguyễn Quang Thiều trong văn học đương đại, đồng thời chú
ý nhiều đến những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn vốn phản ánh phần
nào phong cách của nhà văn. Đó là những gợi dẫn quý báu cho chúng tôi khi
thực hiện đề tài “Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều”
2.2.2. Về yếu tố kỳ ảo trong sáng tác của Nguyễn Quang Thiều
Những năm gần đây, việc nghiên cứu yếu tố kì ảo trong văn học đã thu
hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ta.Trong quá trình tìm hiểu về những sáng tác của Nguyễn Quang Thiều, đặc
11
biệt là những sáng tác văn xuôi, yếu tố kì ảo trong truyện ngắn của ông cũng
được nhiều bài viết đề cập đến.
Đông La trong bài “Nguyễn Quang Thiều - những khúc bi ca về tình yêu
bất tử”đã nêu rõ“rất nhiều yếu tố vừa cụ thể vừa mơ hồ: ký ức, kinh nghiệm,
phong tục, văn hóa, ẩm thực, thổ ngữ, dòng họ, hàng xóm, những ngôi mộ, con
sông, cánh đồng, đình làng, những câu chuyện ma thủa nhỏ, những đầm nước,
những năm tháng đói rét, những cơn ốm đau, mối tình thủa học trò, những
người đàn bà tắm trần trên bến sông, những phiên chợ, những đám tang, những
thôn nữ tóc dài, ngực nở rắn chắc tưởng chỉ chạm khẽ là mang thai, những
nhân vật đặc biệt của làng...” [23]. Tất cả những cái đó là nguồn cội đã sinh ra
ý thức, sinh ra tình cảm, sinh ra đam mê và cuối cùng đã sinh ra văn chương
Nguyễn Quang Thiều.
Trong bài:“Hộp đen”, tác giả Thiên Sơn nhận định: “Truyện ngắn của
Nguyễn Quang Thiều hấp dẫn bởi chất thơ, bởi những chi tiết độc đáo và cả
sắc màu kỳ ảo, chiều sâu nhân văn và triết lý. Anh thường tạo ra những chi tiết
đầy bất ngờ cuối mỗi truyện, gây được ấn tượng sau mỗi cái kết” (Dẫn theo
[17, tr 15]).
PGS.TS Đinh Trí Dũng trong bài “Mạch trữ tình trong truyện ngắn thế
hệ nhà văn sau 1975” đã chú ý đến truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều như là
một trong những cây bút văn xuôi trữ tình tiêu biểu: “Chất thơ thấm đẫm trong
các truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều ngay từ tiêu đề: Chiều hoa tầm xuân,
Giấc mơ hoa cỏ trắng, Lời hứa của thời gian, Người nhìn thấy trăng thật, Khúc
hát của dòng sông… Truyện ngắn của anh, dù viết về làng quê, tình yêu hay số
phận những người phụ nữ, đều hòa trộn tài tình cái ảo vào cái thực, thể hiện
sâu đậm chất cổ tích giữa đời thường. Dõi theo dòng chảy bất tận của cuộc
đời, truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều luôn phản ánh những mâu thuẫn, nghịch
lý của đời sống, nhưng luôn tràn đầy hy vọng và niềm tin vào những điều tốt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đẹp. Mùa hoa cải bên sông, Tiếng đập cánh của chim thần, Tiếng gọi cuối mùa
12
đông, Ngựa trắng… vừa là những câu chuyện thời sự của hiện tại, vừa là
những chuyện tình thi vị, phảng phất màu cổ tích” (Dẫn theo [45, tr 2]).
Trong lời giới thiệu cùng bạn đọc đầu tuyển tập Truyện ngắn Nguyễn
Quang Thiều - “Người nhìn thấy trăng thật”, tác giả Nguyễn Chí Hoan khẳng
định: “Truyện của anh giàu chất thơ, hơi thở huyền tích, thấm đẫm nhân văn,
lại không lạm dụng kỹ thuật nên đi vào tâm hồn thật tự nhiên, thật đầy
đặn”(Dẫn theo [45, tr 3]).
Bùi Việt Thắng trong bài “Một số gương mặt truyện ngắn 1993” viết:
“Nguyễn Quang Thiều là cây bút có hạng hiện nay. Mùa hoa cải bên sông, Cái
chết của bầy mối, Bầu trời của người cha là những truyện ngắn đẫm chất thơ.
Bút pháp truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều từ thơ mà ra...tinh tế, bay bổng,
giàu chất liên tưởng” (Dẫn theo [17, tr 7]).
Nhìn chung, có khá nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về truyện ngắn
của Nguyễn Quang Thiều. Tuy nhiên những công trình nghiên cứu trên mới chỉ
được đặt ra ở một chừng mực nhất định. Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn của
ông đã được đề cập đến nhưng chỉ là những ý kiến tạt qua, chưa được nghiên
cứu một cách toàn diện, đầy đủ. Cho đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có công
trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề này. Vì vậy, chọn
đề tài “Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều”, luận văn mong
muốn sẽ có được những kết luận khoa học về yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn
Nguyễn Quang Thiều, tiếp tục mở rộng con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của tác giả, từ đó giúp độc giả hiểu rõ hơn về những đóng góp của nhà văn
Nguyễn Quang Thiều cũng như khuynh hướng văn học có yếu tố kì ảo ở Việt
Nam đương đại.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều
13
3.2 Mục tiêu nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu yếu tố kì ảo cũng như phương thức tạo dựng yếu
tố kì ảo trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều để làm rõ giá trị của yếu
tố kì ảo trong truyện ngắn của ông, từ đó khám phá thêm lối đi riêng về nghệ
thuật viết truyện ngắn của tác giả. Điều này phục vụ nghiên cứu các thành tựu
của văn học Việt Nam thời kỳ đương đại.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu yếu tố kì ảo trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều qua
các khía cạnh: nhân vật, không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật.
- Tìm hiểu phương thức tạo dựng yếu tố kì ảo trong truyện ngắn của tác
giả và rút ra hiệu quả nghệ thuật của nó.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp nghiên cứu thi pháp học
Vận dụng lí thuyết thi pháp về không gian, thời gian, nghệ thuật và thi
pháp nhân vật
4.2.2. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
Nghiên cứu yếu tố kỳ ảo trong mối quan hệ hệ thống với các phương diện
khác trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Quang Thiều.
4.2.3. Phương pháp thống kê, khảo sát
Nhằm nhận biết những tín hiệu “kỳ ảo” truyện ngắn của Nguyễn Quang
Thiều làm cơ sở để hệ thống hoá thành những luận điểm khoa học của vấn đề.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
4.2.4. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
14
Làm rõ đặc điểm và giá trị nghệ thuật của các yếu tố kỳ ảo trong truyện
ngắn của Nguyễn Quang Thiều, đối chiếu so sánh với các đối tượng văn học
khác để thấy được nét mới mẻ, độc đáo của nhà văn.
5. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung khai thác các truyện ngắn có yếu tố kì ảo trong hai tập
truyện: Mùa hoa cải bên sông (NXB Hội nhà văn,1998) và Cô gái áo xanh,
những chuyện kỳ bí của làng(NXB Trẻ, 2018). Ngoài ra, để làm nổi bật đặc
trưng, luận văn còn đối chiếu với yếu tố kỳ ảo trong các tác phẩm thuộc thể
loại khác (tản văn, tạp văn) của Nguyễn Quang Thiều và trong các tác phẩm
của những nhà văn khác.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Truyện ngắnNguyễn Quang Thiều với dòng chảy của yếu tố
kỳ ảo trong văn học Việt Nam đương đại
Chương 2: Thế giới hình tượng kỳ ảo trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng các yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn
Nguyễn Quang Thiều
7. Đóng góp của luận văn
7.1. Đạt được các mục đích đề ra luận văn sẽ có được những kết luận khoa
học về yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều, tiếp tục mở rộng
con đường đi vào thế giới nghệ thuật của tác giả. Từ đó giúp độc giả hiểu rõ
hơn về những đóng góp của nhà văn Nguyễn Quang Thiều cũng như khuynh
hướng văn học có yếu tố kì ảo ở Việt Nam đương đại.
7.2. Đóng góp một tài liệu học tập, nghiên cứu về Nguyễn Quang Thiều
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và văn học Việt Nam đương đại...
15
Chương 1
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG THIỀU VỚI DÒNG CHẢY CỦA
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
16
1.1. Khái niệm kì ảo và văn học có yếu tố kì ảo
1.1.1. Khái niệm kì ảo
* Định nghĩa trong các từ điển
Cái kì ảo là một khái niệm đã được xuất hiện từ thời cổ đại. Trong vòng
mấy thập kỉ trở lại đây, hình thái nhận thức thẩm mĩ này càng nhận được sự
quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu văn học. Đã có rất nhiều ý kiến, tranh
luận xoay quanh khái niệm này như: Cuốn Từ điển Petit Pobert của Pháp định
nghĩa: "Cái kì ảo được sinh ra bởi sự tưởng tượng, cái không tồn tại trong
thực tế, cái có tính tưởng tượng siêu nhiên". (Dẫn theo [50, tr 12]).Theo Từ
điển Ngôn ngữ Pháp, "Kì ảo" là tính từ, bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp, để chỉ những
gì được tạo nên bởi trí tưởng tượng, chứ không tồn tại trong thực tế" (Dẫn theo
[50, tr 12]). Còn trong Từ điển các ý kiến về Văn học (Pháp), Adrian Marino
quan niệm “cái kì ảo là chỉ những cái không tồn tại trong hiện thực, những cái
không có thực và được tạo ra do tưởng tượng”(Dẫn theo [50, tr 12]).
Khái niệm kỳ ảo cũng được đề cập đến trong nhiều cuốn Từ điển của Việt
Nam. Trong cuốn từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, tác giả sử dụng
thuật kì lạ: "Kì lạ là tựa như không có thật mà chỉ có trong tưởng tượng" [32,
tr 499]. Từ điển từ và ngữ Việt Nam (NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,
2000) cũng đồng quan điểm khi giải thích: Kì, có nghĩa là lạ lùng, khác thường,
bất ngờ. Ảo, là không có thực. Kì ảo mang ý nghĩa có một vẻ lạ lùng, không có
thực, bí ẩn (Dẫn theo [24, tr 17]).
* Quan niệm của các nhà nghiên cứu
Trên thế giới, người đầu tiên đề cập đến thuật ngữ “cái kì ảo” là một học
giả người Anh tên là Joseph Addison (1672-1719). Theo ông, những sáng tác
kì ảo “tạo ra một khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thỏa
mãn trí tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác thường
của những con người được miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong trí nhớ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của chúng ta những câu chuyện ma mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích
17
thú với những nỗi khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con người phải
lệ thuộc vào nó một cách tự nhiên” [26, tr 43].
Hay Tzvetan Todorv, trong "Dẫn luận về văn học kì ảo" đã quan niệm
"Cái kì ảo là sự do dự của người nào đó vốn chỉ quen thuộc với những luật lệ
tự nhiên đã bị đặt vào hoàn cảnh đối mặt với một hiện tượng mà bề ngoài có
vẻ siêu nhiên" (Dẫn theo [33, tr 18]).
Cùng với Joseph Addison, Tzvetan Todorv, chúng ta còn bắt gặp rất nhiều
ý kiến của các nhà nghiên cứu khác như: M. Renard, H. Benac, M. Jarrety,
Geogre Munteanu,...Tuy có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng nhìn chung
họ đều cho rằng: kì ảo được gợi lên từ cái siêu nhiên, chuyện ma quỉ, những
giấc mơ quái dị, có tính chất nửa tin nửa ngờ, gây ra một cảm giác mãnh liệt
nào đó cho người đọc.
Ở Việt Nam, xoay quanh khái niệm kỳ ảo cũng có nhiều ý kiến được đưa
ra. Xin được điểm qua một số ý kiến nổi bật: Tác giả Lê Nguyên Cẩn trong
chuyên luận "Cái kì ảo trong tác phẩm Balzac" cho rằng “Cái kì ảo là một
phạm trù tư duy nghệ thuật, nó được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được biểu
hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo… Nó có mặt
trong văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Nó tồn tại trên trục thực
ảo, và tồn tại độc lập, không hòa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng
tượng” [6, tr 16].
Theo Phùng Văn Tửu “kỳ ảo là cái lạ lùng, không có thật, không thể bắt
gặp trên thế gian này, nói chung là những yếu tố siêu nhiên, nếu ta hiểu siêu
nhiên là những cái gì không tồn tại trên đời” [44, 47].
Lê Nguyên Long thì khẳng định: "Cái kì ảo phải diễn ra trong một môi
trường có tính hiện thực, ở đó sự tưởng tượng được phép phát triển ồ ạt, và đi
cùng với điều đó thì tính chất mơ hồ, lưỡng trị là đặc trưng cơ bản của thể loại.
Cái kì ảo chỉ tồn tại khi đối diện với chính nó, người ta luôn có ý thức về một
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sự đối lập giữa những cái siêu nhiên hư huyền với thế giới thực tại....Cái kì ảo
18
là cái không thể cắt nghĩa được bằng lí tính từ điểm nhìn của chúng ta với tầm
nhận thức hiện tại" (Dẫn theo [8, tr 20]). Cũng trong bài viết này, Lê Nguyên
Long đã nhìn nhận yếu tố kỳ ảo chính là một hình hình thức nghệ thuật cụ thể
như đối thoại tâm linh, giấc mơ,...
Tác giả Phùng Hữu Hải nhận định: “yếu tố kỳ ảo là sản phẩm của trí
tưởng tượng, là phương thức tư duy nghệ thuật được biểu hiện bằng những
năng lực, yếu tố có tính siêu nhiên, nằm ngoài tư duy lý tính của con người. Nó
tham gia vào sự phát triển của cốt truyện và tạo nên những phản ánh nhận thức
của người tiếp nhận một cách mạnh mẽ, hay nói cách khác nó tạo nên những
cú “sốc” về tâm lý, nhận thức, làm xuất hiện những dấu hỏi về nguồn gốc xuất
hiện. Yếu tố kỳ ảo không hòa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng tượng,
không bao gồm biện pháp nhân hóa” (Dẫn theo [24, 18]).
Còn PGS. TS Trần Lê Bảo trong bài “Thể nghiệm mộng ảo của các tác
giả cổ đại Trung Quốc” lại cho rằng: "Cho dù nội dung của mộng có kì ảo, phi
lôgic tới đâu thì xét tới cùng cũng vẫn là sự phản ánh có nguồn gốc từ hiện
thực cuộc sống. Bởi vì trong khi mộng, đại não của con người ở trạng thái vô
thức, thiếu sự khống chế và điều tiết của hệ thống tín hiệu thứ hai, cho nên
cảnh mộng thường xa rời hiện thực, thậm chí hoang đường, quái đản, vừa thực
vừa ảo" [4, tr 62].
Từ tập hợp một số ý kiến của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước bàn
về cái kỳ ảo, chúng tôi nhận thấy có hai luồng quan điểm: Một số ý kiến cho là
kỳ ảo là không có thực, hoàn toàn do tưởng tượng mà ra. Đa số ý kiến thì cho
rằng kỳ ảo dù là sản phẩm của trí tưởng tượng, chứa đựng yếu tố hoang đường,
siêu nhiên nhưng vẫn liên quan đến hiện thực, nó tồn tại trên hai trục thực - ảo.
Trên cơ sở ý kiến nêu trên, luận văn đi đến thống nhất về cách hiểu cái kỳ ảo
như sau:
- Kỳ ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng, là những cái siêu nhiên, khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thường, quái dị.
19
- Kỳ ảo có tác dụng tạo ra những “cú sốc” tâm lý khiến cho người đọc
cảm thấy khi thì hoang mang, lo sợ, hồi hộp, khi thì thích thú bởi yếu tố khác
thường, quái dị đầy bất ngờ của nó. Vì thế truyện kỳ ảo luôn có sự hấp dẫn
riêng đối với độc giả.
- Thông qua yếu tố kỳ ảo nhà văn bộc lộ quan niệm về đời sống, về con
người. Cho nên yếu tố kỳ ảo còn đống vai trò là phương tiện nghệ thuật quan
trọng của tác phẩm văn học.
Từ đây, chúng tôi nhận thấy rằng, truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều cũng
chứa đựng yếu tố kì ảo như một mạch riêng trong dòng chảy của văn học thời
kì đổi mới. Thông qua yếu tố kỳ ảo, nhà văn thể hiện cái nhìn về hiện thực,
đồng thời bộc lộ những quan điểm mới mẻ về thế sự, nhân sinh.
1.1.2. Yếu tố kỳ ảo trong văn học
Từ nội hàm khái niệm yếu tố kỳ ảo như đã lý giải ở trên, chúng ta có thể
hiểu văn học kỳ ảo là những tác phẩm văn học đề cập đến các nhân vật, hiện
tượng hay có chứa những tình tiết siêu nhiên, hoang đường, ma quái. Trong đó
nhà văn sẽ phát huy tối đa trí tưởng tượng, liên tưởng của mình để tạo nên một
câu chuyện ly kì, đưa người đọc vào một thế giới mộng ảo, huyễn hoặc. Còn
độc giả sẽ theo dõi câu chuyện trong sự băn khoăn, hoang mang và rồi mò mẫm
tìm cách vén màn cho những điều kì bí vừa xảy ra. Có câu chuyện bức màn bí
ẩn sẽ được vén lên ở cuối tác phẩm, cho người đọc sự thoải mái, toại nguyện.
Cũng có những tác phẩm khi gấp trang sách lại, người đọc vẫn không thôi đặt
câu hỏi. Những nghĩ suy, băn khoăn và cả sự hoang mang, lo lắng ấy phải chăng
là độc giả cũng đang “đồng sáng tạo” với nhà văn. Các tầng ý nghĩa, tư tưởng
chủ đề của tác phẩm vì thế cũng dần được hé mở. Như vậy một tác phẩm văn
học kì ảo được nhà văn sáng tạo ra không phải chỉ nhằm mục đích giải trí mà
nó còn là một sản phẩm nghệ thuật đích thực, một phương tiện nghệ thuật để
nhà văn chuyển tải tư tưởng, bài học nhân sinh, đạo lí của cuộc đời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
1.1.2.1.Cái kì ảo có mầm mống từ trong văn học dân gian.
20
Văn học dân gian là những sáng tác văn học do nhân dân tạo nên và
lưutruyền. Các thể loại văn học dân gian chứa đựng nhiều yếu tố kì ảo phải kể
đến thần thoại, truyền thuyết, sử thi và truyện cổ tích thần kì, như: Thần Trụ
Trời, Thần Mưa, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Truyền thuyết An Dương Vương và
Mỵ Châu Trọng Thuỷ, Tấm Cám, Đam San,... Mỗi thể loại, mỗi câu chuyện
đều hướng đến mục đích, ý nghĩa riêng. Thần thoại tập trung nhận thức và lí
giải các hiện tượng tự nhiên. Tuy nhiên với trình độ nhận thức buổi sơ khai
chưa cho phép họ thực hiện được điều đó. Thế là con người đã mượn yếu tố kì
ảo để giải thích (tạo ra trời, đất, núi, sông, biển cả là Thần Trụ Trời; tạo ra mưa
cho cây cối tốt tươi, thế gian có nước uống, bà con cấy cầy là Thần Mưa; Nữ
thần Lúa là con của Ngọc hoàng được sai xuống trần gian nuôi sống con
người,...). Truyện cổ tích thần kì phản ánh xung đột, mẫu thuẫn xã hội. Trong
đó xung đột giữa người tốt và kẻ xấu, giữa người thật thà, lương thiện và kẻ
tham lam, độc ác...là xung đột có tính phổ biến trong truyện cổ tích thần kì.
Thực tế xã hội phân chia giai cấp lúc bấy giờ, những người dân nghèo lương
thiện, hiền lành khó có thể giành chiến thắng dễ dàng trước những thế lực giàu
có, độc ác. Và yếu tố thần kì đã xuất hiện như một cứu cánh, bênh vực, bảo vệ,
giúp cái thiện trừng trị cái ác, giúp người hiền gặp điều lành. Kết thúc truyện
cổ tích thần kì vì vậy thường có hậu,qua đó gửi gắm niềm tin, ước mơ của nhân
dân về một xã hội công bằng,ở đó người tốt sẽ được hưởng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc. Cô Tấm thảo hiền chỉ biết khóc mỗi khi bị mẹ con Cám hành hạ
luôn được ông Bụt hiện lên giúp đỡ. Tấm mất yếm đào – Bụt cho cá bống. Tấm
mất bống – Bụt cho quần áo mới đi dự hội. Tấm không được đi hội – Bụt cho
chim sẻ đến giúp Tấm, đưa Tấm đến hội, gặp nhà vua, được làm hoàng hậu và
đạt đến đỉnh cao hạnh phúc. Cùng với Bụt, con gà biết cảm thông với Tấm,
chim sẻ biết giúp Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, cũng là yếu tố kì ảo, trợ
giúp Tấm trên đường tới hạnh phúc. Thậm chí xã hội càng phi lý, bất công thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
niềm tin, mơ ước của người dân lao động càng tha thiết, mãnh liệt. Điều đó
21
cũng lý giải vì sao truyện cổ tích thần kì dù là những câu chuyện hư cấu vẫn
luôn được nhân dân yêu mến, gìn giữ từ đời này sang đời khác.
1.1.2.2.Cái kì ảo trong văn học trung đại
Đây là thời kì nhiều tư tưởng triết học song song tồn tại gắn bó chặt chẽ:
tư tưởng triết học Phật giáo, Lão Trang, Nho giáo,... cùng dung hòa với tín
ngưỡng dân gian để góp phần tạo ra bản sắc dân tộc Việt Nam. “Nếu Nho giáo
coi trọng “tam cương, ngũ thường”, trói buộc tầng lớp nho sĩ vào những quy
định khắt khe của đạo vua – tôi, cha – con, chồng - vợ, không khuyến khích hư
cấu, tưởng tượng, chủ trương không nói chuyện “quái, lực, loạn, thần”, “kính
quỷ thần nhi viễn chi” thì chính học thuyết đề cao vai trò của Tâm, “vạn pháp
duy tâm tạo” (toàn bộ thế giới là hình ảnh do tâm tạo ra) đã đề cao vai trò của
trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn, giúp người viết vượt lên trên tình trạng
sao chép đơn giản hiện thực để hư cấu, tưởng tượng” [61]. Điều đó dễ dàng
dàng giúp tầng lớp nho sĩ - vốn chịu sự kìm toả bức bối của “tam cương, ngũ
thường” - tìm được con đường để giải thoát những ẩn ức dồn nén, đồng thời
thông qua đó bộc lộ những suy tư, chiêm nghiệm về cuộc đời. Trong “Truyền
kì mạn lục”, thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái..., Nguyễn Dữ muốn
gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự,
vua chúa hắc ám, gian thần nịnh hót; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ
vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại
chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, tệ nạn tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc,
trộm cắp, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái;
sư sãi, học trò, người thương nhân, kẻ lại đắm chìm trong dục vọng. Tương tự
“Truyền kì mạn lục”,Truyền kỳ tân phả của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đều là những
câu chuyện về cuộc đời, về con người trong buổi xế chiều của xã hội phong
kiến Việt Nam được biểu hiện dưới màu sắc hoang đường, quái đản. Cái chết
tự nguyện của nàng Bích Châu trong “Hải khẩu linh từ” là kết quả của một sự
suy nghĩ lâu dài về vận mệnh đất nước, dân tộc; và hình tượng của nàng còn có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ý nghĩa tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa. Quả đúng như vậy“Đằng sau những
22
câu chuyện có phần hoang đường, kì quái, mục tiêu của họ không phải chỉ là
để mua vui, giải trí đơn thuần, mà như sự hé lộ của tác giả Lĩnh Nam chích
quái:“Chỉ cốt khuyên điều thiện, răn điều ác, bỏ giả theo thật để khuyến khích
phong tục mà thôi”. Suy cho cùng, động cơ sáng tác truyện kì ảo của Nguyễn
Dữ, Phạm Đình Hổ, Vũ Trinh, Tùng Niên, Phạm Đình Dục, Đoàn Thị Điểm...
cũng không ra ngoài phạm vi “tải đạo ngôn chí” của văn chương chính thống.
Chỉ có điều, họ “tải đạo” bằng con đường khác và đã thoáng nói đến những
cái “chí” khác” [61]. Như vậy, truyện kỳ ảo trung đại do là sáng tác của cá
nhân người viết (khác truyện kì ảo dân gian là sản phẩm của tập thể) nên dù
vẫn có bóng dáng của văn học dân gian thì vẫn thể hiện rõ quan điểm, lập
trường của nhà văn về hiện thực được phản ánh.
1.1.2.3.Yếu tố kì ảo trong văn học đầu thế kỉ XX
Đây là thời kì văn học dân tộc dần thoát khỏi sự ảnh hưởng của văn học
Trung Hoa và hội nhập với nền văn học phương tây mà cụ thể là nền văn học
Pháp. “Sự gặp gỡ, kết hợp giữa hai nền văn hoá Đông - Tây đã tạo ra cho truyện
ngắn kì ảo thời kì này một màu sắc tươi mới về hiện thực, con người. Một loạt
cây bút đã khẳng định được vị trí của mình ở lĩnh vực này: Trọng Miên (Trăng
xanh huyền hoặc, Người đẹp Đông phương, Đàn bồ câu trắng, Người đàn bà
trong trăng, Pho tượng sống), Lan Khai (Tiếng gọi của rừng thẳm, Suối đàn),
Nam Cao (Ma đưa, Chú Khì - người đánh tổ tôm vô hình), Bùi Hiển (Một trận
bão cuối năm, Chiều sương), Thanh Tịnh (Làng, Am cu-ly xe, Ngậm ngải tìm
trầm), Đỗ Huy Nhiệm (Một chuyện lạ, Ngủ với ma, Tết trên Mường)...” [61].
Đặc biệt, phải kể đến nhóm Tự lực văn văn đoàn, những người ngay từ nhỏ đã
từng mê mẩn bao giai thoại, truyền kì dân dã. Đến với những câu chuyện kì ảo
của Tự lực văn đoàn, người đọc không khỏi ám ảnh bởi những cảnh huyền ảo,
ma quái chập chờn ẩn hiện trong cõi tâm linh. Bằng cách ấy, các truyện như
Bóng người trong sương mù, Linh hồn, Ma xuống thang gác… bước đầu chạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đến mảng hiện thực cao nhất trong đời sống tinh thần của con người vốn luôn bí
23
ẩn, phức tạp, gợi bao suy nghiệm về cách hành xử phải đạo với cõi vô hình –
phần tất yếu của cuộc sống con người trần thế.
Nghệ thuật biểu hiện của các truyện ngắn gia đoạn này vẫn có sự âm thầm
tiếp nối truyền thống, nhưng khác với trước đây, yếu tố kì ảo lúc này không
đơn thuần chỉ là công cụ nhận thức, khám phá thế giới, hơn thế nữa, nó đã trở
thành một thủ pháp nghệ thuật đắc lực để văn học tích cực nắm bắt mọi biểu
hiện của đời sống, khái quát thành những vấn đề có tính xã hội và nhân sinh
sâu sắc.
1.1.2.4. Văn học kì ảo từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước đổi mới (1986).
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã mở ra một kỷ nguyên
mới trên đất nước ta, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Nền văn học
mới gắn liền với lí tưởng độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội cũng hình thành.
Đó là nền văn học của xã hội mới, phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đường
lối văn nghệ của Đảng đã góp phần tạo ra một nền văn học thống nhất về
khuynh hướng tư tưởng, thống nhất về tổ chức và về quan niệm nhân văn kiểu
mới: nhà văn - chiến sĩ. Công cuộc xây dựng đời sống mới, con người mới xã
hội chỉ nghĩa ở miền Bắc và hai cuộc chiến tranh yêu nước chống thực dân
Pháp và đế quốc Mĩ đã tác động mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất,
tinh thần của dân tộc, đặt ra văn học những nhiệm vụ cách mạng quan trọng,
bức thiết. Gắn với nhiệm vụ cao cả đó đòi hỏi văn học phải vận động theo
hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước, hình
thành một nền văn học hướng về đại chúng. Khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn chi phối các sáng tác giai đoạn này. Kì ảo, vì thế, cũng vắng bóng
trên văn đàn. “Ở miền Bắc, truyện thần kì trở thành mảng văn học dành riêng
cho trẻ nhỏ. Ở miền Nam trước giải phóng, một số truyện vẫn sử dụng yếu tố
kì ảo như một tấm bình phong hữu hiệu để dễ qua được mũi kéo kiểm duyệt của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chế độ Mĩ - Ngụy, giúp người viết bộc lộ những tâm sự yêu nước thầm kín của
24
mình như Bút máu (Vũ Hạnh), Cái đèn lồng, Đám cưới hai u hồn ở chùa Dâu
(Vũ Bằng)”...[61]).
Tuy nhiên, trong mạch nguồn truyền thống của văn học kì ảo, nhu cầu
khám phá thế giới của các nhà văn đã giúp cho văn học kì ảo không hề bị lãng
quên mà chỉ tạm thời lắng xuống để thực hiện nhiệm vụ của nó. Và khi có cơ
hội thì lập tức “hồi sinh” mạnh mẽ.
1.2. Nguyễn Quang Thiều và khuynh hướng văn học đương đại có yếu tố kỳ
ảo ở Việt Nam
1.2.1. Khuynh hướng văn học đương đại có yếu tố kỳ ảo ở Việt Nam
Nếu văn học kì ảo từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước đổi mới
(1986) có phần lắng xuống thì văn học kì ảo từ sau 1986 đến nay lại “hồi sinh”
mạnh mẽ. Đó là do chủ trương đổi mới trong công tác lãnh đạo, quản lí văn học
nghệ thuật của Đảng, sự dân chủ trong giao lưu văn hóa, sự đa dạng trong nhu
cầu và thị hiếu người đọc, đặc biệt phải kể đến những thay đổi căn bản trong
quan niệm văn học của nhà văn. Số lượng tác giả sáng tác theo khuynh hướng
này và tác phẩm có yếu tố kì ảo đều có sự vượt trội so với những giai đoạn
trước. Trong đó phải kể đến các tên tuổi như: Nguyễn Huy Thiệp, Tạ Duy Anh,
Hồ Anh Thái, Ngô Tự Lập, Võ Thị Hảo,...Qua khảo sát tác phẩm của các nhà
văn trên, chúng tôi nhận thấy yếu tố kỳ ảo xuất hiện dày đặc trong các truyện.
