
26
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 19, Số 1, Tháng 10 – 2019
Xuất huyết tử cung bất thường do lỗ khuyết sẹo
mổ lấy thai
Phan Văn Quyền*
Tóm tắt
Xuất huyết tử cung bất thường (XHTCBT) do lỗ khuyết (niche) sẹo mổ lấy thai (MLT) là một
trong các biến chứng của MLT mới được quan tâm gần đây. Lỗ khuyết sẹo MLT có thể là yếu tố
gây ra XHTCBT, đau bụng kinh, và biến chứng sản khoa trong các lần mang thai tiếp theo.
Lỗ khuyết sẹo MLT là một khiếm khuyết trong sẹo MLT, do gián đoạn của cơ tử cung thường có
hình tam giác trên siêu âm ở sẹo MLT thành trước tử cung và thông với buồng tử cung. Kích
thước lỗ khuyết có thể nhỏ hoặc lớn, tùy thuộc vào độ dày cơ tử cung còn lại của nơi khuyết cơ
tử cung.
Phần lớn lỗ khuyết không có triệu chứng, triệu chứng chính của nó là XHTCBT sau kỳ kinh, và
đau vùng chậu mãn tính. Các yếu tố nguy cơ gây ra lỗ khuyết bao gồm tử cung gập sau và nhiều
lần MLT, đường rạch mổ lấy thai thấp, kỹ thuật may cơ tử cung không hoàn chỉnh, viêm dính
sớm của thành tử cung và yếu tố cơ địa bệnh nhân cũng có thể góp phần vào sự phát triển của
một lỗ khuyết.
Vì chưa có tiêu chí rõ ràng để chẩn đoán lỗ khuyết, một số phương pháp chẩn đoán hình ảnh có
thể được sử dụng để đánh giá tính toàn vẹn của thành tử cung và từ đó chẩn đoán lỗ khuyết. Siêu
âm qua âm đạo và siêu âm buồng tử cung có bơm dịch có giá trị nổi bật cụ thể, có độ nhạy cao
và hiệu quả về chi phí để chẩn đoán lỗ khuyết.
Việc điều trị XHTCBT do lỗ khuyết bao gồm nội khoa hoặc phẫu thuật, tùy theo kích thước của
lỗ khuyết và sự hiện diện của các triệu chứng, có dấu hiệu của vô sinh thứ phát hay không. Điều
trị phẫu thuật bao gồm các phương pháp xâm lấn tối thiểu với các kỹ thuật như phẫu thuật nội soi
buồng tử cung, nội soi ổ bụng hoặc phẫu thuật qua âm đạo tùy theo kích thước khuyết tật hoặc
cắt tử cung khi không muốn duy trì chức năng sinh sản.
Giới thiệu
Theo Tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị tỷ
lệ MLT lý tưởng là 10-15% của tất cả các ca
sinh. Tuy nhiên, tỷ lệ MLT ở nhiều nước
như Nam Mỹ (42,9%), Mỹ Latinh (40,5%)
và Châu Âu (25%)1 đều cao hơn con số
này.2 Như tại Hoa Kỳ, tỷ lệ MLT tăng từ
23% vào năm 2000 đến 32,3% năm 2015, và
ở Anh, tăng từ 19,7% vào năm 2000 lên
26,2% vào năm 2015. Do đó các biến chứng
và hậu quả
*BV Từ Dũ, DĐ: 0908221454,
Email:quyenphvan@gmail.com
của MLT cũng đang gia tăng về số lượng.3
Một số biến chứng MLT như hở sẹo, nhau
cài răng lược đã được nghiên cứu. Tuy
nhiên, trường hợp lỗ khuyết sẹo MLT chỉ
mới được quan tâm gần đây (hình 1,2).
Đã có một số báo cáo về mối liên quan giữa
XHTCBT và lỗ khuyết.9-14,17 Đặc biệt, triệu
chứng xuất huyết rỉ rả (spotting) sau kỳ kinh
nguyệt thường gặp ở phụ nữ có lỗ
khuyết.12,13 Vị trí của lỗ khuyết gần với bàng
quang, máu ứ trong lỗ khuyết có thể làm rối
loạn chức năng bàng quang.13

27
TỔNG QUAN Y VĂN
Một số trường hợp hiếm gặp với xuất
huyết tử cung ồ ạt lúc có kinh do khiếm
khuyết sẹo MLT cần phải thuyên tắc
động mạch tử cung khẩn cấp sau đó là
sửa chữa các lỗ khuyết bằng nội soi.
