Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh
lượt xem 5
download
Bài văn mẫu "Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của tác giả Hồ Chí Minh" sau đây được chúng tôi chọn lọc và gửi đến các bạn với mong muốn đây sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích giúp các bạn nắm được nội dung chính trong tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của tác giả ồ Chí Minh cũng như trau dồi vốn từ ngữ văn chương của mình. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập - Hồ Chí Minh
- TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP Hồ Chí Minh MỞ: Việt Nam, dải đất mảnh mai gầy guộc nằm bên bờ biển Đông suốt lịch sử 4000 năm luôn phải gồng mình lên để sớm chắn bão giông chiều ngăn nắng lửa; gần hai ngàn năm phải chống ngoại bang xâm lược, đô hộ, đồng hoá; độc lập, tự do cho dân tộc, chủ quyền quốc gia đã trở thành lẽ sống còn truyền từ đời này sang đời khác. Hơn 1000 năm trước, khi quân xâm lược Tống (Trung Quốc) kéo sang giày xéo bờ cõi, chúng ta đã tuyên bố "Sông núi nước Nam vua Nam ở". Hơn năm trăm năm sau, sau thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ nhà Minh, trong bài Cáo bình Ngô, chúng ta lại một lần nữa tuyên bố nền độc lập trong không khí hào sảng: "Như nước Đại Việt ta ... hùng cứ một phương". Vẫn với một tinh thần ấy và hơn cả như thế, Tuyên ngôn độc lập của Bác đã trở thành đỉnh mốc đánh dấu bước phát triển lớn nhất trong lịch sử phát triển quốc gia dân tộc. I. Tìm hiểu chung 1. Tác giả 2. Tác phẩm 2.1. Hoàn cảnh ra đời của bản tuyên ngôn - Ngày 19/8/45 chính quyền về tay nhân dân. - Ngày 26/8 tại Hàng Ngang - Hà Nội người soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập. - Ngày 2/9/45 tại quảng trường Ba Đình, người thay mặt chính phủ đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. 2.2. Đối tượng và mục đích sáng tác của bản tuyên ngôn - Đối tượng: + Tuyên ngôn độc lập huớng tới không chỉ đồng bào trong cả nuớc. + Nhân dân trên thế giới, trước hết là nhân dân tiến bộ ở Pháp và Mỹ. + Đặc biệt là các lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm một lần nữa nô dịch đất nước ta. - Mục đích: + Khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam. + Bao hàm một cuộc tranh luận ngầm nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của kẻ thù truớc dư luận thế giới. Lời văn: - Ngày 19 tháng 8 năm 1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26 tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại
- 2 căn nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người biên soạn bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào: “Hôm nay sáng mồng 2 tháng 9/Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình/Muôn triệu tim chờ, chim cũng nín/Bỗng vang lên tiếng hát ân tình/Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh/ Người đứng trên đài, lặng phút giây/Trông đàn con đó, vẫy hai tay/Cao cao vầng trán, ngời đôi mắt/Độc lập bây giờ mới thấy đây”. Cả đất nước ngây ngất trong niềm hạnh phúc được sống trong kỉ nguyên mới, chấm dứt bao năm sống trong nô lệ tủi nhục dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. - Tuyên ngôn độc lập được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt khác thường: đất nước đã giành đuợc độc lập nhưng bọn đế quốc thực dân - đặc biệt là thực dân Pháp đang lăm le quay trở lại nhằm nô dịch đất nước ta một lần nữa. Nấp sau quân Đồng minh vào tước khí giới quân đội Nhật: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Tưởng Giới Thạch, sau lưng là đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, sau lưng là quân viễn chinh Pháp. Chúng nhân danh phe Đồng minh với chiêu bài: lấy lại mảnh đất bảo hộ đã bị bọn Phát xít Nhật chiếm đóng trong chiến tranh. Chúng ta phải chống thực dân Pháp - một thành viên chủ chốt của phe Đồng minh nhưng lại nhất thiết không thể chống Đồng minh. Đây là một vấn đề trọng yếu và cũng vô cùng tinh tế, đòi hỏi sự khôn khéo, sáng suốt và bản lĩnh của ng- ười lãnh đạo. 2.3. Bố cục - Đoạn 1: Từ đầu đến “đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được” cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn. - Đoạn 2: Tiếp đó đến “Dân tộc đó phải được độc lập” - Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và khẳng định thực tế lịch sử là nhân dân ta kiên trì đấu tranh và nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước VNDCCH. - Đoạn 3: Còn lại: Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc. II. Đọc hiểu văn bản 1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn - Bác dẫn hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ (1776); Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) -> Hai bản tuyên ngôn được cả thế giới thừa nhận nội dung phù hợp với mơ ước và quyền lợi của con người. Đó là chân lí không ai có thể chối cãi. Việc trích dẫn ấy có giá trị sâu sắc. Bác tỏ ra trân trọng những danh ngôn bất hủ để chặn đứng âm mưu trở lại xâm lược nước ta của thực dân Pháp. - Người trích dẫn lời bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ: “Tất cả mọi người…hạnh phúc”. Bác rất linh hoạt khi kết hợp với ý kiến của mình “suy rộng ra câu ấy có nghĩa là” từ khẳng định quyền con người, Bác đã chuyển nhanh sang quyền của các dân tộc Thuvientoan.net
