ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU HÀ
PH¸P LUËT VÒ Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG
CñA CHI CôC THI HµNH ¸N D¢N Sù ë VIÖT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ THU HÀ
PH¸P LUËT VÒ Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG
CñA CHI CôC THI HµNH ¸N D¢N Sù ë VIÖT NAM
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101. 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN NGỌC LIÊM
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
NGUYỄN THỊ THU HÀ
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TỔ
CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ Ở VIỆT NAM ...................................................................... 7
1.1. Khái niệm ............................................................................................. 7
1.2. Các nguyên tắc cơ bản trong pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay .......... 12
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định ........................ 12
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đƣơng
sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ......................................... 13
1.2.3. Nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại trong thi hành án dân sự .................. 14
1.2.4. Nguyên tắc kết hợp biện pháp tự nguyện và cƣỡng chế thi hành án ....... 15
1.2.5. Nguyên tắc phối hợp trong thi hành án dân sự ................................... 15
1.2.6. Nguyên tắc thỏa thuận thi hành án dân sự .......................................... 16
1.2.7. Nguyên tắc giám sát hoạt động thi hành án dân sự ............................ 16
1.3. Lƣợc sử pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự ở Việt Nam .................................................................................... 17
1.3.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 ............................. 17
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954 ........................................................ 18
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1954 đến 1975 ........................................................ 19
1.3.4. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2009 ................................................ 21
1.3.5. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay .......................................................... 24
1.4. Tình hình tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân
sự ở Việt Nam .................................................................................... 26
1.4.1. Về tổ chức ........................................................................................... 27
1.4.2. Về kết quả hoạt động thi hành án dân sự: ........................................... 28
1.5. Pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở một
số nƣớc trên thế giới.......................................................................... 34
1.5.1. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Pháp ............................... 34
1.5.2. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Trung Quốc .................... 37
1.5.3. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Đức ................................ 39
1.5.4. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Nhật Bản ........................ 39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................ 42
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..... 43
2.1. Pháp luật về tổ chức của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay ..................................................................................... 43
2.1.1. Thủ trƣởng, Phó Thủ trƣởng ............................................................... 44
2.1.2. Chấp hành viên.................................................................................... 49
2.1.3. Thẩm tra viên ...................................................................................... 53
2.1.4. Thƣ ký thi hành án .............................................................................. 56
2.2. Pháp luật về hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở
Việt Nam ............................................................................................ 58
2.2.1. Xác minh điều kiện thi hành án .......................................................... 59
2.2.2. Các biện pháp bảo đảm thi hành án .................................................... 63
2.2.3. Cƣỡng chế thi hành án ........................................................................ 69
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................ 84
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY, QUAN ĐIỂM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............ 85
3.1. Một số bất cập trong pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay .......................... 85
3.1.1. Về tổ chức ........................................................................................... 85
3.1.2. Về hoạt động ....................................................................................... 86
3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay .......................... 96
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi
hành án dân sự phải gắn liền với quan điểm, đƣờng lối của Đảng
về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong công cuộc
xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa .............................. 96
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay phải đƣợc đặt trong tổng
thể hoàn thiện cả hệ thống pháp luật Việt Nam .................................. 97
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi
cục thi hành án dân sự trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo, tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới ............... 98
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi
hành án dân sự phải đảm bảo hiệu lực, hiệu quả áp dụng trên
thực tế .................................................................................................. 99
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay ........................ 100
3.3.1. Về tổ chức ......................................................................................... 100
3.3.2. Về hoạt động ..................................................................................... 100
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 105
KẾT LUẬN .................................................................................................. 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 108
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng là hoạt động
nhằm thực thi các phán quyết, quyết định có trong các bản án, quyết định đã
có hiệu lực của Tòa án. Hoạt động thi hành án dân sự là quá trình nhằm cụ thể
hóa các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án vào thực tiễn.
Trên tinh thần của Nghị quyết số 48/2005/NQ-TƢ ngày 24/5/2005 của
Bộ Chính trị về "Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020"; Nghị quyết số 49/2005/NQ-
TƢ ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến
năm 2020"; Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành
Chƣơng trình tổng thể cải cách hành chính nhà nƣớc giai đoạn 2011-2020 và
Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tƣớng Chính phủ về
Phê duyệt kế hoạch cải cách hành chính nhà nƣớc giai đoạn 2016-2020, ngày
05/4/2018, Ban cán sự Đảng Bộ Tƣ pháp đã ban hành Nghị quyết số 31-
NQ/BCSĐ về lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm thi hành án dân sự,
thi hành án hành chính giai đoạn 2018-2021 trong đó đặt ra mục tiêu là tiếp
tục tập trung mọi nguồn lực thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ đƣợc
giao, tạo chuyển biến cơ bản, bền vững về mọi mặt trong tổ chức, hoạt động
thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, khắc phục tình trạng tồn đọng án
kéo dài; nâng cao hiệu quả thi hành án, kỷ cƣơng phép nƣớc, tính nghiêm
minh của pháp luật. Đồng thời, bảo vệ tốt hơn quyền của ngƣời đƣợc thi hành
án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nƣớc theo bản án,
quyết định của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thƣơng mại.
Cùng với đó, trong bối cảnh đất nƣớc ta đang tiếp tục xây dựng nền
1
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế,
hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo dựng thể chế, cơ chế,
chính sách và môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh minh bạch, an toàn, thuận lợi
cùng với yêu cầu xây dựng nền tƣ pháp nhân dân và quan điểm xây dựng
Chính phủ “kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ” của Chính phủ
nhiệm kỳ 2016-2021 thì công tác thi hành án dân sự tiếp tục đóng vai trò quan
trọng, gắn liền và không thể tách rời. Mặc dù công tác thi hành án dân sự đã
có những chuyển biến tích cực rõ rệt, góp phần ngày càng lớn vào việc đảm
bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thực thi công lý, cải thiện môi trƣờng đầu
tƣ, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội của cả nƣớc nói chung và của các
địa phƣơng nói riêng; kết quả công tác thi hành án dân sự ngày càng cao
(Năm 2016, thi hành xong trên 530 nghìn việc và trên 29 nghìn tỷ đồng; năm
2017, thi hành xong trên 549 nghìn việc và trên 35 nghìn tỷ đồng; năm 2018,
thi hành xong trên 571 nghìn việc và gần 35 nghìn tỷ đồng), qua đó kịp thời
thu các khoản tiền cho Ngân sách nhà nƣớc, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
cho các tổ chức cá nhân, giải quyết và thúc đẩy phát triển các mối quan hệ
kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, những kết quả mà hệ thống các cơ
quan thi hành án dân sự đạt đƣợc vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu mà thực
tiễn đặt ra; số việc, số tiền chƣa đƣợc giải quyết lớn, trong đó tỷ lệ việc có
điều kiện thi hành án chƣa đƣợc giải quyết dứt điểm chiếm tỷ lệ cao, gây bức
xúc cho cá nhân, tổ chức đƣợc thi hành án và những ngƣời có quyền, lợi ích
hợp pháp liên quan. Bên cạnh đó, tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong thực
thi công vụ của công chức thi hành án dân sự, đặc biệt là những vi phạm
nghiêm trọng, phải truy cứu trách nhiệm hình sự làm ảnh hƣởng nghiêm trọng
đến hình ảnh, uy tín của hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự, gây mất
niềm tin trong nhân dân.
Nguyên nhân những tồn tại nói trên một phần là do ý thức tuân thủ
pháp luật của một bộ phận cá nhân, tổ chức phải thi hành án không cao, nhiều
2
trƣờng hợp cố tình chống đối, chây ỳ, không tự nguyện thi hành án, có nhiều
hành vi gây khó khăn cho đội ngũ công chức thi hành án trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ; việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến việc tổ chức
thi hành án nhƣ viện kiểm sát, công an, chính quyền địa phƣơng, … chƣa chặt
chẽ. Ngoài ra, nguyên nhân còn do nhiều địa phƣơng chƣa kiện toàn đầy đủ,
kịp thời các chức danh lãnh đạo, chƣa bổ nhiệm đủ các chức danh Chấp hành
viên; Thẩm tra viên; một số công chức thi hành án dân sự còn thiếu rèn luyện,
tu dƣỡng, chƣa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, chƣa tích cực học tập,
nghiên cứu các văn bản pháp luật, đặc biệt là các văn bản pháp luật về thi
hành án dân sự; hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự còn có sự xung đột
với các hệ thống pháp luật khác và còn nhiều bất cập khi áp dụng thực tiễn.
Trên cơ sở lý luận và tình hình thực tiễn đó, tôi chọn đề tài “Pháp luật
về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam” để
làm Luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, trƣớc những yêu cầu của thực tiễn khách quan
trong thi hành án dân sự, vấn đề pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi
cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay qua các giai đoạn đã có những đề
tài nghiên cứu liên quan, tiêu biểu là một số đề tài nhƣ:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc: “Luận cứ khoa học và
thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong
giai đoạn mới”, mã số 2000-58-198 do TS Nguyễn Đình Lộc làm chủ nhiệm
đề tài, năm 2000;
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi
hành án”, mã số 96-98-207/ĐT do Cục quản lý thi hành án dân sự Bộ Tƣ
pháp chủ trì thực hiện;
- Luận án tiến sĩ luật học: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở
Việt Nam hiện nay” do Nguyễn Thanh Thủy thực hiện tại Học viện Chính trị
3
– Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008. Đề tài đã nghiên cứu, làm rõ
một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự, làm rõ khái niệm, bản chất, đặc
trƣng của thi hành án dân sự và pháp luật thi hành án dân sự, đánh giá toàn
diện mức độ hoàn thiện của pháp luật thi hành án dân sự và nêu lên các yêu
cầu, quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự;
- Luận án tiến sĩ luật học: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam” do Trần
Huy Liệu thực hiện tại Đại học Luật Hà Nội năm 2003. Đề tài tập trung
nghiên cứu vị trí, vai trò của các cơ quan tƣ pháp trong bộ máy nhà nƣớc,
phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của các cơ quan tƣ pháp
Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam, trong đó
có đề cập đến cơ quan thi hành án dân sự;
- Luận án tiến sĩ luật học: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” do Nguyễn Quang Thái thực hiện
tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008. Đề tài
đã làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản có tính lý luận về pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng và xác định
phƣơng hƣớng, giải pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động
thi hành án dân sự;
- Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam, Trƣờng Đại học Luật
Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2018. Giáo trình đã
khái quát những vấn đề cơ bản về Luật thi hành án dân sự nhƣ khái niệm,
nguồn, quan hệ pháp luật, xã hội hóa, … Ngoài ra, giáo trình còn phân tích,
làm rõ các quy định pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành về thời hiệu,
thẩm quyền và nguyên tắc thi hành án dân sự; đối tƣợng, thẩm quyền, thủ tục
thi hành án dân sự, …;
- Ngoài ra, còn có một số các tài liệu khác có liên quan nhƣ Sổ tay
nghiệp vụ thi hành án dân sự - Tổng cục Thi hành án dân sự; Tài liệu bồi
4
dƣỡng nghiệp vụ Chấp hành viên trung cấp của Học viện Tƣ pháp; tài liệu
đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ quản lý, lãnh đạo cấp phòng của Học viện Tƣ
pháp; một số bài viết chuyên đề về công tác thi hành án dân sự trên Tạp chí
Dân chủ pháp luật…
Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những khía cạnh,
phạm vi cụ thể khác nhau hoặc đã đề cập đến vấn đề mang tính tổng thể hoặc
về tổ chức, hoặc về hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự, hoặc về một
giai đoạn trong hoạt động tổ chức thi hành án của các cơ quan thi hành án dân
sự. Nhƣng cho đến nay, sau khi Luật thi hành án dân sự đƣợc sửa đổi, bổ sung
năm 2014, chƣa có một công trình chuyên khảo nào đề cập và nghiên cứu một
cách chuyên sâu, có hệ thống đối với pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi
cục thi hành án dân sự. Vì vậy, luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu
tƣơng đối có hệ thống, toàn diện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục
thi hành án dân sự ở Việt Nam trên cơ sở pháp luật thi hành án dân sự hiện
hành. Những công trình nghiên cứu nêu trên là tài liệu tham khảo có giá trị để
học viên nghiên cứu và hoàn thành luận văn của mình.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Chi
cục thi hành án dân sự; nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự trên cơ sở đánh giá lịch sử
quá trình phát triển và đối chiếu, tham khảo các thành tựu, kinh nghiệm của
các quốc gia trên thế giới; trên cơ sở đó nhằm phát hiện những bất cập trong
tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự để đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của vấn đề này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ
thể nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn
5
giải, quy nạp, điều tra xã hội v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra.
5. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của
Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam; các quy định pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở nƣớc ta hiện nay mà trọng tâm là
Luật thi hành án dân sự đƣợc sửa đổi, bổ sung một số Điều năm 2014; Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và
Hƣớng dẫn thi hành một số Điều của Luật thi hành án dân sự; Quyết định số
61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tƣớng Chính phủ Quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục thi hành án dân sự
trực thuộc Bộ Tƣ pháp; Thông tƣ số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ
Tƣ pháp Quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch
công chức chuyên ngành thi hành án dân sự và một số văn bản có liên quan
khác. Luận văn có mở rộng nghiên cứu so sánh những quy định pháp luật của
nƣớc ta về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự với các quy định về tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự của các quốc gia trên thế giới, cùng với
thực tiễn tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở nƣớc ta hiện
nay để đƣa ra những phân tích, đánh giá và kiến nghị.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật tổ chức và hoạt động của
Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Chương 2: Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án
dân sự ở Việt Nam.
Chương 3: Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục
6
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, quan điểm và kiến nghị hoàn thiện.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự là
một phần trong Pháp luật thi hành án dân sự - một bộ phận cấu thành của hệ
thống pháp luật nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để làm sáng tỏ
khái niệm “Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân
sự”, trƣớc hết cần làm rõ một số khái niệm có liên quan nhƣ: khái niệm “tổ
chức”, khái niệm “hoạt động”, khái niệm “thi hành án dân sự”, khái niệm
“Chi cục thi hành án dân sự.
Trƣớc hết, theo Từ điển tiếng Việt, “tổ chức” là “Chỉnh thể có cấu tạo,
cấu trúc và những chức năng chung nhất định” [29, tr.944], “hoạt động” là
“những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định
trọng đời sống xã hội” [29, tr.431].
Cũng theo Từ điển tiếng Việt, “thi hành” là “Thực hiện điều đã chính
thức quyết định”[29, tr.903]. “Án” theo nghĩa hẹp là bản án, quyết định của
Tòa án, do Tòa án nhân danh Nhà nƣớc tuyên để giải quyết các vụ án hình sự,
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính. Còn khái niệm
“dân sự” trong thi hành án dân sự hiện còn có quan điểm khác nhau, có quan
điểm cho rằng “dân sự” trong thi hành án dân sự đƣợc hiểu là những bản án,
quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân phi tài sản nhƣ các bản
án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các vụ việc có tính chất dân
sự. Nhƣng cũng có quan điểm cho rằng “dân sự” trong thi hành án dân sự
bao gồm cả các bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp có tính chất dân
sự và các bản án, quyết định khác do pháp luật quy định; tác giả đồng tình với
7
quan điểm này, vì trên thực tế, các bản án, quyết định giải quyết các tranh
chấp có tính chất khác nhau, đƣợc giải quyết theo các thủ tục khác nhau
nhƣng đến giai đoạn thi hành đều áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân
sự. Nhƣ vậy, thi hành án dân sự có thể đƣợc hiểu là việc thực hiện bản án, quyết
định của Tòa án trên thực tế.Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện quyền tƣ pháp của Nhà nƣớc, thể hiện sự
tôn trọng của xã hội và công dân đối với pháp quyết của cơ quan nhân danh Nhà
nƣớc là Tòa án, mặt khác đó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi
ích hợp pháp của Nhà nƣớc, của các tổ chức, cá nhân khác bị xâm hại.
Dƣới góc độ lý luận, quan niệm về thi hành án dân sự hiện nay còn có
nhiều quan điểm khác nhau.
Có quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là một dạng hoạt động tƣ
pháp, bởi vì: thi hành án dân sự là hoạt động tiếp nối hoạt động xét xử, giải
quyết tranh chấp, đóng vai trò thực thi trên thực tế các bản án, quyết định của
cơ quan xét xử, cơ quan giải quyết tranh chấp; hoạt động thi hành án dân sự là
hoạt động độc lập – là đặc trƣng của hoạt động tƣ pháp; hoạt động thi hành án
dân sự do cơ quan thi hành án dân sự - một trong các cơ quan thực hiện quyền
tƣ pháp của Nhà nƣớc thực hiện.
Nhƣng lại có quan điểm cho rằng, thi hành án dân sự là một dạng hoạt
động hành chính, bởi vì: thi hành án dân sự là hoạt động mang tính điều hành
– chấp hành, là đặc trƣng của hoạt động hành chính; là hoạt động thực hiện
quyết định cá biệt, với đối tƣợng điều chỉnh cụ thể, xác định cụ thể quyền và
nghĩa vụ của các đối tƣợng điều chỉnh.
Ngoài ra, còn có quan điểm thì cho rằng, thi hành án dân sự là một
dạng của hoạt động hành chính – tƣ pháp, bởi vì: ngoài đặc trƣng của hoạt
động hành chính là chấp hành – điều hành thì thi hành án dân sự là hoạt động
gắn liền với hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp, là hoạt động nối tiếp của
8
hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp.
Các quan điểm trên khi đƣợc nhìn nhận dƣới các góc độ khác nhau đều
có những điểm hợp lý, và dù theo quan điểm nào thì theo tác giả thi hành án
dân sự đều có những đặc trƣng cơ bản sau:
Thứ nhất, Thi hành án dân sự là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử
của tòa án, quá trình giải quyết tranh chấp của trọng tài thƣơng mại. Bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các cơ quan giải quyết tranh chấp
là cơ sở để các cơ quan thi hành án dân sự tiến hành các thủ tục về thi hành
án dân sự. Nhƣ vậy, có thể nói không có kết quả giải quyết tranh chấp thì
không có hoạt động thi hành án dân sự và ngƣợc lại, không có hoạt động
thi hành án dân sự thì kết quả giải quyết tranh chấp gần nhƣ không đƣợc thi
thi trên thực tế; ngoài bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật không phải
là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt động thi hành án mà việc tổ chức
thi hành án còn phải dựa trên cơ sở các quy định pháp luật về tổ chức và
hoạt động thi hành án dân sự.
Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động có tính chấp hành, bởi vì thi
hành án dân sự đƣợc tiến hành trên cơ sở các bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật do các cơ quan đƣợc Nhà nƣớc trao quyền để giải quyết các tranh
chấp, việc tổ chức thi hành án dân sự đƣợc thực hiện trên cơ sở các quy định
pháp luật và do cơ quan nhà nƣớc là các Cục thi hành án dân sự và Chi cục thi
hành án dân sự thực hiện.
Thứ ba, thi hành án dân sự là hoạt động có tính quản lý, bởi vì thi hành
á dân sự luôn đòi hỏi các yếu tố kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lý,
… tác động tới ngƣời phải thi hành án để ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi
hành các nghĩa vụ của họ; trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án không tự
nguyện thực hiện các nghĩa vụ đã đƣợc xác định trong các bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật thì có thể bị áp dụng các biện pháp cƣỡng chế để buộc
9
họ thi hành nghĩa vụ.
Thứ tƣ, quá trình thi hành án dân sự có sự tham gia của nhiều cá nhân,
cơ quan, tổ chức, trong đó trung tâm là các cơ quan thi hành án dân sự.
Để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án dân
sự và đảm bảo việc thi hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến việc thi
hành án dân sự, Nhà nƣớc phải đặt ra các quy định pháp luật về thi hành án dân
sự; những quy định này có trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật từ Hiến
pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng
hình sự đến các văn bản chuyên ngành về thi hành án dân sự nhƣ Luật thi hành
án dân sự, Nghị định 62/2015/NĐ-CP, Thông tƣ 02/2017/TT-BTP, … Những
quy định pháp luật về thi hành án dân sự có nhiệm vụ cụ thể nhƣ:
Thể chế hóa đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc trong thi
hành án dân sự. Cụ thể là thể chế hóa đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, Nhà
nƣớc ta về phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính và cải cách tƣ pháp,
đƣợc thể hiện trong Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ƣơng
Đảng cộng sản Việt Nam khóa IX số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số
nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp thời gian tới; Nghị quyết số 34/NQ-TW
ngày 03/02/2004 Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ƣơng Đảng khóa
IX về một số chủ trƣơng, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết của
Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam khóa IX số
49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020.
Tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động thi hành án dân sự, trong đó phải
quy định các vấn đề nguyên tắc thi hành án, thời hiệu thi hành án, thẩm quyền
thi hành án, thủ tục thi hành án, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm và các
biện pháp cƣỡng chế thi hành án, … Luật thi hành án dân sự phải là cơ sở cho
10
các hoạt động tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự và hoạt
động tham gia thi hành án dân sự của các chủ thể khác, từ đó bảo đảm cho
hoạt động tổ chức và tham gia thi hành án dân sự của các chủ thể đƣợc thuận
lợi góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
Tạo ra cơ chế kiểm tra, kiểm sát và giám sát việc tuân theo pháp luật
của các hoạt động thi hành án dân sự, bảo đảm các hoạt động thi hành án dân
sự đƣợc tiến hành đúng pháp luật.
Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo và việc xử lý các hành vi trái pháp
luật trong thi hành án dân sự.
Quy định cụ thể cơ chế phối hợp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong việc thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cá
nhân, cơ quan và tổ chức trong việc tham gia thi hành án dân sự, xã hội hóa
thi hành án dân sự để tại điều kiện cho mọi ngƣời có thể đóng góp công sức
và trí tuệ vào việc thi hành án dân sự.
Các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, các hoạt động thi hành án
dân sự ở nƣớc ta hiện nay đƣợc thực thi, thực hiện bởi nhiều cá nhân, cơ
quan, tổ chức, trong đó trung tâm là các cơ quan thi hành án dân sự trong Hệ
thống cơ quan thi hành án dân sự. Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự ở
nƣớc ta hiện nay có thể phân loại thành Cơ quan quản lý thi hành án dân sự và
Cơ quan thi hành án dân sự. Trong đó, Cơ quan quản lý thi hành án dân sự
gồm Tổng cục thi hành án dân sự thuộc Bộ Tƣ pháp và các Cơ quan thi hành
án dân sự tỉnh, thành phố thuộc trung ƣơng, thực hiện các chức năng quản lý
nhà nƣớc và quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự; Cơ quan thi hành án
dân sự gồm Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố thuộc trung ƣơng và
Cơ quan thi hành án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trực tiếp tổ
chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo quy định.
Theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 52 thì hệ thống tổ chức thi hành án
11
dân sự ở cấp huyện là các Chi cục thi hành án dân sự quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh, gọi chung là Chi cục thi hành án dân sự. Hay nói cách
khác, “Chi cục thi hành án dân sự” là Cơ quan thi hành án dân sự ở cấp
huyện, nằm trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, trực tiếp tổ chức thi
hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo quy định.
Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm pháp luật về tổ chức
và hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự nhƣ sau: “Pháp luật về tổ
chức và hoạt động của các chi cục thi hành án dân sự là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh cơ cấu tổ chức của Chi cục thi hành án dân sự và
những mối quan hệ giữa Chi cục thi hành án dân sự với các cá nhân, cơ
quan, tổ chức phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự nhằm đảm bảo
việc thi hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức”.
1.2. Các nguyên tắc cơ bản trong pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định
Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định đƣợc quy định tại
Điều 106 Hiến pháp 2013, Điều 19 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 4 Luật thi
hành án dân sự. Đây là nguyên tắc biểu hiện tính pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong thi hành án dân sự. Đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là đảm bảo cho
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngoài ra còn làm cho bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật đƣợc đảm bảo thi hành trên thực tế. Nguyên tắc
này có các nội dung chủ yếu sau:
Khi giải quyết vụ việc dân sự Tòa án phải quyết định áp dụng biện
pháp cần thiết để đảm bảo cho việc thi hành án; bản án, quyết định phải đầy
đủ, rõ ràng, chính xác để tạo thuận lợi cho việc thi hành án;
Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải đƣợc đƣa ra thi hành.
12
Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định phải
chấp hành đúng và đầy đủ các phán quyết ghi trong các bản án, quyết định
đƣợc đƣa ra thi hành. Trong trƣờng hợp ngƣời có nghĩa vụ chấp hành bản án,
quyết định mà không tự nguyện thi hành thì phải áp dụng các biện pháp
cƣỡng chế cần thiết để bắt buộc thực hiện;
Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật; không đƣợc can thiệp trái pháp luật và quá trình thi
hành án dân sự; không đƣợc cản trở, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án
dân sự và Chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án dân sự. Hành vi
không thi hành án, không chấp hành án hoặc cản trở thi hành án thì tùy thuộc
vào tính chất, mức độ nghiệm trọng có thể bị xử lý hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự với các tội danh tại các Điều 379, 380, 381 Bộ luật
Hình sự 2015.
1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Quyền yêu cầu thi hành án của các đƣơng sự bao gồm quyền yêu cầu
thi hành án và quyền tự nguyện thi hành án đƣợc quy định tại Điều 7 và Điều
7a Luật thi hành án dân sự (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung một số Điều năm 2014),
đây là một trong số các quyền thi hành án cơ bản của đƣơng sự và là nội dung
quan trong nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Vì vậy,
quyền yêu cầu thi hành án của các đƣơng sự là quy định mang tính nguyên
tắc, với nội dung cụ thể sau: Các đƣơng sự đƣợc Tòa án, cơ quan và tổ chức
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cấp bản án, quyết định trong thời hạn
pháp luật quy định (tại Điều 269 và Điều 315 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Điều 262 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 196 và Điều 244 Luật tố tụng
hành chính 2015; Điều 62 Luật trọng tài thƣơng mại 2010). Ngƣời đƣợc thi
hành án, ngƣời phải thi hành án căn cứ vào nội dung phán quyết của bản án,
13
quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có quyền gửi đơn yêu cầu thi
hành án hoặc trực tiếp đến để yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi
hành án. Trƣờng hợp yêu cầu thi hành án của đƣơng sự đúng pháp luật thì cơ
quan thi hành án dân sự phải thụ lý và tổ chức thi hành theo quy định.
Ngoài ra, trong quá trình thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của
ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng đƣợc tôn trọng, đảm bảo (theo
quy định tại Điều 5 Luật THADS SĐBS 2014), theo đó: việc tổ chức thi hành
án không chỉ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc thi hành
án, ngƣời phải thi hành án mà còn đảm bảo không xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án
dân sự; ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án đƣợc
tham gia vào các giai đoạn thi hành án có liên quan để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, đƣợc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự và
đƣợc quyền ƣu tiên mua trong trƣờng hợp bán tài sản kê biên thuộc sở hữu
chung với ngƣời phải thi hành án.
1.2.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong thi hành án dân sự
Trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự,
Chấp hành viên, cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc tổ chức thi hành án dân
sự phải đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ theo quy
định của pháp luật, không đƣợc thực hiện các hành vi trái pháp luật, gây ảnh
hƣởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc thi hành án, ngƣời phải thi
hành án và những ngƣời có quyền, lợi ích hợp pháp có liên quan. Trƣờng hợp
cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cá nhân, tổ chức có liên quan đến
việc tổ chức thi hành án dân sự có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho ngƣời
phải thi hành án và những ngƣời có quyền, lợi ích hợp pháp có liên quan thì
phải bồi thƣờng thiệt hại (theo quy định tại Điều 10 Luật THADS SĐBS 2014).
Việc xác định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đƣợc quy định trong Luật bồi
14
thƣờng nhà nƣớc và các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật này.
