Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản,
Số 4/2023
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG137
NUÔI TRỒNG THỦY SẢN: TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG VÀ
HƯỚNG ĐẾN SỰ BỀN VỮNG
AQUACULTURE: EMVIRONMENTAL IMPACTS AND TOWARDS TO SUSTAINABILITY
Lương Công Trung
Viện Nuôi trồng thủy sản, Trường Đại học Nha Trang
(Email: trunglc@ntu.edu.vn)
Ngày nhận bài: 05/06/2023; Ngày phản biện thông qua: 25/09/2023; Ngày duyệt đăng: 15/12/2023
TÓM TẮT
Nuôi trồng thủy sản, lĩnh vực sản xuất thực phẩm phát triển nhanh nhất trên Thế giới, được coi lựa
chọn hàng đầu để giải quyết nhu cầu thực phẩm cho hành tinh với dân số ngày càng tăng. Tuy nhiên, những
chỉ trích đã nảy sinh xung quanh nuôi trồng thủy sản, hầu hết liên quan đến việc phá hủy các hệ sinh thái như
rừng ngập mặn để xây dựng trang trại nuôi trồng thủy sản, cũng như tác động môi trường của nước thải đối
với hệ sinh thái tiếp nhận. Những lợi ích vốn có của nuôi trồng thủy sản như sản xuất lượng thực phẩm lớn
lợi nhuận kinh tế đã khiến cộng đồng khoa học tìm kiếm các chiến lược đa dạng để giảm thiểu tác động tiêu
cực, thay vì giảm hay dừng hoạt động này. Nuôi trồng thủy sản có thể là một giải pháp tối ưu, nhưng hiện nay
cũng nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề liên quan đến sức khỏe môi trường, tuy nhiên, các chiến lược mới
được đề xuất đã chứng minh rằng có thể đạt được một nền nuôi trồng thủy sản bền vững. Các chiến lược như
vậy cần được hỗ trợ và thực thi bởi các cơ quan môi trường khác nhau từ mọi Quốc gia. Ngoài ra, cải thiện
pháp luật quy định cho nuôi trồng thủy sản là một nhu cầu cấp thiết. Chỉ trong kịch bản như vậy, nuôi trồng
thủy sản sẽ là một hoạt động bền vững.
Từ khóa: Nuôi trồng thủy sản, môi trường, sinh thái, sự bền vững
ABSTRACT
Aquaculture, the fastest growing food production sector in the world, is seen as the rst choice to address
the food needs of a planet with a growing population. However, criticisms have arisen around aquaculture,
most related to the destruction of ecosystems such as mangroves to build aquaculture farms, as well as the
environmental impact of the waste water to the receiving ecosystem. The inherent benefi ts of aquaculture
such as large food production and economic returns have led the scientifi c community to search for diverse
strategies to minimize negative impacts, rather than reducing or stopping these operations. Aquaculture may
be an optimal solution, but is also currently the cause of many problems related to environmental health,
however, newly proposed strategies have demonstrated that it can be achieved a sustainable aquaculture.
Such strategies should be supported and implemented by various environmental agencies from all States. In
addition, improving laws and regulations for aquaculture is an urgent need. Only in such a scenario would
aquaculture be a sustainable practice.
Keywords: Aquaculture, environment, ecology, sustainability
https://doi.org/10.53818/jfst.04.2023.247
I. MỞ ĐẦU
Nuôi trồng thủy sản cung cấp hơn một nửa
sản phẩm thủy sản tiêu thụ trên thế giới. Đây
lĩnh vực sản xuất thực phẩm phát triển nhanh
nhất sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc
nuôi sống hành tinh với dân số ngày càng tăng.
Năm 2020, sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn
cầu đạt kỷ lục 122,6 triệu tấn, với tổng giá trị
281,5 tỷ USD. Động vật thủy sản chiếm 87,5
triệu tấn rong biển chiếm 35,1 triệu tấn.