- 3 “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, daâ tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” - Người trích dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp: “Người ta sinh ra… quyền lợi”. Người khẳng định: “đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được”. Bác xoáy sâu vào quyền bình đẳng mọi mặt của con người. Con người hiểu theo nghĩa không phân biệt chủng tộc, màu da, tổ quốc. Con người nhân loại. Vậy có lí do gì Pháp xâm lược Việt Nam? - Bác dẫn lời cha ông họ. Ông cha họ đã từng khẳng định, từng tuyên ngôn hùng hồn đanh thép. Có lẽ nào chúng lại vô tình đi ngược lại và phản bội lời lẽ của ông cha chúng? Đây chính là phương pháp luận của Bác, là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” khôn khéo và tế nhị. Lời văn: Phần mở đầu bản tuyên ngôn có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận HCM. Tác giả đã khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở những lí lẽ không thể chối cãi. Ngay từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí Minh nêu lên những chân lý vĩnh cửu về quyền tự do của dân tộc, quyền sống của mỗi con người đã được thừa nhận qua nhiều thời kỳ lịch sử ở ngay chính những quốc gia mà bấy giờ chính quyền của họ đang đi ngược lại nguyên tắc đó. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của VN. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết. - Cách lập luận ấy khôn khéo bởi vì: + Thu hút sự chú ý của dư luận. Dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp chính là biểu hiện của sự mở ra, hoà vào đời sống cộng đồng thế giới của dân tộc. Chỉ mới đây thôi, dân tộc còn nô lệ, đất nước còn chưa có tên riêng (mang tên xứ An Nam thuộc Pháp), xã hội còn là xã hội phong kiến thuộc địa cũ kĩ, tù đọng. Hôm nay chúng ta đã là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng giữa nhân loại trên thế giới. Những nội dung, khí phách như thế đã cất lên, vang động khắp hoàn cầu. + Gợi lại cho người Mĩ và người Pháp nhớ lại những hoàn cảnh tương tự như Việt Nam. Cách đó 200 năm, người Mĩ cũng bị áp bức, bị làm nhục như Việt Nam, cũng bị những người Âu châu sang khai thác. Câu nói nổi tiếng của thủ tướng Anh Uy-liêm: “Hễ Mĩ làm ra dù một sợi len, một miếng sắt móng ngựa là bản chức sẽ cho lĩnh sang đóng đầy xứ ngay lập tức”. Năm 1775, dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Oa-sinh-tơn, lãnh đạo nhân dân nổi dậy chống đế quốc Anh đã thống trị họ từ đầu thế kỉ XVII. Ngày 4- 7-1776, họ tuyên bố Độc lập và thành lập Liên bang Bắc Mĩ Hoa Kì (quen gọi là nước Mĩ). 15 năm sau bản tuyên ngôn của Mĩ là tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp không chịu được cảnh phải cõng trên lưng, đội trên đầu quyền lực tối cao của chế độ quân chủ, trong đó luật pháp là do ý thích của nhà vua đặt ra. Như vậy mấy trăm năm trước người Pháp lật đổ chế độ quân chủ, người Mĩ đánh đuổi thực dân, mấy trăm năm Thuvientoan.net
- 4 sau, người Việt cùng một lúc đánh đổ cả chế độ phong kiến và chế độ thực dân, cùng chung khát vọng độc lập tự do như người Mĩ người Pháp... Vừa nhắc nhớ, vừa có ý đặt ngang hàng cuộc cách mạng tháng Tám của ta với hai cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ. Quả thật hai cuộc cách mạng nói trên mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển của lịch sử xã hội loài người thì cuộc cách mạng tháng Tám của ta cũng mở ra một kỷ nguyên mới. Đó là kỷ nguyên dành độc lập dân tộc ở các nuớc thuộc địa, là kỷ nguyên sụp đổ của chủ nghĩa thực dân. Với những trích dẫn hai câu nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh muốn khẳng định chân lí lịch sử và niềm tự hào dân tộc, khẳng định tầm vóc thời đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. + Người đã thể hiện sự tôn trọng những danh ngôn bất hủ đã được cả thế giới thừa nhận, những chân lý dù đó là của Mỹ hay của Pháp. Ở đây không hề có sự lầm lẫn giữa nhân dân Mỹ, dân tộc Pháp với bọn xâm lược Mỹ, Pháp. + Từ quyền bình đẳng và tự do của con người mà tác giả suy rộng ra về quyền bình đẳng tự do của các dân tộc trên thế giới. Đây là một cách vận dụng khéo léo và đầy sáng tạo nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ trong lập luận. Tư tưởng về ''Quyền của các dân tộc'' là một đóng góp lớn của Tuyên ngôn độc lập: ''cống hiến nổi tiếng của cụ HCM vào kho tàng tinh hoa tư tưởng nhân loại. Bởi vì tư tưởng này là sự nâng cao giá trị, tầm vóc nhân bản của tư tưởng, của nguyên tắc về quyền của con người'' (Giáo sư Singô Sibita). Nghĩa là con người phải biết vươn tới quyền lợi của cộng đồng. Mặt khác, tư tưởng nguyên tắc ''Quyền của các dân tộc '' còn là cơ sở để nhân loại thấy rằng giai cấp tư sản trong khi nêu cao nhân quyền, dân quyền lại mở rộng quyền xâm phạm tàn bạo, bóc lột dã man các dân tộc khác. Đó là vô nhân đạo và phi nghĩa. Thế là từ phạm trù nhân quyền - nền móng tư tưởng của cách mạng tư sản - Bác đã chuyển sang phạm trù chống thực dân - nền móng của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào rồi sẽ trở thành một trong ba dòng thác cách mạng trên thế giới. Chỉ trong một câu văn ngắn gọn, ta vẫn nhận ra một Hồ Chí Minh như nguời giương cao bó đuốc sáng ngời của tư tưởng giải phóng dân tộc. + Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn vừa nhằm đề cao những giá trị hiển nhiên của tư tưởng nhân đạo và văn minh của nhân loại, vừa tạo tiền đề cho lập luận sẽ nêu ở mệnh đề tiếp theo. - Khôn khéo nhưng vẫn kiên quyết: Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”, dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ vấy bẩn lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái mà cha ông họ từng giương cao. Kết tiết 1: Tuyên ngôn độc lập là đỉnh cao của văn học yêu nước, đỉnh cao của văn chính luận. Trong cả cuộc đời làm văn viết văn của Bác thì hai lần nguời cảm thấy sung sướng và sảng khoái nhất khi đặt bút viết đó là lần viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” để lại Thuvientoan.net
