ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HÀ

PH¸P LUËT VÒ Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG

CñA CHI CôC THI HµNH ¸N D¢N Sù ë VIÖT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ THU HÀ

PH¸P LUËT VÒ Tæ CHøC Vµ HO¹T §éNG

CñA CHI CôC THI HµNH ¸N D¢N Sù ë VIÖT NAM

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101. 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN NGỌC LIÊM

HÀ NỘI - 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong

bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong

Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã

hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ

tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để

tôi có thể bảo vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ THU HÀ

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TỔ

CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN

DÂN SỰ Ở VIỆT NAM ...................................................................... 7

1.1. Khái niệm ............................................................................................. 7

1.2. Các nguyên tắc cơ bản trong pháp luật về tổ chức và hoạt

động của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay .......... 12

1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định ........................ 12

1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đƣơng

sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ......................................... 13

1.2.3. Nguyên tắc bồi thƣờng thiệt hại trong thi hành án dân sự .................. 14

1.2.4. Nguyên tắc kết hợp biện pháp tự nguyện và cƣỡng chế thi hành án ....... 15

1.2.5. Nguyên tắc phối hợp trong thi hành án dân sự ................................... 15

1.2.6. Nguyên tắc thỏa thuận thi hành án dân sự .......................................... 16

1.2.7. Nguyên tắc giám sát hoạt động thi hành án dân sự ............................ 16

1.3. Lƣợc sử pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân

sự ở Việt Nam .................................................................................... 17

1.3.1. Giai đoạn trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945 ............................. 17

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954 ........................................................ 18

1.3.3. Giai đoạn từ năm 1954 đến 1975 ........................................................ 19

1.3.4. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2009 ................................................ 21

1.3.5. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay .......................................................... 24

1.4. Tình hình tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân

sự ở Việt Nam .................................................................................... 26

1.4.1. Về tổ chức ........................................................................................... 27

1.4.2. Về kết quả hoạt động thi hành án dân sự: ........................................... 28

1.5. Pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở một

số nƣớc trên thế giới.......................................................................... 34

1.5.1. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Pháp ............................... 34

1.5.2. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Trung Quốc .................... 37

1.5.3. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Đức ................................ 39

1.5.4. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Nhật Bản ........................ 39

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................ 42

CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ..... 43

2.1. Pháp luật về tổ chức của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt

Nam hiện nay ..................................................................................... 43

2.1.1. Thủ trƣởng, Phó Thủ trƣởng ............................................................... 44

2.1.2. Chấp hành viên.................................................................................... 49

2.1.3. Thẩm tra viên ...................................................................................... 53

2.1.4. Thƣ ký thi hành án .............................................................................. 56

2.2. Pháp luật về hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở

Việt Nam ............................................................................................ 58

2.2.1. Xác minh điều kiện thi hành án .......................................................... 59

2.2.2. Các biện pháp bảo đảm thi hành án .................................................... 63

2.2.3. Cƣỡng chế thi hành án ........................................................................ 69

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................ 84

CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT

ĐỘNG CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY, QUAN ĐIỂM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN ............ 85

3.1. Một số bất cập trong pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay .......................... 85

3.1.1. Về tổ chức ........................................................................................... 85

3.1.2. Về hoạt động ....................................................................................... 86

3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay .......................... 96

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi

hành án dân sự phải gắn liền với quan điểm, đƣờng lối của Đảng

về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong công cuộc

xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa .............................. 96

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi

hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay phải đƣợc đặt trong tổng

thể hoàn thiện cả hệ thống pháp luật Việt Nam .................................. 97

3.2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi

cục thi hành án dân sự trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo, tiếp

thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới ............... 98

3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi

hành án dân sự phải đảm bảo hiệu lực, hiệu quả áp dụng trên

thực tế .................................................................................................. 99

3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay ........................ 100

3.3.1. Về tổ chức ......................................................................................... 100

3.3.2. Về hoạt động ..................................................................................... 100

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 105

KẾT LUẬN .................................................................................................. 106

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 108

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng là hoạt động

nhằm thực thi các phán quyết, quyết định có trong các bản án, quyết định đã

có hiệu lực của Tòa án. Hoạt động thi hành án dân sự là quá trình nhằm cụ thể

hóa các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án vào thực tiễn.

Trên tinh thần của Nghị quyết số 48/2005/NQ-TƢ ngày 24/5/2005 của

Bộ Chính trị về "Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt

Nam đến năm 2010, định hƣớng đến năm 2020"; Nghị quyết số 49/2005/NQ-

TƢ ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến

năm 2020"; Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành

Chƣơng trình tổng thể cải cách hành chính nhà nƣớc giai đoạn 2011-2020 và

Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 04/02/2016 của Thủ tƣớng Chính phủ về

Phê duyệt kế hoạch cải cách hành chính nhà nƣớc giai đoạn 2016-2020, ngày

05/4/2018, Ban cán sự Đảng Bộ Tƣ pháp đã ban hành Nghị quyết số 31-

NQ/BCSĐ về lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm thi hành án dân sự,

thi hành án hành chính giai đoạn 2018-2021 trong đó đặt ra mục tiêu là tiếp

tục tập trung mọi nguồn lực thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ đƣợc

giao, tạo chuyển biến cơ bản, bền vững về mọi mặt trong tổ chức, hoạt động

thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, khắc phục tình trạng tồn đọng án

kéo dài; nâng cao hiệu quả thi hành án, kỷ cƣơng phép nƣớc, tính nghiêm

minh của pháp luật. Đồng thời, bảo vệ tốt hơn quyền của ngƣời đƣợc thi hành

án, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nƣớc theo bản án,

quyết định của Tòa án, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử

lý vụ việc cạnh tranh và quyết định của trọng tài thƣơng mại.

Cùng với đó, trong bối cảnh đất nƣớc ta đang tiếp tục xây dựng nền

1

kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa hiện đại, hội nhập quốc tế,

hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo dựng thể chế, cơ chế,

chính sách và môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh minh bạch, an toàn, thuận lợi

cùng với yêu cầu xây dựng nền tƣ pháp nhân dân và quan điểm xây dựng

Chính phủ “kiến tạo, liêm chính, hành động và phục vụ” của Chính phủ

nhiệm kỳ 2016-2021 thì công tác thi hành án dân sự tiếp tục đóng vai trò quan

trọng, gắn liền và không thể tách rời. Mặc dù công tác thi hành án dân sự đã

có những chuyển biến tích cực rõ rệt, góp phần ngày càng lớn vào việc đảm

bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thực thi công lý, cải thiện môi trƣờng đầu

tƣ, kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội của cả nƣớc nói chung và của các

địa phƣơng nói riêng; kết quả công tác thi hành án dân sự ngày càng cao

(Năm 2016, thi hành xong trên 530 nghìn việc và trên 29 nghìn tỷ đồng; năm

2017, thi hành xong trên 549 nghìn việc và trên 35 nghìn tỷ đồng; năm 2018,

thi hành xong trên 571 nghìn việc và gần 35 nghìn tỷ đồng), qua đó kịp thời

thu các khoản tiền cho Ngân sách nhà nƣớc, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp

cho các tổ chức cá nhân, giải quyết và thúc đẩy phát triển các mối quan hệ

kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trên thực tế, những kết quả mà hệ thống các cơ

quan thi hành án dân sự đạt đƣợc vẫn chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu mà thực

tiễn đặt ra; số việc, số tiền chƣa đƣợc giải quyết lớn, trong đó tỷ lệ việc có

điều kiện thi hành án chƣa đƣợc giải quyết dứt điểm chiếm tỷ lệ cao, gây bức

xúc cho cá nhân, tổ chức đƣợc thi hành án và những ngƣời có quyền, lợi ích

hợp pháp liên quan. Bên cạnh đó, tình trạng tham nhũng, tiêu cực trong thực

thi công vụ của công chức thi hành án dân sự, đặc biệt là những vi phạm

nghiêm trọng, phải truy cứu trách nhiệm hình sự làm ảnh hƣởng nghiêm trọng

đến hình ảnh, uy tín của hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự, gây mất

niềm tin trong nhân dân.

Nguyên nhân những tồn tại nói trên một phần là do ý thức tuân thủ

pháp luật của một bộ phận cá nhân, tổ chức phải thi hành án không cao, nhiều

2

trƣờng hợp cố tình chống đối, chây ỳ, không tự nguyện thi hành án, có nhiều

hành vi gây khó khăn cho đội ngũ công chức thi hành án trong quá trình thực

hiện nhiệm vụ; việc phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến việc tổ chức

thi hành án nhƣ viện kiểm sát, công an, chính quyền địa phƣơng, … chƣa chặt

chẽ. Ngoài ra, nguyên nhân còn do nhiều địa phƣơng chƣa kiện toàn đầy đủ,

kịp thời các chức danh lãnh đạo, chƣa bổ nhiệm đủ các chức danh Chấp hành

viên; Thẩm tra viên; một số công chức thi hành án dân sự còn thiếu rèn luyện,

tu dƣỡng, chƣa phát huy hết vai trò, trách nhiệm, chƣa tích cực học tập,

nghiên cứu các văn bản pháp luật, đặc biệt là các văn bản pháp luật về thi

hành án dân sự; hệ thống pháp luật về thi hành án dân sự còn có sự xung đột

với các hệ thống pháp luật khác và còn nhiều bất cập khi áp dụng thực tiễn.

Trên cơ sở lý luận và tình hình thực tiễn đó, tôi chọn đề tài “Pháp luật

về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam” để

làm Luận văn thạc sỹ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong những năm qua, trƣớc những yêu cầu của thực tiễn khách quan

trong thi hành án dân sự, vấn đề pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi

cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay qua các giai đoạn đã có những đề

tài nghiên cứu liên quan, tiêu biểu là một số đề tài nhƣ:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nƣớc: “Luận cứ khoa học và

thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong

giai đoạn mới”, mã số 2000-58-198 do TS Nguyễn Đình Lộc làm chủ nhiệm

đề tài, năm 2000;

- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: “Mô hình quản lý thống nhất công tác thi

hành án”, mã số 96-98-207/ĐT do Cục quản lý thi hành án dân sự Bộ Tƣ

pháp chủ trì thực hiện;

- Luận án tiến sĩ luật học: “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở

Việt Nam hiện nay” do Nguyễn Thanh Thủy thực hiện tại Học viện Chính trị

3

– Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008. Đề tài đã nghiên cứu, làm rõ

một số vấn đề lý luận về thi hành án dân sự, làm rõ khái niệm, bản chất, đặc

trƣng của thi hành án dân sự và pháp luật thi hành án dân sự, đánh giá toàn

diện mức độ hoàn thiện của pháp luật thi hành án dân sự và nêu lên các yêu

cầu, quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự;

- Luận án tiến sĩ luật học: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ

quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam” do Trần

Huy Liệu thực hiện tại Đại học Luật Hà Nội năm 2003. Đề tài tập trung

nghiên cứu vị trí, vai trò của các cơ quan tƣ pháp trong bộ máy nhà nƣớc,

phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức, hoạt động của các cơ quan tƣ pháp

Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam, trong đó

có đề cập đến cơ quan thi hành án dân sự;

- Luận án tiến sĩ luật học: “Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động

thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” do Nguyễn Quang Thái thực hiện

tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008. Đề tài

đã làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản có tính lý luận về pháp chế xã hội chủ

nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng và xác định

phƣơng hƣớng, giải pháp bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động

thi hành án dân sự;

- Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt Nam, Trƣờng Đại học Luật

Hà Nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2018. Giáo trình đã

khái quát những vấn đề cơ bản về Luật thi hành án dân sự nhƣ khái niệm,

nguồn, quan hệ pháp luật, xã hội hóa, … Ngoài ra, giáo trình còn phân tích,

làm rõ các quy định pháp luật về thi hành án dân sự hiện hành về thời hiệu,

thẩm quyền và nguyên tắc thi hành án dân sự; đối tƣợng, thẩm quyền, thủ tục

thi hành án dân sự, …;

- Ngoài ra, còn có một số các tài liệu khác có liên quan nhƣ Sổ tay

nghiệp vụ thi hành án dân sự - Tổng cục Thi hành án dân sự; Tài liệu bồi

4

dƣỡng nghiệp vụ Chấp hành viên trung cấp của Học viện Tƣ pháp; tài liệu

đào tạo, bồi dƣỡng nghiệp vụ quản lý, lãnh đạo cấp phòng của Học viện Tƣ

pháp; một số bài viết chuyên đề về công tác thi hành án dân sự trên Tạp chí

Dân chủ pháp luật…

Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những khía cạnh,

phạm vi cụ thể khác nhau hoặc đã đề cập đến vấn đề mang tính tổng thể hoặc

về tổ chức, hoặc về hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự, hoặc về một

giai đoạn trong hoạt động tổ chức thi hành án của các cơ quan thi hành án dân

sự. Nhƣng cho đến nay, sau khi Luật thi hành án dân sự đƣợc sửa đổi, bổ sung

năm 2014, chƣa có một công trình chuyên khảo nào đề cập và nghiên cứu một

cách chuyên sâu, có hệ thống đối với pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi

cục thi hành án dân sự. Vì vậy, luận văn là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu

tƣơng đối có hệ thống, toàn diện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục

thi hành án dân sự ở Việt Nam trên cơ sở pháp luật thi hành án dân sự hiện

hành. Những công trình nghiên cứu nêu trên là tài liệu tham khảo có giá trị để

học viên nghiên cứu và hoàn thành luận văn của mình.

3. Mục đích nghiên cứu đề tài

Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Chi

cục thi hành án dân sự; nghiên cứu, phân tích các quy định của pháp luật về tổ

chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự trên cơ sở đánh giá lịch sử

quá trình phát triển và đối chiếu, tham khảo các thành tựu, kinh nghiệm của

các quốc gia trên thế giới; trên cơ sở đó nhằm phát hiện những bất cập trong

tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự để đề xuất một số kiến

nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của vấn đề này.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn vận dụng phƣơng pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch

sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ

thể nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, hệ thống, diễn

5

giải, quy nạp, điều tra xã hội v.v… để thực hiện những nội dung đã đặt ra.

5. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của

Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam; các quy định pháp luật về tổ chức và

hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở nƣớc ta hiện nay mà trọng tâm là

Luật thi hành án dân sự đƣợc sửa đổi, bổ sung một số Điều năm 2014; Nghị

định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và

Hƣớng dẫn thi hành một số Điều của Luật thi hành án dân sự; Quyết định số

61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của Thủ tƣớng Chính phủ Quy định chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục thi hành án dân sự

trực thuộc Bộ Tƣ pháp; Thông tƣ số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ

Tƣ pháp Quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch

công chức chuyên ngành thi hành án dân sự và một số văn bản có liên quan

khác. Luận văn có mở rộng nghiên cứu so sánh những quy định pháp luật của

nƣớc ta về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự với các quy định về tổ

chức và hoạt động thi hành án dân sự của các quốc gia trên thế giới, cùng với

thực tiễn tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở nƣớc ta hiện

nay để đƣa ra những phân tích, đánh giá và kiến nghị.

6. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung của luận văn gồm 3 chƣơng:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật tổ chức và hoạt động của

Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam.

Chương 2: Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án

dân sự ở Việt Nam.

Chương 3: Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục

6

thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, quan điểm và kiến nghị hoàn thiện.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT TỔ CHỨC VÀ HOẠT

ĐỘNG CỦA CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM

1.1. Khái niệm

Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự là

một phần trong Pháp luật thi hành án dân sự - một bộ phận cấu thành của hệ

thống pháp luật nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để làm sáng tỏ

khái niệm “Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân

sự”, trƣớc hết cần làm rõ một số khái niệm có liên quan nhƣ: khái niệm “tổ

chức”, khái niệm “hoạt động”, khái niệm “thi hành án dân sự”, khái niệm

“Chi cục thi hành án dân sự.

Trƣớc hết, theo Từ điển tiếng Việt, “tổ chức” là “Chỉnh thể có cấu tạo,

cấu trúc và những chức năng chung nhất định” [29, tr.944], “hoạt động” là

“những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một mục đích nhất định

trọng đời sống xã hội” [29, tr.431].

Cũng theo Từ điển tiếng Việt, “thi hành” là “Thực hiện điều đã chính

thức quyết định”[29, tr.903]. “Án” theo nghĩa hẹp là bản án, quyết định của

Tòa án, do Tòa án nhân danh Nhà nƣớc tuyên để giải quyết các vụ án hình sự,

dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính. Còn khái niệm

“dân sự” trong thi hành án dân sự hiện còn có quan điểm khác nhau, có quan

điểm cho rằng “dân sự” trong thi hành án dân sự đƣợc hiểu là những bản án,

quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và nhân thân phi tài sản nhƣ các bản

án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với các vụ việc có tính chất dân

sự. Nhƣng cũng có quan điểm cho rằng “dân sự” trong thi hành án dân sự

bao gồm cả các bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp có tính chất dân

sự và các bản án, quyết định khác do pháp luật quy định; tác giả đồng tình với

7

quan điểm này, vì trên thực tế, các bản án, quyết định giải quyết các tranh

chấp có tính chất khác nhau, đƣợc giải quyết theo các thủ tục khác nhau

nhƣng đến giai đoạn thi hành đều áp dụng theo trình tự, thủ tục thi hành án dân

sự. Nhƣ vậy, thi hành án dân sự có thể đƣợc hiểu là việc thực hiện bản án, quyết

định của Tòa án trên thực tế.Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có

hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện quyền tƣ pháp của Nhà nƣớc, thể hiện sự

tôn trọng của xã hội và công dân đối với pháp quyết của cơ quan nhân danh Nhà

nƣớc là Tòa án, mặt khác đó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi

ích hợp pháp của Nhà nƣớc, của các tổ chức, cá nhân khác bị xâm hại.

Dƣới góc độ lý luận, quan niệm về thi hành án dân sự hiện nay còn có

nhiều quan điểm khác nhau.

Có quan điểm cho rằng thi hành án dân sự là một dạng hoạt động tƣ

pháp, bởi vì: thi hành án dân sự là hoạt động tiếp nối hoạt động xét xử, giải

quyết tranh chấp, đóng vai trò thực thi trên thực tế các bản án, quyết định của

cơ quan xét xử, cơ quan giải quyết tranh chấp; hoạt động thi hành án dân sự là

hoạt động độc lập – là đặc trƣng của hoạt động tƣ pháp; hoạt động thi hành án

dân sự do cơ quan thi hành án dân sự - một trong các cơ quan thực hiện quyền

tƣ pháp của Nhà nƣớc thực hiện.