Năm 2020, được thúc đẩy bởi sự mở rộng
Chile, Trung Quốc Na Uy, sản lượng nuôi
trồng thủy sản toàn cầu đã tăng trưởng ở nhiều
nơi. Châu Á tiếp tục thống trị ngành nuôi trồng
thủy sản thế giới, sản xuất 91,6% tổng sản
lượng [1].
Tiêu thụ thực phẩm thủy sản trên thế giới
tăng đáng kể trong những năm gần đây sẽ
tiếp tục tăng, với tốc độ trung bình hàng năm
3,0% kể từ năm 1961, so với tốc độ tăng dân số
138TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản,
Số 4/2023
1,6%. Tính theo đầu người, mức tiêu thụ thực
phẩm thủy sản tăng lên mức cao kỷ lục 20,5 kg
vào năm 2019, trong khi giảm nhẹ xuống 20,2
kg vào năm 2020. Thu nhập tăng, đô thị hóa
và những thay đổi trong xu hướng tiêu dùng sẽ
thúc đẩy mức tiêu thụ thực phẩm thủy sản dự
kiến tăng 15%, trung bình 21,4 kg bình quân
đầu người vào năm 2030 [1].
Sản xuất động vật thủy sản được dự báo sẽ
tăng thêm 14% vào năm 2030. Điều quan trọng
là sự tăng trưởng này đi đôi với việc bảo vệ hệ
sinh thái, giảm ô nhiễm, bảo vệ đa dạng sinh
học và đảm bảo công bằng xã hội.
Tổng sản lượng thủy sản dự kiến đạt 202
triệu tấn vào năm 2030, chủ yếu nhờ vào tăng
trưởng nuôi trồng thủy sản bền vững, dự kiến
đạt 100 triệu tấn lần đầu tiên vào năm 2027 và
106 triệu tấn vào năm 2030 [1].
Năm 2050, sẽ 9,7 tỷ người trên hành tinh
và sự tăng dân số này sẽ gây áp lực rất lớn lên
sản xuất lương thực nói chung và thủy sản nói
riêng. Nguồn cung tự nhiên của nhiều loài
đang chịu áp lực lớn. Khoảng 33% trữ lượng
tự nhiên đã đạt đến giới hạn sinh học do
các hoạt động đánh bắt hủy diệt đánh bắt
quá mức. Nuôi trồng thủy sản hiện đang được
thực hiện ở 190 quốc gia và vùng lãnh thổ, với
khoảng 600 loài nước ngọt, nước lợ nước
mặn được nuôi nhốt trong nhiều hệ thống và
sở nuôi ở các mức độ thâm canh và công nghệ
khác nhau [2]. Phát triển nuôi trồng thủy sản
bền vững vẫn rất quan trọng để đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng về thực phẩm thủy sản
cung cấp cho người dân ở các nước đang phát
triển nguồn protein sạch, đồng thời giảm áp lực
đối với nguồn lợi tự nhiên.
Tuy nhiên, tăng trưởng nuôi trồng thủy
sản thường diễn ra với cái giá phải trả về môi
trường. Hoạt động nuôi trồng thủy sản đã
đang gây ra một số vấn đề nghiêm trọng về môi
trường sinh thái, như phá hủy môi trường sống;
tác động đến quần đàn tự nhiên; gây ô nhiễm
môi trường do nước thải, dẫn đến phì dưỡng
các thủy vực; nhiễm mặn a-xit hóa nguồn
nước/đất; làm thay đổi trầm tích, biến đổi dòng
chảy sinh vật đáy; sự suy giảm chức năng
của các vùng đất ngập nước.
