
MỞ: Việt Nam, dải đất mảnh mai gầy guộc nằm bên bờ biển Đông suốt lịch sử 4000
năm luôn phải gồng mình lên để sớm chắn bão giông chiều ngăn nắng lửa; gần hai ngàn
năm phải chống ngoại bang xâm lược, đô hộ, đồng hoá; độc lập, tự do cho dân tộc, chủ
quyền quốc gia đã trở thành lẽ sống còn truyền từ đời này sang đời khác. Hơn 1000 năm
trước, khi quân xâm lược Tống (Trung Quốc) kéo sang giày xéo bờ cõi, chúng ta đã
tuyên bố "Sông núi nước Nam vua Nam ở". Hơn năm trăm năm sau, sau thắng lợi của
sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ nhà Minh, trong bài Cáo bình Ngô, chúng
ta lại một lần nữa tuyên bố nền độc lập trong không khí hào sảng: "Như nước Đại Việt
ta ... hùng cứ một phương". Vẫn với một tinh thần ấy và hơn cả như thế, Tuyên ngôn
độc lập của Bác đã trở thành đỉnh mốc đánh dấu bước phát triển lớn nhất trong lịch sử
phát triển quốc gia dân tộc.
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
2. Tác phẩm
2.1. Hoàn cảnh ra đời của bản tuyên ngôn
- Ngày 19/8/45 chính quyền về tay nhân dân.
- Ngày 26/8 tại Hàng Ngang - Hà Nội người soạn thảo bản tuyên ngôn độc lập.
- Ngày 2/9/45 tại quảng trường Ba Đình, người thay mặt chính phủ đọc bản tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
2.2. Đối tượng và mục đích sáng tác của bản tuyên ngôn
- Đối tượng:
+ Tuyên ngôn độc lập huớng tới không chỉ đồng bào trong cả nuớc.
+ Nhân dân trên thế giới, trước hết là nhân dân tiến bộ ở Pháp và Mỹ.
+ Đặc biệt là các lực lượng thù địch và cơ hội quốc tế đang mang dã tâm một lần nữa
nô dịch đất nước ta.
- Mục đích:
+ Khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc Việt Nam.
+ Bao hàm một cuộc tranh luận ngầm nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của kẻ thù truớc
dư luận thế giới.
Lời văn:
- Ngày 19 tháng 8 năm 1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26 tháng 8
năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Hồ Chí Minh

2
Thuvientoan.net
căn nhà số 48, phố Hàng Ngang, Người biên soạn bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày
2.9.1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ lâm thời nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng
bào: “Hôm nay sáng mồng 2 tháng 9/Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình/Muôn triệu tim
chờ, chim cũng nín/Bỗng vang lên tiếng hát ân tình/Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh/ Người
đứng trên đài, lặng phút giây/Trông đàn con đó, vẫy hai tay/Cao cao vầng trán, ngời đôi
mắt/Độc lập bây giờ mới thấy đây”. Cả đất nước ngây ngất trong niềm hạnh phúc được
sống trong kỉ nguyên mới, chấm dứt bao năm sống trong nô lệ tủi nhục dưới ách thống
trị của thực dân phong kiến.
- Tuyên ngôn độc lập được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt khác thường: đất nước đã
giành đuợc độc lập nhưng bọn đế quốc thực dân - đặc biệt là thực dân Pháp đang lăm le
quay trở lại nhằm nô dịch đất nước ta một lần nữa. Nấp sau quân Đồng minh vào tước
khí giới quân đội Nhật: tiến vào từ phía Bắc là quân đội Tưởng Giới Thạch, sau lưng là
đế quốc Mĩ; tiến vào từ phía Nam là quân đội Anh, sau lưng là quân viễn chinh Pháp.
Chúng nhân danh phe Đồng minh với chiêu bài: lấy lại mảnh đất bảo hộ đã bị bọn Phát
xít Nhật chiếm đóng trong chiến tranh. Chúng ta phải chống thực dân Pháp - một thành
viên chủ chốt của phe Đồng minh nhưng lại nhất thiết không thể chống Đồng minh. Đây
là một vấn đề trọng yếu và cũng vô cùng tinh tế, đòi hỏi sự khôn khéo, sáng suốt và bản
lĩnh của ng- ười lãnh đạo.
