intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu những bất thường não ở trẻ em động kinh bằng hình ảnh học

Chia sẻ: Ro Ong Kloi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

64
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung của bài viết trình bày về đặc điểm hình ảnh học sọ não trong bệnh động kinh ở trẻ em. Kết quả nghiên cứu cho thấy, hình ảnh học sọ não cần được khảo sát ở những trẻ động kinh có cơn co giật cục bộ, sóng dạng động kinh cục bộ, khám thần kinh bất thường hay chậm phát triển tâm thần vận động.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu những bất thường não ở trẻ em động kinh bằng hình ảnh học

Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> NGHIÊN CỨU NHỮNG BẤT THƯỜNG NÃO  <br /> Ở TRẺ EM ĐỘNG KINH BẰNG HÌNH ẢNH HỌC <br /> Lê Văn Tuấn*, Lê Thụy Minh An* <br /> <br /> TÓM TẮT <br /> Mục tiêu: mô tả đặc điểm hình ảnh học sọ não trong bệnh động kinh ở trẻ em.  <br /> Phương pháp nghiên cứu: 96 trẻ em bị bệnh động kinh nhập khoa nội thần kinh và phòng khám bệnh viện <br /> Nhi đồng 2 từ 10/2012 – 03/2013 được đánh giá về lâm sàng, hình ảnh MRI và CT‐Scan sọ não, mối liên quan <br /> giữa hình ảnh học và đặc điểm lâm sàng.  <br /> Kết quả: Tuổi trung bình: 4,6. Cơn động kinh toàn thể chiếm 53,1%, cục bộ: 31,3%, cơn không phân loại <br /> được 15,6%. Cơn co cứng‐co giật chiếm 41,7% các cơn động kinh toàn thể nguyên phát. Có 72/96 trẻ được chụp <br /> MRI não, trong đó bất thường MRI chiếm 43,1% (31/72). Tổn thương chất trắng chiếm tỷ lệ cao nhất: 35,48%. <br /> Có 32/96 trẻ được chụp CT‐Scan não, trong đó bất thường CT‐Scan chiếm 46,9% (15/32). Bất thường trên CT‐<br /> Scan thường gặp nhất là mất thể tích: 46%. Bất thường hình ảnh thường gặp hơn ở trẻ có cơn co giật cục bộ/ <br /> sóng  động  kinh  cục  bộ  trên  EEG(p=0,01),  trẻ  chậm  phát  triển  tâm  thần  vận  động  (p=0,043)  hay  trẻ  có  bất <br /> thường  khi  thăm  khám  thần  kinh  (p=0,045).Không  có  mối  liên  quan  giữa  bất  thường  hình  ảnh  và  giới  tính <br /> (p=0,931) hay có sóng động kinh trên EEG (p=0,649). <br /> Kết luận: Hình ảnh học sọ não cần được khảo sát ở những trẻ động kinh có cơn co giật cục bộ, sóng dạng <br /> động kinh cục bộ, khám thần kinh bất thường hay chậm phát triển tâm thần vận động. <br /> Từ khóa: động kinh, trẻ em, hình ảnh học, MRI, CT‐Scan, EEG. <br /> <br /> ABSTRACT <br /> NEUROIMAGING ABNORMALITIES IN EPILEPTIC CHILDREN <br /> Le Van Tuan, Le Thuy Minh An * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 532 ‐ 538 <br /> Objective: To describe neuroimaging characteristics in epileptic children.  <br /> Method: 96 epileptic children admitted to neurology department and clinic of Children hospital 2 – Ho Chi <br /> Minh  city  from  October  2012  to  March  2013  surveyed  about  the  characteristics  of  head  magnetic  resonance <br /> imaging  (MRI)  and  computed  tomography  (CT);  the  correlation  between  clinical  feature  and  neuroimaging <br /> abnormalities.  <br /> Results: Average age is 4.6. 53.1% children presented with focal, 31.3% with generalized and 15.6% with <br /> undetermined  seizures.  In  generalized  group,  tonic‐clonic  epilepsy  rate  is  41.7%.  72  children  had  head  MRI, <br /> abnormal MRI is 43.1%. The highest abnormality rate in MRI is white matter lesion (35.48%). 32 children had <br /> head  CT,  abnormal  CT  was  seen  in  46.9%.  The  highest  abnormality  rate  on  CT‐Scan  is  volume  loss  (46%). <br /> Abnormal  neuroimaging  findings  had  significant  relation  with  focal  seizure  or  focal  epileptic  wave  on  EEG <br /> (p=0.01), mental retardation (p=0.043), or abnormal neurological exam. There is not relation between abnormal <br /> neuroimaging and sex (p=0.931), present of epileptic wave on EEG (p=0.649).  <br /> Conclusion: We recommend that neuroimaging should be done in epileptic children with focal seizure or <br /> focal epileptic wave on EEG, mental retardation or abnormal neurological exam. <br /> Keywords: epilepsy, children, neuroimaging, MRI, CT, EEG. <br /> * Bộ môn Thần Kinh, ĐH Y Dược TP.HCM  <br /> Tác giả liên lạc: BS. Lê Thị Minh An<br /> <br /> 532<br /> <br /> T: 0903754494<br /> <br /> Email: minhan0402@gmail.com<br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ <br /> Động  kinh  là  tình  trạng  bệnh  lý  ở  não,  đặc <br /> trưng bởi sự phóng lực quá mức và đồng bộ của <br /> một  nhóm  neuron  trong  não  hay  của  toàn  bộ <br /> não, biểu hiện lâm sàng bởi những cơn đột ngột <br /> và lặp lại. Đây là bệnh phổ biến trên thế giới và <br /> đặc  biệt  ở  những  nước  đang  phát  triển.  Hàng <br /> năm có khoảng 1,12 triệu trẻ em mới mắc động <br /> kinh ở những nước đang phát triển (10). Tỷ lệ mới <br /> mắc  cộng  dồn  của  bệnh  trong  cả  cuộc  đời  là <br /> 3,6%  và  hơn  một  nửa  khởi  phát  ở  trẻ  nhỏ  (10). <br /> Bệnh động kinh ảnh hưởng không nhỏ đến đời <br /> sống  của  người  bệnh.  Ngoài  ra,  đối  với  trẻ  em, <br /> bệnh động kinh còn kết hợp  với  nhiều  rối  loạn <br /> về  học  tập,  hành  vi  và  tình  cảm  cũng  như  ứng <br /> xử xã hội. <br /> Chụp cắt lớp điện toán (CT‐scan) trước đây <br /> không phát hiện được  hết  những  nguyên  nhân <br /> hay bệnh học tiềm ẩn của bệnh động kinh. Tuy <br /> nhiên,  CT‐scan  sọ  não  vẫn  có  một  vai  trò  quan <br /> trọng  trong  việc  đánh  giá  những  bệnh  nhân <br /> động kinh mà có nguyên nhân cấp tính đe dọa <br /> tính mạng.  <br /> Cộng  hưởng  từ  (MRI)  có  độ  nhạy  cao  hơn <br /> CT‐Scan  vì  MRI  có  thể  phát  hiện  những  bất <br /> thường và tổn thương loạn sản ở vùng hải mã, <br /> là  một  vị  trí  khởi  phát  động  kinh  thường <br /> gặp(2,7,11).  