Nuôi trồng thủy sản càng phát triển, tác
động tiềm tàng của nó, dù tốt hay xấu, đối với
môi trường sinh thái càng lớn. Những lợi ích
vốn của nuôi trồng thủy sản như sản lượng
thực phẩm lớn và lợi nhuận kinh tế khiến cộng
đồng khoa học tìm kiếm các chiến lược đa
dạng để giảm thiểu các tác động tiêu cực, thay
giảm hoặc dừng hoạt động này. Nuôi trồng
thủy sản hiện nay cũng nguyên nhân gây ra
các vấn đề đa dạng liên quan đến sức khỏe môi
trường. Tuy nhiên, một số hình nuôi trồng
thủy sản bền vững sinh thái đã được nghiên
cứu, thử nghiệm chứng minh, tương lai
thể ứng dụng hướng đến sản xuất nuôi trồng
thủy sản theo hướng bền vững sinh thái.
II. NỘI DUNG
II.1 Tác động môi trường của Nuôi trồng
thủy sản
1.1 Thay đổi môi trường sống tự nhiên -
Phá hủy hệ sinh thái rừng ngập mặn
Ao là hệ thống sản xuất nuôi trồng thủy sản
phổ biến nhất trên Thế giới. Trong hầu hết các
trường hợp, việc xây dựng ao đòi hỏi chuyển
đổi môi trường sống trên cạn hoặc đất ngập
nước sang môi trường sống dưới nước. Ao phải
gần nguồn nước nên thường được xây dựng
vùng bãi bồi ven biển ven sông. Việc xây
dựng ao trong hoặc gần vùng đất ngập nước
ven biển, đặc biệt là việc chuyển đổi rừng ngập
mặn nhiệt đới thành ao nuôi tôm, gây ra nhiều
tranh cãi [3].
Rừng ngập mặn là nơi tích tụ trầm tích, chất
gây ô nhiễm, nitơ, carbon [4], giảm thiểu xói
mòn, duy trì chất lượng nước ven biển, cung
cấp bãi đẻ cho sinh vật thủy sinh các dịch
vụ hệ sinh thái quan trọng cho cộng đồng ven
biển, bao gồm ổn định đất đai và phòng chống
bão. Rừng ngập mặn liên kết các hệ sinh thái
trên cạn biển ở khoảng 124 quốc gia có khí
hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, gồm thực vật
ưa mặn, có lá quanh năm và phát triển mạnh
các vùng bờ biển kín, cửa sông vùng châu
thổ [5].
Theo bản đồ rừng ngập mặn toàn cầu
được phát triển bởi Global Mangrove Watch
(GMW) [6], diện tích rừng ngập mặn trên thế
giới khoảng 136.000 km2 vào năm 2016. Đông
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản,
Số 4/2023
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG139
Nam Á chiếm gần 1/3 tổng diện tích rừng ngập
mặn, riêng Indonesia gần 20%. Diện tích
rừng ngập mặn đã bị mất khoảng 4,3% trong
20 năm, kể từ trước năm 2016. Tuy nhiên, tỷ lệ
trung bình tình trạng mất rừng ngập mặn đang
chậm lại trên toàn thế giới. Nhiều nguyên nhân
gây ra tình trạng mất rừng ngập mặn, nhưng
tác động trực tiếp của con người chính,
hơn 60%, bao gồm chuyển đổi sang đất nông
nghiệp, nuôi trồng thủy sản đô thị hóa. Từ
1996 đến 2016, các bản đồ GMW thực sự đã
xác định khoảng 15.262 km2 (10,8%) diện tích
rừng ngập mặn bị mất, đồng thời được đắp
bằng khoảng 9.204 km2 (6,5%) diện tích tăng
thêm [6].
Một số tổn thất rừng ngập mặn lớn nhất
xảy ra Đông Nam Á. Các khu vực sự
thay đổi mạnh mẽ bao gồm Đông Bắc
Kalimantan, Riau Tây Papua (Indonesia);
Sundarbans (Bangladesh Ấn Độ); đồng
bằng sông Cửu Long (Việt Nam) và đồng bằng
Irrawaddy (Myanmar). Ở Châu Phi, đồng bằng
Niger (Nigeria), đồng bằng Rufi ji (Tanzania)
Guinea-Bissau sự thay đổi đáng kể.
châu Mỹ, sự thay đổi đáng kể được thấy
Guiana thuộc Pháp, Bắc Brazil Ecuador,
tập trung quanh Guayaquil. Trên khắp Nam và
Đông Nam Á, việc chuyển đổi sang ao nuôi
đã từ nhiều thế kỷ trước, trong khi làn
sóng nuôi tôm bắt đầu đây vào những năm
1970 nhanh chóng kéo dài, ngay sau đó
lan tới Nam Mỹ. Đến năm 1997, Việt Nam,
Philippines Thái Lan đều đã mất một nửa
hoặc nhiều hơn diện tích rừng ngập mặn [6].