Nhƣng lại có quan điểm cho rằng, thi hành án dân sự là một dạng hoạt

động hành chính, bởi vì: thi hành án dân sự là hoạt động mang tính điều hành

– chấp hành, là đặc trƣng của hoạt động hành chính; là hoạt động thực hiện

quyết định cá biệt, với đối tƣợng điều chỉnh cụ thể, xác định cụ thể quyền và

nghĩa vụ của các đối tƣợng điều chỉnh.

Ngoài ra, còn có quan điểm thì cho rằng, thi hành án dân sự là một

dạng của hoạt động hành chính – tƣ pháp, bởi vì: ngoài đặc trƣng của hoạt

động hành chính là chấp hành – điều hành thì thi hành án dân sự là hoạt động

gắn liền với hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp, là hoạt động nối tiếp của

8

hoạt động xét xử, giải quyết tranh chấp.

Các quan điểm trên khi đƣợc nhìn nhận dƣới các góc độ khác nhau đều

có những điểm hợp lý, và dù theo quan điểm nào thì theo tác giả thi hành án

dân sự đều có những đặc trƣng cơ bản sau:

Thứ nhất, Thi hành án dân sự là quá trình diễn ra sau quá trình xét xử

của tòa án, quá trình giải quyết tranh chấp của trọng tài thƣơng mại. Bản

án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các cơ quan giải quyết tranh chấp

là cơ sở để các cơ quan thi hành án dân sự tiến hành các thủ tục về thi hành

án dân sự. Nhƣ vậy, có thể nói không có kết quả giải quyết tranh chấp thì

không có hoạt động thi hành án dân sự và ngƣợc lại, không có hoạt động

thi hành án dân sự thì kết quả giải quyết tranh chấp gần nhƣ không đƣợc thi

thi trên thực tế; ngoài bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật không phải

là cơ sở duy nhất để tiến hành các hoạt động thi hành án mà việc tổ chức

thi hành án còn phải dựa trên cơ sở các quy định pháp luật về tổ chức và

hoạt động thi hành án dân sự.

Thứ hai, thi hành án dân sự là hoạt động có tính chấp hành, bởi vì thi

hành án dân sự đƣợc tiến hành trên cơ sở các bản án, quyết định có hiệu lực

pháp luật do các cơ quan đƣợc Nhà nƣớc trao quyền để giải quyết các tranh

chấp, việc tổ chức thi hành án dân sự đƣợc thực hiện trên cơ sở các quy định

pháp luật và do cơ quan nhà nƣớc là các Cục thi hành án dân sự và Chi cục thi

hành án dân sự thực hiện.

Thứ ba, thi hành án dân sự là hoạt động có tính quản lý, bởi vì thi hành

á dân sự luôn đòi hỏi các yếu tố kế hoạch, tổ chức, đôn đốc, kiểm tra, xử lý,

… tác động tới ngƣời phải thi hành án để ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi

hành các nghĩa vụ của họ; trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án không tự

nguyện thực hiện các nghĩa vụ đã đƣợc xác định trong các bản án, quyết định

có hiệu lực pháp luật thì có thể bị áp dụng các biện pháp cƣỡng chế để buộc

9

họ thi hành nghĩa vụ.

Thứ tƣ, quá trình thi hành án dân sự có sự tham gia của nhiều cá nhân,

cơ quan, tổ chức, trong đó trung tâm là các cơ quan thi hành án dân sự.

Để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án dân

sự và đảm bảo việc thi hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc,

quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan đến việc thi

hành án dân sự, Nhà nƣớc phải đặt ra các quy định pháp luật về thi hành án dân

sự; những quy định này có trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật từ Hiến

pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật tố tụng

hình sự đến các văn bản chuyên ngành về thi hành án dân sự nhƣ Luật thi hành

án dân sự, Nghị định 62/2015/NĐ-CP, Thông tƣ 02/2017/TT-BTP, … Những

quy định pháp luật về thi hành án dân sự có nhiệm vụ cụ thể nhƣ:

Thể chế hóa đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc trong thi

hành án dân sự. Cụ thể là thể chế hóa đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng, Nhà

nƣớc ta về phát triển kinh tế - xã hội, cải cách hành chính và cải cách tƣ pháp,

đƣợc thể hiện trong Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ƣơng

Đảng cộng sản Việt Nam khóa IX số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp thời gian tới; Nghị quyết số 34/NQ-TW

ngày 03/02/2004 Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành trung ƣơng Đảng khóa

IX về một số chủ trƣơng, chính sách, giải pháp lớn nhằm thực hiện thắng lợi

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Nghị quyết của

Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ƣơng Đảng cộng sản Việt Nam khóa IX số

49/NQ-TW ngày 02/6/2005 về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020.

Tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động thi hành án dân sự, trong đó phải

quy định các vấn đề nguyên tắc thi hành án, thời hiệu thi hành án, thẩm quyền

thi hành án, thủ tục thi hành án, việc áp dụng các biện pháp bảo đảm và các

biện pháp cƣỡng chế thi hành án, … Luật thi hành án dân sự phải là cơ sở cho

10

các hoạt động tổ chức thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự và hoạt

động tham gia thi hành án dân sự của các chủ thể khác, từ đó bảo đảm cho

hoạt động tổ chức và tham gia thi hành án dân sự của các chủ thể đƣợc thuận

lợi góp phần nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.

Tạo ra cơ chế kiểm tra, kiểm sát và giám sát việc tuân theo pháp luật

của các hoạt động thi hành án dân sự, bảo đảm các hoạt động thi hành án dân

sự đƣợc tiến hành đúng pháp luật.

Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo và việc xử lý các hành vi trái pháp

luật trong thi hành án dân sự.

Quy định cụ thể cơ chế phối hợp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức

trong việc thi hành án dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cá

nhân, cơ quan và tổ chức trong việc tham gia thi hành án dân sự, xã hội hóa

thi hành án dân sự để tại điều kiện cho mọi ngƣời có thể đóng góp công sức

và trí tuệ vào việc thi hành án dân sự.

Các quy định pháp luật về thi hành án dân sự, các hoạt động thi hành án

dân sự ở nƣớc ta hiện nay đƣợc thực thi, thực hiện bởi nhiều cá nhân, cơ

quan, tổ chức, trong đó trung tâm là các cơ quan thi hành án dân sự trong Hệ

thống cơ quan thi hành án dân sự. Hệ thống cơ quan thi hành án dân sự ở

nƣớc ta hiện nay có thể phân loại thành Cơ quan quản lý thi hành án dân sự và

Cơ quan thi hành án dân sự. Trong đó, Cơ quan quản lý thi hành án dân sự

gồm Tổng cục thi hành án dân sự thuộc Bộ Tƣ pháp và các Cơ quan thi hành

án dân sự tỉnh, thành phố thuộc trung ƣơng, thực hiện các chức năng quản lý

nhà nƣớc và quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự; Cơ quan thi hành án

dân sự gồm Cơ quan thi hành án dân sự tỉnh, thành phố thuộc trung ƣơng và

Cơ quan thi hành án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trực tiếp tổ

chức thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo quy định.

Theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 52 thì hệ thống tổ chức thi hành án

11

dân sự ở cấp huyện là các Chi cục thi hành án dân sự quận, huyện, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh, gọi chung là Chi cục thi hành án dân sự. Hay nói cách

khác, “Chi cục thi hành án dân sự” là Cơ quan thi hành án dân sự ở cấp

huyện, nằm trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, trực tiếp tổ chức thi

hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo quy định.

Từ những phân tích trên, có thể đƣa ra khái niệm pháp luật về tổ chức

và hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự nhƣ sau: “Pháp luật về tổ

chức và hoạt động của các chi cục thi hành án dân sự là tổng hợp các quy

phạm pháp luật điều chỉnh cơ cấu tổ chức của Chi cục thi hành án dân sự và

những mối quan hệ giữa Chi cục thi hành án dân sự với các cá nhân, cơ

quan, tổ chức phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự nhằm đảm bảo

việc thi hành án dân sự có hiệu quả, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức”.

1.2. Các nguyên tắc cơ bản trong pháp luật về tổ chức và hoạt động

của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

1.2.1. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định

Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định đƣợc quy định tại

Điều 106 Hiến pháp 2013, Điều 19 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 4 Luật thi

hành án dân sự. Đây là nguyên tắc biểu hiện tính pháp chế xã hội chủ nghĩa

trong thi hành án dân sự. Đảm bảo thực hiện nguyên tắc này là đảm bảo cho

nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, ngoài ra còn làm cho bản án, quyết

định có hiệu lực pháp luật đƣợc đảm bảo thi hành trên thực tế. Nguyên tắc

này có các nội dung chủ yếu sau:

Khi giải quyết vụ việc dân sự Tòa án phải quyết định áp dụng biện

pháp cần thiết để đảm bảo cho việc thi hành án; bản án, quyết định phải đầy

đủ, rõ ràng, chính xác để tạo thuận lợi cho việc thi hành án;

Bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật phải đƣợc đƣa ra thi hành.

12

Các cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ chấp hành bản án, quyết định phải

chấp hành đúng và đầy đủ các phán quyết ghi trong các bản án, quyết định

đƣợc đƣa ra thi hành. Trong trƣờng hợp ngƣời có nghĩa vụ chấp hành bản án,

quyết định mà không tự nguyện thi hành thì phải áp dụng các biện pháp

cƣỡng chế cần thiết để bắt buộc thực hiện;

Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân phải tôn trọng bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật; không đƣợc can thiệp trái pháp luật và quá trình thi

hành án dân sự; không đƣợc cản trở, gây khó khăn cho cơ quan thi hành án

dân sự và Chấp hành viên trong việc tổ chức thi hành án dân sự. Hành vi

không thi hành án, không chấp hành án hoặc cản trở thi hành án thì tùy thuộc

vào tính chất, mức độ nghiệm trọng có thể bị xử lý hành chính hoặc bị truy

cứu trách nhiệm hình sự với các tội danh tại các Điều 379, 380, 381 Bộ luật

Hình sự 2015.

1.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền yêu cầu thi hành án của các đương

sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

Quyền yêu cầu thi hành án của các đƣơng sự bao gồm quyền yêu cầu

thi hành án và quyền tự nguyện thi hành án đƣợc quy định tại Điều 7 và Điều

7a Luật thi hành án dân sự (đã đƣợc sửa đổi, bổ sung một số Điều năm 2014),

đây là một trong số các quyền thi hành án cơ bản của đƣơng sự và là nội dung

quan trong nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Vì vậy,

quyền yêu cầu thi hành án của các đƣơng sự là quy định mang tính nguyên

tắc, với nội dung cụ thể sau: Các đƣơng sự đƣợc Tòa án, cơ quan và tổ chức

có thẩm quyền giải quyết tranh chấp cấp bản án, quyết định trong thời hạn

pháp luật quy định (tại Điều 269 và Điều 315 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Điều 262 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Điều 196 và Điều 244 Luật tố tụng

hành chính 2015; Điều 62 Luật trọng tài thƣơng mại 2010). Ngƣời đƣợc thi

hành án, ngƣời phải thi hành án căn cứ vào nội dung phán quyết của bản án,

13

quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án có quyền gửi đơn yêu cầu thi

hành án hoặc trực tiếp đến để yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi

hành án. Trƣờng hợp yêu cầu thi hành án của đƣơng sự đúng pháp luật thì cơ

quan thi hành án dân sự phải thụ lý và tổ chức thi hành theo quy định.

Ngoài ra, trong quá trình thi hành án, quyền và lợi ích hợp pháp của

ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng đƣợc tôn trọng, đảm bảo (theo

quy định tại Điều 5 Luật THADS SĐBS 2014), theo đó: việc tổ chức thi hành

án không chỉ nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc thi hành

án, ngƣời phải thi hành án mà còn đảm bảo không xâm phạm đến quyền, lợi

ích hợp pháp của ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án

dân sự; ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án đƣợc

tham gia vào các giai đoạn thi hành án có liên quan để bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp, đƣợc đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo trong thi hành án dân sự và

đƣợc quyền ƣu tiên mua trong trƣờng hợp bán tài sản kê biên thuộc sở hữu

chung với ngƣời phải thi hành án.

1.2.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong thi hành án dân sự

Trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự,

Chấp hành viên, cá nhân, tổ chức có liên quan đến việc tổ chức thi hành án dân

sự phải đề cao trách nhiệm trong việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ theo quy

định của pháp luật, không đƣợc thực hiện các hành vi trái pháp luật, gây ảnh

hƣởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc thi hành án, ngƣời phải thi

hành án và những ngƣời có quyền, lợi ích hợp pháp có liên quan. Trƣờng hợp

cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cá nhân, tổ chức có liên quan đến

việc tổ chức thi hành án dân sự có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho ngƣời

phải thi hành án và những ngƣời có quyền, lợi ích hợp pháp có liên quan thì

phải bồi thƣờng thiệt hại (theo quy định tại Điều 10 Luật THADS SĐBS 2014).

Việc xác định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại đƣợc quy định trong Luật bồi

14

thƣờng nhà nƣớc và các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật này.

1.2.4. Nguyên tắc kết hợp biện pháp tự nguyện và cưỡng chế thi

hành án

Việc ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi hành án không những thuận

lợi cho việc tổ chức thi hành án mà còn giảm thiểu chi phí cho cơ quan thi

hành án và các đƣơng sự. Vì vậy, pháp luật khuyến khích, tạo điều kiện để

ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi hành án và theo quy định tại Điều 45

Luật THADS SĐBS 2014 thì ngƣời phải thi hành án có thời hạn 10 ngày để

tự nguyện thi hành án. Hết thời hạn tự nguyện thi hành án, ngƣời phải thi

hành án có điều kiện thi hành án nhƣng không tự nguyện thi hành án thì cơ

quan thi hành án phải áp dụng các biện pháp cƣỡng chế theo quy định của

pháp luật thi hành án dân sự để thi hành án. Việc áp dụng nguyên tắc kết hợp

biện pháp tự nguyện và cƣỡng chế trong quá trình tổ chức thi hành án thể hiện

tính nhân đạo nhƣng vẫn đảm bảo đƣợc sự nghiêm minh của pháp luật.

1.2.5. Nguyên tắc phối hợp trong thi hành án dân sự

Thi hành án dân sự là hoạt động phức tạp và trên thực tế, mặc dù cơ

quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên đƣợc Nhà nƣớc trao nhiều quyền để

tổ chức thi hành án nhƣng để đảm bảo hiệu quả còn cần phải có sự phối hợp

của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khác, đặc biệt là sự phối hợp

của cơ quan công an, viện kiểm sát và chính quyền địa phƣơng. Vì vậy, cần

thiết phải có sự phối hợp giữa cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ

chức, cá nhân khác, điều này đƣợc quy định tại Điều 11 Luật THADS SĐBS

2014, theo đó: Các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong

việc thi hành án; các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm

phải thực hiện các yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên

theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự. Mọi hành vi cản trở, can thiệp

trái pháp luật đối với hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành

15

viên đều bị xử lý theo quy định của pháp luật.

1.2.6. Nguyên tắc thỏa thuận thi hành án dân sự

Khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự 2015 quy định:

Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ

dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận.

Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không

trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải

đƣợc chủ thể khác tôn trọng.

Nguyên tắc này cũng đƣợc áp dụng trong quá trình thi hành án dân sự

và đƣợc ghi nhận tại Điều 6 Luật THADS SĐBS 2014, cụ thể: Các đƣơng sự

có quyền thỏa thuận về việc thi hành án nếu việc thỏa thuận đó không vi

phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không ảnh hƣởng

đến quyền, lợi ích hợp pháp của bên thứ ba thì việc thi hành án theo thỏa

thuận của các đƣơng sự đƣợc công nhận; việc thỏa thuận có thể thực hiện

trƣớc hoặc trong quá trình tổ chức thi hành án.

1.2.7. Nguyên tắc giám sát hoạt động thi hành án dân sự

Hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức

thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực của Nhà nƣớc trong việc

bảo đảm lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của các nhân, tổ

chức khác. Hoạt động này phải tuân thủ theo các quy định pháp luật về thi

hành án dân sự và các quy định pháp luật khác có liên quan. Khoản 2, Điều 8

Hiến pháp 2013 quy định “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên

chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với

Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân, …”, vì vậy,

quyền giám sát hoạt động của cơ quan nhà nƣớc, cán bộ, công chức, viên

chức nói chung và đối với Chi cục thi hành án dân sự, các Chấp hành viên,

Thẩm tra viên, … nói riêng là tất yếu và mang tính nguyên tắc.

16

Quyền giám sát hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự, các cơ

quan thi hành án dân sự đƣợc quy định cụ thể tại Điều 12 Luật thi hành án dân

sự. Theo đó, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận tổ quốc Việt Nam là các

cơ quan, tổ chức đại diện cho Nhân dân thực hiện việc giám sát hoạt động của

cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan nhà nƣớc khác trong thi hành án

dân sự theo quy định của pháp luật.

1.3. Lƣợc sử pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự

ở Việt Nam

1.3.1. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám năm 1945

Ngƣời Pháp bắt đầu đặt chế độ cai trị ở nƣớc ta sau Hiệp ƣớc Nhâm Tuất

(1862) sau khi kiểm soát đƣợc tỉnh Gia Định và đến năm 1867, họ đã chiếm

đƣợc toàn bộ Nam Kỳ (gồm sáu tỉnh: Gia Định, Biên Hòa, Định Tƣờng, Vĩnh

Long, An Giang, Hà Tiên). Sau khi đặt đƣợc chế độ cai trị ở nƣớc ta, ngƣời

Pháp phân chia lại địa giới hành chính, thiết lập bộ máy cai trị, thiết lập hệ

thống các cơ quan xét xử, áp dụng hệ thống, pháp luật của Pháp vào các tỉnh

Nam Kỳ nƣớc ta, trong đó có chế định về thi hành án dân sự mà cụ thể là sự

xuất hiện của Thừa phát lại. Có thể nói, Thừa phát lại chính là hình thức sơ

khai của thi hành án dân sự ở Việt Nam.