Có tập truyện, tất cả các truyện đều có yếu tố kì ảo (Nhữngtruyện không nên
đọc lúc nửa đêm - Võ Thị Hảo). Có tập truyện, số lượng truyện kỳ ảo chiếm đa
số như: Tập truyện Hồn trinh nữ của Võ Thị Hảo có 6/12 truyện; Tập truyện
Tháng có mười lăm ngày của Ngô Tự Lập (Nxb HN 1993) có 9/12 truyện; Tập
truyện Người đứng một chân của Hồ Anh Thái (Nxb trẻ 1995) có 7/10 truyện;
Tập truyện Luân hồi của Tạ Duy Anh (Nxb Văn học 1994) có 9/12 truyện;
Những ngọn gió Tua Hát của Nguyễn Huy Thiệp gồm 10 truyện nhỏ thì cả 10
truyện đều chứa đựng yếu tố kì ảo... Tính chất kì ảo còn xuất hiện nhiều trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
các tiểu thuyết như Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),
25
Thoạt kì thuỷ (Nguyễn Bình Phương), Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh)... (Dẫn
theo [19, tr 20])
Về đội ngũ sáng tác, đặc điểm chung dễ nhận thấy là phần nhiều họ trưởng
thành, xuất hiện và tạo được chỗ đứng của mình trên văn đàn chủ yếu từ sau
ngày đất nước thống nhất. Họ thuộc thế hệ nhà văn ít hoặc không bị "đóng gông"
trong những phương pháp sáng tác đã trở thành điển phạm, lại nhạy bén với cái
mới, thích thử nghiệm và phiêu lưu mạo hiểm. Đây chính là những cây bút tích
cực góp phần làm mới cho văn học kì ảo Việt Nam đương đại. Sự nở rộ của lớp
nhà văn này “có thể diễn giải như một cơn lốc giải tỏa những khát vọng sáng
tạo bị dồn nén từ lâu. Các nghệ sĩ trẻ đang tìm kiếm bản sắc riêng của mình dựa
trên những trải nghiệm cá nhân và cách nhìn riêng biệt, càng ngày càng tỏ ra
tự tin và táo bạo trong công việc sáng tạo” (Dẫn theo [2, 75]).
Đề tài hậu chiến tranh là một trong những đề tài được nhiều nhà văn quan
tâm, phản ánh trong sáng tác của mình. Điều đáng nói ở mảng đề tài này là
“mối tương quan giữa cuộc sống và cái chết, kí ức và sự lãng quên, người sống
và người chết, hiện tại và quá khứ, không gian và thời gian… đã được các nhà
văn thể hiện thấu tình, đạt lí. Đời sống tâm linh của con người cũng được nhiều
tác giả quan tâm như một cái gì hiện hữu mà vô hình, một ẩn số mà mỗi tác
giả cố đuổi theo, nắm bắt và khám phá” [61]. Từ hiện thực kháng chiến hào
hùng, tràn ngập âm hưởng sử thi, con người bước vào một mặt trận mới vắng
xa tiếng súng nhưng cũng không kém phần dai dẳng, khốc liệt. Đó là cuộc chiến
đấu chống tiêu cực xã hội, chống lại chính "ma quỷ trong lòng ta" với những
nỗ lực, quyết tâm mới: "phê phán cái sai", "lên án cái xấu", "tích cực cổ vũ
cho cái mới thắng lợi"... Điều đó đặt nhà văn trước những trách nhiệm, thử
thách mới, với sự ý thức mới về thiên chức của người nghệ sĩ. Họ sớm nhận ra
rằng: không thể khuôn đối tượng nhận thức, phản ánh của văn học vào những
lĩnh vực hạn hẹp, cứng nhắc nhằm phục vụ cho những mục tiêu, nhiệm vụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không thực sự phù hợp với bản chất của nó, mà chính là phải mở rộng phạm vi
26
khám phá của văn học để loại hình nghệ thuật này ngày càng đáp ứng được
những đòi hỏi mới của người đọc, với tư duy của người thời nay, phù hợp với
tốc độ phát triển của xã hội hiện đại, và quan trọng hơn là khắc phục tình trạng
phản ánh sơ lược, một chiều về cuộc sống. Biên độ của hiện thực trong quan
niệm của người cầm bút hôm nay đã được mở rộng hơn, được soi chiếu từ nhiều
góc độ tạo điều kiện để họ có thể thâm nhập vào những địa hạt mới mẻ phù hợp
với cá tính sáng tạo của mình. Quan niệm hiện thực - nói như Hồ Anh Thái -
gồm "những gì ta thấy, ta nghe, ta trải nghiệm là chưa đủ. Hiện thực còn là cái
ta cảm nữa” (Dẫn theo [60, tr 4]). Hay quan điểm của Trương Vũ Thiên An
trong Nước mắt Chí Phèo "Nghệ thuật cũng sẽ không là gì nếu không ôm hết
cái dữ dằn, đanh đá của cuộc sống, cả cuộc chết nữa! Sẽ chẳng đi đến đâu một
thứ nghệ thuật không thấy hết, không nói hết cái bờ bên kia của hiện thực"
(Dẫn theo [60, tr 5]).
Việc sử dụng yếu tố kì ảo với tư cách là "thủ pháp nghệ thuật mới ra đời"
đã giúp người viết tạo được sự đa dạng trong văn phong và những đặc trưng về
phong cách nghệ thuật. Bên cạnh bút pháp tả thực của chủ nghĩa hiện thực cổ
điển, việc xuất hiện bút pháp kì ảo, phi thực đa dạng, nhiều biến ảo này đã
khiến văn học trở nên phong phú, sinh động hơn và người viết bước đầu cũng
đã có được gương mặt riêng, sức cuốn hút riêng của mình. Đây chính là những
tín hiệu lạc quan của sự phát triển theo chiều hướng tích cực của văn học. Vì
vậy không ít người nghiên cứu tin tưởng rằng sự trở về của yếu tố kì ảo là dấu
hiệu đáng mừng cho thấy bước phát triển theo hướng đa dạng hóa của văn học
Việt Nam.
1.2.2. Nguyễn Quang Thiều và các truyện ngắn có yếu tố kỳ ảo
Nguyễn Quang Thiều sinh ngày 13 tháng 02 năm 1957 tại làng Chùa venbờ
sông Đáy thuộc xã Sơn Công – Huyện Ứng Hòa – Tỉnh Hà Tây cũ (Nay thuộc
Hà Nội). Những ký ức về làng quê nghèo, nơi có dòng sông Đáy hiền hòa thơ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mộng gắn liền với những huyền thoại, lễ nghi, với những hủ tục, lề thói của
27
người làng quê và cả những con người nồng hậu, chân chất... chính là nơi nuôi
dưỡng tâm hồn ông từ tuổi ấu thơ, là điểm tựa tinh thần để nhà văn tìm về sau
bao bươn trải gian nan và nó cũng đã trở thành ngồn cảm hứng sáng tạo vô tận
trong mỗi trang văn, trang thơ của ông.
Bắt đầu viết văn từ năm 1983, Nguyễn Quang Thiều là cây bút đa năng và
sung sức, xuất hiện thường xuyên trên văn đàn, báo chí. Và ở bất cứ một lĩnh
vực nghệ thuật nào ông cũng gặt hái được những thành công nhất định và tạo
được những dấu ấn sâu đậm đối với bạn đọc. Có sức viết dồi dào ở nhiều loại
hình nghệ thuật nhưng Nguyễn Quang Thiều chủ yếu được biết đến là nhà thơ,
như chính ông đã nói: “Bạn muốn gọi tôi là gì cũng được nhưng thơ ca vẫn là
thứ tôi mê đắm nhất. Bởi đó là nơi tôi được sống thật với mình nhất, được tự
do nhất, thậm chí… ‘rồ dại’ nhất! Thi ca là giấc mơ của tôi, toàn bộ thế giới
bên trong tôi - nơi không ai có thể vào được” [30]. Tuy nhiên cũng không thể
phủ nhận vị trí đáng kể của văn xuôi trong sự nghiệp sáng tác của ông với 20
tập văn xuôi và 3 tập sách dịch. Ông cũng được nhiều nhà phê bình đánh giá là
cây bút “có nghề”. Để tạo được những thành công đó, ngoài sự nỗ lực và quá
trình làm việc nghiêm túc, sự say mê và tài năng của bản thân còn bởi nhà văn
có luôn có sự sáng tạo, làm mới mình trong cách viết. Xuất phát từ quan niệm
như một tuyên ngôn trong văn chương: “làm mới lại những gì đã cũ, làm sống
lại những gì đã chết”, Nguyễn Quang Thiều đã đem đến những cách tân nghệ
thuật đáng chú ý cho văn học đương đại Việt Nam. Theo ông “nghệ thuật chân
chính phải sinh ra từ sự đam mê, không vụ lợi. Để có thể chìm đắm trong đời
sống nhằm phát hiện những vẻ đẹp hay cảm nhận nỗi đau chung để truyền đi,
gợi mở những thông điệp nhân văn thì trước hết, người sáng tác phải được là
chính mình, sống cho chính mình. Người cầm bút phải viết như một nhu cầu,
thói quen hàng ngày, coi đó là một lẽ đương nhiên, một việc cần phải làm. Còn
nếu viết chỉ như một cuộc chơi, một sự giải tỏa ẩn ức, phiền muộn tức thời hay
để ám chỉ một cá nhân, sự việc nào đó thì không bao giờ đến được văn chương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đích thực” [30].
28
Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều không có độ dày về sự kiện, nhân vật,
mà chỉ là một lát cắt, có khi rất nhỏ về cuộc đời; ông cũng không tập trung khai
khác những kịch tính, những cao trào mà thiên về cốt truyện tâm lý, đậm chất
trữ tình, được xây dựng từ những chất liệu đời thường, giản dị nhưng luôn được
điểm vào đó những mạch cảm xúc, suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật làm cho
câu chuyện trở nên sâu lắng. Yếu tố trữ tình trong văn xuôi của ông đã góp
phần tạo nên những trang văn giàu chất thơ đan xen với nội dung phản ánh hiện
thực, tạo được ấn tượng sâu sắc đối với độc giả. Đúng như nhận định của
PGS.TS. Đinh Trí Dũng trong bài Mạch trữ tình trong truyện ngắn thế hệ nhà
văn sau 1975: “Người đọc cũng khó quên một mùa hoa cải bên sông, một làng
Chùa với những bến sông, cổng làng, bờ đê, ruộng lúa...”(Dẫn theo [45, tr 15]).
Cũng khai thác đề tài chiến tranh, nhưng nhà văn đã không nhìn lên những
ánh hào quang của chiến công và sự chiến thắng mà ông cúi xuống để thấy, để
cảm nhận và phản ánh những sự thật đau lòng mà chiến tranh gây ra cho con
người, đó là những bi kịch thời hậu chiến, bi kịch của những người lính sau chiến
tranh, bi kịch của những người phụ nữ... Viết về con người, nhà văn quan tâm đến
số phận của cá nhân. Nổi bật lên trong đó là những chuyện đời tư, những số phận
riêng, những bi kịch, những mâu thuẫn trong đời sống tình cảm con người. Nhà
văn xoáy sâu vào những sự thật nghiệt ngã, những tình cảnh trớ trêu, phũ phàng
của cuộc đời, dù là trong chiến tranh hay trong cuộc sống thường nhật, để từ đó
khắc họa nên những số phận khác nhau của con người.
Nguyễn Quang Thiều cũng luôn suy nghĩ về lẽ sinh tử trong cõi đời. Trong
một bài trả lời phỏng vấn, nhà văn có nói rằng: “Để cái chết trở nên giản dị và
mang những bí ẩn khám phá đối với tôi thì chỉ có đời sống của chúng ta đang
sống và suy nghĩ về đời sống ấy. Khi ấy, cái chết không phải là chết nữa mà nó
là một đời sống với hình thức mới. Tôi quan niệm đời sống là hiện tại (hôm
nay) và cái chết là tương lai (ngày mai). Và chúng ta nhìn nhận cái chết như
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
là một ban mai đến với thế gian này”(Dẫn theo [45, tr 20]). Điều đó càng làm
29
ông thêm chắt chiu những giây phút mình sống; chia sẻ, cảm thông và nhân ái
với con người hơn. Cõ lẽ vì thế mà khi viết về những câu chuyện của những
hồn ma, tác giả lại cho rằng“Những câu chuyện ma ấy đều liên quan đến những
người cụ thể ở mỗi làng quê và có cả những câu chuyện liên quan đến những
người thân yêu đã khuất của trong gia đình mình. Nhưng vì khi sống có những
oan khuất, những trắc trở, những đau buồn, những tiếc nuối, những ân nghĩa,
những khát khao... mà khi chết vẫn hiện về như muốn nói với những người đang
sống một điều gì đó hoặc muốn làm một điều gì đó... Nó thật như những câu
chuyện tôi được nghe lúc nhỏ nơi thị trấn xưa kia. Nó thật như chính những gì
chúng ta nếm, cầm nắm, chạm vào. Những gì chưa giải quyết xong ở "cõi
này" thì sẽ được giải quyết nốt ở "cõi bên kia", mọi sự rất công bằng. Sống tốt
nhận tốt, sống xấu nhận xấu, tất cả đều nhân quả và có lí do của nó”[56, tr 6].
Trong ký ức của nhà văn, những câu chuyện ma ấy gắn liền với những năm
tháng ấu thơ. Ngày đó, thôn quê với những mái nhà lợp rạ lúp xúp, cây cối rậm
rạp, nhiều chim chóc, nhiều hoang thú và côn trùng. Đêm xuống, cả làng chìm
trong bóng tối, không có tivi, không có đài phát thanh, không có sách, thậm chí
không có đèn vào các buổi tối. Lũ trẻ con ngày đó chẳng biết làm gì vào những
buối tối như thế ngoài việc được bà hay mẹ kể chuyện cho nghe. Điểm nổi bật
nhất của những chuyện kể hồi đó là hầu hết các câu chuyện đều mang tính kỳ
bí mà chúng ta gọi là chuyện ma. Tập truyện “Cô gái áo xanh, những chuyện
kì bí của làng” lấy cảm hứng từ những câu chuyện kể như thế. Bối cảnh câu
chuyện chính là làng Chùa ven sông Đáy, quê hương ông. Tập truyện có hai
mươi truyện ngắn là hai mươi câu chuyện về ma. Đó là bóng ma của một cô
gái trẻ, cứ vào đêm trăng mùa hạ lại khỏa thân, tóc thả dài trôi theo dòng nước
lấp loáng, cất lời hát rờn rợn, rủ đàn ông xuống sông tắm cùng rồi dìm chết; Đó
là hồn ma của một thầy giáo cứ nửa đêm lại trở về ngôi làng than khóc, đến nhà
nào là lấy những ngón tay móng dài cào ngang dọc lên tất cả những cánh cửa
gỗ của nhà đó; Đó là hồn ma của cô gái chửa hoang, vừa chèo đò lại chợt cười
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khúc khích và chợt khóc như trẻ sơ sinh lừa người dân trong làng lên đò rồi
30
dìm chết; Đó là ma nồi chõ với lời năn nỉ đau đớn “Xin đưa tôi về nhà”; Đó là
hồn ma của con trai cụ Doãn đêm đêm lại đi hái trộm trầu và xé cau trộm cau
về cho mẹ; Đó là hồn ma của cậu bé Đúc hiện lên rủ chúng bạn đá bóng cùng...
Mỗi câu chuyện đều chứa trong mình đầy huyền bí của cuộc sống, có vay có
trả, nhân quả báo ứng. Và điểm thú vị ở cuốn sách là tác giả đều cố gắng đi tìm
nguồn gốc sự sinh ra của những bóng ma đó. Những hồn ma là ảo nhưng lại
luôn xuất phát từ những câu chuyện thật với những con người thật. Người đọc
hiểu bóng ma cô gái trên sông kia do bị hãm hiếp mà chết, giờ cô hiện lên để
lôi kéo, giết những kẻ có dã tâm muốn chiếm đoạt thân xác cô. Để cô không
còn hại người nữa, làng bèn lập đàn tế, với đại diện các xóm, cùng lá bùa là lời
xin lỗi gửi tới cô gái bị hãm hại khi còn quá trẻ. Chuyện về người chèo đò lúc
nửa đêm thì hóa ra chẳng có gì xa lạ. Người chèo đò đó vốn là người làng, chửa
hoang, bị cạo đầu bôi vôi, buộc bè chuối trôi sông mà chết. Nay làng biết nguồn
gốc, bỏ đi hủ tục cạo đầu, bóng ma thấy an ủi không tìm về nữa. Hay chuyện
hồn ma cứ tối tối hiện lên ăn trộm cau và trầu, không phải nghịch phá, mà đằng
sau đó là câu chuyện của tình mẫu tử, lòng hiếu nghĩa. Khi bà mẹ già nghiện
trầu cau hơn nghiện cơm, nhà lại nghèo, người con trai duy nhất chết đi bà sống
một mình. Nay hồn ma anh con trai về đi ăn trộm cho mẹ. Người mẹ chết, từ
đấy trong làng chẳng nhà nào mất trầu cau nữa... Lý giải được nguồn gốc sự
sinh ra những bóng ma đó chúng ta sẽ thấy những con ma trong “Cô gái áo
xanh, những chuyện kì bí của làng” không hề đáng sợ, không có răng nanh,
lưỡi đỏ như cách người ta vẫn tưởng tượng để dọa nạt trẻ con. Đó đều là con
người. Đặc biệt, những câu chuyện trên luôn kết thúc rất có hậu. Ở đó, bạn đọc
gặp được sự sẻ chia về sự công bằng và biết ơn, sẽ nhận ra từ những câu chuyện
kỳ bí ấy những thông điệp nhân văn cho cuộc sống hiện tại.
Tập truyện “Mùa hoa cải bên sông” không dày đặc yếu tố kì ảo như “Cô gái
áo xanh, những chuyện kì bí của làng” mà chỉ thấp thoáng những điều kỳ ảo:
Những giấc mơ kì lạ của Ân và Mật trong “Hai người đàn bà xóm trại”; Lời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khẳng định của người cô cứ vào mùa hoa tầm xuân nở người chồng đã mất của cô
31
lại trở về trong “Người với hoa tầm xuân”; Ngần thấy mình xinh đẹp hơn khi nhặt
được chiếc lông chim mầu đỏ huyền diệu trong “Chiếc lông chim mầu đỏ”; Hình
ảnh một đứa trẻ mới đẻ mắt trong như mắt cá, nhìn vào bờ, cứ cười ba tiếng rồi
lại khóc ba tiếng trong “Mùa hoa cải bên sông”;Tiếng gọi của mẹ May nghe âm
ấm, mơ hồ trong đêm trong “Gió dại”; ... Những câu chuyện đó luôn chứa đựng
đời sống tâm linh hiện hữu ngoài cuộc sống thực. Chính nỗi niềm mong nhớ, tình
yêu, sự thủy chung chờ đợi của Ân và Mật, của những người vợ lính trong chiến
tranh đã khiến giấc mơ về một ngày đoàn tụ với người chồng thân yêu luôn hiển
hiện trong tâm trí. Chiếc lông chim màu đỏ nhỏ nhoi, nhưng mang theo cả một
huyền thoại của làng quê, đem đến cho Ngần niềm tin vào bản thân và tình yêu,
cô không còn tự ti về sắc vóc của mình. Chính niềm tin vào bản thân và tình yêu
đã làm cho cuộc đời cô thay đổi, để đón nhận một tình yêu thật chân thành. Hay
bằng một giác quan kì lạ của tình máu mủ mà May dường như nghe thấy tiếng gọi
của mẹ dù chưa tìm thấy mẹ....
Kỳ diệu đấy, mà cũng rất đỗi thân quen, gần gũi. Và ở ngay bên mình,
quanh mình đấy, nhưng cũng đầy gợi mở con người vươn xa bằng đời sống tâm
hồn phong phú, phóng khoáng. Nhà văn nói với chúng ta rằng, biết cảm nhận,
thẩm thấu và nâng niu những điều nhỏ bé, bình dị, thì bản thân chúng, bản thân
đời sống chung của chúng ta, và bản thân mỗi người nữa, sẽ lớn lên đến vô
cùng. Đó cũng chính là điểm chung của “Mùa hoa cải bên sông” và “Cô gái
áo xanh, những chuyện kỳ bí của làng”.
Tiểu kết chương 1
Với việc tìm hiểu và trình bày quan niệm về yếu tố kì ảo, dòng chảy kì ảo
trong tiến trình văn học Việt Nam, chúng tôi đã có những cơ sở cần thiết bước
đầu cho việc nghiên cứu khái quát về khuynh hướng văn học có yếu tố kì ảo ở
Việt Nam đương đại cũng như xác định được vai trò, vị trí của Nguyễn Quang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Thiều trong khuynh hướng ấy.
32
Văn học có yếu tố kì ảo là một dòng chảy âm thầm mà bền bỉ trong nền
văn học nhân loại. Bản thân nó cũng không ngừng biến đổi qua những giai đoạn
khác nhau nhằm truyền đạt những quan niệm khác nhau về thế giới và con
người. Trong văn học Việt Nam, yếu tố kì ảo cũng luôn có sự biến đổi trong
các giai đoạn vận hành của nó, lúc rầm rộ khi trầm lắng nhưng cũng chứng tỏ
được sức sống của mình. Sau 1975, đặc biệt là sau đổi mới yếu tố kì ảo một lần
nữa tái sinh trong văn học đương đại. Sự tái sinh này đã góp phần đem lại cho
văn học đương đại Việt Nam một diện mạo mới mẻ trên cơ sở bảo lưu truyền
thống và kế thừa những tinh hoa của văn học thế giới trong bối cảnh hội nhập
quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ.
Trong mạch nguồn dòng chảy kỳ ảo của văn học Việt Nam đương đại,
Nguyễn Quang Thiều đã để lại những dấu ấn khó phai. Dưới ngòi bút của ông,
yếu tố kì ảo đã trở thành công cụ đắc dụng trong việc truyền tải những vấn đề
của con người đương đại. Từ đó giúp người đọc khám phá thêm lối đi riêng về
nghệ thuật viết truyện ngắn, đồng thời cảm nhận được chiều sâu nhân văn và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
triết lý được ẩn chứa đằng sau mỗi câu chuyện kể của ông.
33
Chương 2
THẾ GIỚI HÌNH TƯỢNG KỲ ẢO
TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN QUANG THIỀU
2.1. Thế giới nhân vật kì ảo
“Nhân vật văn học là đối tượng (thường là con người) được miêu tả, thể
hiện trong tác phẩm văn học nghệ thuật” [36, tr 689]. Tuy nhiên, nhân vật văn
học không trùng khít với con người có thực ngoài đời bởi nhân vật văn học là
do nhà văn tạo ra trên cơ sở sự quan sát, cảm nhận về thế giới xung quanh.
“Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính ước lệ, không thể bị
đồng nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng nhân vật với những
nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là sự thể hiện quan niệm
nghệ thuật của nhà văn về con người; nó có thể được xây dựng chỉ dựa trên cơ
sở quan niệm ấy”; “nhân vật văn học là một trong những khái niệm trung tâm
để xem xét sáng tác của một nhà văn, một khuynh hướng, trường phái hoặc
dòng phong cách” [3, tr.242 - 243]; Mỗi nhân vật văn học sẽ cung cấp cho nhà
văn và bạn đọc một điểm nhìn để khám phá đời sống. Nó là chiếc chìa khóa
quan trọng giúp nhà văn mở rộng các mảng đề tài mới, rộng lớn và sâu sắc.
Tóm lại nhân vật văn học được nhà văn sáng tạo ra để khái quát, biểu hiện tư
tưởng, thái độ đối với cuộc sống. Ca ngợi nhân vật là ca ngợi đời, lên án nhân
vật là lên án đời, xót xa cho nhân vật là xót xa cho đời. Do vậy tìm hiểu nhân
vật là tìm hiểu, cách hiểu về cuộc đời của tác giả đối với con người.
“Mùa hoa cải bên sông” và “Cô gái áo xanh, những chuyện kì bí của
làng”của Nguyễn Quang Thiều là hai tập truyện ngắn mang sắc thái kỳ ảo nên
thế giới nhân vật của ông cũng có những dấu ấn khác thường, kỳ lạ.Thế giới
nhân vật ấy hết sức phong phú, đa dạng, gồm các loại hình nhân vật: hồn ma,
thần thánh và cả những con người có khả năng đặc biệt… Tất cả cùng đan xen
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tạo thành bức tranh đa diện về hiện thực cuộc đời. Mỗi loại hình nhân vật luôn
34
tồn tại trong nó quan điểm riêng của nhà văn về sự lý giải cắt nghĩa bản chất
của con người.
2.1.1. Thế giới hồn ma hiển hiện
Ma là hồn người chết hiện về. Có ma hay không? Đó là câu hỏi đến nay
vẫn chưa có lời giải đáp chính xác. Riêng trong tâm thức người Việt, người ta
tin rằng con người bao gồm phần hồn và phần xác. Khi con người chết đi chỉ
mất phần xác còn phần hồn vẫn tồn tại nhưng sang một thế giới khác, thế giới
đó tồn tại song song với thế giới cõi dương mà con người đang sống. Người ta
gọi đó là cõi âm. Quan niệm trong dân gian dần được đưa vào văn học. Những
câu chuyện về hồn ma bóng quỷ đã xuất hiện từ rất lâu đời trong các trang văn
học, từ văn học dân gian, văn học trung đại đến văn học đương đại sau này.
Song nếu như trong các truyện liêu trai trước đây, sự quấy nhiễu của các linh
hồn khi trở về dương gian thường mang đến cho người đọc cảm giác khiếp sợ
thì thế giới hồn ma trong các truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều lại mang
đến cho người đọc niềm xót xa, thương cảm, thậm chí cả sự thương nhớ vì gọi
là ma nhưng đó là những người thân yêu, ruột thịt của mình. Đó là linh hồn của
người đã mất nhưng còn trăn trở với đời nên quay về gặp mặt, đôi khi các hồn
ma trở về chỉ để được một lần nếm trải cảm giác yêu thương, có khi sự quay
trở về của họ là do tâm nguyện chưa hoàn thành hoặc để giúp đỡ người còn
sống, để trả ơn, báo oán...
2.1.1.1. Nhân vật báo oán
Nhân vật báo oán trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều là những
linh hồn phải chịu nhiều đau khổ, oan ức khi còn sống. Nên khi chết, hồn ma
của họ không thể siêu thoat mà đã quay trở về cõi dương gian để tìm cách trả
thù, rửa hận.
Đó là nỗi oan và nỗi đau khi bị làm nhục và giết chết. Trong “Lá bùa trừ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
ma”, báo oán là hồn ma của một cô gái còn rất trẻ. Vào những đêm trăng mùa
35
hạ, cô lại khỏa thân bơi lội trên sông và cất tiếng hát rờn rợn và đôi khi lại có
cả tiếng khóc ri rỉ. Nhưng có người không tin đó là ma nên đã đến tán tỉnh và
chiếm đoạt thân xác cô và thế là“cô ôm lấy người đàn ông và thè cái lưỡi đỏ
như máu liếm vào mặt, ... túm lấy hai chân và cứ thế kéo xuống đáy sông. Sáng
hôm sau, người ta thấy xác người đàn ông nổi lên ở khúc sông làng dưới. Trên
mặt người đàn ông chết trôi ấy có một vết đen dài”[56, tr 12]. Đó chính là oan
hồn của cô gái xóm Trại. Một đêm, khi cô ra sông tắm, một gã đàn ông đã
cưỡng dâm cô rồi dìm chết cô trên sông. Năm ấy cô mới bước sang tuổi 12.
Mọi người nghĩ cô bị chết đuối và gia đình đã mang xác cô về an táng. Cái chết
đau đớn, oan ức ấy đã khiến linh hồn cô gái không thể siêu thoát. Vì vậy linh
hồn cô đã hiện lên dìm chết những gã đàn ông ham sắc dục như một cách để
trả thù cho những đau đớn, tủi nhục khi xưa.
Nỗi đau bị trừng phạt dã man bởi những hủ tục phi nhân tính. Trong
“Người chèo đó bí ẩn”, con đò ma cứ vật vờ ở bến sông,“vừa chèo đò lại chợt
cười khúc khích và chợt khóc như trẻ sơ sinh” [56, tr 63], chờ người làng qua
sông khi đêm khuya rồi dìm xuống nước. Chỉ người làng mới nhìn thấy người
chèo đò. Khi ra đến giữa sông thì “người chèo đò lại bỏ chiếc nón ra. Một cái
đầu trọc với gương mặt trắng như vôi và hai hốc mắt tối đen hiện ra”[56, tr
63]. Nhưng có điều kỳ lạ là không có bất cứ người nào ở làng khác bị chết ở
khúc sông này. Thậm chí họ đã được chiếc đò ma ấy đưa qua sông an toàn trong
đêm khuya vào những buổi chiều mưa giông mù mịt. Khi họ trả tiền thì người
chèo đò không nhận mà lặng lẽ quay đò rời bến rồi biến mất như chưa hề có.
Sau khi lật lại mọi chuyện, dân làng mới biết người chèo đò đó là hồn ma của
cô gái chửa hoang. Khi phát hiện cô không chồng mà chửa, làng đã phạt vạ cô.
Dù cô van xin sẽ rời khỏi làng không bao giờ trở lại nhưng hội đồng bô lão và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
dân làng vẫn không chấp nhận. Họ cạo trọc đầu cô, bôi vôi kín đầu, kín mặt,
36
trói cô trên chiếc bè chuối và thả trôi trên khúc sông làng. Và cô đã chết đuối
khi chiếc bè chuối bị lật.
Hay nỗi đau khi bị bỏ rơi, ghẻ lạnh bởi những con người vô cảm. Đó là
linh hồn của đứa trẻ chết đói trong “Đứa trẻ bị bỏ rơi”. Một chiều mùa đông
năm 1945, trên một đoạn đê sông Đáy chảy qua chợ Đào, có một người phụ nữ
nằm chết đói bên rệ cỏ. Nằm cạnh là một đứa bé chừng bẩy tháng tuổi chỉ còn
da bọc xương, khóc không thành tiếng. Đứa bé mở to đôi mắt như không còn
hồn vía nhìn những người đi qua. Trong đôi mắt tơ non, vô hồn và đang mỗi
lúc một giá lạnh ấy vẫn ánh lên một sự cầu cứu. Nhưng mọi người qua đường
đều quay đầu bỏ đi. Đôi mắt như đã chết của đứa bé, bóng tối lại sụp xuống.
Và đến chiều tối thì đứa bé từ giã cõi đời. Đứa bé ấy đã chết vì đói, nói đúng
hơn là chết vì sự thờ ơ, vô cảm của mọi. Bởi thế mà linh hồn đứa bé không thể
rời đi mà luẩn quẩn ở lại đòi những người mẹ cho con bú: “Khi nhập vào những
đứa trẻ sơ sinh để bú mẹ thì những người mẹ cảm thấy đau buốt ở đầu vú và
dường như sinh khí của họ bị hồn ma hút hết nên họ trở nên xanh xao và dần
dần kiệt sức rồi chết”[56, tr 74]. Đứa con của những bà mẹ ấy cũng mất khi nó
bước sang tháng thứ bẩy. Khi câu chuyện kinh hoàng ấy lặp lại với người phụ
nữ thứ ba thì người làng hiểu rằng có một hồn ma thực sự đang ám ảnh những
người phụ nữ trẻ có chồng ở làng họ. Đã có những bà mẹ phải bỏ đi xa nơi
khác, thay tên đổi họ và chỉ trở về làng khi con đã lớn không còn bú mẹ nữa.