Nạn phá rừng ngập mặn xảy ra ở cả 5 châu lục
độ che phủ rừng ngập mặn trên thế giới đã
giảm từ 188.000 km2 năm 1980 xuống 152.300
km2 vào năm 2005, với tổng số 36.000 km2 bị
mất trong vòng 25 năm. Tỷ lệ mất rừng ngập
mặn hàng năm giai đoạn 1980 - 1990 1,7%
và 1,0% vào 1990 - 2000 [5].
Việc chuyển đổi sang ao nuôi trồng thủy sản
nguyên nhân chính dẫn đến mất rừng ngập
mặn một số vùng ven biển, đặc biệt Đông
Nam [7]. Nghiên cứu của Barbier Sathirathai
(2003), cho thấy sự phát triển nghề nuôi tôm ở
Thái Lan đã làm biến đổi diện tích rừng ngập
mặn từ 312.700 ha giảm xuống 168.683 ha
[8]. Theo báo cáo của Páez-Osuna (2001), các
vùng đất thấp ven biển được chuyển đổi thành
ao nuôi tôm chủ yếu bao gồm các bãi muối,
đầm lầy, rừng ngập mặn đất nông nghiệp.
Tác động ràng nhất mối quan tâm lớn
nhất đối với nghề nuôi tôm việc phá hủy
rừng ngập mặn vùng đất ngập nước trong
quá trình xây dựng ao nuôi tôm. Suy giảm
rừng ngập mặn liên quan đến nuôi tôm ở châu
Á và Trung Mỹ. Nhiều diện tích đất ngập nước
đã được chuyển đổi thành trang trại nuôi
măng và tôm ở Philippines (205.523 ha) (Chua
1992) và Indonesia (211.000 ha) (Chua 1992).
Tương tự, 69.400 ha đất ngập nước đã được
chuyển đổi thành trang trại nuôi tôm Thái
Lan (Dierberg Kiattisimkul 1996), 102.000
ha Việt Nam (Primavera 1998), 6.500 ha
Bangladesh (Primavera 1998), 21.600 ha
Ecuador (Alvarez et al. 1989), 11.515 ha
Honduras (Stonich 1995, De Walt et al. 1996)
[9].
Việc xây dựng ao nuôi tôm kéo theo sự phá
hủy rừng ngập mặn và số lượng quá nhiều các
trại nuôi tôm tập trung dọc bờ biển dẫn đến
giảm năng suất với tình trạng dịch bệnh sự
thất bại của doang nghiệp. Việc chuyển đổi
sinh kế từ nuôi trồng thủy sản sang đánh bắt
không thể các bãi đẻ khu vực ương
con đã bị phá hủy, do đó việc tạo quần đàn mới
bị thay đổi và quần thể các sinh vật sống dưới
nước hoang phải di đến các vùng thuận
lợi hoặc chết hoàn toàn. Điều này nhấn mạnh
sự cần thiết phải xem xét các lựa chọn sinh kế
trong bối cảnh nuôi trồng thủy sản bền vững
[10].
1.2 Tác động đến trầm tích hệ sinh vật
đáy biển
Chất thải từ các trang trại nuôi bao gồm
các chất hòa tan dạng hạt. Trong các chất
hòa tan, chất dinh dưỡng nitơ phốt pho
cơ làm tăng sự phát triển của tảo và có thể dẫn
đến hiện tượng phú dưỡng, trong khi các hạt
hữu ảnh hưởng đến đáy, thể dẫn đến
điều kiện môi trường kém. Chất thải dạng hạt
cũng có thể làm thay đổi môi trường trầm tích
dẫn đến sự bao phủ lên bề mặt các sinh vật
140TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản,
Số 4/2023
ăn lọc, sống lâu như Bọt biển San [11].
