
1
21. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI PHÍ TUÂN THỦ THUẾ CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP FDI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
FACTORS AFFECTING TAX COMPLIANCE COSTS OF FDI ENTERPRISES
IN HO CHI MINH CITY
CN. Phan Công Luận*
* Trường đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh (HUTECH)
Tóm tắt
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định và đo lường các nhân tố ảnh hưởng chi
phí tuân thủ thuế (CPTTT) của các doanh nghiệp (DN) FDI trên địa bàn TP.HCM. Mẫu
khảo sát gồm 285 cá nhân là đại diện lãnh đạo của các DN FDI tại TP.HCM.
Thông qua
việc sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng bằng việc sử
dụng mô hình hồi quy đa biến, kết quả cho thấy các nhân tố
Quy định thuế của Nhà
nước về chính sách thuế; Công tác quản lý thuế của cơ quan thuế (CQT); Quy trình, quy
chuẩn của DN; Đội ngũ nhân viên của DN làm việc liên quan đến thuế tác động ngược
chiều đến CPTTT và chỉ có 1 nhân tố Ngân sách hoạt động của DN tác động cùng chiều
đến CPTTT của các DN.
T khóa: chi phí tuân thủ thuế, doanh nghiệp FDI; Thành phố Hồ Chí Minh.
Abstract
This study was conducted to identify and measure factors affecting tax compliance
costs of FDI enterprises in Ho Chi Minh City. The survey sample included 285
individuals representing leaders of FDI enterprises in Ho Chi Minh City. Through the
combined use of qualitative and quantitative research methods using a multivariate
regression model, the results show that the factors of State tax regulations on tax
policy; Tax management of tax authorities; Enterprise procedures and standards;
Enterprise staff working related to tax have an inverse impact on tax compliance costs
and only one factor Enterprise operating budget has a positive impact on tax
compliance costs of enterprises.
Keywords: Tax compliance costs, FDI enterprises; Ho Chi Minh City.
JEL Classifications: M10, M21, M29
1. Giới thiệu
Trong hoạt động kinh doanh của DN thì CPTTT có vai trò hết sức quan trọng, quyết
định kết quả hoạt động của DN. CPTTT là những chi phí mà người nộp thuế (NNT) phát
sinh do thực hiện việc tuân thủ các quy định của pháp luật về thuế. Chi phí này bao gồm
cả thời gian và tiền bạc mà NNT phải bỏ ra để hoàn thành các quy định của pháp luật

2
thuế yêu cầu (Sandford và công sự, 1995). Về thời gian bao gồm thời gian tiêu tốn để
hoàn thành các báo cáo thuế, thời gian nộp hồ sơ khai thuế, thời gian nghiên cứu chính
sách pháp luật thuế; Về tiền bạc bao gồm chi phí thuê nhân viên kế toán, thuê chuyên gia
tư vấn thuế, chi phí nộp thuế, nộp tiền phạt do không thực hiện theo quy định của pháp
luật thuế,... CPTTT là một trong những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hành vi tuân thủ của
NNT. TP.Hồ Chí Minh - trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, nơi có nhiều thuận lợi
trong việc phát triển kinh tế, thu hút các nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực, ứng dụng
công nghệ khoa học đa dạng, phong phú tạo điều kiện thuận lợi để các DN phát triển hoạt
động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là các DN kinh doanh bất động sản có nhiều điều
kiện để phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, theo đánh giá tình hình kê khai, nộp thuế của các
DN FDI trên địa bàn TP.HCM vẫn còn thấp, chưa phản ánh đúng thực tế hoạt động kinh
doanh, chưa tương xứng với quy mô cũng như kỳ vọng nộp thuế vào Ngân sách Nhà
nước (NSNN).