Cả làng sống trong nỗi sợ hãi.
Đó còn là nỗi đau bị chối bỏ quyền làm người. Cũng giống trong “Đứa trẻ
bị bỏ rơi”, hồn ma trong “Ma cây duối” là một đứa trẻ sơ sinh. Có một cô gái
làng chửa hoang đã sinh ra đứa trẻ ấy. Nhưng sợ làng biết chuyện sẽ là nỗi nhục
cho gia đình, dòng họ mà cô đã vùi đứa con của mình vào hốc cây duối. Sinh
linh bé bỏng vừa chào đời đã sớm bị chối bỏ quyền làm người. Vì nỗi oan ức
ấy nên linh hồn đứa trẻ sơ sinh không siêu thoát được, ở lại thành ma trên cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
duối: “Thằng bé mắt to như hai cái chén, chỉ có lòng đen, bò thoăn thoắt trên
37
cành cây”[56, tr 130]. Vào những buổi trưa và đêm khuya, tiếng khóc nức nở,
ai oán, khi lại như xé vải khiến người nghe dựng cả tóc gáy. Những người đi
cầy cấy hay thu hoạch trên những thửa ruộng gần đó không ai dám làm đến
chập tối như trước nữa, hoặc tránh xa những thửa ruộng gần đó.
Người đọc không khỏi nhói lòng khi chứng kiến nỗi đau bị chia cắt tình
yêu của chàng Trương Chi và nàng Mị Nương trong “Khúc hát dòng sông”.
Gặp câu hát Trương Chi, tuổi dậy thì của bừng dậy như một ngọn lửa, và Mị
Nương đã đem lòng yêu người có giọng hát ấy. Chàng Trương sau khi gặp và
nghe Mị Nương giãi bày gan ruột cũng mang lòng thương nhớ nàng. Nhưng
quan thừa tướng, cha Mị Nương đã không chấp nhận mối lương duyên ấy vì
Trương Chi chỉ là “thằng hát rong trên sông”, “kẻ quê mùa chài lưới” không
xứng với một Mị Nương “lá ngọc cành vàng” và hơn hết là vì “danh giá” của
gia đình quan thừa tướng. Hắn đã ra lệnh đuổi chàng đi ngay khỏi khúc sông
này. Tàn độc hơn, khi Trương Chi chống lệnh, hắn còn cho tay chân băm nát
thân thể chàng “Xác chàng bị băm nát nổi bập bềnh giữa sông”. Dân làng hò
nhau ra vớt thì “cái xác lại từ từ chìm xuống” [53, tr 40]. Về phần Mị Nương,
khi nghe tin dữ ấy nàng đã kêu lên, thổ huyết mà chết. Sau khi chàng Trương
Chi và nàng Mị Nương chết, thầy dạy kinh sử cho Mị Nương và con các quan
đều cáo bệnh lui về quê. Chàng Trương được dân làng làm ma và lập đền thờ
bên bờ sông. Mị Nương được chôn cất ngay trong dinh viên thừa tướng “Ít lâu
sau trên mộ nàng mọc lên một loại cây, lá xanh, thân mảnh. Loài cây này chỉ
nở hoa vào lúc đêm khuya. Những bông hoa màu trắng tinh khiết, tỏa hương
thơm nhẹ, đến gần sáng thì hoa tàn”[53, tr 41]. Câu chuyện không đề cập đến
việc báo oán, trả thù của người bị hãm hại, nhưng sự rời bỏ của con cái các
quan cận thần, cái chết của cô con gái yêu có lẽ là sự trả giá đau đớn, ám ảnh
nhất cho những tội ác mà tên quan thừa tướng - một người cha gây ra.
Những linh hồn báo oán trong các câu chuyện kể trên đều có một điểm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chung: không phải vô duyên vô cớ mà báo oán; mỗi linh hồn đều có một nỗi ai
38
oán, xót xa, uất hận: Cô gái trong “Lá bùa trừ ma” đã phải chết đau đớn, nhục
nhã bởi một kẻ cuồng dâm mà không ai hay biết. Thai nhi chưa chào đời trong
“Người chèo đò bí ẩn” phải chết oan cùng người mẹ xấu số vì một thứ luật
làng vô đạo. Đứa bé trong “Đứa trẻ bị bỏ rơi” đã chết trong đói khát, hay nói
đúng hơn là chết do sự vô cảm của con người. Còn đứa bé trong trong “Ma cây
duối” thì sớm đã bị chối bỏ quyền làm người cũng bởi nỗi sợ hãi vì trở thành
nỗi nhục nhã của cả dòng họ của một bà mẹ hoang thai. Trong “Khúc hát dòng
sông”, Trương Chi và Mị Nương đã chết mà không đến được với nhau vì người
cha - tên quan tể tướng độc ác, tham hư danh. Và một vấn đề nữa đặt ra ở đây
là những linh hồn ấy chỉ báo oán với kẻ gây nên tội. Nhưng khi kẻ tội lỗi ấy
biết thành khẩn sám hối, chuộc tội thì oan hồn ấy không còn đeo bám nữa. Viết
về những linh hồn báo oán phải chăng chính là cách mà Nguyễn Quang Thiều
muốn gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh thói đời: kẻ gây oán bất luận giấu giếm
nham hiểm đến đâu cũng không thoát khỏi lưới trời trừng phạt; biết ăn năn, sửa
lỗi sẽ nhận được sự khoan dung, thứ tha, tâm hồn sẽ được thanh thản.
2.1.1.2. Nhân vật trả nghĩa
Đền ơn, đáp nghĩa là một nghĩa cử cao đẹp trong đời sống mỗi con người,
thiếu nó con người sẽmất đi lòng nhân. Người biết đền ơn, đáp nghĩa là con người
sống có trước có sau, “uồng nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Đạo
lý ấy đã được nhà văn Nguyễn Quang Thiều đề cập đến một cách nhẹ nhàng, xúc
động nhưng đầy thấm thía qua các câu chuyện kể về tấm lòng hiếu thuận của
những đứa con trả nghĩa đấng sinh thành; trả nghĩa những yêu thương với người
thương yêu của mìnhvà trả nghĩa, biết ơn kẻ đã giúp đỡ mình.
“Ma ăn trộm” là một câu chuyện xác động về tình mẫu tử. Truyện kể về
một hồn ma“mặc quần áo trắng đi như lướt đất. Rồi chỉ trong nháy mắt đã vút
lên ngọn cau, xé một dẻ cau, rồi lại nhẹ nhàng nhảy xuống đất. Sau khi lấy
được cau và một chúc lá trầu, người mặc quần áo trắng lại đi như lướt về gần
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giữa làng rồi biến mất trong một lối ngõ nhỏ hun hút và tối như mực” [56, tr
39
136]. Điều kỳ lạ ở con ma này là nó không làm hại ai, không trộm những thứ
khác đáng giá, chỉ trộm cau và trầu. Nhưng cũng không trộm cả buồng cau, cả
giàn trầu mà chỉ lấy chừng dăm quả cau và một chúc trầu không. Và người làng
đã giật mình khi thấy trong cái cơi trầu bằng đồng của cụ Doãn sống cô độc
một mình lá trầu và quả cau bổ tư còn tươi. Hóa ra, vì thương mẹ còm cõi không
người nương tựa, biết rằng mẹ lúc nào cũng thèm ăn trầu nên hồn ma anh con
trai cụ Doãn đã đi hái trộm trầu, xé trộm cau về cho mẹ. Còn bà mẹ thì không
hay biết cứ cho rằng “Ở đời vẫn còn những người tốt. Thấy con trai tôi mất
chẳng ai mua trầu cau cho nên có người thi thoảng vẫn cứ đến cho trầu cau
mà chẳng nói gì”[56, tr 140]. Câu chuyện về lòng hiếu thảo của người con đã
chết báo đáp công sinh thành dưỡng dục với mẹ đang sống khiến người ta ứa
nước mắt. Nó sẽ còn là “câu chuyện của muôn đời nếu loài người còn muốn
sống tử tế và có ý nghĩa” [56, tr 141].
“Tiếng gọi đò lúc nửa đêm” lại đưa người đọc tìm đến với những câu
chuyện xúc động về sự hi sinh của những người lính - người con trong chiến
tranh, về sự khát khao được trở về bên mẹ để báo đến chữ hiếu. Nên cứ vào
đêm rằm tháng bẩy, linh hồn những người lính đã hi sinh nằm ở nghĩa trang
nào đó ở các tỉnh phía Nam hoặc chưa tìm thấy hài cốt lại gọi đò sang
sông“bóng mờ ảo, khoác ba lô trong ánh trăng”. Chính vì thế, người làng đã
quyết định lập đàn tế lễ. Sau đó họ dùng con đò kéo tấm vải trắng từ bờ sông
bên kia về bến sông làng như là bắc một chiếc cầu để linh hồn những người
lính trở về với mẹ, với gia đình mình mà không phải gọi đò suốt đêm như thế.
Tiếp đến là sự trả nghĩa những yêu thương với người thương yêu của mình.
Trong “Người thợ đào giếng”, linh hồn của người chồng đã chết của Doan vì
quá yêu thương vợ, không nỡ nhìn thấy vợ đau khổ, vì trách nhiệm với gia đình,
vợ con còn dang dở đã trở về dặn dò vợ “sau ngày đoạn tang anh có người đến
cưới hỏi chị thì chị hãy đồng ý vì đó chính là anh.”[56, tr 97].... “Anh sẽ ở với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mẹ con chị đến khi nào con lấy vợ sẽ đi” [56, tr 103]. Và quả thực như vậy, linh
40
hồn người chồng đã trở về trong hình hài người thợ đào giếng thuê với vết chàm
ở giữa lưng. Họ đã sống hạnh phúc bên nhau hơn mười năm, sinh được hai
người con gái. Cho đến khi con trai họ cưới vợ được bẩy ngày thì anh vĩnh viễn
ra đi.
“Tiếng đập cánh của chim thần” đưa người đọc đến với câu chuyện tình
yêu đầy lãng mạn của Dịu – Lợi – Duyên. Dịu và Lợi đã đính ước với nhau và
định ngày tổ chức đám cưới nhưng chiến tranh đã cướp Dịu khỏi Lợi. Thêm
vào đó, vết bỏng bom na pan đã khiến hai bàn tay và mặt anh đầy sẹo. Chính
trong lúc Lợi tuyệt vọng nhất thì Duyên, em gái Dịu đã xuất hiện. Sự chăm sóc
dịu dàng, yêu thương, ân cần của cô đã cho Lợi có cảm giác như Dịu của anh
đã trở về, và “kéo anh ngày càng gần cô mà anh không cưỡng nổi”[53, tr 172].
Còn với Duyên là biết bao cảm xúc đan xen, gằng co. Đó là sự đau khổ khi
chứng kiến vết thương lòng của Lợi, muốn được bù đắp cho anh; sự dằn vặt,
buốt nhói khi nghĩ đến người chị thân yêu của mình, để rồi cô đã nhận ra “Tiếng
anh gọi chị trước cô bao nhiêu lần không phải là tiếng gọi mê sảng. Tiếng gọi
ấy là tiếng đập của trái tim về minh chứng cơ thể kia có còn tồn tại. Nếu thiếu
tiếng gọi ấy nghĩa là anh không còn tồn tại và nếu cô đi khỏi tiếng gọi của anh
thì một lần nữa anh sẽ phải chịu đựng nỗi đau mất Dịu đến kinh khủng”[53, tr
178]. Vì thế, cuối cùng cô đã quyết định “bước lại gần anh hơn nữa”. Đặc biệt,
trong câu chuyện này, tác giả đã để cho linh hồn của Dịu trở về. Nhưng không
phải trách mắng, hờn giận em và người yêu mà để “mừng cho em”, tác hợp cho
em và người yêu như một cách trả nghĩa yêu thương cho những người mình
thương yêu nhất.
Còn trong “Khúc hát của dòng sông”, chàng Trương Chi đã chống lệnh
quan thừa tướng, quyết định ở lại dòng sông này “Tôi không phải là kẻ tham
lam mà nhận vàng bạc để rời bỏ nơi này. Hơn nữa, tôi đã mang lòng thương
nhớ một người con gái bên sông. Thiếu tiếng hát của tôi có lẽ nàng sẽ đau khổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lắm. Tôi ở lại đây cũng để hát cho nàng nghe”[53, tr 40]. Về phía Mị Nương,
41
khi hay tin Trương Chi bị giết chết cũng thổ huyết mà chết. Ít lâu sau trên mộ
nàng mọc lên một loại cây lá xanh, thân mảnh. Loài cây này chỉ nở hoa vào lúc
đêm khuya. Những bông hoa màu trắng tinh khiết, tỏa hương thơm dìu nhẹ như
minh chứng cho tình yêu trong sáng của nàng cho người mình yêu thương.
Trong cuộc sống, ngoài báo đáp công sinh thành dưỡng dục của cha
mẹ,mỗi con người chúng ta cần phải trả nghĩa, biết ơn những người đã giúp đỡ
mình. Câu chuyện “Ma đưa lối”, một lần nữa lại giúp ta nhận thức rõ điều này.
Đó là câu chuyện về tấm lòng đức độ của một ông cụ có tên là Dụ. Trong một
lần đi kiếm cá ngoài sông về, ông đã gặp một bà lão ăn mày già yếu, đói khát
chìa bàn tay xương xẩu ra xin ăn. Ông vô cùng lúng túng bởi chẳng có gì ngoài
mấy con cá nhỏ vừa kiếm dưới sông về. Ông vội chạy về đốt rơm, nướng cá và
mang cho bà lão cùng mấy quả chuối xanh luộc. Vì đói và yếu, bà không thể tự
ăn được nên ông Dụ đã phải gỡ cá cho bà ăn, rồi cõng bà vào một cái chợ đầu
làng nằm nghỉ. Tối đến, ông đã mang bát cháo khoai duy nhất, phần của ông
cho bà lão nhưng bà đã trút hơi thở cuối cùng. Quá thương cảm bà cụ ăn mày,
ông Dụ đã tìm một manh chiếu rách bó xác bà lão mang ra sông mai táng. Sau
ba năm, ông Dụ lại chắt bóp khoản tiền ít ỏi mua một cái vại sành nhỏ cải táng
cho bà lão. Mang ơn người đã đối xử tử tế với mình, hồn ma bà lão đã hiện về
tìm cách trả ơn ông Dụ. Hồn ma bà lão đã chỉ dẫn cho ông tìm được hũ vàng.
Khi ông ngỏ ý “Tôi vốn không ham vàng bạc, nếu cụ thương tôi chỉ xin cụ cho
con trai tôi mụn con trai để lấy người nối dõi tổ tông”[56, tr 169] thì một năm
sau người con dâu của ông đã có mang và sinh đôi hai đứa con trai như ước
nguyện. Chúng lớn lên khỏe mạnh, ngoan ngoãn, thông minh. Cuộc sống gia
đình cũng mỗi ngày một khá lên. Bản thân ông thì khỏe như trai tráng, không
hề ốm đau, cứ thế sống trong hạnh phúc với con cháu cho đến 99 tuổi thì mất.
Câu chuyện về ông Dụ và hồn ma bà lão ăn mày gợi cho chúng ta nhớ đến
những cái kết thật đẹp, thật có hậu trong những câu chuyện cổ tích. Là một câu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
chuyện nhân quả về cách đối nhân xử thế, “Ma đưa lối” làm cho mỗi chúng ta
42
không khỏi suy ngẫm, nhận thấy cuộc đời này thật đáng sống biết bao; càng
phải biết nâng niu, trân trọng giá trị cuộc sống. “Hai đứa con là hai hũ vàng
lớn nhất. Hãy chăm sóc chúng” – Lời nhắn nhủ của ông Dụ giản dị mà chí lý,
chí tình biết bao.
Câu chuyện về những nhân vật trả nghĩa là bài học thấm thía về cách đối
nhân xử thế trong cuộc sống: phải biết ơn, trả nghĩa cha mẹ, người có công sinh
thành, dưỡng dục ta; biết ơn, trả nghĩa người đã yêu thương ta; và phải biết ơn,
trả nghĩa người đã giúp đỡ ta lúc khó khăn, hoạn nạn. Câu chuyện cũng nhắc
nhở mỗi người chúng ta: hãy sẵn sàng làm việc tốt, hãy dành cho nhau những
gì tốt đẹp nhất, hãy sống nhân ái, bao dung. Có như vậy cuộc sống mới ý nghĩa,
đầm ấm.
2.1.1.3. Nhân vật khát khao thực hiện ước mơ dang dở
Mỗi con người ai chẳng có những khát khao, những ước mơ hoài bão, dự
định tốt đẹp của riêng mình và tìm cách để thực hiện bằng được những điều
mong muốn ấy. Đó là ước mơ được làm nghề chân chính – dạy học; ước nguyện
của người mẹ được che cho con; khát khao hạnh phúc gia đình; nỗi đau đáu
được nguyên vẹn hình hài; hay đơn giản chỉ là mong muốn được tiếp tục những
cuộc chơi vui vẻ, bình dị bên bè bạn;...Tuy nhiên, họ đã phải sớm dừng lại trong
nuối tiếc khi vĩnh biệt cuộc đời. Nguyễn Quang Thiều dường như đã hấu hiếu
điều đó nên ông đã cho linh hồn họ trở về dương gian để thỏa mãn khát khao
dang dở ấy.
Trước hết là sự trở về của linh hồn người thầy giáo với ước mơ được làm
nghề dạy học trong truyện“Tiếng phấn rít trên bảng đen”. Câu chuyện kể về
một thầy giáo dạy học trường làng. Thầy đã lên tiếng phản đối tố cáo chế độ
thực dân Pháp, không cho phép chúng làm loạn khi các học sinh đang nghe
giảng, không được làm cho các học trò của thầy sợ hãi. Và khi đang cầm viên
phấn viết dòng chữ“Đả đảo quân xâm lược Pháp. Nước Việt Nam chỉ thuộc về
người Việt Nam” thì thầy đã bị một tên lính Pháp xả súng vào người. Thầy đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
43
gục ngã ngay dưới tấm bảng đen, trên tay vẫn cầm viên phấn trắng. Ước mơ
được tiếp tục dạy học cho bọn trẻ đã khiến linh hồn thầy không thể siêu thoát.
Vì thế hồn ma của thầy giáo cứ hiện về đêm đêm trong lớp học, rồi lại đi như
lướt trên mặt đất về làng“kêu khóc và cào những móng tay sắc như thép lên
các cánh cửa gỗ... Những tấm bảng đen ở trường tiểu học trong làng cũng bị
cào xước”[56, tr 52]. Chỉ đến khi dân làng lập bàn thờ bằng một chiếc bàn của
thầy cô giáo trên bục giảng, lấy bẩy hộp phấn trắng và một chén nước thắp
hương cúng cho thầy giáo thì hồn ma của thầy mới không trở về nữa. “Bởi đấy
không phải là một con ma, đấy là một linh hồn yêu thương con người, đầy trách
nhiệm và khao khát làm những điều tốt đẹp”[56, tr 55].
Tiếp đến là ước nguyện của người mẹ được che cho con trong truyện ngắn
“Đứa trẻ đùa chơi trong đêm”. Tiếng gào thê lương và đau đớn trong đêm của
anh Tộc “Mình ơi, mình về với con đi, con nó chết mất” [56, tr 193] hay tiếng
của tình mẫu tử thiêng liêng đã khiến linh hồn người mẹ trở về mỗi tối để cho
con bú, chơi với con cho đến khi gà gáy sáng. Đứa bé mới lọt lòng được ba
ngày đang khát sữa tưởng chừng như không thể sống nổi đã trở nên bụ bẫm,
xinh xắn. Khi đứa trẻ biết đi và ăn được cơm thì hồn người mẹ không về nữa.
Sau này, đứa trẻ đã lớn và trở thành một người đàn ông thành đạt trong sự
nghiệp, người có bằng tiến sĩ khoa học đầu tiên của làng, niềm tự hào của anh
Tộc, dân làng và cũng là ước nguyện của người mẹ quá cố thì linh hồn người
mẹ ấy dường như vẫn đang dõi theo phù hộ cho con. Quả đúng như vậy: không
có gì lớn bằng tình yêu của người mẹ với con mình. Tình yêu ấy mạnh hơn mọi
nguyên tắc và phá vỡ mọi biên giới.
Đó là nỗi khát khao về hạnh phúc gia đình. Trong “Mang họ tên của người
chết”, cái chết đột ngột của Mây trước khi đám cưới với Vực ba tháng đã khiến
linh hồn cô gái trẻ không thể nào siêu thoát. Khát khao về tình yêu, mái ấm gia
đình dang dở thôi thúc linh hồn Mây trở về mỗi tối “treo lơ lửng trong buồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hai vợ chồng Vực, khóc nói với anh: “Anh đã ăn hỏi em. Em đã là vợ của anh,
44
sao anh không cưới em mà lại cưới người khác”[56, tr 175]. Rồi lại nói với
Hảo, vợ Vực “Anh Vực đã ăn hỏi tôi làm vợ. Tôi chính thức đã là vợ anh Vực.
Sao chị lại cướp chồng tôi” [56, tr 176]. Hai vợ chồng anh Vực không dám có
một cử chỉ âu yếm, yêu thương nhau vì cứ hễ họ bắt đầu âu yếm nhau thì hồn
ma chị Mây lại hiện về và chen vào giữa hai người. Chỉ đến khi Hảo đổi tên họ
của mình thành tên họ của Mây thì hồn ma Mây thì cuộc sống vợ chồng anh
Vực mới được bình an, Hảo hết đau ốm và mang thai đứa con gái đầu lòng. Ít
năm sau lại sinh thêm đứa con trai. Điểm đặc biệt là cả hai đứa con đều giống
Mây như hai giọt nước. Mười năm sau, kể từ ngày Hảo mang tên họ Mây, như
đã hứa, hồn ma Mây hiện lên nói với hai vợ chồng “Duyên của anh Vực với tôi
nay đã hết. Tôi xin trả lại tên họ của chị. Tôi biết ơn chị vì tôi mà khổ sở. Tôi
sẽ phù hộ cho chị” [56, tr 180]. Từ đó, hồn ma Mây không bao giờ trở về nữa.
Ước mơ của người cô trong “Dấu chân của một người đã mất” thật giản
dị: một đám cưới với người mình yêu và một cái áo mới để mặc ngày cưới. Bởi
cả đời mình, cô chưa bao giờ được mặc áo mới cho đến khi cô mất. Thi thoảng,
linh hồn cô lại hiện về “đứng trước cửa, quần áo ướt vì nước sông, cả người run
bần bật và xin bà bán thúng thóc mua cho cô chiếc áo mới”[56, tr 186].
Chàng Trương Chi và nàng Mị Nương trong “Khúc hát dòng sông” yêu
nhau mà không đến được với nhau nên khi chết xác Trương Chi cứ bập bềnh ở
khúc sông, nơi chàng sinh ra, lớn lên và đem lòng yêu người con gái bên sông.
Còn nàng Mị Nương đã hóa thành hoa quỳnh tinh khiết, thơm ngát tỏa hương
như minh chứng cho khát khao hạnh phúc, tình yêu trong sáng của nàng dành
cho Trương Chi.
Đó còn là ước nguyện đau đáu được nguyên vẹn hình hài trong “Tiếng kêu
cứu của một hồn ma”. Người dân trong làng luôn bị ám ảnh bởi một con ma
nồi chõ tròn, đen cứ lăn đi theo những người sống mà khóc và cầu xin sự giúp
đỡ “Giúp tôi với, giúp tôi với. Xin đưa tôi về nhà” [56, tr 86]. Cuối cùng thì
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người làng cũng tìm được câu trả lời. Con ma nồi chõ đó là hồn ma của cái đầu
45
của người đã mất do bom Pháp xé tan thây, mảnh bom đã cắt mất đầu và ném
đi đâu đó. Hồn ma năn nỉ “Xin đưa tôi về nhà” nghĩa là đưa cái đầu ấy trở về
với thân của mình. Nên khi họ đem cái sọ ấy ra phần mộ của người đàn ông kia
thì không ai còn gặp con ma nồi chõ ấy nữa.
Và ước mơ được trở lại dương gian của những linh hồn có khi đơn giản
chỉ là mong muốn được tiếp tục những cuộc chơi vui vẻ, bình dị bên bè bạn.
Linh hồn thằng Đúc trong “Đá bóng với người âm” thi thoảng vẫn hiện về
trong những đêm trăng để chơi bóng, niềm đam mê mà nó đã phải bỏ dở vì đuối
nước “Cả thân thể và quả bóng đều tỏa ra một thứ ánh sáng xanh huyền ảo...
Quả bóng bay lấp lánh như một ngôi sao băng xuống mặt sông... Thằng Đúc
lao như bay về phía quả bóng”[56, tr 147].
Tóm lại thầy giáo trong “Tiếng phấn rít trên bảng đen”, người mẹ trong
“Đứa trẻ đùa chơi trong đêm”, Mây trong “Mang tên họ của người chết”,
người cô trong “Dấu chân của một người đã mất”, Thương Chi – Mị Nương
trong “Khúc hát của dòng sông”, Người đàn ông trong “Tiếng kêu cứu của một
hồn ma”, Đúc trong “Đá bóng với người âm” đều mang trong mình những dự
định, những ước mơ đẹp đẽ: được tiếp tục sự nghiệp trồng người cao cả; được
lấy vợ, lấy chồng, sống cuộc sống gia đình ấm êm, hạnh phúc; được thực hiện
bổn phận, trách nhiệm của người cha, người mẹ, người con, ... Nhưng tất cả
đều dang dở bởi họ đã sớm phải từ biệt cuộc đời. Linh hồn họ vì thế đã quay
trở lại dương gian với khao khát sẽ thực hiện tiếp những ước mơ còn dang dở
đó. Qua đây, nhà văn muốn gửi gắm tới bạn đọc bức thông điệp: Hãy luôn nhớ
về những người thân yêu đã khuất để sống có nghĩa, có tình, sống tốt đẹp hơn.
2.1.2. Thế giới thần thánh hiển linh
Cùng với thế giới hồn ma hiển hiện là thế giới thần thánh hiển linh. Thế
giới thần thánh là thế giới siêu nhiên được con người tôn sùng, kính cẩn chiêm
bái. Đó là những nhân vật có xuất thân kỳ lạ hay nhân vật tồn tại vĩnh hằng,
nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
46
Trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật có xuất thân kì lạ xuất
hiện khá nhiều. Đó là Mẹ Cả trong “Con gái thủy thần”. Không ai biết rõ Mẹ
Cả được sinh ra như thế nào. Chỉ biết người ta đồn rằng đã trông thấy một cặp
Giao Long trong một đêm mưa bão quấn lấy nhau và sinh ra Mẹ Cả dưới gốc
cây Muỗm, ở bãi nổi trên sông Cái. Mẹ Cả là con gái thủy thần. Rồi ai nuôi
Mẹ Cả, Mẹ Cả lớn lên ra sao, cũng không ai biết. Người thì bảo rằng Tía đón
về nuôi, có người lại nói thím Mòng trên phố chợ đón về nuôi, lại đồn các xơ
trong nhà tu kín đón về, đặt tên thánh cho Mẹ Cả là Gianna Đoàn Thị Phượng.
Hay như xuất thân của nhân vật Cún cũng thật kì bí. Cún không cha mẹ
được một lão ăn mày nhặt về trong đống tã rách hôi hám ở một cái cống bên
con sông đào ngoại ô thành phố. Cún bị tật nguyền, đầu to tướng, hai chân tay
mềm oặt như chẳng có xương. Điều kỳ lạ là Cún có khuôn mặt đẹp lạ lùng cùng
với khả năng kỳ quặc: Một là đôi mắt của nó làm cho tất cả mọi người xung
quanh đều sợ hãi mà phải bỏ một đồng hào vào cái nón rách; Hai là khả năng
chịu đựng tuyệt vời: nó chịu được đói, được rét, nó sống trơ trơ như thân thể
nó được tạo bằng thứ nguyên liệu siêu phàm.
Trong Những đứa trẻ chết già của tác giả Nguyễn Bình Phương, có điều
đặc biệt là những đứa trẻ mới sinh đã là những người già. Dù chúng là trai hay
gái cũng đều có kết thúc như nhau. Và cuối cùng tất cả những con người quái
dị ấy đều chết hoặc biến mất kì lạ.
Sự xuất hiện của bé Hon (Thiên sứ - Phạm Thị Hoài) trong gia đình Hoài
cũng chứa đựng nhiều chi tiết lạ lùng. Bé Hon chào đời khi người mẹ tưởng
như không thể sinh nở được nữa. Con bé lọt lòng không chịu cất tiếng khóc mà
mỉm cười làm thân với các nữ hộ sinh. Bé Hon không giống bất kì ai trong gia
đình, tóc óng mượt, mắt lóng lanh, cặp má lúc nào cũng 3 tuổi, cái miệng lúc
nào cũng mỉm cười thân thiện và bí ẩn với muôn vật, nước da trong suốt, trắng
xanh, cứ tỉnh dậy là ban phát hào phóng nụ cười mê hồn cho muôn vật. Khi tập
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nói, bé Hon chỉ biết một câu duy nhất “Thơm nào!”
47
Đặc điểm chung giữa những tác phẩm trên là có sự xâm nhập của yếu tố kì
ảo trong xuất thân của các nhân vật. Song trong sáng tác của Nguyễn Quang
Thiều, thì xuất xứ của nhân vật đặc biệt hơn, vừa được pha trộn trong không khí
lung linh, huyền ảo, đậm màu cổ tích vừa như bước ra từ đời sống thực.
Đó là Lan trong “Cô gái áo xanh”. Chị được sinh ra trong một đêm tháng
năm giông bão và mưa lớn. “Trong ánh chớp, bà mẹ nhận thấy một người con
gái mặc áo xanh, tóc dài đen, gương mặt trong như nước đầm sen đứng trước
cửa buồng bà và nói “Con được về làm con của mẹ”. Rồi bà sinh ra chị... Toàn
thân đứa bé tỏa ra một thứ ánh sáng xanh biếc” [56, tr 38]. “Một đêm, bà mẹ
tỉnh giấc nhưng không thấy Lan ngủ trên giường. Chỉ thấy một bông sen chúm
chím nở chỗ Lan nằm. Bà hoảng hốt đi tìm con nhưng không thấy. Khi bà quay
lại giường thì thấy con gái mình vẫn nằm ngủ ở đấy. Người cô tỏa hương sen
ngan ngát”[56, tr 141]. Bà càng lo hơn khi chị qua 13 tuổi mà chưa có kinh
nguyệt. Năm 18 tuổi, Lan lấy chồng. Hoa sen năm đó nở ngợp đầm làng. Bố
mẹ chồng hy vọng chị sẽ sinh cho họ một đứa cháu. Nhưng chị đã không làm
được điều đó. Năm năm sau, chị nhận được giấy báo tử của chồng vào một
ngày cả đầm sen làng chị chỉ còn lại những cuống sen khô, nâu thẫm. Lan nổi
tiếng trong làng vì tài làm trà sen. Đặc biệt có một loại trà sen của chị có thể
chữa bệnh muộn con cho những người đàn bà. Một chiều, chị lại đi lên đỉnh
Mu như mọi bận nhưng lần này chị đã không trở về nữa. Khi mọi người lên
đỉnh Mu tìm chị thì chỉ thấy ở đó có một bông sen đang tỏa hương thơm ngào
ngạt. Họ càng tin rằng chị là một Bà Thánh như lời thầy bói mù đã nói. Dân
làng đã quyết định xây một ngôi đền nhỏ đặt tên là Đền Bà Lan. Trước đền đào
một cái hố tròn nhỏ trồng sen. Những người đàn bà muộn con đã đến múc nước
hồ uống để mong có con. Câu chuyện “Cô gái áo xanh” gợi cho chúng ta nhớ
tới những câu chuyện cổ tích kể về những ông thần bà thánh. Họ không phải là
những con người bình thường mà được phái đến cõi trần để cứu độ chúng sinh,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giúp đỡ những người nghèo khổ, bất hạnh. Vì thế, họ luôn được nhân dân tôn
48
sùng, tưởng nhớ. Đằng sau câu chuyện ấy là một niềm tin tâm linh: con người
ta hãy sống thiện, sống tốt tất sẽ được thánh thần phù hộ.