10
Ngoài ra, một khả năng cần được lưu ý
là có thể có rất ít trường hợp xuất huyết
ồ ạt muộn sau MLT (4 - 8 tuần) đôi khi
dẫn đến cắt tử cung nhưng không được
công bố, có thể do khiếm khuyết sẹo
MLT bị bỏ sót.
Lỗ khuyết là một khuyết
tật của cơ tử cung có dạng túi trên sẹo MLT
ở thành trước tử cung.7,8 Lỗ khuyết này góp
phần vào những thay đổi bệnh lý có thể dẫn
đến sự xuất hiện của các triệu chứng như
rong kinh,7 xuất huyết tử cung bất thường,8
cơn đau vùng chậu, đau bụng kinh, thai ở
sẹo MLT và vô sinh thứ phát.11,12
Hình 1. Lỗ khuyết tại sẹo MLT trên mẫu TC đã cắt Hình 2. . Lỗ khuyết tại sẹo MLT trên mẫu TC đã cắt
Hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn tiêu chuẩn
về chẩn đoán và điều trị xuất huyết tử cung
bất thường do lỗ khuyết. Các lựa chọn điều
trị bao gồm điều trị nội khoa dựa trên liệu
pháp kết hợp estrogen và progesterone và
phẫu thuật nội soi buồng tử cung, phẫu thuật
nội soi ổ bụng hoặc phẫu thuật qua âm đạo.
Báo cáo này trình bày tổng quan y văn về
xuất huyết bất thường do lỗ khuyết sẹo
MLT, tiếp cận phân loại của lỗ khuyết, các
yếu tố nguy cơ phát triển lỗ khuyết, triệu
chứng lâm sàng, phương pháp chẩn đoán và
các lựa chọn điều trị hiện tại, tập trung vào
các phương pháp xâm lấn tối thiểu.
Độ xuất hiện của xuất huyết tử
cung bất thường và lỗ khuyết
Xuất huyết tử cung bất thường sau MLT có
thể xảy ra khoảng 20% của tất cả các trường
hợp MLT. Khoảng 64,5% phụ nữ được dự
đoán có lỗ khuyết sẹo MLT. Một trong ba
phụ nữ mắc lỗ khuyết có thể bị chảy máu
sau kỳ kinh nguyệt.14
Không phải tất cả phụ nữ bị lỗ khuyết đều bị
XHTCBT, nhưng lỗ khuyết càng sâu và
rộng, càng có nguy cơ XHTCBT sau kỳ kinh
nguyệt.8 Tỷ lệ lưu hành chính xác của lỗ
khuyết vẫn chưa rõ và tùy phương pháp
được sử dụng để đánh giá lỗ khuyết.13 Theo
Tulandi và Cohen5 ghi nhận tỷ lệ mắc lỗ
khuyết tăng từ 24% đến 70% trong kiểm tra
siêu âm qua âm đạo (TVS=transvaginal
sonography) và từ 56% đến 84% với siêu
âm buồng tử cung có bơm dịch (SIS=saline
infusion sonohysterography) ở phụ nữ có
MLT một hoặc nhiều lần MLT.4,5
Bệnh nhân có triệu chứng có tỷ lệ mắc lỗ
khuyết cao hơn (84%) so với nhóm không
triệu chứng (19,4%),15,21 với triệu chứng
chính bị xuất huyết từng đốm sau có
kinh.5,22
Định nghĩa, phân loại lỗ khuyết
Định nghĩa
Chưa có định nghĩa phổ quát về lỗ khuyết
hoặc chuẩn hóa rõ vị trí và kích thước của

28
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 19, Số 1, Tháng 10 – 2019
nó.13 Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu
đều xác định lỗ khuyết là một sự gián đoạn
của cơ tử cung hoặc một tam giác echo kém
trên siêu âm ở cơ tử cung của thành trước
của phụ nữ không mang thai. (do chưa thống
nhất nên có nhiều từ miêu tả như:
isthmocele, cesarean scar defect, niche,
diverticulum,…) 4,5,9,13 Một số nghiên cứu
khác mô tả lỗ khuyết là túi mỏng của cơ tử
cung, echo kém > 1mm hoặc một khiếm
khuyết của cơ tử cung > 2 mm tại sẹo
MLT.14-16
Lỗ khuyết thường có tăng sinh các mạch
máu xung quanh, bên trong có niêm mạc
bao phủ và ứ máu.18 Gubbini nhận thấy vị trí
của lỗ khuyết thay đổi tùy theo vị trí của
đường rạch cơ tử cung, liên quan đến giai
đoạn chuyển dạ, độ xóa mở cổ tử cung và kỹ
thuật phẫu thuật.6
Hình 3. Đánh giá lỗ khuyết: Cơ TC còn lại
(RM=residual myometrium), cơ TC kế cận
(AMT=adjacent myometrial thickness).
