
65
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 35, Số 2 (2024): 65-73
*Email: thienpc@hcmue.edu.vn
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
Tập 35, Số 2 (2024): 65 - 73
JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY
HUNG VUONG UNIVERSITY
Vol. 35, No. 2 (2024): 65 - 73
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.jst.hvu.edu.vn
NGHIÊN CỨU CHỈ SỐ ĐA DẠNG, CHỈ SỐ ĐỒNG ĐỀU VÀ
THÀNH PHẦN LOÀI ỐC TRONG KÊNH CẤP NƯỚC CHO RUỘNG LÚA Ở
HUYỆN ĐỨC HUỆ, TỈNH LONG AN
Phạm Cử Thiện1*, Nguyễn Hoàng Thạch Thảo1
1Khoa Sinh học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh
Ngày nhận bài: 10/6/2024; Ngày chỉnh sửa: 20/6/2024; Ngày duyệt đăng: 27/6/2024
DOI: https://doi.org/10.59775/1859-3968.201
Tóm tắt
Ốc nước ngọt có tính đa dạng thành phần loài cao và số lượng cá thể phong phú. Nghiên cứu thành phần
loài, chỉ số đa dạng, chỉ số đồng đều về số lượng cá thể của loài ốc trong 30 kênh cấp nước cho ruộng lúa ở
huyện Đức Huệ, tỉnh Long An được thực hiện vào tháng 10/2023 (mùa mưa) và tháng 1/2024 (mùa khô). Tổng
số 9 loài ốc thuộc 9 giống, 7 họ đã được phân loại theo phương pháp hình thái. Chỉ số đa dạng đạt 0,54-0,77
và chỉ số đồng đều là 0,69-0,80. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa gì về mặt khoa học và thực tiễn quản lý về
môi trường và đa dạng sinh học.
Từ khóa: Chỉ số đa dạng, chỉ số đồng đều, kênh, loài ốc, Long An.
1. Đặt vấn đề
Ốc nước ngọt là động vật thân mềm có
tính đa dạng và mức độ đặc hữu cao về thành
phần và số lượng loài [1]. Đồng thời, ốc
nước ngọt còn là một mắt xích quan trọng
trong chuỗi thức ăn và lưới thức ăn của hệ
sinh thái. Chúng không chỉ tiêu thụ thực vật
mà còn là nguồn thức ăn cho một số loài cá,
chim nước, gia cầm và thú (rái cá, cầy...) [2].
Ngoài ra, ốc nước ngọt còn nguồn thực phẩm
bổ dưỡng cho con người, được sử dụng rộng
rãi ở Việt Nam [3]. Ngoài những giá trị được
đề cập, ốc nước ngọt còn là vật chủ trung
gian truyền bệnh cho người và động vật [4],
đóng vai trò là vật chủ trung gian thứ nhất
của một số loại sán lá song chủ gây bệnh ở
người và động vật [3, 5].
Đã có nhiều nghiên cứu về thành phần
loài ốc ở Việt Nam, thống kê vào năm 1980
ở miền Bắc cho thấy có được 47 loài ốc
nước ngọt [6]. Trong ao nuôi cá mô hình
VAC, kênh và ruộng ở tỉnh Nam Định vào
năm 2010 đã ghi nhận được 16 loài ốc ở
hai xã của huyện Nghĩa Phú [7]. Tại hai xã
An Mỹ và An Hòa, huyện Tuy An, Phú Yên
vào năm 2014 đã thu 11 loài ốc nước ngọt
[8] và kết quả cho thấy kênh An Hòa xuất
hiện số loài ốc thấp nhất với 7 loài và loài
chiếm tỷ lệ cao nhất là Tarebia granifera.
Nghiên cứu ở hai tỉnh Vĩnh Long và Đồng
Tháp đã thu thập được 14 loài ốc nước ngọt

66
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Phạm Cử Thiện và Nguyễn Hoàng Thạch Thảo
thuộc 7 họ vào năm 2014 [9]. Trong kênh
cấp VI ở huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí
Minh, chỉ thu được 8 loài ốc [10]. Nhưng
số loài ốc trong rạch Bà Tỵ và rạch Bà
Lào thuộc huyện Bình Chánh, Thành phố
Hồ Chí Minh cũng thu trong năm 2022,
thì phong phú hơn với 10 loài ốc gồm có:
Tarebia granifera (25,9%), Melanoides
tuberculata (25,5%), Sermyla tornatella
(18,5%), Pomacea canaliculata (12,6%),
Filopaludina sumatrensis (4,3%), Pila
polita (4,3%), Bithynia siamensis (4,3%),
Mieniplotia scabra (3,5%), Sinotaia
lithophaga (0,6%) và Orientogalba viridis
(0,4%). Số lượng loài ốc trong mùa mưa (10
loài) cao hơn trong mùa khô (8 loài) [11].