1.2.4. Nguyên tắc kết hợp biện pháp tự nguyện và cưỡng chế thi
hành án
Việc ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi hành án không những thuận
lợi cho việc tổ chức thi hành án mà còn giảm thiểu chi phí cho cơ quan thi
hành án và các đƣơng sự. Vì vậy, pháp luật khuyến khích, tạo điều kiện để
ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi hành án và theo quy định tại Điều 45
Luật THADS SĐBS 2014 thì ngƣời phải thi hành án có thời hạn 10 ngày để
tự nguyện thi hành án. Hết thời hạn tự nguyện thi hành án, ngƣời phải thi
hành án có điều kiện thi hành án nhƣng không tự nguyện thi hành án thì cơ
quan thi hành án phải áp dụng các biện pháp cƣỡng chế theo quy định của
pháp luật thi hành án dân sự để thi hành án. Việc áp dụng nguyên tắc kết hợp
biện pháp tự nguyện và cƣỡng chế trong quá trình tổ chức thi hành án thể hiện
tính nhân đạo nhƣng vẫn đảm bảo đƣợc sự nghiêm minh của pháp luật.
1.2.5. Nguyên tắc phối hợp trong thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự là hoạt động phức tạp và trên thực tế, mặc dù cơ
quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên đƣợc Nhà nƣớc trao nhiều quyền để
tổ chức thi hành án nhƣng để đảm bảo hiệu quả còn cần phải có sự phối hợp
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khác, đặc biệt là sự phối hợp
của cơ quan công an, viện kiểm sát và chính quyền địa phƣơng. Vì vậy, cần
thiết phải có sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác, điều này đƣợc quy định tại Điều 11 Luật THADS SĐBS
2014, theo đó: Các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong
việc thi hành án; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm
phải thực hiện các yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên
theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Mọi hành vi cản trở, can thiệp
trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành
15
viên đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.
1.2.6. Nguyên tắc thỏa thuận thi hành án dân sự
Khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.
Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải
đƣợc chủ thể khác tôn trọng.
Nguyên tắc này cũng đƣợc áp dụng trong quá trình thi hành án dân sự
và đƣợc ghi nhận tại Điều 6 Luật THADS SĐBS 2014, cụ thể: Các đƣơng sự
có quyền thỏa thuận về việc thi hành án nếu việc thỏa thuận đó không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không ảnh hƣởng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên thứ ba thì việc thi hành án theo thỏa
thuận của các đƣơng sự đƣợc công nhận; việc thỏa thuận có thể thực hiện
trƣớc hoặc trong quá trình tổ chức thi hành án.
1.2.7. Nguyên tắc giám sát hoạt động thi hành án dân sự
Hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức
thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực của Nhà nƣớc trong việc
bảo đảm lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của các nhân, tổ
chức khác. Hoạt động này phải tuân thủ theo các quy định pháp luật về thi
hành án dân sự và các quy định pháp luật khác có liên quan. Khoản 2, Điều 8
Hiến pháp 2013 quy định “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên
chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với
Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân, …”, vì vậy,
quyền giám sát hoạt động của cơ quan nhà nƣớc, cán bộ, công chức, viên
chức nói chung và đối với Chi cục thi hành án dân sự, các Chấp hành viên,
Thẩm tra viên, … nói riêng là tất yếu và mang tính nguyên tắc.
16
Quyền giám sát hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự, các cơ
quan thi hành án dân sự đƣợc quy định cụ thể tại Điều 12 Luật thi hành án dân
sự. Theo đó, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc Việt Nam là các
cơ quan, tổ chức đại diện cho Nhân dân thực hiện việc giám sát hoạt động của
cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan nhà nƣớc khác trong thi hành án
dân sự theo quy định của pháp luật.
1.3. Lƣợc sử pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
ở Việt Nam
1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945
Ngƣời Pháp bắt đầu đặt chế độ cai trị ở nƣớc ta sau Hiệp ƣớc Nhâm Tuất
(1862) sau khi kiểm soát đƣợc tỉnh Gia Định và đến năm 1867, họ đã chiếm
đƣợc toàn bộ Nam Kỳ (gồm sáu tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Định Tƣờng, Vĩnh
Long, An Giang, Hà Tiên). Sau khi đặt đƣợc chế độ cai trị ở nƣớc ta, ngƣời
Pháp phân chia lại địa giới hành chính, thiết lập bộ máy cai trị, thiết lập hệ
thống các cơ quan xét xử, áp dụng hệ thống, pháp luật của Pháp vào các tỉnh
Nam Kỳ nƣớc ta, trong đó có chế định về thi hành án dân sự mà cụ thể là sự
xuất hiện của Thừa phát lại. Có thể nói, Thừa phát lại chính là hình thức sơ
khai của thi hành án dân sự ở Việt Nam.
Trong thời kỳ này, Thừa phát lại chỉ xuất hiện ở Nam Kỳ còn ở Bắc Kỳ
và Trung Kỳ chƣa có chế định Thừa phát lại, những công việc của Thừa phát
lại nhƣ trát đòi hầu tòa, truyền phiếu,... vẫn do các môn lại, môn vệ - là những
ngƣời truyền tin của Nhà vua thực hiện. Tuy nhiên, sau khi triều đình nhà
Nguyễn tiếp tục ký kết các Hòa ƣớc Giáp Tuất năm 1874; Hòa ƣớc Quý Mùi
năm 1883 (hay còn gọi là Hòa ƣớc Harmand có tất cả 27 điều khoản với nội
dung chính là xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ
Việt Nam. Hòa ƣớc này đánh dấu thời kỳ Pháp thuộc 1883-1945, toàn bộ Việt
Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp); Hòa ƣớc Giáp Thân 1884 (hay
17
còn gọi là Hòa ƣớc Patenôtre với 19 điều khoản có nội dung thừa nhận và
chấp thuận nền bảo hộ của nƣớc Pháp; nƣớc Pháp có quyền đại diện về mặt
ngoại giao và mọi ngƣời dân Việt Nam nằm ở nƣớc ngoài đều đặt dƣới quyền
bảo hộ của nƣớc Pháp) thì pháp luật của Pháp đã đƣợc áp dụng rộng rãi trên
lãnh thổ Việt Nam. Cụ thể là “Bộ Dân sự tố tụng Nam Việt” ban hành kèm
Nghị định ngày 16/3/1910 ở Nam Kỳ; “Bộ dân luật Trung năm 1936 – 1939”
ban hành kèm Bộ Hộ sự, Thƣơng sự tố tụng Trung Việt năm 1942 ở Trung
Kỳ và “Bộ luật Bắc năm 1931” kèm theo Bộ Dân sự tố tụng Bắc năm 1917 ở
Bắc Kỳ [17, tr. 9-10].
Nhìn chung, hoạt động thi hành án dân sự ở nƣớc ta trong thời kỳ này do
Thừa phát lại thực hiện và chủ yếu dựa trên khuôn mẫu đƣợc ghi nhận trong Bộ
Dân luật Pháp năm 1804 và Bộ Dân sự Tố tụng Pháp năm 1807 [10, tr.15].
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trên quan điểm "Không phải
cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng là mới. Cái gì cũ mà xấu thì
phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại
cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm..." [43], Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản quan trọng liên quan đến thi hành án
dân sự, trong đó có sắc lệnh 90/SL ngày 10/10/1945 về việc tạm thời giữ các
quy định pháp luật của chế độ cũ đã đƣợc áp dụng trƣớc Cách mạng tháng
Tám năm 1945 nếu những quy định đó không trái với các nguyên tắc của
Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vì vậy, hoạt động thi hành án dân sự
vẫn do Thừa phát lại thực hiện.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Sắc lệnh số 13 ngày
24/01/1946 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án
và các ngạch Thẩm phán thì “Ban Tư pháp xã có quyền thi hành những mệnh
lệnh của các Thẩm phán cấp trên bao gồm các bản án, quyết định có hiệu lực
18
của Tòa án” [17].
Nhƣ vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954, nhiệm vụ thi hành
án dân sự đƣợc Thừa phát lại và Ban Tƣ pháp xã cùng đảm nhận thực hiện.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1954 đến 1975
Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève chính thức đƣợc ký kết, nƣớc ta bị
chia cắt hai miền tại sông Bến Hải, Quảng Trị (vỹ tuyến 17), đây không chỉ là
sự chia cắt về mặt lãnh thổ, về mặt chính trị mà còn bao gồm chia cắt cả hệ
thống luật áp dụng.
Ở phía Bắc vỹ tuyến 17, theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1959 do
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký về “cải cách bộ máy tƣ pháp và luật tố tụng” thì
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện dƣới sự chỉ đạo của Chánh án sẽ thực
hiện các thủ tục liên quan đến thi hành án dân sự chứ không phải là Thừa phát
lại và Ban tƣ pháp xã nhƣ trƣớc đây. Cơ chế, tổ chức hoạt động thi hành án
dân sự và các hoạt động thi hành án dân sự thuộc trách nhiệm của Nhà nƣớc,
công chức Tòa án là những ngƣời thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự chứ
không xuất phát từ yêu cầu của các đƣơng sự.
Theo Điều 24 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của những ngƣời thực hiện nhiệm vụ thi hành
án dân sự đƣợc quy định nhƣ sau:
1. Tại các Tòa án nhân dân địa phƣơng có nhân viên chấp hành án
làm nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định dân sự, những
khoản xử về bồi thƣờng và tài sản trong các bản án, quyết định
hình sự; 2. Cơ quan công an có nhiệm vụ thi hành những khoản
hình phạt trong những bản án và quyết định về hình sự, trừ những
khoản phạt tiền [27].
Bên cạnh đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ra Quyết định số
186/TC ngày 13/10/1972 về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành
19
viên với nội dung: (1) Thi hành các bản án, quyết định của Tòa án mình, Tòa
án cấp trên và Tòa án các địa phƣơng khác theo quy định của pháp luật. (2)
Chấp hành viên Tòa án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thi hành những
bản án, quyết định có hiệu lực, có nhiều khó khăn nhƣ: vụ án có liên quan đến
bí mật quốc gia, đến công tác ngoại giao; vụ án có nhiều ngƣời thi hành án ở
nhiều địa phƣơng khác nhau; vụ án có nhiều tài sản gửi ở Tòa án nhân dân
tỉnh, thành phố.
Do đó, ở miền Bắc nƣớc ta trong giai đoạn này, xuất hiện chức danh tƣ
pháp mới là Chấp hành viên, độc lập với chức danh Thẩm phán, đƣợc biên
chế trong các Tòa án nhân dân địa phƣơng, có nhiệm vụ chủ động thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án mà không phụ thuộc vào yêu cầu thi hành
án của các bên đƣơng sự, việc thi hành án của Chấp hành viên đƣợc đảm bảo
thi hành bằng sức mạnh cƣỡng chế của nhà nƣớc. Việc tổ chức thi hành các
bản án, quyết định của Tòa án không còn có sự tham gia của Thừa phát lại.
Ở phía Nam vỹ tuyến 17, việc thi hành án dân sự vẫn do Thừa phát lại
đảm nhận thực hiện. Theo quy định tại Nghị định số 111/BTP-NĐ ngày
04/2/1950 của Tổng trƣởng Bộ Tƣ pháp quy định chi tiết về tổ chức, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại thì Thừa phát lại có quyền thực
hiện các công việc sau: Làm các truyền phiếu (giấy mời, giấy triệu tập); Làm
các việc lục tống về tƣ pháp hay không thuộc tƣ pháp; Thi hành các bản án,
công văn; Công việc nội bộ trong các Tòa án.
Ngoài ra, Tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thừa phát
lại đƣợc quy định chi tiết tại Bộ luật Tố tụng Dân sự 1910 và sau đó là Bộ luật
Dân sự và Thƣơng sự Tố tụng, Bộ luật hình sự tố tụng do chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu ban hành năm 1972.
Trên thực tế, ở phía Nam vỹ tuyến 17, mỗi văn phòng Thừa phát lại có
một Thừa phát lại và một Thƣ ký trƣởng hữu thệ (là những ngƣời đƣợc thay
20
thế Thừa phát lại thực thụ để thực hiện các hành vi tố tụng theo luật định). Số
lƣợng Thừa phát lại là 36 ngƣời, trong đó có 18 Thừa phát lại thực thụ và 18
Thƣ ký trƣởng. Ở các tỉnh không có Văn phòng Thừa phát lại, công việc của
Thừa phát lại đƣợc giao cho các Cảnh sát trƣởng hoặc Phó cảnh sát trƣởng
(Trƣởng ty cảnh sát) hoặc các Quận trƣởng tạm thời kiêm nhiệm do Nghị định
của Tổng trƣởng Bộ Tƣ pháp bổ nhiệm và các viên chức này đƣợc thu lệ phí
nhƣ Thừa phát lại [41, tr.18-20].
1.3.4. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2009
Trong giai đoạn này, Bộ Tƣ pháp đƣợc tái thành lập theo Nghị định số
143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trƣởng với chức năng giúp Hội
đồng Bộ trƣởng thực hiện quản lý thống nhất các việc về tƣ pháp trong cả
nƣớc, bao gồm xây dựng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, quản lý
về mặt tổ chức các toà án nhân dân địa phƣơng và quản lý nhà nƣớc các công
tác tƣ pháp khác (luật sƣ, công chứng, giám định, ...), đào tạo, bồi dƣỡng đội
ngũ cán bộ pháp luật trong cả nƣớc. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức của cơ quan tƣ pháp địa phƣơng đƣợc quy định tại Thông tƣ số 463-
TCCB ngày 21/6/1988 của Bộ Tƣ pháp. Hệ thống cơ quan tƣ pháp địa
phƣơng bao gồm: Sở Tƣ pháp ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng và
cấp tƣơng đƣơng; Ban (sau đó chuyển thành Phòng) Tƣ pháp ở cấp quận,
huyện, thị xã và các đơn vị hành chính tƣơng đƣơng; Ban Tƣ pháp ở cấp xã,
phƣờng và các đơn vị hành chính tƣơng đƣơng.
Với sự ra đời của Hiến pháp 1980, hàng loạt các đạo luật về tổ chức
của bộ máy nhà nƣớc đƣợc ban hành nhằm kiện toàn bộ máy nhà nƣớc, phân
định rõ chức năng của từng loại cơ quan, tăng cƣờng hiệu lực quản lý nhà
nƣớc bằng pháp luật. Theo đó, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 cũng
đƣợc ban hành và tại Điều 16 đã giao cho Bộ Tƣ pháp đảm nhiệm công tác
quản lý tòa án nhân dân địa phƣơng về mặt tổ chức, trong đó bao gồm cả việc
21
quản lý công tác thi hành án dân sự. Tiếp đó, Nghị định 143/ HĐBT ngày
22/11/1981 của Hội đồng bộ trƣởng nay là Chính phủ quy định về chức năng
nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Tƣ pháp đƣợc ban hành, đã ghi rõ: “Bộ Tƣ pháp
có chức năng quản lý các Tòa án nhân dân địa phƣơng về mặt tổ chức trong
đó bao gồm cả việc quản lý công tác thi hành án dân sự”. Theo đó, Tòa án
nhân dân tối cao đã bàn giao nhiệm vụ quản lý công tác thi hành án dân sự
trong phạm vi toàn quốc sang Bộ Tƣ pháp bắt đầu từ ngày 01/01/1982. Ngày
18/7/1982 Bộ Tƣ pháp và Tòa án nhân dân tối cao đã ký Thông tƣ liên ngành
số 472 về quản lý công tác thi hành án dân sự trong thời kỳ trƣớc mắt, quy
định: ở địa phƣơng tại các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ƣơng có phòng thi hành án nằm trong cơ cấu, bộ máy và biên chế của Tòa án
để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án dân sự. Ở các Tòa án nhân dân
quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có các chấp hành viên hoặc cán bộ
làm công tác thi hành án dƣới sự chỉ đạo của Chánh án. Việc quản lý, chỉ đạo
và tổ chức thực thi nhiệm vụ của Chấp hành viên vẫn do Chánh án Tòa án
nhân dân cùng cấp đảm nhiệm.
Trong thời kỳ này, tổ chức và hoạt động thi hành án là một giai đoạn
khép kín trong Tòa án và tùy thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân
dân địa phƣơng. Vai trò của Tòa án nhân dân tối cao và tiếp đó là Bộ Tƣ pháp
từ năm 1981 đến năm 1992 trong việc quản lý Tòa án địa phƣơng mới dừng
lại ở vai trò quản lý chung, còn thực chất việc quản lý đội ngũ cán bộ tòa án,
cũng nhƣ việc xây dựng đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử, thi
hành án do chính quyền địa phƣơng đảm nhiệm.
Đầu những năm 1990, công cuộc đổi mới nói chung và cải cách bộ máy
Nhà nƣớc nói riêng đã đƣợc tiến hành một cách khá tích cực, khẩn trƣơng.
Hiến pháp 1992 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nƣớc đƣợc Quốc hội khoá
IX thông qua vào tháng 10/1992 đã đặt ra nguyên tắc nền tảng cho quá trình
22
cải cách tƣ pháp trong đó công tác thi hành án dân sự đƣợc đổi mới một cách
căn bản. Do cơ chế tổ chức thi hành án là một bộ phận của Tòa án địa phƣơng,
với chức năng chủ yếu của tòa án là xét xử nên nhiều năm liền mối quan tâm,
chú trọng của Tòa án vẫn dành cho công tác xét xử còn việc thi hành án hầu
nhƣ ít đƣợc quan tâm. Điều này dẫn đến tình trạng án xét xử xong không
đƣợc thi hành chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong lƣợng án phải thi hành hành
năm. Do đó Đảng và Nhà nƣớc đã chủ trƣơng tách công tác thi hành án dân
sự ra khỏi Tòa án nhân dân. Trong thời gian này, công tác thi hành án dân sự
đƣợc thực hiện theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989.
Khác với luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, việc ban hành Luật
Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 đã không quy định thẩm quyền của tòa án
nhân dân trong việc thi hành án trong khi đó Luật tổ chức Chính phủ năm
1992 lần đầu tiên đã quy định: Việc quản lý công tác thi hành án là một trong
những nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và
hành chính tƣ pháp. Tại kỳ họp thứ nhất quốc hội khoá IX ngày 06/10/1992
đã thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa
án sang các cơ quan của chính phủ chậm nhất vào tháng 6/1993 và từ ngày
1/7/1993 các cơ quan thi hành án dân sự chính thức đƣợc thành lập và hoạt
động. Theo đó, Pháp lệnh thi hành án dân sự đƣợc ban hành ngày 21/4/1993,
có hiệu lực ngày 01/6/1993 thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự ban hành
ngày 28/8/1989 và đến năm 2004 thì đƣợc chỉnh sửa, bổ sung và đƣợc gọi là
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, sau gần năm năm triển khai
thực hiện đã thu đƣợc những kết quả nhất định. Tuy nhiên, qua gần năm năm
thực hiện, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế,
bất cập nhất là các quy định về trình tự, thủ tục, trách nhiệm, cơ chế phối hợp
của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong công tác thi hành án dân sự; quyền
hạn của cơ quan thi hành án dân sự, của Chấp hành viên chƣa tƣơng xứng với
23
yêu cầu nhiệm vụ…
Để khắc phục những hạn chế này, tiếp tục hoàn thiện các quy định về
trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác thi
hành án dân sự tại Kỳ họp thứ tƣ, Quốc hội Khóa XII ngày 14/11/2008 đã
thông qua Luật thi hành án dân sự, gồm 9 chƣơng, 183 điều với nhiều nội
dung đổi mới và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2009.
1.3.5. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Việc tổ chức thi hành Luật đã đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng, cụ thể
là: nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các tầng lớp nhân dân về ý
nghĩa, vai trò của công tác thi hành án dân sự đƣợc nâng lên rõ rệt; việc kiện
toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác thi hành án dân sự theo quy định
của Luật đã cơ bản đƣợc hoàn thành; vị thế cơ quan thi hành án dân sự đƣợc
nâng lên và nhận đƣợc sự quan tâm hơn của cấp ủy, chính quyền địa phƣơng
thông qua việc các cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm trực tiếp báo
cáo công tác thi hành án dân sự trƣớc Hội đồng nhân dân cùng cấp; cơ sở vật
chất, điều kiện làm việc của các cơ quan thi hành án dân sự đã đƣợc cải thiện
một bƣớc, việc xây dựng trụ sở, kho vật chứng các cơ quan thi hành án dân sự
cũng đã đƣợc quan tâm thực hiện, cơ bản hoàn thành ở cấp tỉnh; công tác phối
hợp giữa các ngành, các cấp ngày càng đƣợc tăng cƣờng và triển khai ngày
càng bài bản, nhờ đó kết quả công tác thi hành án dân sự đã có những chuyển
biến tích cực và đạt kết quả khả quan.
Bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc, công tác thi hành Luật thi hành án
dân sự bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, thậm chí yếu kém, trong đó nổi lên là:
kết quả THADS có tăng lên so với trƣớc khi có Luật nhƣng chƣa thật bền
vững (năm 2013 đạt thấp hơn so với năm 2012 và chƣa hoàn thành chỉ tiêu
theo Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội); lƣợng án tồn đọng tuy có
giảm nhƣng số việc và tiền chuyển kỳ sau vẫn còn rất lớn và có xu hƣớng
24
tăng lên (năm 2013 còn tồn 239.144 việc và trên 41.597 đồng, tăng so với
năm 2012); việc phân loại án ở một số cơ quan thi hành án dân sự vẫn chƣa
thật chính xác, vẫn còn tình trạng chuyển từ án có điều kiện sang án không có
điều kiện, trong khi Tòa án không nắm đƣợc bản án, quyết định mà Tòa án đã
tuyên có đƣợc chấp hành đầy đủ hay không; việc tổ chức thi hành án trong
nhiều vụ việc còn chƣa kịp thời, gặp khó khăn, vƣớng mắc, trong đó có những
trƣờng hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ ràng, thiếu khả thi
nhƣng việc trả lời của Tòa án đối với yêu cầu của cơ quan thi hành án về giải
thích bản án còn chậm, nhiều trƣờng hợp dẫn đến khiếu nại, tố cáo gay gắt,
kéo dài; công tác phối hợp trong thi hành án dân sự tuy đã có chuyển biến
nhƣng vẫn còn bất cập, một số cấp uỷ, chính quyền địa phƣơng có lúc, có nơi
chƣa thực sự quan tâm, chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện cho công
tác thi hành án dân sự...
Theo Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 của Quốc hội khóa
XIII, kỳ họp thứ 5 về điều chỉnh Chƣơng trình xây dựng luật, pháp lệnh
nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2013 và Chƣơng trình xây dựng luật, pháp
luật năm 2014, Nghị quyết số 616/NQ-UBTVQH13 ngày 09/7/2013 của Ủy
ban Thƣờng vụ Quốc hội triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về
điều chỉnh Chƣơng trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa
XIII, năm 2013 và Chƣơng trình xây dựng luật, pháp luật năm 2014, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự đƣợc đƣa vào chƣơng
trình chính thức năm 2014 với tiến độ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp
thứ 7 (tháng 5/2014) và thông qua tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2014). Chính
phủ đã giao Bộ Tƣ pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức
có liên quan xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi
hành án dân sự. Sau khi Quốc hội cho ý kiến, ngày 25/11/2014, tại Kỳ họp
thứ 8 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
25
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2015.
Trên cơ sở các quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008, Luật
THADS năm 2008, đƣợc sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014, hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành Luật
đến nay cơ bản đã đƣợc xây dựng, ban hành khá đầy đủ, gồm Nghị định,
Thông tƣ, Thông tƣ liên tịch, hoặc các văn bản nhƣ Quyết định, Chỉ thị, Quy
chế phối hợp liên ngành, cụ thể nhƣ: Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều
của Luật THADS; Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 06/02/2017 của Thủ tƣớng
Chính phủ về tăng cƣờng công tác THADS; Quy chế liên ngành số
14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013 của Bộ
Tƣ pháp, Bộ Công an, TANDTC, VSKNDTC về phối hợp liên ngành trong
công tác THADS; Quyết định số 27/2012/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 của Thủ
tƣớng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với
Chấp hành viên, Công chứng viên, Thẩm tra viên và Thƣ ký thi hành án; …
Nhƣ vậy, có thể nói rằng, song song với quá trình phát triển của hệ thống
thi hành án dân sự thì nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện pháp luật về thi hành án
dân sự cũng đƣợc quan tâm, ngày càng hoàn thiện. Từ chỗ không có văn bản
pháp lý riêng để quy định về tổ chức và hoạt động thi hành án thì đến nay đã có
hàng loạt văn bản điều chỉnh một cách chi tiết các nội dung liên quan.
1.4. Tình hình tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự
ở Việt Nam
Trong những năm qua, hệ thống tổ chức thi hành án dân sự trên cả
nƣớc tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ theo Nghị
quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội khóa XIII về công
tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát
nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm
26
tiếp theo cũng nhƣ thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, Chỉ thị
số 05/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về tăng cƣờng công tác THADS, Bộ
Tƣ pháp đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, toàn diện, quyết liệt để hoàn
thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án đƣợc giao, qua đó, góp phần tích cực
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo đảm an ninh chính
trị, trật tự, an toàn xã hội, quyền con ngƣời, quyền công dân và phát triển kinh
tế - xã hội của đất nƣớc.
1.4.1. Về tổ chức
Theo Báo cáo số 276/BC-BTP ngày 26/11/2018 của Bộ Tƣ pháp về
Tổng kết công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2018 và phƣơng
hƣớng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2019:
Tính đến hết ngày 30/9/2018, toàn quốc có 4.112 Chấp hành viên, 729
Thẩm tra viên và 1.791 Thƣ ký thi hành án. Bộ Tƣ pháp đã quan tâm rà soát,
bổ sung, phê duyệt quy hoạch chức danh lãnh đạo các cơ quan THADS địa
phƣơng và đã phê duyệt quy hoạch chức danh Cục trƣởng Cục THADS giai
đoạn 2018 - 2021 đối với 55/63 địa phƣơng, giai đoạn 2021 - 2026 đối với 07
địa phƣơng; chức danh Phó Cục trƣởng Cục THADS giai đoạn 2018 - 2021
đối với 62/63 địa phƣơng, giai đoạn 2021 - 2026 đối với 01/63 địa phƣơng;
phê duyệt chức danh Chi cục trƣởng giai đoạn 2018 - 2021 đối với 24 địa
phƣơng, giai đoạn 2021 - 2026 đối với 23 địa phƣơng; còn lại đang thực hiện
theo quy định.
Bộ Tƣ pháp thƣờng xuyên rà soát, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính
quyền các địa phƣơng tập trung kiện toàn đội ngũ công chức lãnh đạo các cơ
quan THADS. Để nâng cao hiệu quả trong công tác tổ chức cán bộ, Bộ Tƣ
pháp thƣờng xuyên tổ chức Hội nghị về công tác cán bộ, trong đó tập trung
tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/BCSĐ ngày
14/3/2014 của Ban cán sự Đảng Bộ Tƣ pháp về tăng cƣờng sự lãnh đạo của
27
Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ các cơ quan THADS giai đoạn 2014 -
2016 kết hợp với sơ kết công tác luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác, công
tác biệt phái, trên cơ sở đó đã ban hành văn bản chỉ đạo, hƣớng dẫn chung
trong toàn Hệ thống.