Bên cạnh những nhân vật có xuất thân kì lạ lànhân vật tồn tại vĩnh hằng.
Sư cụ chùa Hoàng Lan trong “Ngôi chùa dưới lòng hồ” là một nhân vật như
thế. Khi ngôi chùa Hoàng Lan cũng như những ngôi nhà trong làng có nguy cơ
sẽ bị nước cuốn phăng đi nếu đê vỡ thì sư cụ đã kiên quyết không rời chùa mà
ngồi gõ mõ tụng kinh suốt ngày xin thần phật cho nước sông rút. Cứ thế ba
ngày liền, sư cụ không ăn, chỉ ngồi bất động gõ mõ tụng kinh. Nhưng đến canh
ba đêm đó thì đê vỡ. Sáng hôm sau, người ta không nhìn thấy ngôi chùa dưới
chân đê nữa, biển nước mênh mông đã nhấn chìm cả làng. “Rồi một đêm trăng
sau ngày đê vỡ một năm, người đột nhiên nghe thấy tiếng gõ mõ tụng kinh từ
đáy hồ vọng lên... Họ tin linh hồn sư cụ vẫn trụ trì trong ngôi chùa dưới nước
và gõ mõ tụng kinh cầu cho những điều tốt đẹp đến với dân làng... Có những
người già trong làng trước khi chết đã nói với con cháu ước nguyện của họ
được thủy táng xuống đầm nước để họ vẫn được đi chùa như khi còn sống và
giúp đỡ sư cụ giặt giũ, cơm nước, quét dọn như họ vẫn làm khi chùa còn ở trên
đê”[56, tr 121]. Quả đúng như vậy, sư cụ chùa Hoàng Lan đã tồn tại vĩnh hằng
nhưng không phải bởi sư cụ được đầu thai chuyển kiếp như trong văn học dân
gian và các sáng tác truyền kì (Tấm Cám, Truyền kì mạn lục, …) hay trong
“Giàn thiêu” của Võ Thị Hoài (Từ Lộ-Đạo Hạnh thiền sư đã đầu thai vào nhà
Sùng Hiền Hầu để mong có được kiếp sống phú quý giàu sang) mà tồn tại
vĩnh hằng trong tiềm thức của những người dân làng chùa bên dòng sông Đáy.
Đó là một câu chuyện như tác giả nói “không cần giải thích cũng không cần
ai công nhận đúng hay sai nhưng mãi mãi đó là những điều thiêng liêng trong
tâm hồn sâu thẳm của mình, làm cho tâm hồn chúng ta mở ra rộng lớn”[56,
tr 123].
Tiếp đến là nhân vật mang màu sắc huyền thoại, cổ tích. Trong “Bí ẩn đàn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
rùa trắng”nhân vật ấy là một đàn rùa trắng – đại diện cho sức mạnh của vũ trụ.
49
Để bắt hết bọn rùa nấu cháo, người làng đã tát cạn đầm nước. Cả đầm sen bạt
ngàn hoa trắng biến mất chỉ còn là một bãi bùn đen khổng lồ. Mấy ngày sau,
một người thuyền chài ở khúc sông Đáy kẻ lại rằng: “Vào giữa đêm hôm đó,
ông nhìn thấy một đàn rùa trắng hàng trăm con đi thành một hàng dài. Đàn
rùa trắng vượt qua đê, qua bãi sông, rồi bơi qua sông, đi về phía dãy núi đá
vôi Hòa Bình. Ông không nghĩ đó là những con rùa ông vẫn nhìn thấy mà tin
đó là những con rùa thần. Trên mai những con rùa tỏa ra một thứ ánh sáng
xanh”[56, tr 108]. Cũng từ năm đó, sen trong đầm không bao giờ mọc lại nữa.
Làng mất mùa triền miên. Nhiều người phải bỏ làng tha phương cầu thực. Ngay
năm sau đó, bệnh thủy đậu tràn qua làng. Hầu hết những người tìm cách bắt rùa
đều mang bệnh. Một số người bị mù nhiều người mang tật suốt đời. Một điều
kinh hãi nữa là những người phụ nữ tham gia cuộc săn bắt rùa trắng cũng như
con gái, con dâu của những gia đình bắt rùa năm đó hễ ai có thai đều bị sảy
thai. Phải mươi năm sau làng mới hồi sức sau những năm mất màu và dịch
bệnh. Nhưng sen thì không mọc lại. Người làng đã phải trả giá vì họ“có tội với
trời đất... họ đã phá vỡ một phần nào đấy của cái cấu trúc vũ trụ. Một cấu trúc
mà trong tư duy và trong cái nhìn quá hữu hạn và đầy dục vọng hấp hèn không
thể nào hiểu nổi” [56, tr 109].
Đò là sự hiển linh của Thành hoàng làng trong “Đứa con của hai dòng
họ”. Khi bị Chánh Hợi làm nhục và đuổi ra khỏi làng, Mặc đã ra ngôi mộ cổ,
dập mặt xuống bùn mà cầu “Thần Phật, tổ tiên linh thiêng hãy chứng dám cảnh
này. Cầu cho nhà thằng Hợi con cháu sau này không có lưỡi” [53, tr 182]. Gần
hai mươi năm sau, Chánh Hợi qua đời, khi liệm, người nhà hắn cạy mồm để bỏ
tiền, gạo thì thấy lưỡi hắn thụt lại bằng cái lưỡi cóc. Đứa con trai duy nhất của
hắn lớn lên bị câm. Con cháu nhà Chánh Hợi sau này lớn lên đều bị câm.
Nhân vật thần thánh trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều là những
nhân vật được nhà văn xây dựng bằng trí tưởng tượng, hư cấu. Đó là những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhân vật không có thực ngoài đời. Tuy nhiên, các tình tiết, sự việc của của câu
50
chuyện lại được nhà văn chắt lọc từ cuộc sống thực nên các nhân vật tưởng
tượng, hư cấu ấy cũng trở nên gần gũi hơn với thế giới con người; giúp họ thêm
có niềm tin vào cuộc sống này: sống thiện sẽ được thần thánh chở che, giúp đỡ,
ngược lại ăn ở thất đức, làm điều trái với đạo lý thì sẽ bị thần thánh trừng phạt.
2.1.3. Thế giới người có khả năng đặc biệt
Để đáp ứng nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của người đọc, tạo hiệu ứng cho tác
phẩm, Nguyễn Quang Thiều rất quan tâm đến xây dựng các nhân vật có khả
năng đặc biệt. Đó là những nhân vật có khả năng tiên tri; chung sống cùng thánh
thần, ma quỷ hay có khả năng hóa giải lời nguyền. Khả năng đặc biệt lạ kì của
họ không chỉ mang đến cảm giác tò mò, thu hút sự chú ý của người đọc mà còn
thể hiện nhiều sắc thái, ý nghĩa, bài học đạo đức khác nhau.
2.1.3.1. Nhân vật chung sống cùng thánh thần, ma quỷ
Trong “Người thợ đào giếng”, Doan đã trò chuyện với hồn ma của người
chồng “Chị cảm thấy như hơi thở của người chồng quá cố đang phả ấm quanh
chị”[56, tr 98]. Sự ra đi đột ngột của anh khiến chị đau khổ tưởng như điên dại.
Chính những câu chuyện, lời vỗ về, an ủi mỗi khi linh hồn anh hiện về bên chị
đã làm chị thấy hạnh phúc và cảm thấy được chở che, bảo vệ.
Bọn trẻ con trong làng trong “Đá bóng với người âm” vẫn cùng hồn ma
thằng Đúc đá bóng, vừa đá, vừa trò chuyện vui vẻ “Chúng tôi lao vào trận đấu
hò hét vang cả khúc sông. Những đứa ở cùng đội với thằng Đúc đều tìm cách
truyền bóng cho thằng Đúc. Hình như ai cũng muốn tạo điều kiện cho nó làm
bàn. Chúng tôi vừa đá bóng, vừa hò hét gọi tên nó như khi nó còn sống” [56,
tr 149]. Có phải linh hồn thằng Đúc hiện về cùng chơi bóng với lũ trẻ hay
không? Hay chỉ là cơn mộng du, ảo giác? Còn với tác giả “Đó không phải là
một câu chuyện ma... mà là những câu chuyện có thực trong đời sống của chúng
ta. Nhưng quá ít người tin đó là một câu chuyện có thực. Chính vì không có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
niểm tin ấy mà chúng ta phải sống trong u uất, trong đố kị, trong tranh giành,
51
trong tham lam vô độ như những bầy hoang thú mà chúng ta không biết vì sao
chúng ta lại sống như thế” [56, tr 151].
Ông lái đò trong “Tiếng gọi đò lúc nửa đêm” đã chèo đò đưa linh hồn con
trai bà Đoán về với mẹ. Đó là một đêm trăng tròn, ông đã gặp linh hồn con trai
bà Đoán khoác ba lô đứng đợi đò. Ông vừa mừng, vừa hoang mang và nói “Cụ
nhà chắc sẽ khóc vì sung sướng mất khi thấy anh trở về. Từ ngày báo tử anh,
thi thoảng cụ nhà vẫn ra bờ sông ngóng anh ” [56, tr 155]. Sau lần chèo đò trở
linh hồn anh Đoán, ông lái đò lại chèo đò đưa linh hồn anh Tân. Và cứ đến rằm
tháng bẩy, ông lại nghe tiếng gọi đò từ bờ bên kia sông. Tiếng gọi đò của những
người lính đã hi sinh không chỉ là tiếng gọi đò “Đó là một tiếng gọi khác như
thức tỉnh chúng ta khi chúng ta đang đi xa những gì đẹp đẽ và thiêng liêng,
đang lãng quên đi máu của bao người con đẹp và mạnh mẽ như cây đã chảy
suốt bao nhiêu năm” [56, tr 161].
Ông Dụ trong “Ma đưa lối” thi thoảng lại bắt gặp và trò chuyện với hồn
ma bà lão ăn mày. Hồn ma bà lão ăn mày đã đưa lối để ông tìm được hũ vàng
“Hồn ma bà cụ đi trước ông Dụ lúc tỏ lúc mờ, lúc bước đi như người thường
và lúc như bay lơ lửng trước mặt ông” [56, tr 168]. Hồn ma bà lão cũng nghe
thấu tâm nguyện của ông mà phù hộ cho ông hai đứa cháu trai khỏe mạnh,
ngoan ngoãn nối dõi tông đường; còn ông thì sống hạnh phúc bên con cháu mà
không bệnh tật, ốm đau.
Hay chuyện hai vợ chồng anh Vực trong “Mang tên họ của người chết” cứ
bắt đầu âu yếm nhau là hồn ma chị Mây lại hiện về chen vào giữa hai người vì
duyện nợ của Mây với Vực chưa hết. Chị Hảo, vợ Vực đã phải thực hiện lễ khai
tử mình và mang tên họ hồn ma chị Mây mười năm mới được bình an. Và đúng
mười năm kể từ ngày kể từ ngày Hảo mang tên họ Mây, như đã hứa, hồn ma
Mây hiện lên nói với hai vợ chồng “Duyên của anh Vực với tôi nay đã hết. Tôi
xin trả lại tên họ của chị. Tôi biết ơn chị vì tôi mà khổ sở. Tôi sẽ phù hộ cho chị”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
[56, tr 180]. Từ đó, hồn ma Mây không bao giờ trở về nữa.
52
Đó còn là đứa bé trong “Đứa trẻ đùa chơi trong đêm”. Hàng đêm, đứa bé
lại tỉnh giấc, đôi môi chúp chíp của nó lại đón dòng sữa ngọt ngào từ hồn ma
người mẹ nô đùa với hồn ma của mẹ rồi lăn ra ngủ ngon lành.
Qua tìm hiểu về những nhân vật chung sống cùng thánh thần, ma quỷ ở
những câu chuyện trên chúng ta lại thấy: hồn ma không hề đáng sợ như người
ta thường nói bởi gọi là ma nhưng đó là những người thân yêu, ruột thịt của
mình. Đó là tình cảm vợ chồng đầu gối tay ấp (Người thợ đào giếng, Mang tên
họ của người chết), là tình bạn bè thân thiết gắn bó (Đá bóng với người âm), là
tình làng nghĩa xóm, tình quân dân khăng khít tắt lửa tối đèn có nhau (Tiếng
gọi đò lúc nửa đêm), là tình mẫu tử thiêng liêng (Đứa trẻ đùa chơi trong đêm)
và là tình người lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều (Ma đưa lối).
2.1.3.2. Nhân vật hóa giải lời nguyền
Đây là những nhân vật đóng vai trò trung gian, kết nối con người với thế
giới hồn ma. Để chứng minh cho chân lý “ác giả ác báo, thiện giả thiện báo”,
tác giả Nguyễn Quang Thiều đã để con người được nhìn thấy, tiếp cận với thế
giới kỳ ảo thông qua nhân vật mở đường, dẫn đường như các thầy số, thầy tướng,
thầy lang, thầy đồ… Họ có tài năng và phép thuật; họ lý giải cho con người
những băn khoăn, khúc mắc trong lòng; chỉ cho người ta thấy cách thức hóa giải,
phòng tránh. Cũng có thể, họ giúp nhân vật chính soi tỏ quá khứ, hiểu rõ tiền
kiếp để từ đó nhận thức được sự tồn tại của mình giữa cuộc đời. Sự có mặt của
họ như lời nhắc nhở về sự tồn tại của thuyết báo ứng, luật nhân quả để con người
biết sợ, biết cẩn trọng hơn trong từng lời nói, hành động.
Ông lang Chất trong “Lá bùa trừ ma” đã giúp cho những người dân làng
hiểu lý do vì sao hồn ma cô gái lại hiện về dìm chết người và để hồn ma cô gái
được siêu thoát, tha thứ cho những người sống thì các xóm ở khúc sông đó phải
thực sự nhận ra lỗi của mình và chân thành tạ lỗi. Sau đó “ông cho lập đàn bên
bờ khúc sông mà cô gái bị hãm hại trước kia. Đại diện của những xóm trại ven
sông đều có mặt trong buổi lễ. Khi lễ xong, ông lang chất lấy một tờ giấy nhỏ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
53
viết một dòng chữ vào đó rồi bỏ vào chiếc bình gốm, làm phép rồi bịt kín miệng
bình và thả xuống sông”[56, tr 16]. Từ đó, người ta không còn thấy hồn ma cô
gái hiện về nữa. Cũng từ đó, khúc sông không còn những người đàn ông chết
đuối như xưa.
Người buôn mật mía trong “Tiếng phấn rít trên bảng đen” khi nghe câu
chuyện ma và người thầy giáo bị giết khi đang giảng bài đã đồng ý giúp dân
làng trừ ma. Ông cho lập một ban thờ ngay chính trong lớp học đó. Lễ là bẩy
hộp phấn trắng. bàn thờ là chiếc bàn thầy cô giáo trên bục giảng “Ông mở hết
bẩy hộp phấn ra. Rút một viên phấn và viết tên thầy giáo lên bảng rồi thắp
hương lầm rầm khấn. Khi cúng xong, ông sai người làng rải những viên phấn
ra quanh lớp học. Ông dặn người làng cứ đến đầu tháng và ngày rằm thì mua
bẩy hộp phấn trắng thắp hương cùng một chén nước cúng cho thầy giáo” [56,
tr 54]. Từ đó, hồn ma thầy giáo không hiện về nữa.
Thầy đồ trong “Người chèo đò bí ẩn” khi tìm hiểu ra nguyên nhân hồn ma
của cô gái cứ vật vờ ở bến sông làng chờ người qua sông trong đêm khuya rồi
dìm xuống nước, ông đã viết một bản tấu lên hội đồng bô lão trong làng xin bỏ
tục phạt vạ những cô gái chửa hoang. Khi “Hội đồng bô lão sửa lễ dâng thành
hoàng làng và đọc sớ xin bỏ tục phạt vạ những cô gái chửa hoang”[56, tr 65]
thì không bao giờ còn chiếc đò ma và chuyến đò lạ lùng ấy nữa.
Trong “Đứa trẻ bị bỏ rơi”, khi nhận ra hồn ma đã nhập vào những đứa trẻ
sơ sinh đòi bú mẹ là hồn ma đứa trẻ chết đói, ông giáo già đã bàn với các bô
lão trong làng làm lễ cúng ma “Những người phụ nữ của làng đang nuôi con
nhỏ ở xa đều được triệu về. Họ vắt sữa mình vào một cái bát. Các bô lão đặt
bát sữa cùng với hoa quả, bỏng gạo, nước và muối lên mộtchiếc chiếu để trên
mặt đê làng nơi đứa bé đã chết cùng mẹ nó trước kia rồi thắp hương. Ông giáo
già thay mặt người làng viết một tờ sớ. Ông ngồi trước mâm lễ cúng và sau ông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
là tất cả những người phụ nữ đã có chồng, đang nuôi con nhỏ, đang có thai và
54
còn sinh nở”[56, tr 74]. Từ đó những người phụ nữ của làng đều lấy chồng,
sinh con bình thường mà không còn lo sợ điều gì nữa.
Ông thầy trong “Mang họ tên của người đã chết” khi nghe anh Vực kể
chuyện của vợ chồng mình thì vô cùng thương cảm. Ông đã nói chuyện với hồn
ma chị Mây. Ông bảo duyên phận của anh Vực và chị Mây là mười năm. Vì
thế anh Vực chỉ còn cách là để cho chị Hảo mang tên họ chị Mây thì mới sống
được với anh “Ông đã làm một hình nộm và mặc cho hình nộm đó một bộ quần
áo cũ của chị Hảo rồi làm lễ khai tử cho chị. Sau đó ông thầy làm lễ đặt tên họ
mới cho chị Hảo”[56, tr 180]. Sau cái lễ “kỳ dị” đó vợ chồng anh Vực sống
cuộc sống bình an.
Có phải những thầy số, thầy tướng, thầy lang, thầy đồ... kia có khả năng
hóa giải được lới nguyền hay không? Họ đã làm gì, làm như thế nào mà hóa
giải được những lời nguyền ghê rợn như vậy? Điều đó khiến người đọc tò mò
và không tránh khỏi sự hoài nghi. Nhưng khi câu chuyện kết thúc thì mọi vấn
đề đã được lý giải. Hóa ra những lá bí ẩn đằng sau tờ sớ, lá bùa, câu thần chú
bí hiểm, ma quái kia cuối cùng chính là sự ăn năn chân thành nhận lỗi, là tình
yêu thương chân tình, là mong ước về một cuốc sống bình an, hạnh phúc ấm
êm cho mọi người. Chính nó đã hóa giải lời nguyền: Ông lang Chất (Lá bùa trừ
ma) trước khi mất đã nói cho những người trong gia đình và đại diện làng biết
dòng chữ trong tờ giấy bỏ vào bình gốm trong là một dòng chữ đơn giản “Dòng
chữ ấy là lời xin lỗi chân thành với một cô gái đã bị hãm hại khi còn quá trẻ.
Khi linh hồn cô gái nhận được lời xin lỗi chân thành từ những người còn sống
đã tha thứ tội lỗi của họ và siêu thoát”[56, tr 17]. Người buôn mật mía (Tiếng
phấn rít trên bảng đen) trước khi rời làng đã nói với người làng “Cái mà thầy
cần là những viên phấn chứ không phải xôi thịt hay vàng mã gì cả. Đấy không
phải là một con ma, đấy là một linh hồn yêu thương con người, đầy trách nhiệm
và khát khao làm những điều tốt đẹp”[56, tr 55]... Một điểm đáng chú ý nữa là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không phải chỉ là thầy tướng, thầy số mới có khả năng hóa giải lời nguyền mà
55
còn là ông giáo làng, người đi buôn, thầy đồ - những người bình thường trong
cuộc sống,.. Điều đó làm cho câu chuyện “đời hơn”, bức thông điệp cuộc sống
vì thế cũng giàu sức thuyết phục: hãy sống tốt, sống thiện với bản thân, với mọi
người, với xã hội mọi hận thù sẽ được hóa giải “Lấy oán trả oán, oán oán chất
chồng. Lấy ân trả oán, oán oán tiêu tan”
2.1.3.3. Nhân vật có khả năng tiên tri
Đây là những nhân vật đặc biệt có khả năng đoán biết tương lai. Những
nhân vật này phần lớn không phải là những nhân vật chính, có người có tên có
người không tên và không được nhận biết nhiều qua những diện mạo cụ thể.
Họ xuất hiện như một người khách qua đường rồi biến mất cùng với lời tiên tri
của mình. Song sự xuất hiện của những nhân vật này thường gắn liền với những
dự báo có tính chất quyết định tới cuộc đời của những nhân vật khác, đặc biệt
là những dự báo về cái chết. Đó là ông phó cối trong “Ngôi nhà và tiếng mèo
kêu”. Một lần đi qua làng, nhìn ông Thái Lan đang chơi cờ tướng ở hiên nhà
đã thở dài và nói “Không qua sông mà chết đuối” [56, tr 21]. Thời gian sau,
ông Thái Lan đang ngồi rửa mặt bằng chiếc chậu thau đồng đã bất chợt gục
xuống, úp mặt vào chậu nước mà chết. Một lần khác, khi đang ngồi sửa cối ở
một nhà trong làng, ông bỗng vứt dụng cụ xuống sân, ngửa mặt lên trời than
“Mây máu, mây máu ... trời xa, làng gần”[56, tr 21]. Sau đó một năm, chị
Thông, con dâu bà Thái Lan lại ra đi. Đó là vào một buổi chiều, sau khi gội
đầu, chị ngồi hong tóc cho khô rồi nằm ngủ và không bao giờ trở dậy nữa. Sau
cái chết lạ lùng của cô con dâu thì đến lượt anh Lan, con trai thứ hai của bà
Thái Lan. Đang giảng bài cho học sinh, anh bỗng ôm ngực, thổ huyết lên đầy
bàn và mất. Rồi đến một ngày, người ta nghe tiếng mèo gào thảm thiết trên mái
ngói nhà Thái Lan và họ kinh hãi nhận ra bà đã chết. Suốt những năm sau này,
người ta vẫn bàn tán về cái chết lạ của những người trong gia đình bà Thái Lan.
Có người quả quyết vì gia đình bà dám ở trên đất của Thánh, xúc phạm đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thần Phật.
56
Qua những nhân vật có khả năng tiên tri với những linh cảm, dự báo “như
thần”, Nguyễn Quang Thiều đã đề cập đến một vấn đề sâu xa trong đời sống
tâm linh của con người. Mặc dù còn nhiều điều bí ẩn, chưa thể lý giải nhưng
cũng khiến mỗi người chúng ta phải suy ngẫm về cách ứng xử với thế giới xung
quanh.
Cũng như nhiều nhà văn đương đại Việt Nam như Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Bình Phương, Võ Thị Hảo, ... truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều
chịu sự chi phối của yếu tố kỳ ảo trong việc xây dựng nhân vật. Đó là thế giới
hồn ma hiển hiện, thế giới thần thánh hiển linh, thế giới con người có khả năng
đặc biệt cùng đan xen tạo nên bức tranh đa diện nhiều màu sắc về cuộc sống.
Khoác cho những con người bình thường lớp áo kì ảo, Nguyễn Quang Thiều đã
đem đến một cách tiếp cận con người hoàn toàn mới mẻ. Nó gắn liền với mục
đích phản ánh đa chiều, sinh động cuộc sống hiện đại ở nhiều góc cạnh khác
nhau. Mỗi loại hình nhân vật tồn tại một quan điểm riêng của nhà văn về sự lý
giải cắt nghĩa bản chất con người. Nhân vật kỳ ảo chính là đơn vị nghệ thuật có
tính ước lệ thẩm mỹ cao trong thế giới nghệ thuật tác phẩm.
Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy trong truyện ngắn kỳ ảo củaNguyễn
Quang Thiều, loại nhân vật hồn ma chiếm đa số. Ma là linh hồn người chết, là
một thực thể tinh thần tồn tại lẩn khuất nhưng rất gần với con người. Ma thường
quay lại dương gian bởi những ràng buộc, níu kéo từ cuộc sống con người, hoặc
là những oan hồn do còn duyên nợ với trần ai, hoặc chưa thỏa nguyện mong
ước trong luc còn sống. Hồn ma cô gái trong “Lá bùa trừ ma”, hồn ma thai nhi
chưa chào đời trong “Người chèo đó bí ẩn”, hồn ma đứa bé trong “Đứa trẻ bị
bỏ rơi” hay trong trong “Ma cây duối” đã hiện về trả thù những kẻ gây tội cho
mình. Còn hồn ma thầy giáo trong “Tiếng phấn rít trên bảng đen”,hồn ma của
Mây trong “Mang tên họ của người chết”, hồn ma người mẹ trong “Đứa trẻ
đùa chơi trong đêm”,hồn ma người cô trong “Dấu chân của một người đã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
mất”thì đã quay trở lại dương gian với khao khát sẽ thực hiện tiếp những ước
57
mơ còn dang dở. Hồn ma anh con trai cụ Doãn trong “Ma ăn trộm”, hồn ma bà
lão ăn mày trong “Ma đưa lối”, hồn ma người chồng của Doan trong “Người
thợ đào giếng”, hồn ma những người lính trong “Tiếng gọi đò lúc nửa đêm”đã
hiện về tìm cách trả ơn đấng sinh thành, trả nghĩa yêu thương, trả ơn người có
ơn với mình.
Còn trong thế giới thần thánh hiển linh, nhân vật đó do tác giả dựng ra
nhưng tác giả đã thổi vào đó yếu tố kỳ ảo, khiến nhân vật đó như mang dáng
dấp của những bậc thánh nhân trong các huyền thoại cổ. Họ đều là những người
đức độ, mong làm điều thiện cứu độ chúng sinh. Lan (Cô gái áo xanh) đã chế
ra một loại trà sen đặc biệt để trị bệnh muộn con cho những người đàn bà. Sư
cụ (Ngôi chùa dưới lòng hồ) đã tuyệt thực ba ngày, ngồi bất động gõ mõ tụng
kinh cầu xin thần phật cho nước sông rút. Đến khi chết, linh hồn sư cụ vẫn trụ
trì trong ngôi chùa dưới nước và gõ mõ tụng kinh cầu cho những điều tốt đẹp
đến với dân làng. Vì thế họ được mọi người nể trọng, tôn sùng. Lan được dân
làng gọi là “Bà Thánh”, được dựng đền thờ trên đỉnh ngọn đồi Mu. Còn sư cụ
trụ trì Hoàng Lan mãi được những người làng tưởng nhớ.
Bên cạnh những nhân vật ma, thần thánh, Nguyễn Quang Thiều còn rất
quan tâm đến thế giới người có khả năng đặc biệt: tiên tri; chung sống cùng
thánh thần, ma quỷ hay có khả năng hóa giải lời nguyền.Có thể thấy rằng những
con người này và thế giới hồn ma kia dường như có một mối quan hệ vô hình
nào đó, hay nói cách khác qua nhân vật này nhà văn muốn chứng tỏ khả năng
thần giao cách cảm của con người hình như là có thật.
Để khắc họa hình tượng nhân vật một cách sinh động, nhà văn rất chú
trọng miêu tả những chi tiết đặc sắc gây ám ảnh tinh thần người đọc. Đó là
những chi tiết đặc tả về ngoại hình mang đặc trưng riêng của nhân vật ma: hồn
ma cô gái (Lá bùa trừ ma) “Hai hốc mắt đen ngòm và cái lưỡi thè ra đỏ như
máu”[56, tr 11]; hồn ma đứa trẻ sơ sinh (Người chèo đò bí ẩn) “một cái đầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
trọc với gương mặt trắng như vôi và hai hốc mắt tối đen”[56, tr 63]; hồn ma
58
đứa trẻ bị bỏ rơi (Ma cây duối) “Thằng bé mắt to như hai cái chén mà chỉ có
lòng đen, bò thoăn thoắt trên cành cây”[56, tr 130].
Thêm vào đó là những cử chỉ, hành động, việc làm dị thường, khác lạ của
các nhân vật: Hồn ma thầy giáo (Tiếng phấn rít trên bảng đen) “đi như lướt
trên mặt đất về làng” [56, tr 52]; hồn ma đứa trẻ sơ sinh (Người chèo đò bí
ẩn) “một con đò đột ngột hiện ra như từ đáy sông nổi lên cùng với người chèo
đò... Con đò chao đảo rồi tan biến mất” [56, tr 63]; hồn ma anh Đoán (Ma ăn
trộm) “Một người mặc quần áo trắng đi như lướt trên đất. Rồi chỉ trong nháy
mắt, bóng người mặc quần áo trắng đó đã vút lên ngọn cau, xé một dẻ cau rồi
lại nhẹ nhàng nhảy xuống đất từ ngọn cau rất cao... Người mặc quần áo trắng
lại đi như lướt về gần giữa làng và biến mất” [56, tr 136]; Linh hồn thằng
Đúc (Đá bóng với người âm) “Cả thân thể và quả bóng đều tỏa ra một thứ
ánh sáng xanh huyền ảo... Quả bóng bay lấp lánh như một ngôi sao băng
xuống mặt sông... Thằng Đúc lao như bay về phía quả bóng” [56, tr 147]; hồn
ma bà lão (Ma đưa lối) “đi trước ông Dụ lúc mờ lúc tỏ, lúc bước đi như người
thường, lúc như bay lơ lửng trước mặt ông”[56, tr 68]; hồn ma chị Mây (Mang
tên họ của người chết) “hiện ra lơ lửng trong buồng hai vợ chồng anh Vực...