Tuy nhiên, số lượng loài ốc trong kênh cấp
nước cho ao nuôi cá ở huyện Bình Chánh
thu trong năm 2023 chỉ có 9 loài ốc [12].
Huyện Đức Huệ, tỉnh Long An với điều
kiện tự nhiên thuận lợi, giáp sông Vàm Cỏ
Đông, điều đó tạo nên hệ thống kênh rạch
dày đặc, tạo điều kiện phát triển canh tác lúa
nước tại địa phương. Các kênh cấp nước là
nơi lưu thông dòng nước để cung cấp nguồn
nước cho ruộng lúa xung quanh khu vực
kênh, đây cũng là môi trường sống của một
số loài ốc nước ngọt. Năm 2023, Nguyễn Thị
Thanh Xuân và cộng sự [13] đã tiến hành
khảo sát thành phần loài ốc và cercariae trên
ốc trong ruộng lúa ở huyện Đức Huệ, tỉnh
Long An được thực hiện trong tháng 10/2022
(mùa mưa) và tháng 2/2023 (mùa khô). Kết
quả phân loại 2.461 con ốc bằng phương pháp
hình thái cho thấy, có 8 loài ốc thuộc 7 giống,
6 họ gồm: Melanoides tuberculata (Müller,
1774), Filopaludina sumatrensis (Dunker,
1852), Sinotaia aeruginosa (Revee, 1863),
Pomacea bridgesi (Revee, 1856), Pomacea
canaliculata (Lamarck, 1828), Orientogalba
viridis (Quoy et Gaimard, 1832), Gyraulus
convexiusculus (Hutton, 1849) và Bithynia
siamensis (Lea, 1856). Qua đó thấy được ốc
nước ngọt khá phong phú trong ruộng lúa ở
huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Tuy nhiên
vẫn chưa có nghiên cứu nào thực hiện trên
kênh cấp nước cho ruộng lúa nhằm để tìm
mối liên hệ giữa thành phần loài ốc trong
ruộng lúa và kênh cấp nước cho ruộng lúa
tại huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Vì vậy,
nghiên cứu chỉ số đa dạng, chỉ số đồng đều
và thành phần loài ốc trong kênh cấp nước
cho ruộng lúa của huyện Đức Huệ, tỉnh Long
An đã được thực hiện.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành thu mẫu ngoài thực
địa trong mùa mưa (tháng 10/2023) và mùa
khô (tháng 1/2024) trong 30 kênh cấp nước
trực tiếp cho ruộng lúa ở 9 xã của huyện Đức
Huệ, tỉnh Long An, gồm có: Đông Thành,
Mỹ Thạnh Bắc, Mỹ Quý Tây, Mỹ Thạnh
Đông, Mỹ Bình, Bình Hòa Nam, Bình Hòa
Bắc và Bình Thành (Hình 1).
2.2. Phương pháp thu mẫu ốc
Ốc được thu từ các kênh cấp nước cho
ruộng lúa bằng cào có kích thước 25cm ×
25cm và cào sâu 10cm, mắt lưới rộng 0,5cm.
Tiến hành lấy mẫu ốc bằng cào cách bờ 1m
và cào hướng vào mép bờ kênh [12]. Tại mỗi
kênh cấp nước thu mẫu ở 5 vị trí khác nhau
tại, điểm đầu tiên tại đầu kênh cấp nước vào
ruộng, các điểm thu cách nhau 100m. Tổng
30 kênh sẽ có 150 cào ốc/mùa hay 300 cào/2
mùa. Số lượng ốc thu được trong mỗi cào
được rửa sạch bùn đất và cho vào các túi vải
ẩm và đánh dấu riêng biệt. Sau đó các túi vải
đựng ốc được chuyển về phòng thí nghiệm
Động vật - Khoa Sinh học - Trường Đại học
Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh để phân
tích thành phần loài ốc.