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Khái niệm về chi phí tuân thủ thuế
Trên thế giới, có khá nhiều khái niệm về CPTTT, trong đó có một số khái niệm phải
kể tới như sau:
Theo Sandford, Godwin và Hardwick (1989), CPTTT được nảy sinh ra do khu vực
công, và nó sẽ không xảy ra nếu thuế không tồn tại (hay nói cách khác CPTTT sẽ không
xuất hiện nếu thuế bị bãi bỏ). Vì vậy, họ định nghĩa CPTTT là những chi phí phát sinh
bởi những NNT hoặc các bên thứ ba (ví dụ như các DN) để đáp ứng những yêu cầu đặt ra
với họ nhằm tuân thủ luật thuế với quy định và mức độ đã đưa ra.
Sandford (1995), CPTTT là chi phí phát sinh bởi NNT để đáp ứng những yêu cầu của
luật thuế và CQT. Những chi phí này vượt ra khỏi số tiền thuế phải chi trả và những chi
phí do những biến dạng vốn có trong bản chất của thuế.
Theo Chris Evans (2006), mặc dù vẫn còn nhiều tranh cãi về việc xác định chi phí
được đưa vào tính toán CPTTT nhưng có thể xác định những chi phí cốt lõi không thể
phủ nhận được để tuân thủ các yêu cầu của thuế như sau:
-Những chi phí của lao động hoặc thời gian sử dụng để hoàn thành các hoạt động
liên quan đến thuế. Ví dụ, thời gian để một nhân viên đạt được những hiểu biết cần thiết
để xử lý các quy định về thuế như Thuế Thu nhập cá nhân (TNCN), Thuế Giá trị gia tăng
(GTGT) ... thời gian cần thiết để thu thập chứng từ, ghi chép số liệu để có thể hoàn thành
việc hoàn thuế …
-Những chi phí thuê chuyên gia bên ngoài để hỗ trợ việc hoàn thành các hoạt động
về thuế. Ví dụ như, phí trả cho chuyên gia tư vấn thuế.

3
-Những chi phí không thường xuyên phát sinh trong khi hoàn thành các hoạt động
về thuế, bao gồm phần mềm máy tính, cước bưu điện, phí đi lại...
Ngoài những chi phí chủ yếu kể trên, còn có một số chi phí cần phải kể đến như chi
phí tâm lý do hệ thống thuế. NNT chịu áp lực, lo lắng, thất vọng là kết quả của việc cố
gắng tuân thủ các quy định của thuế. Tuy nhiên, những chi phí tâm lý này khó đo lường
được. Vì vậy, một số chi phí xã hội khác khó đo lường cũng được lờ đi khỏi nghiên cứu.
Tóm lại, CPTTT là những chi phí mà NNT (bao gồm cả cá nhân và DN) phát sinh do
việc tuân thủ các quy định về luật thuế gây ra. Chi phí này bao gồm thời gian và tiền bạc
mà NNT bỏ ra để hoàn thành các yêu cầu theo quy định của luật thuế. Về tiền bạc, phải
kể đến chi phí thuê nhân viên kế toán, chi phí thuê chuyên gia tư vấn bên ngoài, chi phí
tiền phạt do thực hiện không đúng quy định, chi phí tìm hiểu pháp luật thuế liên quan, chi
phí hối lộ lót tay... Về thời gian, có thể liệt kê một số thời gian tiêu tốn như: thời gian
hoàn thành các báo cáo theo quy định, thời gian tìm hiểu luật thuế, thời gian nộp hồ sơ
thuế... Ngoài ra, còn có chi phí tâm lý do lo lắng, căng thẳng khi tuân thủ luật thuế.
2.2. Tổng quan các công trình nghiên cứu trước
Nghiên cứu Jackson và Million (1986) tổng hợp các nghiên cứu trước đó và xác
định được 14 yếu tố tác động đến hành vi tuân thủ thuế của NNT. Những yếu tố này đã
được Fischer và cộng sự tổng hợp thành 4 nhóm yếu tố trong mô hình mở rộng của ông
bao gồm các yếu tố tác động đến cơ hội không tuân thủ, quan điểm và nhận thức của
người nộp thuế, các yếu tố liên quan đến hệ thống thuế và các yếu tố nhân khẩu học.