2.3. Bố cục
- Đoạn 1: Từ đầu đến “đó là lẽ phải không ai có thể chối cãi được” cơ sở pháp lí của bản
tuyên ngôn.
- Đoạn 2: Tiếp đó đến “Dân tộc đó phải được độc lập” - Tố cáo tội ác của thực dân Pháp
và khẳng định thực tế lịch sử là nhân dân ta kiên trì đấu tranh và nổi dậy giành chính
quyền, lập nên nước VNDCCH.
- Đoạn 3: Còn lại: Lời tuyên ngôn và những tuyên bố về ý chí bảo vệ nền độc lập tự do
của dân tộc.
II. Đọc hiểu văn bản
1. Cơ sở pháp lí của bản tuyên ngôn
- Bác dẫn hai bản tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ (1776); Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp (1791) -> Hai bản tuyên ngôn được cả
thế giới thừa nhận nội dung phù hợp với mơ ước và quyền lợi của con người. Đó là chân
lí không ai có thể chối cãi. Việc trích dẫn ấy có giá trị sâu sắc. Bác tỏ ra trân trọng những
danh ngôn bất hủ để chặn đứng âm mưu trở lại xâm lược nước ta của thực dân Pháp.
- Người trích dẫn lời bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ: “Tất cả mọi người…hạnh
phúc”. Bác rất linh hoạt khi kết hợp với ý kiến của mình “suy rộng ra câu ấy có nghĩa
là” từ khẳng định quyền con người, Bác đã chuyển nhanh sang quyền của các dân tộc

3
Thuvientoan.net
“tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, daâ tộc nào cũng có quyền sống,
quyền sung sướng và quyền tự do”
- Người trích dẫn bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp:
“Người ta sinh ra… quyền lợi”. Người khẳng định: “đó là lẽ phải không ai có thể chối
cãi được”. Bác xoáy sâu vào quyền bình đẳng mọi mặt của con người. Con người hiểu
theo nghĩa không phân biệt chủng tộc, màu da, tổ quốc. Con người nhân loại. Vậy có lí
do gì Pháp xâm lược Việt Nam?
- Bác dẫn lời cha ông họ. Ông cha họ đã từng khẳng định, từng tuyên ngôn hùng hồn
đanh thép. Có lẽ nào chúng lại vô tình đi ngược lại và phản bội lời lẽ của ông cha chúng?
Đây chính là phương pháp luận của Bác, là nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông” khôn
khéo và tế nhị.
Lời văn: Phần mở đầu bản tuyên ngôn có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập
luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận HCM. Tác giả đã khẳng định độc lập dân tộc
trên cơ sở những lí lẽ không thể chối cãi.
Ngay từ những dòng đầu tiên, Hồ Chí Minh nêu lên những chân lý vĩnh cửu về quyền
tự do của dân tộc, quyền sống của mỗi con người đã được thừa nhận qua nhiều thời kỳ
lịch sử ở ngay chính những quốc gia mà bấy giờ chính quyền của họ đang đi ngược lại
nguyên tắc đó. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa
đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho
bản tuyên ngôn của VN. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết.
- Cách lập luận ấy khôn khéo bởi vì:
+ Thu hút sự chú ý của dư luận. Dẫn Tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ, Tuyên ngôn
Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp chính là biểu hiện của sự mở ra, hoà vào
đời sống cộng đồng thế giới của dân tộc. Chỉ mới đây thôi, dân tộc còn nô lệ, đất nước
còn chưa có tên riêng (mang tên xứ An Nam thuộc Pháp), xã hội còn là xã hội phong
kiến thuộc địa cũ kĩ, tù đọng. Hôm nay chúng ta đã là nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà đứng giữa nhân loại trên thế giới. Những nội dung, khí phách như thế đã cất lên,
vang động khắp hoàn cầu.
+ Gợi lại cho người Mĩ và người Pháp nhớ lại những hoàn cảnh tương tự như Việt Nam.