Công tác đào tạo, bồi dƣỡng tiếp tục đƣợc Bộ Tƣ pháp quan tâm chú
trọng với nội dung, chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng phù hợp hơn với từng
đối tƣợng và thực tiễn công tác thi hành án thời gian qua. Năm 2018, Bộ Tƣ
pháp, Tổng cục THADS đã tổ chức 15 lớp bồi dƣỡng cho các đối tƣợng bồi
dƣỡng, đào tạo
1.4.2. Về kết quả hoạt động thi hành án dân sự:
1.4.2.1. Năm 2016
Theo Báo cáo số 354/2016/BC-BTP ngày 12/12/2016 của Bộ Tƣ pháp
về Kết quả công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2016 và phƣơng
hƣớng, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu năm 2017:
- Về việc, tổng số thụ lý là 836.054 việc, tăng 44.642 việc (5,64%) so
với năm 2015. Tổng số phải thi hành là 821.216 việc, trong đó: số có điều
kiện thi hành là 675.429 việc (82,25%). Kết quả: Thi hành xong 530.428 việc
(tăng 30.388 việc so với năm 2015), đạt tỉ lệ 78,53%. Số việc chuyển kỳ sau
là 290.788 việc, trong đó, số việc có điều kiện nhƣng chƣa thi hành xong là
145.001 việc. So với số việc có điều kiện thi hành năm 2015 chuyển sang năm
2016 (169.914 việc), giảm 24.913 việc (14,66%).
- Về tiền, tổng số thụ lý là 144.524 tỷ 837 triệu 483 nghìn đồng, tăng
18.568 tỷ 760 triệu 273 nghìn đồng (14,74%) so với năm 2015. Tổng số phải
thi hành là 133.618 tỷ 729 triệu 398 nghìn đồng, trong đó: số có điều kiện thi
hành là 86.253 tỷ 902 triệu 891 nghìn đồng (64,56%). Kết quả: Thi hành xong
29.097 tỷ 865 triệu 317 nghìn đồng (tăng 7.800 tỷ 750 triệu 410 nghìn đồng
so với năm 2015), đạt tỷ lệ 33,74%. Số tiền chuyển kỳ sau là 104.520 tỷ 864
28
triệu 80 nghìn đồng, trong đó số tiền có điều kiện nhƣng chƣa thi hành xong
là 57.156 tỷ 37 triệu 572 nghìn đồng. So với số tiền có điều kiện thi hành năm
2015 chuyển sang năm 2016 (70.610 tỷ 755 triệu 761 nghìn đồng), giảm
13.454 tỷ 738 triệu 189 nghìn đồng (19,05%).
So với chỉ tiêu, nhiệm vụ Bộ Tƣ pháp giao các cơ quan THADS theo
quy định mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS năm
2014 (thi hành án xong trên 70% về việc và trên 30% về tiền trên tổng số án
có điều kiện thi hành), năm 2016, Hệ thống THADS đã vƣợt chỉ tiêu đƣợc
giao cả về việc (8,53%) và về tiền (3,74%). Số án chuyển kỳ sau giảm cả về
việc và về tiền so với năm 2015 (14,66% về việc và 19,05% về tiền).
- Công tác phân loại án có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi
hành ngày càng chính xác hơn; tỷ lệ án có điều kiện thi hành trên tổng số phải
thi hành năm 2016 đạt khá cao (82,25% về việc và 64,55% về tiền), cao hơn
so với các năm trƣớc, nhất là về tiền (năm 2015 đạt 75,74% về việc và
44,73% về tiền, năm 2014 đạt 77,03% về việc và 53,42% về tiền).
- Kết quả thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự đối với phạm
nhân, tổng số việc, tiền phải thi hành của ngƣời phải thi hành án đang chấp
hành hình phạt tù là 104.016 việc, tƣơng ứng với 20.206 tỷ 253 triệu 931
nghìn đồng. Kết quả: Thi hành xong 52.751 việc, thu đƣợc số tiền là 1.372 tỷ
380 triệu 543 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 50,71% về việc và 6,79% về tiền (So với
năm 2015, tăng 4.557 việc nhƣng giảm 2.701 tỷ 113 triệu 106 nghìn đồng;
giảm 2,61% về việc và giảm 5,96% về tiền).
- Kết quả thi hành án đối với các khoản thu cho Ngân sách Nhà nước,
trong số 542.265 việc và 18.067 tỷ 009 triệu 671 nghìn đồng phải thu cho
Ngân sách, đã giải quyết đƣợc 372.836 việc, tƣơng ứng với số tiền 1.956 tỷ
575 triệu 753 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 85,82% về việc và 44,29% về tiền.
- Kết quả thi hành án tín dụng, ngân hàng, tổng số phải thi hành loại
29
này là 19.297 việc, với số tiền là 78.652 tỷ 305 triệu 814 nghìn đồng, tƣơng
ứng với 2,35% về việc và 58,86% về tiền so với tổng số việc và tiền phải thi
hành của toàn quốc. Kết quả: Thi hành xong 3.348 việc, thu đƣợc số tiền là
19.654 tỷ 590 triệu 288 nghìn đồng (tăng 305 việc và 3.859 tỷ 647 triệu 862
nghìn đồng), đạt tỷ lệ 17,35% về việc và 24,99% về tiền (giảm 0,65% về việc
nhƣng tăng 1,99% về tiền so với năm 2015).
- Về kết quả xét miễn, giảm thi hành án, đã lập hồ sơ đề nghị xét miễn,
giảm thi hành án tổng số 7.795 việc, với số tiền là 186 tỷ 335 triệu 875 nghìn
đồng. Cơ quan có thẩm quyền đã xét miễn, giảm tổng số 7.171 việc, tƣơng
ứng với số tiền 152 tỷ 757 triệu 564 nghìn đồng (so với năm 2015, giảm 1.067
việc và giảm 113 tỷ 297 triệu 007 nghìn đồng).
- Về kết quả tổ chức cưỡng chế thi hành án, đã ra quyết định áp dụng
biện pháp cƣỡng chế thi hành án đối với 11.901 trƣờng hợp (giảm 673 trƣờng
hợp so với năm 2015). Sau khi có Quyết định cƣỡng chế, có 1.428 trƣờng hợp
đƣơng sự tự nguyện thi hành án (giảm 82 trƣờng hợp so với năm 2015), nên
tổng số việc phải tổ chức cƣỡng chế là 10.473 trƣờng hợp (giảm 591 trƣờng
hợp so với năm 2015).
- Về số vụ việc đã kê biên, bán đấu giá không thành, tổng số vụ việc đã
kê biên tài sản, định giá lại và bán đấu giá nhƣng chƣa xử lý đƣợc là 11.084
việc, tƣơng ứng với số tiền là 31.866 tỷ 175 triệu 380 nghìn đồng, chiếm
8,17% số việc và 62,84% số tiền có điều kiện đang thi hành của toàn quốc
(trong đó, số việc bán đấu giá từ 3 lần trở lên là 7.651 việc, tƣơng ứng với số
tiền là 15.235 tỷ 589 triệu 267 nghìn đồng), giảm 3.527 việc nhƣng tăng
14.307 tỷ 588 triệu 4 nghìn đồng so với năm 2015.
1.4.2.2. Năm 2017
Theo Báo cáo số 344/BC-BTP ngày 04/12/2017 của Bộ Tƣ pháp về
Tổng kết công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2017 và phƣơng
30
hƣớng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2018:
- Về việc, tổng số thụ lý là 882.630 việc, tăng 46.576 việc (5,57%) so
với năm 2016. Tổng số phải thi hành là 869.430 việc, trong đó: số có điều
kiện thi hành là 693.264 việc (79,74%); số chƣa có điều kiện thi hành là
176.166 việc (20,26%). Kết quả: Thi hành xong 549.415 việc, đạt tỉ lệ
79,25%, tăng 18.987 việc (tăng 0,72%) so với năm 2016.
- Về tiền, tổng số thụ lý là 172.959 tỷ 724 triệu 927 nghìn đồng, tăng
28.434 tỷ 887 triệu 444 nghìn đồng (19,67%) so với năm 2016. Tổng số phải
thi hành là 163.658 tỷ 232 triệu 569 nghìn đồng, trong đó: số có điều kiện thi
hành là 92.000 tỷ 198 triệu 484 nghìn đồng (56,21%); số chƣa có điều kiện thi
hành là 71.658 tỷ 034 triệu 086 nghìn đồng (43,79%). Kết quả: Thi hành xong
35.242 tỷ 612 triệu 983 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 38,31%, tăng 6.144 tỷ 747 triệu
665 nghìn đồng (tăng 21,12%) so với năm 2016.
- Về kết quả thi hành đối với các khoản nợ của tổ chức tín dụng, tổng
số phải thi hành loại này là 22.473 việc, với số tiền là 99.311 tỷ 812 triệu 726
nghìn đồng, tƣơng ứng với 2,58% về việc và 60,74% về tiền so với tổng số
việc và tiền phải thi hành của toàn quốc. Kết quả: Thi hành xong: 4.440 việc,
thu đƣợc số tiền là 27.701 tỷ 223 triệu 513 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 19,76% về
việc và 27,89% về tiền, tăng so với năm 2016 cả về giá trị tuyệt đối (tăng
1.092 việc và tăng 8.046 tỷ 633 triệu 225 nghìn đồng) và về tỷ lệ (tăng 2,41%
về việc và 2,9% về tiền).
- Về kết quả thi hành án của ngƣời phải thi hành án đang chấp hành án
phạt tù thu các khoản tiền, tài sản mà ngƣời phải thi hành án, thân nhân của
ngƣời phải thi hành án nộp để thi hành án, tổng số việc, tiền phải thi hành là
97.446 việc tƣơng ứng với số tiền 31.942 tỷ 621 triệu 003 nghìn đồng. Kết
quả: Thi hành xong 49.520 việc, thu đƣợc số tiền là 2.795 tỷ 272 triệu 737
nghìn đồng, đạt tỷ lệ 50,82% về việc và 8,75% về tiền. So với năm 2016,
giảm 3.231 việc nhƣng tăng 1.422 tỷ 892 triệu 194 nghìn đồng; tăng 0,11% tỷ
31
lệ về việc và tăng 1,96% tỷ lệ về tiền.
- Về kết quả xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, đã lập hồ sơ đề nghị
xét miễn, giảm tổng số 7.145 việc, với số tiền là 172 tỷ 792 triệu 082 nghìn
đồng. Cơ quan có thẩm quyền đã xét miễn, giảm tổng số 6.451 việc, tƣơng
ứng với số tiền 39 tỷ 862 triệu 330 nghìn đồng, so với năm 2016, giảm 720
việc tƣơng ứng với 112 tỷ 895 triệu 234 nghìn đồng.
- Về kết quả tổ chức cƣỡng chế thi hành án, thực hiện cƣỡng chế có huy
động lực lƣợng đối với 5.549 trƣờng hợp (tăng 57 trƣờng hợp so với năm
2016). Sau khi có Quyết định cƣỡng chế, có 1.446 trƣờng hợp đƣơng sự tự
nguyện thi hành án (tăng 18 trƣờng hợp so với năm 2016).
- Về số vụ việc đã kê biên, định giá lại và đấu giá nhƣng không thành,
tổng số việc đã kê biên, định giá lại và đấu giá nhƣng không thành là 7.535
việc, tƣơng ứng với số tiền là 10.898 tỷ 734 triệu 293 nghìn đồng, chiếm
1,09% số việc và 11,8% số tiền có điều kiện thi hành của toàn quốc (trong đó
số việc bán đấu giá từ 3 lần trở lên là 5.225 việc, tƣơng ứng với số tiền là
6,999 tỷ 293 triệu 419 nghìn đồng).
1.4.2.3. Năm 2018
Theo Báo cáo số 276/BC-BTP ngày 26/11/2018 của Bộ Tƣ pháp về
Tổng kết công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2018 và phƣơng
hƣớng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2019:
- Về việc, đến hết tháng 9/2017, số cũ chuyển sang là 320.015 việc; từ
01/10/2017 đến 30/9/2018, thụ lý mới 607.234 việc. Nhƣ vậy, tổng số thụ lý
là 927.249 việc, tăng 44.512 việc (5,04%) so với năm 2017.
Tổng số phải thi hành là 914.083 việc, trong đó: số có điều kiện thi
hành là 711.990 việc (77,89%); số chƣa có điều kiện thi hành là 202.093 việc
(22,11%). Kết quả: Thi hành xong 571.708 việc, đạt tỉ lệ 80,30%.
- Về tiền, đến hết tháng 9/2017, số cũ chuyển sang là 128.415 tỷ 619
32
triệu 588 nghìn đồng; từ 01/10/2017 đến 30/9/2018, thụ lý mới là 67.585 tỷ 641
triệu 360 nghìn đồng. Nhƣ vậy, tổng số thụ lý là 196.001 tỷ 260 triệu 948 nghìn
đồng, tăng 23.041 tỷ 536 triệu 021 nghìn đồng (13,32%) so với năm 2017.
Tổng số phải thi hành là 178.628 tỷ 202 triệu 056 nghìn đồng, trong đó:
số có điều kiện thi hành là 90.009 tỷ 568 triệu 485 nghìn đồng (51,28%); số
chƣa có điều kiện thi hành là 85.500 tỷ 572 triệu 105 nghìn đồng (48,72%).
Kết quả: Thi hành xong 34.520 tỷ 915 triệu 718 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 38,35%.
- Về kết quả thi hành án của ngƣời phải thi hành án đang chấp hành án
phạt tù thu các khoản tiền, tài sản mà ngƣời phải thi hành án, thân nhân của
ngƣời phải thi hành án nộp để thi hành án, tổng số việc, tiền phải thi hành là
102.097 việc, tƣơng ứng với số tiền 22.674 tỷ 727 triệu 816 nghìn đồng. Kết
quả: Thi hành xong 51.708 việc, thu đƣợc số tiền là 2.303 tỷ 591 triệu 745
nghìn đồng, đạt tỷ lệ 50,64% về việc và 10,2% về tiền.
- Về kết quả xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, đã lập hồ sơ đề nghị
xét miễn, giảm tổng số 6.502 việc, với số tiền là 78 tỷ 550 triệu 404 nghìn
đồng. Cơ quan có thẩm quyền đã xét miễn, giảm tổng số 5.867 việc, tƣơng
ứng với số tiền 70 tỷ 038 triệu 618 nghìn đồng.
- Về kết quả tổ chức cƣỡng chế thi hành án, đã ra quyết định áp dụng
biện pháp cƣỡng chế thi hành án đối với 9.857 trƣờng hợp, sau khi có Quyết
định cƣỡng chế, có 869 trƣờng hợp đƣơng sự tự nguyện thi hành án. Nhƣ vậy,
tổng số việc phải tổ chức cƣỡng chế là 8.988 trƣờng hợp.
- Về thi hành án đối với các khoản nợ của tổ chức tín dụng, tổng số
phải thi hành loại này là 24.907 việc, với số tiền là 108.999 tỷ 067 triệu 591
nghìn đồng, tƣơng ứng với 2,72% về việc và 62,1% về tiền so với tổng số
việc và tiền phải thi hành của toàn quốc. Kết quả: Thi hành xong 4.251 việc,
thu đƣợc số tiền là 24.575 tỷ 914 triệu 210 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 17,07% về
33
việc và 22,55% về tiền.
1.5. Pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở một số
nƣớc trên thế giới
Hiện nay, trên thế giới có nhiều mô hình tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự khác nhau, trong đó có bốn mô hình chủ yếu là mô hình dựa vào
Tòa án (Court-controlled enforcement) nhƣ ở Đan Mạch, Ý, Tây Ban Nha;
mô hình kết hợp nhiều thiết chế (Multiple-institution-controlled enforcement)
nhƣ ở Mỹ, Anh, Đức, Áo; Mô hình dựa vào cơ quan thi hành án chuyên trách
thuộc nhánh hành pháp (Public sector specialist enforcement) nhƣ ở Nga, các
nƣớc thuộc Liên Xô cũ, Phần Lan, Thụy Điển và mô hình thi hành án tƣ nhân
và bán tƣ nhân (Private or quarsi-private sector specialist enforcement) nhƣ ở
Pháp, Bỉ, Hà Lan [37]. Mỗi mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự
có đặc điểm và cách vận hành khác nhau, việc nghiên cứu tổ chức và hoạt
động ở các nƣớc trên thế giới giúp chúng ta có thêm những kinh nghiệm và
bài học trong việc xây dựng và vận hành tổ chức, hoạt động thi hành án dân
sự ở Việt Nam.
1.5.1. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Pháp
Thi hành án dân sự tại Pháp cũng giống ở Việt Nam đều do Bộ Tƣ pháp
thống nhất quản lý, tuy nhiên, nếu nhƣ ở Việt Nam, hệ thống cơ quan thi hành
án dân sự trực thuộc Bộ Tƣ pháp (từ trung ƣơng là Tổng cục thi hành án dân
sự đến các địa phƣơng là Cục thi hành án dân sự và Chi cục thi hành án dân
sự) cùng các Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền thi hành phần dân sự
trong các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì tại pháp
Thừa phát lại có thẩm quyền trực tiếp thi hành các bản án, quyết định dân sự
một cách độc lập; các Văn phòng Thừa phát lại, Công ty Thừa phát lại đƣợc
tổ chức và hoạt động theo mô hình của Công ty thƣơng mại, tự chịu trách
nhiệm về kinh phí hoạt động bằng các khoản thù lao do các bên yêu cầu thi
hành án chi trả, Nhà nƣớc không phải chi trả bất cứ khoản phí nào cho hoạt
34
động của Thừa phát lại.
Thừa phát lại ở Pháp đƣợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở quy định có
trong nội dung các văn bản quan trọng bao gồm:
- Pháp lệnh số 452592 ngày 02/11/1945 quy định thẩm quyền theo nội
dung của Thừa phát lại và tổ chức hành nghề Thừa phát lại;
- Nghị định số 56.222 ngày 29/02/1956 hƣớng dẫn áp dụng Pháp lệnh
số 452592 ngày 02/11/1945. Nghị định này quy định về: Thẩm quyền theo
lãnh thổ; hoạt động hỗ trợ phiên tòa; hoạt động bổ trợ; chế độ kế toán; tổ
chức, hiệp hội; chế độ danh dự; tổ chức nghề nghiệp; thành phần và hoạt động
của các cơ quan quản lý nghề nghiệp; quỹ cho vay;
- Nghị định số 92984 ngày 09/9/1992 về các điều kiện bổ nhiệm thƣ ký
Thừa phát lại - những ngƣời đƣợc ủy quyền tiến hành lập vi bằng;
- Nghị định 75770 ngày 14/8/1975 về các điều kiện hành nghề Thừa
phát lại và các phƣơng thức thành lập, chuyển nhƣợng và xóa bỏ vị trí hành
nghề Thừa phát lại và một số chức vụ bổ trợ tƣ pháp. Nghị định này quy định
về: Các điều kiện về trình độ, năng lực; tập sự hành nghề; thi sát hạch chuyên
môn; bổ nhiệm vị trí hành nghề Thừa phát lại; thành lập, chuyển nhƣợng và
xóa bỏ vị trí hành nghề Thừa phát lại;
- Nghị định số 90.1290 ngày 21/12/1990 về các điều kiện hành nghề có
quy chế công lại (Cộng đồng Châu âu);
- Nghị định số 69-1274 ngày 31/12/1969 hƣớng dẫn thi hành Luật về
các công ty nghề nghiệp có Thừa phát lại thành lập;
- Nghị định số 921448 ngày 30/12/1992 hƣớng dẫn áp dụng Luật cho
phép Thừa phát lại thành lập công ty hành nghề tự do.
Theo đó: Thừa phát lại là ngƣời hành nghề tự do, là ngƣời duy nhất có
thẩm quyền thi hành án, họ độc lập hoàn toàn với cơ quan quyền lực nhà nƣớc
khi tiến hành hoạt động thi hành án, Thừa phát lại không nằm trong bất cứ
35
một cơ quan hành chính nào hay đồng nghĩa họ không phải phải tuân thủ bất
cứ sự chi phối nào từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ngoài pháp luật và
chính bản thân họ nhƣng phải chịu trách nhiệm trƣớc Tòa án, cơ quan quản lý
nghề nghiệp hoặc trƣớc Viện công tố; Thừa phát lại đƣợc sử dụng quyền lực
công khi thực hiện một công việc với tƣ cách Chấp hành viên, trong trƣờng
hợp cần thiết họ đƣợc quyền yêu cầu sự hỗ trợ từ các lực lƣợng vũ trang công
quyền, đây là lực lƣợng duy nhất tại Pháp đƣợc thực hiên quyền yêu cầu đó;
ngoài ra, Thừa phát lại còn đƣợc thực hiện các hoạt động bổ trợ tƣ pháp khác
nhƣ tiến hành bán đấu giá các tài sản là động sản; lập vi bằng theo yêu cầu
của các cá nhân; đại diện cho các bên trƣớc Tòa trong một số trƣờng hợp.
Về tổ chức, hệ thống Thừa phát lại ở Pháp đƣợc thiết lập theo ba cấp
gồm: Hội đồng Thừa phát lại tỉnh, Hội đồng Thừa phát lại vùng, Hội đồng
Thừa phát lại Quốc gia.
- Hội đồng Thừa phát lại tỉnh là tập hợp tất cả các Thừa phát lại trong
cùng một tỉnh. Hội đồng Thừa phát lại tỉnh đại diện cho toàn bộ Thừa phát lại
của tỉnh trƣớc các cơ quan hành chính và tƣ pháp; có quyền kỷ luật đối với
các Thừa phát lại trong toàn tỉnh.
- Hội đồng Thừa phát lại vùng đƣợc thành lập bên cạnh các Tòa án
phúc thẩm. Hội đồng vùng có nhiệm vụ đại diện cho toàn bộ Thừa phát lại
trong phạm vi quản hạt của Tòa án phúc thẩm đối với những vấn đề liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp chung của các Thừa phát lại đó. Hội đồng vùng
bổ sung cho hoạt động của Hội đồng tỉnh chứ không phải là cơ quan cấp trên
của Hội đồng tỉnh.
- Hội đồng Thừa phát lại Quốc gia có 35 thành viên, mỗi thành viên đại
diện cho quản hạt của một Tòa án phúc thẩm, trừ đại diện Hội đồng Thừa phát
lại Paris có 02 đại diện. Hội đồng Thừa phát lại Quốc gia thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ nhƣ: tổ chức đào tạo nhân viên và ngƣời tập sự, bồi dƣỡng
36
nghiệp vụ cho Thừa phát lại; quản lý các cơ quan chi trả bảo hiểm xã hội và
hƣu trí của Thừa phát lại và nhân viên của Thừa phát lại; đại diện cho các
Thừa phát lại Pháp ở nƣớc ngoài và các tổ chức quốc tế; quảng bá nghề Thừa
phát lại bên cạnh các cơ quan báo chí trong nƣớc và các tổ chức kinh tế, khoa
học lớn của đất nƣớc; quan hệ với đại diện các nghề tự do khác; phát triển
hoạt động trên cơ sở tìm kiếm các lĩnh vực hoạt động mới; tổ chức hội thảo,
tọa đàm, buổi nói chuyện và Đại hội Thừa phát lại hằng năm.
Về hoạt động thi hành án dân sự: Thừa phát lại thực hiện việc tƣ vấn
đối với những ngƣời có quyền cũng nhƣ những ngƣời có nghĩa vụ, đây là hoạt
động mang tính nghĩa vụ, bắt buộc; Thừa phát lại thỏa thuận với ngƣời có
quyền về việc lựa chọn thủ tục để thi hành án và trực tiếp chỉ đạo việc thực
hiện thủ tục đó. Thủ tục thi hành án đƣợc hiểu theo nghĩa rất rộng từ các công
việc chuẩn bị cho việc thi hành án cho đến khi kết thúc. Trong quá trình thi
hành án, Thừa phát lại có quyền thực hiện các công việc mà pháp luật hoặc
Thẩm phán có thẩm quyền cho phép, có quyền yêu cầu sự trợ giúp của các lực
lƣợng công để thực hiện việc thi hành án nếu cần thiết [38, tr.21].
1.5.2. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Trung Quốc
Về tổ chức, đơn vị thi hành án đƣợc tổ chức nhƣ một đơn vị riêng rẽ
trong hệ thống tòa án nhân dân các cấp tại Trung Quốc; Thẩm phán phụ trách
đơn vị thi hành án chịu trách nhiệm về công việc của đơn vị và chỉ xếp dƣới
Chánh án trong hệ thống thứ bậc nội bộ của Tòa án; các Tòa án cấp trên phải
thành lập một bộ phận có trách nhiệm quản lý, giám sát thi hành án của các
Tòa án cấp dƣới. Cơ bản, tổ chức của đơn vị thi hành án dân sự đƣợc chia
thành ba bộ phận chịu trách nhiệm thực hiện các chức năng khác nhau: (1)
Chịu trách nhiệm nghiên cứu và lập kế hoạch công tác thi hành án, tổ chức
các cuộc họp, điều tra, nghiên cứu các vấn đề pháp luật, giải quyết các vấn đề
khác nhau về thi hành án, chuẩn bị công văn và khảo sát thực tiễn, liên hệ với
37
các phòng ban chính quyền; (2) Chịu trách nhiệm thi hành các bản án đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án sở tại và của Tòa án địa phƣơng khác ủy thác
thi hành, thi hành các quyết định của Trong tài; (3) Chịu trách nhiệm với các
cơ quan có liên quan trong việc tổ chức thi hành án.
Về hoạt động, theo quy định của Luật tố tụng dân sự, thời hiệu yêu cầu
thi hành án là 02 năm kể từ ngày ngƣời đƣợc thi hành án có quyền thi hành án
(Điều 205); Tòa án sẽ gửi yêu cầu thi hành án cho ngƣời phải thi hành án, nếu
trong thời hạn đƣợc ấn định, ngƣời phải thi hành án không thi hành án thì Tòa
án sẽ áp dụng các biện pháp cƣỡng chế (Điều 216); ngƣời phải thi hành án
phải cung cấp một bản kê khai tài sản, nếu ngƣời phải thi hành án không cung
cấp thì Tòa án có quyền điều tra, phong tỏa và chuyển giao số tiền đang
phong tỏa trong tài khoản tại Ngân hàng, các tổ chức tín dụng hoặc tổ chức
nhận tiền gửi khác (Điều 218); Tòa án có quyền ra quyết định khấu trừ thu
nhập của ngƣời phải thi hành án, nhƣng phải để lại cho ngƣời phải thi hành án
đủ thu nhập để sinh sống và chu cấp cho ngƣời phụ thuộc (Điều 219); Tòa án
có quyền phong tỏa, kê biên, bán đấu giá một phần hoặc toàn bộ tài sản của
ngƣời phải thi hành án (Điều 220); trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án che
giấu tài sản Tòa án có thể ra lệnh khám xét (Điều 224) hoặc triệu tập đƣơng
sự buộc phải nộp các giấy tờ có giá hoặc tài sản có thể đƣợc chuyển giao bằng
giấy tờ (Điều 225); sau khi gửi thông báo theo quy định, Tòa án có thể buộc
ngƣời phải thi hành án rời khỏi nhà hoặc khu đất (Điều 226); ngƣời nào chậm
trễ thanh toán tiền hoặc chuyển giao tài sản có thể bị buộc phải trả gấp đôi
tiền lãi trên số nợ hoặc bị phạt tiền do chậm thực hiện thanh toán (Điều 229);
đối với ngƣời không chấp hành biện pháp cƣỡng chế, Tòa án có thể thông báo
với cơ quan hữu quan để hạn chế quyền ra nƣớc ngoài của ngƣời đó, nêu
thông tin của ngƣời đó trên hệ thống tín dụng hoặc công bố việc ngƣời đó
không chấp hành biện pháp cƣỡng chế trên các phƣơng tiện thông tin đại
38
chúng (Điều 231).
1.5.3. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Đức
Ở Đức, hoạt động thi hành án dân sự do Chấp hành viên đảm nhiệm.
