
TẠP CHÍ Y HỌC VIỆT NAM TẬP 488 - THÁNG 3 - SỐ 1 - 2020
21
là định lượng với mức xác định lần lượt là mức
mờ gương < 30 mm, thời gian ngậm nước và
ngậm kín hai môi < 3 phút. Các tiêu chuẩn phát
hiện này đã được Pacheco MCT kiểm định bằng
cách phỏng vấn trực tiếp 110 bác sĩ chỉnh nha tại
Brazil về cách phát hiện thở miệng trên lâm
sàng, tổng hợp các kết quả thu được, lập thành
bộ công cụ rồi kiểm thử trên 687 trẻ tiểu học từ
6-12 tuổi, thu được kết quả có độ tin cậy cao, có
thể áp dụng dễ dàng và phù hợp sử dụng tại
cộng đồng.
Bộ câu hỏi phỏng vấn trực tiếp phụ huynh đã
được sử dụng để xác định các yếu tố liên quan
tới thói quen thở miệng. Bộ công cụ này gồm 11
câu được phát triển và chọn lọc từ bộ câu hỏi
gồm 44 câu dành cho trẻ 6-12 tuổi tại Nhật Bản
của Issei S [6]. Các câu hỏi được dịch sang tiếng
Việt với ngôn ngữ dễ hiểu và được kiểm định độ
tin cậy (Cronbach’s Alpha = 0,759). Kết quả
nghiên cứu cho thấy các yếu tố liên quan tới thói
quen này là: ngạt mũi khi ngủ, ngạt mũi ban
ngày, hay bị hắt xì, hay bị chảy mũi, thường
xuyên đau họng và thường xuyên há miệng vào
ban ngày (giá trị p đều < 0,001). Đặc biệt, khả
năng có thói quen thở miệng của những trẻ
thường xuyên há miệng vào ban ngày cao hơn
21 lần so với những trẻ không há miệng, với
mức ý nghĩa 99% (tỷ suất chênh OR = 21,482;
95% CI = 6,961-66,297). Đây là đặc điểm lâm
sàng quan trọng, là dấu hiệu gợi ý cho các bác sĩ
lâm sàng và thậm chí cho cả phụ huynh của trẻ
để phát hiện sớm thói quen thở miệng, dự
phòng và hạn chế ảnh hưởng của thói quen này
một cách hiệu quả.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ trẻ 5 tuổi tại Thái Nguyên có thói quen
thở miệng là 20,3%. Các yếu tố liên quan tới thói
quen này là: ngạt mũi khi ngủ, ngạt mũi ban
ngày, hay bị hắt xì, hay bị chảy mũi, thường
xuyên đau họng và thường xuyên há miệng vào
ban ngày.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ankita J., et al. Mouth breathing: A menace to
developing dentition. Journal of Contemporary
Dentistry. 2014;3:145-151.
2. Basheer B., et al. Influence of mouth breathing
on the dentofacial growth of children: A
cephalometric study. Journal of International Oral
Health. 2014;6(6):50 –55.
3. Boas APDV., et al. Walk test and school
performance in mouth-breathing children. Braz J
Otorhinolarygol. 2013;79(2):212-218.
4. Conti P. B., et al. Assessment of the body posture
of mouth-breathing children and adolescents. Jornal
of Pediatria. 2011;87(4):357 –363.
5. Harari D., et al. The effect of mouth breathing
versus nasal breathing on dentofacial and
craniofacial development in orthodontic patients.
The Laryngoscope. 2010:120(10):2089 –2093.
6. Issei S., et al. An Exploratory study of the factors
related to Mouth Breathing Syndrome in primary
school children. Archives of Oral Biology.
2018;92:57-61.
7. Mario M., et al. Growth and mouth breathers. J
Pediatr (Rio J). 2018. https:// doi.org/10.1016/
j.jped.2018.11.005
8. Pacheco MCT., et al. Guidelines proposal for
clinical recognition of mouth breathing children.
Dental Press J Orthod. 2015;20(4):39-44.
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA MỨC ĐỘ NHIỄM MỠ VÀ XƠ HOÁ GAN Ở BỆNH NHÂN
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2 BỊ BỆNH GAN NHIỄM MỠ KHÔNG DO RƯỢU
Trần Thị Khánh Tường1, Phạm Quang Thiên Phú2
TÓM TẮT6
Đặt vấn đề: Bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) típ
2 và bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (nonalcoholic
fatty liver disease - NAFLD) thường cùng xuất hiện.
Bệnh cảnh lâm sàng của có NAFLD giới hạn từ nhiễm
mỡ đơn thuần (NAFL), viêm gan nhiễm mỡ không do
rượu (NASH) và xơ gan. Lượng mỡ trong gan có thể
1Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch
2Bệnh viện Nhân Dân 115, TPHCM
Chịu trách nhiệm chính: Trần Thị Khánh Tường
Email: drkhanhtuong@gmail.com
Ngày nhận bài: 22/12/2019
Ngày phản biện khoa học: 15/1/2020
Ngày duyệt bài: 1/2/2020
giúp xác định mức độ tổn thương gan. Những nghiên
cứu về mối tương quan giữa mức độ nhiễm mỡ được
đánh giá bởi thông số suy giảm có kiểm soát
(Controlled Attenuation Parameter- CAP) và độ cứng
của gan đo bằng FibroScan ở bệnh nhân NAFLD bị đái
tháo đường. Nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh giá
mối tương quan giữa độ cứng của gan và mức độ
nhiễm mỡ gan. Đối tượng và Phương pháp: Nghiên
cứu cắt ngang thực hiện tại phòng khám đa khoa Đại
Phước TPHCM và phòng khám đa khoa trường Đại học
y khoa Phạm Ngọc Thạch. Tất cả bệnh nhân ĐTĐ típ 2
bị NAFLD được thực hiện FibroScan. Xác định NAFLD
khi CAP > 233 dB/m (nhiễm mỡ > 5%). Xử lý số liệu
bằng phần mềm STATA 12. Kết quả: Nghiên cứu bao
gồm 225 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 bị NAFLD thoả tiêu
chuẩn . Đa số bệnh nhân nhiễm mỡ nặng độ 3 (S3) và
xơ hoá nhẹ (F0-1).Không có mối tương quan giữa độ