- 5 bản cáo trạng đanh thép kết tội chúng” và lần viết Tuyên ngôn độc lập để tuyên bố cáo chung chế độ thực dân ấy. Tác phẩm đã xây dựng được một kết cấu chặt chẽ, lí lẽ hùng hồn, lập luận đanh thép, lời văn hàm súc, trong sáng. Nếu người Mĩ tự hào vì có bản tuyên ngôn độc lập 1776, người Pháp có Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 thì dân tộc Việt Nam có quyền kiêu hãnh vì có Tuyên ngôn độc lập, tác phẩm kết tinh tâm hồn, ý chí, khát vọng của con người Việt Nam. - Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, Tuyên ngôn độc lập đã đưa ra căn cứ, lí lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ, thể hiện độ nhạy bén chính trị, sự sắc sảo trí tuệ cao độ. Với đoạn mở đầu, tác giả đã tạo cơ sở lý luận vững chắc để triển khai lập luận ở phần sau. - Chúng ta đã từng biết đến chất trí tuệ sắc sảo của Nguyễn Ái Quốc qua truyện Những trò lố hay Va ren và Phan Bội Châu hiện đại bằng tiếng Pháp, chất cổ điển hài hòa với tinh thần hiện đại của Hồ Chí Minh qua Nhật kí trong tù bằng chữ Hán, thì đến với Tuyên ngôn độc lập, ta còn biết đến một áng văn chính luận mẫu mực giàu tính luận chiến của nhà Cách mạng Hồ Chí Minh. Đây cũng là tác phẩm mà Hồ Chí Minh cảm thấy hài lòng nhất trong cuộc đời viết văn, làm báo dày dạn kinh nghiệm của mình. 2. Bác vạch tội cũng là tranh luận ngầm với thực dân Pháp. - Bác hạ từ “thế mà”, hai từ ấy như đảo ngược lại hoàn toàn, phủ nhận hoàn toàn thái độ của thực dân Pháp. Nghĩa là chúng đã phản bội lại lời lẽ của cha ông chúng. - Từ đây bản tuyên ngôn đã đưa ra những chứng cứ sự thật. Thực chất, Bác đã ngầm tranh luận với Pháp và công bố trước dư luận. + Chúng kể công “bảo hộ” Việt Nam nhưng thực chất là chúng đã dâng Đông Dương hai lần cho Nhật. + Chúng kể công ''khai hoá'' Việt Nam nhưng thực chất là chúng bóc lột, áp bức đẩy dân tộc ta tới nguy cơ diệt chủng trong nạn đói 1945. + Chúng nhân danh Đồng minh trở lại Việt Nam >< thực chất chúng phản bội Đồng minh, đầu hàng Nhật, khủng bố Việt Minh là lực lượng đứng trong phe Đồng minh đánh Nhật. + Chúng nêu lên những ràng buộc về mặt pháp lí của Việt Nam với Pháp bởi những hiệp ước này khác thì bản tuyên ngôn khẳng định từ 1940, Việt Nam là thuộc địa của Nhật và Việt Minh đã giành lại chủ quyền cho dân tộc mình từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Như thế mọi ràng buộc có tính pháp lí trên đã bị huỷ bỏ. -> Lời lẽ của Bác cụ thể, dẫn chứng rõ ràng, văn viết có hình ảnh (tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong các biển máu), tác động mạnh mẽ tới người đọc, người nghe. - Bác tuyên bố thoát li hẳn mọi quan hệ thực dân với Pháp. + Xoá bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã kí ở VN. + Khai sinh ra nước VNDCCH. Thuvientoan.net
- 6 + Thể hiện quyết tâm chống mọi âm mưu của thực dân Pháp. + Bày tỏ niềm tin với Đồng minh. Lời văn: Lòng yêu nước, nguyện vọng độc lập dân tộc của nhân dân ta đuợc khẳng định chắc chắn trên cơ sở thực tiễn. Tác phẩm là cuộc tranh luận ngầm về chủ nhân đích thực của đất nước Việt Nam, phủ nhận quyền của Pháp, khẳng định quyền tự do của Việt Nam. Nghệ thuật lập luận trong cuộc “tranh luận ngầm” nhằm bác bỏ những luận điệu xảo trá của thực dân, đế quốc đã được thể hiện sáng rõ: a) Bản Tuyên ngôn đã dựng lên bản cáo trạng đanh thép về tội ác của thực dân Pháp. + Nếu Pháp nêu chiêu bài có công khai hoá đối với Việt Nam, Việt Nam vốn là thuộc địa của Pháp thì bản Tuyên ngôn vạch rõ: Pháp chính là kẻ xâm lược, gây bao tội ác, và đã bán đứng Vn cho Nhật. Bản Tuyên ngôn tố cáo một cách toàn diện tội ác này về chính trị, kinh tế. Về chính trị: Chúng tuyệt đối không cho dân tộc ta chút quyền tự do dân chủ nào, chúng chia nuớc ta thành ba kỳ với ba chế độ khác nhau. Mục đích là chia rẽ tình đoàn kết dân tộc, ngăn cản sự nghiệp thống nhất đất nuớc của nhân dân ta. Chúng đàn áp những nguời yêu nuớc thương nòi, tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu. Chúng thực hiện chính sách ngu dân, lập nhà tù nhiều hơn truờng học. Chúng đầu độc nhân dân ta bằng ruợu cồn và thuốc phiện để ta suy kiệt giống nòi. Về kinh tế: Chúng cuớp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu, bóc lột sức lao động, chúng thực hiện chính sách thuế hà khắc, vô nhân đạo khiến mọi tầng lớp nhân dân không ngóc đầu lên đuợc. Tội ác lớn nhất của thực dân Pháp và phát xít Nhật là đã gây ra thảm hoạ nạn đói năm 1945 khiến hai triệu nguời chết đói. (Thơ Tố Hữu: Con đói lả ôm chân mẹ khóc/ Mẹ đợ con đấu thóc cầm hơi/Kiếp người cơm vãi cơm rơi/biết đâu nẻo đất phương trời mà đi. Hay “Nửa đêm thuế thúc trống dồn/ Sân đình máu chảy đường thôn lính đầy) + Để phủ nhận chiêu bài của Pháp rêu rao rằng Pháp có công đứng về phe Đồng minh chống phát xít bảo vệ Việt Nam, tác giả đã tố cáo tội ác của Pháp là đã đầu hàng Nhật một cách nhục nhã, bán rẻ nuớc ta cho Nhật Bản. Tuyên ngôn chỉ rõ: chỉ trong vòng 5 năm mà đã hai lần Pháp quỳ gối mở cửa nuớc ta rước Nhật. Tố cáo hành động này của Pháp, một lần nữa bản tuyên ngôn đã phủ nhận quyền của Pháp đối với Việt Nam. - Trong phần thứ hai của Tuyên ngôn độc lập, đoạn tố cáo tội ác về chính trị và về kinh tế của thực dân Pháp trong hơn 80 năm đô hộ Việt Nam đuợc viết ngắn gọn, cô đúc, trong khi đoạn văn nói về việc Pháp bán nuớc ta cho Nhật, về việc ta giành lại nuớc từ tay Nhật lại được viết khá tỉ mỉ, kỹ càng. Vì sao vậy? - Vì vào lúc ấy, trước công luận trong nước ta và trên thế giới, tội ác của bọn thực dân ở thuộc địa đã là một thực tế quá hiển nhiên. Trong khuôn khổ một bản Tuyên ngôn - Thuvientoan.net
- 7 một loại hình văn bản rất cần sức mạnh của sự nén dồn, cô đúc, những tội ác này hoàn toàn có thể nêu dưới dạng những lời kết án gọn gàng, đanh thép. - Nhưng những điều Bác nói đến trong đoạn văn sau lại khác. Bác Hồ đã sáng suốt lường trước được rằng, sẽ không ít nguời vô tình hoặc hữu ý cho rằng chúng ta giành độc lập từ tay thực dân Pháp. Thiếu một chút sáng suốt, một chút khôn khéo ở đây, ta dễ có thể bị quy là chống lại một thành viên chủ chốt của đồng minh, chống lại những điều ước cho những nước thắng trận có quyền thu lại những mảnh đất cũ của mình. - Một điều có tầm quan trọng sống còn đối với nền độc lập của đất nước như thế, không thể nào coi nhẹ. Nên dù là Tuyên ngôn, Bác Hồ vẫn phải dụng công phân giải, bằng hàng loạt câu văn chia thành các vế phân biệt với nhau, với sự nhấn rất mạnh trong ngữ điệu. Ví như: “Thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” đuợc ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nuớc ta hai lần cho Nhật”. “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nuớc ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa”. “Sự thật là dân ta đã lấy lại nuớc Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Đó là những câu văn mang ý nghĩa sinh tử trong một bản tuyên ngôn. - Về nghệ thuật: Đoạn văn tố cáo tội ác thực