
Vào bài: Có người đã cho rằng, ai già rồi mới thích đọc Nguyễn Khải, điều đó quả
cũng có lý bởi hầu như tác phẩm nào của ông cũng bắt ta phải suy nghĩ rất nhiều. Ta
không thể nhìn đời bằng con mắt hồn nhiên vô tư được khi lạc bước vào thế giới nhân
vật của ông. Dù giọng văn Nguyễn Khải, cũng có lúc đùa vui, hóm hỉnh thật thú vị. Có
lẽ, đó là tạng riêng của mỗi người cầm bút... Cho nên, dù đã khá quen với kiểu nhân
vật của ông, đọc lại truyện ngắn Một người Hà Nội ta vẫn không khỏi ngỡ ngàng. Lễ
kỉ niệm một ngàn năm Thăng Long đang đến gần, đọc lại tác phẩm này, ta không khỏi
giật mình, vì sao cách đây hơn chục năm, mà tác giả lại đặt ra được những vấn đề đến
hôm nay vẫn còn rất nóng.
I. Tìm hiểu chung
1. Vài nét về tác giả
- 1930 - 2008
- Là một trong những cây bút hàng đầu của văn xuôi 1945 đến nay. Nhà PBVH Vương
Trí Nhàn viết: “Muốn hiểu con người thời đại với tất cả những hay dở của họ, nhất là
muốn hiểu cách nghĩ của họ, cuộc sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải”.
- Nét phong cách nổi bật: Chất triết lí, chính luận. Hình tượng tác giả - một người trải
nghiệm luôn có nhu cầu bàn bạc, chia sẻ với bạn đọc những đúc kết của mình - thường
để lại những ấn tượng sắc nét và thú vị. Ông có khả năng tinh nhạy trong phát hiện và
trình bày vấn đề, phân tích tâm lý sắc sảo; luôn đưa ra những bài học nhận thức qua
những hình tượng nghệ thuật có sức kích thích đối thoại.
- Quá trình sáng tác: Trước 1978, quan tâm đến các vấn đề thời sự chính trị, con người
được đánh giá chủ yếu qua tiêu chí đạo đức và tiêu chí chính trị. Tác phẩm có khuynh
hướng chính luận với sức mạnh của lí trí tỉnh táo (Tiểu thuyết “Xung đột” 1959, tập
truyện ngắn “Mùa lạc” 1960, truyện “Tầm nhìn xa” 1963… )
Sau 1978, quan tâm nhiều hơn đến cái đời thường, tới số phận cá nhân. Tiêu chí đánh
giá con người mở rộng ở các góc độ văn hoá, lịch sử và triết học. Tác phẩm có khuynh
hướng triết luận, giọng điệu đôn hậu, trầm lắng, nhiều chiêm nghiệm: tiểu thuyết “Cha
và Con và…” 1979, tiểu thuyết “Thời gian của người” 1985, tập truyện “Hà Nội trong
mắt tôi” 1995, truyện ngắn “Sống ở đời” 2002, tiểu thuyết “Thượng đế thì cười”
2004… Có thể nói, đời văn Nguyễn Khải phản ánh sinh động và khá chân thực quá
trình vận động của cả nền văn học từ quỹ đạo chiến tranh sang quỹ đạo hoà bình.
2. Tác phẩm:
MỘT NGƯỜI HÀ NỘI
Nguyễn Khải

2
Thuvientoan.net
- Xuất xứ: Rút từ tập truyện: "Hà Nội trong mắt tôi".
- Vị trí: Ra đời năm 1995, gắn với công cuộc đổi mới của đất nước. Tác giả có ý dành
tập truyện này để trình bày những khám phá, kiến giải của ông về “đất kinh kì”. Nhu
cầu khẳng định kinh nghiệm cá nhân bộc lộ rõ qua cách đặt nhan đề và nhất là qua cái
tôi mang tính tự truyện - biểu hiện cho xu hướng dân chủ hoá trong thời kì đổi mới.
Nhân vật bà Hiền tiêu biểu cho những người “lớn nhanh hơn thời đại” khiến “miếng
đất sinh ra họ trở nên chật chội” mà Nguyễn Khải rất say mê. Nhân vật được xây dựng
như một ngoại lệ so với văn học trước 1978: nổi bật với bản lĩnh cá nhân, khả năng tự
ý thức, nhân cách đẹp…
II. Đọc - hiểu văn bản:
Trước đây, ở giai đoạn văn học 1945 – 1975, ta thương quen với những nữ nhân vật
chính diện thuộc thành phần công, nông, binh giỏi việc nước, đảm việc nhà, hoặc sẵn
sàng xông pha nơi hòn tên mũi đạn, hoặc ở nhà hăng say lao động sản xuất làm hậu
phương vững chắc cho chồng con chiến đấu, còn sau 1975, ta có thể gặp lại họ trong
những thành tích hoặc những bi kịch đời thường... Tóm lại là một tuýp người quen
thuộc mà không cần đọc hết tác phẩm ta cũng có thể hình dung nhà văn sẽ nói gì.