Cách đó 200 năm, người Mĩ cũng bị áp bức, bị làm nhục như Việt Nam, cũng bị những
người Âu châu sang khai thác. Câu nói nổi tiếng của thủ tướng Anh Uy-liêm: “Hễ Mĩ
làm ra dù một sợi len, một miếng sắt móng ngựa là bản chức sẽ cho lĩnh sang đóng đầy
xứ ngay lập tức”. Năm 1775, dưới sự lãnh đạo của người anh hùng Oa-sinh-tơn, lãnh
đạo nhân dân nổi dậy chống đế quốc Anh đã thống trị họ từ đầu thế kỉ XVII. Ngày 4-
7-1776, họ tuyên bố Độc lập và thành lập Liên bang Bắc Mĩ Hoa Kì (quen gọi là nước
Mĩ). 15 năm sau bản tuyên ngôn của Mĩ là tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
Pháp không chịu được cảnh phải cõng trên lưng, đội trên đầu quyền lực tối cao của chế
độ quân chủ, trong đó luật pháp là do ý thích của nhà vua đặt ra. Như vậy mấy trăm năm
trước người Pháp lật đổ chế độ quân chủ, người Mĩ đánh đuổi thực dân, mấy trăm năm

4
Thuvientoan.net
sau, người Việt cùng một lúc đánh đổ cả chế độ phong kiến và chế độ thực dân, cùng
chung khát vọng độc lập tự do như người Mĩ người Pháp... Vừa nhắc nhớ, vừa có ý đặt
ngang hàng cuộc cách mạng tháng Tám của ta với hai cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ.
Quả thật hai cuộc cách mạng nói trên mở ra một giai đoạn mới trong sự phát triển của
lịch sử xã hội loài người thì cuộc cách mạng tháng Tám của ta cũng mở ra một kỷ nguyên
mới. Đó là kỷ nguyên dành độc lập dân tộc ở các nuớc thuộc địa, là kỷ nguyên sụp đổ
của chủ nghĩa thực dân. Với những trích dẫn hai câu nổi tiếng trong bản Tuyên ngôn
của Mĩ và Pháp, Hồ Chí Minh muốn khẳng định chân lí lịch sử và niềm tự hào dân tộc,
khẳng định tầm vóc thời đại của cuộc Cách mạng tháng Tám.
+ Người đã thể hiện sự tôn trọng những danh ngôn bất hủ đã được cả thế giới thừa nhận,
những chân lý dù đó là của Mỹ hay của Pháp. Ở đây không hề có sự lầm lẫn giữa nhân
dân Mỹ, dân tộc Pháp với bọn xâm lược Mỹ, Pháp.
+ Từ quyền bình đẳng và tự do của con người mà tác giả suy rộng ra về quyền bình đẳng
tự do của các dân tộc trên thế giới. Đây là một cách vận dụng khéo léo và đầy sáng tạo
nhưng vẫn đảm bảo tính chặt chẽ trong lập luận. Tư tưởng về ''Quyền của các dân tộc''
là một đóng góp lớn của Tuyên ngôn độc lập: ''cống hiến nổi tiếng của cụ HCM vào kho
tàng tinh hoa tư tưởng nhân loại. Bởi vì tư tưởng này là sự nâng cao giá trị, tầm vóc
nhân bản của tư tưởng, của nguyên tắc về quyền của con người'' (Giáo sư Singô Sibita).
Nghĩa là con người phải biết vươn tới quyền lợi của cộng đồng. Mặt khác, tư tưởng
nguyên tắc ''Quyền của các dân tộc '' còn là cơ sở để nhân loại thấy rằng giai cấp tư sản
trong khi nêu cao nhân quyền, dân quyền lại mở rộng quyền xâm phạm tàn bạo, bóc lột
dã man các dân tộc khác. Đó là vô nhân đạo và phi nghĩa. Thế là từ phạm trù nhân quyền
- nền móng tư tưởng của cách mạng tư sản - Bác đã chuyển sang phạm trù chống thực
dân - nền móng của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào rồi sẽ trở thành một trong
ba dòng thác cách mạng trên thế giới. Chỉ trong một câu văn ngắn gọn, ta vẫn nhận ra
một Hồ Chí Minh như nguời giương cao bó đuốc sáng ngời của tư tưởng giải phóng dân
tộc.
+ Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn vừa nhằm đề cao những giá trị hiển nhiên của tư
tưởng nhân đạo và văn minh của nhân loại, vừa tạo tiền đề cho lập luận sẽ nêu ở mệnh
đề tiếp theo.
- Khôn khéo nhưng vẫn kiên quyết: Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để
phủ nhận chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật
“gậy ông đập lưng ông”, dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt
Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành
chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ vấy bẩn lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái mà
cha ông họ từng giương cao.