Trong thời kỳ này, Thừa phát lại chỉ xuất hiện ở Nam Kỳ còn ở Bắc Kỳ

và Trung Kỳ chƣa có chế định Thừa phát lại, những công việc của Thừa phát

lại nhƣ trát đòi hầu tòa, truyền phiếu,... vẫn do các môn lại, môn vệ - là những

ngƣời truyền tin của Nhà vua thực hiện. Tuy nhiên, sau khi triều đình nhà

Nguyễn tiếp tục ký kết các Hòa ƣớc Giáp Tuất năm 1874; Hòa ƣớc Quý Mùi

năm 1883 (hay còn gọi là Hòa ƣớc Harmand có tất cả 27 điều khoản với nội

dung chính là xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ

Việt Nam. Hòa ƣớc này đánh dấu thời kỳ Pháp thuộc 1883-1945, toàn bộ Việt

Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp); Hòa ƣớc Giáp Thân 1884 (hay

17

còn gọi là Hòa ƣớc Patenôtre với 19 điều khoản có nội dung thừa nhận và

chấp thuận nền bảo hộ của nƣớc Pháp; nƣớc Pháp có quyền đại diện về mặt

ngoại giao và mọi ngƣời dân Việt Nam nằm ở nƣớc ngoài đều đặt dƣới quyền

bảo hộ của nƣớc Pháp) thì pháp luật của Pháp đã đƣợc áp dụng rộng rãi trên

lãnh thổ Việt Nam. Cụ thể là “Bộ Dân sự tố tụng Nam Việt” ban hành kèm

Nghị định ngày 16/3/1910 ở Nam Kỳ; “Bộ dân luật Trung năm 1936 – 1939”

ban hành kèm Bộ Hộ sự, Thƣơng sự tố tụng Trung Việt năm 1942 ở Trung

Kỳ và “Bộ luật Bắc năm 1931” kèm theo Bộ Dân sự tố tụng Bắc năm 1917 ở

Bắc Kỳ [17, tr. 9-10].

Nhìn chung, hoạt động thi hành án dân sự ở nƣớc ta trong thời kỳ này do

Thừa phát lại thực hiện và chủ yếu dựa trên khuôn mẫu đƣợc ghi nhận trong Bộ

Dân luật Pháp năm 1804 và Bộ Dân sự Tố tụng Pháp năm 1807 [10, tr.15].

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1954

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, trên quan điểm "Không phải

cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng là mới. Cái gì cũ mà xấu thì

phải bỏ... Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại

cho hợp lý. Cái gì cũ mà tốt thì phải phát triển thêm..." [43], Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản quan trọng liên quan đến thi hành án

dân sự, trong đó có sắc lệnh 90/SL ngày 10/10/1945 về việc tạm thời giữ các

quy định pháp luật của chế độ cũ đã đƣợc áp dụng trƣớc Cách mạng tháng

Tám năm 1945 nếu những quy định đó không trái với các nguyên tắc của

Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vì vậy, hoạt động thi hành án dân sự

vẫn do Thừa phát lại thực hiện.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Sắc lệnh số 13 ngày

24/01/1946 của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa về tổ chức các Tòa án

và các ngạch Thẩm phán thì “Ban Tư pháp xã có quyền thi hành những mệnh

lệnh của các Thẩm phán cấp trên bao gồm các bản án, quyết định có hiệu lực

18

của Tòa án” [17].

Nhƣ vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1954, nhiệm vụ thi hành

án dân sự đƣợc Thừa phát lại và Ban Tƣ pháp xã cùng đảm nhận thực hiện.

1.3.3. Giai đoạn từ năm 1954 đến 1975

Ngày 20/7/1954, Hiệp định Genève chính thức đƣợc ký kết, nƣớc ta bị

chia cắt hai miền tại sông Bến Hải, Quảng Trị (vỹ tuyến 17), đây không chỉ là

sự chia cắt về mặt lãnh thổ, về mặt chính trị mà còn bao gồm chia cắt cả hệ

thống luật áp dụng.

Ở phía Bắc vỹ tuyến 17, theo Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1959 do

Chủ tịch Hồ Chí Minh ký về “cải cách bộ máy tƣ pháp và luật tố tụng” thì

Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp huyện dƣới sự chỉ đạo của Chánh án sẽ thực

hiện các thủ tục liên quan đến thi hành án dân sự chứ không phải là Thừa phát

lại và Ban tƣ pháp xã nhƣ trƣớc đây. Cơ chế, tổ chức hoạt động thi hành án

dân sự và các hoạt động thi hành án dân sự thuộc trách nhiệm của Nhà nƣớc,

công chức Tòa án là những ngƣời thực hiện nhiệm vụ thi hành án dân sự chứ

không xuất phát từ yêu cầu của các đƣơng sự.

Theo Điều 24 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, vị trí, chức

năng, nhiệm vụ và quyền hạn của những ngƣời thực hiện nhiệm vụ thi hành

án dân sự đƣợc quy định nhƣ sau:

1. Tại các Tòa án nhân dân địa phƣơng có nhân viên chấp hành án

làm nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định dân sự, những

khoản xử về bồi thƣờng và tài sản trong các bản án, quyết định

hình sự; 2. Cơ quan công an có nhiệm vụ thi hành những khoản

hình phạt trong những bản án và quyết định về hình sự, trừ những

khoản phạt tiền [27].

Bên cạnh đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ra Quyết định số

186/TC ngày 13/10/1972 về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành

19

viên với nội dung: (1) Thi hành các bản án, quyết định của Tòa án mình, Tòa

án cấp trên và Tòa án các địa phƣơng khác theo quy định của pháp luật. (2)

Chấp hành viên Tòa án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng thi hành những

bản án, quyết định có hiệu lực, có nhiều khó khăn nhƣ: vụ án có liên quan đến

bí mật quốc gia, đến công tác ngoại giao; vụ án có nhiều ngƣời thi hành án ở

nhiều địa phƣơng khác nhau; vụ án có nhiều tài sản gửi ở Tòa án nhân dân

tỉnh, thành phố.

Do đó, ở miền Bắc nƣớc ta trong giai đoạn này, xuất hiện chức danh tƣ

pháp mới là Chấp hành viên, độc lập với chức danh Thẩm phán, đƣợc biên

chế trong các Tòa án nhân dân địa phƣơng, có nhiệm vụ chủ động thi hành

các bản án, quyết định của Tòa án mà không phụ thuộc vào yêu cầu thi hành

án của các bên đƣơng sự, việc thi hành án của Chấp hành viên đƣợc đảm bảo

thi hành bằng sức mạnh cƣỡng chế của nhà nƣớc. Việc tổ chức thi hành các

bản án, quyết định của Tòa án không còn có sự tham gia của Thừa phát lại.

Ở phía Nam vỹ tuyến 17, việc thi hành án dân sự vẫn do Thừa phát lại

đảm nhận thực hiện. Theo quy định tại Nghị định số 111/BTP-NĐ ngày

04/2/1950 của Tổng trƣởng Bộ Tƣ pháp quy định chi tiết về tổ chức, chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thừa phát lại thì Thừa phát lại có quyền thực

hiện các công việc sau: Làm các truyền phiếu (giấy mời, giấy triệu tập); Làm

các việc lục tống về tƣ pháp hay không thuộc tƣ pháp; Thi hành các bản án,

công văn; Công việc nội bộ trong các Tòa án.

Ngoài ra, Tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Thừa phát

lại đƣợc quy định chi tiết tại Bộ luật Tố tụng Dân sự 1910 và sau đó là Bộ luật

Dân sự và Thƣơng sự Tố tụng, Bộ luật hình sự tố tụng do chính quyền

Nguyễn Văn Thiệu ban hành năm 1972.

Trên thực tế, ở phía Nam vỹ tuyến 17, mỗi văn phòng Thừa phát lại có

một Thừa phát lại và một Thƣ ký trƣởng hữu thệ (là những ngƣời đƣợc thay

20

thế Thừa phát lại thực thụ để thực hiện các hành vi tố tụng theo luật định). Số

lƣợng Thừa phát lại là 36 ngƣời, trong đó có 18 Thừa phát lại thực thụ và 18

Thƣ ký trƣởng. Ở các tỉnh không có Văn phòng Thừa phát lại, công việc của

Thừa phát lại đƣợc giao cho các Cảnh sát trƣởng hoặc Phó cảnh sát trƣởng

(Trƣởng ty cảnh sát) hoặc các Quận trƣởng tạm thời kiêm nhiệm do Nghị định

của Tổng trƣởng Bộ Tƣ pháp bổ nhiệm và các viên chức này đƣợc thu lệ phí

nhƣ Thừa phát lại [41, tr.18-20].

1.3.4. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2009

Trong giai đoạn này, Bộ Tƣ pháp đƣợc tái thành lập theo Nghị định số

143/HĐBT ngày 22/11/1981 của Hội đồng Bộ trƣởng với chức năng giúp Hội

đồng Bộ trƣởng thực hiện quản lý thống nhất các việc về tƣ pháp trong cả

nƣớc, bao gồm xây dựng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục pháp luật, quản lý

về mặt tổ chức các toà án nhân dân địa phƣơng và quản lý nhà nƣớc các công

tác tƣ pháp khác (luật sƣ, công chứng, giám định, ...), đào tạo, bồi dƣỡng đội

ngũ cán bộ pháp luật trong cả nƣớc. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ

chức của cơ quan tƣ pháp địa phƣơng đƣợc quy định tại Thông tƣ số 463-

TCCB ngày 21/6/1988 của Bộ Tƣ pháp. Hệ thống cơ quan tƣ pháp địa

phƣơng bao gồm: Sở Tƣ pháp ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng và

cấp tƣơng đƣơng; Ban (sau đó chuyển thành Phòng) Tƣ pháp ở cấp quận,

huyện, thị xã và các đơn vị hành chính tƣơng đƣơng; Ban Tƣ pháp ở cấp xã,

phƣờng và các đơn vị hành chính tƣơng đƣơng.

Với sự ra đời của Hiến pháp 1980, hàng loạt các đạo luật về tổ chức

của bộ máy nhà nƣớc đƣợc ban hành nhằm kiện toàn bộ máy nhà nƣớc, phân

định rõ chức năng của từng loại cơ quan, tăng cƣờng hiệu lực quản lý nhà

nƣớc bằng pháp luật. Theo đó, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981 cũng

đƣợc ban hành và tại Điều 16 đã giao cho Bộ Tƣ pháp đảm nhiệm công tác

quản lý tòa án nhân dân địa phƣơng về mặt tổ chức, trong đó bao gồm cả việc

21

quản lý công tác thi hành án dân sự. Tiếp đó, Nghị định 143/ HĐBT ngày

22/11/1981 của Hội đồng bộ trƣởng nay là Chính phủ quy định về chức năng

nhiệm vụ quyền hạn của Bộ Tƣ pháp đƣợc ban hành, đã ghi rõ: “Bộ Tƣ pháp

có chức năng quản lý các Tòa án nhân dân địa phƣơng về mặt tổ chức trong

đó bao gồm cả việc quản lý công tác thi hành án dân sự”. Theo đó, Tòa án

nhân dân tối cao đã bàn giao nhiệm vụ quản lý công tác thi hành án dân sự

trong phạm vi toàn quốc sang Bộ Tƣ pháp bắt đầu từ ngày 01/01/1982. Ngày

18/7/1982 Bộ Tƣ pháp và Tòa án nhân dân tối cao đã ký Thông tƣ liên ngành

số 472 về quản lý công tác thi hành án dân sự trong thời kỳ trƣớc mắt, quy

định: ở địa phƣơng tại các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ƣơng có phòng thi hành án nằm trong cơ cấu, bộ máy và biên chế của Tòa án

để giúp Chánh án chỉ đạo công tác thi hành án dân sự. Ở các Tòa án nhân dân

quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có các chấp hành viên hoặc cán bộ

làm công tác thi hành án dƣới sự chỉ đạo của Chánh án. Việc quản lý, chỉ đạo

và tổ chức thực thi nhiệm vụ của Chấp hành viên vẫn do Chánh án Tòa án

nhân dân cùng cấp đảm nhiệm.

Trong thời kỳ này, tổ chức và hoạt động thi hành án là một giai đoạn

khép kín trong Tòa án và tùy thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án Tòa án nhân

dân địa phƣơng. Vai trò của Tòa án nhân dân tối cao và tiếp đó là Bộ Tƣ pháp

từ năm 1981 đến năm 1992 trong việc quản lý Tòa án địa phƣơng mới dừng

lại ở vai trò quản lý chung, còn thực chất việc quản lý đội ngũ cán bộ tòa án,

cũng nhƣ việc xây dựng đảm bảo cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử, thi

hành án do chính quyền địa phƣơng đảm nhiệm.

Đầu những năm 1990, công cuộc đổi mới nói chung và cải cách bộ máy

Nhà nƣớc nói riêng đã đƣợc tiến hành một cách khá tích cực, khẩn trƣơng.

Hiến pháp 1992 và các luật về tổ chức bộ máy nhà nƣớc đƣợc Quốc hội khoá

IX thông qua vào tháng 10/1992 đã đặt ra nguyên tắc nền tảng cho quá trình

22

cải cách tƣ pháp trong đó công tác thi hành án dân sự đƣợc đổi mới một cách

căn bản. Do cơ chế tổ chức thi hành án là một bộ phận của Tòa án địa phƣơng,

với chức năng chủ yếu của tòa án là xét xử nên nhiều năm liền mối quan tâm,

chú trọng của Tòa án vẫn dành cho công tác xét xử còn việc thi hành án hầu

nhƣ ít đƣợc quan tâm. Điều này dẫn đến tình trạng án xét xử xong không

đƣợc thi hành chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong lƣợng án phải thi hành hành

năm. Do đó Đảng và Nhà nƣớc đã chủ trƣơng tách công tác thi hành án dân

sự ra khỏi Tòa án nhân dân. Trong thời gian này, công tác thi hành án dân sự

đƣợc thực hiện theo Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 1989.

Khác với luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981, việc ban hành Luật

Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1992 đã không quy định thẩm quyền của tòa án

nhân dân trong việc thi hành án trong khi đó Luật tổ chức Chính phủ năm

1992 lần đầu tiên đã quy định: Việc quản lý công tác thi hành án là một trong

những nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong lĩnh vực pháp luật và

hành chính tƣ pháp. Tại kỳ họp thứ nhất quốc hội khoá IX ngày 06/10/1992

đã thông qua Nghị quyết về việc bàn giao công tác thi hành án dân sự từ Tòa

án sang các cơ quan của chính phủ chậm nhất vào tháng 6/1993 và từ ngày

1/7/1993 các cơ quan thi hành án dân sự chính thức đƣợc thành lập và hoạt

động. Theo đó, Pháp lệnh thi hành án dân sự đƣợc ban hành ngày 21/4/1993,

có hiệu lực ngày 01/6/1993 thay thế Pháp lệnh thi hành án dân sự ban hành

ngày 28/8/1989 và đến năm 2004 thì đƣợc chỉnh sửa, bổ sung và đƣợc gọi là

Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.

Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004, sau gần năm năm triển khai

thực hiện đã thu đƣợc những kết quả nhất định. Tuy nhiên, qua gần năm năm

thực hiện, Pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004 đã bộc lộ nhiều hạn chế,

bất cập nhất là các quy định về trình tự, thủ tục, trách nhiệm, cơ chế phối hợp

của các cơ quan, tổ chức hữu quan trong công tác thi hành án dân sự; quyền

hạn của cơ quan thi hành án dân sự, của Chấp hành viên chƣa tƣơng xứng với

23

yêu cầu nhiệm vụ…

Để khắc phục những hạn chế này, tiếp tục hoàn thiện các quy định về

trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác thi

hành án dân sự tại Kỳ họp thứ tƣ, Quốc hội Khóa XII ngày 14/11/2008 đã

thông qua Luật thi hành án dân sự, gồm 9 chƣơng, 183 điều với nhiều nội

dung đổi mới và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2009.

1.3.5. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay

Việc tổ chức thi hành Luật đã đạt đƣợc nhiều kết quả quan trọng, cụ thể

là: nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các tầng lớp nhân dân về ý

nghĩa, vai trò của công tác thi hành án dân sự đƣợc nâng lên rõ rệt; việc kiện

toàn tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác thi hành án dân sự theo quy định

của Luật đã cơ bản đƣợc hoàn thành; vị thế cơ quan thi hành án dân sự đƣợc

nâng lên và nhận đƣợc sự quan tâm hơn của cấp ủy, chính quyền địa phƣơng

thông qua việc các cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm trực tiếp báo

cáo công tác thi hành án dân sự trƣớc Hội đồng nhân dân cùng cấp; cơ sở vật

chất, điều kiện làm việc của các cơ quan thi hành án dân sự đã đƣợc cải thiện

một bƣớc, việc xây dựng trụ sở, kho vật chứng các cơ quan thi hành án dân sự

cũng đã đƣợc quan tâm thực hiện, cơ bản hoàn thành ở cấp tỉnh; công tác phối

hợp giữa các ngành, các cấp ngày càng đƣợc tăng cƣờng và triển khai ngày

càng bài bản, nhờ đó kết quả công tác thi hành án dân sự đã có những chuyển

biến tích cực và đạt kết quả khả quan.

Bên cạnh những kết quả đã đạt đƣợc, công tác thi hành Luật thi hành án

dân sự bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, thậm chí yếu kém, trong đó nổi lên là:

kết quả THADS có tăng lên so với trƣớc khi có Luật nhƣng chƣa thật bền

vững (năm 2013 đạt thấp hơn so với năm 2012 và chƣa hoàn thành chỉ tiêu

theo Nghị quyết số 37/2012/QH13 của Quốc hội); lƣợng án tồn đọng tuy có

giảm nhƣng số việc và tiền chuyển kỳ sau vẫn còn rất lớn và có xu hƣớng

24

tăng lên (năm 2013 còn tồn 239.144 việc và trên 41.597 đồng, tăng so với

năm 2012); việc phân loại án ở một số cơ quan thi hành án dân sự vẫn chƣa

thật chính xác, vẫn còn tình trạng chuyển từ án có điều kiện sang án không có

điều kiện, trong khi Tòa án không nắm đƣợc bản án, quyết định mà Tòa án đã

tuyên có đƣợc chấp hành đầy đủ hay không; việc tổ chức thi hành án trong

nhiều vụ việc còn chƣa kịp thời, gặp khó khăn, vƣớng mắc, trong đó có những

trƣờng hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ ràng, thiếu khả thi

nhƣng việc trả lời của Tòa án đối với yêu cầu của cơ quan thi hành án về giải

thích bản án còn chậm, nhiều trƣờng hợp dẫn đến khiếu nại, tố cáo gay gắt,

kéo dài; công tác phối hợp trong thi hành án dân sự tuy đã có chuyển biến

nhƣng vẫn còn bất cập, một số cấp uỷ, chính quyền địa phƣơng có lúc, có nơi

chƣa thực sự quan tâm, chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện cho công

tác thi hành án dân sự...

Theo Nghị quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/6/2013 của Quốc hội khóa

XIII, kỳ họp thứ 5 về điều chỉnh Chƣơng trình xây dựng luật, pháp lệnh

nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2013 và Chƣơng trình xây dựng luật, pháp

luật năm 2014, Nghị quyết số 616/NQ-UBTVQH13 ngày 09/7/2013 của Ủy

ban Thƣờng vụ Quốc hội triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về

điều chỉnh Chƣơng trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa

XIII, năm 2013 và Chƣơng trình xây dựng luật, pháp luật năm 2014, Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự đƣợc đƣa vào chƣơng

trình chính thức năm 2014 với tiến độ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp

thứ 7 (tháng 5/2014) và thông qua tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2014). Chính

phủ đã giao Bộ Tƣ pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức

có liên quan xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi

hành án dân sự. Sau khi Quốc hội cho ý kiến, ngày 25/11/2014, tại Kỳ họp

thứ 8 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của

25

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2015.

