Nghiên cứu về mô hình giáo dục hòa nhập cho
trẻ rối loạn phát triển trong trường mầm non
Lê Ánh Nguyệt, Dương Thị Hoài, Phạm Th Huế, Bùi Thị Kim
Xuân, Trần Văn Công
Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tóm tắt:
Bài viết gii thiu v mô hình giáo dục hòa nhp cho tr ri loạn phát triển (bao
gồm các nhóm tr ri loạn phát triển trí tuệ, các rối lon giao tiếp, rối loa
n ph
kỷ, i loa
n tăng đô
ng giam chu y, v.v.) ti một trường mầm non trên địa bàn
Nội. Các phương pháp phỏng vấn, điều tra bng bng hỏi đã được s dụng trên
ban giám hiệu nhà trường, các giáo viên, phụ huynh người quản lớp can
thiệp hòa nhập để tìm hiểu lch s hình thành, động hình thành hình giáo
dục hòa nhập, đánh giá, phản hồi đề xuất cho mô hình giáo dục hòa nhập. Kết
qu nghiên cu cho thy vic t chc lp can thiệp trong trưng mm non cho tr
rối loạn phát triển những ưu điểm như sự tin li, gim thời gian s vt
v do đưa đón, trẻ sự thay đổi tiến b nhất định. Tuy vy nh cũng
nhiu hn chế khó khăn, đc biệt v vic quản lớp việc trao đổi thông
tin giữa các bên liên quan.
T khóa: mô hình giáo dục hòa nhập, go dục hòa nhập, can thip sm, mm
non, ri loạn phát triển.
1. Đặt vấn đề
Sự gia tăng số lượng trẻ rối loạn phát triển, điển hình trẻ rối loạn phổ
tự kỷ khuyết tật trí tuệ kéo theo những thách thức mới, trước hết với gia đình
trẻ rối loạn phát triển, sau đó nhà trường, hội. Việc có con thuộc nhóm
rối loạn phát triển đồng nghĩa với việc phụ huynh thêm những mối lo về việc cho
con học trường o, làm sao để tăng cường giờ can thiệp cá nhân cho con
vẫn giờ học hòa nhập cùng các trẻ khác. m sao để con vừa môi trường
hòa nhập tốt, vừa nơi can thiệp tốt, vừa đảm bảo việc đưa đón thuận tiện, phù
hợp với thời gian của phụ huynh, luôn là một thách thức.
Giáo dục hòa nhập xu thế chung của xã hội hiện nay. Trên thế giới, giáo
dục hòa nhập đã đưa vào thành chính sách với tất cả các trẻ em, đến nay đã
158 quốc gia thông qua Công ước Liên hợp quốc về Quyền của Người khuyết tật
(CRPD1) trong đó Điều 24 cam kết thực hiện hệ thống giáo dục hòa nhập cho tất
cả mọi người. Các quan sát viên của ủy ban CRPD trách nhiệm giám sát
báo cáo lại nhng sai phạm, sự phân biệt ở các quốc gia trong quá trình thực hiện
Công ước Liên hợp quốc về quyền của Người khuyết tật. Cho đến nay nhiều quốc
1 http://www.ohchr.org/EN/HRBodies/CRPD/Pages/CRPDIndex.aspx
gia như Canada, Anh, Phn Lan, Kenya, Lebanon, New Zealand, Th N Kỳ,
v.v. đều bắt đầu thc hiện các chính sách về giáo dục hòa nhập cho tr khuyết tt.
Ti Mỹ, các bang khác nhau cũng thành lp những trung tâm về giáo dục hòa
nhp cấp bang để đảm bảo chính sách quyền li cho tr nhu cầu đặc bit.
Tt c các trẻ em bao gồm các trẻ HIV/AIDS; tr khuyết tật, tàn tt, tr em m
côi, v.v. đều có quyền nhận được s h tr như nhau [5, tr. 7].