Chấp hành viên là công chức hạng trung, là một mắt xích độc lập trong hệ
thống các cơ quan bảo vệ pháp luật, đƣợc tổ chức theo quản hạt của các
Tòa án quận nhƣng không nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án; Phòng
Lục sự của Tòa án tiếp nhận các yêu cầu thi hành án và phân công cho
Chấp hành viên thực hiện; Chấp hành viên chịu sự giám sát nghiệp vụ của
Thẩm phán đƣợc phân công; Chấp hành viên có trụ sở riêng, con dấu riêng,
tự chịu trách nhiệm về chi phí hoạt động của trụ sở và giao dịch dƣới tên
gọi, chức danh của mình.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Chấp hành viên có trách nhiệm
Giao văn kiện, giấy tờ cho các bên đƣơng tụng trong vụ án dân sự theo yêu
cầu của một bên; Lập chứng thƣ phản đối (việc chuẩn nhận hay trả tiền) các
hối phiếu; Giao chứng thƣ thể hiện yêu cầu, ý chí của ngƣời triệu dụng cho
một ngƣời khác; Tổ chức thi hành án đối với các bản án mà luật quy định do
Chấp hành viên thi hành theo yêu cầu của ngƣời đƣợc thi hành án. Bên cạnh
đó, Chấp hành viên đƣợc quyền kê biên, bán đấu giá động sản, các giấy tờ có
giá; yêu cầu trả lại đồ vật; bắt giữ ngƣời phải thi hành án để buộc cam kết
thực hiện; khám nhà, khám nơi để tài sản của ngƣời phải thi hành án; đƣợc
dùng vũ lực khi gặp phải sự chống đối bằng cách yêu cầu lực lƣợng cảnh sát
hỗ trợ; đƣợc thu lệ phí theo mức pháp luật quy định. Phí thi hành án do bên
phải thi hành án chi trả, tuy nhiên, khi cƣỡng chế thi hành án không có kết
quả thì bên triệu dụng chấp hành viên phải chi trả lệ phí [38, tr.29].
1.5.4. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Nhật Bản
Ở Nhật Bản, không có cơ quan hành chính riêng quản lý về công tác thi
hành án dân sự, hoạt động thi hành án dân sự do “Tòa thi hành án” (Shikko
39
saibansho) và “Chấp hành viên” (Shikkokan) đảm nhiệm.
Tòa thi hành án đơn giản là tòa án quận khi tòa án này thực hiện nhiệm
vụ thi hành án. Tòa án ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành dƣới sự
hỗ trợ của Chấp hành viên. Chấp hành viên là viên chức tòa án, trực tiếp thực
hiện các thủ tục thi hành án và tống đạt giấy tờ của Tòa án. Chấp hành viên
đƣợc bố trí làm việc tại các Tòa án quận, chịu sự giám sát của một Thẩm pháp
đƣợc chỉ định giám sát các Chấp hành viên (theo Điều 5, Điều 6 Quy chế của
Tòa án tối cao số 10 năm 1966). Chấp hành viên giúp Tòa thực hiện tất cả các
loại thi hành án (Điều 64 Luật thi hành án dân sự), thi hành án đối với các tài
sản hữu hình (Điều 86 Bộ luật dân sự), bao gồm giấy tờ có giá trị, thu và giữ
tài sản cụ thể bao gồm cả động sản và bất động sản (Điều 122, Điều 168-169
Luật thi hành án dân sự). Chấp hành viên không nhận lƣơng cố định mà nhận
thù lao tính trên phí thi hành các vụ việc.
Về cơ bản, cơ quan thi hành án không buộc ngƣời phải thi hành án trực
tiếp thực hiện các nghĩa vụ thi hành án của mình. Thay vào đó, cơ quan thi hành
án trong khả năng tối đa có thể, cố gắng đảm bảo để ngƣời đƣợc thi hành án đạt
đƣợc mục đích của mình mà không cần có sự hỗ trợ của ngƣời phải thi hành án.
Nếu nghĩa vụ thi hành án là trả tiền hoặc giao tài sản, thì cơ quan thi hành án sẽ
bán tài sản của ngƣời phải thi hành án và trả tiền cho ngƣời đƣợc thi hành án.
Thi hành án kiểu này gọi là cƣỡng chế trực tiếp (Chokusetsu kyosei).
Trong trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án có nghĩa vụ thực hiện một công
việc nào đó hoặc không đƣợc thực hiện một công việc nào đó thì pháp luật vẫn
quy định tránh cƣỡng chế nhân thân. Một nghĩa vụ mà có thể do ngƣời khác thực
hiện, không nhất thiết phải do chính ngƣời phải thi hành án thực hiện thì sẽ đƣợc
thực hiện thông qua đại diện thi hành – việc thi hành do ngƣời thứ ba thực hiện,
chi phí đƣợc trích từ tiền bán tài sản của ngƣời phải thi hành án để đảm bảo
(Điều 171 Luật thi hành án dân sự). Trƣờng hợp nghĩa vụ bắt buộc phải do
ngƣời phải thi hành án thực hiện thì cơ quan thi hành án sẽ áp dụng biện pháp
40
cƣỡng chế gián tiếp (kansetsu kyosei) theo quy định tại Điều 172 Luật thi hành
án dân sự, theo đó, buộc ngƣời phải thi hành án phải trả cho ngƣời đƣợc thi hành
án một khoản tiền tƣơng ứng với nghĩa vụ mà họ phải thực hiện.
Ngoài ra, pháp luật thi hành án dân sự Nhật Bản không có chế tài theo
hƣớng “hình sự hóa” các hành vi không thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự.
* Tóm lại, tùy thuộc vào tình hình phát triển kinh tế, văn hóa pháp lý,
các yếu tố về con ngƣời, … mà ở các quốc gia, tổ chức và hoạt động thi hành
án dân sự có những đặc trƣng riêng.
Qua nghiên cứu, có thể thấy rằng, so với các quốc gia trên thế giới, tổ
chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nƣớc ta hiện nay đƣợc đƣợc thực hiện
một cách linh hoạt. Về cơ bản, tổ chức cơ quan thi hành án dân sự theo mô
hình dựa vào cơ quan thi hành án chuyên trách thuộc nhánh hành pháp
(Public sector specialist enforcement). Trong đó, đóng vai trò trung tâm trong
hệ thống cơ quan thi hành án dân sự là các Chấp hành viên. Chấp hành viên ở
Việt Nam có chức năng, nhiệm vụ gần tƣơng tự với Chấp hành viên hoặc
Thừa phát lại ở các quốc gia trên thế giới.
Bên cạnh đó, theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, sau khi có sự
đồng thuận của Quốc hội, từ 01/7/2009, chế định Thừa phát lại đƣợc triển
khai thí điểm, cho đến ngày 01/01/2016 đƣợc triển khai trên cả nƣớc và đóng
góp đƣợc những kết quả quan trọng.
Sự kết hợp linh hoạt giữa hệ thống cơ quan thi hành án dân sự chuyên
trách thuộc nhánh hành pháp và hệ thống các Văn phòng Thừa phát lại (Thi
hành án dân sự tƣ nhân) là phù hợp với điều kiện, yêu cầu thực tiễn trong
công tác thi hành án dân sự nói riêng và công tác bổ trợ tƣ pháp nói chung ở
nƣớc ta hiện nay. Đây là sự nghiên cứu, kế thừa những kinh nghiệp quý báu
của các quốc gia trên thế giới (trong đó có các quốc gia nhƣ Pháp, Trung
Quốc, Nhật Bản, Đức nhƣ trong nội dung nghiên cứu) và cũng là đặc trƣng
41
riêng của thi hành án dân sự Việt Nam.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự là hai lĩnh vực chính trong thi
hành án dân sự, hoạt động đƣa các bản án, quyết định về dân sự ra thi hành
trên thực tế, nhằm hiện thực hóa quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc
thi hành án đã đƣợc xác định trong các bản án, quyết định; đóng vai trò quan
trọng trong việc xây dựng niềm tin của ngƣời dân đối với Nhà nƣớc, bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc và các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Trên thế giới, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự đƣợc tổ chức
theo nhiều mô hình khác nhau nhƣng dù ở mô hình nào thì hiệu quả của thi
hành án dân sự luôn phụ thuộc vào hai yếu tố đó là con ngƣời thi hành án
(một bộ phận của tổ chức) và thủ tục thi hành án (hoạt động thi hành án). Ở
Việt Nam, thi hành án dân sự mặc dù có lịch sử ngắn hơn nhiều quốc gia trên
thế giới nhƣng quá trình hình thành và phát triển thi hành án dân sự ở nƣớc ta
đã trả qua thời gian khá dài; tổ chức và hoạt động của các Chi cục thi hành án
dân sự đƣợc xác định sau khi Luật thi hành án dân sự đƣợc ban hành và có
hiệu lực thi hành.
Chƣơng 1 của Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về tổ
chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự nhƣ khái niệm, nguyên tắc,
lƣợc sử hình thành và phát triển; tình hình tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự ở nƣớc ta hiện nay và mô hình tổ chức và hoạt động của một số quốc
42
gia trên thế giới.
Chương 2
PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI CỤC THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Pháp luật về tổ chức của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt
Nam hiện nay
Cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan nhà nƣớc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn trong việc thi hành các bản án, quyết định dân sự. Ở nƣớc ta hiện
nay, theo quy định tại Điều 13 Luật THADS SĐBS 2014, hệ thống cơ quan
thi hành án dân sự gồm: cơ quan quản lý thi hành án (gồm: cơ quan quản lý
thi hành án dân sự thuộc Bộ Tƣ pháp và cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ
Quốc phòng) và cơ quan thi hành án (gồm: cơ quan thi hành án dân sự tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ƣơng gọi chung là cơ quan thi hành án dân sự cấp
tỉnh; cơ quan thi hành án dân sự quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh
gọi chung là cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; cơ quan thi hành án quân
khu và tƣơng đƣơng); các cơ quan thi hành án dân sự chịu sự quản lý, chỉ đạo
thống nhất, tập trung của Chính phủ, Bộ Tƣ pháp và bảo đảm sự chỉ đạo của
Ủy ban nhân dân các cấp.
Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện (theo quy định tại điểm c,
khoản 1 Điều 52 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính
phủ Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số Điều Luật thi hành án
dân sự thì Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có tên gọi chung là Chi cục
thi hành án dân sự) nói riêng và cơ quan thi hành án dân sự nói chung mặc
dù chịu sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của các cơ quan quản lý thi hành án
theo ngành dọc nhƣng hoạt động của các cơ quan thi hành án có tính độc lập
tƣơng đối nhằm bảo đảm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, quyết
43
định của Trọng tài và quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh. Tổ chức của Chi cục thi hành án dân sự theo quy định
tại khoản 2 Điều 6 Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của
Thủ tƣớng Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu
tổ chức của Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tƣ pháp, gồm có:
Chi cục trƣởng đồng thời là Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự, Phó Chi
cục trƣởng đồng thời là Phó thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp
hành viên trung cấp, Chấp hành viên sơ cấp, Thẩm tra viên thi hành án, Thƣ
ký thi hành án và công chức khác.
2.1.1. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
2.1.1.1. Về tiêu chuẩn
Thủ trƣởng, Phó Thủ trƣởng Chi cục thi hành án dân sự phải là Chấp
hành viên (theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật THADS SĐBS 2014),
ngoài ra còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định tại Thông tƣ số
02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của Bộ Tƣ pháp Hƣớng dẫn một số nội
dung quản lý công chức, viên chức, ngƣời lao động thuộc hệ thống tổ chức thi
hành án dân sự, gồm:
- Có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tƣởng
cách mạng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; có ý
thức đấu tranh bảo vệ quan điểm, đƣờng lối của Đảng; pháp luật của Nhà
nƣớc. Lãnh đạo và thực hiện tốt các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nƣớc;
- Gƣơng mẫu về đạo đức, lối sống, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tƣ; không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí; có tác phong làm việc dân chủ, gắn bó chặt chẽ
với nhân dân, thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định của cơ quan, đơn vị
và đáp ứng các Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên
44
chức ngành Tƣ pháp;
- Có tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao; có tinh thần
học hỏi, nghiên cứu, sáng tạo, năng động, hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao.
- Có ý thức và khả năng nghiên cứu, hiểu biết về tình hình chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nƣớc; đƣợc đào
tạo và có kiến thức cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học;
- Có khả năng quy tụ; tập hợp đƣợc sức mạnh của toàn thể công chức,
viên chức, ngƣời lao động trong cơ quan, đơn vị và phối hợp tốt với các cơ
quan, tổ chức có liên quan thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao;
- Bản thân và gia đình gƣơng mẫu thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc. Không lạm dụng chức vụ, quyền
hạn và để ngƣời thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình mƣu lợi riêng;
- Có chứng chỉ ngoại ngữ với trình độ tƣơng đƣơng bậc 2 khung năng
lực ngoại ngữ Việt Nam theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào
tạo; đối với những công chức đang làm việc ở vùng dân tộc thiểu số, có văn
bằng, chứng chỉ đào tạo, bồi dƣỡng tiếng dân tộc thiểu số do cơ sở đào tạo
cấp theo thẩm quyền hoặc công chức là ngƣời dân tộc thiểu số đang làm việc
ở vùng dân tộc thiểu số thì không bắt buộc phải có tiêu chuẩn ngoại ngữ nêu
trên; có chứng chỉ tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ
thông tin cơ bản theo quy định hiện hành của Bộ Thông tin và Truyền thông.
2.1.1.2. Về nhiệm vụ và quyền hạn
Thủ trƣởng Chi cục thi hành án dân sự chịu trách nhiệm trƣớc Cục
trƣởng Cục Thi hành án dân sự và trƣớc pháp luật trong việc lãnh đạo, quản
lý, chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động của Chi cục Thi hành án dân sự; bảo
đảm để Chi cục Thi hành án dân sự hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đƣợc
giao, theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật THADS SĐBS 2014 có nhiệm
vụ và quyền hạn sau:
45
- Ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền đối với các bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh và tƣơng đƣơng nơi Chi cục thi hành dân sự có trụ sở; bản án, quyết định
phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng đối với
các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng nơi Chi cục thi hành dân sự có trụ sở;
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với các
bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng nơi Chi cục thi hành dân sự có trụ sở; bản án,
quyết định do Chi cục thi hành án dân sự khác, Cục thi hành án dân sự hoặc
cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác (theo quy định tại khoản 1 Điều 35
Luật THADS SĐBS 2014);
- Quản lý, chỉ đạo hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự (ví dụ:
phân công Chấp hành viên giải quyết hồ sơ, hƣớng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra
việc giải quyết hồ sơ của Chấp hành viên, phân công nhiệm vụ đối với các
chức danh khác, công chức trong Chi cục, …);
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp tổ chức thi hành án (ví
dụ: yêu cầu cung cấp thông tin theo quy định, đề nghị các cơ quan, phòng,
ban chuyên môn tham gia phối hợp cƣỡng chế, thẩm định giá trị tài sản thi
hành án, …);
- Yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng băn bản
những điểm chƣa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án, quyết định
đó để thi hành;
- Kiến nghị ngƣời có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật;
- Trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát; giải quyết khiếu nại,
tố cáo về thi hành án, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị
cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính
46
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời vi phạm;
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên;
- Tổ chức thực hiện chế độ báo cáo, thống kê thi hành án.
Ngoài ra, Thủ trƣởng Chi cục thi hành án dân sự theo quy định tại Điều
17 Thông tƣ số 02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của Bộ Tƣ pháp Hƣớng dẫn
một số nội dung quản lý công chức, viên chức, ngƣời lao động thuộc hệ thống
tổ chức thi hành án dân sự còn có các chức năng, nhiệm vụ sau: Lãnh đạo, chỉ
đạo toàn diện đơn vị trong việc tổ chức triển khai thực hiện chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Chi cục Thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật;
thực hiện phân công, hƣớng dẫn, kiểm tra, đôn đốc công chức, ngƣời lao động
hoàn thành nhiệm vụ; lãnh đạo đơn vị tổ chức thực hiện các chủ trƣơng, đề
án, kế hoạch, chƣơng trình công tác; sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đƣợc
giao; trên cơ sở thực tiễn công tác, đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở địa phƣơng; thực hiện các
nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật, theo chỉ đạo của Cục trƣởng Cục
Thi hành án dân sự và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phƣơng.
Phó Thủ trƣởng Chi cục thi hành án dân sự ngoài thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn theo sự phân công hoặc ủy quyền của Thủ trƣởng Chi cục thi hành
án dân sự và chịu trách nhiệm trong phạm vi công việc đƣợc giao (khoản 2
Điều 23 Luật THADS SĐBS 2014) còn thực hiện các chức trách, nhiệm vụ
sau: Tổ chức thực hiện các công việc chuyên môn, nghiệp vụ theo phân công
hoặc ủy quyền của Chi cục trƣởng; Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc công chức,
ngƣời lao động thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực đƣợc phân công phụ
trách; Tham mƣu, đề xuất với Chi cục trƣởng các chủ trƣơng, biện pháp quản
lý nhà nƣớc liên quan đến lĩnh vực, địa bàn đƣợc phân công phụ trách và các
lĩnh vực khác thuộc phạm vi quản lý của Chi cục trƣởng; Thực hiện các
47
nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chi cục trƣởng.
2.1.1.3. Về việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức
Theo quy định tại Thông tƣ số 02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của
Bộ Tƣ pháp Hƣớng dẫn một số nội dung quản lý công chức, viên chức, ngƣời
lao động thuộc hệ thống tổ chức thi hành án dân sự thì:
Việc bổ nhiệm Chi cục trƣởng (Thủ trƣởng) và Phó Chi cục trƣởng
(Phó Thủ trƣởng) Chi cục thi hành án dân sự đƣợc thực hiện theo các bƣớc
quy định tại Điều 39 và Điều 40; theo đó, Tổng cục trƣởng có thẩm quyền
phê duyệt quyết định bổ nhiệm đối với Chi cục trƣởng Chi cục thi hành án
dân sự còn Cục trƣởng có thẩm quyền phê duyệt quyết định bổ nhiệm đối
với Phó Chi cục trƣởng Chi cục thi hành án dân sự trực thuộc. Trƣờng hợp
đơn vị thay đổi tên gọi thì Tổng cục trƣởng xem xét, quyết định bổ nhiệm
Chi cục trƣởng; Cục trƣởng xem xét, quyết định bổ nhiệm Phó Chi cục
trƣởng theo tên gọi đơn vị mới (Điều 41). Trƣờng hợp chƣa có nhân sự đáp
ứng tiêu chuẩn bổ nhiệm Chi cục trƣởng Chi cục Thi hành án dân sự, Tổng
Cục trƣởng quyết định giao quyền cấp trƣởng hoặc giao phụ trách Chi cục
Thi hành án dân sự; Cục trƣởng Cục Thi hành án dân sự tổ chức hội nghị tập
thể lãnh đạo Cục để thảo luận, lựa chọn giới thiệu nhân sự để trình Tổng
Cục trƣởng giao quyền cấp trƣởng hoặc giao phụ trách Chi cục Thi hành án
dân sự báo cáo Tổng Cục trƣởng; Trƣờng hợp giao quyền cấp trƣởng, Cục
Thi hành án dân sự ký Công văn trao đổi, lấy ý kiến bằng văn bản của cấp
ủy cấp huyện về nhân sự dự kiến (Điều 42).
Việc bổ nhiệm lại Chi cục trƣởng (Thủ trƣởng) và Phó Chi cục trƣởng
(Phó Thủ trƣởng) Chi cục thi hành án dân sự phải đƣợc thực hiện chậm nhất
là 90 ngày tính đến ngày hết thời hạn giữ chức vụ lãnh đạo theo quy định, cấp
có thẩm quyền theo phân cấp quản lý công chức, viên chức. Quyết định bổ
nhiệm lại công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo phải đƣợc thực hiện
48
trƣớc ít nhất 01 ngày làm việc, tính đến ngày hết thời hạn bổ nhiệm. Trƣờng
hợp vì lý do khách quan mà chƣa thực hiện xong thì cấp có thẩm quyền quyết
định việc kéo dài thời gian thực hiện nhiệm vụ (Điều 44). Để đƣợc bổ nhiệm
lại, trong nhiệm kỳ, Chi cục trƣởng (Thủ trƣởng) và Phó Chi cục trƣởng (Phó
Thủ trƣởng) Chi cục thi hành án dân sự phải đáp ứng đƣợc các yêu cầu sau:
Hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; Không có
công chức cấp dƣới có sai phạm nghiêm trọng liên quan trực tiếp đến phạm vi
quản lý, chỉ đạo, điều hành trong thời gian giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; Đáp
ứng tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo đƣợc quy định tại thời điểm xem xét, bổ
nhiệm lại và yêu cầu công tác trong thời gian tiếp theo; Đủ sức khoẻ để hoàn
thành nhiệm vụ và chức trách đƣợc giao; Cơ quan, đơn vị có nhu cầu; Chƣa
đảm nhiệm đủ thời gian hai nhiệm kỳ liên tiếp chức vụ lãnh đạo, quản lý đang
đƣợc xem xét bổ nhiệm lại; trƣờng hợp đặc biệt do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp
xem xét, quyết định; Bảo đảm các điều kiện khác theo quy định của Đảng và
Nhà nƣớc về công tác cán bộ (Điều 43).
Chi cục trƣởng (Thủ trƣởng) và Phó Chi cục trƣởng (Phó Thủ trƣởng)
Chi cục thi hành án dân sự trong thời gian giữ chức vụ, nếu công chức, viên
chức lãnh đạo thấy không đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ hoặc có
nguyện vọng xin từ chức vì lý do khác theo quy định của pháp luật về công
chức, viên chức thì làm đơn xin từ chức(Điều 46); trƣờng hợp do nhu cầu
công tác hoặc trong các trƣờng hợp sức khỏe không bảo đảm, hoặc không
hoàn thành nhiệm vụ, hoặc vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà
nƣớc nhƣng chƣa đến mức bị thi hành kỷ luật bằng hình thức cách chức, hoặc
các trƣờng hợp khác theo quy định của pháp luật về công chức, viên chức thì
cấp có thẩm quyền xem xét miễn nhiệm và bố trí công tác khác mà không chờ
hết thời hạn bổ nhiệm (Điều 47).
2.1.2. Chấp hành viên
49
Thi hành án dân sự là quá trình kéo dài, có sự tham gia của nhiều cá
nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, trong đó Chấp hành viên là chủ thể tham
gia vào hầu hết các giai đoạn của quá trình thi hành án, đóng vai trò tổ chức
trong quá trình thi hành án.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật THADS SĐBS 2014 thì “Chấp
hành viên là ngƣời đƣợc Nhà nƣớc giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết
định theo quy định của Điều 2 của Luật này. Chấp hành viên có ba ngạch là
Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao
cấp”. Nhƣ vậy, Chấp hành viên là công chức nhà nƣớc, hƣởng lƣơng từ ngân
sách nhà nƣớc; là ngƣời đƣợc bổ nhiệm theo tiêu chuẩn do pháp luật quy định
để thực hiện quyền lực nhà nƣớc trong việc thi hành các bản án, quyết định
dân sự; Chấp hành viên chịu sự quản lý của Thủ trƣởng cơ quan thi hành án
dân sự nhƣng trong việc tổ chức thi hành án Chấp hành viên có vị trí tƣơng
đối độc lập, họ chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về
việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, không chịu sự chi phối của
bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Chấp hành viên là chức danh đƣợc bổ
nhiệm không theo nhiệm kỳ mà theo ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp,
Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp; theo đó, tùy thuộc vào
ngạch đƣợc bổ nhiệm, chấp hành viên đƣợc giao tổ chức thi hành các vụ việc
có tính chất phức tạp, giá trị tài sản phải tổ chức thi hành tƣơng ứng; điều này
vừa phát huy đƣợc vai trò của Chấp hành viên trong tổ chức thi hành án,
thuận lợi trong việc quản lý đội ngũ Chấp hành viên, vừa hạn chế đƣợc những
bất cập trong việc luân chuyển, điều động Chấp hành viên trong hệ thống tổ
chức thi hành án.
Chấp hành viên tại Chi cục thi hành án dân sự là Chấp hành viên sơ cấp
và Chấp hành viên trung cấp.
Đối với việc bổ nhiệm Chấp hành viên, theo quy định tại Luật THADS
50
SĐBS 2014 thì điều kiện chung để đƣợc bổ nhiệm vào ngạch Chấp hành viên
là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có
phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn
thành nhiệm vụ đƣợc giao thì có thể đƣợc bổ nhiệm làm Chấp hành viên
(khoản 1 Điều 18). Riêng đối với ngạch Chấp hành viên sơ cấp thì phải đáp
ứng thêm các điều kiện: có thời gian công tác pháp luật từ 03 năm trở lên, đã
đƣợc đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự và đã trúng tuyển kỳ thi Chấp hành
viên sơ cấp (khoản 2 Điều 18). Đối với trƣờng hợp giữ ngạch Chấp hành viên
sơ cấp trên 05 năm và trúng tuyển kỳ thi Chấp hành viên trung cấp đủ điều
kiện để xem xét bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp (khoản 3 Điều 18).
Các nội dung về việc tổ chức thi tuyển và bổ nhiệm Chấp hành viên sơ
cấp đƣợc quy định cụ thể tại các Điều từ Điều 49 đến Điều 62 Thông tƣ số
02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của Bộ Tƣ pháp Hƣớng dẫn một số nội
dung quản lý công chức, viên chức, ngƣời lao động thuộc hệ thống tổ chức thi
hành án dân sự. Ngoài ra, các trƣờng hợp theo quy định tại khoản 6, khoản 7
Điều 18 Luật THADS SĐBS 2014 và Điều 63 Nghị định 62/2015/NĐ-CP
ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một
số Điều của Luật thi hành án dân sự có thể đƣợc xem xét bổ nhiệm Chấp hành
viên không qua thi tuyển.
Việc bổ nhiệm Chấp hành viên thuộc thẩm quyền của Bộ trƣởng Bộ Tƣ
pháp, đồng thời Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp có thẩm quyền cách chức Chấp hành
viên trong trƣờng hợp Chấp hành viên vi phạm quy định của pháp luật trong
quá trình tổ chức thi hành án chƣa tới mức buộc thôi việc hay truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc vi phạm nghiêm trọng quy định những điều Chấp hành
viên không đƣợc làm nhƣng xét thấy cần phải áp dụng hình thức kỷ luật cách
chức Chấp hành viên.
Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên, theo quy định tại Điều 20
Luật THADS SĐBS 2014, Chấp hành viên Chi cục thi hành án dân sự có các
51
nhiệm vụ và quyền hạn:
Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc đƣợc phân công; ra các quyết định về
thi hành án theo thẩm quyền;
Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nƣớc,
quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên;.
- Triệu tập đƣơng sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải
quyết việc thi hành án;
- Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của ngƣời phải thi hành án;
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh
địa chỉ, tài sản của ngƣời phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên
quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án;
- Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cƣỡng
chế thi hành án; lập kế hoạch cƣỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án;
- Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ ngƣời chống đối việc thi hành án
theo quy định của pháp luật;
- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi
phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ
luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
ngƣời vi phạm;
- Quyết định áp dụng biện pháp cƣỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã
chi trả cho đƣơng sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án
và các khoản phải nộp khác;
- Đƣợc sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy
định của Chính phủ;
- Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trƣởng cơ quan
52
thi hành án dân sự.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chấp hành
viên phải tuân thủ các quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trƣớc pháp
luật về thi hành án, đƣợc pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm và uy tín. Cùng với đó, Chấp hành viên không đƣợc làm những việc sau
đây (theo quy định tại Điều 21 Luật THADS SĐBS 2014):
- Những việc mà pháp luật quy định công chức không đƣợc làm;
- Tƣ vấn cho đƣơng sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến
việc thi hành án trái pháp luật;
- Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc
lợi dụng ảnh hƣởng của mình tác động đến ngƣời có trách nhiệm thi hành án;
- Sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án;
- Thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân
và những ngƣời sau đây: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha
nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và
anh, chị, em ruột của Chấp hành viên, của vợ hoặc chồng của Chấp hành viên;
Cháu ruột mà Chấp hành viên là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì;
- Sử dụng thẻ Chấp hành viên, trang phục, phù hiệu thi hành án, công
cụ hỗ trợ để làm những việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc giao;
- Sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án;
- Cố ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định; trì hoãn hoặc kéo dài
thời gian giải quyết việc thi hành án đƣợc giao không có căn cứ pháp luật.