Kết tiết 1: Tuyên ngôn độc lập là đỉnh cao của văn học yêu nước, đỉnh cao của văn chính
luận. Trong cả cuộc đời làm văn viết văn của Bác thì hai lần nguời cảm thấy sung sướng
và sảng khoái nhất khi đặt bút viết đó là lần viết “Bản án chế độ thực dân Pháp” để lại

5
Thuvientoan.net
bản cáo trạng đanh thép kết tội chúng” và lần viết Tuyên ngôn độc lập để tuyên bố cáo
chung chế độ thực dân ấy. Tác phẩm đã xây dựng được một kết cấu chặt chẽ, lí lẽ hùng
hồn, lập luận đanh thép, lời văn hàm súc, trong sáng. Nếu người Mĩ tự hào vì có bản
tuyên ngôn độc lập 1776, người Pháp có Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 thì
dân tộc Việt Nam có quyền kiêu hãnh vì có Tuyên ngôn độc lập, tác phẩm kết tinh tâm
hồn, ý chí, khát vọng của con người Việt Nam.
- Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, Tuyên ngôn độc lập đã đưa ra căn cứ, lí lẽ xác đáng
cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ, thể
hiện độ nhạy bén chính trị, sự sắc sảo trí tuệ cao độ. Với đoạn mở đầu, tác giả đã tạo cơ
sở lý luận vững chắc để triển khai lập luận ở phần sau.
- Chúng ta đã từng biết đến chất trí tuệ sắc sảo của Nguyễn Ái Quốc qua truyện Những
trò lố hay Va ren và Phan Bội Châu hiện đại bằng tiếng Pháp, chất cổ điển hài hòa với
tinh thần hiện đại của Hồ Chí Minh qua Nhật kí trong tù bằng chữ Hán, thì đến với
Tuyên ngôn độc lập, ta còn biết đến một áng văn chính luận mẫu mực giàu tính luận
chiến của nhà Cách mạng Hồ Chí Minh. Đây cũng là tác phẩm mà Hồ Chí Minh cảm
thấy hài lòng nhất trong cuộc đời viết văn, làm báo dày dạn kinh nghiệm của mình.
2. Bác vạch tội cũng là tranh luận ngầm với thực dân Pháp.
- Bác hạ từ “thế mà”, hai từ ấy như đảo ngược lại hoàn toàn, phủ nhận hoàn toàn thái độ
của thực dân Pháp. Nghĩa là chúng đã phản bội lại lời lẽ của cha ông chúng.
- Từ đây bản tuyên ngôn đã đưa ra những chứng cứ sự thật. Thực chất, Bác đã ngầm
tranh luận với Pháp và công bố trước dư luận.
+ Chúng kể công “bảo hộ” Việt Nam nhưng thực chất là chúng đã dâng Đông Dương
hai lần cho Nhật.
+ Chúng kể công ''khai hoá'' Việt Nam nhưng thực chất là chúng bóc lột, áp bức đẩy dân
tộc ta tới nguy cơ diệt chủng trong nạn đói 1945.
+ Chúng nhân danh Đồng minh trở lại Việt Nam >< thực chất chúng phản bội Đồng
minh, đầu hàng Nhật, khủng bố Việt Minh là lực lượng đứng trong phe Đồng minh đánh
Nhật.
+ Chúng nêu lên những ràng buộc về mặt pháp lí của Việt Nam với Pháp bởi những hiệp
ước này khác thì bản tuyên ngôn khẳng định từ 1940, Việt Nam là thuộc địa của Nhật
và Việt Minh đã giành lại chủ quyền cho dân tộc mình từ tay Nhật chứ không phải từ
tay Pháp. Như thế mọi ràng buộc có tính pháp lí trên đã bị huỷ bỏ.
-> Lời lẽ của Bác cụ thể, dẫn chứng rõ ràng, văn viết có hình ảnh (tắm các cuộc khởi
nghĩa của ta trong các biển máu), tác động mạnh mẽ tới người đọc, người nghe.
- Bác tuyên bố thoát li hẳn mọi quan hệ thực dân với Pháp.
+ Xoá bỏ mọi hiệp ước mà Pháp đã kí ở VN.
+ Khai sinh ra nước VNDCCH.