Ngày  nay,  sự  phát  triển  MRI  độ  phân <br /> giải  cao  với  phác  đồ  dành  cho  bệnh  động  kinh <br /> có ảnh hưởng lâm sàng lớn trong việc chẩn đoán <br /> và  quản  lý  bệnh  động  kinh  vì  nó  hỗ  trợ  trong <br /> việc  phân  loại,  phát  hiện  tổn  thương  cấu  trúc, <br /> tiên  lượng  tái  phát,  sự  kháng  trị  lâu  dài  với <br /> thuốc chống động kinh và xác định những bệnh <br /> nhân thích hợp với phẫu thuật. Do đó, Liên Hội <br /> Quốc  Tế  Chống  Động  Kinh  (ILAE)(1997)  đã <br /> khuyến  cáo  dùng  phác  đồ  MRI  dành  cho  bệnh <br /> động kinh cho tất cả những bệnh nhân với cơn <br /> co  giật  mới  lần  đầu  hay  bệnh  động  kinh  mới <br /> chẩn  đoán  trong  tình  trạng  không  khẩn  cấp(2). <br /> Thêm vào đó, ILAE cũng khuyến cáo chụp MRI <br /> cho những bệnh nhân động kinh kháng trị.  <br /> Có khoảng  16‐21%  những  bất  thường  trên <br /> MRI sọ não được phát hiện ở trẻ bị bệnh động <br /> <br /> Thần Kinh <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> kinh  và  hầu  hết  những  tổn  thương  cấu  trúc <br /> này  là  những  thiếu  sót  di  truyền,  hội  chứng <br /> thần  kinh‐bì,  bệnh  ác  tính  và  những  bằng <br /> chứng bệnh não do chấn thương, nhiễm trùng <br /> hay  ngạt(2,18).  Nghiên  cứu  này  được  tiến  hành <br /> với mục đích khảo sát những bất thường trên <br /> hình ảnh học sọ não ở trẻ em động kinh và mối <br /> liên  quan  giữa  các  đặc  điểm  lâm  sàng  và  kết <br /> quả hình ảnh học đó.  <br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU <br /> Tiêu chuẩn chọn bệnh <br /> Trẻ  em  được  chẩn  đoán  bệnh  động  kinh, <br /> nhập khoa thần kinh và phòng khám bệnh viện <br /> Nhi đồng 2 từ 10/2012 – 03/2013. <br /> <br /> Tiêu chuẩn loại trừ:  <br /> Trẻ không được khảo sát hình ảnh học hay bị <br /> co giật do một nguyên nhân cấp tính đã xác định.  <br /> <br /> Thu thập số liệu <br /> Phỏng vấn trực tiếp theo bảng câu hỏi, thăm <br /> khám  và  đọc  EEG,  MRI,  CT‐Scan  sọ  não  của <br /> bệnh nhi. <br /> <br /> Công cụ thu thập số liệu <br /> Bảng thu thập số liệu. <br /> <br /> Các biến số thu thập <br /> Tuổi,  giới,  tiền  căn  gia  đình  bị  động  kinh, <br /> tiền căn bệnh lý của bản thân, sự phát triển tâm <br /> thần  vận  động,  loại  cơn  động  kinh,  kết  quả <br /> khám thần  kinh,  đặc  điểm  EEG,  đặc  điểm  MRI <br /> và CT‐Scan não. <br /> <br /> KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU <br /> Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là: 4,6.  <br /> Cơn động kinh toàn thể chiếm 53,1%, cục bộ: <br /> 31,3%, cơn không phân loại được 15,6%. Cơn co <br /> cứng‐co  giật  chiếm  41,7%  các  cơn  động  kinh <br /> toàn thể nguyên phát.  <br /> Có  72/96  trẻ  được  chụp  MRI  não,  trong  đó <br /> bất  thường  MRI  chiếm  43,1%  (31/72).  