Trên cơ sở các quy định của Luật thi hành án dân sự năm 2008, Luật

THADS năm 2008, đƣợc sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014, hệ thống

các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành Luật

đến nay cơ bản đã đƣợc xây dựng, ban hành khá đầy đủ, gồm Nghị định,

Thông tƣ, Thông tƣ liên tịch, hoặc các văn bản nhƣ Quyết định, Chỉ thị, Quy

chế phối hợp liên ngành, cụ thể nhƣ: Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày

18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều

của Luật THADS; Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 06/02/2017 của Thủ tƣớng

Chính phủ về tăng cƣờng công tác THADS; Quy chế liên ngành số

14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013 của Bộ

Tƣ pháp, Bộ Công an, TANDTC, VSKNDTC về phối hợp liên ngành trong

công tác THADS; Quyết định số 27/2012/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 của Thủ

tƣớng Chính phủ quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với

Chấp hành viên, Công chứng viên, Thẩm tra viên và Thƣ ký thi hành án; …

Nhƣ vậy, có thể nói rằng, song song với quá trình phát triển của hệ thống

thi hành án dân sự thì nhiệm vụ xây dựng hoàn thiện pháp luật về thi hành án

dân sự cũng đƣợc quan tâm, ngày càng hoàn thiện. Từ chỗ không có văn bản

pháp lý riêng để quy định về tổ chức và hoạt động thi hành án thì đến nay đã có

hàng loạt văn bản điều chỉnh một cách chi tiết các nội dung liên quan.

1.4. Tình hình tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự

ở Việt Nam

Trong những năm qua, hệ thống tổ chức thi hành án dân sự trên cả

nƣớc tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ theo Nghị

quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội khóa XIII về công

tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiểm sát

nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm

26

tiếp theo cũng nhƣ thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, Chỉ thị

số 05/CT-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ về tăng cƣờng công tác THADS, Bộ

Tƣ pháp đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, toàn diện, quyết liệt để hoàn

thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ thi hành án đƣợc giao, qua đó, góp phần tích cực

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo đảm an ninh chính

trị, trật tự, an toàn xã hội, quyền con ngƣời, quyền công dân và phát triển kinh

tế - xã hội của đất nƣớc.

1.4.1. Về tổ chức

Theo Báo cáo số 276/BC-BTP ngày 26/11/2018 của Bộ Tƣ pháp về

Tổng kết công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2018 và phƣơng

hƣớng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2019:

Tính đến hết ngày 30/9/2018, toàn quốc có 4.112 Chấp hành viên, 729

Thẩm tra viên và 1.791 Thƣ ký thi hành án. Bộ Tƣ pháp đã quan tâm rà soát,

bổ sung, phê duyệt quy hoạch chức danh lãnh đạo các cơ quan THADS địa

phƣơng và đã phê duyệt quy hoạch chức danh Cục trƣởng Cục THADS giai

đoạn 2018 - 2021 đối với 55/63 địa phƣơng, giai đoạn 2021 - 2026 đối với 07

địa phƣơng; chức danh Phó Cục trƣởng Cục THADS giai đoạn 2018 - 2021

đối với 62/63 địa phƣơng, giai đoạn 2021 - 2026 đối với 01/63 địa phƣơng;

phê duyệt chức danh Chi cục trƣởng giai đoạn 2018 - 2021 đối với 24 địa

phƣơng, giai đoạn 2021 - 2026 đối với 23 địa phƣơng; còn lại đang thực hiện

theo quy định.

Bộ Tƣ pháp thƣờng xuyên rà soát, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính

quyền các địa phƣơng tập trung kiện toàn đội ngũ công chức lãnh đạo các cơ

quan THADS. Để nâng cao hiệu quả trong công tác tổ chức cán bộ, Bộ Tƣ

pháp thƣờng xuyên tổ chức Hội nghị về công tác cán bộ, trong đó tập trung

tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/BCSĐ ngày

14/3/2014 của Ban cán sự Đảng Bộ Tƣ pháp về tăng cƣờng sự lãnh đạo của

27

Đảng đối với công tác tổ chức cán bộ các cơ quan THADS giai đoạn 2014 -

2016 kết hợp với sơ kết công tác luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác, công

tác biệt phái, trên cơ sở đó đã ban hành văn bản chỉ đạo, hƣớng dẫn chung

trong toàn Hệ thống.

Công tác đào tạo, bồi dƣỡng tiếp tục đƣợc Bộ Tƣ pháp quan tâm chú

trọng với nội dung, chƣơng trình đào tạo, bồi dƣỡng phù hợp hơn với từng

đối tƣợng và thực tiễn công tác thi hành án thời gian qua. Năm 2018, Bộ Tƣ

pháp, Tổng cục THADS đã tổ chức 15 lớp bồi dƣỡng cho các đối tƣợng bồi

dƣỡng, đào tạo

1.4.2. Về kết quả hoạt động thi hành án dân sự:

1.4.2.1. Năm 2016

Theo Báo cáo số 354/2016/BC-BTP ngày 12/12/2016 của Bộ Tƣ pháp

về Kết quả công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2016 và phƣơng

hƣớng, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu năm 2017:

- Về việc, tổng số thụ lý là 836.054 việc, tăng 44.642 việc (5,64%) so

với năm 2015. Tổng số phải thi hành là 821.216 việc, trong đó: số có điều

kiện thi hành là 675.429 việc (82,25%). Kết quả: Thi hành xong 530.428 việc

(tăng 30.388 việc so với năm 2015), đạt tỉ lệ 78,53%. Số việc chuyển kỳ sau

là 290.788 việc, trong đó, số việc có điều kiện nhƣng chƣa thi hành xong là

145.001 việc. So với số việc có điều kiện thi hành năm 2015 chuyển sang năm

2016 (169.914 việc), giảm 24.913 việc (14,66%).

- Về tiền, tổng số thụ lý là 144.524 tỷ 837 triệu 483 nghìn đồng, tăng

18.568 tỷ 760 triệu 273 nghìn đồng (14,74%) so với năm 2015. Tổng số phải

thi hành là 133.618 tỷ 729 triệu 398 nghìn đồng, trong đó: số có điều kiện thi

hành là 86.253 tỷ 902 triệu 891 nghìn đồng (64,56%). Kết quả: Thi hành xong

29.097 tỷ 865 triệu 317 nghìn đồng (tăng 7.800 tỷ 750 triệu 410 nghìn đồng

so với năm 2015), đạt tỷ lệ 33,74%. Số tiền chuyển kỳ sau là 104.520 tỷ 864

28

triệu 80 nghìn đồng, trong đó số tiền có điều kiện nhƣng chƣa thi hành xong

là 57.156 tỷ 37 triệu 572 nghìn đồng. So với số tiền có điều kiện thi hành năm

2015 chuyển sang năm 2016 (70.610 tỷ 755 triệu 761 nghìn đồng), giảm

13.454 tỷ 738 triệu 189 nghìn đồng (19,05%).

So với chỉ tiêu, nhiệm vụ Bộ Tƣ pháp giao các cơ quan THADS theo

quy định mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS năm

2014 (thi hành án xong trên 70% về việc và trên 30% về tiền trên tổng số án

có điều kiện thi hành), năm 2016, Hệ thống THADS đã vƣợt chỉ tiêu đƣợc

giao cả về việc (8,53%) và về tiền (3,74%). Số án chuyển kỳ sau giảm cả về

việc và về tiền so với năm 2015 (14,66% về việc và 19,05% về tiền).

- Công tác phân loại án có điều kiện thi hành và chưa có điều kiện thi

hành ngày càng chính xác hơn; tỷ lệ án có điều kiện thi hành trên tổng số phải

thi hành năm 2016 đạt khá cao (82,25% về việc và 64,55% về tiền), cao hơn

so với các năm trƣớc, nhất là về tiền (năm 2015 đạt 75,74% về việc và

44,73% về tiền, năm 2014 đạt 77,03% về việc và 53,42% về tiền).

- Kết quả thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự đối với phạm

nhân, tổng số việc, tiền phải thi hành của ngƣời phải thi hành án đang chấp

hành hình phạt tù là 104.016 việc, tƣơng ứng với 20.206 tỷ 253 triệu 931

nghìn đồng. Kết quả: Thi hành xong 52.751 việc, thu đƣợc số tiền là 1.372 tỷ

380 triệu 543 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 50,71% về việc và 6,79% về tiền (So với

năm 2015, tăng 4.557 việc nhƣng giảm 2.701 tỷ 113 triệu 106 nghìn đồng;

giảm 2,61% về việc và giảm 5,96% về tiền).

- Kết quả thi hành án đối với các khoản thu cho Ngân sách Nhà nước,

trong số 542.265 việc và 18.067 tỷ 009 triệu 671 nghìn đồng phải thu cho

Ngân sách, đã giải quyết đƣợc 372.836 việc, tƣơng ứng với số tiền 1.956 tỷ

575 triệu 753 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 85,82% về việc và 44,29% về tiền.

- Kết quả thi hành án tín dụng, ngân hàng, tổng số phải thi hành loại

29

này là 19.297 việc, với số tiền là 78.652 tỷ 305 triệu 814 nghìn đồng, tƣơng

ứng với 2,35% về việc và 58,86% về tiền so với tổng số việc và tiền phải thi

hành của toàn quốc. Kết quả: Thi hành xong 3.348 việc, thu đƣợc số tiền là

19.654 tỷ 590 triệu 288 nghìn đồng (tăng 305 việc và 3.859 tỷ 647 triệu 862

nghìn đồng), đạt tỷ lệ 17,35% về việc và 24,99% về tiền (giảm 0,65% về việc

nhƣng tăng 1,99% về tiền so với năm 2015).

- Về kết quả xét miễn, giảm thi hành án, đã lập hồ sơ đề nghị xét miễn,

giảm thi hành án tổng số 7.795 việc, với số tiền là 186 tỷ 335 triệu 875 nghìn

đồng. Cơ quan có thẩm quyền đã xét miễn, giảm tổng số 7.171 việc, tƣơng

ứng với số tiền 152 tỷ 757 triệu 564 nghìn đồng (so với năm 2015, giảm 1.067

việc và giảm 113 tỷ 297 triệu 007 nghìn đồng).

- Về kết quả tổ chức cưỡng chế thi hành án, đã ra quyết định áp dụng

biện pháp cƣỡng chế thi hành án đối với 11.901 trƣờng hợp (giảm 673 trƣờng

hợp so với năm 2015). Sau khi có Quyết định cƣỡng chế, có 1.428 trƣờng hợp

đƣơng sự tự nguyện thi hành án (giảm 82 trƣờng hợp so với năm 2015), nên

tổng số việc phải tổ chức cƣỡng chế là 10.473 trƣờng hợp (giảm 591 trƣờng

hợp so với năm 2015).

- Về số vụ việc đã kê biên, bán đấu giá không thành, tổng số vụ việc đã

kê biên tài sản, định giá lại và bán đấu giá nhƣng chƣa xử lý đƣợc là 11.084

việc, tƣơng ứng với số tiền là 31.866 tỷ 175 triệu 380 nghìn đồng, chiếm

8,17% số việc và 62,84% số tiền có điều kiện đang thi hành của toàn quốc

(trong đó, số việc bán đấu giá từ 3 lần trở lên là 7.651 việc, tƣơng ứng với số

tiền là 15.235 tỷ 589 triệu 267 nghìn đồng), giảm 3.527 việc nhƣng tăng

14.307 tỷ 588 triệu 4 nghìn đồng so với năm 2015.

1.4.2.2. Năm 2017

Theo Báo cáo số 344/BC-BTP ngày 04/12/2017 của Bộ Tƣ pháp về

Tổng kết công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2017 và phƣơng

30

hƣớng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2018:

- Về việc, tổng số thụ lý là 882.630 việc, tăng 46.576 việc (5,57%) so

với năm 2016. Tổng số phải thi hành là 869.430 việc, trong đó: số có điều

kiện thi hành là 693.264 việc (79,74%); số chƣa có điều kiện thi hành là

176.166 việc (20,26%). Kết quả: Thi hành xong 549.415 việc, đạt tỉ lệ

79,25%, tăng 18.987 việc (tăng 0,72%) so với năm 2016.

- Về tiền, tổng số thụ lý là 172.959 tỷ 724 triệu 927 nghìn đồng, tăng

28.434 tỷ 887 triệu 444 nghìn đồng (19,67%) so với năm 2016. Tổng số phải

thi hành là 163.658 tỷ 232 triệu 569 nghìn đồng, trong đó: số có điều kiện thi

hành là 92.000 tỷ 198 triệu 484 nghìn đồng (56,21%); số chƣa có điều kiện thi

hành là 71.658 tỷ 034 triệu 086 nghìn đồng (43,79%). Kết quả: Thi hành xong

35.242 tỷ 612 triệu 983 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 38,31%, tăng 6.144 tỷ 747 triệu

665 nghìn đồng (tăng 21,12%) so với năm 2016.

- Về kết quả thi hành đối với các khoản nợ của tổ chức tín dụng, tổng

số phải thi hành loại này là 22.473 việc, với số tiền là 99.311 tỷ 812 triệu 726

nghìn đồng, tƣơng ứng với 2,58% về việc và 60,74% về tiền so với tổng số

việc và tiền phải thi hành của toàn quốc. Kết quả: Thi hành xong: 4.440 việc,

thu đƣợc số tiền là 27.701 tỷ 223 triệu 513 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 19,76% về

việc và 27,89% về tiền, tăng so với năm 2016 cả về giá trị tuyệt đối (tăng

1.092 việc và tăng 8.046 tỷ 633 triệu 225 nghìn đồng) và về tỷ lệ (tăng 2,41%

về việc và 2,9% về tiền).

- Về kết quả thi hành án của ngƣời phải thi hành án đang chấp hành án

phạt tù thu các khoản tiền, tài sản mà ngƣời phải thi hành án, thân nhân của

ngƣời phải thi hành án nộp để thi hành án, tổng số việc, tiền phải thi hành là

97.446 việc tƣơng ứng với số tiền 31.942 tỷ 621 triệu 003 nghìn đồng. Kết

quả: Thi hành xong 49.520 việc, thu đƣợc số tiền là 2.795 tỷ 272 triệu 737

nghìn đồng, đạt tỷ lệ 50,82% về việc và 8,75% về tiền. So với năm 2016,

giảm 3.231 việc nhƣng tăng 1.422 tỷ 892 triệu 194 nghìn đồng; tăng 0,11% tỷ

31

lệ về việc và tăng 1,96% tỷ lệ về tiền.

- Về kết quả xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, đã lập hồ sơ đề nghị

xét miễn, giảm tổng số 7.145 việc, với số tiền là 172 tỷ 792 triệu 082 nghìn

đồng. Cơ quan có thẩm quyền đã xét miễn, giảm tổng số 6.451 việc, tƣơng

ứng với số tiền 39 tỷ 862 triệu 330 nghìn đồng, so với năm 2016, giảm 720

việc tƣơng ứng với 112 tỷ 895 triệu 234 nghìn đồng.

- Về kết quả tổ chức cƣỡng chế thi hành án, thực hiện cƣỡng chế có huy

động lực lƣợng đối với 5.549 trƣờng hợp (tăng 57 trƣờng hợp so với năm

2016). Sau khi có Quyết định cƣỡng chế, có 1.446 trƣờng hợp đƣơng sự tự

nguyện thi hành án (tăng 18 trƣờng hợp so với năm 2016).

- Về số vụ việc đã kê biên, định giá lại và đấu giá nhƣng không thành,

tổng số việc đã kê biên, định giá lại và đấu giá nhƣng không thành là 7.535

việc, tƣơng ứng với số tiền là 10.898 tỷ 734 triệu 293 nghìn đồng, chiếm

1,09% số việc và 11,8% số tiền có điều kiện thi hành của toàn quốc (trong đó

số việc bán đấu giá từ 3 lần trở lên là 5.225 việc, tƣơng ứng với số tiền là

6,999 tỷ 293 triệu 419 nghìn đồng).

1.4.2.3. Năm 2018

Theo Báo cáo số 276/BC-BTP ngày 26/11/2018 của Bộ Tƣ pháp về

Tổng kết công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2018 và phƣơng

hƣớng, nhiệm vụ, giải pháp công tác năm 2019:

- Về việc, đến hết tháng 9/2017, số cũ chuyển sang là 320.015 việc; từ

01/10/2017 đến 30/9/2018, thụ lý mới 607.234 việc. Nhƣ vậy, tổng số thụ lý

là 927.249 việc, tăng 44.512 việc (5,04%) so với năm 2017.

Tổng số phải thi hành là 914.083 việc, trong đó: số có điều kiện thi

hành là 711.990 việc (77,89%); số chƣa có điều kiện thi hành là 202.093 việc

(22,11%). Kết quả: Thi hành xong 571.708 việc, đạt tỉ lệ 80,30%.

- Về tiền, đến hết tháng 9/2017, số cũ chuyển sang là 128.415 tỷ 619

32

triệu 588 nghìn đồng; từ 01/10/2017 đến 30/9/2018, thụ lý mới là 67.585 tỷ 641

triệu 360 nghìn đồng. Nhƣ vậy, tổng số thụ lý là 196.001 tỷ 260 triệu 948 nghìn

đồng, tăng 23.041 tỷ 536 triệu 021 nghìn đồng (13,32%) so với năm 2017.

Tổng số phải thi hành là 178.628 tỷ 202 triệu 056 nghìn đồng, trong đó:

số có điều kiện thi hành là 90.009 tỷ 568 triệu 485 nghìn đồng (51,28%); số

chƣa có điều kiện thi hành là 85.500 tỷ 572 triệu 105 nghìn đồng (48,72%).

Kết quả: Thi hành xong 34.520 tỷ 915 triệu 718 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 38,35%.

- Về kết quả thi hành án của ngƣời phải thi hành án đang chấp hành án

phạt tù thu các khoản tiền, tài sản mà ngƣời phải thi hành án, thân nhân của

ngƣời phải thi hành án nộp để thi hành án, tổng số việc, tiền phải thi hành là

102.097 việc, tƣơng ứng với số tiền 22.674 tỷ 727 triệu 816 nghìn đồng. Kết

quả: Thi hành xong 51.708 việc, thu đƣợc số tiền là 2.303 tỷ 591 triệu 745

nghìn đồng, đạt tỷ lệ 50,64% về việc và 10,2% về tiền.