Chất thải hữu được cho tác động lớn
hơn các hạt vô cơ, vì chúng tiêu thụ oxy khi bị
phân hủy. Nơi đáy biển tỷ lệ lớn các hạt lắng
đọng, lượng tiêu thụ oxy thể cao đến mức
xảy ra hiện tượng cạn kiệt oxy trong trầm tích,
khiến quần xã động vật giảm mạnh [12].
khu vực gần trang trại, quần sinh vật
đáy ít loài với số lượng thể lớn của một
vài loài hội, khoảng cách trung gian
sự đa dạng loài cao hơn tại nơi cách xa 3
km, quần sinh vật đáy không bị ảnh hưởng
[13]. Hệ động vật bám sinh cảnh đáy cứng
sâu (100-200 m) rất nhạy cảm với sự lắng đọng
của các vật chất hữu từ các trang trại. Các
sinh vật bám như Bọt biển, Thích ty bào và Da
gai không hiện diện trong bán kính 75 m xung
quanh trang trại, và các cộng đồng sinh vật đáy
hoàn toàn chiếm ưu thế bởi giun nhiều
hội [14].
Xả thải từ nuôi trồng thủy sản tác động tiêu
cực rõ ràng đến sinh trưởng, tỷ lệ sống và sinh
sản của các rạn San hô ở các khu vực nhiệt đới
cận nhiệt đới [15]. Những thay đổi trong
cấu trúc, đa dạng sinh học và sự bổ sung quần
đàn của hệ động vật cố định dễ bị tổn thương
đã được phát hiện các vùng biển ôn đới
nhiệt đới [16]. Môi trường sống các khu
vực nông xung quanh các trại cá có thể bị ảnh
hưởng bởi cả chất dinh dưỡng hòa tan
các hạt mịn lửng lắng đọng xuống đáy
biển. Các chất dinh dưỡng các hạt
bị pha loãng nhanh chóng một khi đưa ra xa
thường không thể theo dõi ngoài bán kính
500 m. Sự xả thải ảnh hưởng thấp trong môi
trường động, nhưng thể tác động lớn các
khu vực kín hơn, đặc biệt nếu trang trại gần bờ
biển [14], nơi những đồng cỏ biển, môi
trường sống quan trọng của con. Tác động
của các hạt hữu cơ mịn lên cỏ biển đã được ghi
nhận Địa Trung Hải, làm chậm tốc độ phát
triển giảm sự xuất hiện của cỏ biển trong
vòng 400 m xung quanh trang trại [17].
Ngoài ra, thể những tác động gián
tiếp đến các môi trường sống đáy biển dễ bị
tổn thương hoặc giá trị từ các chất ô nhiễm
trong phân hoặc thức ăn thừa. Sự xả thải của
thuốc trong thức ăn, chẳng hạn như chất làm
ngon miệng, có thể ảnh hưởng đến động vật
vỏ kitin như tôm he, cua và tôm hùm. Đồng từ
các chất chống hà và xenobiotica có thể tích tụ
trong lớp trầm tích xung quanh các trại cá. Chất
thải đồng có thể ảnh hưởng đến sự sinh sản của
động vật [18] cũng như hệ thực vật [19].
1.3 Cạn kiệt nguồn nước ngầm, nhiễm
mặn và axit hóa nước/đất
Nuôi tôm quy mô lớn dẫn đến sự suy thoái
vật chất môi trường sống ven biển, rừng ngập
mặn đầm lầy bị tàn phá, nguồn cung cấp
nước uống nông nghiệp bị mặn hóa, sụt
lún đất do khai thác nước ngầm [9]. Việc bơm
nước ngầm để cung cấp nước ngọt cho các
trang trại nuôi tôm biển đã làm cạn kiệt và đôi
khi nhiễm mặn nguồn cung cấp nước tại chỗ,
gây ra tình trạng thiếu nước cho các cộng đồng
ven biển.