2.1.3. Thẩm tra viên
Thẩm tra viên là công chức làm chuyên môn nghiệp vụ về thi hành án
dân sự, đƣợc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và
pháp luật về thi hành án dân sự, có nhiệm vụ giúp thủ trƣởng cơ quan thi hành
53
án dân sự thực hiện việc thẩm tra, kiểm tra những vụ việc thi hành án đã và
đang thi hành; thẩm tra xác minh các vụ việc có đơn thƣ khiếu nại, tố cáo;
thẩm tra thống kê, báo cáo, dữ liệu thi hành án dân sự và những hồ sơ, tài liệu
khác có liên quan đến công tác thi hành án dân sự, tham mƣu cho thủ trƣởng
cơ quan trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện Kiểm sát nhân dân theo thẩm
quyền và thực hiện các nhiệm vụ khác do thủ trƣởng cơ quan giao.
Về nhiệm vụ, quyền hạn, theo quy định tại Điều 67 Nghị định 62/2015/NĐ-
CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành
một số điều của Luật Thi hành án dân sự, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm tra
viên gồm:
- Thực hiện việc thẩm tra, kiểm tra những vụ việc thi hành án đã và
đang thi hành; thẩm tra xác minh các vụ việc có đơn thƣ khiếu nại, tố cáo theo
sự chỉ đạo của Thủ trƣởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi
hành án dân sự; thẩm tra thống kê, báo cáo, dữ liệu thi hành án dân sự và
những hồ sơ, tài liệu khác có liên quan đến công tác thi hành án dân sự;
- Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan, đơn
vị có liên quan để xác minh, kiểm tra và đề xuất biện pháp giải quyết theo
nhiệm vụ đƣợc phân công;
- Tham mƣu cho Thủ trƣởng cơ quan trả lời kháng nghị, kiến nghị của
Viện Kiểm sát nhân dân theo thẩm quyền;
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ trƣởng cơ quan giao.
Trong thực thi công vụ, Thẩm tra viên không trực tiếp tham gia tổ chức
thi hành án, không có thẩm quyền ra các quyết định về thi hành án, mà làm
nhiệm vụ kiểm tra công tác thi hành án để kịp thời phát hiện các thiếu sót, vi
phạm trong quy trình thủ tục tổ chức thi hành án của Chấp hành viên, thực
hiện nhiệm vụ giải quyết các khiếu nại, tố cáo của đƣơng sự đối với các hoạt
động thi hành án, mà đa số là khiếu nại, tố cáo các văn bản, quyết định, hành
54
vi của Chấp hành viên. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều
68 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy
định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số Điều Luật thi hành án dân sự thì
Thẩm tra viên không đƣợc làm những việc sau:
- Việc mà pháp luật về cán bộ, công chức và pháp luật liên quan khác
quy định không đƣợc làm;
- Thông đồng với đối tƣợng thẩm tra và những ngƣời có liên quan trong
việc thẩm tra, kiểm tra làm sai lệch kết quả thẩm tra, kiểm tra;
- Thẩm tra, kiểm tra khi không có quyết định phân công của ngƣời có
thẩm quyền;
- Can thiệp trái pháp luật vào việc thẩm tra, kiểm tra hoặc lợi dụng ảnh
hƣởng của mình để tác động đến ngƣời có trách nhiệm khi có ngƣời đó thực
hiện nhiệm vụ thẩm tra, kiểm tra;
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thẩm tra, kiểm tra để thực hiện hành vi
trái pháp luật; sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tƣợng thẩm tra,
kiểm tra; bao che cho đối tƣợng thẩm tra, kiểm tra và những ngƣời liên quan;
- Tiết lộ, cung cấp thông tin, tài liệu thẩm tra, kiểm tra cho những
ngƣời không có trách nhiệm khi chƣa có kết luận.
- Thẩm tra viên không đƣợc tham gia thẩm tra, kiểm tra trong trƣờng
hợp liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của những ngƣời sau đây: Vợ,
chồng, con đẻ, con nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội,
ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của Thẩm tra
viên, của vợ hoặc chồng của Thẩm tra viên; cháu ruột mà Thẩm tra viên là
ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.
Về việc bổ nhiệm, cũng giống nhƣ Chấp hành viên, Thẩm tra viên đƣợc
bổ nhiệm không theo nhiệm kỳ mà bổ nhiệm theo ba ngạch là Thẩm tra viên,
Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên cao cấp; ngƣời công tác tại các Chi cục
55
thi hành án dân sự giữ ngạch Thẩm tra viên.
Theo quy định tại Điều 10 Thông tƣ số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017
của Bộ Tƣ pháp Quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ
các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án dân sự thì công chức để đƣợc
bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra viên phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ: Nắm vững đƣờng lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, chỉ thị, nghị quyết của cấp
trên để vận dụng vào công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính;
Nắm vững các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thi hành án
hành chính, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và nghiệp vụ thẩm tra,
kiểm tra thi hành án dân sự, nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo; Nắm
đƣợc tình hình kinh tế, xã hội ở địa phƣơng liên quan đến công tác thi hành
án dân sự; Có năng lực phối hợp với các đơn vị, cá nhân trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ; Nắm vững quy trình giải quyết công việc, có kỹ năng soạn
thảo văn bản và thuyết trình các vấn đề đƣợc giao nghiên cứu, tham mƣu;
Công chức đƣợc đề nghị bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra viên phải đang giữ
ngạch Chuyên viên và tƣơng đƣơng, có thời gian làm công tác pháp luật từ 03
năm (36 tháng) trở lên.
Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dƣỡng: Có trình độ Cử nhân Luật
trở lên; có chứng chỉ bồi dƣỡng nghiệp vụ ngạch Thẩm tra viên theo nội dung
chƣơng trình của Bộ Tƣ pháp; có Chứng chỉ Ngoại ngữ với trình độ tƣơng
đƣơng bậc 2 khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam theo quy định tại Thông tƣ
số 01/2014/TT-BGDĐT hoặc có chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí
yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc; có chứng chỉ Tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ
năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tƣ số
03/2014/TT-BTTTT.
2.1.4. Thư ký thi hành án
56
Chức trách, nhiệm vụ của Thƣ ký thi hành án đƣợc quy định tại Luật
THADS SĐBS 2014, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của
Chính phủ Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số Điều Luật thi hành
án dân sự và đƣợc quy định cụ thể ở Thông tƣ số 03/2017/TT-BTP ngày
05/4/2017 của Bộ Tƣ pháp Quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn
nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án dân sự, theo đó:
Về chức trách, Thƣ ký thi hành án là công chức chuyên môn nghiệp vụ
thi hành án dân sự, có trách nhiệm giúp Chấp hành viên cao cấp, Chấp hành
viên trung cấp thực hiện các trình tự, thủ tục trong công tác thi hành án dân
sự, thi hành án hành chính hoặc giúp Thẩm tra viên cao cấp, Thẩm tra viên
chính thực hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc đã và đang thi hành án,
thẩm tra, xác minh các vụ việc có đơn thƣ khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân
sự theo quy định của pháp luật.
Về nhiệm vụ, Thƣ ký thi hành án thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Giúp Chấp hành viên chuẩn bị hồ sơ, thủ tục, tổ chức thi hành và các
nhiệm vụ liên quan đến công tác thi hành án hành chính theo quy định của
pháp luật hoặc giúp Thẩm tra viên thực hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc
đã và đang thi hành án, thực hiện thẩm tra xác minh các vụ việc có đơn thƣ
khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật;
- Ghi chép biên bản xác minh thi hành án; biên bản giải quyết thi hành
án; biên bản tống đạt; biên bản xử lý vật chứng, tài sản đã kê biên, tạm giữ;
biên bản kê biên tài sản; biên bản họp, biên bản định giá tài sản; biên bản
kiểm tra hiện trạng tài sản; biên bản hủy tang vật; biên bản cƣỡng chế; biên
bản giao nhà đất; biên bản trả tài sản và các biên bản nghiệp vụ khác;
- Giúp Chấp hành viên, Thẩm tra viên tống đạt giấy tờ thi hành án;
- Thực hiện một số nội dung xác minh, xây dựng hồ sơ thi hành án dân
sự theo sự phân công của Chấp hành viên, Thẩm tra viên;
57
- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để giúp Chấp hành
viên thực hiện công tác tổ chức thi hành án; giúp Thẩm tra viên thực hiện
thẩm tra thi hành án dân sự đối với các vụ việc đƣợc phân công theo quy
định của pháp luật;
- Thực hiện nhiệm vụ khác do Thủ trƣởng cơ quan thi hành án giao.
Về tiêu chuẩn, công chức để đƣợc bổ nhiệm vào ngạch Thƣ ký thi hành
án phải đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ: Nắm vững quan điểm, đƣờng
lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc có liên quan
đến lĩnh vực công tác thi hành án dân sự; nắm vững các kiến thức cơ bản về
pháp lý và nghiệp vụ thi hành án dân sự; có khả năng tổng hợp, đề xuất biện
pháp giải quyết các vấn đề về liên quan đến thực hiện nhiệm vụ của thƣ ký thi
hành án; có kỹ năng soạn thảo văn bản liên quan đến chức trách, nhiệm vụ
đƣợc giao; công chức dự thi nâng ngạch Thƣ ký thi hành án phải có thời gian
giữ ngạch Thƣ ký trung cấp thi hành án từ 03 năm (36 tháng) trở lên.
- Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dƣỡng: Có bằng tốt nghiệp Cử nhân
Luật trở lên đối với ngạch Thƣ ký thi hành án, có bằng Trung cấp Luật trở lên
đối với ngạch Thƣ ký trung cấp thi hành án; có chứng chỉ bồi dƣỡng nghiệp vụ
ngạch Thƣ ký thi hành án dân sự theo nội dung, chƣơng trình của Bộ Tƣ pháp;
có chứng chỉ Ngoại ngữ với trình độ tƣơng đƣơng bậc 2 đối với ngạch Thƣ ký
thi hành án và bậc 1 đối với ngạch Thƣ ký trung cấp thi hành án khung năng
lực ngoại ngữ Việt Nam theo quy định tại Thông tƣ số 01/2014/TT-BGDĐT
hoặc có chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí yêu cầu sử dụng tiếng dân
tộc; có chứng chỉ Tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ
thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tƣ số 03/2014/TT-BTTTT.
2.2. Pháp luật về hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam
Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện (hay
58
các Chi cục thi hành án dân sự) đƣợc quy định tại Điều 16 Luật THADS
SĐBS 2014 đồng thời cũng là các hoạt động của các Chi cục thi hành án dân
sự, bao gồm: trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định; giải quyết
khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định; thực
hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phƣơng tiện hoạt động
đƣợc giao theo hƣớng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;
thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án
theo quy định của pháp luật và hƣớng dẫn của cơ quan thi hành án dân sự cấp
tỉnh; lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; giúp Ủy
ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định; báo cáo
công tác thi hành án dân sự trƣớc Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân theo
quy định của pháp luật; báo cáo Tòa án về kết quả thi hành bản án, quyết định
khi có yêu cầu.
Trong số đó, hoạt động tổ chức thi hành các bản án, quyết định là hoạt
động chính, chủ yếu của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung và các Chi
cục thi hành án dân sự nói riêng. Trong phạm vi nội dung pháp luật về hoạt
động của Chi cục thi hành án dân sự của luận văn, tác giả tập trung đi sâu làm
rõ các nội dung chính của pháp luật về hoạt động tổ chức thi hành án bao
gồm: hoạt động xác minh điều kiện thi hành án, hoạt động áp dụng các biện
pháp bảo đảm thi hành án và hoạt động cƣỡng chế thi hành án.
2.2.1. Xác minh điều kiện thi hành án
Thực tiễn thi hành án dân sự cho thấy ngƣời phải thi hành án thƣờng
giấu diếm các thông tin về địa chỉ, tài sản, thu nhập, … của họ để trốn tránh
việc thi hành án. Vì vậy, để tổ chức thi hành án đảm bảo đạt hiệu quả, cơ quan
thi hành án dân sự phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ngƣời
phải thi hành án để có cơ sở thi hành án. Việc xác minh điều kiện thi hành án
đƣợc quy định tại Điều 44 Luật THADS SĐBS 2014, Điều 9 Nghị định số
59
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ và Điều 3 Thông tƣ liên tịch
số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tƣ
pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một
số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành
án dân sự. Theo đó:
Trong thời hạn 10 ngày tính từ thời điểm hết thời hạn tự nguyện, Chấp
hành viên phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ngƣời phải thi
hành án, trừ trƣờng hợp thi hành áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải
xác minh ngay.
Khi xác minh, Chấp hành viên có trách nhiệm: xuất trình thẻ Chấp
hành viên; xác minh cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để thi hành
án, đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc phải đăng ký
giao dịch bảo đảm thì còn phải xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài
sản, giao dịch đó; trƣờng hợp xác minh bằng văn bản thì văn bản yêu cầu xác
minh phải nêu rõ nội dung xác minh và các thông tin cần thiết khác; trƣờng
hợp ngƣời phải thi hành án là cơ quan, tổ chức thì Chấp hành viên phải trực
tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản, xác minh tại các cơ quan tổ
chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lƣu giữ thông tin về tài sản,
tài khoản của ngƣời phải thi hành án; yêu cầu các cơ quan chuyên môn hoặc
mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh trong trƣờng hợp
cần thiết; lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của Ủy
ban nhân dân hoặc Công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến
hành xác minh.
Trong quá trình xác minh, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
đến việc xác minh điều kiện thi hành án có trách nhiệm: Cơ quan, tổ chức,
công chức tƣ pháp - hộ tịch, địa chính - xây dựng - đô thị và môi trƣờng, cán
bộ, công chức cấp xã khác và cá nhân có liên quan thực hiện yêu cầu của
60
Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm về các nội dung thông tin đã cung
cấp; Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài
khoản của ngƣời phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều
kiện thi hành án của ngƣời phải thi hành án; ký vào biên bản trong trƣờng hợp
Chấp hành viên xác minh trực tiếp hoặc trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày nhận đƣợc văn bản yêu cầu của Chấp hành viên,
đối với thông tin về tài khoản thì phải cung cấp ngay; Cơ quan, tổ chức, cá
nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của ngƣời phải
thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi ngƣời đƣợc thi hành án
hoặc ngƣời đại diện theo ủy quyền của ngƣời đƣợc thi hành án có yêu cầu
trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đƣợc yêu cầu, trừ trƣờng
hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trƣờng hợp cơ quan,
tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do;
Trƣờng hợp ngƣời đƣợc thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung
cấp hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của ngƣời
phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật, thanh toán các chi
phí phát sinh, trƣờng hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thƣờng.
Việc Luật quy định Chấp hành viên đƣợc quyền yêu cầu cơ quan
chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh
trong trƣờng hợp cần thiết; đƣợc trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý
vốn, tài sản, xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý,
bảo quản, lƣu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của ngƣời phải thi hành án;
các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện thi
hành án phải thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm
về các nội dung thông tin đã cung cấp. Trƣờng hợp từ chối cung cấp thì phải
61
có văn bản trả lời và nêu rõ lý do. Điều này khắc phục đƣợc sự lỏng lẻo trong
công tác phối hợp và góp phần nâng cao hiệu quả trong việc xác minh điều
kiện thi hành án
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 36 Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-
CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị
định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tƣ pháp, hành chính tƣ pháp, hôn nhân và gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì vi phạm một
trong số hành vi (1) không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan
đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của ngƣời có thẩm quyền thi
hành án mà không có lý do chính đáng; (2) không thông báo cho cơ quan thi
hành án khi có thay đổi về địa chỉ và nơi cƣ trú; (3) không kê khai trung thực
tài sản, điều kiện thi hành án có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến
3.000.000 đồng.
Đối với ngƣời phải thi hành án: Ngƣời phải thi hành án phải kê khai
trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành
án. Nội dung kê khai phải nêu rõ loại, số lƣợng tiền, tài sản hoặc quyền tài
sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay, mƣợn; giá trị ƣớc tính
và tình trạng của từng loại tài sản; mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi
trả thu nhập; địa chỉ, nơi cƣ trú của ngƣời chƣa thành niên đƣợc giao cho
ngƣời khác nuôi dƣỡng; khả năng và điều kiện thực hiện nghĩa vụ thi hành
án. Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án không kê khai hoặc kê khai không
trung thực thì Chấp hành viên tùy thuộc vào mức độ vi phạm có thể tự mình
hoặc đề nghị ngƣời có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy
định của pháp luật.
Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án chƣa có điều kiện thi hành án thì ít
nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án;
62
trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án chƣa có điều kiện thi hành án là ngƣời
đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02
năm trở lên hoặc không xác định đƣợc địa chỉ, nơi cƣ trú mới của ngƣời phải
thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh
mà ngƣời phải thi hành án vẫn chƣa có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi
hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho ngƣời đƣợc thi hành án về
kết quả xác minh. Việc xác minh lại đƣợc tiến hành khi có thông tin mới về
điều kiện thi hành án của ngƣời phải thi hành án.
Ngoài ra, trƣờng hợp cần ủy quyền cho cơ quan thi hành án dân sự nơi
khác xác minh, làm rõ thông tin về tài sản, nơi cƣ trú, nơi làm việc, trụ sở
của ngƣời phải thi hành án hoặc các thông tin khác liên quan đến việc thi
hành án thì thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền thực hiện
việc xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có thông tin cần xác minh;
việc ủy quyền phải đƣợc thể hiện bằng văn bản, nêu rõ bên ủy quyền, bên
đƣợc ủy quyền, nội dung ủy quyền và các thông tin cần thiết khác. Thủ
trƣởng cơ quân thi hành án dân sự đƣợc ủy quyền xác minh phải trả lời kết
quả xác minh bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận ủy
quyền đối với việc xác minh tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký
quyền sở hữu, 45 ngày kể từ ngày nhận ủy quyền đối với việc xác minh khó
khăn, phức tạp và 15 ngày kể từ ngày nhận ủy quyền đối với việc xác minh
các loại tài sản và thông tin khác.
Kết quả xác minh điều kiện thi hành án là cơ sở, là căn cứ để thủ
trƣởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định xác định việc chƣa có điều
kiện thi hành án (theo quy định tại Điều 44a Luật THADS SĐBS 2014) hoặc
áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cƣỡng chế thi hành án
cần thiết trong quá trình tổ chức thi hành án.
2.2.2. Các biện pháp bảo đảm thi hành án
63
Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp nhằm đặt tài sản
của ngƣời phải thi hành án vào tình trạng bị hạn chế hoặc cấm sử dụng, định
đoạt, ngăn chặn ngƣời phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh
việc thi hành án; đốc thúc ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi hành nghĩa vụ
của mình; là tiền đề, cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp cƣỡng chế thi hành
án dân sự trong trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án không tự nguyện thi hành
án. Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên có quyền tự mình
hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đƣơng sự áp dụng ngay biện pháp bảo
đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh
nghĩa vụ thi hành án mà không phải thông báo trƣớc cho các đƣơng sự.
Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đƣợc quy định trong Luật
THADS SĐBS 2014 bao gồm: Phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ (Điều
67); Tạm giữ tài sản, giấy tờ của đƣơng sự (Điều 68); Tạm dừng việc đăng ký,
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng (Điều 69).
a. Phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ
Theo quy định tại Điều 67 Luật THADS SĐBS 2014 và Điều 20 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, trƣờng hợp ngƣời
phải thi hành án không tự nguyện thi hành án và có tiền trong tài khoản tại
các tổ chức tín dụng hoặc có tài sản ở nơi gửi giữ thì Chấp hành viên áp dụng
biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ.
Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ phải xác định rõ số
tiền, tài sản bị phong tỏa trong nội dung. Chấp hành viên giao quyết định
phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ cho ngƣời đại diện theo pháp luật
của Kho bạc Nhà nƣớc, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản
lý tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ hoặc ngƣời có trách nhiệm nhận văn bản
của cơ quan, tổ chức đó và lập biên bản về việc giao quyết định; biên bản phải
có chữ ký của Chấp hành viên, ngƣời nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài
sản ở nơi gửi giữ; trƣờng hợp ngƣời nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài
64
sản ở nơi gửi giữ không ký thì phải có chữ ký của ngƣời chứng kiến.
Trƣờng hợp cần phải phong tỏa ngay tiền trong tài khoản, tài sản tại nơi
gửi giữ của ngƣời phải thi hành án mà chƣa ban hành quyết định phong tỏa thì
Chấp hành viên lập biên bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý
tài khoản, tài sản của ngƣời phải thi hành án phong tỏa tài khoản, tài sản đó;
trong vòng 24 giờ, Chấp hành viên phải ra quyết định phong tỏa và gửi cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của ngƣời phải thi hành
án. Chấp hành viên có trách nhiệm bảo mật thông tin đối với tài khoản, tài sản
của ngƣời phải thi hành án bị áp dụng biện pháp phong tỏa khi đƣợc kho bạc
nhà nƣớc, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi có tài khoản, tài sản
bị phong tỏa cung cấp.
Sau khi ra quyết định phong tỏa, Chấp hành viên phải thực hiện việc
thông báo việc phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ cho ngƣời phải thi
hành án để đốc thúc ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi hành án. Trong thời
hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định phong tỏa, nếu ngƣời phải thi hành án tự
nguyện thi hành thì Chấp hành viên ra quyết định chấm dứt việc phong tỏa,
nếu ngƣời phải thi hành không tự nguyện thi hành án thì quyết định phong tỏa
tài khoản, tài sản nơi gửi giữ chính là tiền đề, là cơ sở để Chấp hành viên áp
dụng biện pháp cƣỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản hoặc kê biên tài sản.
Việc cho phép Chấp hành viên phong tỏa ngay tiền trong tài khoản, tài
sản gửi giữ của ngƣời phải thi hành án khi xác minh có tiền hoặc tài sản trong
tài khoản của ngƣời phải thi hành giúp Chấp hành viên có thể chi phối đƣợc
tài sản của ngƣời phải thi hành án. Điều này giúp giảm thiểu khả năng ngƣời
phải thi hành án tẩu tán tài sản trong khoảng thời gian Chấp hành viên chƣa
kịp thời ra quyết định về việc phong tỏa tài khoản, gây ảnh hƣởng đến quyền,
lợi ích của ngƣời phải thi hành án; làm mục đích thi hành án không đạt đƣợc.
Bên cạnh đó, việc quy định Chấp hành viên phải thực hiện thủ tục
65
thông báo về việc phong tỏa tài khoản cho ngƣời phải thi hành án nhằm bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự đƣợc quy định tại Điều 5 Luật
THADS SĐBS 2014, bảo đảm quyền đƣợc khiếu nại của ngƣời phải thi hành
án; tạo điều kiện cho ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi hành án, giảm thiểu
những thiệt hại (nếu có) trong trƣờng hợp bị khấu trừ tài khoản.
Ngoài ra, quy định về giới hạn của số tiền, tài sản bị phong tỏa nhằm
tránh tình trạng tùy tiện phong toả toàn bộ tài khoản, tài sản làm ảnh hƣởng
đến hoạt động kinh doanh, giao dịch bình thƣờng của chủ tài khoản, tài sản.
b. Tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự
Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đƣơng sự đƣợc quy định tại Điều
68 Luật THADS SĐBS 2014 và Điều 18 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ. Theo đó: Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp
hành viên có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà
đƣơng sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng; cơ quan, tổ chức, cá
nhân hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của Chấp
hành viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ.
Nội dung quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải xác định rõ loại tài
sản, giấy tờ bị tạm giữ và phải đƣợc giao cho đƣơng sự hoặc tổ chức, cá nhân
đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ bị tạm giữ. Trƣờng hợp cần tạm giữ
ngay tài sản, giấy tờ mà chƣa ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ thì
Chấp hành viên yêu cầu giao tài sản, giấy tờ và lập biên bản về việc tạm giữ,
nếu tài sản tạm giữ là tiền mặt thì biên bản phải ghi rõ số lƣợng tờ, mệnh giá
các loại tiền, nếu là ngoại tệ thì phải ghi rõ tiền nƣớc nào, trong trƣờng hợp
cần thiết phải ghi cả số sê ri trên tiền; tài sản tạm giữ là kim khí quý, đá quý
thì phải niêm phong trƣớc mặt ngƣời bị tạm giữ tài sản hoặc thân nhân của họ,
nếu ngƣời bị tạm giữ tài sản hoặc thân nhân của họ không đồng ý chứng kiến
việc niêm phong thì phải có mặt ngƣời làm chứng. Trên niêm phong phải ghi
66
rõ loại tài sản, số lƣợng, khối lƣợng và các đặc điểm khác của tài sản đã niêm
phong, có chữ ký của Chấp hành viên, ngƣời bị tạm giữ tài sản hoặc thân
nhân của ngƣời bị tạm giữ tài sản hoặc ngƣời làm chứng. Việc niêm phong tài
sản tạm giữ phải đƣợc ghi nhận trong biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ.
Sau khi tạm giữ tài sản, giấy tờ, Chấp hành viên phải tiến hành xác
định chủ thể của quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ đã tạm giữ bằng cách
yêu cầu đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy
tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho
đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu
xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ. Trƣờng hợp
cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ
quan có thẩm quyền xác định ngƣời có quyền sở hữu, sử dụng đối với tài
sản, giấy tờ tạm giữ.
Trƣờng hợp tài sản, giấy tờ bị tạm giữ không thuộc quyền sở hữu, sử
dụng của ngƣời phải thi hành án hoặc thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ngƣời
phải thi hành án nhƣng ngƣời phải thi hành án đã thực hiện nghĩa vụ thi hành
án thì Chấp hành viên phải ra quyết định trả lại tài sản, giấy tờ cho ngƣời có
quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ bị tạm giữ; ngƣời nhận tài sản, giấy tờ
đƣợc trả lại phải xuất trình các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng đối
với tài sản, giấy tờ bị tạm giữ cùng giấy ủy quyền (trong trƣờng hợp đƣợc ủy
quyền nhận tài sản, giấy tờ); việc trả lại tài sản, giấy tờ phải đƣợc lập thành
biên bản. Trƣờng hợp tài sản, giấy tờ bị tạm giữ thuộc quyền sở hữu, sử dụng
của ngƣời phải thi hành án và ngƣời phải thi hành án không tự nguyện thực
hiện nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định áp dụng các biện
pháp cƣỡng chế đối với tài sản, giấy tờ đã tạm giữ. Thời hạn để Chấp hành viên
thực hiện việc trả lại tài sản, giấy tờ đã tạm giữ hoặc ra quyết định áp dụng các
biện pháp cƣỡng chế đối với tài sản, giấy tờ đã tạm giữ là 10 ngày kể từ ngày
67
có căn cứ xác định chủ thể quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ bị tạm giữ.
Việc quy định Chấp hành viên tạm giữ tài sản, giấy tờ của đƣơng sự
phải ban hành Quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ và xác định rõ loại tài sản,
giấy tờ bị tạm giữ trong Quyết định này nhằm khắc phục tình trạng thiếu rõ
ràng, không thống nhất trong quy định của Luật THADS 2008 khi luật này
không quy định Chấp hành viên phải ban hành quyết định mà chỉ yêu cầu lập
biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ. Việc khẳng định hình thức áp dụng biện
pháp bảo đảm thi hành án trong trƣờng hợp này tạo điều kiện pháp lý vững
chắc hơn cho Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ
c. Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng và thay đổi
hiện trạng tài sản
Trƣờng hợp cần ngăn chặn hoặc phát hiện đƣơng sự có hành vi chuyển
quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn
tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng đăng ký,
chuyển quyền sở hữu, sử dụng và thay đổi hiện trạng tài sản của ngƣời thi
hành án hoặc tài sản chung của ngƣời phải thi hành án với ngƣời khác theo
quy định tại Điều 69 Luật THADS SĐBS 2014 và Điều 19 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ. Quyết định tạm dừng đăng
ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng và thay đổi hiện trạng tài sản phải gửi ngay
cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để tạm dừng việc đăng ký, chuyển
quyền sở hữu, sử dụng và thay đổi hiện trạng tài sản.