- Về kết quả xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án, đã lập hồ sơ đề nghị

xét miễn, giảm tổng số 6.502 việc, với số tiền là 78 tỷ 550 triệu 404 nghìn

đồng. Cơ quan có thẩm quyền đã xét miễn, giảm tổng số 5.867 việc, tƣơng

ứng với số tiền 70 tỷ 038 triệu 618 nghìn đồng.

- Về kết quả tổ chức cƣỡng chế thi hành án, đã ra quyết định áp dụng

biện pháp cƣỡng chế thi hành án đối với 9.857 trƣờng hợp, sau khi có Quyết

định cƣỡng chế, có 869 trƣờng hợp đƣơng sự tự nguyện thi hành án. Nhƣ vậy,

tổng số việc phải tổ chức cƣỡng chế là 8.988 trƣờng hợp.

- Về thi hành án đối với các khoản nợ của tổ chức tín dụng, tổng số

phải thi hành loại này là 24.907 việc, với số tiền là 108.999 tỷ 067 triệu 591

nghìn đồng, tƣơng ứng với 2,72% về việc và 62,1% về tiền so với tổng số

việc và tiền phải thi hành của toàn quốc. Kết quả: Thi hành xong 4.251 việc,

thu đƣợc số tiền là 24.575 tỷ 914 triệu 210 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 17,07% về

33

việc và 22,55% về tiền.

1.5. Pháp luật về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở một số

nƣớc trên thế giới

Hiện nay, trên thế giới có nhiều mô hình tổ chức và hoạt động thi hành

án dân sự khác nhau, trong đó có bốn mô hình chủ yếu là mô hình dựa vào

Tòa án (Court-controlled enforcement) nhƣ ở Đan Mạch, Ý, Tây Ban Nha;

mô hình kết hợp nhiều thiết chế (Multiple-institution-controlled enforcement)

nhƣ ở Mỹ, Anh, Đức, Áo; Mô hình dựa vào cơ quan thi hành án chuyên trách

thuộc nhánh hành pháp (Public sector specialist enforcement) nhƣ ở Nga, các

nƣớc thuộc Liên Xô cũ, Phần Lan, Thụy Điển và mô hình thi hành án tƣ nhân

và bán tƣ nhân (Private or quarsi-private sector specialist enforcement) nhƣ ở

Pháp, Bỉ, Hà Lan [37]. Mỗi mô hình tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự

có đặc điểm và cách vận hành khác nhau, việc nghiên cứu tổ chức và hoạt

động ở các nƣớc trên thế giới giúp chúng ta có thêm những kinh nghiệm và

bài học trong việc xây dựng và vận hành tổ chức, hoạt động thi hành án dân

sự ở Việt Nam.

1.5.1. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Pháp

Thi hành án dân sự tại Pháp cũng giống ở Việt Nam đều do Bộ Tƣ pháp

thống nhất quản lý, tuy nhiên, nếu nhƣ ở Việt Nam, hệ thống cơ quan thi hành

án dân sự trực thuộc Bộ Tƣ pháp (từ trung ƣơng là Tổng cục thi hành án dân

sự đến các địa phƣơng là Cục thi hành án dân sự và Chi cục thi hành án dân

sự) cùng các Văn phòng Thừa phát lại có thẩm quyền thi hành phần dân sự

trong các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì tại pháp

Thừa phát lại có thẩm quyền trực tiếp thi hành các bản án, quyết định dân sự

một cách độc lập; các Văn phòng Thừa phát lại, Công ty Thừa phát lại đƣợc

tổ chức và hoạt động theo mô hình của Công ty thƣơng mại, tự chịu trách

nhiệm về kinh phí hoạt động bằng các khoản thù lao do các bên yêu cầu thi

hành án chi trả, Nhà nƣớc không phải chi trả bất cứ khoản phí nào cho hoạt

34

động của Thừa phát lại.

Thừa phát lại ở Pháp đƣợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở quy định có

trong nội dung các văn bản quan trọng bao gồm:

- Pháp lệnh số 452592 ngày 02/11/1945 quy định thẩm quyền theo nội

dung của Thừa phát lại và tổ chức hành nghề Thừa phát lại;

- Nghị định số 56.222 ngày 29/02/1956 hƣớng dẫn áp dụng Pháp lệnh

số 452592 ngày 02/11/1945. Nghị định này quy định về: Thẩm quyền theo

lãnh thổ; hoạt động hỗ trợ phiên tòa; hoạt động bổ trợ; chế độ kế toán; tổ

chức, hiệp hội; chế độ danh dự; tổ chức nghề nghiệp; thành phần và hoạt động

của các cơ quan quản lý nghề nghiệp; quỹ cho vay;

- Nghị định số 92984 ngày 09/9/1992 về các điều kiện bổ nhiệm thƣ ký

Thừa phát lại - những ngƣời đƣợc ủy quyền tiến hành lập vi bằng;

- Nghị định 75770 ngày 14/8/1975 về các điều kiện hành nghề Thừa

phát lại và các phƣơng thức thành lập, chuyển nhƣợng và xóa bỏ vị trí hành

nghề Thừa phát lại và một số chức vụ bổ trợ tƣ pháp. Nghị định này quy định

về: Các điều kiện về trình độ, năng lực; tập sự hành nghề; thi sát hạch chuyên

môn; bổ nhiệm vị trí hành nghề Thừa phát lại; thành lập, chuyển nhƣợng và

xóa bỏ vị trí hành nghề Thừa phát lại;

- Nghị định số 90.1290 ngày 21/12/1990 về các điều kiện hành nghề có

quy chế công lại (Cộng đồng Châu âu);

- Nghị định số 69-1274 ngày 31/12/1969 hƣớng dẫn thi hành Luật về

các công ty nghề nghiệp có Thừa phát lại thành lập;

- Nghị định số 921448 ngày 30/12/1992 hƣớng dẫn áp dụng Luật cho

phép Thừa phát lại thành lập công ty hành nghề tự do.

Theo đó: Thừa phát lại là ngƣời hành nghề tự do, là ngƣời duy nhất có

thẩm quyền thi hành án, họ độc lập hoàn toàn với cơ quan quyền lực nhà nƣớc

khi tiến hành hoạt động thi hành án, Thừa phát lại không nằm trong bất cứ

35

một cơ quan hành chính nào hay đồng nghĩa họ không phải phải tuân thủ bất

cứ sự chi phối nào từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác ngoài pháp luật và

chính bản thân họ nhƣng phải chịu trách nhiệm trƣớc Tòa án, cơ quan quản lý

nghề nghiệp hoặc trƣớc Viện công tố; Thừa phát lại đƣợc sử dụng quyền lực

công khi thực hiện một công việc với tƣ cách Chấp hành viên, trong trƣờng

hợp cần thiết họ đƣợc quyền yêu cầu sự hỗ trợ từ các lực lƣợng vũ trang công

quyền, đây là lực lƣợng duy nhất tại Pháp đƣợc thực hiên quyền yêu cầu đó;

ngoài ra, Thừa phát lại còn đƣợc thực hiện các hoạt động bổ trợ tƣ pháp khác

nhƣ tiến hành bán đấu giá các tài sản là động sản; lập vi bằng theo yêu cầu

của các cá nhân; đại diện cho các bên trƣớc Tòa trong một số trƣờng hợp.

Về tổ chức, hệ thống Thừa phát lại ở Pháp đƣợc thiết lập theo ba cấp

gồm: Hội đồng Thừa phát lại tỉnh, Hội đồng Thừa phát lại vùng, Hội đồng

Thừa phát lại Quốc gia.

- Hội đồng Thừa phát lại tỉnh là tập hợp tất cả các Thừa phát lại trong

cùng một tỉnh. Hội đồng Thừa phát lại tỉnh đại diện cho toàn bộ Thừa phát lại

của tỉnh trƣớc các cơ quan hành chính và tƣ pháp; có quyền kỷ luật đối với

các Thừa phát lại trong toàn tỉnh.

- Hội đồng Thừa phát lại vùng đƣợc thành lập bên cạnh các Tòa án

phúc thẩm. Hội đồng vùng có nhiệm vụ đại diện cho toàn bộ Thừa phát lại

trong phạm vi quản hạt của Tòa án phúc thẩm đối với những vấn đề liên quan

đến quyền và lợi ích hợp pháp chung của các Thừa phát lại đó. Hội đồng vùng

bổ sung cho hoạt động của Hội đồng tỉnh chứ không phải là cơ quan cấp trên

của Hội đồng tỉnh.

- Hội đồng Thừa phát lại Quốc gia có 35 thành viên, mỗi thành viên đại

diện cho quản hạt của một Tòa án phúc thẩm, trừ đại diện Hội đồng Thừa phát

lại Paris có 02 đại diện. Hội đồng Thừa phát lại Quốc gia thực hiện các chức

năng, nhiệm vụ nhƣ: tổ chức đào tạo nhân viên và ngƣời tập sự, bồi dƣỡng

36

nghiệp vụ cho Thừa phát lại; quản lý các cơ quan chi trả bảo hiểm xã hội và

hƣu trí của Thừa phát lại và nhân viên của Thừa phát lại; đại diện cho các

Thừa phát lại Pháp ở nƣớc ngoài và các tổ chức quốc tế; quảng bá nghề Thừa

phát lại bên cạnh các cơ quan báo chí trong nƣớc và các tổ chức kinh tế, khoa

học lớn của đất nƣớc; quan hệ với đại diện các nghề tự do khác; phát triển

hoạt động trên cơ sở tìm kiếm các lĩnh vực hoạt động mới; tổ chức hội thảo,

tọa đàm, buổi nói chuyện và Đại hội Thừa phát lại hằng năm.

Về hoạt động thi hành án dân sự: Thừa phát lại thực hiện việc tƣ vấn

đối với những ngƣời có quyền cũng nhƣ những ngƣời có nghĩa vụ, đây là hoạt

động mang tính nghĩa vụ, bắt buộc; Thừa phát lại thỏa thuận với ngƣời có

quyền về việc lựa chọn thủ tục để thi hành án và trực tiếp chỉ đạo việc thực

hiện thủ tục đó. Thủ tục thi hành án đƣợc hiểu theo nghĩa rất rộng từ các công

việc chuẩn bị cho việc thi hành án cho đến khi kết thúc. Trong quá trình thi

hành án, Thừa phát lại có quyền thực hiện các công việc mà pháp luật hoặc

Thẩm phán có thẩm quyền cho phép, có quyền yêu cầu sự trợ giúp của các lực

lƣợng công để thực hiện việc thi hành án nếu cần thiết [38, tr.21].

1.5.2. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Trung Quốc

Về tổ chức, đơn vị thi hành án đƣợc tổ chức nhƣ một đơn vị riêng rẽ

trong hệ thống tòa án nhân dân các cấp tại Trung Quốc; Thẩm phán phụ trách

đơn vị thi hành án chịu trách nhiệm về công việc của đơn vị và chỉ xếp dƣới

Chánh án trong hệ thống thứ bậc nội bộ của Tòa án; các Tòa án cấp trên phải

thành lập một bộ phận có trách nhiệm quản lý, giám sát thi hành án của các

Tòa án cấp dƣới. Cơ bản, tổ chức của đơn vị thi hành án dân sự đƣợc chia

thành ba bộ phận chịu trách nhiệm thực hiện các chức năng khác nhau: (1)

Chịu trách nhiệm nghiên cứu và lập kế hoạch công tác thi hành án, tổ chức

các cuộc họp, điều tra, nghiên cứu các vấn đề pháp luật, giải quyết các vấn đề

khác nhau về thi hành án, chuẩn bị công văn và khảo sát thực tiễn, liên hệ với

37

các phòng ban chính quyền; (2) Chịu trách nhiệm thi hành các bản án đã có

hiệu lực pháp luật của Tòa án sở tại và của Tòa án địa phƣơng khác ủy thác

thi hành, thi hành các quyết định của Trong tài; (3) Chịu trách nhiệm với các

cơ quan có liên quan trong việc tổ chức thi hành án.

Về hoạt động, theo quy định của Luật tố tụng dân sự, thời hiệu yêu cầu

thi hành án là 02 năm kể từ ngày ngƣời đƣợc thi hành án có quyền thi hành án

(Điều 205); Tòa án sẽ gửi yêu cầu thi hành án cho ngƣời phải thi hành án, nếu

trong thời hạn đƣợc ấn định, ngƣời phải thi hành án không thi hành án thì Tòa

án sẽ áp dụng các biện pháp cƣỡng chế (Điều 216); ngƣời phải thi hành án

phải cung cấp một bản kê khai tài sản, nếu ngƣời phải thi hành án không cung

cấp thì Tòa án có quyền điều tra, phong tỏa và chuyển giao số tiền đang

phong tỏa trong tài khoản tại Ngân hàng, các tổ chức tín dụng hoặc tổ chức

nhận tiền gửi khác (Điều 218); Tòa án có quyền ra quyết định khấu trừ thu

nhập của ngƣời phải thi hành án, nhƣng phải để lại cho ngƣời phải thi hành án

đủ thu nhập để sinh sống và chu cấp cho ngƣời phụ thuộc (Điều 219); Tòa án

có quyền phong tỏa, kê biên, bán đấu giá một phần hoặc toàn bộ tài sản của

ngƣời phải thi hành án (Điều 220); trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án che

giấu tài sản Tòa án có thể ra lệnh khám xét (Điều 224) hoặc triệu tập đƣơng

sự buộc phải nộp các giấy tờ có giá hoặc tài sản có thể đƣợc chuyển giao bằng

giấy tờ (Điều 225); sau khi gửi thông báo theo quy định, Tòa án có thể buộc

ngƣời phải thi hành án rời khỏi nhà hoặc khu đất (Điều 226); ngƣời nào chậm

trễ thanh toán tiền hoặc chuyển giao tài sản có thể bị buộc phải trả gấp đôi

tiền lãi trên số nợ hoặc bị phạt tiền do chậm thực hiện thanh toán (Điều 229);

đối với ngƣời không chấp hành biện pháp cƣỡng chế, Tòa án có thể thông báo

với cơ quan hữu quan để hạn chế quyền ra nƣớc ngoài của ngƣời đó, nêu

thông tin của ngƣời đó trên hệ thống tín dụng hoặc công bố việc ngƣời đó

không chấp hành biện pháp cƣỡng chế trên các phƣơng tiện thông tin đại

38

chúng (Điều 231).

1.5.3. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Đức

Ở Đức, hoạt động thi hành án dân sự do Chấp hành viên đảm nhiệm.

Chấp hành viên là công chức hạng trung, là một mắt xích độc lập trong hệ

thống các cơ quan bảo vệ pháp luật, đƣợc tổ chức theo quản hạt của các

Tòa án quận nhƣng không nằm trong cơ cấu tổ chức của Tòa án; Phòng

Lục sự của Tòa án tiếp nhận các yêu cầu thi hành án và phân công cho

Chấp hành viên thực hiện; Chấp hành viên chịu sự giám sát nghiệp vụ của

Thẩm phán đƣợc phân công; Chấp hành viên có trụ sở riêng, con dấu riêng,

tự chịu trách nhiệm về chi phí hoạt động của trụ sở và giao dịch dƣới tên

gọi, chức danh của mình.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Chấp hành viên có trách nhiệm

Giao văn kiện, giấy tờ cho các bên đƣơng tụng trong vụ án dân sự theo yêu

cầu của một bên; Lập chứng thƣ phản đối (việc chuẩn nhận hay trả tiền) các

hối phiếu; Giao chứng thƣ thể hiện yêu cầu, ý chí của ngƣời triệu dụng cho

một ngƣời khác; Tổ chức thi hành án đối với các bản án mà luật quy định do

Chấp hành viên thi hành theo yêu cầu của ngƣời đƣợc thi hành án. Bên cạnh

đó, Chấp hành viên đƣợc quyền kê biên, bán đấu giá động sản, các giấy tờ có

giá; yêu cầu trả lại đồ vật; bắt giữ ngƣời phải thi hành án để buộc cam kết

thực hiện; khám nhà, khám nơi để tài sản của ngƣời phải thi hành án; đƣợc

dùng vũ lực khi gặp phải sự chống đối bằng cách yêu cầu lực lƣợng cảnh sát

hỗ trợ; đƣợc thu lệ phí theo mức pháp luật quy định. Phí thi hành án do bên

phải thi hành án chi trả, tuy nhiên, khi cƣỡng chế thi hành án không có kết

quả thì bên triệu dụng chấp hành viên phải chi trả lệ phí [38, tr.29].

1.5.4. Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Nhật Bản

Ở Nhật Bản, không có cơ quan hành chính riêng quản lý về công tác thi

hành án dân sự, hoạt động thi hành án dân sự do “Tòa thi hành án” (Shikko

39

saibansho) và “Chấp hành viên” (Shikkokan) đảm nhiệm.

Tòa thi hành án đơn giản là tòa án quận khi tòa án này thực hiện nhiệm

vụ thi hành án. Tòa án ra quyết định thi hành án và tổ chức thi hành dƣới sự

hỗ trợ của Chấp hành viên. Chấp hành viên là viên chức tòa án, trực tiếp thực

hiện các thủ tục thi hành án và tống đạt giấy tờ của Tòa án. Chấp hành viên

đƣợc bố trí làm việc tại các Tòa án quận, chịu sự giám sát của một Thẩm pháp

đƣợc chỉ định giám sát các Chấp hành viên (theo Điều 5, Điều 6 Quy chế của

Tòa án tối cao số 10 năm 1966). Chấp hành viên giúp Tòa thực hiện tất cả các

loại thi hành án (Điều 64 Luật thi hành án dân sự), thi hành án đối với các tài

sản hữu hình (Điều 86 Bộ luật dân sự), bao gồm giấy tờ có giá trị, thu và giữ

tài sản cụ thể bao gồm cả động sản và bất động sản (Điều 122, Điều 168-169

Luật thi hành án dân sự). Chấp hành viên không nhận lƣơng cố định mà nhận

thù lao tính trên phí thi hành các vụ việc.

Về cơ bản, cơ quan thi hành án không buộc ngƣời phải thi hành án trực

tiếp thực hiện các nghĩa vụ thi hành án của mình. Thay vào đó, cơ quan thi hành

án trong khả năng tối đa có thể, cố gắng đảm bảo để ngƣời đƣợc thi hành án đạt

đƣợc mục đích của mình mà không cần có sự hỗ trợ của ngƣời phải thi hành án.

Nếu nghĩa vụ thi hành án là trả tiền hoặc giao tài sản, thì cơ quan thi hành án sẽ

bán tài sản của ngƣời phải thi hành án và trả tiền cho ngƣời đƣợc thi hành án.

Thi hành án kiểu này gọi là cƣỡng chế trực tiếp (Chokusetsu kyosei).