Phân loại
Một số tác giả đã phân loại các phát hiện
theo kích thước của lỗ khuyết:5 một lỗ
khuyết lớn khi cơ tử cung còn lại mỏng >
50% so độ dày cơ tử cung kế cận
(RM/AMT=Residual Myometrium/
/Adjacent Myometrial Thickness)16 hoặc
RM < 2,2mm khi quan sát qua TVS và RM
<2,5mm qua SIS.19 (hình 3)
Đối với mục đích điều trị, Marotta và cs.20
đã đề xuất ngưỡng cắt khi RM <3 mm coi là
lỗ khuyết lớn và một RM ≥ 3mm là lỗ
khuyết nhỏ.
Những phát hiện qua siêu âm này có thể tình
cờ khi không có triệu chứng hoặc khi có các
triệu chứng lâm sàng. Do đó, lỗ khuyết cũng
có thể được phân loại là không có triệu
chứng hoặc có triệu chứng khi xuất hiện
XHTCBT, đau vùng chậu và vô sinh.9
Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ
Xuất huyết tử cung bất thường do lỗ khuyết
sẹo MLT, do đó cần xem xét nguyên nhân
và các yếu tố nguy cơ tạo lỗ khuyết sẹo
MLT.15,20
Một số yếu tố nguy cơ có liên quan đến sự
phát triển của lỗ khuyết; tuy nhiên cho đến
nay, có rất ít tương quan được chứng minh.
Ofili-Yebovi và cs.16 lần đầu tiên trình bày
mối liên quan giữa lỗ khuyết và nhiều lần
MLT trước đó và yếu tố tử cung gập sau,
sau này đã được chứng thực bởi một số tác
giả.22 Gần đây Tulandi và Cohen7 cũng cho
rằng MLT nhiều lần là yếu tố nguy cơ chính
cho sự phát triển của lỗ khuyết.