Sau khi thực hiện việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng và thay đổi hiện trạng tài sản, Chấp hành viên Chấp hành viên yêu cầu
đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu
cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho đƣơng sự, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định
quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản. Trƣờng hợp cần thiết, Chấp hành viên
68
phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định
quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp tài sản;
yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản theo quy định của pháp
luật. Khi có căn cứ xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản, trong thời hạn 10
ngày, Chấp hành viên thực hiện việc ra quyết định cƣỡng chế đối với tài sản
nếu tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ngƣời phải thi hành án hoặc ra
quyết định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng và
thay đổi hiện trạng nếu tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ngƣời khác.
2.2.3. Cưỡng chế thi hành án
Cƣỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp đƣợc Chấp hành viên áp
dụng trong trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án có điều kiện thi hành án
nhƣng không tự nguyện thi hành án; là quyền năng đặc biệt đƣợc trao cho
Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án để giải quyết dứt điểm
các việc thi hành án và đƣợc bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nƣớc.
Hiện nay, theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự, Chấp hành viên
đƣợc áp dụng các biện pháp cƣỡng chế thi hành án dân sự sau: Khấu trừ tiền
trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của ngƣời phải thi hành
án; Trừ vào thu nhập của ngƣời phải thi hành án; Kê biên, xử lý tài sản của
ngƣời phải thi hành án, kể cả tài sản đang do ngƣời thứ ba giữ; Khai thác tài
sản của ngƣời phải thi hành án; Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài
sản, giấy tờ; Buộc ngƣời phải thi hành án thực hiện hoặc không đƣợc thực
hiện công việc nhất định.
a. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của
người phải thi hành án
- Khấu trừ tiền trong tài khoản để thi hành án: Trƣờng hợp xác định
ngƣời phải thi hành án có tiền trong tài khoản tại Kho bạc nhà nƣớc, ngân
hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác thì Chấp hành viên ra quyết định khấu
69
trừ tiền trong tài khoản để thi hành án theo quy định tại Điều 76 Luật THADS
SĐBS 2014 và Điều 21 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của
Chính phủ; số tiền khấu trừ không đƣợc vƣợt quá số tiền phải thi hành án và
chi phí cƣỡng chế.
Cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải thực hiện ngay quyết
định khấu trừ của Chấp hành viên bằng cách khấu trừ tiền trong tài khoản của
ngƣời phải thi hành án và chuyển vào tài khoản của cơ quan thi hành án hoặc
chuyển cho ngƣời đƣợc thi hành án theo quyết định khấu trừ, trƣờng hợp cơ
quan, tổ chức quản lý tài khoản không thực hiện ngay quyết định khấu trừ của
Chấp hành viên dẫn đến việc đƣơng sự tẩu tán tài sản, gây thiệt hại cho ngƣời
đƣợc thi hành án thì phải bồi thƣờng.
Trên thực tế, Chấp hành viên sau khi xác minh đƣợc ngƣời phải thi
hành án có tiền trong tài khoản tại Kho bạc nhà nƣớc, ngân hàng hoặc các tổ
chức tín dụng thì sẽ phong tỏa số tiền tƣơng ứng với nghĩa vụ của ngƣời thi
hành án và chi phí cƣỡng chế (nếu có) và thông báo cho ngƣời phải thi hành
án về việc phong tỏa tiền để yêu cầu ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi
hành án trong thời hại 10 ngày, hết thời hạn nói trên, ngƣời phải thi hành án
không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới ra quyết định khấu trừ
tiền trong tài khoản.
- Thu hồi, xử lý tiền và giấy tờ có giá của người phải thi hành án
Trƣờng hợp phát hiện ngƣời phải thi hành án đang giữ tiền mà có căn cứ
xác định số tiền đó là của ngƣời phải thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết
định thu tiền, thu tiền và cấp biên lai thu tiền cho ngƣời phải thi hành án; việc
thu tiền phải đƣợc lập thành biên bản, có chữ ký của Chấp hành viên và ngƣời
phải thi hành án, trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án không ký vào biên bản thì
phải có chữ ký của ngƣời làm chứng (Điều 80 Luật THADS SĐBS 2014).
Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án có thu nhập từ hoạt động kinh
70
doanh thì Chấp hành viên ra quyết định thu tiền từ hoạt động kinh doanh của
ngƣời đó để thi hành án; khi thu tiền, Chấp hành viên phải để lại số tiền tối
thiểu cho hoạt động kinh doanh, sinh hoạt của ngƣời phải thi hành án và gia
đình, đồng thời cấp biên lai thu tiền cho ngƣời phải thi hành án (Điều 79 Luật
THADS SĐBS 2014). Về kỳ hạn thu tiền từ hoạt động kinh doanh của ngƣời
phải thi hành án và mức tối thiểu để lại cho hoạt động kinh doanh, sinh hoạt
của ngƣời phải thi hành án và gia đình đƣợc quy định tại Điều 22 Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ.
- Thu tiền, tài sản của người phải thi hành án do người thứ ba đang giữ
Trƣờng hợp phát hiện ngƣời thứ ba đang giữ tiền của ngƣời phải thi
hành án thì Chấp hành viên ra quyết định thu khoản tiền đó để thi hành án;
ngƣời thứ ba đang giữ tiền có trách nhiệm nộp tiền cho Chấp hành viên để thi
hành án và phải chịu trách nhiệm trong trƣờng hợp không chấp hành yêu cầu
của Chấp hành viên dẫn đến việc không thể thi hành án đƣợc; Chấp hành viên
lập biên bản về việc thu tiền, cấp biên lai thu tiền cho ngƣời thứ ba đang giữ
tiền và thông báo cho ngƣời phải thi hành án, trƣờng hợp ngƣời thứ ba đang
giữ tiền không ký vào biên bản thì phải có chữ ký của ngƣời làm chứng; đối
với tiền, tài sản của ngƣời thi hành án do ngƣời thứ ba giữ đã đƣợc xác định
trong quyết định, bản án đã có hiệu lực thi hành thì trƣờng hợp ngƣời thứ ba
không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên có quyền áp dụng các biện pháp
cƣỡng chế để thi hành án (quy định tại Điều 81 Luật THADS SĐBS 2014 và
Điều 23 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ).
b. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án
Theo quy định tại Điều 78 Luật THADS SĐBS 2014, thu nhập của
ngƣời phải thi hành án bao gồm tiền công, tiền lƣơng, tiền lƣơng hƣu, tiền trợ
cấp mất sức lao động và các thu nhập hợp pháp khác có thể bị khấu trừ theo
quyết định của Chấp hành viên trong các trƣờng hợp: theo thỏa thuận của các
71
đƣơng sự; bản án, quyết định ấn định trừ vào thu nhập của ngƣời phải thi
hành án; thi hành án cấp dƣỡng, thi hành án theo định kỳ, khoản tiền phải thi
hành án không lớn hoặc tài sản khác của ngƣời phải thi hành án không đủ để
thi hành án; đối với các khoản tiền công, tiền lƣơng, tiền lƣơng hƣu, tiền trợ
cấp mất sức lao động thì mức khấu trừ không vƣợt quá 30%; đối với các
khoản thu nhập hợp pháp khác thì mức khấu trừ căn cứ vào mức thu nhập
thực tế của ngƣời phải thi hành án nhƣng phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối
thiểu của ngƣời phải thi hành án và ngƣời đƣợc ngƣời phải thi hành án nuôi
dƣỡng theo quy định của pháp luật; các cơ quan, tổ chức, ngƣời sử dụng lao
động, Bảo hiểm xã hội nơi ngƣời phải thi hành án nhận tiền lƣơng, tiền công,
tiền lƣơng hƣu, tiền trợ cấp mất sức lao động và các khoản thu nhập hợp pháp
khác có trách nhiệm thực hiện quyết định khấu trừ của Chấp hành viên.
c. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản do
người thứ ba giữ
Nguyên tắc áp dụng biện pháp cƣỡng chế kê biên đƣợc quy định tại
Luật THADS SĐBS 2014 và Điều Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ. Trong đó có các nguyên tắc cần phải lƣu ý sau đây:
- Không kê biên các loại tài sản là: (1) Tài sản bị cấm lƣu thông theo
quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công
cộng; tài sản do ngân sách nhà nƣớc cấp cho cơ quan, tổ chức. (2) Số lƣơng
thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của ngƣời phải thi hành án và gia đình trong
thời gian chƣa có thu nhập, thu hoạch mới; Số thuốc cần dùng để phòng, chữa
bệnh của ngƣời phải thi hành án và gia đình; Vật dụng cần thiết của ngƣời tàn
tật, vật dụng dùng để chăm sóc ngƣời ốm; Đồ dùng thờ cúng thông thƣờng
theo tập quán ở địa phƣơng; Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn
đƣợc dùng làm phƣơng tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của ngƣời phải
thi hành án và gia đình; Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho ngƣời phải thi hành
72
án và gia đình của ngƣời phải thi hành án là cá nhân. (3) Số thuốc phục vụ
việc phòng, chữa bệnh cho ngƣời lao động; lƣơng thực, thực phẩm, dụng cụ
và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho ngƣời lao động; Nhà trẻ, trƣờng học, cơ sở
y tế và thiết bị, phƣơng tiện, tài sản khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải
là tài sản để kinh doanh; Trang thiết bị, phƣơng tiện, công cụ bảo đảm an toàn
lao động, phòng, chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trƣờng là tài sản
của ngƣời phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ;
- Trừ những tài sản không đƣợc kê biên, các tài sản khác của ngƣời
phải thi hành án đều có thể bị kê biên để thi hành án. Ngƣời phải thi hành án
có quyền thỏa thuận với ngƣời đƣợc thi hành án về tài sản kê biên để đảm bảo
thi hành án, đƣợc tự nguyện đề nghị kê biên tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình để thi hành án nhƣng phải đảm bảo đủ giá trị để thi hành án và các chi
phí khác theo quy định của pháp luật;
- Chấp hành viên chỉ đƣợc kê biên tài sản của ngƣời phải thi hành án đủ
để thi hành án và các chi phí phát sinh. Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án chỉ
có tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn mức phải thi hành án mà không thể phân
chia đƣợc hoặc việc phân chia làm giảm giá trị của tài sản thì Chấp hành viên
có quyền kê biên tài sản đó để thi hành án;
- Chấp hành viên tiến hành thực hiện biện pháp cƣỡng chế kê biên
đối với tài sản riêng của ngƣời phải thi hành án trƣớc, trƣờng hợp ngƣời
phải thi hành án không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng có giá trị không
đủ để thi hành án thì mới kê biên tài sản chung của ngƣời phải thi hành án
với ngƣời khác;
- Khi kê biên tài sản của ngƣời phải thi hành án có chung quyền sở hữu
với ngƣời khác, trƣờng hợp tài sản chia đƣợc thì Chấp hành viên kê biên phần
thuộc sở hữu của ngƣời phải thi hành án; trƣờng hợp tài sản chung không thể
73
chia đƣợc hoặc việc chia tài sản làm giảm giá trị tài sản thì Chấp hành viên kê
biên, xử lý toàn bộ tài sản và thanh toán cho chủ sở hữu chung giá trị phần
thuộc quyền sở hữu của họ; trƣờng hợp chƣa xác định đƣợc phần sở hữu của
ngƣời phải thi hành án và những chủ sở hữu chung thì Chấp hành viên thông
báo để các bên xác định, thỏa thuận phần sở hữu trong tài sản chung, trong
thời hạn 30 ngày, nếu các bên không thỏa thuận để xác định phần sở hữu
trong tài sản chung thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xác
định theo quy định của pháp luật; trƣờng hợp là tài sản chung của vợ, chồng
hoặc tài sản chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu
theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia định hoặc theo phần dựa trên số
lƣợng thành viên hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản chung
đồng thời thông báo để các bên đƣợc biết, trong thời hạn 30 ngày, nếu các bên
không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa
án có thẩm quyền xác định phần sở hữu, quá thời hạn nói trên thì Chấp hành
viên tổ chức thi hành theo đúng quy định của pháp luật;
- Khi kê biên tài sản là bất động sản, Chấp hành viên phải thông
báo cho chính quyền cấp xã, đại diện tổ dân phố, ngƣời phải thi hành án,
ngƣời có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án ít nhất 03 ngày,
trừ trƣờng hợp cần ngăn chặn việc đƣơng sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn
tránh việc thi hành án;
- Việc kê biên phải đƣợc ghi nhận bằng biên bản, ghi rõ giờ, ngày,
tháng, năm kê biên, họ, tên Chấp hành viên, đƣơng sự hoặc ngƣời đƣợc ủy
quyền, ngƣời lập biên bản, ngƣời làm chứng và ngƣời có liên quan đến tài
sản; diễn biến của việc kê biên; mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của
đƣơng sự và ý kiến của ngƣời làm chứng; biên bản kê biên có chữ ký của
đƣơng sự hoặc ngƣời đƣợc ủy quyền, ngƣời làm chứng, đại diện chính quyền
cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cƣỡng chế, Chấp hành viên và
74
ngƣời lập biên bản.
Khi kê biên tài sản để thi hành án, Chấp hành viên tuân thủ các nguyên
tắc về kê biên tài sản, ngoài ra, tùy thuộc vào tài sản là đối tƣợng kê biên còn
phải tuân thủ các quy định riêng:
- Kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ:
Theo quy định tại Điều 91 Luật THADS SĐBS 2014, trƣờng hợp xác định
ngƣời thứ ba đang giữ tài sản của ngƣời phải thi hành án, kể cả trƣờng hợp tài
sản đã đƣợc xác định bằng bản án, quyết định khác thì Chấp hành viên ra
quyết định kê biên để thi hành án; trƣờng hợp ngƣời thứ ba không tự nguyện
giao tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên cƣỡng chế buộc giao tài sản để
thi hành án; trƣờng hợp tài sản kê biên đang cho thuê thì ngƣời thuê tiếp tục
đƣợc tiếp tục thuê theo nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
- Kê biên đồ vật bị khóa, đóng gói: đối với đồ vật bị khóa, đóng gói,
khi kê biên, Chấp hành viên yêu cầu chủ sở hữu, ngƣời quản lý, sử dụng mở
khóa, mở gói để kê biên; trƣờng hợp họ không mở hoặc cố tình vắng mặt thì
Chấp hành viên có thể tự mình hoặc thuê các tổ chức, cá nhân mở khóa, mở
gói để kê biên; việc mở khóa, mở gói phải lập thành biên bản, có chữ ký của
những ngƣời tham gia, ngƣời làm chứng (theo quy định tại Điều 93 Luật thi
hành án đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2014).
- Kê biên vốn góp: Chấp hành viên yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
nơi ngƣời phải thi hành án có vốn góp cung cấp các thông tin liên quan đến
phần vốn góp của ngƣời phải thi hành án để thực hiện việc kê biên; trƣờng
hợp cần thiết, Chấp hành viên yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xác định phần
vốn góp của ngƣời phải thi hành án và yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có
chuyên môn theo quy định của pháp luật xác định giá trị phần vốn góp để
cƣỡng chế thi hành án (theo quy định tại Điều 92 Luật THADS SĐBS 2014).
- Kê biên phương tiện giao thông: Theo quy định tại Điều 96 Luật
75
THADS SĐBS 2014, khi kê biên phƣơng tiện giao thông của ngƣời phải thi
hành án, Chấp hành viên yêu cầu ngƣời phải thi hành án, ngƣời đang quản lý,
sử dụng phƣơng tiện giao giấy đăng ký phƣơng tiện; Chấp hành viên có thể
thu giữ phƣơng tiện khi kê biên hoặc giao cho ngƣời phải thi hành án, ngƣời
đang quản lý, sử dụng tiếp tục quản lý, sử dụng phƣơng tiện với điều kiện
không đƣợc chuyển nhƣợng, cầm cố, thế chấp; Chấp hành viên có thể thông
báo việc kê biên đến cơ quan đăng ký giao dịch, cơ quan đăng ký sở hữu
phƣơng tiện để hạn chế việc giao dịch, chuyển nhƣợng phƣơng tiện.
- Kê biên hoa lợi: Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án có tài sản mang
lại hoa lợi thì Chấp hành viên kê biên hoa lợi đó để thi hành án, nếu hoa lợi là
lƣơng thực thực phẩm, khi kê biên, Chấp hành viên phải để lại số lƣơng thực,
thực phẩm đủ đáp ứng thiết yếu cho ngƣời phải thi hành án và gia đình trong
thời gian chƣa có thu nhập, thu hoạch mới (theo quy định tại Điều 97 Luật
THADS SĐBS 2014).
- Kê biên quyền sở hữu trí tuệ: Theo quy định tại Điều 84 Luật THADS
SĐBS 2014, các quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan
đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với cây trồng của
ngƣời phải thi hành án có thể bị kê biên trong trƣờng hợp ngƣời phải thi hành
án chuyền quyền sử dụng quyền sở hữu trí tuệ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác hoặc đã chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân
khác mà chƣa đƣợc thanh toán hoặc mới đƣợc thanh toán một phần tiền thì
Chấp hành viên ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận chuyển
giao nộp khoản tiền chƣa thanh toán để thi hành án.
Khi kê biên quyền sở hữu trí tuệ của ngƣời phải thi hành án, tùy từng
đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ mà Chấp hành viên thu giữ các giấy tờ, tài
liệu liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của ngƣời phải thi hành án.
- Kê biên nhà ở và tài sản gắn liền với đất: Theo quy định tại Điều 94,
76
Điều 95 Luật THADS SĐBS 2014 thì khi kê biên tài sản là công trình xây
dựng gắn liền với đất phải kê biên cả quyền sử dụng đất, trừ trƣờng hợp
quyền sử dụng đất không đƣợc kê biên theo quy định của pháp luật hoặc việc
tách rời tài sản kê biên và đất không làm giảm đáng kể giá trị tài sản đó; việc
kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của ngƣời phải thi hành án và gia đình thì chỉ
đƣợc thực hiện khi xác định ngƣời đó không có tài sản khác hoặc có tài sản
nhƣng không đủ giá trị để thi hành án, trừ trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án
đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án; khi kê biên nhà ở phải kê biên cả quyền
sử dụng đất gắn liền với nhà ở, nếu quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở
thuộc quyền sở hữu của ngƣời khác thì chỉ đƣợc kê biên khi có sự đồng ý của
ngƣời đó hoặc việc tách rời nhà ở với đất không làm giảm đáng kể giá trị;
trƣờng hợp nhà ở đang đƣợc cho thuê hoặc cho ở nhờ thì khi kê biên Chấp
hành viên phải thông báo cho ngƣời đang thuê, đang ở nhờ đƣợc biết, nếu thời
hạn thuê, thời hạn lƣu cƣ vẫn còn thì họ vẫn đƣợc tiếp tục thuê hoặc lƣu cƣ
theo quy định của Bộ luật dân sự.
- Kê biên quyền sử dụng đất: Quyền sử dụng đất thuộc trƣờng hợp
đƣợc chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật đất đai, quyền sử
dụng đất chƣa đƣợc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhƣng thuộc
trƣờng hợp đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo pháp
luật đất đai hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất nhƣng chƣa có quyết
định thu hồi đất thì Chấp hành viên đƣợc kê biên để thi hành án (theo quy
định tại Điều 110 Luật THADS SĐBS 2014). Khi kê biên quyền sử dụng đất,
Chấp hành viên yêu cầu ngƣời phải thi hành án, ngƣời đang quản lý các giấy
tờ về quyền sử dụng đất phải nộp các giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất
bị kê biên cho cơ quan thi hành án; trƣờng hợp trên đất có tài sản gắn liền với
đất thuộc quyền sở hữu của ngƣời phải thi hành án thì kê biên cả tài sản gắn
liền với đất; trƣờng hợp trên đất có tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở
77
hữu của ngƣời khác thì chỉ kê biên quyền sử dụng đất và thông báo cho ngƣời
có tài sản đƣợc biết về việc kê biên quyền sử dụng đất; việc kê biên quyền sử
dụng đất phải đƣợc lập biên bản ghi rõ vị trí, diện tích, ranh giới, có chữ ký
của Chấp hành viên và những ngƣời tham gia (theo quy định tại Điều 111
Luật THADS SĐBS 2014).
Sau khi kê biên, cơ quan thi hành án phải tiến hành xác định giá trị tài
sản kê biên theo quy định tại Điều 98, Điều 99 Luật THADS SĐBS 2014 và
Điều 26 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ. Theo
đó: Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án, ngƣời đƣợc thi hành án thỏa thuận
đƣợc về giá hoặc tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên lấy giá đã đƣợc
thỏa thuận để làm giá khởi điểm bán đấu giá hoặc ký hợp đồng với tổ chức
thẩm định giá do các bên đã thỏa thuận; trƣờng hợp hết thời hạn 05 ngày tính
từ ngày kê biên, ngƣời phải thi hành án, ngƣời đƣợc thi hành án không thỏa
thuận đƣợc về giá hoặc tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên có quyền ký
hợp đồng thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ƣơng nơi có tài sản kê biên; trƣờng hợp trên địa bàn không
có tổ chức thẩm định giá hoặc tài sản kê biên là tài sản tƣơi sống, mau hỏng
hoặc có giá trị nhỏ (có giá mua bán trên thị trƣờng không quá 10.000.000
đồng) thì Chấp hành viên đƣợc quyền tự xác định giá.
Tài sản đã kê biên theo quy định của Luật THADS SĐBS 2014 có thể
đƣợc giao cho ngƣời đƣợc thi hành án theo quy định tại Điều 100, Điều 104
hoặc bán tài sản đã kê biên để thi hành án theo quy định tại Điều 101 hoặc trả
lại cho ngƣời phải thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104.
d. Khai thác tài sản của người phải thi hành án
Việc khai thác tài sản của ngƣời phải thi hành án để thi hành án đƣợc quy
định tại Điều 107, Điều 108 và Điều 109 Luật THADS SĐBS 2014. Theo đó:
Chấp hành viên ra quyết định cƣỡng chế khai thác tài sản của ngƣời
78
phải thi hành án trong trƣờng hợp tài sản của ngƣời phải thi hành án có giá trị
quá lớn so với nghĩa vụ phải thi hành và tài sản đó có thể khai thác để thi
hành án hoặc ngƣời đƣợc thi hành án đồng ý cƣỡng chế khai thác tài sản để
thi hành án nếu việc khai thác tài sản không ảnh hƣởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của ngƣời thứ ba.
Đối với tài sản ngƣời phải thi hành án đang trực tiếp khai thác hoặc
đang cho ngƣời khác khai thác thì ngƣời đang khai thác tiếp tục khai thác; đối
với tài sản bao gồm cả quyền sử dụng đất của ngƣời phải thi hành án chƣa
đƣợc khai thác thì Chấp hành viên yêu cầu ngƣời phải thi hành án ký hợp
đồng với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác. Số tiền thu đƣợc từ việc
khai thác tài sản sau khi trừ các chi phí cần thiết phải nộp cho cơ quan thi
hành án để thi hành án.
Việc cƣỡng chế khai thác tài sản của ngƣời phải thi hành án bị chấm
dứt trong trƣờng hợp việc khai thác tài sản không hiệu quả hoặc làm cản trở
việc thi hành án; ngƣời phải thi hành án, ngƣời khai thác tài sản thực hiện
không đúng yêu cầu của Chấp hành viên trong việc khai thác tài sản; ngƣời
phải thi hành án đã thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án và các chi phí thi
hành án; có quyết định đình chỉ thi hành án.
e. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ
- Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả vật: Việc cƣỡng chế thi hành nghĩa
vụ trả vật thƣờng trong trƣờng hợp bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án xác định rõ ngƣời phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ trả vật
(thông thƣờng vật phải trả là vật đặc định và là động sản) và hết thời hạn thực
hiện nghĩa vụ cũng nhƣ thời hạn tự nguyện thi hành án mà ngƣời phải thi
hành án không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ trả vật thì cơ quan thi hành án tổ
chức cƣỡng chế thi hành nghĩa vụ trả vật.
Theo quy định tại Điều 114 Luật THADS SĐBS 2014 thì:
79
Đối với vật phải trả là vật đặc định thì Chấp hành viên yêu cầu ngƣời
phải thi hành án, ngƣời đang quản lý, sử dụng vật đó phải chuyển giao cho
ngƣời đƣợc thi hành án, nếu không thi hành thì Chấp hành viên thu hồi vật để
trả cho ngƣời đƣợc thi hành án; trƣờng hợp vật phải trả giảm giá trị mà ngƣời
đƣợc thi hành án không đồng ý nhận thì Chấp hành viên hƣớng dẫn các bên
thỏa thuận để thi hành án, nếu các bên thỏa thuận đƣợc thì tổ chức thi hành
theo thỏa thuận, nếu các bên không thỏa thuận đƣợc thì Chấp hành viên
cƣỡng chế thu hồi vật để giao cho ngƣời đƣợc thi hành án, đồng thời ngƣời
đƣợc thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết thiệt hại
do vật phải trả bị giảm giá trị; trƣờng hợp vật phải trả không còn hoặc hƣ
hỏng đến mức không sử dụng đƣợc thì Chấp hành viên hƣớng dẫn các bên
thỏa thuận, nếu các bên thỏa thuận đƣợc thì tổ chức thực hiện theo thỏa thuận,
nếu các bên không thỏa thuận đƣợc thì ngƣời đƣợc thi hành án có quyền yêu
cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết thiệt hại do vật phải trả không còn hoặc
bị hƣ hỏng đến mức không sử dụng đƣợc.
Đối với vật phải trả là vật cùng loại thì Chấp hành viên thu hồi tài sản
để thi hành án, trƣờng hợp vật phải trả bị giảm giá trị, hƣ hỏng đến mức
không sử dụng đƣợc hoặc không còn thì Chấp hành viên yêu cầu ngƣời phải
thi hành án phải trả vật cùng loại hoặc thanh toán giá trị của vật cùng loại, trừ
trƣờng hợp có thỏa thuận khác.
- Cưỡng chế giao nhà, trả nhà
Việc cƣỡng chế giao nhà, trả nhà đƣợc thực hiện theo quy định tại Điều
115 Luật THADS SĐBS 2014 thì trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án phải trả
nhà hoặc phải giao nhà để thi hành án thì Chấp hành viên yêu cầu ngƣời phải
thi hành án và những ngƣời khác có mặt trong nhà ra khỏi nhà đồng thời
chuyển dọn hết tài sản của họ ra khỏi nhà; nếu họ không tự nguyện ra khỏi
nhà, không tự chuyển dọn tài sản ra khỏi nhà thì Chấp hành viên yêu cầu lực
80
lƣợng cƣỡng chế đƣa họ cùng tài sản ra khỏi nhà.
Sau khi chuyển dọn tài sản ra khỏi nhà, nếu những ngƣời có tài sản
không nhận tài sản thì cơ quan thi hành án thực hiện việc thống kê, đóng gói
và niêm phong tài sản để chuyển về kho của cơ quan thi hành án dân sự hoặc
giao cho tổ chức, cá nhân có điều kiện bảo quản đồng thời thông báo cho
những ngƣời có tài sản đƣợc biết về địa điểm và thời gian nhận tài sản. Trong
thời hạn 03 tháng, nếu ngƣời có tài sản không đến nhận tài sản thì cơ quan thi
hành án dân sự tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với trƣờng hợp cƣỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của ngƣời
phải thi hành án cho ngƣời mua đƣợc tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi
thanh toán các khoản nghĩa vụ thi hành án mà ngƣời phải thi hành án không
còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trƣớc khi làm thủ tục chi trả
cho ngƣời đƣợc thi hành án, Chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản
một khoản tiền để ngƣời phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà
trung bình tại địa phƣơng trong thời hạn 01 năm.
- Cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất
Việc cƣỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất đƣợc thực hiện theo
quy định tại Điều 117 Luật THADS SĐBS 2014, theo đó:
Khi tiến hành giao đất phải có sự tham gia của cơ quan quản lý đất đai
cùng cấp và ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất chuyển giao.
Đối với tài sản gắn liền với đất hình thành sau khi có bản án, quyết định
có hiệu lực pháp luật thì Chấp hành viên yêu cầu ngƣời có tài sản đó tháo dỡ
hoặc chuyển tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển giao cho ngƣời đƣợc thi
hành án, nếu ngƣời có tài sản không thực hiện thì Chấp hành viên cƣỡng chế
tháo dỡ, đƣa tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển giao để chuyển về kho
của cơ quan thi hành án dân sự hoặc giao cho tổ chức, cá nhân có điều kiện
bảo quản đồng thời thông báo cho những ngƣời có tài sản đƣợc biết về địa
81
điểm và thời gian nhận tài sản, trừ trƣờng hợp đƣơng sự có thỏa thuận khác.
Trong thời hạn 03 tháng, nếu ngƣời có tài sản không đến nhận tài sản thì cơ
quan thi hành án dân sự tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với tài sản gắn liền với đất hình thành trƣớc khi có bản án, quyết
định sơ thẩm nhƣng bản án, quyết định đƣợc thi hành không tuyên rõ việc xử
lý đối với tài sản đó thì cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu Tòa án đã ra bản
án, quyết định giải thích rõ việc xử lý đối với tài sản hoặc đề nghị Tòa án có
thẩm quyền xem xét lại nội dung bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Cưỡng chế giao, trả giấy tờ
Cƣỡng chế giao, trả giấy tờ có thể đƣợc áp dụng độc lập hoặc áp dụng
đồng thời với các biện pháp cƣỡng chế khác nhƣ cƣỡng chế trả vật, trả nhà,
chuyển giao quyền sử dụng đất; kê biên, xử lý những tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm; kê biên quyền sở hữu trí tuệ
nếu nhƣ trƣớc đó Chấp hành viên chƣa tạm giữ, thu giữ những giấy tờ liên
quan đến tài sản đã kê biên. Theo quy định tại Điều 116 Luật THADS SĐBS
2014, trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án, ngƣời đang quản lý các giấy tờ liên
quan đến việc thi hành án không tự nguyện giao, nộp các giấy tờ theo yêu cầu
của Chấp hành viên để thi hành án thì Chấp hành viên tiến hành cƣỡng chế;
nếu giấy tờ không thu hồi đƣợc nhƣng có thể cấp lại thì Chấp hành viên yêu
cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy
tờ mới cho ngƣời đƣợc thi hành án, ngƣời mua đƣợc tài sản bán đấu giá.
f. Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện hoặc không được thực
hiện công việc nhất định
- Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện công việc nhất định:
Trƣờng hợp bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật buộc ngƣời phải thi hành
án có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc nhất định mà ngƣời này không
thực hiện thì Chấp hành viên ra quyết định phạt tiền và ấn định thời hạn 05
82
ngày làm việc để ngƣời đó thực hiện công việc, tính từ thời điểm ra quyết
định phạt tiền. Nếu hết thời hạn nói trên, ngƣời phải thi hành án không thực
hiện thì đối với trƣờng hợp công việc có thể giao cho ngƣời khác thực hiện
thay thì Chấp hành viên giao cho ngƣời khác thực hiện, chi phí cho việc thực
hiện do ngƣời phải thi hành án chi trả; trƣờng hợp công việc bắt buộc phải do
ngƣời phải thi hành án thực hiện thì Chấp hành viên đề nghị cơ quan có thẩm
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án.
Việc cƣỡng chế giao ngƣời chƣa thành niên cho ngƣời đƣợc giao nuôi
dƣỡng theo bản án, quyết định và buộc nhận ngƣời lao động trở lại làm việc đƣợc
thực hiện theo quy định tại Điều 120 và Điều 121 Luật THADS SĐBS 2014.
- Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ không được thực hiện một công việc
nhất định: Theo quy định tại Điều 119 Luật THADS SĐBS 2014 thì ngƣời
phải thi hành án không tự nguyện chấm dứt việc thực hiện công việc mà theo
bản án, quyết định không đƣợc thực hiện thì Chấp hành viên ra quyết định
phạt tiền đối với ngƣời đó, trong trƣờng hợp cần thiết có thể yêu cầu họ khôi
phục hiện trạng ban đầu. Trƣờng hợp ngƣời đó vẫn không chấm dứt công việc
không đƣợc làm, không khôi phục lại hiện trạng ban đầu thì Chấp hành viên
đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không
83
chấp hành án.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Chƣơng 2 đã thể hiện các vấn đề cốt lõi trong pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở nƣớc ta hiện nay mà cụ thể là Luật
thi hành án dân sự; Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ
Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số Điều của Luật thi hành án dân
sự; Thông tƣ số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tƣ pháp Quy định
chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên
ngành thi hành án dân sự; … các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Chi cục thi hành án dân sự hiện hành cơ bản đã tạo khung pháp lý để cơ
quan thi hành án dân sự nói chung và các Chi cục thi hành án dân sự nói riêng
thực hiện một cách hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, khách quan quá trình phát triển về mọi mặt của đất nƣớc,
trong đó có sự phát triển vƣợt bậc của nền kinh tế tất yếu kéo theo sự biến
động, thay đổi về nhiều mặt của các mối quan hệ xã hội và bộc lộ một số hạn
chế nhất định trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự
nói chung và của các Chi cục thi hành án dân sự nói riêng.
Những bất cập trong pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay sẽ đƣợc tác giả đề cập, phân tích và có
84
các ý kiến kiến nghị hoàn thiện ở Chƣơng 3 của luận văn.
Chương 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY, QUAN
ĐIỂM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
3.1. Một số bất cập trong pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Về tổ chức
- Về điều kiện thi nâng ngạch công chức: Theo quy định của pháp luật
về cán bộ, công chức, Thông tƣ số 05/2017/TT-BNV của Bộ Nội vụ thì công
chức đƣợc dự thi nâng ngạch lên chuyên viên chính, thời gian giữ ngạch
chuyên viên và tƣơng đƣơng là 9 năm, trong đó thời gian giữ ngạch chuyên
viên chỉ đủ 12 tháng; nâng ngạch lên chuyên viên cao cấp thì thời gian giữ
ngạch chuyên viên chính và tƣơng đƣơng là 6 năm, trong đó thời gian giữ
ngạch chuyên viên chính chỉ đủ 12 tháng. Tuy nhiên, theo quy định của Luật
Thi hành án dân sự, Thông tƣ số 03/2017/TT-BTP của Bộ Tƣ pháp thì để
đƣợc tham gia dự thi nâng ngạch lên chấp hành viên trung cấp, chấp hành
viên cao cấp thì thời gian giữ ngạch chấp hành viên sơ cấp (thi lên chấp hành
viên trung cấp), chấp hành viên trung cấp (thi lên chấp hành viên cao cấp) là
phải đủ 5 năm (60 tháng). Quy định nhƣ trên là rất bất hợp lý, vì hiện tại trong
hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, lực lƣợng cán bộ còn rất mỏng, nhất là
công chức giữ chức vụ lãnh đạo. Việc yêu cầu công chức mới đƣợc điều
động, luân chuyển, bổ nhiệm từ các ngạch công chức khác, cơ quan khác giữ
chức vụ lãnh đạo có thời gian giữ ngạch chấp hành viên đủ 5 năm không
những không phù hợp với các quy định của Luật Cán bộ, công chức mà còn
không đảm bảo chế độ, chính sách, không khuyến khích công chức ở các
ngạch khác, ngành khác về công tác trong điều kiện cơ quan thi hành án dân
85
sự còn rất thiếu lực lƣợng.
- Về xử lý kỷ luật công chức:
Theo khoản 2, Điều 79 Luật cán bộ công chức năm 2008 quy định:
1. Công chức vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm
phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây: a) Khiển
trách; b) Cảnh cáo; c) Hạ bậc lƣơng; d) Giáng chức; đ) Cách chức;
e) Buộc thôi việc. 2. Việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối
với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Nhƣ vậy, việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ
chức vụ lãnh đạo, quản lý, tuy nhiên Điều 65 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy
định cách chức Chấp hành viên (là chức danh tƣ pháp không phải là chức
danh lãnh đạo), theo đó:
Chấp hành viên có thể bị cách chức Chấp hành viên khi thuộc một
trong các trƣờng hợp sau đây: 1. Vi phạm quy định của pháp luật
trong quá trình tổ chức thi hành án chƣa đến mức bị buộc thôi việc
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự nhƣng xét thấy cần phải áp dụng
hình thức kỷ luật cách chức Chấp hành viên. 2. Vi phạm nghiêm
trọng quy định tại Điều 21 Luật Thi hành án dân sự mà xét thấy cần
thiết phải áp dụng hình thức kỷ luật cách chức Chấp hành viên.
Trình tự, thủ tục xét đề nghị Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp quyết định cách
chức Chấp hành viên thực hiện theo quy định về kỷ luật đối với cán
bộ, công chức là chƣa phù hợp với Luật Cán bộ công chức.
3.1.2. Về hoạt động
- Về thẩm quyền ra quyết định thi hành án
Tại điểm i khoản 2 Điều 35 Luật thi hành án dân sự quy định: Cục thi
hành án dân sự có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định quy định tại
86
khoản 1 Điều 35 Luật thi hành án dân sự mà có đƣơng sự hoặc tài sản ở nƣớc
ngoài hoặc cần phải ủy thác tƣ pháp về thi hành án. Quy định nhƣ trên chƣa
phân định rõ thẩm quyền ra quyết định thi hành án khoản chủ động đối với
trƣờng hợp bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm cấp huyện xét xử các vụ
việc liên quan đến Công ty của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam hoặc
ngƣời Việt Nam đang cƣ trú tại nƣớc ngoài.
- Về thời hạn xác minh: tại khoản 1 Điều 44 Luật THADS SDDBS
2014 quy định, Chấp hành viên tiến hành xác minh trong thời hạn 10 ngày kể
từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà ngƣời phải thi hành án không
tự nguyện thi hành; trƣờng hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay. Việc quy định nhƣ trên gây bất
lợi cho Chấp hành viên trong trƣờng hợp cùng một lúc nhận nhiều hồ sơ thi
hành án hoặc hồ sơ thi hành án có nhiều ngƣời phải thi hành án hoặc địa điểm
xác minh cách xa trụ sở làm việc.
- Về xác định việc chưa có điều kiện thi hành án
Xác định việc chƣa có điều kiện thi hành án theo quy định tại Điều 44a
Luật thi hành án dân sự còn chung chung, chƣa phân tách đƣợc những phần
có điều kiện thi hành và phần chƣa có điều kiện thi hành, phản ánh chƣa đúng
thực chất điều kiện thi hành án của đƣơng sự (Ví dụ: Số tiền phải thi hành án
rất lớn khoảng 100 tỷ, ngƣời phải thi hành án chỉ có tài sản duy nhất và đang
đƣợc xử lý để thi hành án với giá trị khoảng 10 tỷ. Theo quy định hiện hành
thì vụ việc có giá trị phải thi hành là 100 tỷ đƣợc xếp vào diện có điều kiện thi
hành nhƣng trên thực tế chỉ có điều kiện thi hành khoảng 10 tỷ. Nhƣ vậy, việc
xếp cả số tiền khoảng 90 tỷ thuộc diện có điều kiện thi hành là chƣa phù hợp
vì bản chất số tiền 90 tỷ là thuộc diện chƣa có điều kiện và cần phải đƣa vào
diện chƣa có điều kiện thi hành). Ngoài ra, nhiều trƣờng hợp thuộc diện chƣa
có điều kiện thi hành nhƣng Luật chƣa quy định để xác định việc chƣa có điều
87
kiện thi hành án (Ví dụ: ngƣời phải thi hành án là ngƣời nƣớc ngoài nhƣng địa
chỉ không rõ ràng nên không thể thực hiện việc yêu cầu tƣơng trợ tƣ pháp về
dân sự trong thi hành án theo quy định tại Điều 181 của Luật thi hành án dân
sự; tài sản đảm bảo là động sản bản án tuyên xử lý để thi hành án nhƣng qua
xác minh tài sản không còn hoặc không xác định đƣợc tài sản ở đâu....).
- Về ủy thác thi hành án dân sự
Ủy thác thi hành án dân sự đƣợc quy định tại Điều 55, 56, 57 của Luật
thi hành án dân sự và Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015
của Chính phủ. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định trên để thực
hiện việc ủy thác thi hành án dân sự, các cơ quan thi hành án dân sự gặp một số
khó khăn, vƣớng mắc nhất định, đặc biệt là đối với các vụ án hình sự về kinh
tế, tham nhũng, án tín dụng ngân hàng. Đặc điểm của các vụ án hình sự về kinh
tế, tham nhũng là có số tiền phải thi hành án lớn, số lƣợng tài sản kê biên để
đảm bảo thi hành án nhiều và nằm rải rác ở nhiều địa phƣơng trên cả nƣớc.
Nếu áp dụng quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật thi hành án dân sự thì cơ quan
thi hành án dân sự phải xử lý xong các tài sản kê biên có tại địa bàn rồi mới
đƣợc phép ủy thác đến cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài sản kê biên khác
để tiếp tục xử lý. Trong khi đó, các tài sản kê biên có tại địa bàn chƣa thể xử lý
ngay đƣợc vì nhiều lý do khác nhau nhƣ hiện trạng pháp lý chƣa rõ ràng, chƣa
xác định đƣợc ranh giới trên thực địa, có sự chênh lệch về diện tích đo đạc thực
tế với diện tích trong quyết định kê biên hoặc giấy chứng nhận, bán đấu giá
nhiều lần nhƣng không có ngƣời mua, đƣơng sự liên tục có khiếu nại, tố cáo
nên quá trình tổ chức thi hành án bị đình trệ, ... Do vậy, các tài sản kê biên tại
địa phƣơng khác phải chờ một khoảng thời gian dài để đƣợc xử lý, dễ dẫn đến
tình trạng hƣ hỏng, xuống cấp, giảm giá trị, bị lấn chiếm, sử dụng trái phép,
làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của các bên liên quan, gây khó khăn cho quá
trình tổ chức thi hành án sau này, dễ nảy sinh khiếu nại, tố cáo của đƣơng sự và
88
làm chậm quá trình thu hồi tiền, tài sản thi hành án.
Mặc dù Khoản 3 Điều 16 Nghị định số 62 đã cho phép cơ quan thi hành
án dân sự đƣợc ủy thác việc xử lý các tài sản kê biên ở nơi khác với điều kiện
tài sản đó đƣợc bảo đảm cho một nghĩa vụ cụ thể. Tuy nhiên, nhiều cơ quan
thi hành án dân sự cho rằng Nghị định là văn bản dƣới luật, vì vậy không
nhận ủy thác thi hành án để xử lý tài sản bảo đảm khi cơ quan thi hành án dân
sự ủy thác chƣa xử lý xong tài sản bảo đảm (tức là, chỉ đƣợc áp dụng Khoản 3
Điều 16 Nghị định số 62 khi đã xử lý xong các tài sản kê biên có trên địa bàn
theo quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật thi hành án dân sự; nếu chƣa xử lý
xong các tài sản kê biên có trên địa bàn thì không đƣợc áp dụng quy định tại
Khoản 3 Điều 16 Nghị định số 62).
Trong bối cảnh hiện nay, nhiều vụ án vụ án kinh tế, tham nhũng điển
hình có khó khăn, vƣớng mắc liên quan đến ủy thác thi hành án dân sự, mặc
dù Bộ Tƣ pháp đã tích cực phối hợp thống nhất quan điểm với Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Ban Nội chính Trung ƣơng để
giải quyết theo hƣớng cho phép cơ quan thi hành án dân sự đƣợc ủy thác đến
nơi có tài sản để xử lý mà không cần chờ kết quả xử lý tài sản có tại địa bàn.
Tuy nhiên, liên ngành Trung ƣơng thống nhất đây chỉ là phƣơng án áp dụng
cho từng vụ việc cụ thể mà không áp dụng chung toàn quốc, do đó khi có khó
khăn, vƣớng mắc của từng vụ việc cụ thể thì Bộ Tƣ pháp phải tổ chức họp,
xin ý kiến các cơ quan có liên quan để giải quyết nên quá trình tổ chức thi
hành án các vụ việc khác có nội dung tƣơng tự có thể sẽ kéo dài khi phải chờ
ý kiến của liên ngành tại Trung ƣơng mới đƣợc ủy thác để xử lý tài sản. Vì
vậy, cần thiết phải nghiên cứu để sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật
THADS để kịp thời giải quyết vƣớng mắc này.
Bên cạnh đó, trƣờng hợp thi hành án cấp dƣỡng theo định kỳ thì hiện
nay Luật thi hành án dân sự chƣa quy định vấn đề thẩm quyền ra quyết định
89
thi hành án đối với nghĩa vụ cấp dƣỡng của kỳ tiếp theo trong trƣờng hợp ủy
thác thi hành án và ngƣời đƣợc thi hành án có yêu cầu thi hành án. Với các
quy định của Luật thi hành án dân sự hiện nay thì có thể hiểu là đối với án cấp
dƣỡng theo định kỳ, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án ban đầu có
thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với nghĩa vụ cấp dƣỡng của kỳ tiếp
theo. Điều này gây khó khăn cho ngƣời đƣợc thi hành án trong quá trình yêu
cầu thi hành án cũng nhƣ cho chính các cơ quan thi hành án ra quyết định ban
đầu khi phải thực hiện lại các quy trình thụ lý, xác minh và ủy thác.
+ Về tạm giao quản lý, khai thác, sử dụng diện tích đất đã kê biên, tại
khoản 1Điều Luật THADS SĐBS 2014 quy định, trƣờng hợp diện tích đất đã
kê biên đang do ngƣời phải thi hành án quản lý, khai thác, sử dụng thì Chấp
hành viên tạm giao diện tích đất đã kê biên cho ngƣời đó. Tuy nhiên, trên thực
tế, nhiều trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án thay đổi hiện trạng, làm giảm giá
trị tài sản thi hành án hoặc ngƣời phải thi hành án không hợp tác trong việc
bàn giao quyền sử dụng đất khi quyền sử dụng đất đã kê biên, bán đấu giá
thành cho ngƣời mua trúng đấu giá. Điều này dẫn đến việc cơ quan thi hành
án phải tiến hành cƣỡng chế để chuyển giao quyền sử dụng đất, gây phát sinh
chi phí, rủi ro pháp lý và nguy cơ mất ổn định an ninh trật tự.
- Về thứ tự thanh toán tiền thi hành án
Điểm b khoản 2 Điều 47 Luật THADS quy định:
2. Trƣờng hợp có nhiều ngƣời đƣợc thi hành án thì việc thanh
toán tiền thi hành án đƣợc thực hiện nhƣ sau:…b) Số tiền thi
hành án thu theo quyết định cƣỡng chế thi hành án đƣợc thanh
toán cho những ngƣời đƣợc thi hành án tính đến thời điểm có
quyết định cƣỡng chế đó; số tiền còn lại đƣợc thanh toán cho
những ngƣời đƣợc thi hành án theo các quyết định thi hành án
90
khác tính đến thời điểm thanh toán.
Khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định:
1. Trƣờng hợp thanh toán tiền thi hành án theo quy định tại Điểm b
Khoản 2 Điều 47 Luật THADS thì Chấp hành viên xác định số tiền
đƣợc thanh toán của những ngƣời đƣợc thi hành án đã yêu cầu thi
hành án tính đến thời điểm có quyết định cƣỡng chế thi hành án.
Trƣờng hợp bản án, quyết định đang do cơ quan thi hành án dân sự
tổ chức thi hành xác định nhiều ngƣời đƣợc thi hành án nhƣng chỉ
một hoặc một số ngƣời yêu cầu thi hành án mà tài sản của ngƣời
phải thi hành án không đủ để thi hành nghĩa vụ tài sản theo bản án,
quyết định thì cơ quan thi hành án dân sự thanh toán cho ngƣời đã
yêu cầu thi hành án theo tỉ lệ mà họ đƣợc nhận, số tiền còn lại gửi
vào ngân hàng theo loại tiền gửi kỳ hạn 01 tháng, đồng thời thông
báo và ấn định thời hạn không quá 01 tháng cho những ngƣời đƣợc
thi hành án chƣa yêu cầu về quyền yêu cầu thi hành án, trừ trƣờng
hợp đã hết thời hiệu.
Hết thời hạn thông báo mà cơ quan thi hành án dân sự không nhận
đƣợc yêu cầu thi hành án thì số tiền đã gửi và tiền lãi đƣợc thanh
toán tiếp cho những ngƣời đã có yêu cầu thi hành án tính đến thời
điểm hết thời hạn thông báo; số tiền còn lại, nếu có, đƣợc thanh
toán cho những ngƣời đƣợc thi hành án theo các quyết định thi hành
án khác tính đến thời điểm thanh toán hoặc trả lại cho ngƣời phải
thi hành án.
Khoản 2 Điều 6 Thông tƣ liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-
VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định:
2. Trƣờng hợp thực hiện theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47
Luật THADS và khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP
91
ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và
hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS thì cơ quan thi
hành án dân sự xác định rõ những bản án, quyết định đang trực tiếp
tổ chức thi hành có trƣớc thời điểm có quyết định cƣỡng chế thi
hành án mà có nhiều ngƣời đƣợc thi hành án để xác định ngƣời đã
yêu cầu thi hành án, ngƣời chƣa yêu cầu thi hành án; số tiền đƣợc
thanh toán của ngƣời đã yêu cầu thi hành án và của ngƣời chƣa yêu
cầu thi hành án theo các bản án, quyết định đó.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận đƣợc tiền, cơ quan thi
hành án dân sự chi trả cho ngƣời đã yêu cầu thi hành án số tiền theo
tỷ lệ mà họ đƣợc nhận, đồng thời thông báo cho những ngƣời đƣợc
thi hành án chƣa yêu cầu thi hành bản án, quyết định đó về quyền
yêu cầu thi hành án. Việc thông báo đƣợc thực hiện theo địa chỉ có
tại bản án, quyết định qua dịch vụ bƣu chính bằng thƣ bảo đảm.
Trong thời hạn đã ấn định mà tiếp tục nhận đƣợc yêu cầu thi hành
án thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo quy
định và chi trả cho họ số tiền đã gửi, tiền lãi theo tỷ lệ đã đƣợc xác
định, số tiền của những ngƣời không yêu cầu thi hành án còn lại
đƣợc thanh toán tiếp cho những ngƣời đã có yêu cầu thi hành bản
án, quyết định đó tính đến thời điểm hết thời hạn thông báo. Số tiền
còn lại đƣợc thanh toán cho những ngƣời đƣợc thi hành án theo các
quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán.
Khi áp dụng các quy định trên, cơ quan thi hành án dân sự gặp nhiều
khó khăn, vì có nhiều cách hiểu khác nhau: Số tiền thi hành án thu theo quyết
định cưỡng chế thi hành án được thanh toán cho những người được thi hành
án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó, vậy “ngƣời đƣợc thi hành
án” ở đây đƣợc hiểu là ngƣời đƣợc thi hành án đã có yêu cầu thi hành án hay
92
bao gồm cả những ngƣời chƣa có yêu cầu thi hành án? Của bản án, quyết định
do cùng một cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành hay cả những bản
án, quyết định của các cơ quan thi hành án khác thi hành? Việc thông báo cho
những ngƣời đƣợc thi hành án chƣa yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều 49
Nghị định số 62/NĐ-CP đƣợc hiểu là thông báo cho những ngƣời đƣợc thi
hành án giới hạn trong một bản án, quyết định đã có quyết định thi hành án
(kể cả chỉ mới ra quyết định chủ động thi hành án) hay phải thực hiện việc
thông báo cho tất cả những ngƣời đƣợc thi hành án trong những bản án, quyết
định mà cơ quan THADS đó đang trực tiếp tổ chức thi hành?
- Về đình chỉ thi hành án
Khi có căn cứ tại điểm c, khoản 1 Điều 50 Luật (Đƣơng sự có thỏa
thuận bằng văn bản hoặc ngƣời đƣợc thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan
thi hành án dân sự đình chỉ thi hành) thì cơ quan THADS ra quyết định đình
chỉ thi hành án. Tuy nhiên, điều luật chƣa quy định việc ngƣời đƣợc thi hành
án không có quyền yêu cầu thi hành án trở lại khi đã ra quyết định đình chỉ
trong trƣờng hợp này (chỉ mới thể hiện trong biểu mẫu của quyết định đình
chỉ thi hành án quy định tại Thông tƣ 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016
hƣớng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp
vụ trong THADS). Mặt khác, Luật cũng chƣa giải quyết trƣờng hợp đình chỉ
thi hành án để đƣơng sự yêu cầu thi hành án tại Văn phòng Thừa phát lại mà
sau đó lại yêu cầu thi hành án tại cơ quan THADS.
- Về phân chia, xử lý tài sản chung
Theo khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự quy định:
1. Trƣờng hợp chƣa xác định đƣợc phần quyền sở hữu tài sản, phần
quyền sử dụng đất của ngƣời phải thi hành án trong khối tài sản
chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho ngƣời
phải thi hành án và những ngƣời có quyền sở hữu chung đối với tài
93
sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản
chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đƣợc thông báo mà các bên
không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6
của Luật này hoặc thỏa thuận không đƣợc và không yêu cầu Tòa án
giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho ngƣời đƣợc thi hành án
có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần
quyền sử dụng đất của ngƣời phải thi hành án trong khối tài sản
chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận đƣợc thông báo mà ngƣời đƣợc thi hành án không yêu cầu
Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần
quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của ngƣời phải thi
hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp
hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.
Nhƣ vậy, nếu đƣơng sự không thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải
quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Tuy
nhiên, theo điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định:
Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng
thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy
định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ,
chồng biết. Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất
chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử
dụng theo số lƣợng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập
quyền sở hữu tài sản, thời điểm đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê
đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.
Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng
cho các thành viên trong hộ gia đình biết. Trƣờng hợp vợ hoặc
chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác
94
định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài
sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày đƣợc thông báo hợp
lệ. Hết thời hạn này mà không có ngƣời khởi kiện thì Chấp hành
viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng
hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở
hữu, sử dụng của họ.
Theo đó, Chấp hành viên sẽ tiến hành tự phân chia tài sản chung của vợ
chồng, hộ gia đình trong trƣờng hợp đƣơng sự không thỏa thuận, không yêu
cầu Tòa án giải quyết.
