
Phân tích chùm thơ thu : Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh để làm nổi
bật vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm

Bài văn đạt giải nhất quốc gia năm 2002 (Bảng A) .Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến,
nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”. ( Nguyễn Khuyến -
về tác giả và tác phẩm) NXB Giáo dục, Hà Nội, 199, trang 160)
ĐỀ BÀI
Theo Xuân Diệu, “ Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài
thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh”. ( Nguyễn Khuyến - về tác giả và tác
phẩm) NXB Giáo dục, Hà Nội, 199, trang 160) Anh, chị hãy phân tích những sáng
tác trên trong mối quan hệ đối sánh để làm nổi bật vẻ đẹp độc đáo của từng thi
phẩm, từ đó nêu vắn tắt yêu cầu đối với tác phẩm văn học.
Trên cơ sở có những hiểu biết chắc chắn về Nguyễn Khuyến ( tiểu sử, con người,
sự nhgiệp sáng tác), thuộc và hiểu ba bài thơ; từ đó, phân tích làm bật được vẻ đẹp riêng
của từng thi phẩm, và thông qua sự phân tích đó, nêu ngắn gọn yêu cầu đối với một tác
phẩm văn học.

1, Trình bày được một số nét chung của cả ba bài thơ: cùng một đề tài rất quen
thuộc ( mùa thu), cùng một bút pháp, cùng một tác giả, thời điểm ra đời không cách xa
nhau nhiều. Tất cả ba bài thơ đều toát lên cảnh thu và trong sáng, đượm buồn qua bút
pháp quen thuộc của thơ trung đại: chỉ bằng vài nét đơn sơ mà ghi được cái hồn của cảnh
vật, lấy động để tả tĩnh, nhân vặt trữ tình luôn thư thái, tự tại…
Mặc dù đề bài không yêu cầu trực tiếp trình bày những nét chung của ba bài thơ,
nhưng để làm bật những nét riêng - vẻ đẹp độc đáo – không thể bỏ qua điều này. Dĩ nhiên
đây chỉ là ý phụ, không cần phải triển khai kĩ.
2. Bài bật được vẻ đẹp độc đáo của từng thi phẩm.
- Vẻ đẹp của cảnh thu:
+ Thu điếu : Cảnh thu được đón nhận từ cận cảnh đến viễn cảnh, rồi lại từ viễn
cảnh trở lại cận cảnh. Từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ
trúc rồi lại trở về với ao thu và chiếc thuyền câu. Từ cảnh ao thu, không gian mùa thu
được mở ra theo nhiều hướng với những cảnh sắc khác nhau. Thu điếu đúng là “ điển
hình hơn cả mùa thu của làng cảnh Việt Nam” ( Xuân Diệu”). Cảnh vật ở đây lặng lẽ,

thanh sơ, bé nhỏ, chuyển động rất nhẹ… Có lẽ đây là bài thơ thấm đẫm chất Việt Nam,
dân dã và bình dị hơn cả trong ba bài thơ.
+ Thu ẩm: Cảnh vật được phác hoạ từ cận cảnh đến viễn cảnh. Tác giả cảm nhận
cảnh thu từ ngôi nhà cỏ đơn sơ. Từ đây nhìn ra đường đi trong xóm, nhìn xuống mặt ao,
rồi nhìn lên bầu trời biếc xanh vô tận. Bài thơ không miêu tả một thời điểm cụ thể mà
khắc hoạ nhiều thời điểm khác nhau, thời điểm nào cũng mang hồn thu. Một trong những
nét đặc sắc của bài này là cách miêu tả cảnh đêm và cảnh buổi chiều. Thu ẩm độc đáo ở
giọng bông đùa như của người hơi chuếnh choáng…
+ Thu vịnh: Cảnh vật được miêu tả từ viễn cảnh đến cận cảnh, rồi từ cận cảnh tời
viễn cảnh ( từ bầu trời nhìn xuống cành trúc, mặt nước, chùm hoa, bóng trăng; từ mặt đất
lại hướng lên bầu trời) tuy cùng với nhiều thời điểm, nhiều không gian khác nhau. Đây là
bức tranh toàn cảnh về mùa thu, mà đặc sắc nhất có lẽ là trời thu và trăng thu. Đây có lẽ
là bài thơ trang trọng, cổ kính gần với thơ Đường nhất trong ba bài thơ.
- Vẻ đẹp của tình thu:

+ Thu điếu là nỗi cô quạnh , uẩn khúc, tâm sự đau buồn trước hiện tình đất nước, niềm
gắn bó với thiên nhiên và quê hương, tấm lòng yêu nước thầm kín.
+ Thu ẩm in rõ nhất hình bóng và tâm trạng nhà thơ. Ông sống trong sự thanh đạm. Và có
lẽ con người này rất dễ xúc động. Nhà thơ uống rượu để thưởng thức cảnh thu và quên sự
đời. Tuy đã ẩn nhưng ông luôn nặng lòng trước thời thế.
+ Thu vịnh thể hiện nỗi buồn sâu lắng, dường như nó làm mất cả ý niệm thời gian, không
gian. Cái thẹn của nhà thơ trước Đào Tiềm chứng tỏ phẩm chất tinh thần tuyệt vời của
Nguyễn Khuyến.
- Vẻ đẹp của hình ảnh và ngôn ngữ:
Hình ảnh gần gũi, quen thuộc, rất Việt Nam. Ngôn ngữ tự nhiên mà điêu luyện, phần
nhiều là từ thuần Việt ( so với một số cây bút đương thời); bài nào cũng có những từ
được dùng một cách thần tình; không dùng điển cố, nếu có thì cũng đơn giản, tạo thêm sự
hàm súc cho câu thơ. Thu điếu: ít hình ảnh tượng trưng, Thu ẩm: sống động, pha chút đùa
vui; Thu vịnh: trang trọng, cổ kính.