2.3. Phương pháp định danh ốc
Ốc được định danh phân loại theo đặc
điểm hình thái bên ngoài vỏ ốc gồm số vòng
xoắn, chiều xoắn, lỗ rốn, kích thước vỏ,

67
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 35, Số 2 (2024): 65-73
chiều cao tháp ốc, màu sắc và đối chiếu, so
sánh theo mô tả tại các tài liệu phân loại [2,
14, 15]. Xác định loài ngoại lai xâm hại theo
Thông tư số 35/2018/TT-BTNMT [16].
2.4. Phương pháp tính chỉ số đa dạng và chỉ
số đồng đều
- Chỉ số đa dạng được tính theo công thức
tính chỉ số đa dạng của Simpson [17]:
D
N
N
nn
11 1
1
ii
-=--
-
d
]
]
g
g
n
/
Trong đó:
- D là giá trị của chỉ số
- ni là số lượng cá thể của loài thứ i
- N là số lượng cá thể tổng của khu vực
- Trong nghiên cứu này dùng 1-D như vậy
0<D<1
- Chỉ số đồng đều được tính theo công
thức của Shannon (1949) [17]:
J’ = H’/lnS
Trong đó:
- J’ là giá trị chỉ số
- S là tổng số lượng loài trong khu vực
- H’ là chỉ số đa dạng của Shannon được
tính theo công thức
H’ = S(pi × ln pi)
pi là tỷ lệ số lượng cá thể thứ i so với tổng
số lượng cá thể
Hình 1. Vị trí 30 kênh thu mẫu ốc tại huyện Đức Huệ, tỉnh Long An

68
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Phạm Cử Thiện và Nguyễn Hoàng Thạch Thảo
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Thành phần loài ốc trong kênh cấp nước cho ruộng lúa
Qua phân tích và nghiên cứu đối chiếu với các tài liệu phân loại, kết quả thu được 1.204
cá thể ốc gồm 9 loài ốc thuộc 9 giống, 7 họ và 4 bộ (Bảng 1, Bảng 2).
Bảng 1. Vị trí phân loại của các loài ốc thu từ kênh cấp nước cho ruộng lúa
tại huyện Đức Huệ, tỉnh Long An
Bộ Họ Giống Loài
Caenogastropoda Thiaridae Melanoides Melanoides tuberculata (Müller, 1774)
Thiara Mieniplotia scabra (Müller, 1774)
Anentominae Clea Anentome helena (von dem Busch, 1847)
Architaenioglossa Viviparidae Filopaludina Filopaludina sumatrensis (Dunker, 1852)
Idiopoma Idiopoma umbilicata (Lea,1856)
Ampulariidae Pomacea Pomacea canaliculata (Lamarck, 1828)
Littorinimorpha Bithyniidae Bithynia Bithynia siamensis (Lea, 1856)
Hygrophila Bulinidae Indoplanorbis Indoplanorbis exustus (Deshayes, 1833)
Lymnaeidae Lymnaea Orientogalba viridis (Quoy & Gaimard, 1832)
4 bộ 7 họ 9 giống 9 loài
Các loài được tìm thấy bao gồm
Melanoides tuberculata (Muller, 1774),
Mieniplotia scabra (Muller, 1774),
Anentome helena (von dem Busch, 1847),
Filopaludina sumatrensis (Dunker, 1852),
Idiopoma umbilicata (Lea,1856), Pomacea
canaliculata (Lamarck, 1828), Bithynia
siamensis (Lea, 1856), Indoplanorbis
exustus (Deshayes, 1833) và Orientogalba
viridis (Quoy & Gaimard, 1832). Trong đó
loài ốc bươu vàng là loài có số lượng cá
thể ốc nhiều nhất với 495 cá thể. Tiếp đến
là loài Filopaludina sumatrensis với tổng
358 cá thể và Bithynia siamensis với 117 cá
thể. Tuy nhiên, ba loài có sự hiện diện ở tất
cả các kênh trong nghiên cứu là Pomacea
canaliculata, Filopaludina sumatrensis và
Idiopoma umbilicata (Bảng 2). Kết quả có
sự tương quan với nghiên cứu tại ruộng lúa
huyện Đức Huệ về tần suất xuất hiện cao
của các loài Filopaludina sumatrensis và
Pomacea canaliculata [13]. Thực tế cho thấy
người dân thường sử dụng máy bơm để bơm
trực tiếp nước từ kênh vào trong ruộng và
các mương dẫn nước cho ruộng khiến cho
ốc từ trong kênh đi vào ruộng lúa canh tác.