Bij de Vaate và cs.4 đã đề xuất các yếu tố
nguy cơ: thời gian chuyển dạ, độ xóa mở cổ
tử cung, phần xuống của ngôi thai và vị trí
rạch cơ tử cung thấp có thể là yếu tố nguy
cơ cho sự phát triển của một lỗ khuyết. MLT
được tiến hành trong giai đoạn chuyển dạ
tích cực và cổ tử cung mở > 5cm thường có
liên quan đến lỗ khuyết lớn.5,6 Liên quan của
các kỹ thuật may cơ tử cung khác nhau và tỷ
lệ lưu hành của lỗ khuyết vẫn chưa rõ. Mặc
dù may cơ tử cung một lớp dường như làm
tăng nguy cơ phát triển lỗ khuyết khi so sánh
với may hai lớp,23 nhưng không liên quan
đáng kể với các lỗ khuyết lớn.5
Vervoort và cs13 đưa ra bốn giả thuyết liên
quan đến nguyên nhân tạo ra lỗ khuyết, chủ
yếu do các yếu tố phẫu thuật và yếu tố bệnh
nhân. Giả thuyết đầu tiên liên quan đến vị trí
của đường rạch cơ tử cung, cho rằng một
đường rạch thấp ở gần cổ tử cung, nơi có
chứa các tuyến nhầy và khi chất nhầy tạo ra
trong quá trình lành vết thương có thể làm
mỏng mép cơ tử cung. Giả thuyết này được

29
TỔNG QUAN Y VĂN
chứng minh bởi một số nghiên cứu có liên
quan đến tỷ lệ mắc lỗ khuyết cao hơn và
bệnh nhân có cổ tử cung mở > 5cm, thời
gian chuyển dạ dài hơn (> 5 giờ) hoặc
đường rạch cơ tử cung thấp hơn.4,7,18,24
Ngoài ra, tỷ lệ mắc lỗ khuyết cao khi MLT
được thực hiện trong giai đoạn chuyển dạ
tích cực cho thấy một đường mổ trên cổ tử
cung khi cổ tử cung bị xóa mỏng rất khó
phân biệt với đoạn dưới tử cung.13,25,26
Giả thuyết thứ hai liên quan đến kỹ thuật
may cơ tử cung không hoàn chỉnh.13 Việc
đóng cơ tử cung không đầy đủ, hoặc thậm
chí không đóng, của lớp cơ sâu, thường do
vô ý hoặc liên quan đến mũi may không
vuông góc đường rạch và sót nội mạc tử
cung, có thể dẫn đến mép cơ tử cung áp sát
không đều, tạo ra lỗ khuyết.13,25
Giả thuyết thứ ba liên quan đến sự phát triển
dính sớm ở sẹo nơi rạch cơ tử cung với
thành bụng trước, làm co kéo các mép của
vết thương và làm giảm khả năng lành
sẹo.13,25 Cơ chế này càng rõ rệt hơn trong tử
cung gập sau, làm các lực co kéo tăng lên,
làm giảm lưu lượng máu cần thiết làm lành
vết thương.25,26
Giả thuyết cuối cùng liên quan đến các yếu
tố bệnh nhân, cho thấy tùy theo cơ địa bệnh
nhân trong làm lành vết thương, đông máu
kém, viêm nhiễm hoặc nguy cơ dính, có thể
ảnh hưởng đến sự phát triển của lỗ khuyết.13
Triệu chứng lâm sàng
Xuất huyết tử cung bất thường đặc trưng là
chảy máu rỉ rả (spotting) sau kỳ kinh nguyệt,
là triệu chứng chính liên quan đến sự hiện
diện của lỗ khuyết. XHTCBT do lỗ khuyết
sẹo MLT có thể xảy ra trong khoảng 28,9%
- 82%.14,15,24,27
Phần lớn các lỗ khuyết đều không có triệu
chứng, được phát hiện tình cờ trên siêu âm.
Không phải tất cả phụ nữ bị lỗ khuyết bị
XHTCBT, nhưng lỗ khuyết càng lớn, càng
có nguy cơ XHTCBT sau kỳ kinh
nguyệt.8,16,22
Một số trường hợp hiếm gặp với xuất huyết
tử cung ồ ạt lúc có kinh cần phải thuyên tắc
động mạch tử cung khẩn cấp và sửa chữa
các lỗ khuyết bằng nội
soi.
10
Lỗ khuyết thường có tụ máu và các mảnh
vụn kinh nguyệt, do giảm co thắt của cơ tử
cung và mô xơ quanh sẹo, làm chậm thoát
dịch và gây ra xuất huyết tử cung bất
thường.15,28 Gần đây khi khảo sát giải phẫu
bệnh cho thấy có hồng cầu tự do trong mô
sẹo gợi ý có chảy máu, nên Morris8 đề xuất
máu cũng có thể chảy từ sẹo, và gây ra hiện
tượng xuất huyết rỉ rả không liên tục.
Thống kinh và đau vùng chậu cũng được
Wang và cộng sự22 ghi nhận có tương quan
giữa kích thước lỗ khuyết. Morris8 cho rằng
những khó chịu do đau có thể do viêm
nhiễm, xơ hóa và gián đoạn giải phẫu của cơ
tử cung đoạn dưới.
