
45
THÔNG TIN CẬP NHẬT
Nguy cơ sa sút trí tuệ tuổi mãn kinh
Vũ Thị Nhung*
Tóm tắt
Sa sút trí tuệ (SSTT) là một hội chứng thường gặp ở người già nhất là ở phụ nữ mãn kinh (nhiều
hơn nam giới) nhưng không phải tất cả phụ nữ mãn kinh đều mắc bệnh SSTT – điển hình là bệnh
Alzheimer – Chỉ 80% phụ nữ có những triệu chứng thần kinh trong giai đoạn quanh mãn kinh –
Điều này được qui cho sự sụt giảm estrogen. Có thể là do hệ thống dẫn truyền tín hiệu của
estrogen trong não bộ của người của người không có triệu chứng không bị phá hủy giống như đã
được nhận thấy ở nhóm có triệu chứng, nhờ vậy giúp giảm nguy cơ SSTT. Có thể những người
mãn kinh không SSTT nhờ có những yếu tố bảo vệ như chế độ ăn lành mạnh, thể dục thường
xuyên, luôn vận động trí óc, không bị các bệnh cao huyết áp, đái tháo đường, béo phì, bệnh tim
mạch. Cần nhiều nghiên cứu để chứng minh tác dụng bảo vệ của estrogen giúp ngăn ngừa sự
suy giảm hoạt động sinh học trong não bộ của phụ nữ quanh mãn kinh và hậu mãn kinh.
Sa sút trì tuệ là gì?
Sa sút trí tuệ (SSTT) là một hội chứng
thường có đặc điểm là diễn tiến từ từ, trong
đó bao gồm sự hư hỏng về trí nhớ, suy nghĩ,
nhận thức, hành vi, ngôn ngữ, khả năng học
tập, khả năng phán đoán và cả sự thực hiện
công việc hàng ngày nhưng người bệnhvẫn
tỉnh táo.4 Mặc dù SSTT thường ảnh hưởng
đến người cao tuổi nhưng SSTT không được
xem là chuyện bình thường của tuổi già.
Loại SSTT thường gặp nhất là Alzheimer –
chiếm từ 50 – 70% các trường hợp SSTT,4
Những loại khác bao gồm SSTT do mạch
máu (25%) SSTT thể Lewy (15%), SSTT
thùy trán – thái dương. Những nguyên nhân
ít xảy ra bao gồm do HIV, giang mai, SSTT
trong bệnh Parkinson….. Một người có thể
có SSTT do nhiều nguyên nhân. Chẩn đoán
dựa trên bệnh sử, các thử nghiệm về nhận
thức, với chẩn đoán hình ảnh.
Trong giai đoạn đầu của SSTT, các dấu
hiệu, triệu chứng của các rối loạn có thể mơ
hồ.
**Bệnh viện Hùng Vương DĐ: 0903383005,
Email: bsvtnhung@yahoo.com.vn
Giai đoạn sớm nhất của SSTT được gọi là
suy giảm nhận thức nhẹ. Ở người mắc bệnh
Alzheimer có triệu chứng sớm nhất là gặp
khó khăn trong trí nhớ, ngoài ra còn có thể
có vấn đề khó tìm và quên từ ngữ. Các thể
loại SSTT khác như SSTT thể Lewy và thể
thùy trán – thái dương thì các dấu hiệu đầu
tiên là những thay đổi nhân cách, khó khăn
trong việc sắp xếp và đề ra kế hoạch trong
công việc. Khi bệnh tiến triển thì những
triệu chứng ban đầu xấu dần dần để sẽ tiến
đến mức họ không thể tự làm gì một mình
mà phải có sự giúp đỡ của người khác ngay
cả trong việc vệ sinh cá nhân. Họ phải được
theo dõi 24/24 để bảo đảm sự an toàn của
họ, đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho cuộc
sống cho họ vì họ tiêu tiểu không tự chủ,
có thể té ngã, không muốn ăn, không nhận
biết những gì có thể gây nguy hiểm cho họ
như khi sử dụng bếp lò nóng, sử dụng điện,
họ không còn nhận biết được người thân.2,7
Đặc điểm lâm sàng của nguy cơ
SSTT giai đoạn mãn kinh
Khi tuổi ngày càng cao và cùng với sự biểu
hiện của kiểu gen apolipoprotein E (APOE)-
4 ở phụ nữ thì phái nữ là một yếu tố nguy cơ
cao dễ phát triển bệnh SSTT. Những nghiên

46
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 19, Số 1, Tháng 10 – 2019
cứu dịch tễ học cho thấy phụ nữ chiếm 2/3
số người mắc căn bệnh này bất kể tuổi tác
và chủng tộc.