Đồng thời khu vực đất canh tác lúa huyện
Đức Huệ thường bị phèn nặng vào đợt mùa
mưa, do đó việc “rửa phèn” diễn ra thường
xuyên bằng cách bơm dẫn nước ngọt từ các
kênh cấp nước vào ruộng để ngâm rửa phèn,
nên tạo điều kiện cho ốc từ kênh lên ruộng
sinh sống và phát triển, trong đó có ốc bươu
vàng có khả năng thích nghi tốt với điều kiện
nước phèn. Do đó, việc rửa phèn trên các
đồng ruộng cũng tạo điều kiện cho loài ngoại
lai ốc bươu vàng xâm hại sinh sôi và phát
triển. Điều đó thể hiện qua số lượng ốc bươu
vàng trong ruộng lúa và các kênh cấp nước
cho ruộng đều xuất hiện với tần suất cao:
đứng thứ nhì về thành phần loài trong ruộng
lúa và đứng đầu về số lượng cá thể ốc ở trong
các kênh dẫn nước cho ruộng lúa tại địa bàn
huyện Đức Huệ. Kết quả này cũng tương tự
như nghiên cứu trong kênh cấp nước cho ao
nuôi cá ở huyện Bình Chánh của Thành phố
Hồ Chí Minh cho thấy ốc bươu vàng cũng
chiếm tỷ lệ lớn nhất [12].

69
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 35, Số 2 (2024): 65-73
Bảng 2. Danh mục các loài ốc thu từ kênh cấp nước cho ruộng lúa tại huyện Đức Huệ, tỉnh Long An
TT Tên khoa học
Số cá
thể
tổng
hai
mùa
Mùa Phân bố
Khu vực
Mùa
mưa
Mùa
Khô
Đông
thành
Mỹ
Thạnh
Bắc
Mỹ
Quý
Đông
Mỹ
Quý
Tây
Mỹ
Thạnh
Đông
Mỹ
Bình
Bình
Hòa
Nam
Bình
Hòa
Bắc
Bình
Thành
1Melanoides tuberculata
(Muller, 1774) 24 + + + + +
2Mieniplotia scabra
(Muller, 1774) 16 + + + + + +
3Anentome helena (von
dem Busch, 1847) ** 21 + + + + + + + +
4
Filopaludina
sumatrensis (Dunker,
1852) *
358 + + + + + + + + + + +
5Idiopoma umbilicata
(Lea,1856) * 52 + + + + + + + + + + +
6Pomacea canaliculata
(Lamarck, 1828) *** 495 + + + + + + + + + + +
7Bithynia siamensis
(Lea, 1856) 175 + + + + + + + + + +
8Indoplanorbis exustus
(Deshayes, 1833)** 30 + + + + + + + +
9
Orientogalba viridis
(Quoy & Gaimard,
1832)
33 + + + + + + +
Chú thích:
+: có sự hiện diện
*: loài được dùng làm thực phẩm
**: loài được dùng làm cảnh
***: loài ngoại lai gây hại
3.2. Đặc điểm khu hệ ốc trong kênh cấp
nước cho ruộng lúa ở huyện Đức Huệ
Trên tổng số 1.204 cá thể ốc trên cả hai
mùa mưa và mùa khô cho thấy sự đa dạng
phong phú về thành phần họ, giống, loài của
hệ ốc nước ngọt tại huyện Đức Huệ.
Về bậc bộ: tất cả các bộ ốc trong các kênh
cấp nước cho ruộng lúa ở Đức Huệ nằm trong
lớp Gastropoda. Có tất cả 4 bộ được tìm thấy
gồm Caenogastropoda, Architaenioglossa,
Littorinimorpha, Hygrophila đều có 2 họ,
trừ bộ Littorinimorpha chỉ có 1 họ duy
nhất. Trong đó các bộ Caenogastropoda,
Architaenioglossa chiếm 2 họ, 6 giống, 3
loài (chiếm 33,33% tổng số loài); tiếp đến
là họ Hygrophila có 2 họ, 2 giống tương ứng
2 loài được ghi nhận (chiếm 22,22% tổng số
loài); cuối cùng là bộ Littorinimorpha có 1
họ, 1 giống và 1 loài (chiếm 11,11% tổng số
loài) (Bảng 3).