Tỷ  lệ  các <br /> loại  bất  thường  bao  gồm:  bất  thường  vỏ  não: <br /> 16,1%,  nhuyễn  não:  6,45%,  tổn  thương  chất <br /> trắng: 35,48%, mất thể tích: 16,1%, lớn não thất: <br /> 6,45%,  nang:  16,1%  (nang  vách  trong  suốt:  2, <br /> <br /> 533<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> nang  tuyến  tùng:  1,  nang  màng  nhện:  1),  bất <br /> thường  mạch  máu:  6,45%  (u  mạch  não‐tam <br /> thoa:1,  dị  dạnh  tĩnh  mạch:1),  tổn  thương  khác: <br /> 9,67 % (lipoma bể củ não sinh tư: 1, tăng tín hiệu <br /> trên xung khuếch tán: 2).  <br /> Có  32/96  trẻ  được  chụp  CT‐Scan  não,  trong <br /> đó bất thường CT‐Scan chiếm 46,9% (15/32). Tỷ <br /> lệ các loạibất thường bao gồm: mất thể tích: 46%, <br /> nhuyễn  não:  13,3%,  dị  dạng  mạch  máu  não: <br /> 13,3%, tổn thương khác. <br /> : 26,7% (tật không hồi não: 1, vôi hóa :1, nang <br /> vách trong suốt: 2).  <br /> Bất  thường  hình  ảnh  thường  gặp  hơn  ở  trẻ <br /> có  cơn  co  giật  cục  bộ/  sóng  động  kinh  cục  bộ <br /> trên EEG (p=0,01), trẻ chậm phát triển tâm thần <br /> vận  động  (p=0,043)  hay  trẻ  có  bất  thường  khi <br /> thăm  khám  thần  kinh  (p=0,045).Không  có  mối <br /> liên quan giữa bất thường hình ảnh và giới tính <br /> (p=0,931)  hay  có  sóng  động  kinh  trên  EEG <br /> (p=0,649). <br /> <br /> BÀN LUẬN <br /> Đặc điểm lâm sàng <br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi, động kinh <br /> toàn  thể  chiếm  tỷ  lệ  53,1%  nhiều  hơn  so  với <br /> động  kinh  cục  bộ,  cơn  không  phân  loại  được <br /> cũng  chiếm  tỷ  lệ  cao  15,6%.  Khi  so  sánh  với <br /> nghiên  cứu  ở  Tây  Âu(8),  Colombia(19)  và  của  tác <br /> giả L.V.Tuấn  (13) ở Việt Nam thì kết quả lại khác <br /> khi động kinh cục bộ chiếm tỷ lệ cao hơn so với <br /> đông  kinh  toàn  thể.  Điều  này  có  thể  giải  thích <br /> dựa  vào  đối  tượng  nghiên  cứu  khác  nhau  giữa <br /> các  tác  giả,  ở  Tây  Âu  là  người  trưởng  thành,  ở <br /> Colombia  là  dân  số  chung  và  ở  cả  trẻ  em  và <br /> người  lớn  như  trong  nghiên  cứu  của  tác  giả <br /> L.V.Tuấn. Theo một số tác giả, động kinh cục bộ <br /> ưu  thế  ở  người  lớn  còn  động  kinh  toàn  thể  thì <br /> ưu thế ở trẻ em hơn. Nhưng với cùng đối tượng <br /> là  trẻ  em  như  trong  nghiên  cứu  của  tác  giả <br /> L.T.K.Vân (14), kết quả lại khác với chúng tôi. Có <br /> thể  do  độ  tuổi  trung  bình  của  các  nghiên  cứu <br /> khác  nhau  mà  các  tác  giả  trên  không  thống  kê <br /> tuổi  trung  bình  nên  chúng  tôi  không  so  sánh <br /> được. Nhìn chung, tỷ lệ loại cơn động kinh cục <br /> <br /> 534<br /> <br /> bộ hay vận động có thể khác nhau ở các độ tuổi <br /> khác nhau và càng lớn tuổi tỷ lệ cơn động kinh <br /> cục bộ càng chiếm tỷ lệ nhiều hơn. <br /> Trong loại cơn động kinh cục bộ, tỷ lệ cơn <br /> động kinh cục bộ đơn giản là 8,3% cao hơn cục <br /> bộ phức tạp là 5,2%. Kết quả này tương tự với <br /> nghiên cứu của tác giả L.T.K.Vân  (14) khi động <br /> kinh  cục  bộ  đơn  giản  cũng  nhiều  hơn  so  với <br /> cục  bộ  phức  tạp,  điều  nay  có  thể  do  cùng <br /> nghiên cứu trên trẻ em ở bệnh viện Nhi Đồng <br /> 2,  nhưng  lại  khác  với  các  nghiên  cứu  của  tác <br /> giả L.V.Tuấn  (13), ở Tây Âu  (8) do dân số nghiên <br /> cứu  khác  nhau.  