Đã có sự đồng thuận rằng SSTT không phải
chủ yếu là bệnh của người già mà nó có thể
đã bắt đầu từ hàng chục năm trước khi xuất
hiện triệu chứng lâm sàng12 với những thay
đổi sinh hóa trong não người bệnh. Người
phụ nữ khi bước vào giai đoạn chuyển tiếp
giữa giai đoạn sinh sản và giai đoạn mãn
kinh sẽ có những biểu hiện thần kinh bất
thường như rối loạn điều nhiệt cơ thể, rối
loạn giấc ngủ và suy yếu nhận thức. Mãn
kinh có thể thay đổi vào khoảng trước hay
giữa những năm 50 tuổi nhưng tuổi bắt đầu
biểu hiện bệnh SSTT lại vào khoảng giữa
những năm 70 tuổi.
Những nghiên cứu về hình ảnh học của não
bộ gần đây cho thấy những phụ nữ trong
khoảng 40-60 tuổi quanh mãn kinh và hậu
mãn kinh có triệu chứng SSTT thì có đặc
điểm giảm hoạt động biến dưỡng (bao gồm
giảm biến dưỡng glucose, giảm hoạt động
của ty thể) và gia tăng sự lắng đọng nhiều
amyloid-β trong não bộ (Aβ là dấu hiệu của
bệnh Alzheimer) so với người chưa mãn
kinh và nam giới cùng lứa tuổi.9,10
Tuổi mãn kinh của 88% phụ nữ nằm trong
khoảng 40-58 tuổi, trung bình là 51 tuổi.
Quanh mãn kinh thì chu kỳ kinh không đều
với sự biến thiên độ dài của chu kỳ kinh
nhiều hơn 7 ngày. Những người hậu mãn
kinh là khi không có kinh từ 12 tháng trở
lên. Trong thời gian quanh mãn kinh, dự trữ
buồng trứng giảm dẫn đến sự giảm tiết chất
nội tiết buồng trứng là estrogen và
progesteron. Những triệu chứng thần kinh
của giai đoạn tiền mãn kinh bao gồm rối
loạn điều hòa thân nhiệt (bốc hỏa), rối loạn
giấc ngủ, mất ngủ, đau nhức, suy nhược thần
kinh, rối loạn nhận thức. Đó là những triệu
chứng có nguy cơ SSTT. Những triệu chứng
này liên quan đến estrogen.
Vai trò của estrogen đối với
não bộ
Một trong những hệ thống điều hòa chình
yếu của não bộ là mạng lưới các thụ thể
estrogen. Những thay đổi về tác động của
estrogen hay của mạng lưới thụ thể estrogen
có thể ảnh hưởng đến các tín hiệu nội tế bào,
đến chức năng hệ thống thần kinh và sự sử
dụng năng lượng trong cơ thể.1 Các thụ thể
của estrogen nằm ở màng tế bào chất, ty thể,
nhân tế bào và đặc biệt có nhiều ở vùng dưới
đồi. Đó là trung tâm điều hòa nhiệt độ, điều
khiển giấc ngủ và các hoạt động có tính chu
kỳ trong ngày. Những vùng não chịu trách
nhiệm chính cho việc học tập, trí nhớ bao
gồm thùy trước trán, hồi hải mã, hạnh nhân
(amygdala), vùng vỏ não cingulate sau đều
chứa thụ thể quan trọng của estrogen, những
neuron tiết serotonin cũng có chứa thụ thể
estrogen. Trong giai đoạn tiền mãn kinh có
sự xuất hiện của các thụ thể estrogen biến
thể, thay đổi biểu hiện protein và thay đổi
trong sự thoái hóa thụ thể, có sự tái cấu trúc
di truyền, tất cả đều dẫn đến giảm nồng độ
estrogen Não bộ cũng có sự bù trừ cho sự
sụt giảm estrogen và giảm họat động của các
thụ thể. Tuy nhiên, ở một số phụ nữ sự bù
trừ này bị giảm hay không có hay chỉ có
biểu hiện điều chỉnh sự điều hỏa mạng lưới
thần kinh tạo nên kiểu hình phức tạp của hệ
thần kinh trong giai đoạn mãn kinh.