Nhưng nhân vật cô Hiền trong Một người Hà Nội thì lại khác. Cô chỉ là một người dân
bình thường của Hà Nội, không kì tích, không chiến công, không gặp bi kịch đau đớn
gì về số phận, không bị ai áp bức bóc lột đè nén, mọi việc của cuộc đời mình dường
như cô đều chủ động sắp xếp cả. Thế nhưng, qua một cuộc đời của một người bình
thường giản dị như thế, ta lại thấy được những biến động mạnh mẽ của đời sống, của
lịch sử một dân tộc, một đất nước, qua đó tác giả đã gợi cho ta bao ngẫm ngợi về những
điều được, mất trong đời sống, và vẻ đẹp của “một hạt bụi vàng” vẫn lấp lánh trong
thời gian, và qua sự chạm khắc tài tình của người thợ bạc giàu tài năng và tâm huyết -
nhà văn Nguyễn Khải, đã trở thành một Bông hồng vàng quí giá của mảnh đất văn hiến
nghìn năm. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu để thấy rõ hơn những điều mà nhà văn muốn
gửi gắm cùng bạn đọc.
1. Hình tượng nhân vật bà Hiền trong mối quan hệ gia đình.
- Việc hôn nhân: Là phụ nữ có nhan sắc, yêu văn chương, thời con gái giao du với
nhiều văn nhân nghệ sĩ nhưng không chạy theo những tình cảm lãng mạn viển vông.
Cô Hiền chọn bạn trăm năm là ông giáo tiểu học hiền lành, chăm chỉ khiến cả Hà Nội
phải kinh ngạc. Cô Hiền đã vượt qua thói thường. Vì ông giáo thời ấy không thể đảm
bảo danh lợi. Nhưng ông lại là người khiêm nhường, mô phạm, phù hợp với quan niệm
của cô về tổ ấm gia đình, gắn với thái độ nghiêm túc của cô đối với hôn nhân (trách
nhiệm làm vợ, làm mẹ… được đặt lên trên mọi thú vui khác).
- Việc sinh con: ở cái thời mà người Việt thích đẻ nhiều con, thì bà Hiền quyết định
chấm dứt sinh đẻ vào năm 40 tuổi. Bà không tin “trời sinh voi, trời sinh cỏ” mà bà tin
con cái phải được nuôi dạy chu đáo để chúng “có thể sống tự lập”. Như vậy, trách

3
Thuvientoan.net
nhiệm của cha mẹ là cho con một nhân cách, chuẩn bị cho con khả năng sống không
bị lệ thuộc. Đó là tình yêu sáng suốt của người mẹ giàu tự trọng, biết “nhìn xa trông
rộng”.
- Việc quản lý gia đình: bà Hiền luôn là người chủ động, tự tin. Bà hiểu rõ vai trò của
người mẹ, người vợ. Khi phê bình thói “bắt nạt vợ” của người cháu, bà bảo: “Người
đàn bà không biết nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”. Quan niệm “bình
đẳng nam nữ” của bà xuất phát từ thiên chức của người phụ nữ - đấy là một chân lý tự
nhiên, giản dị.
- Việc dạy con: bà Hiền dạy con khi chúng còn nhỏ và dạy từ những cái nhỏ nhất. Bà
không coi chuyện ngồi ăn, chuyện cầm bát, cầm đũa, múc canh… chỉ là chuyện sinh
hoạt vặt vãnh. Bà coi đấy là văn hoá sống, văn hoá người, hơn thế, đấy là văn hoá của
người Hà Nội: “chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn,
không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”. Cái chuẩn ở đây là lòng tự trọng.
2. Hình tượng nhân vật bà Hiền trong mối quan hệ xã hội.
+ Trước 1955: cô Hiền sinh ra trong một gia đình gốc Hà Nội, giàu có nhưng lương
thiện. Mẹ buôn nước mắm, bố đậu tú tài, mê văn thơ, dạy con theo khuôn phép nhà
quan. Cô Hiền đẹp, thông minh, con nhà gia giáo nề nếp, được bố mẹ cho mở phòng
tiếp khách văn chương.
+ Trong kháng chiến chống Pháp: vẫn sống ở Hà Nội, vì không thể xa Hà Nội sinh cơ
lập nghiệp ở một vùng đất khác. Điều này khiến ta không khỏi nghi ngại, vì bao nhiêu
người con Hà Nội vẫn sẵn sàng ra đi vì độc lập tự do của Tổ quốc. Nhưng đấy là cách
cô thể hiện tình yêu, sự gắn bó của cô với Hà Nội thiết thực, cụ thể, theo cách nghĩ của
cô.