Khi hai vợ chồng anh Vực bắt đầu ân ái với nhau thì bóng người sương khói
lại hiện ra chen vào giữa” [56, tr 175]; linh hồn của Dịu “Lướt nhẹ nhàng
trên mặt đường như một cảnh phim quay chậm và mái tóc như một dải mây
dài bồng bềnh trôi theo. Mái tóc như một ngọn sóng đập vào bờ tung lên rồi
phủ kín gương mặt chị. Một khuôn mặt con gái như một mảnh trăng hiện ra”
[53, tr 173].
Tất cả đã làm cho câu chuyện trở nên hư hư thực thực, tạo cảm giác bí
hiểm, rờn rợn ở người đọc. Kỳ ảo nhưng nhân vật không tách rời quỹ đạo của
cuộc sống mà là sự hiện diện trong chính cuộc đời, trong mỗi con người. Muôn
dạng khuôn mặt kỳ ảo là muôn dạng khuôn mặt người trong cuộc sống thực tại,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
khám phá mỗi nhân vật kỳ ảo là khám phá chiều sâu tâm tưởng trong mỗi con
59
người. Đúng như giáo sư Trần Đình Sử đã nhận xét “Văn học phản ánh cuộc sống
trong tính tổng thể, trong khả năng biến đổi thường xuyên, vận động không ngừng,
trong bản chất tinh thần phong phú đầy bí ẩn thì tư duy mơ hồ tỏ ra thích hợp và
chính xác hơn tư duy xác định” [43, tr 150]. Nhưng cũng chính vì thế mà truyện
kỳ ảo lại càng có ma lực, sức hấp dẫn lạ lùng với độc giả.
2.2. Không gian kì ảo
Theo Trần Đình Sử: “Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức
nghệ thuật, là phương thức triển khai và tồn tại của thế giới nghệ thuật. Nếu
thế giới nghệ thuật là thế giới của cái nhìn và mang ý nghĩa thì không gian
nghệ thuật là trường nhìn mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn” [43, tr 42]. Như
vậy hình tượng nghệ thuật nào cũng có không gian nghệ thuật của nó. Hay nói
cách khác hình tượng nghệ thuật là một phương tiện chiếm lĩnh đời sống, triển
khai hình tượng con người trong tác phẩm văn học. Trong truyện ngắn Nguyễn
Quang Thiều, không gian nghệ thuật xoay quanh không gian quãng sông nước
bí hiểm, vùng rừng núi thâm trầm và khu vườn ruộng hoang vu. Vì truyện ngắn
của ông chứa đựng nhiều yếu tố kỳ ảo nên những không gian kia cũng chập
chờn đan cài giữa âm và dương, hư và thực.
2.2.1. Quãng sông nước bí hiểm
Không gian sông nước trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều là không
gian bao trùm trong hầu hết các truyện trong tập “Mùa hoa cải bên sông” và
“Cô gái áo xanh, những chuyện kì bí của làng”. Đó là không gian đầy thử
thách, bí hiểm nhưng cũng thật gần gũi, thân thuộc và mang đến cho con người
sự chở che, thanh thản nhất.
Không gian sông nước ấy được nhà văn lấy cảm hứng chủ yếu từ chính
con sông Đáy quê hương ông. Đó là con sông có chiều dài khoảng 240 km và
là một trong năm con sông dài nhất ở miền Bắc Việt Nam (sông Hồng, sông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đà, sông Lô, sông Cầu,sông Đáy). Lưu vực sông Đáy (cùng với phụ lưu sông
60
Nhuệ) dài hơn 7.500 km trên địa bàn các tỉnh thành Hà Nội, Hòa Bình, Hà Nam,
Ninh Bình, Nam Định. Sông Đáy khi xuôi đến Ứng Hòa – Hà Nội thì lòng sông
rộng ra, lưu tốc chậm lại nên có thể đi thuyền được. Khúc sông đấy men đến
vùng chân núi nên phong cảnh sơn thủy hữu tình. Đó cũng là con sông của hình
bóng những người thân giăng níu, ăm ắp và dào lên dòng chảy ký ức trong
Nguyễn Quang Thiều những nỗi niềm thương nhớ, xuyến xao. Con sông như
ông tự sự:
“Sông Đáy chảy vào đời tôi
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm…”.
Dòng sông, bến nước là hình ảnh quen thuộc trong văn học Việt Nam từ
xa xưa. Nhưng nếu trong văn học truyền thống, chúng ta đã quen thuộc với
những dòng sông, bến nước là hình ảnh của quê hương gắn liền với bao tình
thương nỗi nhớ của những con người xa xứ thì cái con sông bùi ngùi thế phận,
đằm sâu hơi thở quê làng đã bước vào mỗi câu chuyện kể của của ông với
những cảnh vật thiên nhiên vừa gần gũi, lại vừa lạ, vừa huyền ảo và đầy bí
hiểm, trở thành một biểu tượng đa nghĩa. Đó là một dòng sông nước lấp lánh,
mờ ảo ánh trăng, hai bên bờ um tùm những cây dứa dại, tầm xuân, cây găng và
những bụi tre, nơi nương náu của những oan hồn chưa được siêu thoát để rồi
trở thành ma sông, ma chèo đò, ...Hồn ma cô gái bị cưỡng bức (Lá bùa trừ ma)
“Bơi lội trên sông, cất tiếng hát rờn rợn. Có lúc lên bờ sông ngồi hong tóc...
Rồi quay người lao xuống dòng sông và biến mất” [56, tr 11]; rồi hồn ma của
cô gái chửa hoang (Người chèo đò bí ẩn) “Vừa chèo đó lại chợt cười khúc khích
và chợt khóc như trẻ sơ sinh” [56, tr 63]. Khi đó dòng sông trở thành nỗi ám
ảnh chết người của dân làng mỗi khi đi qua“Đám thanh niên lạnh toát hết người
bỏ chạy một mạch về làng” [56, tr 11]. Nhưng dòng sông, bến nước cũng chính
là nơi gặp gỡ, hò hẹn, trao gửi yêu thương. “Bọn trẻ trong làng thi thoảng lại
ra bãi cỏ ven đê chờ hồn thằng Đúc hiện về chơi bóng... vừa đá bóng, vừa hò Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
61
hét vang cả khúc sông” [56, tr 149]. Cũng trên bến sông, vào ngày rằm tháng
bẩy, người dân làng Chùa lại ra bờ sông ngồi để được nghe, được đón linh hồn
của những người lính trở về với mẹ với gia đình (Tiếng gọi đò lúc nửa đêm);
Đó là dòng sông liêu trai huyễn hoặc gắn liền với huyền thoại về câu chuyện
tình của chàng Trương Chi và nàng Mị Nương (Khúc hát dòng sông) “Những
đêm có trăng, anh thường gác chèo cho đò trôi theo dòng và cất tiếng hát.
Những ngọn gió sông như những nàng tiên có đôi cánh mỏng mang câu hát
của anh đi mãi. Và những ngọn gió sông mang tiếng hát của anh vào phòng Mị
Nương”[53, tr 35]. Chinh (Mùa hoa cải bên sông) đã lớn lên khỏe mạnh, dịu
dàng, âm vang như dòng sông, dòng sông đã tắm mát da thịt, tâm hồn cô
“Những đêm trăng mùa hạ, cô thích thả mình xuống dòng sông. Cô bơi mềm
mại như một nàng tiên cá trong câu chuyện cổ. Thỉnh thoảng cô co người lại,
hai tay ôm bó gối để cơ thể tuổi dậy thì lóng lánh như giọt thủy ngân lắng dần
xuống đáy sông”[53, tr 69]; rồi bãi sông bến Chùa thơ mộng với thảm hoa cải
vàng lấp lánh dưới ánh trăng, một màu vàng xôn xao, ấm áp đã trở thành nơi
hò hẹn của cô và Thao từ lúc nào không hay “Những đêm trên dòng sông dịu
dàng chảy, họ quấn quýt với nhau như một đôi cá thần. Dòng sông bí mật truyền
vào cuộc đời họ sức mạnh hạnh phúc và sự khổ đau” [53, tr 77]. Dòng sông
Đáy cũng gắn liền với biết bao kỉ niệm của Ân và Mật (Hai người đàn bà xóm
trại). Tại bến sông này, mấy chục năm trước Mật đã tiễn chồng đi bộ đội. Cũng
chính nơi đây, bà đã tiễn Bấc đi trong lần người lính ghé qua nhà không gặp vợ
mình. Còn Ân đã thì lội ào ào xuống nước, ướt nghiêng ngả để chạy đi tìm
chồng đã đi xa khuất. Trong ngôi nhà tranh bé nhỏ, nhiều đêm Ân vẫn mơ một
gấc mơ kỳ lạ. Cõ lẽ vì thế mà dù những gia đình khác đã dọn vào làng theo quy
hoạch của chính quyền xã thì một điều gì đó thiêng liêng và đau khổ đã gắn
chặt họ với ngôi nhà nhỏ và bến sông này. Phải chăng họ vẫn chờ đợi phép màu
sẽ đến? Hay đó là một dòng sông như chở, như mang tâm trạng, nỗi niềm của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
cô - người con gái nhận đã ra mình không phải là con của gia đình “Sông chảy
62
phờ phạc, mặt sông váng bẩn. Sông thì thào mỏi mệt kể cho cô nghe về bố
cô...”[53, tr 102].
Qua đó ta thấy, dòng sông trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều hiện
lên như là chứng nhân, là môi trường thử thách lòng người (Hai người đàn bà
xóm trại, Tiếng gọi đò lúc nửa đêm). Có lúc dòng sông lặng lẽ yên bình (Đá
bóng với người âm), nhưng cũng có lúc phong ba cuộn xoáy, xô đẩy, vùi dập
con người. Cô gái (Lá bùa trừ ma) đã bị một gã đàn ông cưỡng dâm rồi dìm cô
chết trên sông. Một cô gái khác (Người chèo đò bí ẩn) vì trót chửa hoang đã bị
làng phạt vạ thả bè trôi sông. Oan hồn của những cô gái ấy đã quay trở về dương
gian trả thù bằng cách dìm chết người làng qua sông. Xác chàng Trương Chi
(Khúc hát dòng sông) bị tay chân quan thừa tướng băm nát nổi bập bềnh giữa
dòng sông vì dám đem lòng yêu con gái hắn. Hay ông Lư trong Mùa hoa cải
trên sông đã nguyền rằng “Tất cả những người trong gia đình ông không bao
giờ đặt chân lên mặt đất. Họ sẽ sống hết cuộc đời trên sông”[53, tr 68] vì với
ông chỉ có dòng sông mới rộng lòng đón nhận mọi số phận, đón nhận xác vợ
ông. Và dòng sông cũng là nơi xoa dịu, vỗ về những thương tích mà cuộc đời
gây ra cho con người (Tiếng gọi đò lúc nửa đêm).
2.2.2. Khu vườn ruộng hoang vu
Cùng với không gian sông nước, khu vườn ruộng hoang vu với cây cối
rậm rạp, ngôi nhà bỏ hoang và côn trùng rả rích, ... cũng là những khoảng không
gian quen thuộc trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều. Nó gắn liền với mỗi
cuộc đời của các nhân vậtvà hiện lên đầy ám ảnh. Trong “Ngôi nhà và tiếng
mèo kêu đêm”, sau cái chết lạ lùng của những người trong gia đình của bà Thái
Lan, khu nhà đã bị bỏ hoang. Nó trở thành chỗ tập trung của lũ mèo hoang. Vì
thế nó càng trở nên bí ẩn hơn bởi những tiếng mèo kêu gào như tiếng người
đêm đêm. Có người thì cho rằng bởi ngôi nhà của gia đình bà dựng trên đất
Thánh, nghĩa là gia đình bà đã xúc phạm Thần Phật. Giống gia đình của bà Thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Lan, những người trong gia đình của bà Dạng (Bóng đen trên cây thị) cũng lần
63
lượt ra đi nhưng là do mắc bệnh lao. Ngôi nhà của bà đã âm u lại càng âm lạnh
u tối, lúc nào đi qua cũng có cảm giác hơi lạnh từ ngôi nhà đó tỏa ra. Nhà và
mảnh vườn lại ở sát đầm nước, tách khỏi những gia đình khác trong làng nên
càng hoang dại “Vào những đêm khuya, ai đi qua khu vườn đó đều ngửi thấy
mùi tanh lẫn trong hương thị chín làm nên một mùi rất ma quái... Ngôi nhà
càng trở nên kỳ bí”[56, tr 90]. Sau này, trong chiến dịch làm sạch đường làng
ngõ xóm, khi dọn dẹp khu vườn, người ta đã phát hiện một bộ hài cốt ngay dưới
gốc thị cổ thụ. Còn trong “Tiếng kêu cứu của một hồn ma”, góc ao làng với
đám rau cần xanh tốt là nơi trú ngụ của hồn ma nồi chõ, hồn ma của của cái đầu
người đã mất năn nỉ được trở về với thân xác của mình “Ở một góc ao đang
trồng rau cần. Đám rau cần đó xanh um cả một vòm. Gia đình của người đàn
ông đã mất lội xuống ao nhổ đám rau cần và đào sâu xuống. Thật kinh ngạc,
họ tìm thấy một cái đầu lâu. Đó chính là đầu lâu của người bị bom Pháp
giết”[56, tr 82]. Truyện “Ma cây duối” một lần nữa lại khiến người đọc rùng
mình, lạnh buốt sống lưng khi nghe câu chuyện về cây duối khổng lồ bên bờ
chuôm ông Dự “Dưới gốc cây duối khổng lồ ấy là thế giới của bầy rắn... Nào
là có một con rắn trắng cuộn quanh thân cây từ gốc đến ngọn, nào là cặp rắn
có mào đỏ như mào gà trống, nào là rắn hai đầu, nào là rắn phun lửa”[56, tr
127]. Nhất là khi người ta phát hiện có một hồn ma đứa bé bò từ cành này sang
cành khác, vừa khóc oe oe rồi lại bò xuống gốc cây rồi biến mất thì không ai
còn dám đến chuôm ông Dự đánh bắt cá nữa. Chuôm đặc cá và lại trở thành
vương quốc của lũ rắn, cầy hương, rái cá và chuột. Tiếp đến là không gian đầy
biến ảo trong “Bí ẩn đàn rùa trắng”. Đầu tiên là một không gian đầy thơ mộng
“đầm sen nở bạt ngàn hoa trắng. Cả không gian như được ướp bằng hương
sen thanh tao”[56, tr 106]. Rồi vào một buổi chiều mùa hạ, dọc bờ đầm xuất
hiện những con rùa trắng lớn như những chiếc mâm gỗ nằm ngủ bên nhau san
sát. Khi đám đàn ông làng lao xuống dòng nước để bắt rùa thì “đầm sen nở bạt
ngàn hoa trắng biến mất, chỉ còn là một bãi bùn đen khổng lồ”[56, tr 108].
Cũng từ năm đó, sen trong đầm không bao giờ mọc trở lại. Hay đó là cánh đồng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
64
làng Vĩnh yên ả nhưng lại chứa một cái gì đó bí ẩn bởi có khu mộ tổ của gia
đình nhà Mặc. Nơi đây đã chứng giám lời nguyền linh thiêng của Mặc về nhà
Chánh Hợi. Cũng tại đây, Văn (cháu trai Mặc) đã gặp Thảo (Cháu gái chánh
Hợi) và họ đã cùng nhau bước qua lời nguyền thần bí. Khác với không gian của
những ngôi nhà ma, bụi cây ma, ... rợn người, thì “Tiếng đập cánh của chim
thần” lại mang đến một con đường, khu vườn ngập tràn ký ức linh thiêng về
người chị đã mất “Gió thu từ cánh đồng lướt qua mặt đầm còn lác đác hoa
súng tím thổi vào khu vườn, cô nghe tiếng hát ở trên cao và tiếng lá của những
cây phù dung già xào xạc như có đôi chim nào đó vừa về. Từ trong ký ức linh
thiêng và nức nở của cô hiện lên hình ảnh rực rỡ và mỏng như pha lê của Lợi
và chị cô” [53, tr 175]; và không gian đong đầy yêu thương của cô với Lợi
“Nắng thu đang dâng lên hoa giành giành ngào ngạt. Và quanh cô, những tổ
chim cũ xác xơ phập phồng thở. Khi cô vừa quay lại thì nhận ra Lợi đang đứng
ở mé vườn bên gốc phù dung già từ khi nào đang nhìn cô” [53, tr 177]. Khu
vườn với những bụi hoa giành giành ấy cũng là nơi Lợi và Dịu (chị cô) thủa
trước đã trao gửi yêu thương.
Cũng như không gian sông nước, không gian vườn ruộng xuất hiện trong
truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều cũng đầy biến ảo: khi lạnh lẽo, rợn người
(Ngôi nhà có tiếng mèo kêu đêm, Bóng đen trên cây thị, Ma cây duối); khi lãng
mạn, nên thơ (Tiếng đập cánh của chim thần). Thậm chí trong một câu chuyện,
không gian cũng không hề đơn nhất, vừa thơ mộng (đầm sen khi còn đàn rùa),
vừa hoang tàn, xơ xác (đầm sen khi đàn rùa bị tận diệt) trong “Bí mật đàn rùa
trắng”. Chính sự biến ảo ấy đã làm tăng thêm tính huyền bí cho không gian
này, đồng thời xoáy vào người đọc những suy ngẫm, trăn trở về cách ứng xử
với thế giới tự nhiên, với vũ trụ không cùng.
2.2.3. Vùng rừng núi thâm trầm
Xuất hiện không nhiều trong tập truyện ngắn như không gian sông nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hay khu vườn ruộng hoang vu nhưng vùng rừng núi thâm trầm lại là không gian
65
tạo cho người đọc sức ám ảnh lạ kỳ. Nếu không gian sông nước hay khu vườn
ruộng hoang vu là không gian làng quê thì không gian rừng núi lại đưa ta trở
về với khung cảnh chiến trườngnhững năm 70, nơi diễn ra không biết bao nhiêu
trận đấu ác liệt,chứng kiến sự hi sinh của biết bao người lính để rồi sau đó nơi
đây cũng mãi mãi là nơi yên nghỉ của họ. Trong “Lời hứa với thời gian”, ông
Miêng đã trở lại quả đồi năm xưa với mong muốn “Tự tay trồng kín thông trên
những quả đồi sỏi đá và đầy mảnh bom đạn cùng với những quả mìn còn sót
lại”[53, tr 55]. Và ông cũng mong muốn được yên nghỉ vĩnh viễn nơi đây. Bởi
chính trên quả đồi này, năm 1972, sau một trận đánh, cả tiểu đội của ông chỉ
sót lại một người – là ông. “Đêm ấy trời đầy sao. Cả vùng đồi im phăng phắc.
Ông gượng ngồi dậy. Và tróng sáng mờ của sao và trăng đầu tháng, ông nhận
ra đồng đội đang nằm như ngủ bình yên trên đỉnh đồi. Ông đã cất tiếng gọi.
Tất cả đã hi sinh”[53, tr 48]. Tiếng gọi của ông đêm ấy trên những quả đồi trơ
trụi vang vọng mãi đến tận bây giờ “Những đêm trăng sáng, ông thường ngồi
im lặng nhìn lên đỉnh đồi, và ông nghe tiếng đồng đội gọi mình”[53, tr 49]....
“Trong cơn mê sảng ông thấy đồng đội mình ôm súng nằm phủ kín quả đồi.
Ông đi lang thang trên những quả đồi và gọi tên đồng đội. Không ai trả lời
ông. Tất cả đã ngủ mãi mãi trên những quả đồi kia” [53, tr 52]. Đây cũng chính
là nơi ông đã chôn cất đứa con của mình – đứa bé không thành người khi lọt
lòng mẹ vì di chứng của chiến tranh. Cũng là nơi mà một lần nữa ông phải
chứng kiến cái chết của Hoa – cô ý tá ông đem lòng yêu mến đã chết bởi một
quả mìn còn sót lại trong chiến tranh. Giờ đây, những cây thông đã mọc kín
trên những quả đồi trọc sỏi đá cằn khô. Nhưng có lẽ vết thương lòng, khoảng
trống mênh mông trong con người ông thì không gì khỏa lấp được. Còn trong
“Ngựa trắng”, quả đồi, rừng thông – chiến trường lại là nơi bắt đầu tình yêu
của một người lính và một cô gái vùng sơn cước. Không gian ấy thật lãng mạn
và đầy thơ mộng “Trong ánh trăng trong vắt và như đọng hương cỏ, anh bỗng
nghe từ chân đồi ngân lên tiếng ngựa hí... chợt nhận ra trong ánh sáng đang
ròng ròng từ trời cao chảy xuống và trên nền cỏ xanh như nước, một vệt sáng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
66
trắng như bạc loang loáng lướt đi”[53, tr 238]. Chính ánh trăng ấy, âm vang
tiếng ngựa hí ấy đã đưa Huy đến với Mỵ. Để rồi sau hơn hai mươi năm, kể từ
ngày Huy nhận lệnh chuyển quân, rời xa vùng đồi ấy, âm thanh đó vẫn luôn
lanh lảnh trong anh – hình ảnh người thiếu nữ vẫn rung lên từng đợt. Và rồi anh
lại chọn mùa trăng để trở lại đây và “Tiếng ngựa hí lại tiếp tục vang lên. Anh
nín thở lắng nghe để tìm lấy một chút quen thuộc nào đó trong âm thanh kia.
Bỗng từ trong kí ức anh, tiếng ngựa hí cứ từng đợt, từng đợt rung lên và lung
linh. Anh thấy từng đợt sóng cứ cuồn cuộn dâng lên trong da thịt anh. Anh lao
về phía chân đồi nơi có tiếng ngựa hí trong đêm. Anh vấp ngã sõng soài. Anh
chồm dậy và chạy. Tiếng hí cứ triền miên ngân vang trong miền ký ức anh”[53,
tr 248]. Anh đã gặp lại Mỵ trong ngôi nhà trên đất đồi nhợt nhạt trong ánh trăng
đêm ấy. Cuộc hội ngộ muộn màng trong nức nở nhưng hạnh phúc ngập tràn đã
bù đắp cho họ bao đau khổ, mất mát bởi sự li tán của chiến tranh.
Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều là không
gian của cuộc sống thường ngày với ngôi nhà, khu vườn, bãi sông, triền đê, ...
Chính sự tác động của yếu tố kì ảo đã làm cho không gian của cõi trần ấy mang
không khí hư ảo, nhòe mờ để ma quỷ xuất hiện và người sống có thể gặp người
chết. Với không gian sông nước và những khu vườn ruộng hoang vu phần lớn
được lấy cảm hứng từ sông Đáy, làng Chùa quê hương tác giả. Như trong một
bài phỏng vấn, nhà văn đã nói “Mỗi người đều có một mối liên hệ vừa mơ hồ,
vừa bí ẩn, vừa thiêng liêng và vừa uy quyền với nơi chôn nhau cắt rốn của
mình... mối liên hệ này được tạo dựng lên bởi rất nhiều yếu tố vừa cụ thể vừa
mơ hồ: ký ức, kinh nghiệm, phong tục, văn hoá, ẩm thực, thổ ngữ, dòng họ,
hàng xóm, những ngôi mộ, con sông, cánh đồng, đình làng, những câu chuyện
ma thuở nhỏ, những đầm nước, những năm tháng đói rét, những cơn ốm đau,
mối tình thuở học trò, những người đàn bà tắm trần trên bến sông, những phiên
chợ, những đám tang, những thôn nữ tóc dài, ngực nở rắn chắc tưởng chỉ chạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
kẽ là mang thai, những nhân vật đặc biệt của làng” (Dẫn theo [58]). Với
67
ông,“Tất cả những thứ đó đã dựng lên một không gian sống động và huyền ảo
mà chúng ta không thể lớn lên nếu không có một không gian như thế và không
thể nào đi ra khỏi không gian đó nếu muốn làm người có chút gì lương
thiện”(Dẫn theo [58]). Còn không gian rừng núi lại đưa ta trở về với khung
cảnh chiến trường xưa với những hoài niệm và cả sự day dứt bởi nỗi đau do
chiến tranh để lại, như nhắc nhớ mỗi con người không được phép lãng quên
quá khứ. Nếu không gian sông nước và những khu vườn ruộng hiện lên đầy
biến ảo, vừa hoang lạnh, rợn người với hồn ma hiện hình, vừa yên ả, thơ mộng,
thì không gian rừng núi mang tính thuần nhất hơn.
2.3. Thời gian kì ảo
Cũng giống như không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là hình thức
bên trong của hình tượng nghệ thuật. Theo Trần Đình Sử: “Thời gian nghệ thuật
làphạm trù của hình thức nghệ thuật, thể hiện phương thức tồn tại và triển khai
thế giới nghệ thuật… là thời gian được cảm nhận bằng tâm lí qua chuỗi liên
tục các biến đổi có ý nghĩa thẩm mĩ xảy ra trong thế giới nghệ thuật” [43, tr
62]. Do được xây dựng bằng ngôn ngữ nghệ thuật nên thời gian trong tác phẩm
dễ dàng biến đổi linh hoạt. Thời gian có thể được trần thuật cùng chiều với thời
gian tự nhiên, nhưng cũng có thể đi ngược từ hiện tại trở về quá khứ bằng hồi
tưởng. Điều đó tạo nên sự vận động và tính quá trình đa dạng của hình tượng
văn học mà các loại hình nghệ thuật khác khó đạt đến được. Thời gian kì ảo
trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều bao gồm thời gian tâm tưởng và thời
gian huyền thoại.
2.3.1. Thời gian tâm tưởng
Thời gian tâm tưởng trong truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều xuất
phát từ những vùng không gian cảm quan chủ quan của nhân vật. Vì vậy, nó
không tuân theo trình tự thông thường mà theo quy luật của tâm lý. Nó luồn
sâu vào mọi ngõ nghách của đời sống và tâm hồn nhân vật, đưa nhân vật đi từ
trạng thái này sang trạng thái khác; có thể là vui, có thể là buồn, giận hờn, oán Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
68
trách; có lúc lại để nhân vật tự nhìn lại bản thân mình, tạo sự sinh động cho câu
chuyện. Đó tâm tưởng của những giấc mơ, miền ký ức, của những câu chuyện
xa xưa được các nhân vật nhớ lại. Con người trong thời gian ấy cứ thoắt ẩn
thoắt hiện, xuất nhập để khám phá thế giới, tìm lại niềm khao khát yêu thương,
ý nghĩa đích thực của cuộc sống, và hơn hết họ muốn tìm lại chính mình trong
mê cung nội tâm ấy. Sự chồng chéo của các lớp thời gian quá khứ và hiện tại
vì thế xuất hiện nhiều trong truyện ngắn của ông. Đến với “Hai người đàn bà
xóm Trại”, người đọc không khỏi ngậm ngùi cho số phận hai người đàn bà lẻ
loi, quạnh vắng trong căn lều nhỏ nơi bến sông. Từ lúc thanh xuân cho đến khi
trở thành hai bà lão, họ chưa bao giờ có dịp gặp lại người chồng thân yêu của
mình. Chiến tranh khiến họ không thể hưởng trọn vẹn hạnh phúc được làm vợ,
làm mẹ. Câu chuyện luôn có sự đan cài giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ được
nhắc đến thuộc về thời gian của mấy chục năm về trước. Khi đó Ân và Mật còn
rất trẻ, mới ngoài hai mươi. Họ đã tạm biệt người chồng thân yêu để các anh
vào bộ đội. Và cũng kể từ đó là những chuỗi ngày chờ đợi đằng đằng, nhất là
lúc tết đến. Họ hạnh phúc, rạo rực gói bánh chưng và hồi hộp lạ lùng mong
nhớ, rồi âu lo, thở dài và cuối cùng là những giọt nước mắt chứa chan, các anh
đã không về. Những giấc mơ khắc khoải nỗi chờ mong, hi vọng để rồi thất vọng
cứ thế đi theo thời gian. Giờ đây, hai chị em – hai bà bão vẫn sống như vậyvẫn
gắn chặt họ với ngôi nhà nhỏ và bến sông, tết đến vẫn gói ba chục cái bánh
chưng vì “nhỡ có ai về”. Có lẽ những miền ký ức, niềm hi vọng mong manh
vào một phép màu kỳ diệu nào đó sẽ đến ấy đã đem đến nguồn sống của họ.