dân Pháp là một điển hình mẫu mực về văn chương chính luận. Những dẫn chứng đưa ra đều có sự chọn lọc. Đặc biệt lời văn vừa súc tích vừa truyền cảm. Bác không viết “chúng đàn áp các cuộc khởi nghĩa của ta một cách dã man” mà viết: “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”. Hành động đàn áp đã được diễn đạt bằng hình tuợng “tắm”. Mức độ dã man đã được hình tượng hoá thành “bể máu”. Cách diễn đạt hình tượng này vừa lột trần đuợc bộ mặt quỷ sứ khát máu nguời của bọn thực dân, vừa diễn tả được nỗi đau thê thảm của nhân dân ta, những nguời dân vô tội đang quằn quại trong “vòng tử địa” (Đuờng Kách mệnh). Đúng là tư tưởng chính trị đã đuợc thể hiện bằng một câu văn miêu tả tuyệt vời có sức lay động mạnh mẽ cả nhận thức và tình cảm của người đọc. 3. Bản tuyên ngôn thể hiện quyết tâm lớn. - Khép lại bản tuyên ngôn Bác trịnh trọng tuyên bố: “Nước VN có quyền … ấy” đoạn văn ngắn, lời gọn và ý sâu. - Độc lập dân tộc còn đuợc khẳng định trên cơ sở thực tiễn về phía Việt Nam. Ở đây, Tuyên ngôn đã khẳng định “Việt Nam có quyền và thực tế đã là một nước giành được tự do độc lập”. + Thực tế Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập bởi vì chính nhân dân Việt Nam chứ không phải ai đã đứng về phe đồng minh chống phát xít: “Một dân tộc đã gan góc chống ách đô hộ của thực dân Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít Nhật suốt mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải đuợc độc lập”. Trong một đoạn văn ngắn hai lần xuất hiện từ gan góc, bốn lần dùng Thuvientoan.net
- 8 từ dân tộc. Hai đoạn văn của bản Tuyên ngôn lặp lại như hai nhát dao chém xuống mỗi lúc một mạnh hơn. Nguời đòi quyền cho dân tộc nên 20 lần nhắc tới chữ quyền trong những câu văn hào hùng đanh thép. + Không những khẳng định quyền mà bản Tuyên ngôn còn khẳng định thực tế Việt Nam đã giành được độc lập. Cách lập luận của tác giả ở đây cũng thật chặt chẽ, sắc sảo. Bác chỉ rõ Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp vì Pháp đã bán rẻ Việt Nam cho Nhật. Nước ta cũng không còn là thuộc địa của Nhật vì sau khi Nhật đầu hàng đồng minh thì nhân dân ta đã giành lại nước từ tay Nhật. Hơn nữa Việt Nam đã có Chính phủ lâm thời đại diện chân chính cho nhân dân Việt Nam. Để khẳng định sự thật này, Nguời viết Tuyên ngôn độc lập láy đi láy lại hai lần chữ “sự thật”. “Sự thật là, sự thật là” và cuối cùng thì “Nuớc Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Đây là những điệp khúc tiếp nối nhau tăng thêm âm huởng hùng biện của bản tuyên ngôn. + Một câu hỏi đặt ra đối với dư luận quốc tế lúc bấy giờ là “dân tộc Việt Nam có khả năng làm chủ vận mệnh của mình hay không? HCM đã đưa ra những lí lẽ sắc bén để khẳng định: Nếu TD Pháp phản bội đồng minh, dâng Đông Dương hai lần cho Nhật thì thì dân tộc Việt Nam đã anh dũng chống Nhật, giành lại độc lập. Nếu thực dân Pháp tàn bạo, vô nhân đạo trong hành động thẳng tay khủng bố Việt Minh, giết tù chính trị trước khi bỏ chạy, thì nhân dân Việt Nam vẫn giữ thái độ khoan hồng, nhân đạo. Một dân tộc bất khuất, kiên cường và nhân nghĩa như thế hoàn toàn xứng đáng và đầy đủ khả năng để có thể bảo vệ quyền tự quyết của mình. + Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền”, “và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Bác vừa khẳng định vừa tuyên bố công khai. Mấy tiếng “có quyền”, và “sự thật” mạnh mẽ rắn chắc như chân lí. + Người bày tỏ quyết tâm: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Bác vừa thể hiện quyết tâm lớn lại vừa như kêu gọi đồng bào cả nước đồng lòng, chung sức để giữ gìn độc lập, tự do đã giành được. - Vị trí của những câu kết “Chúng tôi tin rằng các nuớc Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống Phát xít mấy năm, dân tộc đó phải đuợc tự do! Dân tộc đó phải đuợc độc lập!” - Những câu văn được diễn đạt giống như định luật, định lí với đầy đủ giả thiết và kết luận. Một cách đặt câu như thế giúp rất nhiều cho câu văn và cho sự lập luận trở nên đanh thép, hùng hồn, không thể nào bác bỏ. Thuvientoan.net
- 9 - Nếu cần phải tìm trong bản Tuyên ngôn này một câu văn chứa đựng đầy đủ hơn cả nội dung của toàn tác phẩm thì cần phải chọn câu: “Nước Việt Nam có quyền huởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự độc lập”. - Như vậy, phần kết thúc bản tuyên ngôn, tác giả tiếp tục khẳng định lòng yêu nước, nguyện vọng độc lập dân tộc của nhân dân ta vừa trên cơ sở công lý vừa trên cơ sở thực tiễn. Về mặt công lý, nếu họ đã công nhận quyền độc lập dân tộc tự quyết tại hai hội nghị: Tê-hê-răng (1943) và Cựu Kim Sơn (1945) thì họ nhất định sẽ phải công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Nhân dân ta sẽ phát huy truyền thống yêu nước bất khuất để giữ vững quyền tự do độc lập ấy: “Toàn thể dân tộc Việt Nam… quyền tự do độc lập ấy”. - Bản Tuyên ngôn đã kết thúc bằng câu văn khẳng định lòng yêu nước giống như một lời thề quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đặt trong quá trình phát triển của văn học Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập là đỉnh cao của văn học yêu nước. Từ “Nam quốc sơn hà”, “Bình ngô đại cáo” đến Tuyên ngôn độc lập là những chặng đường khác nhau của cùng một chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. III. Kết luận 1. Giá trị của bản tuyên ngôn - Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, chính trị hết sức quan trọng và có ý nghĩa vô cùng to lớn: + Văn kiện ấy đã trang trọng tuyên ngôn về nền độc lập của tổ quốc Việt Nam sau ngót trăm năm phải sống dưới xiềng xích thực dân. + Văn kiện ấy còn tuyên bố sự cáo chung của chế độ quân chủ đã tồn tại mấy mươi thế kỉ. + Văn kiện ấy còn là phát súng mở màn cho phong trào đấu tranh giải phóng ở các nước thuộc địa trên toàn thế giới. - Tuyên ngôn Độc lập là một bài văn chính luận mẫu mực: văn phong khúc chiết, ngắn gọn, lập luận chặt chẽ đanh thép, lời lẽ hùng hồn và đầy sức thuyết phục. 2. Nghệ thuật - Là áng văn chính luận mẫu mực. - Lập luận chặt chẽ thống nhất trong toàn bài. - Cách sử dụng từ ngữ phù hợp, văn giàu hình ảnh, khắc sâu ấn tượng, kết hợp cảm xúc… 2.1. Bản Tuyên ngôn độc lập có kết cấu chặt chẽ lập luận đanh thép Tác phẩm gồm 3 phần có mối quan hệ hữu cơ bổ sung cho nhau: + Phần 1 nêu cơ sở pháp lý, đặt cơ sở lý luận + Phần 2 soi sáng chứng minh bằng thực tiễn Thuvientoan.net