Evans (2003) đã nghiên cứu về chi phí vận hành thuế và cho rằng mặc dù mục đích
nghiên cứu khác nhau, thành phần của CPTTT được phân tích khác nhau, một hay nhiều
sắc thuế khác nhau, các tác giả khác nhau... nhưng tựu trung lại có cùng các kết luận: (1)
CPTTT có ý nghĩa thống kê, có tính lũy thoái, đặc biệt là gánh nặng đối với các doanh
nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV); (2) CPTTT có tính hồi quy (theo từng sắc thuế khác nhau,
từng quy mô DN khác nhau...); (3) CPTTT không phải lúc nào cũng giảm.
Ernc Loo và Jatta (2009) nghiên cứu hành vi tuân thủ của NNT cá nhân tại Malaysia
bằng cách sử dụng phương pháp hỗn hợp. Mục đích của bài này là trình bày những phát
hiện từ một nghiên cứu phương pháp hỗn hợp vào ảnh hưởng của sự ra đời của tự đánh
giá về hành vi tuân thủ của người nộp thuế cá nhân tại Malaysia. Kết quả nghiên cứu đã
xác định sự ra đời của tự đánh giá có ảnh hưởng tích cực đối với hành vi tuân thủ. Đặc
biệt, tiếp thu kiến thức thuế có ảnh hưởng đáng kể hành vi tuân thủ. Người nộp thuế đã
được tìm thấy là nhạy cảm với kiểm toán thuế và tiền phạt.
Eichfelder và Kegels (2012) nghiên cứu về chi phí tuân thủ phát sinh bởi hành động
đại diện. Nghiên cứu cho rằng CPTTT không chỉ bị ảnh hưởng bởi chính pháp luật về
thuế, mà còn chịu ảnh hưởng thông qua việc công tác quản lý thuế của cơ quan thuế và sự
hiểu biết về kế toán và thuế, ý thức chấp hành tuân thủ thuế của bản thân các DN cũng

4
như nhân viên của họ làm việc liên quan đến công tác thuế. Theo tính toán của họ, quản
lý thuế không thân thiện làm tăng CPTTT trung bình của DN khoảng 25%.
Bayu Agatyan (2013) nghiên cứu về các yếu tố kiểm tra ảnh hưởng đến việc tuân thủ
thuế TNCN tại quận Aceh, Indonesia. Tác giả đã sử dụng kết hợp phương pháp nghiên
cứu định tính và định lượng để thực hiện đề tài. Kết quả cho thấy, một số yếu tố đã được
xem là quan trọng để giải thích sự tuân thủ thuế: mức thu nhập thực tế, thuế suất, thuế,
thanh tra thuế, xác suất kiểm toán, tiền phạt và hình phạt.
Phạm Anh Tài (2017), “Biện pháp nâng cao tính tuân thủ thuế của DN trên địa bàn
Quận 12 – TP. Hồ Chí Minh”. Đây là đề tài luận văn thạc sĩ, nghiên cứu này xem xét tác
động của các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của DN trên địa bàn Quận 12 -
TP Hồ Chí Minh. Mẫu gồm 35 biến quan sát nghiên cứu dữ liệu khảo sát của 285 DN
trong giai đoạn 2013 - 2015. Mô hình nghiên cứu được xây dựng bởi 9 yếu tố ảnh hưởng:
Thuế suất; Tính đơn giản của việc kê khai thuế; Hiệu quả hoạt động của CQT; Công tác
ki^m tra thuế; Kiến thức thuế; Nhận thức tích cực về tính công bằng của thuế, Nhận thức
tích cực về chi tiêu Chính phủ; Hình phạt; Tình trạng tài chính. Mô hình nghiên cứu
được thực hiện hồi quy bằng phần mềm thống kê SPSS 20.0.
3. Mô hình nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
3.1. Mô hình nghiên cứu
Kế thừa các công trình nghiên cứu trước liên quan và kết quả nghiên cứu chuyên gia, tác
giả đã tiến hành xây dựng mô hình nghiên cứu chính thức như Hình 1.