Tulandi và Cohen5 nhận thấy ở những phụ
nữ sau MLT có chảy máu sau có kinh. có tỷ
lệ xuất hiện lỗ khuyết từ 63,8% khi dùng
siêu âm âm đạo (TVS=transvaginal
sonography) hoặc 82% (SIS=saline infusion
sonohysterography) Vì thế khi bệnh nhân
sau MLT có triệu chứng XHTCBT, nên cần
chẩn đoán phân biệt XHTCBT do lỗ
khuyết.25
Mối liên quan giữa lỗ khuyết và vô sinh thứ
phát đã được báo cáo trong y văn với tỷ lệ
lưu hành cao.7,9 Sự hiện diện của máu trong
lỗ khuyết có thể ảnh hưởng đến chất nhầy cổ
tử cung và chất lượng tinh trùng, cản trở khả
năng di chuyển của tinh trùng và làm cho
việc cấy phôi trở nên khó khăn hơn.29,30 Sau
điều trị lỗ khuyết cho thấy tăng tỷ lệ phục
hồi khả năng sinh sản.7
Chẩn đoán
Xuất huyết tử cung bất thường do lỗ khuyết
sẹo MLT thường khó chẩn đoán. Chỉ khi có
nghi ngờ có lỗ khuyết sẹo MLT mới định
hướng chẩn đoán. Chưa có tiêu chuẩn rõ
ràng cho chẩn đoán lỗ khuyết.5,9,21

30
THỜI SỰ Y HỌC, Chuyên đề SỨC KHỎE SINH SẢN, Tập 19, Số 1, Tháng 10 – 2019
Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác
nhau bao gồm siêu âm (hình 4,5), chụp
buồng tử cung, nội soi buồng tử cung và
chụp cộng hưởng từ MRI có thể được sử
dụng để xem xét thành trước tử cung và
chẩn đoán lỗ khuyết.18
Siêu âm qua đường âm đạo
(TVS=transvaginal sonography) là chọn lựa
đầu tiên và thông dụng nhất để đánh giá tính
toàn vẹn của thành tử cung ở bệnh nhân
không mang thai sau MLT 6-12 tuần.9,20 Vì
triệu chứng chính là chảy máu sau kinh
nguyệt, giai đoạn phát triển sớm nhất cho
thấy sự lắng đọng của máu trong lỗ khuyết,
cho phép nhận dạng ngay cả khi không bơm
dịch và ít có khả năng mang thai.25,32 Lỗ
khuyết đã được mô tả trên TVS như một
khiếm khuyết tam giác echo kém ở cơ tử
cung vị trí nối tiếp với buồng tử cung, hoặc
một biến dạng khác ( hình nêm, hình lõm
hoặc hình túi) trên vùng trước eo tử
cung.24,33
Hình 4. Lỗ khuyết sẹo MLT to
Hình 5. Lỗ khuyết sẹo MLT nhỏ
Siêu âm buồng tử cung có bơm dịch
(SIS=saline infusion sonohysterography), có
kết quả phát hiện lỗ khuyết cao hơn (56% -
84%) khi so sánh với TVS (24% -70%). SIS
cũng nhạy hơn TVS,5,14,15,18,19,34,35 và SIS
phát hiện nhiều khuyết tật hơn và thường
thấy lỗ khuyết lớn hơn trung bình từ 1 đến 2
mm và cơ tử cung còn lại (RM) mỏng hơn
trên TVS.14 Theo Radwa Rasheedy độ nhạy
của TVS là 84,72% và của SIS là 100%
trong chẩn đoán lỗ khuyết.35 SIS nhạy hơn
và đặc hiệu hơn đối với việc xác định lỗ
khuyết28 bằng cách lấp đầy lỗ khuyết và có
tương phản tốt hơn.9 nhờ có bơm dịch tăng
áp lực trong tử cung, dẫn đến sự tăng kích
thước lỗ khuyết.5
Hình 6. Lỗ khuyết sẹo MLT
trên HSG
Hình 7. Lỗ khuyết sẹo MLT qua MRI
Hình 8. Lỗ khuyết sẹo MLT qua
nội soi