+ Về việc hỗ trợ tiền thuê nhà trong trƣờng hợp xử lý tài sản là nhà ở
duy nhất: Khoản 5 Điều 115 Luật THADS SDDBS 2014 quy định sau khi
thanh toán các khoản nghĩa vụ mà ngƣời phải thi hành án không còn tiền để
thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì cơ quan thi hành án dân sự trích lại một
khoản tiền để ngƣời đó thuê nhà (giá thuê trung bình tại địa phƣơng) trong
thời hạn 01 năm. Đây là chính sách nhân đạo nhằm đảm bảo nơi cƣ trú tối
thiểu cho ngƣời phải thi hành án khi bị cƣỡng chế giao nhà nhằm ổn định tình
hình an ninh trật tự tại địa phƣơng. Tuy nhiên, Nghị quyết số 42/2017/QH14
quy định ƣu tiên thanh toán cho tổ chức tín dụng trƣớc khi thực hiện các
nghĩa vụ khác. Đối với trƣờng hợp này, thông thƣờng các Chấp hành viên vận
động các tổ chức tín dụng là ngƣời đƣợc thi hành án hỗ trợ tiền để thuê nhà
cho ngƣời bị cƣỡng chế tài sản là nhà ở duy nhất. Có nhiều trƣờng hợp tổ
chức tín dụng đồng ý hỗ trợ tiền để thuê nhà cho ngƣời bị cƣỡng chế, tuy
nhiên cũng có không ít các trƣờng hợp, các tổ chức tín dụng không chấp nhận
hỗ trợ tiền để thuê nhà cho ngƣời bị cƣỡng chế, gây khó khăn cho cơ quan thi
hành án khi tiến hành cƣỡng chế.
- Về miễn, giảm thi hành án
Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 5 của Thông tƣ liên tịch số
95
12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC thì đối với khoản án phí, lệ
phí, khoản tiền phạt, sung công trong các bản án hình sự, cơ quan thi hành án
dân sự phải xác minh điều kiện thi hành án của ngƣời phải thi hành án để làm
căn cứ xét miễn, giảm thi hành án. Tuy nhiên, có nhiều vụ việc đƣơng sự
đang chấp hành hình phạt tù với thời hạn dài hoặc đƣơng sự đã đi khỏi nơi cƣ
trú, không xác định đƣợc địa chỉ nên việc xác minh không đạt kết quả, không
đáp ứng đƣợc điều kiện này.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tƣ liên tịch số
12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC, để đƣợc xét miễn, giảm đối
với khoản tiền phải thu, nộp ngân sách thì ngƣời phải thi hành án phải nộp ít
nhất 1/50 khoản tiền phải thi hành. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết những
ngƣời phải thi hành án không đáp ứng đƣợc điều kiện này.
Ngoài ra, đối với ngƣời phải thi hành án là tổ chức, doanh nghiệp
không còn hoạt động nhƣng chƣa bị tuyên bố phá sản theo quy định của Luật
phá sản, pháp luật thi hành án dân sự hiện hành chƣa có quy định cụ thể về
trình tự, thủ tục, điều kiện miễn, giảm cho các đối tƣợng này.
3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi
hành án dân sự phải gắn liền với quan điểm, đường lối của Đảng về xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Quan điểm và đƣờng lối của Đảng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động
của Nhà nƣớc, các tổ chức, cá nhân và đƣợc thể chế hóa để áp dụng vào thực
tiễn cuộc sống thông qua các quy định của pháp luật. Việc hoàn thiện pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở nƣớc ta hiện
nay phải gắn liền và không đƣợc tách rời với các quan điểm, đƣờng lối của
96
Đảng. Cụ thể là:
Mục tiêu “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống
nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế
xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để
góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế, xây dựng nhà nƣớc trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con
ngƣời, quyền tự do dân chủ của công dân, góp phần đƣa nƣớc ta trở thành
nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại vào năm 2020” theo nội dung Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “về chiến lƣợc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến 2010, định hƣớng đến năm 2020”.
Và nhiệm vụ “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh
vực tƣ pháp phù hợp với mục tiêu chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự, bảo đảm quyền lợi, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ
dân sự phát triển lành mạnh” theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị “về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020”.
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay phải được đặt trong tổng thể hoàn
thiện cả hệ thống pháp luật Việt Nam
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự là
một bộ phận của pháp luật dân sự nhƣng có mối quan hệ chặt chẽ và tác động
qua lại với nhiều bộ phận khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Chính vì
vậy, việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành
án dân sự phải đƣợc đặt trong mối liên hệ với việc hoàn thiện của các bộ phận
pháp luật khác có liên quan.
97
Điều này đòi hỏi quá trình hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Chi cục thi hành án dân sự ngoài vấn đề đáp ứng các yêu cầu của thực
tiễn cần phải gắn liền với việc rà soát các bộ phận pháp luật khác có liên quan
và ngƣợc lại, mức độ hoàn thiện của pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chi cục thi hành án dân sự cũng ảnh hƣởng đến quá trình hoàn thiện của các
bộ phận pháp luật khác. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi
hành án dân sự phải đƣợc hoàn thiện và đồng bộ với các bộ phận khác của hệ
thống pháp luật, góp phần tạo nên hệ thống pháp luật đồng bộ, thông suốt.
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi
cục thi hành án dân sự trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu có chọn
lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới
Pháp luật về thi hành án dân sự nói chung và pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở nƣớc ta nói riêng trong thời gian
vừa qua đã có những bƣớc phát triển và ngày càng hoàn thiện, góp phần
không nhỏ trong việc duy trì và ổn định xã hội và nền kinh tế của đất nƣớc.
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hệ thống pháp luật các nƣớc ngày
càng tiệm cận với nhau hơn; cùng với sự vận động liên tục của xã hội, sự phát
triển không ngừng của nền kinh tế đất nƣớc, thì hệ thống pháp luật, pháp luật
về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự luôn cần đƣợc quan
tâm nghiên cứu, hoàn thiện. Trong đó, nghiên cứu pháp luật thế giới, pháp
luật về thi hành án dân sự của các quốc gia trên thế giới để chọn lọc tiếp thu
kinh nghiệm phù hợp là cần thiết.
Bên cạnh đó, với vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế, ở góc
độ nào đó là sự đảm bảo cho các mối quan hệ kinh tế, trong đó có các mối
quan hệ kinh tế có yếu tố nƣớc ngoài thì trong quá trình hoàn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự cũng cần tạo nên sự
98
phù hợp nhất định với những nguyên tắc, thông lệ phổ biến với pháp luật thi
hành án dân sự trên thế giới để tránh tình trạng lạc hậu so với pháp luật của
các quốc gia trên thế giới và khu vực, làm giảm mức độ hấp dẫn đối với các
nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, ảnh hƣởng đến nền kinh tế đất nƣớc.
Tuy nhiên, bản thân pháp luật có tính kế thừa nhƣng cũng mang tính
đặc thù xã hội và văn hóa. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện pháp luật
về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự cần dựa trên đặc thù
về văn hóa và xã hội Việt Nam; việc nghiên cứu các quy phạm pháp luật của
các quốc gia trên thế giới mang tính chất tham khảo, học hỏi kinh nghiệm để
từ đó lựa chọn những chính sách phù hợp đối với Việt Nam.
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi
hành án dân sự phải đảm bảo hiệu lực, hiệu quả áp dụng trên thực tế
Chức năng cơ bản của pháp luật là chức năng điều chỉnh, pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội và hƣớng các quan hệ này theo hƣớng có lợi. Pháp
luật phải có tính khả thi trên thực tiễn, nếu pháp luật không có tính khả thi
trên thực tiễn thì pháp luật đó chỉ mang tính hình thức.
Thực tế những năm vừa qua, hệ thống pháp luật nƣớc ta ngày càng phát
triển về số lƣợng nhƣng không đồng nghĩa với tăng trƣởng về chất lƣợng.
Nhiều văn bản pháp luật đƣợc ban hành mới hay nhiều văn bản pháp luật
đƣợc sửa đổi, bổ sung nhƣng không đi vào thực tiễn cuộc sống, làm tăng thêm
sự rƣờm rà, chồng chéo cho hệ thống văn bản pháp luật.
Chính vì thế, khi xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự phải tính
đến tính khả thi và hiệu quả một cách đầy đủ, toàn diện, trong đó phải hết sức
chú ý đến các điều kiện về cơ chế tổ chức, đội ngũ cán bộ, Chấp hành viên,
Thẩm tra viên, Thƣ ký thi hành án và các điều kiện khác nhằm đảm bảo áp
99
dụng pháp luật một cách hiệu quả.
3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay
3.3.1. Về tổ chức
- Để bảo đảm sự thống nhất trong quy định về điều kiện thi nâng ngạch
Chấp hành viên với các quy định pháp luật về cán bộ, công chức, các văn bản
hƣớng dẫn của Bộ nội vụ - cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về
lĩnh vực cán bộ, công chức, viên chức nhà nƣớc thì thay vì quy định phải giữ
ngạch Chấp hành viên phải đủ 05 năm (60 tháng) mới đƣợc dự thi nâng ngạch
lên Chấp hành viên trung cấp nhƣ hiện nay, kiến nghị sửa đổi điều kiện để
đƣợc dự thi nâng ngạch lên Chấp hành viên trung cấp là có thời gian giữ
ngạch Chấp hành viên hoặc tƣơng đƣơng đủ 05 năm (60 tháng) trong đó có ít
nhất 12 tháng giữ ngạch Chấp hành viên thì đƣợc dự thi nâng ngạch Chấp
hành viên trung cấp.
- Về xử lý kỷ luật công chức, kiến nghị sửa đổi Điều 65 Nghị định theo
hƣớng: “Chấp hành viên có thể bị cách chức Chấp hành viên khi thuộc một
trong các trường hợp sau đây: 1. Vi phạm quy định của pháp luật trong quá
trình tổ chức thi hành án chưa đến mức bị buộc thôi việc hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự nhưng xét thấy cần phải áp dụng hình thức kỷ luật cách chức
Chấp hành viên. 2. Vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 21 Luật Thi hành
án dân sự mà xét thấy cần thiết phải áp dụng hình thức kỷ luật cách chức
Chấp hành viên. Trình tự, thủ tục xét đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết
định cách chức Chấp hành viên thực hiện theo quy định về kỷ luật đối với cán
bộ, công chức”.
3.3.2. Về hoạt động
- Kiến nghị bỏ điểm i khoản 2 Điều 35 Luật thi hành án dân sự và quy
định thẩm quyền ra quyết định thi hành án khoản chủ động đối với bản án,
100
quyết định của Tòa án sơ thẩm cấp huyện xét xử các vụ việc có liên quan đến
yếu tố nƣớc ngoài thuộc diện Cục thi hành án dân sự thấy cần thiết lấy lên để
thi hành (tổ chức thi hành hoặc thực hiện các thủ tục ủy thác tƣ pháp) vào
điểm h khoản 2 Điều 35 luật thi hành án dân sự để giải quyết bất cập do
không phân định rõ thẩm quyền ra quyết định thi hành án.
- Kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 44 Luật THADS SĐBS 2014 theo
hƣớng tăng thời hạn xác minh điều kiện thi hành án do thực tế hiện nay,
lƣợng hồ sơ thi hành án Chấp hành viên trực tiếp giải quyết có số lƣợng lớn,
đồng thời trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án, địa điểm xác minh cách xa trụ
sở của cơ quan thi hành án dân sự thì Chấp hành viên không thể đảm bảo
đƣợc thời hạn xác minh. Đề xuất nâng thời hạn Chấp hành viên tiến hành xác
minh lên thành 15 ngày tính từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà
ngƣời phải thi hành án không tự nguyện thi hành thay vì 10 ngày nhƣ quy
định hiện nay của Luật THADS.
- Kiến nghị bổ sung các căn cứ nhƣ: ngƣời phải thi hành án là ngƣời
nƣớc ngoài nhƣng địa chỉ không rõ ràng nên không thể thực hiện việc yêu cầu
tƣơng trợ tƣ pháp về dân sự trong thi hành án theo quy định tại Điều 181 của
Luật thi hành án dân sự; tài sản đảm bảo là động sản bản án tuyên xử lý để thi
hành án nhƣng qua xác minh tài sản không còn hoặc không xác định đƣợc tài
sản ở đâu, … để bổ sung vào các căn cứ xác định việc chƣa có điều kiện thi
hành án quy định tại khoản 1 Điều 44a Luật thi hành án dân sự và cho xác
định việc chƣa có điều kiện một phần trong trƣờng hợp khoản phải thi hành
án lớn nhƣng giá trị tài sản của ngƣời phải thi hành án theo xác minh có giá trị
không đáng kể để đảm bảo khách quan trong kết quả hoạt động của các cơ
quan thi hành án.
- Về ủy thác thi hành án dân sự:
Kiến nghị bổ sung nội dung quy định rõ trƣờng hợp “bản án, quyết định
101
tuyên tài sản đảm bảo cho khoản phải thi hành án cụ thể mà tài sản đó ở nơi
khác thì có thể ủy thác khoản phải thi hành án mà tài sản đó bảo đảm cho cơ
quan thi hành án dân sự nơi có tài sản bảo đảm” đã đƣợc quy định tại khoản 3
Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP để tránh tình trạng áp dụng không thống
nhất do nhiều cơ quan thi hành án dân sự cho rằng phải xử lý xong tài sản bảo
đảm mới đƣợc ủy thác thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật thi
hành án dân sự chứ không áp dụng khoản 3 Điều 13 Nghị định 62/2015/NĐ-
CP do Nghị định 62/2015/NĐ-CP là văn bản dƣới Luật, có giá trị pháp lý thấp
hơn Luật, gây ảnh hƣởng đến quá trình, hiệu quả thi hành án, ảnh hƣởng đến
quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc và các tổ chức, cá nhân khác.
Đối với án cấp dƣỡng theo định kỳ, đề nghị có quy định cụ thể về
thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với nghĩa vụ kỳ kế tiếp trong
trƣờng hợp ủy thác và ngƣời đƣợc thi hành án có yêu cầu thi hành án. Vì
vậy, kiến nghị bổ sung quy định về thẩm quyền ra quyết định thi hành án
đối với trƣờng hợp thi hành án cấp dƣỡng theo định kỳ thì trong trƣờng hợp
ủy thác thi hành án, cơ quan nhận ủy thác thi hành án có thẩm quyền ra
quyết định thi hành án đối với nghĩa vụ thi hành án cấp dƣỡng kỳ tiếp theo
yêu cầu của ngƣời đƣợc thi hành án.
Ngoài ra, kiến nghị bổ sung quy định về trƣờng hợp ủy thác đến nơi
ngƣời đƣợc thi hành án có điều kiện thực hiện quyền đối với các khoản hoàn
tiền tạm ứng án phí hoặc nơi địa phƣơng đang thực tế tạm giữ tài sản để tạo
điều kiện thuận lời cho ngƣời đƣợc thi hành án nhận tiền, tài sản.
- Về thứ tự thanh toán tiền thi hành án: Theo quy định tại điểm b khoản
2 Điều 47 Luật THADS, khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày
18/7/2015 của Chính phủ thì những ngƣời đƣợc thi hành án trong các bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành phải đƣợc hiểu là ngƣời đã yêu cầu
thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cƣỡng chế thì đƣợc ƣu tiên thanh
102
toán. Trƣờng hợp giữ nguyên quy định này thì cần quy định rõ việc thông báo
cho những ngƣời đƣợc thi hành án không giới hạn trong một bản án, quyết
định mà phải thực hiện việc thông báo cho tất cả những ngƣời đƣợc thi hành
án trong những bản án, quyết định mà cơ quan THADS đang trực tiếp tổ chức
thi hành mà có nhiều ngƣời đƣợc thi hành án và đã có một hoặc một số ngƣời
đƣợc thi hành án trong Bản án, Quyết định đó đã yêu cầu thi hành án trƣớc
khi ban hành Quyết định cƣỡng chế kê biên.
- Về việc giao bảo quản tài sản sau khi kê biên: Kiến nghị sửa đổi
khoản 1 Điều 112 Luật THADS SĐBS 2014 theo hƣớng cho phép Chấp hành
viên lựa chọn đối tƣợng để giao bảo quản tài sản kê biên. Trƣờng hợp diện
tích đất đã kê biên đang do ngƣời phải thi hành án quản lý, khai thác, sử dụng
thì Chấp hành viên tạm giao diện tích đất đã kê biên cho ngƣời đó hoặc tổ
chức, cá nhân khác có điều kiện bảo quản.
- Về đình chỉ thi hành án: Để đảm bảo hiệu lực của quy định tại điểm c
khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự thực hiện trên thực tế, tránh việc
đƣơng sự lợi dụng việc pháp luật chƣa quy định để tiếp tục yêu cầu thi hành
án, kiến nghị bổ sung nội dung: “Đƣơng sự không có quyền yêu cầu thi hành
án trở lại đối với nội dung đã đƣợc cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ thi
hành, trừ trƣờng hợp bị lừa dối hoặc do nhầm lẫn” đối với trƣờng hợp đình
chỉ thi hành án quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự.
- Về phân chia, xử lý tài sản chung: Kiến nghị bãi bỏ quy định tại điểm
c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP do cho phép Chấp hành viên
phân chia tài sản chung trong quá trình tổ chức thi hành án dẫn đến nhiều bất
cập trên thực tế; Chấp hành viên gặp khó khăn trong việc xác minh làm rõ về
nguồn gốc tài sản, do đó có tiềm ẩn nhiều thiếu sót, thiếu công bằng, thiếu
khách quan trong việc xác định, phân chia tài sản chung. Vì vậy, việc yêu cầu
Tòa án phân chia tài sản chung theo quy định tại Điều 74 Luật thi hành án dân
103
sự là giải pháp hữu hiệu, đảm bảo chính xác và khách quan.
- Về việc đảm bảo chỗ ở cho ngƣời phải thi hành án sau khi bị cƣỡng
chế chuyển giao nhà là chỗ ở duy nhất: Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền
nghiên cứu, cân nhắc khi hết thời hạn có hiệu lực của Nghị quyết số
42/2017/QH14 thì áp dụng tinh thần đƣợc quy định tại khoản 5 Điều 115 Luật
THADS SDDBS 2014, Chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một
khoản tiền để ngƣời phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung
bình tại địa phƣơng trong thời hạn 01 năm trong trƣờng hợp cƣỡng chế giao
nhà là nhà ở duy nhất của ngƣời phải thi hành án cho ngƣời mua đƣợc tài sản
bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản nghĩa vụ thi hành án
mà ngƣời phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở
mới thì trƣớc khi làm thủ tục chi trả cho ngƣời đƣợc thi hành án.
- Về miễn, giảm thi hành án: Kiến nghị bãi bỏ quy định phải thi hành
đƣợc ít nhất bằng 1/50 khoản thu, nộp ngân sách nhà nƣớc là điều kiện để xét
miễn, giảm thi hành án quy định trong các văn bản hƣớng dẫn thi hành; bổ
sung trƣờng hợp không xác định đƣợc địa chỉ, tài sản của ngƣời bị kết án thì
vẫn có thể đƣợc xét miễn, giảm thi hành án và thu hẹp các trƣờng hợp “đã thi
hành đƣợc một phần” nghĩa vụ thi hành án là căn cứ để thực hiện việc xét
miễn, giảm. Đồng thời, kiến nghị bổ sung quy định xét miễn, giảm đối với các
104
doanh nghiệp không còn hoạt động, không có tài sản.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
Có thể thấy, trong thời gian qua, pháp luật về thi hành án dân sự nói
chung, trong đó có pháp luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của Chi cục
thi hành án dân sự đã có những sự phát triển, ngày càng hoàn thiện, tạo khung
pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự, đặc biệt
là các Chi cục thi hành án dân sự. Tuy còn bộc lộ nhiều bất cập trong quy
định nhƣng nhìn chung, tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự, các Chi cục
thi hành án dân sự ngày càng đƣợc kiện toàn, hoạt động thi hành án dân sự
ngày càng đạt hiệu quả cao, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho Nhà nƣớc
và các cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Chƣơng 3 đã tổng kết đƣợc thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các
Chi cục thi hành án dân sự, chỉ ra những bất cập trong quy định của pháp luật
hiện hành về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự. Trên cơ sở
tổng hợp kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất một số kiến nghị để hoàn
thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự trong
105
thời gian tới.
KẾT LUẬN
Tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung và
tổ chức, hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự nói riêng ở Việt Nam
hiện nay đóng vai trò rất quan trọng trong hiệu quả hoạt động thi hành án dân
sự, trong việc đảm bảo các lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân; đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, hiệu lực,
hiệu quả thực tế của các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các cơ
quan giải quyết tranh chấp; góp phần tạo sự ổn định chính trị - xã hội và sự ổn
định của nền kinh tế.
Để đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân
sự đƣợc hiệu quả thì thời gian qua, hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan thi hành án dân sự đã đƣợc quan tâm nghiên cứu, sửa
đổi, bổ sung và hoàn thiện. Mặc dù hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan thi hành án dân sự đã tạo nên cơ sở pháp lý khá vững chắc cho
tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự, đặc biệt là của các Chi
cục thi hành án dân sự nhƣng do những thay đổi liên tục của thực tế khách
quan, một số nội dung trong pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan
thi hành án dân sự hiên nay còn chƣa đáp ứng đƣợc tình hình thực tế, còn có
bất cập, gây khó khăn cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án
dân sự nói chung và các Chi cục thi hành án dân sự nói riêng.
Luận văn đã luận giải làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành
án dân sự nhƣ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, vai trò của thi hành án dân sự
cũng nhƣ lƣợc sử pháp luật và kinh nghiệm về mô hình tổ chức, hoạt động thi
hành án dân sự ở một số quốc gia trên thế giới. Luận văn cũng phân tích, đánh
giá đƣợc thực trạng pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt động của các Chi
cục thi hành án dân sự, chỉ ra những hạn chế, khiếm khuyết trong các quy
106
định của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Thông qua kết quả thực tiễn thi
hành án dân sự thể hiện trong các báo cáo kết quả công tác của Tổng cục thi
hành án dân sự trong những năm gần đây, tác giả đã chỉ ra đƣợc những vƣớng
mắc, bất cập chủ yếu trong thực tiễn thực hiện pháp luật về vấn đề này. Trên
cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu tại Chƣơng 1 và Chƣơng 2, những thực
trạng đƣợc chỉ ra tại Chƣơng 3, luận văn đã đƣa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của các Chi
cục thi hành án dân sự trong thời gian tới.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhƣng do vấn đề nghiên cứu của đề tài rộng,
sự giới hạn về thời gian, nghèo nàn về tài liệu nhất là mức độ phức tạp trong
thực tiễn tổ chức và hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự cao nên
luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong
nhận đƣợc sự góp ý của các thầy cô để rút kinh nghiệm và bổ khuyết cho việc
107
nghiên cứu sau này.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính (2009), Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT- BNV-BTC ngày 24/12/2009 hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ Công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành toà án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm, Hà Nội.
2.
Bộ Nội vụ, Bộ Tƣ pháp (2011), Thông tư liên tịch số 02/2011/TTLT- BNV-BTP ngày 15/04/2011 hướng dẫn việc chuyển xếp lương đối với công chức ngạch chấp hành viên thi hành án dân sự, Hà Nội.
3.
Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Thông tư liên tịch số 07/2018/TTLT - BTP-VKSNDTC - TANDTC ngày 12/6/2018 quy định việc phối hợp trong thi hành quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, Hà Nội.
4.
Bộ Tƣ pháp (2015), Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự, Hà Nội.
5.
Bộ Tƣ pháp (2016), Báo cáo số 354/2016/BC-BTP ngày 12/12/2016 của Bộ Tư pháp về Kết quả công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu năm 2017, Hà Nội.
6.
Bộ Tƣ pháp (2016), Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/2/2016 hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ thi hành án dân sự, Hà Nội.
7.
Bộ Tƣ pháp (2016), Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/2/2016 quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự, Hà Nội.
8.
108
Bộ Tƣ pháp (2017), Báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ công tác thi hành án năm 2018, Hà Nội.
9. Bộ Tƣ pháp (2017), Thông tư số 01/2017/TT-BTP ngày 23/01/2017 về
quản lý kho vật chứng, tài sản tạm giữ trong thi hành án dân sự, Hà Nội.
10. Bộ Tƣ pháp (2017), Thông tư số 02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017
hướng dẫn một số nội dung quản lý công chức, viên chức, người lao
động thuộc hệ thống tổ chức thi hành án dân sự, Hà Nội.
11. Bộ Tƣ pháp (2017), Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 quy
định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công
chức chuyên ngành thi hành án dân sự, Hà Nội.
12. Bộ Tƣ pháp (2018), Báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự năm
2018 và phương hướng, nhiệm vụ công tác thi hành án năm 2019, Hà Nội.
13. Bộ Tƣ pháp (2018), Thông tư số 08/2018/TT-BTP ngày 28/12/2018 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2017/TT-BTP ngày 23 tháng
3 năm 2017 hướng dẫn một số nội dung quản lý công chức, viên chức,
người lao động thuộc hệ thống tổ chức thi hành án dân sự, Hà Nội.
14. Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an (2012), Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-
BTP-BCA ngày 30/03/2012 của quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ
cưỡng chế trong thi hành án dân sự, Hà Nội.
15. Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính (2013), Thông tư liên tịch số
07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC ngày 06/02/2013 hướng dẫn trình tự,
thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải THADS và trả
tiền, giấy tờ cho người được thi hành án dân sự là phạm nhân, Hà Nội.
16. Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, TANDTC, VKSNDTC (2016),
Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-
VKSNDTC ngày 19/5/2016 quy định hoạt động của Ban Chỉ đạo thi
hành án dân sự, Hà Nội.
17. Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, TANDTC, VSKNDTC (2013), Quy chế liên
ngành số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013
109
về phối hợp liên ngành trong công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
18. Bộ Tƣ pháp, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng, Bộ
Công an (2013), Thông tư liên tịch số 15/2013/TTLT-BTP-BGTVT-
BTNMT-BCA ngày 05/11/2013 hướng dẫn việc trao đổi, cung cấp thông
tin về tài sản bảo đảm giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm với tổ
chức hành nghề công chứng, cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan đăng
ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền lưu hành tài sản, Hà Nội.
19. Bộ Tƣ pháp, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Ngân
hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2014), Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-
BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014 hướng dẫn việc cung
cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án và thực
hiện phong tỏa, khấu trừ để thi hành án dân sự, Hà Nội.
20. Bộ Tƣ pháp, Bộ Tài chính, TANDTC, VKSNDTC (2015), Thông tư
liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày
15/6/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với
khoản nộp ngân sách Nhà nước, Hà Nội.
21. Bộ Tƣ pháp, TANDTC, VKSNDTC (2016), Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định một
số vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong thi hành án
dân sự, Hà Nội.
22. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án
dân sự, Hà Nội.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,
Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày
02/6/2005 Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
110
Hà Nội.
25. Đinh Thanh Hƣơng (2014), Xác minh điều kiện thi hành án, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
26. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
27. Lê Thùy Linh (2016), Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Vũ Hoài Nam (2013), Tổ chức và hoạt động của thừa phát lại ở Việt
Nam hiện nay, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.
29. Ngôn ngữ Việt Nam (2018), Từ điển Tiếng việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
30. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2009), Từ điển thuật ngữ pháp lý Pháp -
Việt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Quốc hội (2008), Luật cán bộ, công chức, Hà Nội.
32. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Hà Nội.
33. Quốc hội (2014), Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.
34. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.
35. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
36. Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
37. Nguyễn Bích Thảo, Nguyễn Thị Hƣơng Giang (2018), “Hoàn thiện cơ chế xác minh thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập 34, (1).
111
38. Phạm Phúc Thịnh (2014), Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
39. Lê Anh Tuấn (2015), "Bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân trong công tác thi hành án dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.
40. Lê Anh Tuấn (2017), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi
hành án dân sự, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
41. Thủ tƣớng Chính phủ (2012), Quyết định số 27/2012/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành viên, Công chứng viên, Thẩm tra viên và Thư ký thi hành án, Hà Nội.
42. Thủ tƣớng Chính phủ (2015), Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2015 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, Hà Nội.
43. Thủ tƣớng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 06/02/2017 về
tăng cường công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
44. Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm, Hà Nội.
45. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận nhà nước và
pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
46. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thi hành án dân
sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
47. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.
48. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.
49. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội
112
50. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp (2005), Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, Báo cáo phúc trình đề tài cấp nhà nƣớc độc lập, Hà Nội.