Câu chuyện khiến ta nhói đau, ở đâu đó khuất nẻo nơi bến vắng vẫn còn những
người vợ, người mẹ sống lầm lũi, hao gầy trong nỗi đau, sự mất mát, chia lìa
không gì có thể bù đắp. Còn bất hạnh nào hơn đối với người phụ nữ khi mãi
mãi chôn vùi thiên chức thiêng liêng làm vợ, làm mẹ dưới lòng đất sâu của quá
khứ. Ông Miêng (Lời hứa của thời gian) luôn tưởng nhớ về chiến trường xưa
và những người đồng đội đã hi sinh. Vì “lời hứa” – tình đồng chí thiêng liêng
giữa lúc cái sống và cái chết cận kề ấy, ông đã quyết tâm “Tự tay trồng kín Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
69
thông trên những quả đồi sỏi đá và đầy mảnh bom đạn cùng với những quả mìn
còn sót lại”[53, tr 55] như một cách để bù đắp cho quá khứ đau thương. Còn
Huy (Ngựa trắng) bước ra khỏi cuộc chiến tranh với gia tài là mấy bộ quần áo,
những lá thư của gia đình, bạn bè, bức tranh con ngựa trắng và một miền ký ức
về một người con gái anh đã gặp nơi đóng quân đang giơ cao chiếc đèn chai
với đôi mắt mở to, đen thẳm; tiếng gió rít từng hồi qua đỉnh đồi cùng tiếng ngựa
hí ngân lên lanh lảnh. Chính những cơn mộng mị mà anh phải đối diện hàng
đêm như thế đã đưa anh trở lại vùng đồi kia “Anh muốn được ngồi trên đỉnh
đồi này, nơi anh ngồi hơn hai mươi năm trước, để được ngắm nhìn quả đồi
thiêm thiếp trong trăng và mong được vô tình nghe thấy tiếng ngựa hí”[53, tr
247]. Ký ức của nhân vật anh trong “Gương mặt thứ ba” lại là sự ám ảnh chất
chứa nhiều xót xa, mặc cảm tội lỗi của một người đàn ông – người chồng về
một phút yếu lòng đáng xấu hổ mà tuổi trẻ đã gây ra “Đêm trăng mùa hè năm
1974 cứ hiện lên trong ký ức anh một màu tối sầm sập. Anh không lý giải được
điều gì trong quá khứ của anh và cũng không sao rũ bỏ được sự hoảng sợ. Anh
quyết định chạy chốn trong ý thức về không gian”[53, tr 293]. Nhưng tiếng gọi
da diết, đơn côi, tội nghiệp của Xuyến đã gọi anh trở về sau gần ba năm im lặng
xa cách. Thế nhưng, khi anh chạm vào da thịt cô thì ký ức xưa lại trở về. “Nó
như một khối đen xù xì và ượt lạnh... một gương mặt thứ ba mỏng như khói phủ
lên mặt vợ anh. Nó thoang thoáng gương mặt của người lính đã đi vào mặt trận
một mùa hè chiến tranh và không bao giờ trở về. Nó thoang thoáng gương mặt
của người đàn bà vợ lính đã mất... Anh thấy chiếc lưỡi lê lóe sáng như hàm
răng của người điên cười anh. Và anh bị một bàn tay vô hình túm tóc mình mà
dúi đầu anh vào đáy hồ của sự kinh hãi” [53, tr 294]. Và một lần nữa, anh lại
quyết định ra đi, ra đi để “làm một người bình thường”. Ở đây nhà văn đã để
cho nhân vật của mình liên tục có sự “di chuyển” từ quá khứ đến hiện tại trong
sự mẫu thuẫn giằng co: Ở bên Xuyến thì quá khứ giày vò, ra đi chịu sự trừng
phạt của quá khứ thì lại cảm thấy có lỗi với người vợ tội nghiệp. Đó cũng chính
là tiến trình của của sự tự nhận thức, sám hối. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
70
2.3.2. Thời gian huyền thoại
“Thời gian huyền thoại là thời gian được tạo nên bằng phương thức huyền
thoại hóa thời gian. Theo đó thời gian được tổ chức không nhằm vào việc hướng
người đọc vào một thời gian cụ thể có ý nghĩa đối với diễn biến cốt truyện mà
là thời gian đậm chất hư ảo. Nói cách khác đó là cách “hư hóa thời gian thực”
(Dẫn theo [57, tr 72] ). Theo Bùi Thanh Truyền thì “điều này có nghĩa là các
chiều kích thời gian cùng đồng quy trên tác phẩm, những đơn vị thời gian cụ
thể (nếu) cũng bị “hư hóa” tạo thành những vòng sóng mờ ảo, lung linh” [59,
tr 112]. Hầu hết các truyện ngắn trong tập“Cô gái áo xanh, những chuyện kì bí
của làng”của Nguyễn Quang Thiều đều sử dụng rất nhiều trạng ngữ chỉ thời
gian. Các mệnh đề chỉ thời gian thường bắt đầu bằng những từ chỉ lượng không
xác định chẳng hạn như: mỗi, nhiều, những, … hoặc những trạng từ mang tính
phiếm chỉ kiểu như: Ngày ấy, từ năm đó, từ ngày đó, đến một ngày, mấy năm
nay, sau một thời gian, vào những năm tháng xa xưa, rồi một ngày, không biết
từ khi nào , cho đến một ngày, những đêm sau, vào một năm từ lâu lắm rồi,sáng
hôm sau, cho đến một ngày, … Thời gian vì thế đã bị mơ hồ hóa trở thành phi
thực, đầy biến ảo. Truyện “Ma đưa lối” được bắt đầu “vào một năm từ lâu lắm
rồi”, khi nạn đói lan rộng đến làng như một bệnh dịch và kết thúc bằng “cho
đến tận ngày nay”. Truyện “Ma cây duối” cũng được mở ra từ thời gian “đã
rất lâu rồi” và khép lại bằng “bây giờ”. Cách tổ chức thời gian như thế cũng
được lặp lại ở “Người chèo đó bí ẩn”, câu chuyện được bắt đầu từ “Vào những
năm tháng xa xưa” và kết thúc “cho đến tận ngày nay”...Thông qua việc chú
trọng vào thời gian phiếm chỉ nhà văn dường như muốn xóa nhòa ranh giới
giữa các chiều thời gian để tạo ra cảm giác về thời gian tĩnh tại, ngưng đọng và
mang tính vĩnh hằng.
Nếu thời gian thực là ngắn ngủi, hạn định, ở đó cuộc đời con người ngắn
ngủi, mong manh như chiếc lá thì ở thế giới ảo, ở thời gian ảo, khả năng con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người được nhân lên, mở rộng thêm. Những hình ảnh, biểu tượng không gian
71
đó chỉ mang tính chức năng và nó gắn với một quan niệm nghệ thuật; nó là
công cụ để tác giả tạo ra sự cân bằng trong đời sống tinh thần, giúp con người
vượt qua áp lực từ đời sống hằng ngày. “Sự xuất hiện của cái kì ảo đóng vai trò
là nhân tố quyết định trong việc tạo ra nhu cầu hồi tưởng, xốc lại toàn bộ cuộc
đời đã qua của họ. Lúc này cái đầu của nhân vật như một màn ảnh rộng, ở đó
cả quá khứ, hiện tại và tương lai, cái có thực và cái ảo mộng cùng “đồng hiện”
[11, 81]. Đây là một giải pháp nghệ thuật mà tác giả Nguyễn Quang Thiều đã
sử dụng hiệu quả trong các truyện ngắn của mình. Và để góp phần tạo không
khí kỳ ảo cho câu chuyện, tác giả thường đặt nhân vật vào thời gian lúc đêm
khuya. Đó là thời khắc con người tạm dừng cuộc sống bề bộn của đời sống
thường để sống với chính mình. Huy (Ngựa trắng) đã nhiều đêm trăn trở “điều
mong muốn lớn nhất của anh đêm nay, đúng hơn là mấy chục năm qua, là bất
chợt trên thảm cỏ chạy ven đồi kia hiện lên một vệt sáng trắng. Cùng với vệt
sáng trắng lướt loang loáng dưới trăng là tiếng hí của con ngựa vang lên như
những tiếng chuông bạc”[53, tr 238]. Giấc mơ về những đứa con và người
chồng sự trở về vẫn đến hàng đêm với Ân và Mật dù thời gian đã trôi qua mấy
chục năm. Từ lúc còn là những cô gái đôi mươi đến khi họ trở thành những bà
lão (Hai người đàn bà xóm trại). Thời gian buổi đêm, nhất là những đêm trăng
sáng xuất hiện nhiều nhất trong tập “Cô gái áo xanh, những chuyện kì bí của
làng” khi những hồn ma trở về dương gian để thực hiện một tâm nguyện nào
đó chưa hoàn thành hoặc để giúp đỡ người còn sống, để trả ơn, báo oán... Tuy
nhiên, khi bóc lớp vỏ kỳ ảo bên ngoài của những câu chuyện thì đó lại là cuộc
sống trần thế với nhiều mầu sắc.
Tiểu kết chương 2
Sự tác động mạnh mẽ của yếu tố kì ảo đã làm cho thế giới hình tượng trong
truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều trở nên sống động, thu hút người đọc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Đặc biệt, với sự đa dạng của các loại hình nhân vật kì ảo cùng cách tả, cách kể
72
hư hư, thực thực, nhà văn đã tạo nên một “mô hình thế giới nghệ thuật kiểu
mới”; vừa thực vừa ảo.
Bên cạnh đó, việc tạo ra những không gian, thời gian kỳ ảo cho các nhân
vật xuất hiện, càng làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn, khơi gợi trí tò mò của
độc giả. Nhưng điểm đặc biệt, tạo nên sự độc đáo, khác lạ của truyện ngắn
Nguyễn Quang Thiều là khi bóc lớp vỏ kỳ ảo bên ngoài của những câu chuyện
thì ấy lại là cuộc sống trần thế với nhiều mầu sắc. Những bài học nhân sinh dần
hiện ra khiến ta phải suy ngẫm, trăn trở, thậm chí không khỏi “giật mình” khi
chiêm nghiệm về cuộc sống của chính mình.
CHƯƠNG 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CÁC YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TRUYỆN
NGẮN NGUYỄN QUANG THIỀU
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện kỳ ảo
Cuốn Từ điển Thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán chủ biên đưa ra khái
niệm: “Cốt truyện là hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo nhu cầu tư
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
tưởng và nghệ thuật nhất định tạo thành bộ phận cơ thể quan trọng nhất trong
73
hình thức động của tác phẩm văn học thuộc loại tự sự và kịch. Cốt truyện
không phải là yếu tố tất yếu của mọi tác phẩm văn học. Trong các tác phẩm
trữ tình, cốt truyện (với ý nghĩa chặt chẽ nhất của khái niệm này) không tồn
tại vì ở đây, tác giả biểu hiện sự diễn biến của tích cách, tâm trạng” [15, tr
586]. Trong tác phẩm 150 thuật ngữ văn học do Lại Nguyên Ân chủ biên, cốt
truyện được định nghĩa như sau: “Cốt truyện là sự phát triển hành động, tiến
trình các sự việc, các biến cố trong tác phẩm tự sự và kịch, đôi khi cả trong
tác phẩm trữ tình” [3, tr 112]. Trong cuốn Lí luận văn học do Hà Minh Đức
chủ biên, cốt truyện được hiểu là: “một hệ thống những diễn biến của cuộc
sống, và nhất là các xung đột xã hội một cách nghệ thuật, qua đó các tính
cách hình thành và phát triển trong những mối quan hệ qua lại của chúng
nhằm làm sáng tỏ chủ đề và tư tưởng tác phẩm” [12, tr 137].
Như vậy, cốt truyện được coi là một yếu tố quan trọng của tác phẩm
văn học, chi phối mạch nguồn cảm xúc của toàn bộtác phẩm,đặc biệt là ở thể
loại tự sự. Là một phương diện của hình thức tác phẩm nhưng cốt truyện lại có
vai trò không nhỏ trong việc bộc lộ chủ đề và tư tưởng của tác phẩm, việc thể
hiện tính cách nhân vật. Tuy nhiên, nếu trước kia, cốt truyện là tiến trình của
các sự kiện thì trong văn học đương đại, cốt truyện lại là hành trình của nhân
vật chính di chuyển qua các sự kiện khác nhau. Trong đó, yếu tố kì ảo là một
trong những phương tiện nghệ thuật hữu hiệu tạo sự lôi cuốn hấp dẫn cho tác
phẩm. Trong truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều, sự tham gia của yếu tố kì ảo
vào tác phẩm văn học đã chi phối nhiều đến cách thức tổ chức kết cấu của tác
phẩm tạo nên những tình huống truyện mới lạ, độc đáo; cốt truyện hấp dẫn góp
phần dựng nên một thế giới hình tượng đa dạng, đặc sắc.
3.1.1. Tình huống kỳ ảo
Nếu như cấu tứ, mạch cảm xúc là điểm tựa để người đọc khám phá và tìm
hiểu một bài thơ thì tình huống truyện chính là yếu tố tạo nên những bất ngờ và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
làm nên nét độc đáo cho truyện ngắn. Có thể xem đây là khâu then chốt trong
74
sáng tạo, đem đến sự thành công cho tác phẩm. Tình huống truyện chính là
hoàn cảnh để kết tinh xung đột truyện, khắc họa hình tượng nhân vật. Bởi vì
trong các tình huống truyện ấy, nhân vật gặp gỡ nhân vật để yêu thương hay
đấu tranh, và nhân vật gặp gỡ các sự kiện biến cố để bộc lộ bản chất thật hoặc
bộc lộ tính cách. Các tình huống kì ảo cũng mang ý nghĩa tương tự với các nhân
vật kì ảo. Sự xuất hiện của các hoàn cảnh kì ảo được xem như những tình huống
quan trọng tạo ra sự chuyển biến của cốt truyện. Nó gắn kết các nhân vật cùng
tham gia vào một sự kiện, một biến cố có ý nghĩa nào đó. Do “mọi cái kì ảo
đều là sự vi phạm trật tự quen thuộc, một sự đảo lộn không thể chấp nhận được
trong lòng những quy luật bất biến của đời thường”(Dẫn theo [19, tr 72]) nên
khi cái kì ảo xuất hiện, nó sẽ tạo ra sự “đứt gãy” của hiện thực khách quan, đặt
người đọc vào thế lưỡng lự hoang mang và buộc phải theo dõi quá trình diễn
biến của câu chuyện. Đây là dạng tình huống quen thuộc, thường xuất hiện
nhiều trong các câu chuyện cổ tích thần kì, hoặc những truyện ngắn liêu trai,
ma quái.
Trong tập truyện “Cô gái áo xanh, những chuyện kì bí của làng” của
Nguyễn Quang Thiều, người đọc cũng dễ dàng bắt gặp nhiều tình huống mà ở
đó tính chất hoang đường, kì lạ thể hiện đậm đặc, rõ nét. Đó là tình huống
những hồn ma hiện hình: Hồn ma cô gái trong “Lá bùa trừ ma” mỗi năm, vào
đêm trăng mùa hạ lại khỏa thân, lả lơi tắm trên sông. Cô làm thế để dụ những
gã đàn ông ham sắc dục, có định chiếm đoạt thân xác mình bơi theo rồi dìm
chết, hai hốc mắt đen ngòm, lưỡi thè ra đỏ như máu như một cách để cô trả thù
kẻ đã hãm hiếp mình. Còn ông thuyền chài không có ý định chiếm đoạt thân
xác cô thì vô sự. Rồi chiếc đò ma bí ẩn trong “Người chèo đò bí ẩn” đột ngột
hiện ra như từ đáy sông nổi lên giữa đêm khuya, cái đầu trọc lốc, bộ mặt trắng
như vôi, hai hốc mắt tối đen lừa người trong làng lên đò rồi dìm chết. Nhưng
cũng không có bất cứ người nào ở làng khác bị chết ở khúc sông này. Tiếp đến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
là hồn ma đứa bé trong “Ma cây duối” mắt to như hai cái chén mà chỉ có lòng
75
đen cất tiếng khóc nức nở từ gốc cây duối vọng ra ai oán khiến ai cũng khiếp
sợ. Trong “Đứa trẻ bị bỏ rơi”, hồn ma đứa trẻ chết đói năm 1945 đã nhập vào
những đứa trẻ sơ sinh để được bú mẹ. Khi nó ngậm vú của người mẹ bú thì
người mẹ thấy vú đau buốt. Đứa bé bú xong, người mẹ dường như kệt sức, đứa
trẻ bú cạn không còn giọt sữa nào trong hai bầu vú mình, cảm giác như mọi
sinh lực trong cơ thể mình đang ồ ạt chảy vào miệng đứa trẻ, còn mình thì trống
rỗng như một cái xác vô hồn. Sau một tháng, người mẹ trở nên xanh xao, gầy
còm rồi qua đời dù không bệnh tật gì. Và đứa trẻ cũng rời bỏ cuộc sống khi tròn
bẩy tháng tuổi...
Nhưng câu chuyện không chỉ dừng lại ở tình huống ma quái khiến mọi
người phải khiếp sợ mà sau mỗi tình huống ấy tác giả đều tìm cách lý giải, truy
tìm căn nguyên của nó. Đó cũng là lý do xuất hiện tình huống hóa giải lời
nguyền cuối truyện. Trong tình huống này, chúng ta thấy sự có mặt của những
ông thầy số, thầy tướng, thầy lang, thầy đồ ... Họ lý giải cho con người những
băn khoăn, khúc mắc trong lòng; chỉ cho người ta thấy cách thức hóa giải,
phòng tránh: để những hồn ma không trở về ám ảnh, quấy nhiễu dân làng thì
thì các xóm ở khúc sông đó phải thực sự nhận ra lỗi của mình và chân thành tạ
lỗi (Lá bùa trừ ma), hội đồng bô lão trong làng phải bỏ tục phạt vạ những cô
gái chửa hoang (Người chèo đò bí ẩn),... Thông điệp về cuộc sống nhờ thế càng
hiện lên rõ nét - là lời nhắn nhủ con người phải biết sống tốt, sống thiện, không
được làm điều ác trái với đạo lý bởi “Gieo gió sẽ gặp bão”.
Tuy nhiên, truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều không hoàn toàn chỉ
bao gồm các tình huống ảo mà còn đan xen kết hợp cả các tình huống thực.
Nhân vật “anh” trong “Gương mặt thứ ba” đã rơi vào một tình huống đầy éo
le. Anh đã trở lại, gặp và kết hôn với Xuyến. Đây chắc chắn sẽ là một câu
chuyện tình thật đẹp nếu như Xuyến không phải là con gái của người lính năm
xưa đã gửi gắm anh chăm sóc. Và nếu như không có chuyện gì xảy ra giữa anh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
và người vợ lính ấy. Tình huống trớ trêu này đã khiến anh luôn sống trong sự
76
giày vò, ám ảnh bởi “gương mặt thứ ba, thoang thoáng gương mặt người lính
đã đi vào mặt trận một mùa hè chiến tranh và không bao giờ trở về. Thoang
thoáng gương mặt của người đàn bà vợ lính đã mất”[53, tr 294]. Có lúc, anh
cảm giác như vòng tay người lính xiết chặt lấy mình, túm tóc mà dúi đầu anh
vào đáy hồ của sự kinh hãi. Sự đan cài lồng ghép hai mảng thực - ảo trong tình
huống này đã giúp nhà văn đi sâu khai thác những mảng sáng tối, những phần
lẩn khuất trong tâm hồn nhân vật, giúp người đọc hiểu thêm về một cuộc chiến
“không bom đạn, không chảy máu” nhưng đầy cam go của con người với chính
lương tâm của mình. Trong “Chiếc lông chim màu đỏ”, cô gái muộn chồng bởi
tự ti về sắc vóc của mình. Niềm tin vào bản thân và tình yêu chỉ đến khi đón
nhận một tình yêu thật chân thành, biết vì người mình yêu. Đó là khi chính
người kỹ sư đã bí mật thả chiếc lông chim đỏ duy nhất xuống đám lông của bầy
chim lớn bay về làng. Chiếc lông chim ấy nhỏ nhoi, nhưng mang theo cả một
huyền thoại của làng quê, làm cho cuộc đời cô thay đổi. Hay ở câu chuyện
“Ngựa trắng”, người thương binh tưởng vô vọng khi tìm lại cô gái nuôi con
ngựa trắng nơi năm xưa đóng quân. Cuộc hội ngộ tuổi xế chiều đi qua nhiều
mất mát của hai con người, cùng với con ngựa già nua bỗng như một phép màu
khiến tâm hồn họ hồi sinh... Ở đây, yếu tố kì ảo được nhà văn tạo ra không phải
bằng những hiện tượng siêu nhiên không giải thích nổi mà chính bằng việc
cường điệu, phóng đại một số chi tiết hoặc phẩm chất nào đó của hiện thực. Tác
giả lấy chất liệu ngay từ nền hiện thực này để tạo dựng một nền hiện thực khác
mà nhìn vào đó hiện thực nền tảng được soi sáng rất nhiều.
Như vậy, trong những truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều, không hiếm
để có thể tìm thấy những tình huống hoang đường, kì lạ. Tuy nhiên, nếu so sánh
với những tình huống hoang đường, kì lạ trong các tác phẩm văn học trước đây,
đặc biệt là trong những truyện cổ tích thần kì, rõ ràng có một sự khác biệt rất
lớn. Trong các truyện cổ tích, sự góp mặt của yếu tố kì ảo trong tình huống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
truyện nhằm dẫn dắt người nghe bước vào một thế giới hoang đường mà ở đó,
77
nhờ sự kì ảo, con người có thể dễ dàng thực hiện ước mơ của mình, làm thay
đổi số phận của nhân vật. Cả tác giả lẫn người đọc đều tin vào sự thần kì đó.
Còn trong các sáng tác văn học đương đại nói chung, truyện ngắn Nguyễn
Quang Thiều nói riêng, yếu tố kì ảo tuy xuất hiện nhưng cái thực vẫn nổi trội,
người đọc vẫn phân biệt rạch ròi đâu là thế giới của sự hư huyễn, đâu là sự thật
của cuộc sống. Vì thế, sự có mặt của yếu tố kì ảo góp phần giúp người đọc
khám phá những bộ mặt khác nhau của đời sống thực tại. Đằng sau những tình
huống truyện có vẻ hoang đường phi lôgic, đằng sau những ấn tượng kinh dị là
chủ nghĩa hiện thực sâu sắc, là giá trị nhân bản, là lời báo động đối với con
người về chính bản thân mình. Đúng như nhà văn đã nhận định “Khi viết truyện
ma, tôi thực hiện cách viết vén màn, tức là ban đầu tung hỏa mù lên rồi dần
dần con ma ấy hiện lên chẳng phải ai khác mà là con người”[20].
3.1.2. Kết cấu lồng ghép
Theo Lại Nguyên Ân: “Kết cấu tác phẩm văn học bao gồm việc phân bố
các nhân vật (tức là hệ thống các hình tượng), các sự kiện và hành động (kết
cấu cốt truyện), các phương thức trần thuật (kết cấu trần thuật như là sự thay
đổi các điểm nhìn đối với cái được miêu tả), chi tiết hóa các khung cảnh, hành
vi, cảm xúc (kết cấu chi tiết), các thủ pháp văn phong (kết cấu ngôn từ), các
truyện kể xen kẽ hay các đoạn trữ tình ngoại đề (kết cấu các yếu tố ngoài cốt
truyện)” [3, tr 170].
Cùng với nhiều nhà văn khác, Nguyễn Quang Thiều là người đã nỗ lực
tìm tòi thay đổi kết cấu cho tác phẩm tạo ra sức sống mới cho truyện ngắn
đương đại Việt Nam. Kết cấu truyện lồng trong truyện là một trong những điểm
đặc sắc nổi bật của truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều, đặc biệt là tập “Cô gái
áo xanh, những chuyện kì bí của làng”. Với các truyện có hai cốt truyện đan
xen thì cốt truyện thứ nhất thường là những câu chuyện đang diễn ra trong cuộc
sống hiện tại. Cốt truyện thứ hai kể về một sự kiện xảy ra trong quá khứ và tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
giả là người được nghe lại câu chuyện. Một đặc điểm đáng lưu ý nữa là ở những
78
tác phẩm có kết cấu truyện lồng trong truyện thì hai câu chuyện trong một
truyện không tách rời mà luôn được đan xen vào nhau một cách linh hoạt tạo
ra ấn tượng về sự chân thực của chuyện được kể, kéo độc giả lại gần với thế
giới nghệ thuật của tác phẩm hơn, đồng thời tạo sự sinh động cho truyện. Mặt
khác, sự đan cài hai câu chuyện vào nhau là một cách thức tạo sự luân phiên
điểm nhìn, góp phần làm cho con người nhân vật (nhất là thế giới nội tâm của
nó) được xem xét dưới nhiều góc độ và được xây dựng một cách tự nhiên hơn.
Đó chính là thế mạnh của kết cấu truyện lồng trong truyện, góp phần tạo dựng
cho truyện một nghệ thuật trần thuật hiện đại.
“Lá bùa trừ ma” có hai câu chuyện đan lồng nhau. Chuyện về hồn ma của
một cô gái, cứ vào những đêm trăng mùa hạ lại khỏa thân tắm trên sông, vừa
bơi, vừa dụ những người đàn ông ra giữa sông rồi dìm chết. Và chuyện về một
cô gái xóm Trại bị cưỡng dâm dìm chết trên sông. “Tiếng phấn rít trên bảng
đen” là chuyện về hồn ma đêm đêm lại vào làng than khóc, đến nhà nào là lấy
những ngón tay móng dài cào ngang dọc lên tất cả các cánh cửa gỗ. Và chuyện
về người thầy giáo trường làng đã dũng cảm lên tiếng tố cáo chế độ thực dân
Pháp, bị bọn chúng giết chết gục ngã dưới chân tấm bảng đen khi trên tay vẫn
cầm viên phấn trắng. “Người chèo đò bí ẩn” kể về một con đò ma từ đáy sông
nổi lên lừa người làng lên đò rồi dìm chết. Và câu chuyện “có thật” xảy ra ở
làng về một cô gái chửa hoang bị làng phạt vạ cạo đầu bôi vôi, thả bè trôi sông.
Trong “Đứa trẻ bị bỏ rơi”, nhà văn đã lồng câu chuyện một năm sau nạn đói
năm 1945 với câu chuyện về một chiều đông năm 1945. Câu chuyện thứ nhất
gắn với cái chết của ba người phụ nữ trong làng và những đứa trẻ, con của họ
khi bước sang bẩy tháng tuổi. Cùng với đó là cơn ác mộng của những cô gái trẻ
mới lấy chồng. Họ thấy một đứa bé khoảng bẩy, tám tháng tuổi tìm đến nhìn
họ với đôi mắt buồn bã, u uất và đòi họ cho bú. Câu chuyện thứ hai kể về một
sự việc đau lòng xảy ra trong quá khứ. Đó là một chiều đông năm 1945, trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
một đoạn đê sông Đáy có một người phụ nữ nằm chết đói trên rệ cỏ. Bên cạnh
79
là đứa bé chừng bẩy tháng tuổi chỉ còn da bọc xương khóc không thành tiếng.
Đứa bé mở to đôi mắt tơ non vô hồn mỗi lúc một giá lạnh cầu cứu những người
đi qua. Nhưng chẳng ai cúi xuống bế đứa trẻ lên. Đến chiều tối thì đứa bé ấy
vĩnh biệt cuộc sống.
Ở những truyện ngắn có kết cấu lồng ghép trên, yếu tố kì ảo nằm trong
câu chuyện thứ nhất được kể lại bởi người bà, người mẹ hoặc một người quen
biết của nhân vật tôi. Nó vừa giữ vai trò gợi chuyện (thắt nút), vừa tham gia
vào toàn bộ quá trình diễn biến câu chuyện và cũng đóng vai trò giải quyết vấn
đề (tháo nút) của truyện. Nếu cắt bỏ yếu tố kì ảo sẽ khiến câu chuyện kém sức
hấp dẫn hoặc không thể hiện được tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Như trong
“Lá bùa trừ ma”, sau khi chết tức tưởi của cô gái xóm Trại bởi gã đàn ông dâm
ô, linh hồn cô đã không thể siêu thoát mà trở lại dương gian để trả thù. Tại khúc
sông nơi cô bị cưỡng bức rồi vứt xác, hồn ma của cô đã hiện lên dìm chết tất
cả những gã đàn ông nào ham sắc dục có ý định chiếm đoạt thân xác cô. Cuối
truyện, nhờ ông lang Chất với lá bùa trừ tà ma - lời xin lỗi chân thành dành cho
cô gái, linh hồn cô đã được siêu thoát và thanh thản ra đi. “Người chèo đò bí
ẩn” được bắt đầu bằng một sự việc kỳ lạ “Cứ vào giữa đêm thì từ dưới sông
nổi lên một con đò”[56, tr 59]. Tiếp đến là một loạt những điều hãi hùng xảy
ra: tiếng người chèo đò khóc, rồi lại cười khúc khích, khi bỏ chiếc nón ra thì
một cái đầu trọc với gương mặt trắng như vôi và hai hốc mắt tối đen hiện ra,
con đò chao đảo, tan biến mất, những người làng bị lừa lên con đò ma rồi dìm
chết cứ thế trong nhiều năm. Đến khi hội đồng bô lão sửa lễ dâng thành hoàng
làng, đọc sớ xin bỏ tục phạt vạ các cô gái chửa hoang thì chiếc đò ma và người
lái đò lạ lùng ấy mới không xuất hiện nữa. Tương tự như vậy, “Đứa trẻ bị bỏ
rơi” cũng bắt đầu từ một hiện tượng lạ: những đứa bé sơ sinh trong làng khi
sinh ra không khóc, cứ mở to đôi mắt nhìn tất cả những ai đến gần. Khi nó
ngậm vú của người mẹ bú thì người mẹ thấy đau buốt, dường như kệt sức. Sau
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
một tháng, người mẹ trở nên xanh xao, gầy còm rồi qua đời. Và đứa trẻ cũng
80
rời bỏ cuộc sống khi tròn bẩy tháng tuổi. Cả làng sống trong nỗi sợ hãi. Cuối
cùng một ông giáo già đã tìm ra hồn ma đó chính là linh hồn của đứa trẻ chết
đói năm 1945 đã nhập vào những đứa trẻ sơ sinh để được bú mẹ. Và lễ cúng
đặc biệt đã được thực hiện: những người phụ nữ của làng đang nuôi con được
triệu về, vắt sữa mình vào chiếc bát, đặt cùng hoa quả, bỏng gạo, nước, muối
lên một chiếc chiếu để trên mặt đê, nơi đứa bé đã chết. Câu chuyện kết thúc
bằng sự mừng vui của dân làng khi những đứa trẻ được sinh ra bình thường.
Xây dựng kiểu cốt truyện lồng ghép này, Nguyễn Quang Thiều có điều
kiện thuận lợi để thực hiện các dạng biến hóa, nhòe hoá nhân vật. Nhân vật
luôn được đặt chập chờn giữa hai mảng thực - ảo, sáng - tối, tạo ra được những
điểm nhìn phong phú về con người và thế giới. Cũng hướng kết cấu này, tác
giả còn cắt dán nhiều loại văn bản trong một tác phẩm, nhiều câu chuyện trong
một câu chuyện, từ đó mở rộng không gian nghệ thuật của tác phẩm. Tóm lại,
đến với những truyện này, người đọc như lạc bước vào trong thế giới cổ tích,
huyền thoại xa xưa mà những điều kì diệu, nhiệm màu đều có thể xảy ra. Người
sống có thể gặp lại người thân đã mất, nhân vật khó khăn được sự giúp đỡ của
thế giới siêu nhiên, nhân vật vượt qua thử thách và kết thúc có hậu - những
chuỗi diễn tiến của truyện cổ tích thần kì đều có mặt trong các truyện kể trên.
Song, mượn cái vỏ ngoài của sự tưởng tượng bay bổng đó, tác giả muốn phô
bày hiện thực của đời sống, giãi bày những nỗi niềm trăn trở, những ước mơ
của con người về một cuộc sống nhân văn hơn, đáng sống hơn, ở đó cái xấu,
cái ác sẽ bị đấu tranh tiêu diệt. Như chính tác giả từng tâm sự “Điều cuối cùng
đọng lại từ những câu chuyện ma ấy lại chính là việc hướng con người ta tới
cái thiện”[20]. Cái kì ảo vì thế đã trở thành một phương thức khám phá hiện
thực, tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho tác phẩm.
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3.2.1. Ngôn ngữ
81
Ngôn ngữ đóng vai trò là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính
đặc trưng của văn học. “Không có ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm văn
học, bởi vì chính ngôn ngữ chứ không phải cái gì khác đã cụ thể hoá và vật
chất hoá sự biểu hiện của chủ đề và tư tưởng, tính cách và cốt truyện. Ngôn
ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng
tạo tác phẩm; Nó cũng là yếu tố xuất hiện đầu tiên trong sự tiếp xúc của người
đọc với tác phẩm” (Dẫn theo [19, tr 92]). Còn theo Pôxpêlôp “ngôn ngữ là
một trong ba phương diện cơ bản tạo nên sự thống nhất của hình thức tác
phẩm” (Dẫn theo [19, tr 92])
Với tư cách là những thể loại gắn liền với từng đổi thay của đời sống xã
hội thì ngôn ngữ trong truyện ngắn kì ảo, ngoài in đậm dấu vết chuyển mình
của một giai đoạn văn học đầy sôi động nó còn mang đặc trưng riêng do sự tác
động của yếu tố kì ảo. Không nằm ngoài “mạch chảy” đó, ngôn ngữ truyện
ngắn của Nguyễn Quang Thiều đã khẳng định cá tính sáng tạo của nhà văn.