Tại các tỉnh ven biển miền Trung Việt Nam,
theo ước tính khoảng 16.380 - 27.300 m3 nước
ngọt cần cho mỗi ha ao nuôi tôm trong một vụ
để giảm độ mặn nước ao nuôi. Vào năm 2002,
khoảng 20.000 ha ao nuôi cần 400 triệu m3
nước ngọt trong năm. Nguồn nước ngầm cạn
kiệt thúc đẩy xâm nhập mặn nguyên nhân
chính khiến rừng phòng hộ ven biển bị chết.
Tại Đồng bằng sông Cửu Long, việc luân canh
Lúa - Tôm dẫn đến tình trạng xâm nhập mặn
các vùng trồng Lúa làm giảm năng suất Lúa.
Việc đưa nước mặn vào nuôi tôm nội địa
làm tăng độ mặn của đất và nước do nước biển
phù sa thải vào các vùng nước nội địa [3].
Việc bơm khối lượng lớn nước ngầm để đạt
được độ mặn của nước lợ trong các ao nuôi
tôm vào những năm 1980 đến giữa những năm
1990 dẫn đến hạ thấp mực nước ngầm, làm
rỗng các tầng chứa nước, sụt lún đất và nhiễm
mặn các vùng đất và đường thủy lân cận ở Đài
Loan và Đông Nam Á. Ngay cả khi nước ngọt
không còn được bơm từ các tầng chứa nước,
việc xả nước mặn từ các trang trại nuôi tôm
nằm sau rừng ngập mặn vẫn gây nhiễm mặn
các vùng trồng Lúa liền kề các vùng đất
nông nghiệp khác [20].
Các trang trại nuôi trồng thủy sản đôi khi bị
bỏ hoang do nhiều vấn đề (hoạt động, kinh tế,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản,
Số 4/2023
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG141
vệ sinh, v.v…), đất từ những trang trại đó
vẫn còn nhiễm mặn, axit và bị xói mòn. Do đó,
những loại đất này không thể sử dụng cho mục
đích nông nghiệp và không sử dụng được trong
thời gian dài. Ngoài ra, việc sử dụng vôi và các
hóa chất khác trong nuôi trồng thủy sản để xử
đất cũng thể làm thay đổi các đặc tính hóa
của đất, điều này có thể làm trầm trọng thêm
các vấn đề trên [21].
1.4 Xả nước thải
Hoạt động nuôi trồng thủy sản dẫn đến xả
thải các sản phẩm trao đổi chất như cặn bả, chất
giả phân, chất bài tiết cùng thức ăn thừa, được
coi một trong những yếu tố quan trọng nhất
gây ra tải lượng hữu chất dinh dưỡng
trong khu vực lân cận trang trại thủy sản [22].
Các chất dinh dưỡng hòa tan, đặc biệt nitơ
phốt pho, chất rắn lơ lửng được coi là những
chất thải quan trọng nhất ảnh hưởng đến chất
lượng nước của vùng sinh thái tiếp nhận nước
thải [23], có thể dẫn đến suy thoái nguồn nước
nếu khả năng đồng hóa của môi trường bị vượt
quá [7].
Zhou et al. (2006) [24] ước tính 52 - 95%
nitơ 85% phốt pho đầu vào trong hệ thống
nuôi cá biển từ thức ăn có thể bị thất thoát vào
môi trường do thức ăn thừa, bài tiết, tạo phân
hấp. Tác động môi trường của nuôi
biển phụ thuộc nhiều vào loài, phương pháp
nuôi, mật độ thả, loại thức ăn, chế độ thủy
văn. Tovar et al. (2000) [25] tính toán lượng
chất thải cho mỗi tấn cá nuôi gồm 9105 kg TSS
(tổng chất rắn lơ lửng), 843 kg POM (chất hữu
dạng hạt), 235 kg BOD (nhu cầu oxy sinh
hóa), 36 kg N – NH4
+, 5 kg N – NO2
-, 7 kg N –
NO3- và 3 kg P – PO4
3- thải ra môi trường.