Trong trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án có nghĩa vụ thực hiện một công

việc nào đó hoặc không đƣợc thực hiện một công việc nào đó thì pháp luật vẫn

quy định tránh cƣỡng chế nhân thân. Một nghĩa vụ mà có thể do ngƣời khác thực

hiện, không nhất thiết phải do chính ngƣời phải thi hành án thực hiện thì sẽ đƣợc

thực hiện thông qua đại diện thi hành – việc thi hành do ngƣời thứ ba thực hiện,

chi phí đƣợc trích từ tiền bán tài sản của ngƣời phải thi hành án để đảm bảo

(Điều 171 Luật thi hành án dân sự). Trƣờng hợp nghĩa vụ bắt buộc phải do

ngƣời phải thi hành án thực hiện thì cơ quan thi hành án sẽ áp dụng biện pháp

40

cƣỡng chế gián tiếp (kansetsu kyosei) theo quy định tại Điều 172 Luật thi hành

án dân sự, theo đó, buộc ngƣời phải thi hành án phải trả cho ngƣời đƣợc thi hành

án một khoản tiền tƣơng ứng với nghĩa vụ mà họ phải thực hiện.

Ngoài ra, pháp luật thi hành án dân sự Nhật Bản không có chế tài theo

hƣớng “hình sự hóa” các hành vi không thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự.

* Tóm lại, tùy thuộc vào tình hình phát triển kinh tế, văn hóa pháp lý,

các yếu tố về con ngƣời, … mà ở các quốc gia, tổ chức và hoạt động thi hành

án dân sự có những đặc trƣng riêng.

Qua nghiên cứu, có thể thấy rằng, so với các quốc gia trên thế giới, tổ

chức và hoạt động thi hành án dân sự ở nƣớc ta hiện nay đƣợc đƣợc thực hiện

một cách linh hoạt. Về cơ bản, tổ chức cơ quan thi hành án dân sự theo mô

hình dựa vào cơ quan thi hành án chuyên trách thuộc nhánh hành pháp

(Public sector specialist enforcement). Trong đó, đóng vai trò trung tâm trong

hệ thống cơ quan thi hành án dân sự là các Chấp hành viên. Chấp hành viên ở

Việt Nam có chức năng, nhiệm vụ gần tƣơng tự với Chấp hành viên hoặc

Thừa phát lại ở các quốc gia trên thế giới.

Bên cạnh đó, theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020, sau khi có sự

đồng thuận của Quốc hội, từ 01/7/2009, chế định Thừa phát lại đƣợc triển

khai thí điểm, cho đến ngày 01/01/2016 đƣợc triển khai trên cả nƣớc và đóng

góp đƣợc những kết quả quan trọng.

Sự kết hợp linh hoạt giữa hệ thống cơ quan thi hành án dân sự chuyên

trách thuộc nhánh hành pháp và hệ thống các Văn phòng Thừa phát lại (Thi

hành án dân sự tƣ nhân) là phù hợp với điều kiện, yêu cầu thực tiễn trong

công tác thi hành án dân sự nói riêng và công tác bổ trợ tƣ pháp nói chung ở

nƣớc ta hiện nay. Đây là sự nghiên cứu, kế thừa những kinh nghiệp quý báu

của các quốc gia trên thế giới (trong đó có các quốc gia nhƣ Pháp, Trung

Quốc, Nhật Bản, Đức nhƣ trong nội dung nghiên cứu) và cũng là đặc trƣng

41

riêng của thi hành án dân sự Việt Nam.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự là hai lĩnh vực chính trong thi

hành án dân sự, hoạt động đƣa các bản án, quyết định về dân sự ra thi hành

trên thực tế, nhằm hiện thực hóa quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc

thi hành án đã đƣợc xác định trong các bản án, quyết định; đóng vai trò quan

trọng trong việc xây dựng niềm tin của ngƣời dân đối với Nhà nƣớc, bảo đảm

quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc và các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

Trên thế giới, tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự đƣợc tổ chức

theo nhiều mô hình khác nhau nhƣng dù ở mô hình nào thì hiệu quả của thi

hành án dân sự luôn phụ thuộc vào hai yếu tố đó là con ngƣời thi hành án

(một bộ phận của tổ chức) và thủ tục thi hành án (hoạt động thi hành án). Ở

Việt Nam, thi hành án dân sự mặc dù có lịch sử ngắn hơn nhiều quốc gia trên

thế giới nhƣng quá trình hình thành và phát triển thi hành án dân sự ở nƣớc ta

đã trả qua thời gian khá dài; tổ chức và hoạt động của các Chi cục thi hành án

dân sự đƣợc xác định sau khi Luật thi hành án dân sự đƣợc ban hành và có

hiệu lực thi hành.

Chƣơng 1 của Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về tổ

chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự nhƣ khái niệm, nguyên tắc,

lƣợc sử hình thành và phát triển; tình hình tổ chức và hoạt động thi hành án

dân sự ở nƣớc ta hiện nay và mô hình tổ chức và hoạt động của một số quốc

42

gia trên thế giới.

Chương 2

PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHI CỤC THI

HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Pháp luật về tổ chức của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt

Nam hiện nay

Cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan nhà nƣớc thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn trong việc thi hành các bản án, quyết định dân sự. Ở nƣớc ta hiện

nay, theo quy định tại Điều 13 Luật THADS SĐBS 2014, hệ thống cơ quan

thi hành án dân sự gồm: cơ quan quản lý thi hành án (gồm: cơ quan quản lý

thi hành án dân sự thuộc Bộ Tƣ pháp và cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ

Quốc phòng) và cơ quan thi hành án (gồm: cơ quan thi hành án dân sự tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ƣơng gọi chung là cơ quan thi hành án dân sự cấp

tỉnh; cơ quan thi hành án dân sự quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh

gọi chung là cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện; cơ quan thi hành án quân

khu và tƣơng đƣơng); các cơ quan thi hành án dân sự chịu sự quản lý, chỉ đạo

thống nhất, tập trung của Chính phủ, Bộ Tƣ pháp và bảo đảm sự chỉ đạo của

Ủy ban nhân dân các cấp.

Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện (theo quy định tại điểm c,

khoản 1 Điều 52 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính

phủ Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số Điều Luật thi hành án

dân sự thì Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có tên gọi chung là Chi cục

thi hành án dân sự) nói riêng và cơ quan thi hành án dân sự nói chung mặc

dù chịu sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của các cơ quan quản lý thi hành án

theo ngành dọc nhƣng hoạt động của các cơ quan thi hành án có tính độc lập

tƣơng đối nhằm bảo đảm thi hành các bản án, quyết định của Tòa án, quyết

43

định của Trọng tài và quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử

lý vụ việc cạnh tranh. Tổ chức của Chi cục thi hành án dân sự theo quy định

tại khoản 2 Điều 6 Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 của

Thủ tƣớng Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu

tổ chức của Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tƣ pháp, gồm có:

Chi cục trƣởng đồng thời là Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự, Phó Chi

cục trƣởng đồng thời là Phó thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp

hành viên trung cấp, Chấp hành viên sơ cấp, Thẩm tra viên thi hành án, Thƣ

ký thi hành án và công chức khác.

2.1.1. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng

2.1.1.1. Về tiêu chuẩn

Thủ trƣởng, Phó Thủ trƣởng Chi cục thi hành án dân sự phải là Chấp

hành viên (theo quy định tại khoản 1 Điều 22 Luật THADS SĐBS 2014),

ngoài ra còn phải đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định tại Thông tƣ số

02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của Bộ Tƣ pháp Hƣớng dẫn một số nội

dung quản lý công chức, viên chức, ngƣời lao động thuộc hệ thống tổ chức thi

hành án dân sự, gồm:

- Có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tƣởng

cách mạng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; có ý

thức đấu tranh bảo vệ quan điểm, đƣờng lối của Đảng; pháp luật của Nhà

nƣớc. Lãnh đạo và thực hiện tốt các chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp

luật của Nhà nƣớc;

- Gƣơng mẫu về đạo đức, lối sống, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô

tƣ; không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh chống quan

liêu, tham nhũng, lãng phí; có tác phong làm việc dân chủ, gắn bó chặt chẽ

với nhân dân, thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định của cơ quan, đơn vị

và đáp ứng các Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên

44

chức ngành Tƣ pháp;

- Có tinh thần trách nhiệm và ý thức tổ chức kỷ luật cao; có tinh thần

học hỏi, nghiên cứu, sáng tạo, năng động, hoàn thành tốt nhiệm vụ đƣợc giao.

- Có ý thức và khả năng nghiên cứu, hiểu biết về tình hình chính trị, kinh

tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nƣớc; đƣợc đào

tạo và có kiến thức cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học;

- Có khả năng quy tụ; tập hợp đƣợc sức mạnh của toàn thể công chức,

viên chức, ngƣời lao động trong cơ quan, đơn vị và phối hợp tốt với các cơ

quan, tổ chức có liên quan thực hiện nhiệm vụ đƣợc giao;

- Bản thân và gia đình gƣơng mẫu thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng, chính

sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc. Không lạm dụng chức vụ, quyền

hạn và để ngƣời thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình mƣu lợi riêng;

- Có chứng chỉ ngoại ngữ với trình độ tƣơng đƣơng bậc 2 khung năng

lực ngoại ngữ Việt Nam theo quy định hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào

tạo; đối với những công chức đang làm việc ở vùng dân tộc thiểu số, có văn

bằng, chứng chỉ đào tạo, bồi dƣỡng tiếng dân tộc thiểu số do cơ sở đào tạo

cấp theo thẩm quyền hoặc công chức là ngƣời dân tộc thiểu số đang làm việc

ở vùng dân tộc thiểu số thì không bắt buộc phải có tiêu chuẩn ngoại ngữ nêu

trên; có chứng chỉ tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ

thông tin cơ bản theo quy định hiện hành của Bộ Thông tin và Truyền thông.

2.1.1.2. Về nhiệm vụ và quyền hạn

Thủ trƣởng Chi cục thi hành án dân sự chịu trách nhiệm trƣớc Cục

trƣởng Cục Thi hành án dân sự và trƣớc pháp luật trong việc lãnh đạo, quản

lý, chỉ đạo, điều hành mọi hoạt động của Chi cục Thi hành án dân sự; bảo

đảm để Chi cục Thi hành án dân sự hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ đƣợc

giao, theo quy định tại khoản 1 Điều 23 Luật THADS SĐBS 2014 có nhiệm

vụ và quyền hạn sau:

45

- Ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền đối với các bản án,

quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh và tƣơng đƣơng nơi Chi cục thi hành dân sự có trụ sở; bản án, quyết định

phúc thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng đối với

các bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng nơi Chi cục thi hành dân sự có trụ sở;

quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với các

bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành

phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng nơi Chi cục thi hành dân sự có trụ sở; bản án,

quyết định do Chi cục thi hành án dân sự khác, Cục thi hành án dân sự hoặc

cơ quan thi hành án cấp quân khu ủy thác (theo quy định tại khoản 1 Điều 35

Luật THADS SĐBS 2014);

- Quản lý, chỉ đạo hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự (ví dụ:

phân công Chấp hành viên giải quyết hồ sơ, hƣớng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra

việc giải quyết hồ sơ của Chấp hành viên, phân công nhiệm vụ đối với các

chức danh khác, công chức trong Chi cục, …);

- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân phối hợp tổ chức thi hành án (ví

dụ: yêu cầu cung cấp thông tin theo quy định, đề nghị các cơ quan, phòng,

ban chuyên môn tham gia phối hợp cƣỡng chế, thẩm định giá trị tài sản thi

hành án, …);

- Yêu cầu cơ quan đã ra bản án, quyết định giải thích bằng băn bản

những điểm chƣa rõ hoặc không phù hợp với thực tế trong bản án, quyết định

đó để thi hành;

- Kiến nghị ngƣời có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định theo quy định của pháp luật;

- Trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát; giải quyết khiếu nại,

tố cáo về thi hành án, xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị

cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính

46

hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời vi phạm;

- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên;

- Tổ chức thực hiện chế độ báo cáo, thống kê thi hành án.

Ngoài ra, Thủ trƣởng Chi cục thi hành án dân sự theo quy định tại Điều

17 Thông tƣ số 02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của Bộ Tƣ pháp Hƣớng dẫn

một số nội dung quản lý công chức, viên chức, ngƣời lao động thuộc hệ thống

tổ chức thi hành án dân sự còn có các chức năng, nhiệm vụ sau: Lãnh đạo, chỉ

đạo toàn diện đơn vị trong việc tổ chức triển khai thực hiện chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn của Chi cục Thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật;

thực hiện phân công, hƣớng dẫn, kiểm tra, đôn đốc công chức, ngƣời lao động

hoàn thành nhiệm vụ; lãnh đạo đơn vị tổ chức thực hiện các chủ trƣơng, đề

án, kế hoạch, chƣơng trình công tác; sử dụng có hiệu quả các nguồn lực đƣợc

giao; trên cơ sở thực tiễn công tác, đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm

nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự ở địa phƣơng; thực hiện các

nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật, theo chỉ đạo của Cục trƣởng Cục

Thi hành án dân sự và phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phƣơng.

Phó Thủ trƣởng Chi cục thi hành án dân sự ngoài thực hiện nhiệm vụ,

quyền hạn theo sự phân công hoặc ủy quyền của Thủ trƣởng Chi cục thi hành

án dân sự và chịu trách nhiệm trong phạm vi công việc đƣợc giao (khoản 2

Điều 23 Luật THADS SĐBS 2014) còn thực hiện các chức trách, nhiệm vụ

sau: Tổ chức thực hiện các công việc chuyên môn, nghiệp vụ theo phân công

hoặc ủy quyền của Chi cục trƣởng; Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc công chức,

ngƣời lao động thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực đƣợc phân công phụ

trách; Tham mƣu, đề xuất với Chi cục trƣởng các chủ trƣơng, biện pháp quản

lý nhà nƣớc liên quan đến lĩnh vực, địa bàn đƣợc phân công phụ trách và các

lĩnh vực khác thuộc phạm vi quản lý của Chi cục trƣởng; Thực hiện các

47

nhiệm vụ khác theo sự phân công của Chi cục trƣởng.

2.1.1.3. Về việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, từ chức

Theo quy định tại Thông tƣ số 02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của

Bộ Tƣ pháp Hƣớng dẫn một số nội dung quản lý công chức, viên chức, ngƣời

lao động thuộc hệ thống tổ chức thi hành án dân sự thì:

Việc bổ nhiệm Chi cục trƣởng (Thủ trƣởng) và Phó Chi cục trƣởng

(Phó Thủ trƣởng) Chi cục thi hành án dân sự đƣợc thực hiện theo các bƣớc

quy định tại Điều 39 và Điều 40; theo đó, Tổng cục trƣởng có thẩm quyền

phê duyệt quyết định bổ nhiệm đối với Chi cục trƣởng Chi cục thi hành án

dân sự còn Cục trƣởng có thẩm quyền phê duyệt quyết định bổ nhiệm đối

với Phó Chi cục trƣởng Chi cục thi hành án dân sự trực thuộc. Trƣờng hợp

đơn vị thay đổi tên gọi thì Tổng cục trƣởng xem xét, quyết định bổ nhiệm

Chi cục trƣởng; Cục trƣởng xem xét, quyết định bổ nhiệm Phó Chi cục

trƣởng theo tên gọi đơn vị mới (Điều 41). Trƣờng hợp chƣa có nhân sự đáp

ứng tiêu chuẩn bổ nhiệm Chi cục trƣởng Chi cục Thi hành án dân sự, Tổng

Cục trƣởng quyết định giao quyền cấp trƣởng hoặc giao phụ trách Chi cục

Thi hành án dân sự; Cục trƣởng Cục Thi hành án dân sự tổ chức hội nghị tập

thể lãnh đạo Cục để thảo luận, lựa chọn giới thiệu nhân sự để trình Tổng

Cục trƣởng giao quyền cấp trƣởng hoặc giao phụ trách Chi cục Thi hành án

dân sự báo cáo Tổng Cục trƣởng; Trƣờng hợp giao quyền cấp trƣởng, Cục

Thi hành án dân sự ký Công văn trao đổi, lấy ý kiến bằng văn bản của cấp

ủy cấp huyện về nhân sự dự kiến (Điều 42).

Việc bổ nhiệm lại Chi cục trƣởng (Thủ trƣởng) và Phó Chi cục trƣởng

(Phó Thủ trƣởng) Chi cục thi hành án dân sự phải đƣợc thực hiện chậm nhất

là 90 ngày tính đến ngày hết thời hạn giữ chức vụ lãnh đạo theo quy định, cấp

có thẩm quyền theo phân cấp quản lý công chức, viên chức. Quyết định bổ

nhiệm lại công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo phải đƣợc thực hiện

48

trƣớc ít nhất 01 ngày làm việc, tính đến ngày hết thời hạn bổ nhiệm. Trƣờng

hợp vì lý do khách quan mà chƣa thực hiện xong thì cấp có thẩm quyền quyết

định việc kéo dài thời gian thực hiện nhiệm vụ (Điều 44). Để đƣợc bổ nhiệm

lại, trong nhiệm kỳ, Chi cục trƣởng (Thủ trƣởng) và Phó Chi cục trƣởng (Phó

Thủ trƣởng) Chi cục thi hành án dân sự phải đáp ứng đƣợc các yêu cầu sau:

Hoàn thành nhiệm vụ trong thời gian giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; Không có

công chức cấp dƣới có sai phạm nghiêm trọng liên quan trực tiếp đến phạm vi

quản lý, chỉ đạo, điều hành trong thời gian giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; Đáp

ứng tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo đƣợc quy định tại thời điểm xem xét, bổ

nhiệm lại và yêu cầu công tác trong thời gian tiếp theo; Đủ sức khoẻ để hoàn

thành nhiệm vụ và chức trách đƣợc giao; Cơ quan, đơn vị có nhu cầu; Chƣa

đảm nhiệm đủ thời gian hai nhiệm kỳ liên tiếp chức vụ lãnh đạo, quản lý đang

đƣợc xem xét bổ nhiệm lại; trƣờng hợp đặc biệt do Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp

xem xét, quyết định; Bảo đảm các điều kiện khác theo quy định của Đảng và

Nhà nƣớc về công tác cán bộ (Điều 43).

Chi cục trƣởng (Thủ trƣởng) và Phó Chi cục trƣởng (Phó Thủ trƣởng)

Chi cục thi hành án dân sự trong thời gian giữ chức vụ, nếu công chức, viên

chức lãnh đạo thấy không đủ điều kiện để hoàn thành nhiệm vụ hoặc có

nguyện vọng xin từ chức vì lý do khác theo quy định của pháp luật về công

chức, viên chức thì làm đơn xin từ chức(Điều 46); trƣờng hợp do nhu cầu

công tác hoặc trong các trƣờng hợp sức khỏe không bảo đảm, hoặc không

hoàn thành nhiệm vụ, hoặc vi phạm kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà

nƣớc nhƣng chƣa đến mức bị thi hành kỷ luật bằng hình thức cách chức, hoặc

các trƣờng hợp khác theo quy định của pháp luật về công chức, viên chức thì

cấp có thẩm quyền xem xét miễn nhiệm và bố trí công tác khác mà không chờ

hết thời hạn bổ nhiệm (Điều 47).