+ Trước niềm vui chiến thắng và cách cư xử của mọi người, cô gắt, cau mặt, thở dài
quay đi, cô không bằng lòng với cách bắt chước người cách mạng không phải lối, cô
nhận ra niềm vui hơi thái quá, và có phần thỏa mãn của mọi người sau chiến thắng
“Phải lo mà làm ăn chứ ?”
+ Sau ngày Hà Nội giải phóng, cô vẫn có hai dinh cơ, nhưng cô đã khôn ngoan bán
ngôi nhà ở hàng Bún cho một người mới ở kháng chiến về, không đồng ý cho chồng
mua máy, rồi mở cửa hàng lưu niệm làm hoa giấy, bán rất đắt nhưng chịu thuế thấp,...
Tóm lại, cô là một người nhạy bén và thích ứng rất nhanh với thời cuộc. Dường như
người đàn bà khôn ngoan đó đã lường trước hết mọi việc, nhưng không thực dụng, vị
kỉ. Tự nguyện bỏ ý định làm giàu để thực hiện chủ trương của nhà nước, nhưng cũng
vẫn chua chát nhận thấy mặt trái trong căn bệnh xã hội của một thời. Đó là tâm lý kì
thị với kinh doanh “Thiếu ăn là vinh chứ không là nhục... chế độ này không thích cá
nhân làm giàu... các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dầu họ có đủ
tài để không phải sống ăn bám”.

4
Thuvientoan.net
- Cô đối xử rất tình nghĩa với người ở, nhưng luôn bị để ý, căn bệnh ấu trĩ của mọi
thời, đến bây giờ chúng ta có thể trả lời được, nhưng cô Hiền đã nhìn thấy trước “Chính
phủ can thiệp vào việc của dân nhiều quá”, người đàn bà lịch lãm, từng trải, bản lĩnh
đầy mình đó vẫn giữ nếp sinh hoạt khác hẳn mọi người, mà không sợ lời đàm tiếu của
dư luận. Thấy đúng thì làm, đã làm không sợ. Đó quả là một tay nội tướng giỏi.
Tuy nhiên, cách quản lý gia đình tháo vát của cô Hiền khiến ta không khỏi băn khoăn,
tâm lý vẫn có gì vương vướng như ta phải gặp lại một Hoàng trong Đôi mắt của Nam
Cao. Nhưng không, hãy xem cô Hiền đã dạy bảo con như thế nào khi tổ quốc lâm nguy,
hãy xét tư cách công dân của một người như cô Hiền, trong giờ phút nước sôi lửa bỏng
của dân tộc.
+ Miền Bắc bước vào thời kỳ đương đầu với chiến tranh phá hoại bằng không quân
của Mĩ. Cô Hiền dạy con cách sống “biết tự trọng, biết xấu hổ”, biết sống với bản chất
người Hà Nội. Đó cũng là lí do vì sao cô sẵn sàng cho con trai ra trận: “Tao đau đớn
mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng
là biết tự trọng”. Con người đánh mất lòng tự trọng thì cũng coi như chết về nhân cách.
Có lòng tự trọng sẽ có lòng yêu nước, có ý thức trách nhiệm với cộng đồng. Có thể
nói, với những người như bà Hiền, lòng yêu nước cũng là một nhu cầu tự nhiên, muốn
được sống bình đẳng với những bà mẹ khác, muốn con người được sống với lòng tự
trọng... Cô không để mình bị điều gì cám dỗ nhưng trái tim lại tự nguyện gắn bó với
số phận của đất nước, thao thức cùng Hà Nội.