Trong các hệ thống nuôi tôm thâm canh,
phần lớn thức ăn viên không được tôm đồng
hóa [26], khoảng 10% lượng thức ăn bị phân rã
15% tôm không ăn. Phần còn lại, 75%, được
tôm ăn vào, nhưng 50% bài tiết ra dưới dạng
chất thải chuyển hóa, tạo ra lượng lớn chất
thải dạng khí, chất hòa tan dạng hạt [27].
Tôm (Penaeid) chỉ thể chuyển hóa khoảng
9 - 27% tổng lượng nitơ đầu vào [28, 29], 5
- 13% tổng lượng phốt pho [29] 6 - 11%
lượng carbon thành sinh khối thu hoạch. Tỷ lệ
lớn tổng lượng nitơ đầu vào, 35 - 66% [28, 29],
và 46 - 65% tổng lượng phốt pho đầu vào [29]
thải ra môi trường xung quanh. Nước thải từ ao
nuôi tôm thường phong phú chất rắn lửng;
chất dinh dưỡng như amoniac, nitrat nitrit;
diệp lục a và nhu cầu oxy sinh hóa (BOD) [9].
Nồng độ nitơ phốt pho tăng cao thể
gây ra phì dưỡng phú dưỡng, hai quá trình
chính của việc xả chất thải từ các trang trại
nuôi trồng thủy sản trên đất liền hoặc dưới
nước. Các chất dinh dưỡng và chất hữu cơ hòa
tan kích thích sự phát triển nhanh chóng của vi
khuẩn, thực vật phù du động vật phù du [27].
Thành phần thực vật phù du có thể bị thay đổi
[7, 30] cùng với sự nở hoa do dinh dưỡng tăng
quá mức, tiếp đến là sự tàn lụi nhanh chóng và
phân hủy [31], dẫn đến suy giảm chất lượng
nước nghiêm trọng và hậu quả gây cá chết.
Trong các thủy vực hạn chế trao đổi nước,
có nguy cơ tích tụ nhiều chất dinh dưỡng trong
một khu vực nào đó. Trong trường hợp này,
chất thải từ trang trại thể làm thay đổi môi
trường sống cấu trúc quần thể dẫn đến
bùng phát dịch bệnh [32].
Những thay đổi khác về chất lượng nước
gần các trang trại do sự xả mạnh chất thải
thể dẫn đến thay đổi cấu trúc và chức năng của
các hệ sinh thái biển. Những thay đổi như vậy
ban đầu có thể xảy ra ở thực vật phù du và thực
vật đáy, sau đó lan truyền qua mạng lưới thức
ăn biển. Thiệt hại đối với cấu trúc hệ sinh thái
có thể bao gồm mất đa dạng sinh học và những
thay đổi trong ‘sự cân bằng của các sinh vật’
có nghĩa là thay đổi về sự phong phú tương đối
của các quần thể loài [33]. Sự làm giàu hữu
trong trầm tích sẽ chuyển hệ sinh thái sang bị
thống trị bởi vi khuẩn, trùng lông (ciliates)
động vật đáy cỡ nhỏ (meiofauna) [34]. Ngoài
ra, chất hữu lắng đọng dưới đáy thể dẫn
đến sự phát sinh các điều kiện thiếu khí và đặc
tính khử trong trầm tích sản sinh khí độc
(amoniac, metan và hydro sunfua).
Tổng lượng nitơ cung cấp cho sinh vật nuôi,
chỉ 20 - 50% được giữ lại dưới dạng sinh khối,
phần còn lại đưa vào cột nước hoặc trầm tích
[35], cuối cùng thải ra ngoài hướng tới các
hệ sinh thái tiếp nhận. Chất thải gây ra tác động