Hình ảnh học của não bộ người
mãn kinh
Cả những người quanh mãn kinh và hậu
mãn kinh đều có biểu hiện của những chất
chỉ thị sinh học bất thường khi so với nam
giới cùng lứa tuổi. Những bất thường này
bao gồm sự suy giảm biến dưỡng glucose ở
não, gia tăng sự tích tụ amyloid-β trong não
bộ, và mất các chất xám và chất trắng ở
những vùng não chủ yếu liên quan đến bệnh
SSTT (thùy đỉnh- thái dương, cingulate sau,
thùy trán).

47
THÔNG TIN CẬP NHẬT
Sự tích tụ amyloid-β tăng ở phụ nữ hậu mãn
kinh với APOE-4 dương tính. Ngay cả khi
không có SSTT thì APOE-4 làm tăng một
cách có ý nghĩa tình trạng teo não và giảm
sự kết nối trong não bộ ở phái nữ nhiều
hơn phái nam.
Tại sao phụ nữ mắc bệnh SSTT
nhiều hơn nam giới ?
Người ta vẫn chưa hoàn toàn hiểu rõ tại sao
nữ mắc bệnh SSTT nhiều hơn nam giới, có
thể vì nữ có tuổi thọ cao hơn nam giới 5
nhưng giả thuyết nguyên nhân chính là do
estrogen. Trong cơ thể nam và nữ đều có sản
xuất estrogen nhưng nữ có nhiều estrogen
hơn nam vì đây là nội tiết tố chính của nữ
giới. Khi bước vào giai đoạn mãn kinh thì
cơ thể người phụ nữ giảm tiết estrogen rất
nhiều. Nam giới sản xuất nhiều nội tiết tố
nam là testosterone, sự tiết testosterone là
suốt đời người đàn ông. Testosterone lại có
thể chuyển hóa thành estrogen trong tế bào
não. Điều này có nghĩa là nồng độ estrogen
trong não nữ giới trong giai đoạn mãn kinh
thấp hơn so với nam giới cùng tuổi.
estrogen giữ vai trò bảo vệ não không bị tổn
thương gây ra do Alzheimer nên nếu
estrogen giảm thì sẽ mất khả năng này.
Nghiên cứu cho thấy estrogen giúp ngăn
chận một số tác động của protein amyloid-β
là chất lắng đọng ở não bộ trong bệnh
Alzheimer và có ảnh hưởng đến những chất
hóa học được dùng chuyển những tín hiệu
qua não bộ như serotonin, acetylcholine,
dopamine.Một số triệu chứng của bệnh
Alzheimer có liên quan đến hệ thống truyền
tín hiệu cùa acetylcholine, hệ thống này có
liên kết với sự giảm nồng độ estrogen.
Protein amyloid-β làm gia tăng sự sản xuất
gốc tự do trong tế bào. Khi có nhiều gốc tự
do thì gây hại cho tế bào. Các gốc tự do này
được trung hòa bởi các chất chống oxy hóa.
Nghiên cứu cho thấy estrogen có thể giúp cơ
thể tạo các chất chống oxy hóa, như vậy
nồng độ estrogen cao có thể làm giảm các
gốc tự do phát sinh ra trong tế bào não, nhờ
vậy nảo sẽ được bảo vệ.12 Ngược lại, khi
estrogen giảm trong giai đoạn mãn kinh thì

48
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 19, Số 1, Tháng 10 – 2019
não sẽ bị tổn thương. Đó là nguyên nhân
dẫn đến bệnh Alzheimer. Nghiên cứu của
Paola Glisanz ( California) được báo cáo
trong Hội nghị Quốc tế Hệp hội bệnh
Alzheimer cho thấy nguy cơ SSTT cao hơn
28% cho phụ nữ mãn kinh ở tuổi 45 so với
người bắt đầu mãn kinh sau tuổi 45.
Phòng ngừa sa sút trí tuệ sau
mãn kinh
Trên thế giới có khoảng 50 triệu người mắc
bệnh SSTT với gần 60% sống ở các quốc
gia có thu nhập thấp và trung bình. Hàng
năm có khoảng 10 trường hợp mới mắc.