2.1.2. Chấp hành viên

49

Thi hành án dân sự là quá trình kéo dài, có sự tham gia của nhiều cá

nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan, trong đó Chấp hành viên là chủ thể tham

gia vào hầu hết các giai đoạn của quá trình thi hành án, đóng vai trò tổ chức

trong quá trình thi hành án.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Luật THADS SĐBS 2014 thì “Chấp

hành viên là ngƣời đƣợc Nhà nƣớc giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết

định theo quy định của Điều 2 của Luật này. Chấp hành viên có ba ngạch là

Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao

cấp”. Nhƣ vậy, Chấp hành viên là công chức nhà nƣớc, hƣởng lƣơng từ ngân

sách nhà nƣớc; là ngƣời đƣợc bổ nhiệm theo tiêu chuẩn do pháp luật quy định

để thực hiện quyền lực nhà nƣớc trong việc thi hành các bản án, quyết định

dân sự; Chấp hành viên chịu sự quản lý của Thủ trƣởng cơ quan thi hành án

dân sự nhƣng trong việc tổ chức thi hành án Chấp hành viên có vị trí tƣơng

đối độc lập, họ chỉ tuân theo pháp luật và chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật về

việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình, không chịu sự chi phối của

bất cứ cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Chấp hành viên là chức danh đƣợc bổ

nhiệm không theo nhiệm kỳ mà theo ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp,

Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp; theo đó, tùy thuộc vào

ngạch đƣợc bổ nhiệm, chấp hành viên đƣợc giao tổ chức thi hành các vụ việc

có tính chất phức tạp, giá trị tài sản phải tổ chức thi hành tƣơng ứng; điều này

vừa phát huy đƣợc vai trò của Chấp hành viên trong tổ chức thi hành án,

thuận lợi trong việc quản lý đội ngũ Chấp hành viên, vừa hạn chế đƣợc những

bất cập trong việc luân chuyển, điều động Chấp hành viên trong hệ thống tổ

chức thi hành án.

Chấp hành viên tại Chi cục thi hành án dân sự là Chấp hành viên sơ cấp

và Chấp hành viên trung cấp.

Đối với việc bổ nhiệm Chấp hành viên, theo quy định tại Luật THADS

50

SĐBS 2014 thì điều kiện chung để đƣợc bổ nhiệm vào ngạch Chấp hành viên

là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, trung thực, liêm khiết, có

phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ cử nhân luật trở lên, có sức khỏe để hoàn

thành nhiệm vụ đƣợc giao thì có thể đƣợc bổ nhiệm làm Chấp hành viên

(khoản 1 Điều 18). Riêng đối với ngạch Chấp hành viên sơ cấp thì phải đáp

ứng thêm các điều kiện: có thời gian công tác pháp luật từ 03 năm trở lên, đã

đƣợc đào tạo nghiệp vụ thi hành án dân sự và đã trúng tuyển kỳ thi Chấp hành

viên sơ cấp (khoản 2 Điều 18). Đối với trƣờng hợp giữ ngạch Chấp hành viên

sơ cấp trên 05 năm và trúng tuyển kỳ thi Chấp hành viên trung cấp đủ điều

kiện để xem xét bổ nhiệm Chấp hành viên trung cấp (khoản 3 Điều 18).

Các nội dung về việc tổ chức thi tuyển và bổ nhiệm Chấp hành viên sơ

cấp đƣợc quy định cụ thể tại các Điều từ Điều 49 đến Điều 62 Thông tƣ số

02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017 của Bộ Tƣ pháp Hƣớng dẫn một số nội

dung quản lý công chức, viên chức, ngƣời lao động thuộc hệ thống tổ chức thi

hành án dân sự. Ngoài ra, các trƣờng hợp theo quy định tại khoản 6, khoản 7

Điều 18 Luật THADS SĐBS 2014 và Điều 63 Nghị định 62/2015/NĐ-CP

ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một

số Điều của Luật thi hành án dân sự có thể đƣợc xem xét bổ nhiệm Chấp hành

viên không qua thi tuyển.

Việc bổ nhiệm Chấp hành viên thuộc thẩm quyền của Bộ trƣởng Bộ Tƣ

pháp, đồng thời Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp có thẩm quyền cách chức Chấp hành

viên trong trƣờng hợp Chấp hành viên vi phạm quy định của pháp luật trong

quá trình tổ chức thi hành án chƣa tới mức buộc thôi việc hay truy cứu trách

nhiệm hình sự hoặc vi phạm nghiêm trọng quy định những điều Chấp hành

viên không đƣợc làm nhƣng xét thấy cần phải áp dụng hình thức kỷ luật cách

chức Chấp hành viên.

Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên, theo quy định tại Điều 20

Luật THADS SĐBS 2014, Chấp hành viên Chi cục thi hành án dân sự có các

51

nhiệm vụ và quyền hạn:

Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc đƣợc phân công; ra các quyết định về

thi hành án theo thẩm quyền;

Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định

của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nƣớc,

quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

thực hiện nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên;.

- Triệu tập đƣơng sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải

quyết việc thi hành án;

- Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của ngƣời phải thi hành án;

yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh

địa chỉ, tài sản của ngƣời phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên

quan xử lý vật chứng, tài sản và những việc khác liên quan đến thi hành án;

- Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cƣỡng

chế thi hành án; lập kế hoạch cƣỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án;

- Yêu cầu cơ quan Công an tạm giữ ngƣời chống đối việc thi hành án

theo quy định của pháp luật;

- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật về thi hành án; xử phạt vi

phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý kỷ

luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với

ngƣời vi phạm;

- Quyết định áp dụng biện pháp cƣỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã

chi trả cho đƣơng sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án

và các khoản phải nộp khác;

- Đƣợc sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy

định của Chính phủ;

- Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trƣởng cơ quan

52

thi hành án dân sự.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chấp hành

viên phải tuân thủ các quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trƣớc pháp

luật về thi hành án, đƣợc pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm và uy tín. Cùng với đó, Chấp hành viên không đƣợc làm những việc sau

đây (theo quy định tại Điều 21 Luật THADS SĐBS 2014):

- Những việc mà pháp luật quy định công chức không đƣợc làm;

- Tƣ vấn cho đƣơng sự, ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến

việc thi hành án trái pháp luật;

- Can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ việc thi hành án hoặc

lợi dụng ảnh hƣởng của mình tác động đến ngƣời có trách nhiệm thi hành án;

- Sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án;

- Thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân

và những ngƣời sau đây: Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha

nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và

anh, chị, em ruột của Chấp hành viên, của vợ hoặc chồng của Chấp hành viên;

Cháu ruột mà Chấp hành viên là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì;

- Sử dụng thẻ Chấp hành viên, trang phục, phù hiệu thi hành án, công

cụ hỗ trợ để làm những việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn đƣợc giao;

- Sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá

trình thực hiện nhiệm vụ thi hành án;

- Cố ý thi hành trái nội dung bản án, quyết định; trì hoãn hoặc kéo dài

thời gian giải quyết việc thi hành án đƣợc giao không có căn cứ pháp luật.

2.1.3. Thẩm tra viên

Thẩm tra viên là công chức làm chuyên môn nghiệp vụ về thi hành án

dân sự, đƣợc bổ nhiệm theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức và

pháp luật về thi hành án dân sự, có nhiệm vụ giúp thủ trƣởng cơ quan thi hành

53

án dân sự thực hiện việc thẩm tra, kiểm tra những vụ việc thi hành án đã và

đang thi hành; thẩm tra xác minh các vụ việc có đơn thƣ khiếu nại, tố cáo;

thẩm tra thống kê, báo cáo, dữ liệu thi hành án dân sự và những hồ sơ, tài liệu

khác có liên quan đến công tác thi hành án dân sự, tham mƣu cho thủ trƣởng

cơ quan trả lời kháng nghị, kiến nghị của Viện Kiểm sát nhân dân theo thẩm

quyền và thực hiện các nhiệm vụ khác do thủ trƣởng cơ quan giao.

Về nhiệm vụ, quyền hạn, theo quy định tại Điều 67 Nghị định 62/2015/NĐ-

CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành

một số điều của Luật Thi hành án dân sự, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm tra

viên gồm:

- Thực hiện việc thẩm tra, kiểm tra những vụ việc thi hành án đã và

đang thi hành; thẩm tra xác minh các vụ việc có đơn thƣ khiếu nại, tố cáo theo

sự chỉ đạo của Thủ trƣởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự và cơ quan thi

hành án dân sự; thẩm tra thống kê, báo cáo, dữ liệu thi hành án dân sự và

những hồ sơ, tài liệu khác có liên quan đến công tác thi hành án dân sự;

- Lập kế hoạch, tổ chức thực hiện hoặc phối hợp với các cơ quan, đơn

vị có liên quan để xác minh, kiểm tra và đề xuất biện pháp giải quyết theo

nhiệm vụ đƣợc phân công;

- Tham mƣu cho Thủ trƣởng cơ quan trả lời kháng nghị, kiến nghị của

Viện Kiểm sát nhân dân theo thẩm quyền;

- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Thủ trƣởng cơ quan giao.

Trong thực thi công vụ, Thẩm tra viên không trực tiếp tham gia tổ chức

thi hành án, không có thẩm quyền ra các quyết định về thi hành án, mà làm

nhiệm vụ kiểm tra công tác thi hành án để kịp thời phát hiện các thiếu sót, vi

phạm trong quy trình thủ tục tổ chức thi hành án của Chấp hành viên, thực

hiện nhiệm vụ giải quyết các khiếu nại, tố cáo của đƣơng sự đối với các hoạt

động thi hành án, mà đa số là khiếu nại, tố cáo các văn bản, quyết định, hành

54

vi của Chấp hành viên. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều

68 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ Quy

định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số Điều Luật thi hành án dân sự thì

Thẩm tra viên không đƣợc làm những việc sau:

- Việc mà pháp luật về cán bộ, công chức và pháp luật liên quan khác

quy định không đƣợc làm;

- Thông đồng với đối tƣợng thẩm tra và những ngƣời có liên quan trong

việc thẩm tra, kiểm tra làm sai lệch kết quả thẩm tra, kiểm tra;

- Thẩm tra, kiểm tra khi không có quyết định phân công của ngƣời có

thẩm quyền;

- Can thiệp trái pháp luật vào việc thẩm tra, kiểm tra hoặc lợi dụng ảnh

hƣởng của mình để tác động đến ngƣời có trách nhiệm khi có ngƣời đó thực

hiện nhiệm vụ thẩm tra, kiểm tra;

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn thẩm tra, kiểm tra để thực hiện hành vi

trái pháp luật; sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà cho đối tƣợng thẩm tra,

kiểm tra; bao che cho đối tƣợng thẩm tra, kiểm tra và những ngƣời liên quan;

- Tiết lộ, cung cấp thông tin, tài liệu thẩm tra, kiểm tra cho những

ngƣời không có trách nhiệm khi chƣa có kết luận.

- Thẩm tra viên không đƣợc tham gia thẩm tra, kiểm tra trong trƣờng

hợp liên quan trực tiếp đến quyền lợi, nghĩa vụ của những ngƣời sau đây: Vợ,

chồng, con đẻ, con nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội,

ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của Thẩm tra

viên, của vợ hoặc chồng của Thẩm tra viên; cháu ruột mà Thẩm tra viên là

ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.

Về việc bổ nhiệm, cũng giống nhƣ Chấp hành viên, Thẩm tra viên đƣợc

bổ nhiệm không theo nhiệm kỳ mà bổ nhiệm theo ba ngạch là Thẩm tra viên,

Thẩm tra viên chính và Thẩm tra viên cao cấp; ngƣời công tác tại các Chi cục

55

thi hành án dân sự giữ ngạch Thẩm tra viên.

Theo quy định tại Điều 10 Thông tƣ số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017

của Bộ Tƣ pháp Quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ

các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án dân sự thì công chức để đƣợc

bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra viên phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:

Tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn nghiệp vụ: Nắm vững đƣờng lối,

chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, chỉ thị, nghị quyết của cấp

trên để vận dụng vào công tác thi hành án dân sự, thi hành án hành chính;

Nắm vững các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, thi hành án

hành chính, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo và nghiệp vụ thẩm tra,

kiểm tra thi hành án dân sự, nghiệp vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo; Nắm

đƣợc tình hình kinh tế, xã hội ở địa phƣơng liên quan đến công tác thi hành

án dân sự; Có năng lực phối hợp với các đơn vị, cá nhân trong quá trình thực

hiện nhiệm vụ; Nắm vững quy trình giải quyết công việc, có kỹ năng soạn

thảo văn bản và thuyết trình các vấn đề đƣợc giao nghiên cứu, tham mƣu;

Công chức đƣợc đề nghị bổ nhiệm vào ngạch Thẩm tra viên phải đang giữ

ngạch Chuyên viên và tƣơng đƣơng, có thời gian làm công tác pháp luật từ 03

năm (36 tháng) trở lên.

Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dƣỡng: Có trình độ Cử nhân Luật

trở lên; có chứng chỉ bồi dƣỡng nghiệp vụ ngạch Thẩm tra viên theo nội dung

chƣơng trình của Bộ Tƣ pháp; có Chứng chỉ Ngoại ngữ với trình độ tƣơng

đƣơng bậc 2 khung năng lực ngoại ngữ Việt Nam theo quy định tại Thông tƣ

số 01/2014/TT-BGDĐT hoặc có chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí

yêu cầu sử dụng tiếng dân tộc; có chứng chỉ Tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ

năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tƣ số

03/2014/TT-BTTTT.

2.1.4. Thư ký thi hành án

56

Chức trách, nhiệm vụ của Thƣ ký thi hành án đƣợc quy định tại Luật

THADS SĐBS 2014, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của

Chính phủ Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số Điều Luật thi hành

án dân sự và đƣợc quy định cụ thể ở Thông tƣ số 03/2017/TT-BTP ngày

05/4/2017 của Bộ Tƣ pháp Quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn

nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên ngành thi hành án dân sự, theo đó:

Về chức trách, Thƣ ký thi hành án là công chức chuyên môn nghiệp vụ

thi hành án dân sự, có trách nhiệm giúp Chấp hành viên cao cấp, Chấp hành

viên trung cấp thực hiện các trình tự, thủ tục trong công tác thi hành án dân

sự, thi hành án hành chính hoặc giúp Thẩm tra viên cao cấp, Thẩm tra viên

chính thực hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc đã và đang thi hành án,

thẩm tra, xác minh các vụ việc có đơn thƣ khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân

sự theo quy định của pháp luật.

Về nhiệm vụ, Thƣ ký thi hành án thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Giúp Chấp hành viên chuẩn bị hồ sơ, thủ tục, tổ chức thi hành và các

nhiệm vụ liên quan đến công tác thi hành án hành chính theo quy định của

pháp luật hoặc giúp Thẩm tra viên thực hiện nhiệm vụ thẩm tra những vụ việc

đã và đang thi hành án, thực hiện thẩm tra xác minh các vụ việc có đơn thƣ

khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật;

- Ghi chép biên bản xác minh thi hành án; biên bản giải quyết thi hành

án; biên bản tống đạt; biên bản xử lý vật chứng, tài sản đã kê biên, tạm giữ;

biên bản kê biên tài sản; biên bản họp, biên bản định giá tài sản; biên bản

kiểm tra hiện trạng tài sản; biên bản hủy tang vật; biên bản cƣỡng chế; biên

bản giao nhà đất; biên bản trả tài sản và các biên bản nghiệp vụ khác;

- Giúp Chấp hành viên, Thẩm tra viên tống đạt giấy tờ thi hành án;

- Thực hiện một số nội dung xác minh, xây dựng hồ sơ thi hành án dân

sự theo sự phân công của Chấp hành viên, Thẩm tra viên;

57

- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để giúp Chấp hành

viên thực hiện công tác tổ chức thi hành án; giúp Thẩm tra viên thực hiện

thẩm tra thi hành án dân sự đối với các vụ việc đƣợc phân công theo quy

định của pháp luật;

- Thực hiện nhiệm vụ khác do Thủ trƣởng cơ quan thi hành án giao.

Về tiêu chuẩn, công chức để đƣợc bổ nhiệm vào ngạch Thƣ ký thi hành

án phải đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn sau:

- Tiêu chuẩn về chuyên môn, nghiệp vụ: Nắm vững quan điểm, đƣờng

lối, chủ trƣơng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nƣớc có liên quan

đến lĩnh vực công tác thi hành án dân sự; nắm vững các kiến thức cơ bản về

pháp lý và nghiệp vụ thi hành án dân sự; có khả năng tổng hợp, đề xuất biện

pháp giải quyết các vấn đề về liên quan đến thực hiện nhiệm vụ của thƣ ký thi

hành án; có kỹ năng soạn thảo văn bản liên quan đến chức trách, nhiệm vụ

đƣợc giao; công chức dự thi nâng ngạch Thƣ ký thi hành án phải có thời gian

giữ ngạch Thƣ ký trung cấp thi hành án từ 03 năm (36 tháng) trở lên.

- Tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dƣỡng: Có bằng tốt nghiệp Cử nhân

Luật trở lên đối với ngạch Thƣ ký thi hành án, có bằng Trung cấp Luật trở lên

đối với ngạch Thƣ ký trung cấp thi hành án; có chứng chỉ bồi dƣỡng nghiệp vụ

ngạch Thƣ ký thi hành án dân sự theo nội dung, chƣơng trình của Bộ Tƣ pháp;

có chứng chỉ Ngoại ngữ với trình độ tƣơng đƣơng bậc 2 đối với ngạch Thƣ ký

thi hành án và bậc 1 đối với ngạch Thƣ ký trung cấp thi hành án khung năng

lực ngoại ngữ Việt Nam theo quy định tại Thông tƣ số 01/2014/TT-BGDĐT

hoặc có chứng chỉ tiếng dân tộc đối với những vị trí yêu cầu sử dụng tiếng dân

tộc; có chứng chỉ Tin học với trình độ đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ

thông tin cơ bản theo quy định tại Thông tƣ số 03/2014/TT-BTTTT.