- 10 + Phần cuối rút ra kết luận. Các phần lại liên hệ với nhau bằng những liên từ, những cụm quan hệ từ chặt chẽ như những mắt xích. - Phần thứ nhất - phần nêu chân lí – đã nêu được nguyên lí làm cơ sở cho bản tuyên ngôn, đó là “quyền được hưởng độc lập, tự do, bình đẳng, hạnh phúc” của mọi dân tộc trên thế giới”, kết thúc ở câu: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi đuợc”. + Kết thúc phần đầu chuyển sang phần hai, tác giả sử dụng liên từ “Thế mà” như để báo truớc những hành động Pháp đuợc dẫn ra tiếp theo sẽ trái hẳn lẽ phải và nhân đạo, chứng tỏ rằng chúng đã phản bội chính ngay những điều đuợc nêu lên trong các bản Tuyên ngôn của chúng + Kết thúc phần II chuyển sang phần 3 tác giả sử dụng cụm liên từ “bởi thế cho nên” như để khẳng định hai phần trên là nguyên nhân còn phần cuối là kết quả. Đã coi quyền tự do, bình đẳng giữa các dân tộc là lẽ phải không thể chối cãi, đã coi việc chúng ta giành lại được đất nuớc từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp là thực tế không thể nào bác bỏ, thì việc chúng ta thoát li hẳn các mối quan hệ thực dân với Pháp để trở thành một nước tự do độc lập phải là một sự đương nhiên, chính đại quang minh như trời đất, sáng tỏ như nhật nguyệt. Rõ ràng, Tuyên ngôn độc lập là một chỉnh thể thống nhất, với các yếu tố quan hệ hết sức chặt chẽ với nhau. Cách lập luận của tác giả là dùng lời lẽ của đối phuơng để bác bỏ đối phương và luôn có sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn. 2.2. Giọng văn thay đổi linh hoạt phù hợp với đối tuợng và nội dung - Nói với công luận quốc tế thì giọng văn uyên bác, thể hiện một trí tuệ sắc sảo, dẫn những lời tuyên ngôn nổi tiếng làm cơ sở cho lập luận. - Viết với đồng bào cả nước thì lời văn tình cảm thiết tha. Về điều này Chế Lan Viên đã nhận xét thật chính xác: “Vì nói với đồng bào lời văn của bản Tuyên ngôn xiết bao xúc động…sau 13 chữ “quyền” là 14 câu, câu nào cũng có chữ “chúng” mở đầu nặng như búa tạ: “Chúng tuyệt đối không cho”, “chúng thi hành những luật pháp dã man”, “chúng cuớp không ruộng đất” và mỗi chữ chúng ấy như xiết xuống chữ “ta” làm xúc động lòng ngời: “chúng cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta, tuyệt đối không cho nhân dân ta chút quyền tự do dân chủ nào”. - Khi khẳng định độc lập, tự do thì lời văn trang trọng thiêng liêng. “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố” - Khi tố cáo tội ác kẻ thù thì giọng văn bi thiết. - Khi nêu cao truyền thống yêu nuớc thì giọng văn hào hùng sảng khoái. 2.3. Ngôn ngữ vừa chính xác vừa gợi cảm, truyền cảm. Vì là văn kiện chính trị nên mỗi chữ mỗi lời cần phải chính xác tuyệt đối. Vì là tác phẩm văn học nên mỗi chữ mỗi lời lại có sức mạnh gợi cảm truyền cảm lớn lao. Thuvientoan.net
- 11 - Khi tác giả viết: “chúng tuyệt đối không cho dân ta chút quyền tự do dân chủ nào” thì hai chữ “tuyệt đối” vừa nhấn mạnh vừa làm chính xác thêm ý văn. Chỉ bằng chín chữ: “Pháp chạy, Nhật hàng, Vua Bảo Đại thoái vị” mà câu văn đã khái quát đuợc những sự kiên chính trị, những biến cố quan trọng nhất của lịch sử lúc bấy giờ. Những sự kiện này đặt liên tiếp cạnh nhau trong câu văn ngắn gọn đem đến sự cảm nhận về sự thất bại thảm hại, nhanh chóng của kẻ thù và khí thế thần tốc của cách mạng tháng Tám. Những tư tuởng chính trị đuợc diễn đạt bằng những hình tượng vừa gợi cảm vừa truyền cảm: tác giả không viết: Pháp đầu hàng Nhật một cách nhục nhã mà viết “thực dân Pháp quỳ gối mở cửa nước ta ruớc Nhật”. Câu văn hình tuợng đã diễn tả được thái độ hèn nhát và tự ti nô lệ của Pháp trước Nhật. Thuvientoan.net
- 12 ĐỀ LUYỆN TẬP ĐỀ 1: - “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mĩ. Suy rộng ra, câu nói ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. - “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy". a, Hai đoạn trích trên thuộc tác phẩm nào? Vị trí của đoạn trích trong tác phẩm? Tác giả nào? Tác phẩm được soạn thảo năm nào và được công bố ở đâu? b, Hãy phân tích ngắn gọn nội dung, ý nghĩa và văn phong hai đoạn trích trên. Gợi ý: I. Hai đoạn trích trên trong tác phẩm “Tuyên ngôn Độc lập” - Đoạn trích thứ nhất là phần mở đầu tuyên ngôn, đoạn trích thứ hai là đoạn kết. - Tác giả: Hồ Chí Minh. - Tác phẩm được soạn thảo vào năm 1945, ở căn gác số 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội. - Ngày 02/09/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào. II. Nội dung, ý nghĩa 1. Nội dung - Khẳng định quyền con người (nhân quyền và dân quyền), quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc. Thuvientoan.net
- 13 - Quyền dân tộc, bình đẳng, quyền sống, quyền được sung sướng, quyền tự do, độc lập. Mở rộng quyền con người thành quyền dân tộc, đây là sáng tạo, là cống hiến của Hồ Chí Minh. - Với những trích dẫn hai câu nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh muốn khẳng định chân lí lịch sử và niềm tự hào dân tộc, khẳng định tầm vóc thời đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. - Khẳng định tinh thần đấu tranh anh dũng, gan góc và quyền được hưởng tự do, độc lập của dân tộc Việt Nam. 2. Ý nghĩa: Vạch trần dã tâm của thực dân Pháp chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái của Cách mạng Pháp. Đề cao tư tưởng nhân đạo và tính pháp lí của văn kiện lịch sử, tranh thủ sự ủng hộ của các nước phe đồng minh, của nhân dân thế giới. 3. Văn phong - Đây là một văn bản chính luận thể hiện phong cách chính luận của Hồ Chí Minh. Đặc điểm của văn chính luận là lập luận chặt chẽ, lý lẽ đanh thép và những bằng chứng không ai chối cãi được. - Lý lẽ của bản Tuyên ngôn sắc bén, lí luận chặt chẽ, hùng hồn, có sức thuyết phục. Tác giả xây dựng luận chứng phát triển lí lẽ trên cơ sở những lẽ phải, những tư tưởng về nhân quyền, dân quyền, quyền tự quyết của dân tộc. ĐỀ 2: Kết thúc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Dựa vào những hiểu biết về tác phẩm Tuyên ngôn độc lập, anh (chị) hay phân tích đoạn văn trên để làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của người. Gợi ý: 1. Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vĩ đại, đồng thời là một tác phẩm văn học bất hủ của dân tộc ta. Nó kết tinh những quyền lợi cơ bản, những nguyện vọng tha thiết của dân tộc Việt Nam và khí phách hào hùng của nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức tuyên bố trước quốc dân, trước thế giới sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, khẳng định quyền độc lập, tự do và ý trí bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập, Người đã trịnh trọng tuyên bố "Nước Việt Nam (...) giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". 2. "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập". Thuvientoan.net
- 14 - Tuyên ngôn khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam trên cơ sở pháp lý và thực tế. Thực dân Pháp tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng nên chúng có quyền trở lại Đông Dương. Nhưng Đông Dương đã không còn là thuộc địa của Pháp. Bản tuyên ngôn đã nêu rõ: "Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp". - Từ sự thật trên, Tuyên ngôn tiếp tục khẳng định về mặt pháp lí: "chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân tộc Việt Nam, tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. - Vậy là Việt Nam "Sự thật đã thành một nước tự do, độc lập". 3. Tuyên ngôn khẳng định quyết tâm của dân tộc Việt Nam bảo vệ độc lập, tự do bằng mọi giá, bằng tất cả tinh thần và lực lược, tính mạng và của cải của toàn dân tộc Việt Nam. 4. Tư tưởng lớn nổi bật lên ở đây: Việt Nam có quyền hưởng độc lập, tự do và sự thật đã trở thành một nước tự do, độc lập. Vì vậy cả dân tộc quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Tuyên ngôn độc lập - sự tiếp tục truyền thống và sự phát triển ở thời hiện đại Chỉ ra sự tiếp nối giữa thơ Thần, Bình Ngô Đại Cáo và Tuyên ngôn độc lập ? Với đất nước ta, một quốc gia dân tộc có lịch sử 4000 năm nhưng gần hai ngàn năm phải chống ngoại bang xâm lược, đô hộ, đồng hoá để bảo vệ độc lập dân tộc chủ quyền quốc gia, đây không phải là lần Tuyên ngôn độc lập thứ nhất. Hơn 1000 năm trước, khi quân xâm lược Tống (Trung Quốc) kéo sang giày xéo bờ cõi, dưới dạng một bài thơ, vẫn quen gọi là thơ Thần, chúng ta đã tuyên bố "Sông núi nước Nam vua Nam ở". Hơn năm trăm năm trước, sau thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ nhà Minh, cùng phong kiến Trung Quốc trong bài Cáo bình Ngô, chúng ta lại một lần nữa tuyên bố nền độc lập trong không khí hào sảng: "Như nước Đại Việt ta ... hùng cứ một phương". Và bây giờ là Tuyên ngôn độc lập vẫn với một tinh thần như vậy. Độc lập, tự do cho dân tộc chủ quyền quốc gia đã trở thành lẽ sống còn, trước hết và trên hết mọi lẽ truyền từ đời này sang đời khác của dân tộc chúng ta. - Tuy nhiên, nếu nhìn lại lịch sử so với thơ Thần và Bình Ngô Đại Cáo, ta thấy rất rõ điều này: Tuyên ngôn độc lập là đỉnh mốc cao nhất đánh dấu bước phát triển lớn lao nhất của lịch sử phát triển quốc gia dân tộc bởi mấy lẽ chính: + Thứ nhất: Tuyên ngôn độc lập không phải chỉ thuần tuý là tuyên ngôn về quyền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia mà còn là một tuyên ngôn cách mạng, là lời tuyên bố Thuvientoan.net
- 15 xoá bỏ chế độ quân chủ phong kiến mấy mươi thế kỷ lập nên chế độ dân chủ cộng hoà, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thắng lợi, làm cuộc cách mạng, xã hội thành công; Từ đó khẳng định con đường đi mới của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập đã đồng thời tuyên bố hai sự nghiệp: bước kế tục truyền thống của cha ông; bước đi vĩ đại của con cháu ở thời hiện đại. Mang cả hai nội dung, hoà âm của cả hai âm hưởng này là điều mà các bản tuyên ngôn trước chưa kịp có được. + Thứ hai: Đây không còn là tuyên ngôn trong môi trường phương Đông, thực chất là "Môi trường Trung Hoa" hạn hẹp ở thế tay đôi giữa ta với Trung Quốc như một thời đã qua. Tuyên ngôn độc lập là sự hiện diện của dân tộc ta giữa thế giới rộng lớn, với những lời "tuyên bố trịnh trọng" trước toàn thế giới. Dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp chính là biểu hiện của sự mở ra, hoà vào đời sống cộng đồng thế giới của dân tộc chúng ta so với cái đời sống quẩn quanh trong các giáo lí, điển chương Nho giáo ngày hôm trước => Cho nên, tầm thế giới tầm nhân loại của Tuyên ngôn độc lập cũng là điều mà các áng hùng văn xưa chưa kịp có được. Vậy là chỉ mới đây, dân tộc còn nô lệ, đất nước còn chưa có tên riêng (nó mang tên xứ An Nam thuộc Pháp), xã hội còn là xã hội phong kiến thuộc địa cũ kĩ, tù đọng. Hôm nay chúng ta đã là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng giữa nhân loại trên thế giới. Những nội dung, khí phách như thế đã cất vang lên, vang động khắp hoàn cầu bằng Tuyên ngôn độc lập. - Tuyên ngôn độc lập là kết quả của một quá trình vận động hoàn toàn mới của dân tộc. Từ Tuyên ngôn độc lập, một âm hưởng mới, một kỷ nguyên mới của đất nước bắt đầu => Tạo nên vẻ đẹp của bản hùng văn. Tuyên ngôn độc lập toát lên vẻ đẹp của lập luận, diện mạo nội dung, tư tưởng chính trị, pháp lí - Tuyên ngôn độc lập là văn bản tuyên bố về quyền độc lập tự do thiêng liêng của dân tộc, về chủ quyền quốc gia. Kết tinh trong nó quyền lợi và nguyện vọng tha thiết của dân tộc, đồng thời thể hiện khí phách của dân tộc ấy được hun đúc trong cả một lịch sử hình thành, phát triển. Nó là những dự kiến tương lai xán lạn khi một dân tộc, một nhân dân, đất nước đã làm chủ được vận mệnh của mình và quyết tâm bảo vệ quyền lợi ấy trước bất cứ thế lực ngoại xâm đô hộ nào. Nội dung tư tưởng ấy đã được thể hiện tài tình bằng những lý lẽ đanh thép, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng đầy sức thuyết phục. - Mở đầu tuyên ngôn đưa ra một chân lý đã được ghi nhận qua thử thách của lịch sử tiến hoá nhân loại. a) Phần một: Chân lý về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Từ chân lý ấy dẫn tới một chân lý khác. Đó là chân lý về quyền của các dân tộc: ''Tất cả các dân tộc ... tự do''. Đã thừa nhận chân lý này ắt phải thừa nhận chân lý kia bởi chân lý sau là hệ quả tất yếu của chân lý thứ nhất, và phủ nhận những gì vi phạm nó. => Như vậy bằng sự dẫn dắt, mở rộng tất yếu từ "quyền con người" đến "quyền dân tộc", Tuyên ngôn độc lập đã xác lập được căn cứ vững chắc, đã nêu lên một lẽ phải Thuvientoan.net