Ở Việt Nam năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cam kết với định hướng
về giáo dục hòa nhập trên cả nước, đến năm 2006, Bộ đã thông qua Nghị định về
giáo dục hòa nhập dành cho trẻ khuyết tật. Năm 2010, Luật về người khuyết tật
được ban hành một lần nữa khẳng định cam kết của Chính phViệt Nam trong
việc cung cấp hội giáo dục cho toàn hội, theo đó khẳng định cung cấp giáo
dục hòa nhập cho tất cả các trẻ em khuyết tật [8]. Tuy vậy, trên thực tế công tác
giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tât nói chung, trẻ rối loạn phát triển nói riêng
vẫn là bài toán khó, cần thêm nhiều hỗ trợ từ nhà trường, cộng đồng và xã hội.
Trên thế giới, lĩnh vực giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật nói chung
trẻ có rối loạn phát triển nói riêng đã được quan tâm và tìm hiểu từ lâu. Ví dụ các
nghiên cứu về các chương trình, phương pháp, nội dung giảng dạy, các kỹ thuật
hỗ trợ của các tác giả Stainback Stainback (1996), tác giả Lipsky Gartner
(1997), Wagner (2002) [15], [12], [20]. Một số nghiên cứu khác đã đánh g
xem xét các chính sách giáo dục hòa nhập như Sayed Soudien (2005), Lambe
(2007) [14], [10]. Nhóm tác giả Hoskin, Boyle Anderson (2015) tìm hiểu về
thái độ của giáo viên đối với giáo dục hòa nhập, cụ thể các tác giả đã tìm ra rằng
thái độ của giáo viên đã được xác định một yếu tố quan trọng đối với sự thành
công của giáo dục hoà nhập [9].
Tại Việt Nam, giáo dục hòa nhập được nhắc đến trong nhiều nghiên cứu và
các bài viết tại các hội thảo, ví dụ hội thảo về giáo dục hòa nhập lý luận và thực
tiễn tại hội thảo của Trường Cao đẳng phạm TW TP.HCM tháng 4/2014 đã
giới thiệu các hình cho trẻ đặc biệt, các biện pháp hỗ trợ trẻ hòa nhập, đi học
tại trường tiểu học [22].
Việt Nam đã một số nghiên cứu thống được thực hiện bởi Bộ
Giáo dục Đào tạo về nhu cầu giáo dục trẻ khuyết tật [3], [6]. Một số nghiên
cứu khác, dụ như của các nhóm tác giả Nguyễn Xuân Hải, nhóm tác giả
Nguyễn Văn Lê, đã tập trung vào thực trạng đào tạo hoặc nguồn nhân lực cho can
thiệp sớm giáo dục trẻ khuyết tật, bao gồm việc đào tạo cán bộ, giáo viên viên
[7], [11]; hoặc về vấn đề quản học sinh, đặc biệt quản hành vi học sinh
khuyết tật trong lớp học hòa nhập [13], [16], [18].
Nhìn chung hầu hết các nghiên cứu về giáo dục hòa nhập Việt Nam tập
trung vào nhóm trẻ khuyết tật nói chung, cụ thể các dạng khuyết tật ―truyền
thống‖ đã được công nhận bởi chính sách luật pháp như khuyết tật vận động,
khuyết tật nghe nói, khuyết tật nhìn, khuyết tật trí tuệ, v.v. chứ chưa chú ý nhiều
tới nhóm khuyết tật ―mới‖ như rối loạn phổ tkỷ hay tăng động giảm tập trung
[21, tr. 33]. Trong phạm vi khảo sát, chúng tôi chưa thấy nghiên cứu quy
lớn nào v mô hình giáo dục hòa nhập dành riêng cho tr có rối loạn phát triển
trong trường mm non.