Tìm hiểu hệ thống ngôn ngữ có yếu tố kì ảo trong hai tập truyện “Cô gái áo
xanh, những chuyện kì bí của làng”,“Mùa hoa cải bên sông”, chúng tôi nhận
thấy Nguyễn Quang Thiều rất chú trọng miêu tả thứ ngôn ngữ nằm giữa đường
biên của hư và thực, bình thường và linh dị nhằm diễn tả một thế giới kì bí, đầy
thách thức đối với trí tuệ, tình cảm con người.
Đập ngay vào giác quan để rồi ám ảnh không dứt tâm trí người đọc trước
hết là ở hệ thống nhan đề tác phẩm. Theo Vưgôtxki,“Tên gọi được đặt ra cho
truyện đương nhiên không phải là vô ích. Nó chứa đựng trong bản thân sự triển
khai chủ đề quan trọng nhất, nó đề xuất cái chủ chốt định ra toàn bộ cơ cấu
truyện kể” (Dẫn theo [62]). Ngoài ra, nó còn là một trong những dấu hiệu quan
trọng để phân biệt truyện có yếu tố kì ảo, là “cú huých” đầu tiên vào tâm lí, thị
hiếu độc giả, gây nên ở họ một loạt “phản ứng dây chuyền” bằng cách buộc sự
tưởng tượng và ý nghĩ phải mở rộng đến những biên giới xa lạ. Đó làm cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
nhận của độc giả khi đọc các tác phẩm Lá bùa trừ ma, Ma cây duối, Ma ăn
82
trộm, Ma đưa lối, Sinh con với người chồng đã chết, Tiếng kêu cứu của một
hồn ma, Mang tên họ của người chết, Dấu chân của một người đã mất, Đá
bóng với người âm,... Hàng loạt những điều vừa lạ vừa quen, vừa vô lí lại vừa
có lí… đã gợi lên ngay từ tên gọi đó: Tại sao lại xuất hiện những linh hồn? Tại
sao hồn ma lại kêu cứu? Có thể sinh con với người đã chết được không?...Và
tiếp tục truy tìm lời giải đáp cho những câu hỏi. Để rồi nhận ra rằng khi màn
sương huyền ảo ấy được vén lên thì cuộc sống với bao trăn trở đã hiện ra. Đó là
cách viết vén màn độc đáo của tác giả, tức là ban đầu tung hỏa mù lên rồi dần
dần hồn ma ấy hiện lên chẳng phải ai khác mà là con người.
Tiếp đến là sự xuất hiện những phó từ chỉ tính chất bất bình thường hoặc
thoắt ẩn thoắt hiện của sự vật như: bỗng, đột ngột, thoáng một cái, trong chớp
mắt, chợt,… Đằng sau đó là những động từ mà khi chúng kết hợp với nhau tạo
ra không khí kỳ ảo, ma quái cho câu chuyện và gây bất ngờ với người đọc.
Đó là sự xuất hiện đột ngột của một sự việc kì lạ: “Một thời gian sau ngày
cô mất, người làng bỗng phát hiện có một cô gái khỏa thân thường tắm trên
sông vào những đêm mùa hạ có trăng” [56, tr 13]. “Bầu trời đột ngột xuất hiện
một vầng trăng. Ánh trăng không biết bằng cách nào lọt qua ngôi nhà rọi vào
đứa bé, toàn thân đứa bé tỏa một thứ ánh sáng xanh biếc”[56, tr 38]. “Khuya
lại thấy một con đò đột ngột hiện ra như từ dưới đáy sông nổi lên cùng với
người chèo đò đội chiếc nón che kín mặt”[56, tr 63]. “Chúng tôi chợt kêu lên
trong sự sợ hãi và tưởng như tất cả òa khóc vì một cảm giác lạ lúng xâm
chiếm:“Thằng Đúc”[56, tr 145].
Hay sự biến mất đột ngột “Có một ông phó cối đi qua làng, nhìn ông Thái
Lan đang chơi cờ tướng ở hiên nhà, thở dài mà nói... Nói rồi bước đi, thoáng
một lúc đã không thấy đâu”[56, tr 21]. “Chỉ trong chớp mắt khi người khách
thiên hạ qua đò chưa kịp nói lời cảm ơn thì con đò đã biến mất như chưa hề
có”[56, tr 64]. “Rồi chỉ trong nháy mắt, bóng người mặc quần áo trắng đó
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
đã vút lên ngọn cau, xé một dẻ cau rồi lại nhẹ nhàng nhảy xuống đất”[56, tr
83
136]. “Người lính bước lên bờ và thoáng một cái đã không thấy đâu nữa”[56,
tr 154].
Hoặc thuật lại các sự kiện lạ lùng diễn ra khiến những nhân vật khác cũng
phải kinh ngạc: “Ông thấy lạ lùng khi nhận ra rằng cả khi ông ngừng chèo thì
con đò vẫn nhẹ nhàng lướt trên mặt sông. Chỉ một loáng sau ông đã thấy con
đò cập bến”[56, tr 154].
Có khi đó là sự phá vỡ một trạng thái đang tĩnh lặng của không gian hoặc
thời gian: “Ông thấy con đò đang trôi trong một thế giới nào đấy. Bỗng ông
nghe thấy người chèo đò khóc”[56, tr 61], “Người chèo đò vừa chèo đò lại chợt
cười khúc khích và chợt khóc như trẻ sơ sinh” [56, tr 63], “Trong hương thơm
của thị, chúng ngửi thấy một mùi tanh khủng khiếp. Sau một hồi chết lặng, bỗng
tất cả đứa trẻ đều kêu lên “Ma, ma” và vùng bỏ chạy”[56, tr 89], “Bỗng trong
tiếng hát của lão Kìm vang lên tiếng trẻ sơ sinh khóc như xé vải” [56, tr 130],
“Bỗng anh nghe tiếng trẻ cười khúc khích như đang chơi đùa với ai đó”[56, tr
194].
Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều còn xuất hiện dày đặc các trạng từ chỉ
thời gian, không gian chứa đựng sắc màu kì ảo. Đó là không gian ngôi mộ, bãi
tha ma, dòng sông, khu vườn hoang... Gắn với những không gian này là một
loạt các hiện tượng li kì, huyền bí xảy ra: Bến sông trở thành nỗi ám ảnh, sợ
hãi của dân làng bởi sự hiện hình của những hồn ma; khu nhà hoang, nơi tập
trung của lũ chó mèo hoang với tiếng kêu gào như tiếng người trong đêm, mùi
tanh tưởi, hôi thối khủng khiếp đã thêu dệt nên biết bao chuyện kỳ quái; hay
một cây duối khổng lồ giữa cánh đồng tua tủa rắn,...
Còn thời gian kì ảo thường được miêu tả vào ban đêmvì đây là thời điểm
lí tưởng để những điều lạ lùng, li kì diễn ra. “Một thời gian sau ngày cô mất,
người làng bỗng phát hiện có một cô gái khỏa thân thường tắm trên sông vào
những đêm mùa hạ có trăng” [56, tr 13]; “Cứ mười hai giờ đêm, hồn ma lại
trở về làng than khóc và cào những ngón tay sắc như thép lên các cánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
84
cửa”[56, tr 51]; “Cứ vào giữa đêm thì dưới sông lại nổi lên một con đò”[56,
tr 61]; “Một đêm vào khoảng canh ba, trong giấc ngủ chập chờn, ông Dụ thấy
một người ăn mặc rách rưới đứng ở cuối giường nhìn ông”[56, tr 166]...
Cả trạng từ không gian và thời gian kì ảo đều có vai trò làm tăng chất
huyễn hoặc cho câu chuyện, đồng thời cũng tạo ra không khí pha màu sắc ma
quái, đầy li kì và có sức hấp dẫn lớn với đối tượng tiếp nhận.
Thêm vào đó là mạng lưới từ ngữ “đầy ma lực”: bí ẩn, linh hồn, siêu thoát,
kì bí, thần phật, ma nhập, vía, hài cốt, … Kèm với chúng là những từ ngữ chỉ
cảm giác bất an, nỗi lo âu, sợ hãi bản năng của con người: lạnh toát hết người,
rờn rợn, rợn tóc gáy, ớn buốt sống lưng, hoảng hốt, co rúm người lại, dựng cả
tóc gáy, thất kinh, kinh hoàng,...
Sự chi phối của cái huyền ảo, siêu nhiên còn được thể hiện qua rất nhiều
biệt ngữ miêu tả một số tục lệ, tín ngưỡng: bùa, lập đàn tế lễ, bùa trừ ma, phong
thủy, điềm báo, lời nguyền, tục phạt vạ, cúng hồn, xá tội vong nhân, thủy táng,
mai táng, khấn vái, thắp hương,…
Rõ ràng việc lặp lại với tần số lớn những ngôn từ nghệ thuật trên chính là
một biểu hiện rõ rệt của khuynh hướng kì ảo trong sáng tác của Nguyễn Quang
Thiều. Tác giả đã trộn hoà cái thực và cái ảo một cách khá nhuần nhuyễn khiến
cho ý tưởng ẩn chìm vào mê trận ngôn từ, hư đấy mà cũng là thực đấy, bắt buộc
người đọc phải lần đến đầu mút của vấn đề bằng cách tái dựng lại cấu trúc tác
phẩm theo cách tiếp nhận của mình. Việc làm này đã gia tăng khả năng đồng
sáng tạo ở độc giả, khiến tác phẩm tồn tại trong mỗi người không đơn nhất mà
đa dạng, nhiều màu vẻ tuỳ vào tầm đón đợi sẵn có của họ.
3.2.2. Giọng điệu
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì“Giọng điệu là thái độ, tình cảm,
lập trường, tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
hiện trong lời văn, quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm,
85
cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm.
Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ
của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền
cảm cho người đọc”[15, tr 112]. Như vậy giọng điệu là một trong những yếu
tố quan trọng để nhà văn xây dựng nên hình tượng nhân vật. Đồng thời linh hồn
của một tác phẩm văn học cũng phụ thuộc rất lớn vào giọng điệu, qua đó nó thể
hiện đặc trưng phong cách của mỗi nhà văn. Cho nên giọng điệu trở thành
gương mặt, tâm hồn của tác giả trong tác phẩm. Qua khảo sát truyện ngắn của
Nguyễn Quang Thiều, chúng tôi nhận thấy bao trùm các sáng tác của ông là
giọng điệu trữ tình sâu lắng, khi thủ thỉ tâm tình, khi ngọt ngào đằm thắm, khi
hoài niệm xót xa, thương cảm trước những “bể dâu” của số phận, nhân tình,
được sử dụng biến hóa, linh hoạt với cách dùng những câu văn giàu nhịp điệu,
giàu tính từ miêu tả. Đó là lối kể chuyện tâm tình theo giọng kể rất giản dị, lấy
âm hưởng cách kể của bà, của mẹ. Đan xen trong câu chuyện kể ấy là những
yếu tố mang đậm màu sắc huyền thoại, siêu thực đưa người đọc bước vào thế
giới đầy phong phú và sống động. Tất cả những vấn đề này, ở góc độ nào đó
chính là những nét riêng, độc đáo góp phần tạo nên phong cách của Nguyễn
Quang Thiều ở thể loại truyện ngắn, góp phần cụ thể hóa vấn đề “cái nhìn khắc
khoải” về thân phận con người cũng như quan niệm “con người hướng thiện”
trong truyện ngắn của ông.
Trước hết, có thể thấy giọng điệu trữ tình sâu lắng trong truyện ngắn của
Nguyễn Quang Thiều được thể hiện qua nhịp điệu kể chuyện rất từ tốn, chậm
rãi của nhân vật người kể chuyện. Trong nhiều tác phẩm, tác giả không đi thẳng
vào câu chuyện mà từ từ dẫn dắt người đọc về gốc gác của câu chuyện kể: “Hồi
nhỏ, vào những trưa mùa hạ ra sông tắm hay đi cào hến, nhiều lúc đang bơi
trong dòng nước trong xanh và mát lạnh trên sông, tôi chợt thấy rợn người...Tôi
nghĩ đến con ma tóc dài ở khúc sông này mà bà và mẹ tôi đã từng kể cho mấy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
anh em tôi nghe” [56, tr 10]. Hay “Đó không phải là câu chuyện cổ xưa. Đó là
86
một câu chuyện trong thời hiện đại của thế giới loài người. Câu chuyện xảy ra
ở làng tôi, một làng cách Hà nội 40 cây số. Đó là câu chuyện về một ngôi chùa
dưới đáy một hồ nước và tiếng gõ mõ, tụng kinh trong những đêm trăng sáng
vẫn vọng lên từ ngôi chùa ấy” [56, tr 115]. Rồi “Một trong những câu chuyện
mà bà tôi rồi đến mẹ tôi hay kể cho chúng tôi nghe là ma nồi chõ. Nồi chõ là tên
gọi cho cái chõ đồ thức ăn mà ở làng tôi nhà nào cũng có. Thường người ta gọi
là chõ đồ xôi nhưng chõ còn được dùng để đồ nhiều thứ khác như ngô, bánh
khúc, ... Câu chuyện ma nồi chõ hầu như ai ở thế hệ tôi trở về trước cũng biết vì
nó gắn với một câu chuyện đau thương của một người trong làng” [56, tr 77].
Từ tốn, chậm rãi nhưng đầy lôi cuốn, bởi sự kì bí được hé mở ngay trong phần
giới thiệu. Sau đó là câu chuyện với nhiều tình tiết hư – thực đan xen khiến người
đọc hồi hộp dõi theo. Đây là một đặc điểm nổi bật ở giọng điệu trần thuật của
Nguyễn Quang Thiều trong tập “Cô gái áo xanh, những chuyện kì bí của làng”.
Trong văn chương Nguyễn Quang Thiều, khát vọng khám phá chiều sâu
cuộc sống đã đặt các nhân vật vào những suy tư, dằn vặt, những lý giải về những
vấn đề cốt lõi mang tính nhân sinh. Giọng điệu triết lý thể hiện những góc nhìn
khác nhau của nhân vật. Khác Nguyễn Huy Thiệp khi không hài lòng một vấn
đề gì là ngay lập tức giọng điệu của ông thay đổi một cách rất quyết liệt, mạnh
mẽ nhiều khi mất bình tĩnh và trở nên cực đoan: “Anh Bường bảo: “Tao nói
cho mày biết, mày bỏ cái trò lưu manh ấy đi. Mày dụ thằng Biền chơi giả để hạ
nó thật. Lối vật của mày là lối vật của quân trí thức, mày bịp con Quy thì được
chứ không bịp được tao đâu”. Tôi cười: “Anh biết không người cách mạng chỉ
chú tâm vào mục đích cuối cùng mà thôi”. Anh Bường bảo: “Đừng có bẩy tao
vào chính trị tư tưởng, mày đểu lắm…” Bản chất của mày là một thằng trí thức
lưu manh chính trị. Tởm lắm! Cút mẹ mày đi!” Tôi bảo: “Anh là một thằng tù
hình sự, một tên lưu manh “gin” tại sao anh không chịu nổi tôi?” [48, tr 233].
Còn Nguyễn Quang Thiều, bằng giọng nhẹ nhàng, thấm thía vẫn khiến
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
người đọc cảm nhận được cái nhìn phê phán của ông trước những vấn đề tiêu
87
cực của cuộc sống. Đó là sự u hoài man mác, cảm giác tiếc nuối cho sự mai
một những giá trị truyền thống trước những đổi thay của cuộc sống hiện đại.
Sau ngày những người đàn ông trong làng tìm cách tận diệt đàn rùa trắng bí ẩn
(có người tin đó là những con rùa thần) thì đầm sen bạt ngàn hoa trắng cũng
biến mất. Không gian như ướp bằng hương sen thanh tao đâu còn, thay vào đó
là một bãi bùn đen khổng lồ, bờ trọc trơ toàn đất sét, hôi nồng mùi phân vịt, thi
thoảng còn thấy cả những chiếc xi lanh của những đám thanh niên tiêm chích
ma túy vứt lại.“Bây giờ đầm sen làng tôi đã chết thực sự. Cái chết của một đầm
sen hay những đầm sen chứa đựng cái chết của những điều bí ẩn và thiêng
liêng... Đã có vài lần tôi nói với một vài người làng một cách xa xôi về đầm sen
của làng thuở trước. Nhưng hình như chẳng ai để ý.... Con người đang tha hóa
và đang suy tàn trong khi đó họ lầm tưởng rằng họ đang ngày tiến đến đỉnh
cao của văn minh nhân loại. Cái đẹp, sự linh thiêng và những vị Thánh đã và
đang bỏ con người ra đi để con người tự xoay sở lấy cho đến khi họ tự nhận ra
tội lỗi của mình”[56, tr 112]. Cũng với giọng điệu nhẹ nhàng, thấm thía pha
chút huyễn hoặc câu chuyện “Con chuột lông vàng” làm cho độc giả không
khỏi trăn trở, suy nghĩ về những bài học được rút ra trong cuộc sống“Mùa màng
vẫn thường xuyên thất bát. Lúc gạo trong chum, trong bồ nhà họ vẫn bị lũ chuột
cắn phá, moi móc vơi đi và trong họ hàng vẫn có những đứa trẻ chết bởi những
bệnh quái gở. Mỗi lần người làng tôi nói về con chuột và cái chết của ông Lẫm
Cùi thì ông cụ Hoàn, đã chín mươi tuổi, người giá nhất làng tôi vẫn nói: “”
- Ngày xưa ông Lẫm Cùi thua một con chuột lông vàng bởi vì chỉ một
mình ông ấy tìm diệt nó. Muốn giết được con chuột chúa ấy để trừ hết lũ chuột
thì cả làng phải hợp sức đồng tâm với nhau thì chuyện ấy mới thành” [53, tr
176].
Nguyễn Quang Thiều quan tâm đến nỗi đau, đến mất mát của từng cá
nhân cụ thể. Giọng văn vì thế mà lắng xuống, câu chữ như gẫy vụn, vỡ oà trước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sự thúc ép của rất nhiều xót xa, thương cảm. Đó là cảm giác tái tê, đắng nghẹn
88
của nhà văn khi đối diện những bi kịch nhân sinh mà nguyên nhân chính là hủ
tục, định kiến cứng nhắc, lỗi thời. Thảo và Văn - đứa con của hai dòng họ có
mối thù truyền kiếp và lời nguyền ma quái đã vô cùng đau khổ, run lên khi phải
chứng kiến đứa con trai của mình cả tiếng yêu thương cũng không nói
được“Biển triệu năm vẫn mang tiếng người, hải âu sinh ra triệu năm vẫn nói
tiếng hải âu, cớ sao có những con người sinh ra như con ta lại không nói đúng
tiếng người” [53, tr 194]. Hay khi chứng kiến cảnh May trong “Gió dại” đã phải
sống cô độc, lầm lũi, hứng chịu sự hắt hủi, khinh khi của những người trong ngôi
nhà xa lạ, nơi cô đã sống từ lúc chào đời cho đến khi mười bảy tuổi, nơi cô tưởng
rằng mình là con của gia đình ấy, một lần nữa khiến người đọc không khỏi xót
xa, thương cảm. Câu văn nhức nhối, vò xé tâm can “Cô bật cười buồn bã vì tên
cô trùng với tên cỏ may mọc xơ xác trên đê. Cỏ may cuốn lấy chân cô và găm
vào những lời gan ruột của cô ”[53, tr 102].
Như nhiều nhà văn thời kì đổi mới khác, Nguyễn Quang Thiều đã dành
giọng điệu thương cảm, xót xa cho số phận con người cô đơn sau chiến tranh.
Đó là bi kịch của hai người phụ nữ với khát khao cháy bỏng được làm vợ, làm
mẹ, được gặp lại người chồng thân yêu của mình (Hai người đàn bà xóm Trại).
Chiến tranh đã mang hai anh ra đi và không bao giờ trả họ về cho hai người
phụ nữ đáng thương ấy. Đã bao lần họ thấy hai anh trở về và để lại cho họ một
đứa con, nhưng cuối cùng đó chỉ là một giấc mơ. Những giấc mơ khắc khoải
nỗi chờ mong, chất chứa niềm hi vọng về một ngày đoàn tụ vẫn thường xuyên
hiện hữu trong tác phẩm càng khiến nỗi đau thêm đắng lòng, buốt nhói. Trong
“Lời hứa với thời gian”, ông Miêng đã bước ra khỏi cuộc chiến với sự cô đơn
rợn ngợp. Tiểu đội của ông tất cả đã hi sinh. Đó cũng là lý do ông đưa vợ trở
lại vùng đồi này. Nhưng rồi vợ ông không chịu nổi cuộc sống ngày dương, đêm
âm của vùng đồi đã bỏ ông theo người đàn ông khác. Đứa con của ông - đứa bé
không thành người khi lọt lòng mẹ vì di chứng của chiến tranh cũng rời xa ông.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Rồi Hoa - cô ý tá ông đem lòng yêu mến đã vĩnh viễn ra đi bởi một quả mìn
89
còn sót lại trong chiến tranh“ Những ngày sau đó, chiều chiều ông ông dắt con
trâu đi lang thang trên những đồi thông. Và những lúc ấy, ông nhớ đến đồng
đội, nhớ đến đứa con đã chết của mình, nhớ đến người vợ đã bỏ ông đi và nhớ
đến cái chét tức tưởi của Hoa trong một buổi chiều hòa bình, vừa da diết, bồn
chồn, vừa xa xăm, thôi thúc”[53, tr 56].
Tóm lại, đối với người cầm bút hiện đại nói chung, Nguyễn Quang Thiều
nói riêng, cái huyền ảo, kì bí chỉ là nơi gởi gắm những điều mà nhà văn muốn
nói xuất phát từ sự thúc ép của cuộc sống. Đằng sau những chi tiết hoang đường,
kì lạ bao giờ cũng lấp lánh trái tim nhà văn với nhiều sắc độ: Khi mỉa mai, dằn
hắt, lúc trầm lắng, xót xa. Sự phối kết nhiều chất giọng cũng thể hiện rõ những
cách tân của ngôn ngữ văn xuôi đương đại so với giai đoạn trước. Sự linh hoạt,
phong phú của giọng điệu trần thuật cũng chính là nhu cầu tự nhiên để người
viết tự làm mới mình. Khách quan mà nói, sự mới lạ, đa dạng của giọng điệu
cũng là phương tiện quan trọng để tác giả thể hiện một cách sinh động cái đa
đoan của con người, cái đa sự của cuộc sống. Việc có mặt của những giọng
điệu này, theo Bakhtin, đã góp phần tăng thêm chất văn xuôi cho tiểu thuyết
cũng như truyện ngắn thời gian qua. Đây cũng là dấu hiệu của sự phát triển,
trưởng thành của văn xuôi giai đoạn này. Điều quan trọng hơn là độc giả đến
với truyện có yếu tố kì ảo đương đại không phải chỉ để tìm cái kì, cái quái mà
là để hiểu những nhân cách, những tấm lòng từ đó trang bị cho mình những
kiến thức, vốn sống phù hợp với thực tế.
3.3. Xây dựng môtip trần thuật
Motip là một khái niệm của các nhà văn hóa dân gian khi khảo sát những
câuchuyện thần thoại và cổ tích có cùng trường biểu hiện về cách nhìn nhận thế
giới.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, motip là “thành tố bền vững, vừa mang
tính hình thức vừa mang tính nội dung của văn bản văn học; môtip có thể
được phân xuất ra từ trong một hoặc một số tác phẩm văn học, của một nhà Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
90
văn, hoặc trong văn cảnh một khuynh hướng văn học, một thời đại văn học
nào đó” [15, tr 204].
Với tư cách là những yếu tố đơn giản nhất nhưng có ý nghĩa trong cấu
tạo đề tài, cốt truyện của tác phẩm, motif được xem là “công thức để triển
khai cốt truyện hay còn được xem là yếu tố hợp thành cốt truyện”, “là sự khái
quát nghệ thuật nguyên sơ, phản ánh những ấn tượng quan trọng nhất và có
tính lặp lại mà con người tiếp nhận được trong quá trình quan sát, nhận thức
cuộc sống” (Dẫn theo [19, 85]).
Nguyễn Quang Thiều đã sử dụng khá nhiều môtip văn học. Đó là môtip
giấc mơ, môtíp người chết báo oán, môtíp ở hiền gặp lành để góp phần tạo nên
gam màu kỳ ảo trong truyện ngắn của mình.
3.3.1. Môtíp giấc mơ
Giấc mơ là vấn đề thuộc về thế giới tâm linh, nó nằm trong vùng sâu của
vô thức con người, chất chứa những khát khao thầm kín, những điều bí ẩn mà
con người luôn vươn đến khám phá “Giấc mơ là biểu tượng của cuộc phiêu lưu
cá thể, được cất sâu trong tâm khảm... Chiêm mộng hiện ra với chúng ta như
một điều bí ẩn của chính mình” (Dẫn theo [1, tr 75]). Trình độ nghệ thuật văn
chương càng nâng cao thì thủ pháp “giấc mơ” càng biến ảo linh hoạt. Khi đi
vào thế giới kì ảo trong mộng, nhân vật đã thể hiện một cuộc chu du trong tâm
tưởng để đến với một miền đất đầy bí ẩn, mới lạ nhưng cũng hết sức sinh động
bởi đó là một thế giới nơi cái thực được hư hoá, cái hư được thực hoá. Có thể
nói, kì ảo trong mộng là môi trường lí tưởng để nhân vật trở về với cái tôi đích
thực của mình. Trong sáng tác của Nguyễn Quang Thiều thì giấc mơ với những
điềm báo, dự báo, thần giao cách cảm xuất hiện thường xuyên. Nhân vật của
ông luôn sống trong những giấc mơ biến ảo chập chờn.
Đến với những giấc mơ của “Hai người đàn bà xóm Trại”, người đọc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
không khỏi chua xót, ngậm ngùi cho sự bẽ bàng của hai người phụ nữ bất hạnh
91
ấy. Chiến tranh đã đến và mang người chồng của họ ra đi khi hai anh chưa kịp
để lại cho họ giọt máu của mình. Trong đời họ, ngoài ước mong được gặp lại
người chồng yêu quý của mình còn là nỗi khao khát được có với hai anh một
đứa con. Đến hơn ba lần, tác giả nhắc đến những giấc mơ giống nhau ở mỗi
nhân vật. Ân cứ mơ đi mơ lại giấc mơ có vẻ kì lạ“con gà trống tía với cái mào
đỏ rực, cái ức rộng và đôi cựa bóng như ngà mổ mổ vào ngón tay của mình”
[53, tr 8], còn Mật cô vẫn những cơn mơ vừa hạnh phúc vừa lo sợ “Mật thấy
người lính trở về và ngay đêm đó Mật có mang. Và cứ tỉnh giấc, Mật mơ hồ lo
lắng khi cảm thấy bụng mình khang khác” [53, tr 8]. Giấc mơ vốn là điều không
có thực, nhưng những mong mỏi ẩn trong giấc mơ lại là điều thật hơn bao giờ
hết. Mong mỏi đó còn là gì khác ngoài ước muốn chở đầy những hi vọng về
một ngày đoàn tụ với người chồng thân yêu, ước muốn rất phụ nữ của những
người vợ lính trong chiến tranh, ước muốn được làm mẹ, làm vợ.
Còn trong “Ngựa trắng”, sau hơn hai mươi năm, kể từ ngày Huy nhận
lệnh chuyển quân, rời xa vùng đồi ấy trở về Hà Nội, những cơn mộng mị hàng
đêm đã khiến anh tỉnh giấc. Hình ảnh người thiếu nữ đôi mắt mở to, đen thẳm,
tay cầm chao đèn và tiếng ngựa hí ngân lên lanh lảnh đến vô tận luôn ám ảnh
tâm trí anh. Để rồi lần thứ ba, anh quyết định trở lại đây với “mong ước lớn
nhất đêm nay, đúng hơn là mấy chục năm qua là bất chợt trên thảm cỏ chạy
ven đồi kia hiện lên một vệt sáng trắng lướt loang loáng dưới trăng. Cùng với
vệt sáng trắng lướt loang loáng dưới trăng là tiếng hí của con ngựa vang
lên”[53, tr 238], và anh đã gặp lại Mỵ, người thiếu nữ đôi mắt mở to, đen thẳm,
tay cầm chao đèn trong ngôi nhà trên đất đồi nhợt nhạt trong ánh trăng đêm ấy.
Cuộc hội ngộ muộn màng trong nức nở nhưng hạnh phúc ngập tràn đã bù đắp
cho họ bao đau khổ, mất mát bởi sự li tán của chiến tranh.
Ông Miêng trong “Lời hứa với thời gian”, “Trong cơn mê sảng ông thấy
đồng đội mình ôm súng nằm phủ kín quả đồi. Ông đi lang thang trên những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
quả đồi và gọi tên đồng đội. Không ai trả lời ông. Tất cả dã ngủ mãi mãi trên
92
những quả đồi kia”[53, tr 52]. Chính tình đồng chí, đồng đội vào sinh ra tử đã
giữ chân ông lại đây, sống chết với mảnh đất này.
Trong “Tiếng đập cánh của chim thần” đã bao lần Lợi cảm thấy mình sắp
bước qua thềm giếng và cái khoảng lặng im, xa vời, thăm thẳm kia sẽ êm ái
đón anh về. Nhưng khi chạm tay vào thành giếng mát lạnh thì anh lại dần dần
hồi tỉnh. Nỗi đau mất Dịu và cả tình yêu sâu đậm mà anh dành cho Dịu khiến
anh luôn có cảm giác như Dịu còn đâu đây. Điều đó khiến anh luôn giật mình
khi chợt nghe thấy tiếng cười của Duyên (em gái Dịu), khi chợt bắt gặp khuôn
mặt Duyên trong khoảnh khắc hay bóng Duyên thoáng qua hàng rào thưa vào
ngõ nhà anh. Những lúc ấy, anh cứ ngỡ Dịu về. Cảm giác ấy không đến từ từ
mà nó lóe lên như một tia chớp để rồi lại cho anh đầy kinh hoàng đau khổ. Nó
đốt nóng những vết sẹo bỏng bom na-pan trên cơ thể anh như đến hàng ngàn
độ. Dịu đã đưa Lợi đến với Duyên như thế, như chính anh từng thú nhận trong
bức thư“Duyên thương yêu... Lúc nào anh cũng thấy rằng: Mọi điều em dành
cho anh là do Dịu mách bảo. Anh cần Dịu, một Dịu ở trong em, ngoài ra không
có gì giúp anh được nữa. Nhưng Duyện ơi sự thật thì Dịu đã mất rồi”[53, tr
175]. Còn với Duyên, vừa yêu Lợi cô vừa lo sợ vì cảm thấy có lỗi với chị.
Trong giấc ngủ chập chờn, tiếng gọi “Dịu...Dịu...Dịu” luôn văng vẳng bên tai.
Và mỗi khi lòng cô trào lên cảm xúc mãnh liệt thì trong kí ức linh thiêng và
nức nở của cô lại hiện lên hình ảnh rực rỡ và mỏng như pha lê của Lợi và chị
cô. Ở đây, Nguyễn Quang Thiều đã để cho nhân vật của mình luôn sống chập
chờn giữa quá khứ và hiện tại, mơ và tỉnh, thực và mộng ảo. Song thực chất đó
là một cuộc đấu tranh tâm lý đầy cam go của con người trước những rào cản vô
hình để tìm đến tình yêu và hạnh phúc đích thực của đời mình.