- 16 ''không ai chối cãi được'' để khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc ta. Nêu lên căn cứ để lên án mọi âm mưu, hành động xâm phạm đến chủ quyền ấy. - Về góc độ tư tưởng: Tư tưởng về ''Quyền của các dân tộc'' là một đóng góp lớn của TNĐL: ''cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh vào kho tàng tinh hoa tư tưởng nhân loại. Bởi vì tư tưởng này là sự nâng cao giá trị, tầm vóc nhân bản của tư tưởng, của nguyên tắc về quyền của con người ''(Giáo sư Singô Sibita). Nghĩa là con người phải biết vươn tới quyền lợi của cộng đồng. Mặt khác, tư tưởng nguyên tắc ''Quyền của các dân tộc'' còn là cơ sở để nhân loại thấy rằng giai cấp tư sản trong khi nêu cao nhân quyền, dân quyền lại mở rộng quyền xâm phạm tàn bạo, bóc lột dã man các dân tộc khác. Đó là vô nhân đạo và phi nghĩa. - Cả hai mặt đạo lý và pháp lý đều hết sức sáng tỏ trong nguyên tắc về “quyền dân tộc '' mà tuyên ngôn độc lập xây dựng làm căn cứ lập luận của mình. - Trong bối cảnh lịch sử của nước ta, việc xác lập căn cứ lập luận này còn thể hiện một sự sắc sảo và khôn khéo. Thời bấy giờ, những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa tư bản còn có ma lực thuyết phục, quyến rũ lí trí, tình cảm của con người. Hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ đang ảnh hưởng rộng rãi. Thế giới còn chưa biết nhiều đến Luận cương dân tộc của Lê Nin, tư tưởng nhân văn của cách mạng XHCN tháng Mười vì những tư tưởng này bị bao bọc bởi lớp sương mù của tư tưởng tư sản. Trích dẫn tư tưởng về quyền con người trong hai bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp lập tức tạo được sự công nhận tối đa, sự thông suốt. Trong tranh luận, để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đó không gì thú vị và đích đáng hơn là dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Dẫn các lẽ phải do chính họ đã phải đổ máu xương, trí não mới có được cũng là cách lấy ''gậy ông đập lưng ông''. Như để cho thiên hạ thấy rằng: nếu chúng lăm le xâm lược nước ta là chúng đã phản bội truyền thống tổ tiên. Điều mà những người có lương tâm, phẩm cách không bao giờ làm. => Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, Tuyên ngôn độc lập đã đưa ra căn cứ, lí lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ, thể hiện độ nhạy bén chính trị, sự sắc sảo trí tuệ cao độ. b. Phần hai Tiếp theo, đối chiếu với nguyên lí rõ ràng trên, Tuyên ngôn độc lập đã đưa ra một thực tế: “Thế mà hơn ... đồng bào ta''. Đưa như vậy là đưa dưới dạng một phản đề. Phản đề này cùng chính đề đã nêu có nghĩa là: những lẽ phải không ai chối cãi được, những lẽ phải do chính nước Pháp và Mỹ đưa ra trong lịch sử đấu tranh cho những tiến bộ của xã hội mình đã bị chà đạp, vi phạm trắng trợn. => Kết luận lên án, phản đối sự vi phạm hành động chà đạp ấy tất yếu sẽ được dấy lên trong dư luận. - Tuyên ngôn độc lập tạo ra mạch hệ thống xương cốt giữa chính đề, phản đề => thuyết phục về mặt lý trí, là lí luận để chứng minh rằng quyền độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc ta là chân chính. Nó là bức thành lí lẽ mà mọi luận điệu có dã tâm dù biện bác đến đâu cũng bị đánh đổ. Thuvientoan.net
- 17 Quá trình diễn biến lịch sử được trình bày tập trung trong 5 năm từ mùa thu 1940 đến khi dân tộc ta giành được độc lập bằng Cách mạng tháng Tám có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Cả một thực tế lịch sử được trình bày từ hai góc độ: Góc độ 1: Tổng hợp, tóm tắt tội ác của Pháp trong toàn bộ lịch sử đô hộ của chúng bằng những kết luận rút ra từ thực trạng đô hộ ở hai mặt bao quát là chính trị và kinh tế. Góc độ 2: Phân tích sâu, cụ thể khoảng thời gian điển hình 5 năm. => Chính hai góc độ này đã giúp mọi người và thế giới nhận ra vấn đề của đất nước, dân tộc ta một cách đúng đắn. Nó vạch rõ cả một lịch sử ''khai hoá, bảo hộ'' thực chất đã diễn ra như thế nào đối với dân tộc ta. Nó vạch trần rằng thực dân Pháp không còn một chút quyền lợi, quyền lực nào đối với Việt Nam vì nước ta không còn là thuộc địa Pháp nữa. * HCM đã vạch trần luận điệu điêu trá của thực dân Pháp nhằm chuẩn bị chiếm lại Việt Nam. + Chúng kể công ''bảo hộ'' Việt Nam nhưng thực chất là chúng đã dâng Đông Dương hai lần cho Nhật. + Chúng kể công ''khai hoá'' Việt Nam nhưng thực chất là chúng bóc lột, áp bức đẩy dân tộc ta tới nguy cơ diệt chủng trong nạn đói 1945. + Chúng nhân danh Đồng minh trở lại Việt Nam >< chúng phản bội đồng minh, đầu hàng Nhật, khủng bố Việt Minh là lực lượng đứng trong phe Đồng minh đánh Nhật. + Chúng nêu lên những ràng buộc về mặt pháp lí của Việt Nam với Pháp bởi những hiệp ước này khác thì bản tuyên ngôn khẳng định từ 1940, Việt Nam là thuộc địa của Nhật và Việt minh đã giành lại chủ quyền cho dân tộc mình từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Như thế mọi ràng buộc có tính pháp lí trên đã bị huỷ bỏ. c Phần 3 Trên cơ sở pháp lí, đạo lí, thực tế này, Tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố dõng dạc, hùng hồn, trịnh trọng trước toàn thế giới xoá bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi của Pháp trên đất nước ta, thoát li hẳn quan hệ với Pháp. Tuyên bố: ''Nước Việt Nam có quyền ... độc lập''. Tất cả dẫn tới một chân lí ''Thế giới, nhân loại đã công nhận quyền con người, đã công nhận quyền dân tộc bình đẳng, các nước Đồng minh dù là tư bản đế quốc đã thông qua nguyên tắc này tại hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn mới đây không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam''. Mọi sự xâm phạm chủ quyền ấy đều trái với nhân đạo và chính nghĩa là xâm phạm một dân tộc đã độc lập, là xâm lược một nhân dân đất nước đứng trong hàng ngũ Đồng minh chống phát xít. - Tuyên ngôn độc lập còn bộc lộ quyết tâm mạnh mẽ bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam. Thể hiện tinh thần và dũng khí dám hi sinh xả thân cho quyền lợi quốc gia, dân tộc ở thời điểm lịch sử, ở kỷ nguyên mới đã bắt đầu mở ra => Nó thể hiện tư thế bản lĩnh của dân tộc. Đó là hai mặt tạo thành chỉnh thể của Tuyên ngôn độc lập gồm lí lẽ (khẳng định chủ quyền quốc gia) phủ định mọi mưu toan hành động xâm phạm và mặt trữ tình (trong lập luận vững chắc). Những tuyên bố, những lí Thuvientoan.net