2. Ni dung
2.1. Các khái niệm cơ bản
2.1.1. Tr ri loạn phát triển
Theo tiêu chí của S tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần phiên
bản 5, năm 2013 (DSM-52) ca Hip hội tâm thn hc Hoa K, rối loạn phát triển
là một nhóm các rối loạn khởi phát sớm trong quá trình phát triển , thươ
ng ơ
thơ
i
điêm trươ
c khi tre đên trươ
ng va đươc đă
c trưng bơ
i nhưng thiêu hut phat triên,
đon đên suy yêu chư
c năng ca nhân , xã hội, học tập hoặc nghề nghiệp . Phạm
vi cua cac thiêu hut phat triên rât đa da
ng ,
nhưng thiêu sot rât cu thê cua viê
c
học tập hoặc kiểm soát các chức năng lập kế hoạch đế n sư suy yêu tông thê cua
các kỹ năng xã hội hoặc trí tuệ. i loa
n phat triên thươ
ng xuât hiê
n đông thơ
i vi
nhau; dụ, tr bị rối loạn phổ tự kỷ thường khuyết tật trí tuệ , tr tăng động gim
tập trung thường có khó khăn học tp. Đối với một số rối loạn, biêu hiê
n lâm sang
bao gôm cac triê
u chư
ng như suy giam va chm trê trong viê
c đa
t đươc cac môc
phát triển mong đợi (DSM-5).
Cũng theo DSM-5, ri loạn phát trin có những loại chính thường gp
như sau:
- Khuyết tật trí tu (hay ri loạn phát triển trí tuệ): Các khuyết tật vĩnh viễn do
nhng suy yếu v cơ th và/hoặc tâm thn bắt đầu t trước tuổi 18 ảnh hưởng
đến hoạt động chức năng hàng ngày ở ba hoặc hơn các lĩnh vực: Sống độc lp; T
túc v kinh tế; Hc tp; Vn động cơ thể; Ngôn ngữ; T chăm sóc.
- Ri lon giao tiếp: Ri lon giao tiếp bao gm nhng suy yếu v ngôn ngữ, li
nói giao tiếp. Lời nói sn phm bc l ra bên ngoài của âm thanh bao
gồm cách phát âm ràng, s trôi chy, giọng nói chất lượng v độ vang. Các
ri lon giao tiếp thường xut hiện đồng thi vi ri lon ph t k, ri loạn tăng
động gim tập trung và các khuyết tt hc tp.
- T k/ ri lon ph t k: T k (Autism), hay ri lon ph t k (Autism
Spectrum Disorder, viết tắt ASD) đều nhng thut ng nói đến một nhóm
của các rối lon phc tp trong s phát triển của não bộ. Nhóm ri loạn này được
đặc trưng bởi những khó khăn trong tương tác xã hi, giao tiếp bng lời và không
lời, các hành vi sở thích định hình lặp li.
- Ri loạn tăng động giảm chú ý (ADHD): ADHD rối loạn tâm thần thần
kinh-hành vi, đặc trưng bởi khó khăn trong việc tp trung hoặc tăng hoạt đng /
xung động hay kết hp c gim tập trung chú ý tăng hoạt động - xung động.
ADHD là dng ri loạn phát triển ph biến tr em, chiếm khoảng 2% đến 8%
tr em tuổi đến trường.
Các rôi loa
n phat triên thươ
ng gă
p ơ
tre em lai lon phát triển trí tuệ, ri
lon giao tiếp, rối loa
n phổ ky, i loa
n tăng đô
ng giam chú ý.
2.1.2. Giáo dục hòa nhập và mô hình giáo dục hòa nhập
Giáo dục hòa nhập một quá trình tìm hiểu đáp ng nhu cầu đa dạng
ca tt c các học sinh bằng cách giúp các em tham gia nhiều hơn vào học tp,
2 Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders, 5th Edition
tăng cường cơ hội tri nghiệmm giảm tách biệt trong giáo dục và các hoạt động
khác. Để đạt được mục tiêu giáo dục hòa nhập, đòi hỏi phải có những thay đổi
điu chỉnh rệt trong ni dung, tiếp cận, quá trình thc hin, cấu trúc, biện pháp
dạy và học theo quan đim chung của Giáo dục cho mi người mà giáo viên đóng
vai trò quan trọng không thể thay thế [4].