Còn trong “Gió dại”, tình mẫu tử thiêng liêng khiến May luôn có cảm giác
có tiếng người gọi cô trong mơ“Đã bao nhiêu đêm, khi cô đã đóng cửa đi ngủ
thì có một bàn tay vô hình giật tung cánh cửa. Người cô chớm lạnh. Cô đứng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lặng nhìn ra ngoài xa. Những vòm lá trong vườn xôn xao lên rồi lạnh ngắt.
93
Hình như có bóng người loang loáng qua sân nhà ra vườn và khuất vào bóng
tối của cây lá. Hình như có tiếng người gọi cô
- Ào...ào...ào. Con...con...con..co.o..on
Có nhiều đêm trong mơ hồ cô nghe thấy tiếng tiếng gọi đó. Tiếng gọi đôi
lúc âm âm như tiếng lòng bàn tay vỗ vào mặt sông” [53, tr 101]. Chính tiếng gọi
mơ hồ đó đã cuốn hồn cô. Và cô đã quyết định đi tìm người đẻ ra cô. Cô cần
được xưng với ai đó tiếng con và được gọi một tiếng mẹ. Để rồi sau hơn hai
mươi năm, bằng một giác quan kì lạ, người đàn bà điên ấy đã nhận ra May là con
bà. Sau hơn hai mươi năm, May được ngủ ngon lành trong vòng tay ấm áp của
mẹ “Ở trong mơ, May thấy mình như một đứa trẻ mới sinh còn đỏ hỏn. May ngửi
thấy mùi sữa mẹ ngọt ngào, ấm nóng. Cô quờ tay tìm vú mẹ và ngậm lấy bú ngon
lành. Cô nuốt từng ngụm sữa lớn. Và cứ sau mỗi ngụm sữa ấy cô lại vụt lớn lên.
Bầu vú của mẹ cô cũng lớn lên theo và rộng như bầu trời. Bầu vú lớn như làm
cô nghẹn lại. Cô cựa mình và kêu ú ớ trong mơ”[53, tr 120]
Như vậy, bằng việc sử dụng giấc mơ, Nguyễn Quang Thiều đã chuyển cái
nhìn vào bên trong nhân vật, thể hiện những cuộc du hành vào thế giới của cõi
siêu nhiên phi thực, từ đó tạo dựng không khí huyền ảo, li kì cho tác phẩm. Đây
cũng là sự nối dài nới rộng không gian hiện thực, nhờ đó mạch truyện phát triển
tự nhiên, không bị đứt gãy, gượng ép, lưu giữ ấn tượng sâu đậm trong người
đọc. Chính vì thế những giấc mơ cũng được xem là một hiện thực đúng nghĩa
trong văn học hiện nay. Từ những môtip kì ảo trên đã hé mở cánh cửa huyền bí
để người viết xới lên những vỉa hiện thực, đặc biệt là thể hiện những vấn đề
nhân sinh sâu sắc. Nhờ vậy câu chuyện trở nên lung linh đa nghĩa. Sự hiện diện
của những môtip này đã cho thấy thế giới siêu nhiên không vô can mà tác động
trực tiếp nhằm tạo ra sự răn đe, cảnh tỉnh và hướng đạo đối với con người.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
3.3.2. Môtíp người chết báo oán
94
Môtip người chết báo oán có nguồn gốc từ tư tưởng Phật giáo gắn với triết
lí nhân - quả. Nếu con người làm điều ác tất sẽ gặp quả báo. Nghệ thuật dùng
luật báo ứng vừa để cảnh tỉnh người đời vừa chứa đựng niềm khát khao công
lý. Chân lí mà môtip này thể hiện là mọi người đều phải trả giá thích đáng cho
những hành động tội lỗi của mình.
Trong “Lá bùa trừ ma”, một cô gái xóm Trại khi ra sông tắm đã bị một gã
đàn ông đã cưỡng dâm rồi dìm chết. Cho nên vào những đêm trăng mùa hạ, hồn
ma của một cô lại hiện lên trên bến sông làng để trả thù những gã đàn ông ham
sắc dục và muốn chiếm đoạt thân xác cô bằng cách dìm chết họ.
Thai nhi chưa chào đời trong “Người chèo đó bí ẩn” phải chết oan cùng
người mẹ xấu số vì một thứ luật làng vô đạo: con gái chửa hoang sẽ bị thả bè
trôi sông. Bởi vậy mà oan hồn của hai mẹ con cô gái chửa hoang đã biến thành
con đò ma cứ vật vờ ở bến sông chờ người làng qua sông khi đêm khuya rồi
dìm xuống nước.
Trong “Đứa trẻ bị bỏ rơi” là linh hồn của đứa trẻ chết đói tìm về đòi những
người mẹ đang nuôi con để được bú sữa mẹ.
Hồn ma trong “Ma cây duối” là một đứa trẻ sơ sinh bị bỏ rơi vào những
buổi trưa và đêm khuya, tiếng khóc nức nở, ai oán, khi lại như xé vải khiến mọi
người dựng cả tóc gáy.
Hay trong “Bí ẩn đàn rùa trắng”, từ ngày đàn rùa bị tận diệt thì sen trong
đầm không bao giờ mọc lại nữa. Làng mất mùa triền miên. Nhiều người phải
bỏ làng tha phương cầu thực. Ngay năm sau đó, bệnh thủy đậu tràn qua làng.
Hầu hết những người tìm cách bắt rùa đều mang bệnh. Một số người bị mù
nhiều người mang tật suốt đời. Một điều kinh hãi nữa là những người phụ nữ
tham gia cuộc săn bắt rùa trắng cũng như con gái, con dâu của những gia đình
bắt rùa năm đó hễ ai có thai đều bị sảy thai. Phải mươi năm sau làng mới hồi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
sức sau những năm mất mùa và dịch bệnh. Nhưng sen thì không mọc lại.
95
Từ sự kế thừa môtip này, Nguyễn Quang Thiều đã đem đến sự cảnh tỉnh
con người về những vấn đề đang và sẽ diễn ra trong cuộc sống hiện đại. Đó
không đơn thuần là sự “hù dọa” đối với con người hiện đại mà còn là con đường
chạm tới thế giới tâm linh đầy bí ẩn cũng như thể hiện sâu sắc những trăn của
trở của nhà văn trước tình trạng cái xấu, cái ác đang dần làm khô cạn nhân tính.
3.3.3. Môtíp ở hiền gặp lành
Trong các truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều, môtip báo oán luôn đi
kèm với môtip ở hiền gặp lành tạo thành môtip thiện giả thiện báo, ác giả ác
báo. Môtip này cơ bản thể hiện tinh thần của truyện cổ tích. Theo đó người bị
trừng phạt là người xấu, gây nhiều tội lỗi và bị thần thánh hoặc con người đày
đọa còn người tốt sẽ nhận được những sự ban thưởng mang tính thần kì giúp
họ đổi đời theo hướng tích cực.
Trong “Ma đưa lối”, tấm lòng lương thiện của ông Dụ với bà lão ăn mày,
từ việc vét bát cháo khoai duy nhất phần của ông, tìm manh chiếu rách bó xác
bà lão mai táng, rồi sau ba năm lại làm lễ cải táng cho bà cụ, ông đã được linh
hồn bà lão trở về báo mộng và tìm cách trả ơn. Con trai ông sinh đôi hai con
trai sau nhiều năm lấy vợ. Hai cháu trai của ông khỏe mạnh, ngoan ngoãn, thông
minh. Cuộc sống gia đình ông ngày một khá lên. Ông Dụ sống khỏe mạnh,
hạnh phúc cùng con cháu mà không ốm đau bệnh tật gì. Cho tới năm ông 99
tuổi khi nằm trên chiếc chõng tre hóng gió rồi ngủ một giấc vĩnh viễn.
Anh Tộc trong “Đứa trẻ đùa chơi trong đêm”, một người cha nghèo khó
phải một mình nuôi đứa con đỏ hỏn mới ba ngày tuổi. Vợ anh đã chết vì bị hậu
sản. Thương con đau đớn như đứt từng khúc ruột, nhưng nhà nghèo, anh phải
nấu củ chuối, rau dại lấy nước cho con uống thay sữa. Có lúc bất lực khi chứng
kiến đứa con của mình cứ ngày càng xanh xao, quắt lại, anh ôm chỉ biết lấy
ngôi mộ của vợ mà gào khóc cho đến kiệt sức. Tình yêu thương con của người
cha nghèo khó đã lay động linh hồn người mẹ. Để rồi hàng đêm linh hồn người
mẹ lại trở về đùa chơi, cho con bú tới khi gà gáy sáng. Con trai anh đã lớn lên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
96
khỏe mạnh, thông minh lạ lùng và sau này đã trở thành tiến sĩ khoa học đầu
tiên của làng.
Như vậy, ở những tác phẩm xuất hiện kiểu môtip này thường là kết thúc
có hậu. Ban đầu, nhân vật sẽ phải trải qua nhiều biến cố, thậm chí là sự là sự
khổ đau nhưng rồi họ đã được đến bù xứng đáng bởi lòng tốt, sự lương thiện ở
họ. Đây là điểm gần gũi giữa tác phẩm của Nguyễn Quang Thiều với truyện cổ
tích. Qua đó nhà văn gửi gắm niềm tin bất diệt vào cái thiện, cái đẹp. Đó chính
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
làvũ khí để con người tự cứu mình và cứu thế giới.
97
Tiểu kết chương 3
Yếu tố kì ảo vốn là linh hồn của những tác phẩm văn học kì ảo và văn học
có yếu tố kì ảo cho nên nó luôn giữ vai trò rất quan trọng.Với việc vận dụng
độc đáo thủ pháp kì ảo trong xây dựng cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu và
môtip trần thuật, Nguyễn Quang Thiều đã mang đến cho người đọc một cái
nhìn mới mẻ, khác lạ, tạo được sự ngạc nhiên và hiếu kì khi theo dõi câu
chuyện.Đồng thời, sự vận dụng này còn nảy sinh một thái độ tiếp nhận tích cực
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
của độc giả.
98
KẾT LUẬN
1. Luận văn trước hết đã tập trung làm sáng tỏ khái niệm kì ảo và văn học
có yếu tố kì ảo. Có rất nhiều quan niệm của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước xoay quanh vấn đề này. Tuy nhiên, chúng tôi cũng thống nhất với
quan niệm xem yếu tố kì ảo là một kiểu tư duy; là sản phẩm của trí tưởng tượng,
nó xuất phát từ hiện thực, tồn tại trên hai trục hư - ảo. Còn văn học có yếu tố kì
ảo là một bộ phận văn học nhận thức và phản ánh cuộc sống từ đặc trưng và thế
mạnh của những yếu tố khác lạ, phi thường, đôi khi vượt ra khỏi khả năng nhận
thức thông thường của lí trí.
Trên cơ sở đó, luận văn tiến hành khảo cứu, tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn
Quang Thiều với dòng chảy của cái kỳ ảo trong văn học Việt Nam đương đại.
Chúng tôi nhận thấy trong văn học Việt Nam, yếu tố kì ảo cũng luôn có sự biến
đổi trong các giai đoạn vận hành của nó, lúc rầm rộ khi trầm lắng nhưng cũng
chứng tỏ được sức sống của mình. Sau 1975, đặc biệt là sau đổi mới yếu tố kì
ảo một lần nữa tái sinh trong văn học đương đại. Sự tái sinh này đã góp phần
đem lại cho văn học đương đại Việt Nam một diện mạo mới mẻ trên cơ sở bảo
lưu truyền thống và kế thừa những tinh hoa của văn học thế giới trong bối cảnh
hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ. Trong mạch nguồn dòng chảy kỳ ảo
của văn học Việt Nam đương đại, Nguyễn Quang Thiều đã để lại những dấu ấn
khó phai. Dưới ngòi bút của ông, yếu tố kì ảo đã trở thành công cụ đắc dụng
trong việc truyền tải những vấn đề của con người đương đại.
2. Yếu tố kỳ ảo trong thế giới nghệ thuật truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều
thể hiện tập trung ở các yếu tố: thế giới hình tượng nhân vật, không gian, thời
gian, cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu, môtip trần thuật. Thế giới hình tượng
kỳ ảo hết sức trongtruyện ngắn của ông hết sức phong phú, đa dạng, gồm các
loại hình nhân vật: hồn ma, thần thánh và cả những con người có khả năng đặc
biệt… Tất cả cùng đan xen tạo thành bức tranh đa diện về hiện thực cuộc đời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Mỗi loại hình nhân vật tồn tại một quan điểm riêng của nhà văn về sự lý giải
99
cắt nghĩa bản chất con người. Để khắc họa hình tượng nhân vật một cách sinh
động, nhà văn rất chú trọng miêu tả những chi tiết đặc sắc gây ám ảnh tinh thần
người đọc. Đó là những chi tiết đặc tả về ngoại hình mang đặc trưng riêng của
nhân vật ma. Thêm vào đó là những cử chỉ, hành động, việc làm dị thường,
khác lạ của các nhân vật, làm cho câu chuyện trở nên hư hư thực thực, tạo cảm
giác bí hiểm, rờn rợn ở người đọc.
Về yếu tố kỳ ảo trong không gian nghệ thuật, chúng tôi nhận thấy rằng,
nhà văn chú ý tạo dựng kiểu không gian quãng sông nước bí hiểm, vùng rừng
núi thâm trầm và khu vườn ruộng hoang vu. Nếu không gian sông nước và
những khu vườn ruộng hoang vu phần lớn được lấy cảm hứng từ sông Đáy,
làng Chùa quê hương tác giả, thì không gian rừng núi lại đưa ta trở về với khung
cảnh chiến trường xưa với những hoài niệm và cả sự day dứt bởi nỗi đau do
chiến tranh để lại, như nhắc nhớ mỗi con người không được phép lãng quên
quá khứ. Đó không phải là không gian kì ảo gắn với trí tưởng tượng hay những
nỗi sợ hãi của con người về những cõi sống chưa được biết đến mà là không
gian của cuộc sống thường ngày mang không khí hư ảo đầy thử thách, bí hiểm
nhưng cũng thật gần gũi, thân thuộc.
Đồng hiện cùng không gian kỳ ảo là dòng chảy biến ảo của thời gian
nghệ thuật. Trong đó sự chồng chéo của các lớp thời gian quá khứ và hiện tại
xuất hiện nhiều trong truyện ngắn của ông. Cùng với việc chú trọng vàothời
gian phiếm chỉ, nhà văn dường như muốn xóa nhòa ranh giới giữa các chiều
thời gian để tạo ra cảm giác về thời gian tĩnh tại, ngưng đọng và mang tính
vĩnh hằng.
Ở phương thức xây dựng yếu tố kỳ ảo, nhà văn Nguyễn Quang Thiều rất
chú ý xây dựng tình huống kì ảo, kết cấu lồng ghép, góp phần tạo dựng không
khí kỳ ảo trong tác phẩm. Nhà văn cũng đã xây dựng hệ thống những môtip
trần thuật mang ý nghĩa biểu tượng: môtip giấc mơ, môtip người chết báo oán,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
môtip ở hiền gặp lành khiến câu chuyện càng trở nên lung linh đa nghĩa. Vừa
100
có tác dụng tạo sự răn đe, cảnh tỉnh và hướng đạo đối với con người vừa nói
lên mơ ước của con người về cuộc sống.
Về ngôn ngữ, Nguyễn Quang Thiều đã sử dụng hiệu quả những phó từ chỉ
tính chất bất bình thường hoặc thoắt ẩn thoắt hiện của sự vật. Đằng sau đó là
những động từ mà khi chúng kết hợp với nhau tạo ra không khí kỳ ảo, ma quái
cho câu chuyện và gây bất ngờ với người đọc. Truyện ngắn Nguyễn Quang
Thiều còn xuất hiện dày đặc các trạng từ chỉ thời gian, không gian chứa đựng
sắc màu kì ảo có vai trò làm tăng chất huyễn hoặc cho câu chuyện, đồng thời
cũng tạo ra không khí pha mùi ma quái, đầy li kì và có sức hấp dẫn lớn với đối
tượng tiếp nhận. Hệ thống nhan đề tác phẩm cũng là một trong những dấu hiệu
quan trọng để phân biệt truyện có yếu tố kì ảo.
Bao trùm các sáng tác truyện ngắn của ông là giọng điệu trữ tình sâu lắng,
khi thủ thỉ tâm tình, khi ngọt ngào đằm thắm, khi hoài niệm xót xa, thương cảm
trước những “bể dâu” của số phận, nhân tình, được sử dụng biến hóa, linh hoạt
với cách dùng những câu văn giàu nhịp điệu, giàu tính từ miêu tả. Đó là lối kể
chuyện tâm tình theo giọng kể rất giản dị, lấy âm hưởng cách kể của bà, của
mẹ. Đan xen trong câu chuyện kể ấy là những yếu tố mang đậm màu sắc huyền
thoại, siêu thực đưa người đọc bước vào thế giới đầy phong phú và sống động.
3. Nghiên cứu truyện ngắn kì ảo của Nguyễn Quang Thiều trong sự đối
sánh với một số tác giả cùng trong khuynh hướng văn học kì ảo như Nguyễn
Bình Phương, Nguyễn Huy Thiệp... cho ta thấy một cái nhìn mới mẻ và một
góc tiếp cận khác lạ về hiện thực, từ đó khám phá sâu sắc hơn bản chất của hiện
thực cuộc sống nhằm tìm ra những câu trả lời cho cuộc sống hôm nay về cuộc
đấu tranh giữa thiện và ác, về sự tha hoá của một bộ phận người trong xã hội
hiện đại, về mối quan hệ đầy mâu thuẫn giữa khát vọng quyền lực và xu thế
hướng thiện trong con người. Từ đó mỗi cá nhân sẽ tự rút ra những bài học từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
lịch sử cho bản thân mình.
101
4. Tóm lại, sự xuất hiện của truyện ngắn kì ảo của Nguyễn Quang Thiều
nằm trong dòng chảy chung của văn học Việt Nam hiện đại. Nó đáp ứng nhu
cầu nhận thức hiện thực cuộc sống, khám phá bí ẩn của thế giới tinh thần con
người. Những thành công của nhà văn về truyện ngắn kì ảo đã góp phần tạo
nên một diện mạo, phong cách riêng của nhà văn, đồng thời góp phần vào sự
thành công chung của văn xuôi kì ảo Việt Nam sau đổi mới.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
TÀI LIỆU THAM KHẢO
102
1. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2008), Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương, Luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm, Đại học Thái Nguyên
2. Trương Thị Kim Anh (2018), Huynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ việc kiến tạo không gian và thời gian
nghệ thuật, Tạp chí khoa học, tập 15, số 11, ĐHSP TPHCM
3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội
4. Trần Lê Bảo (2006), Thể nghiệm mộng ảo của các tác giả cổ đại Trung
Quốc, Tạp chí văn học, số 8
5. Lê Huy Bắc (2006), Cái kì ảo và văn học huyễn ảo, Tạp chí văn học,số 8
6. Lê Nguyên Cẩn (2002), Cái kì ảo trong tác phẩm của Banzac, Hà Nội,
Nxb Đại học Sư phạm
7. Nguyễn Văn Dân (1982-1984), “Huyễn tưởng văn học - một hình thái
nhận thức thẩm mỹ”in trong “Những vấn đề văn học và ngôn ngữ” (Lê
Xuân Vĩnh chủ biên) 2004, Hà Nội: Viện Thông tin khoa học xã hội
8. Lê Thùy Dung (2012), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi trung đại, Luận văn
thạc sĩ văn học, ĐHSP TPHCM
9. Đinh Trí Dũng (2016), Mạch trữ tình trong truyện ngắn thế hệ nhà văn
sau 1975, Báo Nhân dân điện tử.
10. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện
đại, Nxb GDHN
11. Đặng Anh Đào (2006), Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết
Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8, Viện Văn học, Viện khoa
học xã hội Việt Nam.
12. Hà Minh Đức chủ biên (1996), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
13. Lê Thu Hà (2013), Sự giao thoa giữa thơ và văn xuôi trong truyện ngắn
và tản văn của Nguyễn Quang Thiều, Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội.
103
14. Phùng Hữu Hải (2006), Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam từ sau
1975,Tạp chí Nghiên cứu văn học, Viện Văn học, Viện khoa học xã hội
Việt Nam.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, 2008, Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
16. Nguyễn Đức Hạnh (2008), Tiểu thuyết Việt Nam thời kì 1965 - 1975 nhìn
từ góc độ thể loại, Giáo dục, Hà Nội.
17. Nguyễn Thị Thu Hằng (2017), Truyện ngắn, tản văn Nguyễn Quang Thiều
từ góc nhìn phê bình sinh thái, Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học, Đại
học Thái Nguyên.
18. Tăng Thị Hoàn (2012), Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều nhìn từ góc độ
thể loại , Luận văn thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học
quốc gia Hà Nội.
19. Cao Thu Hoài (2009), Võ Thị Hảo, yếu tố kì ảo trong sáng tác của Võ Thị
Hảo (qua tiểu thuyết Giàn thiêu và tập truyện ngắn Những truyện không
nên đọc lúc nửa đêm), Luận văn thạc sĩ, Đại họcSư phạm, Đại họcThái
Nguyên
20. Phạm Thu Hương ( 2018), Gửi thông điệp qua những con ma thuần Việt,
Báo An ninh thủ đô điện tử
21. Lê Thị Hường (1995), Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay, Tạp
chí văn học, số 4
22. Bửu Kế (2009), Từ điển Hán - Việt từ nguyên, NXB Thuận Hóa
23. Đông La (2011), Nguyễn Quang Thiều - Những khúc bi ca về tình yêu bất
tử, http://nhavantphcm.com.vn
24. Trần Thị Mai Lan (2012), Yếu tố kì ảo trong tiểu thuyết, truyện ngắn viết
về chiến tranh giai đoạn sau 1975,Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thành phố Hồ Chí Minh.
104
25. Nguyễn Lân ( 2006), Từ Điển Từ Và Ngữ Việt Nam, Nxb Tổng hợp TP
Hồ Chí Minh.
26. Lê Nguyên Long(2006), Về khái niệm cái kỳ ảo và văn học kỳ ảo trong
nghiên cứu văn học, tạp chí NCVH, số 9.
27. Nguyễn Thị Liên (2007), Nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Quang
Thiều, Luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh
28. Nguyễn Trường Lịch (1997), Huyền thoại và sức sống của huyền thoại
trong văn chương xưa và nay, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 5
29. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
30. Phương Mai (2018), đa tài và đa mang, VietnamPlus
31. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn - tư tưởng - phong cách, Nxb Văn
học, Hà Nội.
32. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
33. Nguyễn Thị Mơ (2013), Yếu tố kỳ ảo trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái, Luận
văn thạc sĩ, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học quốc gia Hà
Nội.
34. Phạm Thị Thanh Nga, 2008, Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam sau
1975,Tạp chí nghiên cứu văn học, số 5.
35. Lã Nguyên (2007), Văn học kì ảo: nhìn từ hệ hình thế giới quan, Tạp chí
văn học nước ngoài,số 6.
36. Hoàng Phê (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
37. Nguyễn Bình Phương, 1991, Vào cõi, NXB Thanh niên.
38. Nguyễn Bình Phương, 1994, Những đứa trẻ chết già, NXB Văn học.
39. Nguyễn Bình Phương, 1999, Người đi vắng, NXB Văn học.
40. Nguyễn Bình Phương, 2000, Trí nhớ suy tàn, NXB Thanh niên.
41. Nguyễn Bình Phương, 2006, Ngồi, NXB Đà Nẵng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
42. Thiên Sơn (2012), “Hộp đen”,Báo Văn nghệ, số 17 +18
105
43. Trần Đình Sử ( 2000), Thi pháp học, Nxb Văn học.
44. Phùng Văn Tửu (2006), Những hướng đổi mới của văn học kỳ ảo thế kỷ
XX, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 5
45. Phạm Thị Thảo (2017), Đặc điểm văn xuôi Nguyễn Quang Thiều qua
truyện ngắn và ký, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
46. Trịnh Thị Thảo (2010), Cấu trúc truyện ngắn của Nguyễn Quang Thiều,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh.
47. Vũ Thanh (1999), Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt
Nam hiện đại,Những vấn đề lí luận và lịch sử văn học, Viện văn học.
48. Nguyễn Huy Thiệp (1995), Truyện ngắn chọn lọc, NXB Hội Nhà văn
49. Nguyễn Thị Bích Thu (1996), Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975,
Tạp chí văn học,số 9.
50. Ngô Thị Hoài Thu (2014), Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Ngô Tự Lập,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Vinh.
51. Bùi Thị Thuỷ (2009), Cái kì ảo trong một số truyện ngắn của Hồ Anh
Thái, Đề tài nghiên cứu khoa học, ĐHSP Thái Nguyên.
52. Trương Thị Thường (2006), Chất thơ trong truyện ngắn của Nguyễn
Quang Thiều
53. Nguyễn Quang Thiều(1998), Mùa hoa cải bên sông, NXB Hội nhà văn.
54. Nguyễn Quang Thiều (2016), Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc
mộng, NXB Trẻ
55. Nguyễn Quang Thiều (2017), Mùi ký ức, NXB Trẻ
56. Nguyễn Quang Thiều (2018), Cô gái áo xanh,những chuyện kỳ bí của
làng, NXB Trẻ
57. Đinh Thị Phương Trà (2012), Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, Luận văn thạc sĩ, ĐHSP TPHCM.
58. Bình Nguyên Trang (2107), Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều – kẻ rời bỏ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thành phố, Báo ANTG online
106
59. Bùi Thanh Truyền (2006), Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt
Nam, Luận án tiến sĩ
60. Bùi Thanh Truyền (2006), Sự hồi sinh của yếu tố kỳ ảo trong văn
xuôiđương đại Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 11.
61. Bùi Thanh Truyền (2014), Dòng chảy kì ảo trong tiến trình văn học Việt
Nam, http://vanghequandoi.com.vn
62. Bùi Thanh Truyền (2008), Sự đổi mới của truyện có yếu tố kì ảo sau 1986
qua hệ thống ngôn từ, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 12.
63. Hoàng Thị Văn (2008), Yếu tố huyền ảo trong văn xuôi nghệ thuật Việt
Nam sau 1975, Đề án nghiên cứu cấp Bộ
64. Đinh Thị Cẩm Vân (2000), Cái kì trong tiểu thuyết truyền kì, Tạp chí văn
học số 10
65. Nguyễn Thị Thanh Vân (2007), Đặc sắc của thể tài yêu ngôn, Luận văn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
thạc sĩ văn học, ĐHSPTN.
PHỤ LỤC
1. Bảng thống kê truyện ngắn có yếu tố kì ảo của Nguyễn Quang Thiều
STT
Tuyện ngắn
Có yếu tố kì ảo X
Không có yếu tố kì ảo
1
Lá bùa trừ ma
2 Ngôi nhà và tiếng mèo kêu
X
3
Sinh con với người chồng đã chết
X
4 Cô gái áo xanh
X
5
Tiếng phấn rít trên bảng đen
X
6 Người chèo đò bí ẩn
X
7 Đứa trẻ bị bỏ rơi
X
8
Tiếng kêu cứu của một hồn ma
X
9 Bóng đen trên cây thị
X
10 Người thợ đào giếng
X
11 Bí ẩn đàn rùa trắng
X
12 Ngôi chùa dưới lòng hồ
X
13 Ma cây duối
X
14 Ma ăn trộm
X
15 Đá bóng với người âm
X
16 Tiếng gọi đò lúc nửa đêm
X
17 Ma đưa lối
X
18 Mang họ tên của người chết
X
19 Dấu chân của một người đã mất
X
20 Đứa trẻ đùa chơi trong đêm
X
21 Hai người đàn bà xóm trại
X
22 Chiếc lông chim màu đỏ
X
23 Khúc hát của dòng sông
X
24 Người với hoa tầm xuân
X
25 Lời hứa của thời gian
X
26 Người thổi kèn lá dứa
X
27 Mùa hoa cải bên sông
X
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
STT
Tuyện ngắn
Có yếu tố kì ảo
Không có yếu tố kì ảo X
28 Người đàn bà tóc trắng
X
29 Gió dại
X
30 Tiếng gọi lúc hoàng hôn
X
31 Thị trấn những cây bàng cụt
X
32 Bầy chim chìa vôi
X
33 Mưa ấm
X
34 Bầu trời của cha
X
35 Tiếng đập cánh của chim thần
X
36 Đứa con của hai dòng họ
X
37 Cái chết của bầy mối
X
38 Người nhìn thấy trăng thật
X
39 Người cha
X
40 Người cha
X
41 Đêm cá đẻ
X
42 Ngựa trắng
X
43 Chiều hoa tầm xuân
X
44 Con chuột lông vàng
X
45 Hương khúc nếp cuối cùng
X
46 Gương mặt thứ ba
X
47 Đi chợ tết
X
48 Bầy mòng két trở về
X
48 Mai vàng nở sớm
X
50 Chạy trốn khỏi vầng trăng
X
51 Cơn mơ hoa cỏ trắng
X
52 Lạc loài
X
53 Người đi chợ Vừng
X
54 Tiếng gọi cuối mùa đông
X
55 Không có chứng minh thư
X
56 Cổ vật
X
57 Tin nhắn lúc gần sáng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
2. Bảng thống kê thế giới hình tượng kì ảo trong truyện ngắn Nguyễn
Quang Thiều
Truyện ngắn
Thế giới hồn ma hiển hiện
Thế giới thần thánh hiển linh
Thế giới người có khả năng đặc biệt
Lá bùa trừ ma
Ông lang Chất
Người chèo đò bí ẩn
Thầy đồ
Ma cây duối
Cô gái trẻ bị cưỡng dâm Cô gái chửa hoang Đứa trẻ sơ sinh bị bỏ rơi Con trai cụ Đoán
Chồng Doan
Ông lái đò Doan
Dịu
Bà cụ ăn mày
buôn
Thầy giáo
Ma ăn trộm Tiếng gọi đò lúc nửa đêm Người lính Người thợ đào giếng Tiếng đập cánh của chim thần Ma đưa lối Tiếng phấn rít trên bảng đen Đứa trẻ đùa chơi trong đêm Người mẹ
Mang họ tên của người chết Mây
Ông Dụ Người mật mía Đứa trẻ Ông Thầy, Hảo, Vực
Người cô
Dấu chân của một người đã mất Tiếng kêu cứu của một hồn ma Đá bóng với người âm
Bọn trẻ
Khúc hát của dòng sông
Cô gái áo xanh Ngôi chùa dưới lòng hồ Bí ẩn đàn rùa trắng Đứa con của hai dòng họ Đứa trẻ bị bỏ rơi Ngôi nhà có tiếng mèo kêu
Người bị chết vì bom Pháp Thằng Đúc Trương Chi, Mị Nương
Lan Sư cụ Đàn rùa trắng Thành hoàng làng
Ông giáo già Ông phó cối
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN http://lrc.tnu.edu.vn