Dự kiến có khoảng 82 triệu người SSTT
năm 2030 và đến 152 triệu người vào năm
2050. Trong khi đó chưa có phương pháp
điều trị nào chữa được bệnh SSTT hay làm
thay đổi diễn tiến của bệnh. Mục tiêu chính
trong chăm sóc người SSTT là:
– Chẩn đoán sớm để có cách xử lý tốt nhất
– Tối ưu hóa sức khỏe thể chất người
bệnh, sự nhận thức, hoạt động và sống
vui..
– Nhận biết và điều trị các bệnh lý kèm
theo (cao huyết áp, loãng xương..)
– Phát hiện và điều trị những triệu chứng
tâm lý
– Cung cấp thông tin và hỗ trợ cho người
chăm sóc người bệnh
Vì thế, vấn đề là nhận ra những yếu tố nguy
cơ và dự phòng bệnh.
Có một số yếu tố có thể giúp giảm nguy cơ
SSTT như:
– Phòng ngừa tăng huyết áp hay điều trị
khi có cao huyết áp
– Phòng ngừa béo phì bằng chế độ ăn lành
mạnh, vận động tập thể dục thường
xuyên.
– Phòng ngừa stress, điều trị suy sụp thần
kinh.
– Phòng ngừa đái tháo đường, duy trì
cholesterol trong máu trong giới hạn
bình thường.
–
Không hút thuốc, uống rượu.
–
Tránh xa rời mọi người xung quanh hoặc
tách rời cộng đồng. Phòng tránh điếc vì
điếc sẽ làm người bệnh dễ bị cô lập.
– Điều trị nội tiết thay thế (HRT):
Năm 1986 một trong những nghiên cứu về
HRT sớm nhất thấy rằng phụ nữ bị SSTT
uống estradiol có thể cải thiện về khả năng
chú ý, sự định hướng, tính khí, giao tiếp xã
hội. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ có 7
bệnh nhân và không có nhóm chứng.
Năm 1991, WHIMS (Women’s Health
Initiative Memory Study nghiên cứu trên
4.500 phụ nữ hậu mãn kinh để tìm hiểu tác
dụng của estrogen kết hợp progesteron đối
với SSTT và sự suy giảm nhận thức nhẹ.11
Kết quả cho thấy HRT không cải thiện chức
năng nhận thức mà nó còn làm tăng nguy cơ
SSTT ở phụ nữ mãn kinh trên 65 tuổi.
Những đối tượng nghiên cứu có tuổi trung
bình là 72 và khi bắt đầu dùng thuốc nội tiết
thì thời gian mãn kinh đã 15 năm. Thuốc
dùng thuộc loại tổng hợp không phải loại
giống tự nhiên. Sau đó có hai nghiên cứu
loại RCT cũng do WHIMS thực hiện nhưng
chọn đối tượng nghiên cứu là người mới
mãn kinh và khảo sát thuốc loại tổng hợp so
với loại giống tự nhiên. Thử nghiệm KEEPS
trong nghiên cứu này bao gồm 662 phụ nữ
có tuổi trung bình 52,6 tuổi. Kết quả cho
thấy không loại nội tiết nào hiệu quả trên
chức năng nhận thức6 mặc dù ở đối tượng
nghiên cứu có mang gen APOE-4 thì loại
nội tiết tự nhiên có liên quan đến nồng độ
thấp mảng β-amyloid ở não bộ hơn so với
thuốc nội tiết tổng hợp hay giả dược.8
Nghiên cứu ELITE so sánh phụ nữ khỏe
mạnh mãn kinh trong vòng 6 năm so với
người mãn kinh hơn 10 năm dùng thuốc nội
tiết loại tự nhiên cũng không thấy có lợi hay
hại gì đối với vấn đề nhận thức ở cả 2 nhóm.
Nghiên cứu kéo dài 4-5 năm nên không đủ
dài để lượng giá nguy cơ mắc Alzheimer.