―Giáo dục hòa nhập một quá trình liên tục nhm cung cp mt nền giáo
dc chất lượng v nhu cu, kh năng, đặc điểm và kỳ vng trong hc tp của các
em học sinh và cộng động và loại b các hình thức phân biệt đi x(Kết luận
kiến ngh ca k hp th 48 ca Hi ngh quc tế v giáo dục hòa nhập, Geneva,
tháng 11, 2008) [4, tr.4].
Giáo dục hòa nhập không đơn thuần phương thức giáo dục trong đó trẻ
khuyết tật cùng học vi tr bình thường trong trường ph thông ngay tại nơi tr
sinh sống mà một quá trình thay đổi cải tiến năng động mà đó hệ thng
giáo dục mỗi đơn vị nhà trường, cán bộ quản lý, giáo viên xác định được nhu
cầu giáo dục ca tt c các học sinh, không s phân biệt đối x [2]. Theo quan
điểm đó, trẻ khuyết tật được coi chủ th ch không phải đối tượng th động
tiếp nhn, mi tr là một cá nhân, một nhân tố có năng lực khác nhau, cách học và
tốc độ học khác nhau. Giáo dục hòa nhập hình giáo dc tr khuyết tt hiu
qu nht bởi các trẻ khuyết tật được học cùng một chương trình giáo dục với các
tr em bình thường khác. Bên cạnh đó chương trình phương pháp giảng dy,
cách đánh giá cũng được điều chỉnh, đi mới phù hợp để đáp ng nhu cầu, năng
lc ca tr khuyết tật đảm bảo cho các trẻ kiến thc chung, tng th cân đối
[21, tr. 222].
Can thip sớm h thng các dch v cung cp cho tr tuổi đến trường
hoặc trước tuổi đến trường b phát hiện nguy cao về các khiếm khuyết
phát triển hoc cần những nhu cầu đc biệt để thể tác động đến quá trình
phát triển. Can thip sm bao gm c vic cung cấp các dịch v đáp ng nhu cu
ca tr gia đình trẻ. Can thip sớm th khc phc hoặc phòng chống mt
cách tự nhiên nhằm phòng tránh các vn đề v phát triển cũng như ngăn chặn các
khiếm khuyết tiếp tc xy ra [17].
Như vậy, mô hình giáo dục hòa nhập cho tr ri loạn phát triển trong
trường mm non thể hiểu việc can thip sm trong một môi trường hòa
nhp. Trong đó, tr vừa được đm bo tt c các quyn li v giáo dục như mọi
tr em khác (tức cùng đi học, cùng sinh hoạt với các trẻ khác) lại vừa được h tr
thêm nhm ci thiện các vấn đề trẻ đang gặp phải thông qua giáo dục cá nhân
hoặc nhóm.
2.2. hình giáo dục a nhập cho tr rối loạn phát triển trong trường
mm non
Thut ng giáo dục hòa nhập đưc s dng t nhng năm 70 của thế k
trước. Năm 2006, Liên hp quốc đã đảm bảo giáo dục hòa nhập đưc s ghi
nhn mang tính quc tế với Công ước v Quyn của Người khuyết tt, trong đó
ghi rõ: Với mục đích hiện thực hóa quyền được giáo dục không phân biệt
dựa trên bình đẳng cơ hội, các chính phủ phải đảm bo mt h thống giáo dục hòa
nhp ti mi cp học sự hc hi suốt đời hướng ti s phát triển trn vn tim
năng của con ni,s phát triển của người khuyết tt v mặt tính cách, năng
khiếu s sáng tạo cũng như các kh năng trí tu thể chất đến mc cao nht
thể;cho phép người khuyết tật thể tham gia kết qu trong một hội t
do [8].