- 18 lẽ đều chất chứa phong thái điềm tĩnh, mực thước và cao thượng hai mặt thống nhất ấy bao giờ cũng thống nhất và phân định rõ ràng: Ta và chúng. Ta và nhân loại, thế giới => để vừa lập luận với ''mọi người'', ''với công luận'' vừa khẳng định, thể hiện mình. Bởi thế Tuyên ngôn độc lập như có người đã nhận xét là ''một văn kiện chính trị pháp lí có giá trị thời đại và vượt ra khỏi Việt Nam, có giá trị thế giới, vượt khỏi phạm vi thời gian, có giá trị lịch sử " (luật sư Ngô Bá Thành). Tuyên ngôn độc lập - vẻ đẹp của nghệ thuật văn chương chính luận - Ngoài cái tài tình của lập luận, cái sắc sảo của trí tuệ, Tuyên ngôn độc lập còn có vẻ đẹp của tâm hồn; Tình cảm tác giả hoà đồng trong từng nỗi đau hay khí phách hào hùng, đức hy sinh cao cả của dân tộc mà theo đó ngôn từ tuôn chảy, tạo nên vẻ đẹp của nghệ thuật văn chương. - Trong Tuyên ngôn độc lập có thể nhận ra hai cung bậc của giọng văn: Một cung bậc của giọng văn dứt khoát, mạnh mẽ. Một cung bậc với một từ chuyển tiếp ''Thế mà ''đã trầm lắng hẳn xuống đưa người đọc trở lại với hiện thực, dẫn người đọc đi vào cõi sâu xa của nỗi niềm. Sau khi đối chiếu chân lí đương nhiên về quyền con người, quyền của các dân tộc nhìn lại thực trạng trải qua của dân tộc mình trong hơn 80 năm đô hộ, dường như người viết đã bị một xung động tình cảm lớn. Cảnh ngộ trầm luân của dân tộc hiện ra trước mắt Bác. Bác viết tiếp phần này trong nỗi niềm xót xa thương cảm: ''Thế mà hơn 80...'' như một tiếng thở dài uất hận. Kết cấu của ngôn từ cũng bộc lộ rõ cái tình của tác giả. Điểm lại lịch sử đất nước bị đô hộ như một bản án đối với chế độ thực dân Pháp tóm tắt, các đoạn, câu được bố trí. + Đoạn về chính trị: là trật tự (dài - ngắn - dài) + Đoạn về kinh tế: là trật tự (ngắn - dài - ngắn) => Cả phần lên xuống phập phồng, thổn thức theo đau thương và căm giận. + Trong một câu cũng vậy, chúng đứng tách bạch và dứt khoát không kéo liền nhau vì yêu cầu rõ ràng, nhấn mạnh từng ý từng điểm. Mỗi câu thường có hai vế. Vế một lên án đanh thép, vế hai nêu hậu quả nỗi khổ nhục mà dân tộc ta phải gánh chịu giọng trầm lắng xót xa. - Là luận văn chính trị nhưng lối diễn đạt của Tuyên ngôn độc lập rất giàu hình ảnh, góp phần tạo dựng hình hài của những nội dung. VD: Tội ác của thực dân Pháp: ''Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu ''. Miêu tả kẻ thù, cái thảm hại của Pháp trước phát xít Nhật thì dùng những hình ảnh ''quì gối đầu hàng'', "mở cửa nước ta rước Nhật”. - Ngôn từ chọn lọc, chính xác, phản ánh đúng nội dung ý nghĩa, bản chất sự việc, hiện tượng thể hiện sâu sắc tư tưởng và tình cảm. - Lời tuyên bố giản dị nhưng có sức thuyết phục cao. Trí tuệ sắc sảo nhưng đầy tâm huyết. Sức thuyết phục cao xuất phát từ lý lẽ sự thật. Sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Bởi vậy tác giả láy đi láy lại hai chữ ''sự thật'' Thuvientoan.net
- 19 ''sự thật là'' và cuối cùng thì: “Nước Việt Nam...và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. Đấy là những điệp khúc nối tiếp nhau tăng thêm âm hưởng hùng biện của bản Tuyên ngôn. - Tuyên ngôn độc lập đã đáp ứng được tất cả yêu cầu mà lịch sử dân tộc và thời thế lúc bấy giờ đòi hỏi. Đáp ứng bằng một nghệ thuật chính luận cao, với những lời lẽ dễ hiểu mộc mạc, lối diễn đạt bình dị, những lí lẽ, lập luận vững chắc đanh thép. + Đáp ứng bằng những dẫn chứng tiêu biểu giầu tiếng nói tự thân. + Đáp ứng bằng phong cách ngôn ngữ kết hợp hài hoà giữa trữ tình và chính luận, châm biếm sắc sảo giàu chất trí tuệ trên cái nền của một phong thái điềm tĩnh nhưng tha thiết mạnh mẽ, kiên quyết nhưng khiêm nhường, đúng mực. - Tuyên ngôn độc lập là bài thơ Thần, là Bình Ngô Đại Cáo của thời đại mới. Tuyên ngôn độc lập rửa cái nhục ngàn năm, tiếp bước tiên tổ tiến vào tương lai. Thuvientoan.net
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phân tích tác phẩm: Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
31 p | 2279 | 1556
-
Cơ sở lập luận trong Tuyên Ngôn Độc Lập
7 p | 240 | 48
-
Phân tích giá trị tuyên ngôn độc lập của Bình Ngô đại cáo
7 p | 320 | 34
-
Tuyên ngôn Độc lập - Áng văn chính luận mẫu mực
9 p | 499 | 33
-
Nêu giá trị lịch sử và giá trị nghệ thuật của Tuyên ngôn độc lập
5 p | 408 | 32
-
Phân tích tư tưởng nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi
4 p | 380 | 28
-
Gợi ý phân tích tác phẩm Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh
6 p | 162 | 15
-
Phân tích đoạn mở đầu của bài Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh
6 p | 660 | 15
-
Phân tích giá trị lịch sử của bản “Tuyên ngôn độc lập”
11 p | 58 | 10
-
TÁC PHẨM: TUYÊN NGÔN ĐÔC LẬP (Hồ Chí Minh)
7 p | 139 | 9
-
Kiến thức cơ bản tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập
5 p | 211 | 7
-
Cảm nghĩ về tác phẩm Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh
11 p | 86 | 7
-
Nghệ thuật lập luận trong “Tuyên ngôn độc lập”
5 p | 58 | 6
-
Văn phân tích lớp 12: Tuyên ngôn độc lập
13 p | 130 | 4
-
Phân tích giá trị lịch sử và giá trị văn chương của bản Tuyên ngôn độc lập
2 p | 62 | 4
-
Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” để làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
5 p | 90 | 3
-
Phân tích truyện ngắn "Đôi mắt" của Nam Cao để thấy vấn đề tầm nhìn của người nghệ sĩ trong nền văn học Cách mạng sau 1945
4 p | 36 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn