
Người thổi hồn cho nghệ thuật
Trúc Chỉ
Họa sĩ Phan Hải Bằng không đến với giấy và nghệ thuật biểu cảm của giấy bằng con
đường tắt, mà anh đã phải lăn lộn, vất vả với khát vọng sáng tạo của mình qua
nhiều năm trời. Anh không coi giấy chỉ là phương tiện vật chất, hay cao hơn,
chuyên môn hơn là vật liệu tạo hình thuần túy, vì thế anh đã tìm con đường sáng tạo
riêng cho mình từ giấy và bởi giấy, bằng lối đi gập ghềnh, gian nan, đầy thử thách
của một người yêu thích sự khám phá.

Hơn chục năm tự mày mò, cộng v
ới sự hỗ trợ của học bổng Asianscholarship Foundation
– ASF năm 2007, Phan Hải Bằng đã đặt nền móng cho một công trình nghiên cứu – sáng
tạo tương lai từ những hạt bụi của ký ức, của thời gian, từ những nghiên cứu, tìm kiếm
nhẫn nại trên những nẻo đường xa vắng của các bản làng ở nhiều rẻo cao Việt Nam và
sang tận Thái-lan, Lào… nơi còn may mắn đọng lại những dấu tích về nghề chế tác giấy.
Anh nắm bắt cái thần, cái hồn của nghề này với những cách thức khác nhau, những sự
biến thể của giấy từ nhiều nguồn vật liệu tự nhiên… và anh nhận ra rằng, mỗi nghệ nhân
làm giấy đều yêu giấy, đam mê giấy, coi giấy là vật thể có linh tâm một cách chân thành,
bình dị và thuần khiết đến lạ lùng. Có lẽ anh đã cảm nhận giấy theo chiều sâu nội tâm, tự
tại và chan chứa tình người từ sự tiếp cận trực tiếp, cảm tính như thế về nghề làm gi
ấy, để
sau đó, anh đem về Trường đại học Nghệ thuật Huế, nơi anh là giảng viên và say sưa
thuyết phục mọi người chế tác giấy vẽ, giấy theo cách thức truyền thống và tạo hình trực
tiếp một cách mộc mạc nhưng lại có sức hút chiều sâu bởi tính truyền thống lắng đọng
của nó. Ðó là loại giấy được làm từ tre, một loài cây gần gũi, quen thuộc với người dân
Việt Nam, với hình tượng lũy tre xanh chan chứa những xúc cảm nhân văn, bao hàm
nhiều ngữ nghĩa biểu tượng về văn hóa dân tộc, tâm linh. Cây tre trong tâm thức người
Việt là một sự tin cậy, thân thiết, gần gũi. Tre gắn liền với hầu hết mọi sinh hoạt, sự kiện
của người dân, nhất là ở làng quê Việt Nam. Từ những giá trị bình dị mà Phan Hải Bằng
tạo nên từ giấy mà nhà nghiên cứu văn hóa, dịch giả Bửu Ý đã trân trọng đặt tên cho loại
giấy này là Trúc Chỉ. Với Phan Hải Bằng, việc chọn cây tre làm nguyên li
ệu chính để chế
tác nên những tác phẩm Trúc Chỉ mang nhiều ý nghĩa. Ðây cũng là điều quan trọng góp
phần làm cho Trúc Chỉ trở nên gần gũi hơn với mọi người, nhằm dễ dàng hơn cho việc
truyền tải thông điệp về văn hóa tre, một nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Anh cho
biết, việc tạo ra Trúc Chỉ là quá trình áp dụng những quy trình truyền thống Việt Nam
trên cơ sở làm mới và kết hợp với những thủ pháp hiện đại cũng như của các nước khác,
nhằm tạo nên một sản phẩm có tính độc đáo và thuần Việt. Anh cũng không ngần ngại

bày tỏ mong muốn Trúc Chỉ sẽ là một phần nhỏ góp thêm vào vốn văn hóa phong phú
của Việt Nam như một thành tố mới.
Họa sĩ Phan Hải Bằng lập xưởng giấy trong khuôn viên của trường và đây cũng là xưởng
giấy tạo hình đầu tiên xuất hiện trong các trường mỹ thuật ở Việt Nam. Phan Hải Bằng đ
ã
tạo ra sự song hành sáng tạo bên cạnh quy trình làm giấy, tạo nên xúc cảm sáng tạo trực
tiếp ngay trong quy trình làm giấy. Anh làm việc như là một nghệ nhân làm gi
ấy thực thụ
khi chẻ từng ống tre cho vào cái thùng phi là nồi nấu, vơ từng đám lá khô đốt lửa, rồi
nhẫn nại quấy bột giấy, seo giấy, phơi giấy… và ngay lúc đó anh cũng là một nghệ sĩ khi
vừa bảo đảm tuân thủ kỹ thuật chế tác vừa làm cho kỹ thuật đó đáp ứng yêu cầu sáng tạo
nghệ thuật, chuyển tải hình tượng của mình trên giấy một cách trực tiếp. Ðiều đặc biệt
đáng lưu ý là mỗi tác phẩm Trúc Chỉ nghệ thuật đều mang tính độc bản, với kỹ thuật tạo
hình ẩn chứa trên nền giấy, khi cầm trên tay lại thấy những hình ảnh nghệ thuật chìm
trong nền Trúc Chỉ, tạo ra một cảm giác lạ mắt, độc đáo và sinh động đến ngạc nhiên khi
tác phẩm đạt hiệu quả tối ưu với ánh sáng chiếu từ phía sau, làm nổi bật các họa tiết tạo
hình đa dạng. Chỉ với một xưởng giấy bé nhỏ ở trường, nhưng Phan Hải Bằng đã tạo
dựng được một không gian thực nghiệm mọi công đoạn làm giấy, bất kỳ ai yêu thích
nghệ thuật giấy chịu khó đến đây học một thời gian ngắn là có thể nắm bắt được kỹ thuật
chế tác giấy và tạo tác được những tác phẩm giấy nghệ thuật. Chính điều này đã làm cho
nhiều sinh viên yêu thích và đến với những thử nghiệm sáng tạo cùng anh. Anh thử
nghiệm hiệu quả tạo hình các loại giấy của mình qua việc in tranh ở làng Sình, những nét
in sắc sảo, rung cảm trên những tờ Trúc Chỉ đã làm cho nghệ nhân Kỳ Hữu Phước xúc
động: “Tôi mơ ước từ lâu là làm sao có được một loại giấy đặc thù của ngư
ời Huế, nay có
anh Phan Hải Bằng làm được thì thật quý, tôi in tranh trên giấy Trúc Chỉ này thật thích v
à
có hiệu quả khác hẳn so với các loại giấy khác”. Các thể nghiệm của anh trên Trúc Chỉ
với các kỹ thuật chất liệu đồ họa như etching, lithograph, in kỹ thuật số… được các sinh
viên đồ họa thực hiện cũng cho những tín hiệu tốt. Triển vọng giấy Trúc Chỉ của Phan
Hải Bằng sẽ dần có chỗ đứng, vị trí trân trọng trong sự phát triển nghệ thuật đồ họa nói
riêng và hội họa trong thời gian tới.