Hướng dẫn chính sách giáo dục hòa nhập của UNESCO năm 2009 đã nêu
giáo dục hòa nhập quá trình trong đó các trường và các sở giáo dục cần
những hỗ trợ cho tất cả các trẻ em bao gồm cả những trẻ khuyết tật và khó
khăn trong việc học [19].
nhiều nước trên thế giới, giáo dục hòa nhập dành cho tr ri loạn phát
triển được đưa vào chương trình chung. M hẳn mt luật quy đnh v chính
sách các dch v cung cp cho tr khuyết tt. Theo Luật giáo dục nhân trẻ
khuyết tt (IDEA) cho thy nhng nhu cầu giáo dục ca tr khuyết tt t sinh
đến 26 tui trong những trường hp thuc 13 loi khuyết tật đã được quy định
[21].
Chính sách giáo dục hòa nhập được tiến hành ở các cấp t mm non cho ti
trung hc ph thông. Theo đó các trẻ này cần hc lớp bình thường gần như c
ngày hoặc ít nhất hơn nửa ngày. Bất c lúc nào trẻ có thể nhận được ngun h tr
hoc nhng cấu trúc đc bit ngay trong lp học trẻ được đối x như một
thành viên của lp. Vi những yêu cầu đặc biệt khác (âm ng tr liệu, điều hòa
cảm giác, trị liu vật lý, v.v.), có thể làm gián đoạn c quá trình của lp hc, tr s
được đưa ra ngoài lớp để tiếp nhận các dịch v [2].
Giáo dục hòa nhập nên bắt đầu từ lứa tuổi mẫu giáo/mầm non bởi rất nhiều
nguyên nhân như: mỗi đứa trẻ đều hội lớn để sống; giáo dục hòa nhập t
đầu giáo dục hòa nhập trong tương lai; giáo dục hòa nhập sớm có nghĩa là mọi
người đều được hưởng lợi ích, bao gồm cả trẻ khuyết tật các trẻ bình thường;
giáo dục hòa nhập ớng tới những tình bạn thật sự mà gây dựng từ mầm non
mẫu giáo dễ dàng hơn [2].
Như chúng tôi đã nhấn mạnh, hình giáo dục hòa nhập cho trẻ rối loạn
phát triển trường mầm non có thể hiểu việc can thiệp sớm trong môi trường
hòa nhập. Các trẻ đảm bảo tuân thủ các quy trình của giáo dục hòa nhập: (1.)
Tìm hiểu khả năng nhu cầu của trẻ khuyết tật bằng các phương pháp quan sát,
phỏng vấn…; (2.) Xây dựng mục tiêu lập kế hoạch giáo dục nhân; (3.) Tổ
chức thực hiện; (4.) Đánh giá kết quả giáo dục trẻ khuyết tật (thông qua các
phương pháp quan sát, phỏng vấn, đánh giá qua sản phẩm, test, tự đánh giá và tập
thể đánh giá) [3, tr.18-34].
Các chương trình hỗ trợ giáo dục hòa nhập cho trẻ mầm non đều nằm trong
chính sách nhiều nước phát triển như Anh, Maryland, Australian, M. Việt
Nam, chính sách dành cho trẻ đã được đề cập đến trong nhiều văn bản chính sách,
các cam kết quốc tế. Cụ thể là Công ước về Quyền của Người khuyết tật (CRPD)
vào thàng 10/2007; Luật Người khuyết tật 20120; Chiến lực Kế hoạch giáo
dục trẻ khuyết tật giai đoạn 2007 – 2010 tầm nhìn 2015 v.v. Nhiều hội thảo, dự án
thí điểm cũng được tiến hành trong thời gian qua như Dự án Giáo dục Hòa nhập
tại tỉnh Bắc Kạn của Handicap International; Trung tâm Hỗ trợ Giáo dục hòa