+ Sau chiến thắng mùa xuân 1975, đất nước trong thời kỳ đổi mới, giữa không khí xô
bồ của thời kinh tế thị trường, cô Hiền vẫn là “một người Hà Nội của hôm nay, thuần
túy Hà Nội, không pha trộn”. Người kể chuyện thì không giấu nỗi thất vọng, hoài nghi,
lo âu khi thấy Hà Nội đang giàu lên, vui hơn, nhưng chỉ là “phần xác”. Ông không tin
lớp người đang hăm hở làm giàu còn biết yêu cái đẹp, còn giữ được nét hào hoa, thanh
lịch của đất kinh kì (biết gọt tỉa và thưởng thức hoa thủy tiên…). Ông “tức và đau” khi
gặp những người Hà Nội thiếu lễ độ, thiếu văn hoá một cách trắng trợn (người hỏi
đường, anh chàng đi xe đạp, cô con gái anh bạn…). Nhưng bà Hiền, người mà ông một
mực quý trọng lại “không bình luận một lời nào về những nhận xét không mấy vui vẻ
của người cháu. Trước những mảng tối, những góc khuất của Hà Nội hôm nay, bà chỉ
kể cho người cháu chuyện cây si sống lại nhờ nỗ lực của thành phố. Đấy là bằng chứng
cho thấy người Hà Nội hôm nay không chỉ trọng vật chất mà còn quan tâm đến văn
hoa tinh thần. Bà vẫn tin “Hà Nội thời nào cũng đẹp” => Thái độ ung dung tự tại trước
những biến động bên ngoài, trước những nhận xét “hơi nghiệt” của người cháu. Không
có một thái độ sống sâu sắc mà chỉ dừng lại ở một cái nhìn hời hợt hay cảm tính thì
không thể có một niềm tin như vậy. “Xã hội nào cũng có một giai tầng thượng lưu của
nó để làm chuẩn cho mọi giá trị” - Một quan niệm khiến ta lạnh người, vì nó có thể bị
coi là “phản động” ở thời kì lúc nào ta cũng nghe thấy khẩu hiệu: “Kháng chiến hóa
sinh hoạt, quần chúng hóa tư tưởng”, và chúng ta cũng đang phấn đấu vì một xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh... nhưng ngẫm nghĩ lại một cách sâu xa, nó không phải

5
Thuvientoan.net
là không có cơ sở. Hà Nội là chuẩn mực văn hoá của người Việt. Mỗi công dân Hà Nội
càng tự hào về điều đó càng phải có ý thức giữ gìn và phát huy chuẩn mực đó.
+ Thái độ của cô Hiền trước lối sống của người Hà Nội trong cơ chế thị trường hôm
nay càng lý giải...
*Vì sao nhà văn đặt tên truyện “Một người Hà Nội”?
Có lẽ tác giả muốn khắc đậm cốt cách, bản lĩnh của người Hà Nội. Họ luôn “là mình”
với cốt cách, bản lĩnh riêng (đại diện cho tinh hoa một dân tộc, một đất nước: Chẳng
thơm cũng thể hoa lài, dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An)
+ Nét văn hoá lịch lãm, sang trọng: Phòng khách nhà bà như lưu giữ cái hồn cốt Hà
Nội: cổ kính, quý phái và tinh tế “suốt mấy chục năm không hề thay đổi”.
+ Qua sự khôn ngoan, sâu sắc, trí tuệ: Bà nói về tự nhiên, về niềm tin “Thời nào nó
cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho một lứa tuổi”.
+ Bà khiêm tốn và rộng lượng, hòa mình vào cái mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ
không làm ướt áo, bà lau chùi cái bát cổ để cắm hoa thuỷ tiên. Tất cả làm nên cái duyên
riêng của Hà Nội, khiến người Hà Nội xa xứ phải kêu thầm “Thấy Tết quá, Hà Nội
quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái Tết Hà Nội”. Những phẩm chất đó được nhào
nặn từ truyền thống gia đình, từ năng lực tự ý thức, từ kinh nghiệm sống mà bà đúc rút
được trong chính cuộc sống đời thường của một người vợ, người mẹ, và đó là “một
người Hà Nội”.
=> Như vây, sự đối lập giữa Hà Nội xưa và nay chỉ là nhất thời, khi con người quan
quan tâm đến vẻ đẹp văn hoá, ta sẽ còn gặp lại các giá trị truyền thống.
Có thể coi chuyện cây si cổ thụ bị bão đánh bật rễ vẫn sống lại là quy luật bất diệt của
sự sống. Quy luật này được khẳng định bằng niềm tin bất diệt của con người: thành
phố đã kiên trì cứu sống cây si. Cây si cũng là một biểu tượng nghệ thuật, một hình
ảnh ẩn dụ về vẻ đẹp Hà Nội: Hà Nội có thể bị tàn phá, bị nhiễm bệnh, nhưng Hà Nội
vẫn là Hà Nội với truyền thống văn hoá được nuôi dưỡng suốt trường kì lịch sử.
Còn điều gì khiến cần nói thêm về thái độ, quan điểm sống hoặc tính cách của bà Hiền?
+ Con người luôn tỉnh táo sáng suốt như vậy thật đáng quí, thời nào cũng quí và càng
trong thời hội nhập càng đáng quí. Nhưng ta vẫn thèm một chút thái quá, một chút sứt
mẻ, yếu đuối, hoặc khiếm khuyết trong tính cách để con người thực sự là người hơn
trong nỗi buồn và cả nỗi đau. Cô Hiền thật đáng khâm phục trong mọi mặt, nhưng ta
vẫn băn khoăn tự hỏi, mọi người có thực sự hạnh phúc không khi đều phải tuân theo
sự sắp đặt, tính toán như thần của cô? Một người giỏi giang sẽ luôn không bằng lòng
khi thấy mọi người không được như mình, và trong cách nói, cách nghĩ của cô, ta cảm
thấy thoáng có chút coi thường người chồng nhút nhát do chính cô chọn để sống yên
phận...