Do đó, vấn đề dùng nội tiết thay thế cho phụ
nữ mãn kinh còn nhiều bàn cãi vế tác dụng
trên bệnh SSTT. Các nghiên cứu không cho

49
THÔNG TIN CẬP NHẬT
những chứng cứ mạnh để cho thấy HRT bảo
vệ người mãn kinh giảm nguy cơ SSTT.3
Kết luận
WHO nhận thấy SSTT là một vấn đề sức
khỏe toàn cầu cần quan tâm ưu tiên Năm
2017, Hiệp Hội sức khỏe thế giới xác định
chương trình hành động toàn cầu (2017-
2025) đối với sức khỏe cộng đồng sẽ tập
trung vào SSTT. Hướng dẫn của WHO
nhằm làm giảm nguy cơ suy giảm nhận thức
và SSTT đã đưa ra những khuyến cáo có
chứng cứ về nguy cơ dẫn đến SST như thiếu
vận động, thiếu tập luyện thể lực, chế độ ăn
không lành mạnh. Bên cạnh đó hướng dẫn
chỉ ra cách kiểm soát những yếu tố y khoa
liên kết với SSTT như cao huyết áp, đái tháo
đường. WHO cũng đã phát triển giải pháp
nhằm cung cấp những thông tin và kỷ năng
để huấn luyện cho những người chăm sóc
bệnh nhân SSTT như iSupport, e-health
trong đó iSupport đã được dùng ở nhiều
quốc gia trên thế giới.
Tài liệu tham khảo
1. Brinton RD, et al., Perimenopause as a
neurological transition state. Nat Rev Endocrinol,
2015. 11(7): p. 393–405.
2. Budson A, Solomon P.,. Memory loss : a
practical guide for clinicians.: Elsevier
Saunders. 2011, ISBN 978-1-4160-3597-8..
3. Bushra Imtiaz, Marjo Tuppurainen, Toni
Rikkonen, Miia Kivipelto, Hilkka Soininen, Heikki
Kröger, Anna-Maija Tolppanen, Postmenopausal
hormone therapy and Alzheimer disease
Postmenopausal hormone therapy and Alzheimer
disease A prospective cohort study. Neurology.
2017 Mar 14; 88(11): 1062–
1068.doi: 10.1212/WNL.0000000000003696
4. Burns A, Iliffe S (February 2009).
"Dementia". BMJ. 338: b75. Doi:10.1136/bmj.b75
PMID 19196746.
5. Christopher R. Beam, Cody Kaneshiro, Jung Yun
Jang, Chandra A. Reynolds, Nancy L. Pedersen,
and Margaret Gatz, Differences Between Women
and Men in Incidence Rates of Dementia and
Alzheimer’s Disease J Alzheimers Dis. 2018;
64(4): 1077–1083.doi: 10.3233/JAD-180141.
6. Gleason CE, Dowling NM, Wharton W et al.
(2015) Effects of Hormone Therapy on Cognition
and Mood in Recently Postmenopausal Women:
Findings from the Randomized, Controlled
KEEPS-Cognitive and Affective Study. PLoS
Med 12, e1001833; discussion e1001833.
7. Hugo J, Ganguli M. "Dementia and cognitive
impairment: epidemiology, diagnosis, and
treatment". Clin Geriatr Med. 2014
Aug;30(3):421-42. doi:
10.1016/j.cger.2014.04.001. Epub 2014 Jun 12.
8. Kantarci K, Lowe VJ, Lesnick TG et al.
(2016) Early Postmenopausal Transdermal 17β-
Estradiol Therapy and Amyloid-β Deposition. J
Alzheimers Dis 53, 547-556.
9. Mosconi L, et al., Perimenopause and
emergence of an Alzheimer’s bioenergetic
phenotype in brain and periphery PLoS One,
2017. in press: p. e0193314.
10. Mosconi L, et al., Sex differences in Alzheimer
risk Brain imaging of endocrine vs chronologic
aging. Neurology, 2017. 89(13): p. 1382–1390.
11. Shumaker SA, Legault C, Rapp SR et
al., estrogen plus progestin and the incidence of
dementia and mild cognitive impairment in
postmenopausal women: the Women's Health
Initiative Memory Study: a randomized controlled
trial. JAMA 289, 2651-2662.
12. Vina J and Lloret A, Why women have more
Alzheimer’s disease than men: gender and
mitochondrial toxicity of amyloid-β peptide. J
Alzheimers Dis, 2010. 20 Suppl 2: p. S527–33
13. https://universityhealthnews.com/daily/memory/br
ain-atrophy/
14. Shumaker SA, Legault C, Rapp SR et
al., estrogen plus progestin and the incidence of
dementia and mild cognitive impairment in
postmenopausal women: the Women's Health
Initiative Memory Study: a randomized controlled
trial. JAMA 289, 2651-2662.