Tuy  nhiên  tỷ  lệ  cơn  toàn  thể <br /> hóa  thứ  phát  thì  tương  tự  nhau  giữa  các <br /> nghiên  cứu  ở  khoảng  15%  (8‐19,6%).  Đối  với <br /> các  loại  cơn  động  kinh  toàn  thể  nguyên  phát <br /> thì tỷ lệ thay đổi giữa các nghiên cứu nhưng tỷ <br /> lệ cơn co cứng‐ co giật thì luôn chiếm tỷ lệ cao <br /> nhất trong các loại cơn (9,7 – 41,7%). <br /> Khi  khảo  sát  điện  não  đồ,  nghiên  cứu  của <br /> chúng  tôi  ghi  nhận  được  64/93  trường  hợp <br /> (68,8%)  có  EEG  dạng  động  kinh  phù  hợp  với <br /> lâm  sàng,  tỷ  lệ  này  khá  cao  và  tương  đồng  với <br /> nghiên cứu của tác giả L.T.K.Vân(14) với 68% và <br /> nghiên  cứu  của  Rasool  và  cs(17)  với  bất  thường <br /> EEG  là  155/276  (56,2%)  trẻ.  Còn  trong  nghiên <br /> cứu của Amirsalari(1) có đến 98% có bất thường <br /> EEG.  Tuy  nhiên,  trong  nghiên  cứu  của  tác  giả <br /> L.V.Tuấn(13)  ghi  nhận  chỉ  có  18,6%  sóng  động <br /> kinh phù hợp lâm sàng. Điện não đồ có độ nhạy <br /> tương  đối  thấp  (25‐56%),  độ  đặc  hiệu  cao  hơn <br /> (78‐98%), và điện não đồ ngoài cơn có tỉ lệ bình <br /> thường cao. Sở dĩ có sự khác biệt nhiều trong tỷ <br /> lệ điện não  đồ  bất  thường  giữa  các  nghiên  cứu <br /> có  thể  là  do  chưa  có  một  phác  đồ  đo  điện  não <br /> thống nhất giữa các nghiên cứu, kết quả dương <br /> tính  trên  EEG  còn  phụ  thuộc  vào  nhiều  yếu  tố <br /> như:  thời  điểm  đo  là  trong  cơn  hay  ngoài  cơn, <br /> đo  trong  giấc  ngủ  hay  không,  thời  gian  đo,  số <br /> lần đo điện não đồ, thực hiện các nghiệm pháp <br /> kích thích. <br /> <br /> Đặc điểm MRI não <br /> Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  31/72  trẻ <br /> (43,1%) có bất thường trên MRI. Đây là tỷ lệ phát <br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 <br /> hiện  bất  thường  khá  cao  so  với  những  nghiên <br /> cứu trước đây. Tác giả Rasool(17) nghiên cứu các <br /> trẻ  co  giật  mới  khởi  phát  lần  đầu  không  có  sốt <br /> nhập khoa cấp cứu, hoặc là điều trị nội trú hay <br /> ngoại trú tại các bệnh viện Nhi ở Ấn Độ chỉ ghi <br /> nhận 32/157 (20,4%) trẻ có bất thường trên MRI. <br /> Tác giả Amirsalari(1) nghiên cứu trẻ bị động kinh <br /> mới phát hiện từ 1 đến 15 tuổi điều trị ngoại trú <br /> ở khoa Thần kinh nhi tại bệnh viện ở Iran cũng <br /> ghi nhận 57/200 (28,5%) trường hợp bất thường <br /> trên  MRI.  Sự  khác  biệt  này  là  do  mẫu  nghiên <br /> cứu của chúng tôi vừa bao gồm trẻ đã được chẩn <br /> đoán  động  kinh  vừa  động  kinh  mới  phát  hiện <br /> nên có thể bất thường sẽ xuất hiện nhiều hơn là <br /> khảo sát trên trẻ mới khởi phát co giật lần đầu. <br /> Mặt khác, chúng tôi khảo sát cả bệnh nhi nội trú <br /> và ngoại trú và những bệnh nhi nội trú có tình <br /> trạng bệnh nặng hơn nên có thể tỷ lệ phát hiện <br /> bất thường cao hơn.  <br /> Cũng  nghiên  cứu  ở  Ấn  Độ,  tác  giả <br /> Doescher(6) khảo sát dựa trên cộng đồng những <br /> trẻ  6‐14  tuổi  đã  từng  có  1  cơn  co  giật  lần  đầu <br /> trong 3 tháng vừa qua cũng chỉ ghi nhận 32,6% <br /> có bất thường. Với tỷ lệ này, tác giả cho rằng là <br /> đã cao hơn nhiều so với những nghiên cứu trước <br /> đây do đã sử dụng phần lớn MRI tiêu chuẩn để <br /> đánh giá cùng với sự đồng thuận các chuyên gia <br /> phân  tích  về  hình  ảnh  học  để  có  được  kết  quả <br /> này. Sự khác biệt với nghiên cứu chúng tôi cũng <br /> có thể là do đối tượng nghiên cứu của tác giả là <br /> trẻ  mới  phát  hiện  co  giật  lần  đầu  và  được  tiến <br /> hành trên cộng động khác với nghiên cứu chúng <br /> tôi  là  ở  tại  bệnh  viện,  khi  mà  những  trẻ  nhập <br /> viện thường là  có  bệnh  lý  động  kinh  nặng  hơn <br /> nên dễ phát hiện nhiều tổn thương hơn.  <br /> Cũng  vậy,  tác  giả  Kalnin  và  cs(12)  cũng  tìm <br /> thấy tỷ lệ bất thường MRI chỉ là 31%. Tuy nhiên, <br /> tác  giả  Berg  và  cs(4)  lại  ghi  nhận  có  tới  388/613 <br /> (79,6%)  bất  thường  khi  nghiên  cứu  trẻ  ở <br /> Connecticut, Mỹ. Điều đó vì nghiên cứu tác giả <br /> có tính cả trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Nhiều trong số <br /> những hội chứng động kinh sớm của những trẻ <br /> này có những bất thường cấu  trúc  đơn  độc  mà <br /> nói chung có thể không có liên quan với sự xuất <br /> <br /> Thần Kinh <br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> hiện co giật mới ở thời điểm lớn tuổi hơn. Ví dụ: <br /> một tỷ lệ đáng kể trẻ trong nghiên cứu có những <br /> bệnh lý như là loạn sản vỏ, bất thường gen, và <br /> hội  chứng  thần  kinh  bì  cũng  như  tỷ  lệ  cao <br /> nhuyễn não.  <br /> Như vậy, tỷ lệ bất thường trên hình ảnh học <br /> phụ  thuộc  vào  nhiều  yếu  tố:  đối  tượng  hay  độ <br /> tuổi nghiên cứu, nghiên cứu tại cộng đồng hay <br /> bệnh  viện,  sử  dụng  kỹ  thuật  MRI  độ  phân  giải <br /> cao cùng phác đồ khảo sát bệnh động kinh tiêu <br /> chuẩn,  trẻ  mới  bị  một  cơn  co  giật  hay  đã  chẩn <br /> đoán động kinh. <br /> Trong  những  bất  thường  trên  MRI,  chúng <br /> tôi ghi nhận các loại tổn thương phổ biến nhất <br /> là  tổn  thương  chất  trắng  (11/31,  35,48%),  tiếp <br /> theo  là  tổn  thương  vỏ  não,  nang  và  mất  thể <br /> tích (5/31, 16,1%). <br /> Kết  quả  của  chúng  tôi  cũng  tương  tự  như <br /> của  tác  giả  Kalnin  và  cs(12).  Tác  giả  tìm  thấy <br /> những tổn thương thường gặp nhất ở trẻ mới co <br /> giật  lần  đầu  là  tổn  thương  chất  trắng  (32,2%), <br /> tổn thương khác (26,2%) (lớn khoang ngoài trục, <br /> bất thường hồi hải mã, bất thường cấu trúc khác <br /> có hay không có ý nghĩa, tổn thương mạch máu, <br /> tăng tín hiệu trên xung khuếch tán).  <br /> Nghiên cứu chúng tôi chỉ phát hiện 1 (2,9%) <br /> trường hợp có teo vùng hồi hải mã. Kết quả này <br /> thấp hơn nhiều so với các nghiên cứu khác(3,4,12). <br /> Tỷ  lệ  bất  thường  thùy  thái  dương  trong  và  hải <br /> mã  chiếm  tới  15%  trong  nghiên  cứu  của <br /> Kalnin(12).  Tác  giả  Berg  và  cs(4)  cũng  ghi  nhận <br /> 10% bất thường trên MRI. Còn trong nghiên cứu <br /> của  Wieshmann  và  cs  (2003)(20),  tỷ  lệ  xơ  hải  mã <br /> lên  đến  33%.  Sở  dĩ  có  sự  khác  nhau  trong  các <br /> nghiên  cứu  là  do  việc  sử  dụng  MRI  phân  giải <br /> cao  hay  MRI  tiêu  chuẩn.  Nếu  ở  giai  đoạn  sớm <br /> hơn  của  bệnh,  việc  dùng  MRI  phân  giải  cao <br /> cùng với hệ thống tính  điểm  tiêu  chuẩn  sẽ  làm <br /> tăng  độ  nhạy  để  đánh  giá  tốt  hơn  thùy  thái <br /> dương hay một nơi nào khác.  <br /> Về những tổn thương có ý nghĩa thực sự gây <br /> động kinh, nghiên cứu chúng tôi ghi nhận như <br /> sau:  tổn  thương  vỏ  não  (16,1%),  nhuyễn  não <br /> (6,45%),  mất  thể  tích:  16,1%,  tổn  thương  mạch <br /> <br /> 535<br /> <br /> Nghiên cứu Y học <br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014<br /> <br /> máu  (2/31=6,45%).  Các  tác  giả  Rasool(17), <br /> Doetcher(6),  Kalnin(12)  thì  tìm  thấy  tỷ  lệ  các  bất <br /> thường  trên  MRI  dao  động  trong  khoảng  như <br /> sau: tổn thương vỏ não từ 12,6 – 27,1%, nhuyễn <br /> não  từ  1,7  –  6,3%,  mất  thể  tích  từ  8,5  ‐  25%. <br /> Trong tổn thương vỏ não, nghiên cứu chúng tôi <br /> chỉ  ghi  nhận  được  các  rối  loạn  hình  thành  vỏ <br /> não: loạn sản vỏ não: 2 (1 ở thùy trán, 1 ở vùng <br /> thùy đảo), xơ củ : 2, lớn nửa não: 1. <br /> <br /> Đặc điểm CT‐Scan não <br /> Nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận có 15/32 <br /> trẻ  chụp  CT‐scan  có  kết  quả  bất  thường.  Trong <br /> số những tổn thương được phát hiện thì teo não <br /> lan  tỏa/cục  bộ  chiếm  tỷ  lệ  cao  nhất  46%  (7/15), <br /> còn lại là dị dạng mạch máu não 13,3%, nhuyễn <br /> não  (di  chứng  nhồi  máu  não/xuất  huyết  não) <br /> 13,3%, khác 26,7% (nang vách trong suốt: 2, vôi <br /> hóa: 1, mất hồi não: 1). Tỷ lệ teo não của chúng <br /> tôi tương tự với của các tác giả Rasool(17) là 44%, <br /> Cala(5) là 41,5%. Bất thường gặp nhiều nhất trên <br /> CT‐Scan là teo não lan tỏa.  <br /> Ở  trẻ  em,  Yang  va  cs  (1979)(21)  công  bố  kết <br /> quả  từ  256  trẻ  động  kinh,  tỷ  lệ  bất  thường  là <br /> 33%, nhưng 66% là co giật sơ sinh. Trong động <br /> kinh  mới  ở  người  trưởng  thành,  tỷ  lệ  các  tổn <br /> thương  có  thể  điều  trị  được  thấp.  Ở  thời  điểm <br /> đó,  chỉ  định  CT‐Scan  trong  động  kinh  là  chủ <br /> quan  dựa  vào  điều  kiện  kinh  tế.  