Hình 1: Mô hình nghiên cứu chính thức
(Nguồn: Tác giả xây dựng)
3.2. Các giả thuyết nghiên cứu
Công tác quản lý thuế của Cơ
quan thuế
Quy định của Nhà nước về
chính sách thuế
Đội ngũ nhân viên của DN làm
việc liên quan đến thuế
Chi phí tuân thủ thuế của các
DN FDI trên địa bàn TP.HCM
Ngân sách hoạt động của DN
Quy trình, quy chuẩn của DN

5
Giả thuyết 1 (H1): Công tác quản lý thuế của CQT có tác động ngược chiều (-) đến
CPTTT của các DN FDI trên địa bàn TP.HCM.
Giả thuyết 2 (H2): Quy định của Nhà nước về chính sách thuế có tác động ngược
chiều (-) đến CPTTT của các DN FDI trên địa bàn TP.HCM.
Giả thuyết 3 (H3): Đội ngũ nhân viên trong DN làm việc liên quan đến thuế có tác
động ngược chiều (-) đến CPTTT của các DN FDI trên địa bàn TP.HCM.
Giả thuyết 4 (H4): Ngân sách hoạt động của DN có tác động cùng chiều (+) đến
CPTTT của các DN FDI trên địa bàn TP.HCM.
Giả thuyết 5 (H5): Quy trình, quy chuẩn của DN có tác động ngược chiều (-) đến
CPTTT của các DN FDI trên địa bàn TP.HCM.
4. Phương ph@p nghiên cứu
4.1. Phương pháp chọn mẫu và thu thập dữ liệu
Nghiên cứu được thực hiện qua thông qua 01 bảng câu hỏi với thang đo cấp bậc Likert
với 5 điểm bởi đây là thang đo sử dụng một dãy số dương. Các chỉ báo được đánh giá với
lựa chọn số 1 là hoàn toàn không đồng ý với phát biểu, lựa chọn số 5 là hoàn toàn đồng ý
với phát biểu và mức độ đồng ý phát biểu tăng dần từ 1 đến 5. Phương pháp chọn mẫu
được lựa chọn là phương pháp chọn mẫu phân tầng, sau khi xác định cỡ mẫu phù hợp
sẽ được phân bổ theo từng tiêu chí khác nhau như giới tính, độ tuổi và đặc điểm nghề
nghiệp cán bộ công nhân viên của các DN
.
Theo quan điểm của Bollen (1989) cho rằng kích thước mẫu tối thiểu là 5 quan sát
cho một câu hỏi cần ước lượng của các biến độc lập. Theo đó, nghiên cứu này có 26 câu
hỏi, vì vậy kích thước mẫu tối thiểu là 26 x 5 = 130. Để đạt được tối thiểu 130 quan sát,
tác giả đã gửi 320 bảng câu hỏi từ tháng 8/2024 đến tháng 10/2024 cho lãnh đạo của các
DN FDI trên địa bàn TP.HCM gồm đại diện ban giám đốc, trưởng, phó các bộ phận và
công nhân viên có kinh nghiệm làm làm việc lâu năm tại các DN. Kết quả thu về 294
phiếu, trong đó 9 phiếu bị loại do không hợp lệ (chủ yếu là do thiếu thông tin). Do đó số
lượng quan sát đưa vào phân tích là 285 phiếu thỏa yêu cầu kích thước mẫu tối thiểu cho
nghiên cứu.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Nghiên cứu định tính
Tác giả sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính, đó là nghiên cứu định tính và
nghiên cứu định lượng. Trong đó, nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua việc thu
thập, tìm hiểu, đánh giá và tổng hợp tài liệu, tham khảo các thang đo và có điều chỉnh để
phù hợp với điều kiện hoạt động hiện tại của các DN FDI trên địa bàn TP.HCM. Việc
điều chỉnh thang đo được thực hiện dựa trên kết quả của các cuộc phỏng vấn sâu với
chuyên gia và thảo luận nhóm với 7 cá nhân là giảng viên, cán bộ có sự am hiểu về
CPTTT trong DN.