Young  và  cs <br /> (1982)(22)  chụp  CT‐scan  220  bệnh  nhân  bệnh <br /> động kinh nhập phòng khám Thần kinh và phát <br /> hiện  24%  bất  thường,  nhưng  chỉ  6%  trong <br /> những  người  không  có  dấu  hiệu  lâm  sàng  hay <br /> bất thường cục bộ trên EEG. Tác giả khuyến cáo <br /> rằng,  CT‐Scan  chỉ  nên  dùng  cho  những  bệnh <br /> nhân  có  bất  thường  cục  bộ,  nhưng  quan  điểm <br /> này sẽ bị thách thức trên cơ sở rằng những tổn <br /> thương  có  thể  điều  trị  được  sẽ  bị  bỏ  lỡ.  Tổn <br /> thương điển hình phát hiện được trên CT –scan <br /> là:  khối  u,  nhiễm  trùng,  bệnh  mạch  máu  não <br /> thiếu máu, xuất huyết, dị dạng động tĩnh mạch, <br /> và chấn thương. <br /> <br /> 536<br /> <br /> Mối liên quan giữa đặc điểm lâm sàng  và <br /> hình ảnh học <br /> Nghiên  cứu  chúng  tôi  ghi  nhận  bất  thường <br /> hình ảnh học (CT‐Scan/MRI)  thường  gặp  nhiều <br /> hơn ở trẻ chậm phát triển tâm thần vận động, trẻ <br /> có bất thường khi khám thần kinh và trẻ có cơn <br /> co giật liên quan cục bộ. Kết quả này góp phần <br /> vào việc quyết định khảo sát hình ảnh học dựa <br /> trên các dữ liệu về lâm sàng của bệnh nhân. Các <br /> mối liên hệ này cũng đã được nhiều tác giả trên <br /> thế  giới  nghiên  cứu  và  cũng  cho  ra  những  kết <br /> luận tương tự với kết quả của nghiên cứu chúng <br /> tôi. <br /> Khoảng một nửa nghiên cứu hình ảnh riêng <br /> lẻ ở trẻ em với động kinh mới xuất hiện có khởi <br /> phát cục bộ được công bố là bất thường; 15‐20% <br /> có thông tin hữu dụng về nguyên nhân hay định <br /> vị tổn thương, 2‐4% cung cấp thông tin làm cải <br /> thiện điều trị khẩn cấp (Gaillard(9)). <br /> Kết quả của chúng tôi có khác biệt với tác giả <br /> Amirsalari(1)  khi  nghiên  cứu  200  trẻ  động  kinh <br /> mới  xuất  hiện,  ghi  nhận  bất  thường  MRI  liên <br /> quan đáng kể với tuổi lớn, tiền sử gia đình, bất <br /> thường  hình  thể  và  khám  lâm  sàng.  Tuy  nhiên <br /> lại không có sự liên quan với giới tính, loại cơn <br /> động kinh, chậm phát triển, và bệnh lý nguyên <br /> nhân. Những nghiên cứu trên trẻ em khác cũng <br /> khuyến  cáo  rằng  động  kinh  khởi  phát  cục  bộ <br /> thường  có  bất  thường  hình  ảnh  nhiều  hơn <br /> (McAbee  1989(16),  Maytal  2000(15),  Doescher <br /> 2006(6)).  Còn  tác  giả  Amirsalari(1)  kết  luận  như <br /> sau:  việc  nhận  ra  98%  bất  thường  EEG  trong <br /> những  trẻ  động  kinh,  bản  chất  lành  tính  của <br /> những dấu hiệu trên MRI trong hầu hết trẻ, giá <br /> thành  cao  và  chỉ  một  số  nhỏ  bệnh  nhân  nhận <br /> được can thiệp tích cực từ kết quả MRI, tác giả <br /> đề nghị dùng EEG để khẳng định chẩn đoán và <br /> sử  dụng  MRI  cho  những  bệnh  nhân  có  bất <br /> thường  khi  khám,  dấu  thần  kinh  cục  bộ  và  bất <br /> thường cục bộ EEG.  <br /> Với  sự  thống  nhất  với  những  nghiên  cứu <br /> khác và cũng như trong nghiên cứu chúng tôi, <br /> tác giả Doescher khẳng định nên sử dụng MRI <br /> trong  trẻ  với  động  kinh  có  khởi  phát  cục  bộ <br /> <br /> Chuyên Đề Nội Khoa <br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0