2.2. Pháp luật về hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam

Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện (hay

58

các Chi cục thi hành án dân sự) đƣợc quy định tại Điều 16 Luật THADS

SĐBS 2014 đồng thời cũng là các hoạt động của các Chi cục thi hành án dân

sự, bao gồm: trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định; giải quyết

khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền theo quy định; thực

hiện quản lý công chức, cơ sở vật chất, kinh phí và phƣơng tiện hoạt động

đƣợc giao theo hƣớng dẫn, chỉ đạo của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;

thực hiện chế độ thống kê, báo cáo công tác tổ chức, hoạt động thi hành án

theo quy định của pháp luật và hƣớng dẫn của cơ quan thi hành án dân sự cấp

tỉnh; lập hồ sơ đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án dân sự; giúp Ủy

ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định; báo cáo

công tác thi hành án dân sự trƣớc Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân theo

quy định của pháp luật; báo cáo Tòa án về kết quả thi hành bản án, quyết định

khi có yêu cầu.

Trong số đó, hoạt động tổ chức thi hành các bản án, quyết định là hoạt

động chính, chủ yếu của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung và các Chi

cục thi hành án dân sự nói riêng. Trong phạm vi nội dung pháp luật về hoạt

động của Chi cục thi hành án dân sự của luận văn, tác giả tập trung đi sâu làm

rõ các nội dung chính của pháp luật về hoạt động tổ chức thi hành án bao

gồm: hoạt động xác minh điều kiện thi hành án, hoạt động áp dụng các biện

pháp bảo đảm thi hành án và hoạt động cƣỡng chế thi hành án.

2.2.1. Xác minh điều kiện thi hành án

Thực tiễn thi hành án dân sự cho thấy ngƣời phải thi hành án thƣờng

giấu diếm các thông tin về địa chỉ, tài sản, thu nhập, … của họ để trốn tránh

việc thi hành án. Vì vậy, để tổ chức thi hành án đảm bảo đạt hiệu quả, cơ quan

thi hành án dân sự phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ngƣời

phải thi hành án để có cơ sở thi hành án. Việc xác minh điều kiện thi hành án

đƣợc quy định tại Điều 44 Luật THADS SĐBS 2014, Điều 9 Nghị định số

59

62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ và Điều 3 Thông tƣ liên tịch

số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tƣ

pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một

số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành

án dân sự. Theo đó:

Trong thời hạn 10 ngày tính từ thời điểm hết thời hạn tự nguyện, Chấp

hành viên phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của ngƣời phải thi

hành án, trừ trƣờng hợp thi hành áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải

xác minh ngay.

Khi xác minh, Chấp hành viên có trách nhiệm: xuất trình thẻ Chấp

hành viên; xác minh cụ thể tài sản, thu nhập, các điều kiện khác để thi hành

án, đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng hoặc phải đăng ký

giao dịch bảo đảm thì còn phải xác minh tại cơ quan có chức năng đăng ký tài

sản, giao dịch đó; trƣờng hợp xác minh bằng văn bản thì văn bản yêu cầu xác

minh phải nêu rõ nội dung xác minh và các thông tin cần thiết khác; trƣờng

hợp ngƣời phải thi hành án là cơ quan, tổ chức thì Chấp hành viên phải trực

tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn, tài sản, xác minh tại các cơ quan tổ

chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lƣu giữ thông tin về tài sản,

tài khoản của ngƣời phải thi hành án; yêu cầu các cơ quan chuyên môn hoặc

mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh trong trƣờng hợp

cần thiết; lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của Ủy

ban nhân dân hoặc Công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến

hành xác minh.

Trong quá trình xác minh, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan

đến việc xác minh điều kiện thi hành án có trách nhiệm: Cơ quan, tổ chức,

công chức tƣ pháp - hộ tịch, địa chính - xây dựng - đô thị và môi trƣờng, cán

bộ, công chức cấp xã khác và cá nhân có liên quan thực hiện yêu cầu của

60

Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm về các nội dung thông tin đã cung

cấp; Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký

quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ

quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài

khoản của ngƣời phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều

kiện thi hành án của ngƣời phải thi hành án; ký vào biên bản trong trƣờng hợp

Chấp hành viên xác minh trực tiếp hoặc trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03

ngày làm việc, kể từ ngày nhận đƣợc văn bản yêu cầu của Chấp hành viên,

đối với thông tin về tài khoản thì phải cung cấp ngay; Cơ quan, tổ chức, cá

nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của ngƣời phải

thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi ngƣời đƣợc thi hành án

hoặc ngƣời đại diện theo ủy quyền của ngƣời đƣợc thi hành án có yêu cầu

trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đƣợc yêu cầu, trừ trƣờng

hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trƣờng hợp cơ quan,

tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do;

Trƣờng hợp ngƣời đƣợc thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung

cấp hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của ngƣời

phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật, thanh toán các chi

phí phát sinh, trƣờng hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thƣờng.

Việc Luật quy định Chấp hành viên đƣợc quyền yêu cầu cơ quan

chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác minh

trong trƣờng hợp cần thiết; đƣợc trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý

vốn, tài sản, xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý,

bảo quản, lƣu giữ thông tin về tài sản, tài khoản của ngƣời phải thi hành án;

các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện thi

hành án phải thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm

về các nội dung thông tin đã cung cấp. Trƣờng hợp từ chối cung cấp thì phải

61

có văn bản trả lời và nêu rõ lý do. Điều này khắc phục đƣợc sự lỏng lẻo trong

công tác phối hợp và góp phần nâng cao hiệu quả trong việc xác minh điều

kiện thi hành án

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 36 Điều 1 Nghị định số 67/2015/NĐ-

CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ Sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị

định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ quy định xử phạt

hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tƣ pháp, hành chính tƣ pháp, hôn nhân và gia

đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì vi phạm một

trong số hành vi (1) không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan

đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của ngƣời có thẩm quyền thi

hành án mà không có lý do chính đáng; (2) không thông báo cho cơ quan thi

hành án khi có thay đổi về địa chỉ và nơi cƣ trú; (3) không kê khai trung thực

tài sản, điều kiện thi hành án có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến

3.000.000 đồng.

Đối với ngƣời phải thi hành án: Ngƣời phải thi hành án phải kê khai

trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành

án. Nội dung kê khai phải nêu rõ loại, số lƣợng tiền, tài sản hoặc quyền tài

sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay, mƣợn; giá trị ƣớc tính

và tình trạng của từng loại tài sản; mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi

trả thu nhập; địa chỉ, nơi cƣ trú của ngƣời chƣa thành niên đƣợc giao cho

ngƣời khác nuôi dƣỡng; khả năng và điều kiện thực hiện nghĩa vụ thi hành

án. Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án không kê khai hoặc kê khai không

trung thực thì Chấp hành viên tùy thuộc vào mức độ vi phạm có thể tự mình

hoặc đề nghị ngƣời có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính theo quy

định của pháp luật.

Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án chƣa có điều kiện thi hành án thì ít

nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án;

62

trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án chƣa có điều kiện thi hành án là ngƣời

đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02

năm trở lên hoặc không xác định đƣợc địa chỉ, nơi cƣ trú mới của ngƣời phải

thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh

mà ngƣời phải thi hành án vẫn chƣa có điều kiện thi hành án thì cơ quan thi

hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho ngƣời đƣợc thi hành án về

kết quả xác minh. Việc xác minh lại đƣợc tiến hành khi có thông tin mới về

điều kiện thi hành án của ngƣời phải thi hành án.

Ngoài ra, trƣờng hợp cần ủy quyền cho cơ quan thi hành án dân sự nơi

khác xác minh, làm rõ thông tin về tài sản, nơi cƣ trú, nơi làm việc, trụ sở

của ngƣời phải thi hành án hoặc các thông tin khác liên quan đến việc thi

hành án thì thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền thực hiện

việc xác minh cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có thông tin cần xác minh;

việc ủy quyền phải đƣợc thể hiện bằng văn bản, nêu rõ bên ủy quyền, bên

đƣợc ủy quyền, nội dung ủy quyền và các thông tin cần thiết khác. Thủ

trƣởng cơ quân thi hành án dân sự đƣợc ủy quyền xác minh phải trả lời kết

quả xác minh bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận ủy

quyền đối với việc xác minh tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký

quyền sở hữu, 45 ngày kể từ ngày nhận ủy quyền đối với việc xác minh khó

khăn, phức tạp và 15 ngày kể từ ngày nhận ủy quyền đối với việc xác minh

các loại tài sản và thông tin khác.

Kết quả xác minh điều kiện thi hành án là cơ sở, là căn cứ để thủ

trƣởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định xác định việc chƣa có điều

kiện thi hành án (theo quy định tại Điều 44a Luật THADS SĐBS 2014) hoặc

áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cƣỡng chế thi hành án

cần thiết trong quá trình tổ chức thi hành án.

2.2.2. Các biện pháp bảo đảm thi hành án

63

Biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự là biện pháp nhằm đặt tài sản

của ngƣời phải thi hành án vào tình trạng bị hạn chế hoặc cấm sử dụng, định

đoạt, ngăn chặn ngƣời phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh

việc thi hành án; đốc thúc ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi hành nghĩa vụ

của mình; là tiền đề, cơ sở cho việc áp dụng các biện pháp cƣỡng chế thi hành

án dân sự trong trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án không tự nguyện thi hành

án. Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên có quyền tự mình

hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của đƣơng sự áp dụng ngay biện pháp bảo

đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh

nghĩa vụ thi hành án mà không phải thông báo trƣớc cho các đƣơng sự.

Các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự đƣợc quy định trong Luật

THADS SĐBS 2014 bao gồm: Phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ (Điều

67); Tạm giữ tài sản, giấy tờ của đƣơng sự (Điều 68); Tạm dừng việc đăng ký,

chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng (Điều 69).

a. Phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ

Theo quy định tại Điều 67 Luật THADS SĐBS 2014 và Điều 20 Nghị

định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ, trƣờng hợp ngƣời

phải thi hành án không tự nguyện thi hành án và có tiền trong tài khoản tại

các tổ chức tín dụng hoặc có tài sản ở nơi gửi giữ thì Chấp hành viên áp dụng

biện pháp phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ.

Quyết định phong tỏa tài khoản, tài sản nơi gửi giữ phải xác định rõ số

tiền, tài sản bị phong tỏa trong nội dung. Chấp hành viên giao quyết định

phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ cho ngƣời đại diện theo pháp luật

của Kho bạc Nhà nƣớc, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản

lý tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ hoặc ngƣời có trách nhiệm nhận văn bản

của cơ quan, tổ chức đó và lập biên bản về việc giao quyết định; biên bản phải

có chữ ký của Chấp hành viên, ngƣời nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài

sản ở nơi gửi giữ; trƣờng hợp ngƣời nhận quyết định phong tỏa tài khoản, tài

64

sản ở nơi gửi giữ không ký thì phải có chữ ký của ngƣời chứng kiến.

Trƣờng hợp cần phải phong tỏa ngay tiền trong tài khoản, tài sản tại nơi

gửi giữ của ngƣời phải thi hành án mà chƣa ban hành quyết định phong tỏa thì

Chấp hành viên lập biên bản yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý

tài khoản, tài sản của ngƣời phải thi hành án phong tỏa tài khoản, tài sản đó;

trong vòng 24 giờ, Chấp hành viên phải ra quyết định phong tỏa và gửi cho cơ

quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của ngƣời phải thi hành

án. Chấp hành viên có trách nhiệm bảo mật thông tin đối với tài khoản, tài sản

của ngƣời phải thi hành án bị áp dụng biện pháp phong tỏa khi đƣợc kho bạc

nhà nƣớc, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi có tài khoản, tài sản

bị phong tỏa cung cấp.

Sau khi ra quyết định phong tỏa, Chấp hành viên phải thực hiện việc

thông báo việc phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ cho ngƣời phải thi

hành án để đốc thúc ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi hành án. Trong thời

hạn 10 ngày kể từ ngày ra quyết định phong tỏa, nếu ngƣời phải thi hành án tự

nguyện thi hành thì Chấp hành viên ra quyết định chấm dứt việc phong tỏa,

nếu ngƣời phải thi hành không tự nguyện thi hành án thì quyết định phong tỏa

tài khoản, tài sản nơi gửi giữ chính là tiền đề, là cơ sở để Chấp hành viên áp

dụng biện pháp cƣỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản hoặc kê biên tài sản.

Việc cho phép Chấp hành viên phong tỏa ngay tiền trong tài khoản, tài

sản gửi giữ của ngƣời phải thi hành án khi xác minh có tiền hoặc tài sản trong

tài khoản của ngƣời phải thi hành giúp Chấp hành viên có thể chi phối đƣợc

tài sản của ngƣời phải thi hành án. Điều này giúp giảm thiểu khả năng ngƣời

phải thi hành án tẩu tán tài sản trong khoảng thời gian Chấp hành viên chƣa

kịp thời ra quyết định về việc phong tỏa tài khoản, gây ảnh hƣởng đến quyền,

lợi ích của ngƣời phải thi hành án; làm mục đích thi hành án không đạt đƣợc.

Bên cạnh đó, việc quy định Chấp hành viên phải thực hiện thủ tục

65

thông báo về việc phong tỏa tài khoản cho ngƣời phải thi hành án nhằm bảo

đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự đƣợc quy định tại Điều 5 Luật

THADS SĐBS 2014, bảo đảm quyền đƣợc khiếu nại của ngƣời phải thi hành

án; tạo điều kiện cho ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi hành án, giảm thiểu

những thiệt hại (nếu có) trong trƣờng hợp bị khấu trừ tài khoản.

Ngoài ra, quy định về giới hạn của số tiền, tài sản bị phong tỏa nhằm

tránh tình trạng tùy tiện phong toả toàn bộ tài khoản, tài sản làm ảnh hƣởng

đến hoạt động kinh doanh, giao dịch bình thƣờng của chủ tài khoản, tài sản.

b. Tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự

Biện pháp tạm giữ tài sản, giấy tờ của đƣơng sự đƣợc quy định tại Điều

68 Luật THADS SĐBS 2014 và Điều 18 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày

18/7/2015 của Chính phủ. Theo đó: Trong quá trình tổ chức thi hành án, Chấp

hành viên có quyền tạm giữ tài sản, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án mà

đƣơng sự, tổ chức, cá nhân khác đang quản lý, sử dụng; cơ quan, tổ chức, cá

nhân hữu quan có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, thực hiện yêu cầu của Chấp

hành viên trong việc tạm giữ tài sản, giấy tờ.

Nội dung quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ phải xác định rõ loại tài

sản, giấy tờ bị tạm giữ và phải đƣợc giao cho đƣơng sự hoặc tổ chức, cá nhân

đang quản lý, sử dụng tài sản, giấy tờ bị tạm giữ. Trƣờng hợp cần tạm giữ

ngay tài sản, giấy tờ mà chƣa ban hành quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ thì

Chấp hành viên yêu cầu giao tài sản, giấy tờ và lập biên bản về việc tạm giữ,

nếu tài sản tạm giữ là tiền mặt thì biên bản phải ghi rõ số lƣợng tờ, mệnh giá

các loại tiền, nếu là ngoại tệ thì phải ghi rõ tiền nƣớc nào, trong trƣờng hợp

cần thiết phải ghi cả số sê ri trên tiền; tài sản tạm giữ là kim khí quý, đá quý

thì phải niêm phong trƣớc mặt ngƣời bị tạm giữ tài sản hoặc thân nhân của họ,

nếu ngƣời bị tạm giữ tài sản hoặc thân nhân của họ không đồng ý chứng kiến

việc niêm phong thì phải có mặt ngƣời làm chứng. Trên niêm phong phải ghi

66

rõ loại tài sản, số lƣợng, khối lƣợng và các đặc điểm khác của tài sản đã niêm

phong, có chữ ký của Chấp hành viên, ngƣời bị tạm giữ tài sản hoặc thân

nhân của ngƣời bị tạm giữ tài sản hoặc ngƣời làm chứng. Việc niêm phong tài

sản tạm giữ phải đƣợc ghi nhận trong biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ.

Sau khi tạm giữ tài sản, giấy tờ, Chấp hành viên phải tiến hành xác

định chủ thể của quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ đã tạm giữ bằng cách

yêu cầu đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy

tờ, tài liệu cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho

đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu

xác định quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản, giấy tờ tạm giữ. Trƣờng hợp

cần thiết, Chấp hành viên phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ

quan có thẩm quyền xác định ngƣời có quyền sở hữu, sử dụng đối với tài

sản, giấy tờ tạm giữ.

Trƣờng hợp tài sản, giấy tờ bị tạm giữ không thuộc quyền sở hữu, sử

dụng của ngƣời phải thi hành án hoặc thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ngƣời

phải thi hành án nhƣng ngƣời phải thi hành án đã thực hiện nghĩa vụ thi hành

án thì Chấp hành viên phải ra quyết định trả lại tài sản, giấy tờ cho ngƣời có

quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ bị tạm giữ; ngƣời nhận tài sản, giấy tờ

đƣợc trả lại phải xuất trình các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử dụng đối

với tài sản, giấy tờ bị tạm giữ cùng giấy ủy quyền (trong trƣờng hợp đƣợc ủy

quyền nhận tài sản, giấy tờ); việc trả lại tài sản, giấy tờ phải đƣợc lập thành

biên bản. Trƣờng hợp tài sản, giấy tờ bị tạm giữ thuộc quyền sở hữu, sử dụng

của ngƣời phải thi hành án và ngƣời phải thi hành án không tự nguyện thực

hiện nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định áp dụng các biện

pháp cƣỡng chế đối với tài sản, giấy tờ đã tạm giữ. Thời hạn để Chấp hành viên

thực hiện việc trả lại tài sản, giấy tờ đã tạm giữ hoặc ra quyết định áp dụng các

biện pháp cƣỡng chế đối với tài sản, giấy tờ đã tạm giữ là 10 ngày kể từ ngày

67

có căn cứ xác định chủ thể quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ bị tạm giữ.

Việc quy định Chấp hành viên tạm giữ tài sản, giấy tờ của đƣơng sự

phải ban hành Quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ và xác định rõ loại tài sản,

giấy tờ bị tạm giữ trong Quyết định này nhằm khắc phục tình trạng thiếu rõ

ràng, không thống nhất trong quy định của Luật THADS 2008 khi luật này

không quy định Chấp hành viên phải ban hành quyết định mà chỉ yêu cầu lập

biên bản tạm giữ tài sản, giấy tờ. Việc khẳng định hình thức áp dụng biện

pháp bảo đảm thi hành án trong trƣờng hợp này tạo điều kiện pháp lý vững

chắc hơn cho Chấp hành viên thực hiện nhiệm vụ

c. Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng và thay đổi

hiện trạng tài sản

Trƣờng hợp cần ngăn chặn hoặc phát hiện đƣơng sự có hành vi chuyển

quyền sở hữu, sử dụng, tẩu tán, hủy hoại, thay đổi hiện trạng tài sản, trốn

tránh việc thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định tạm dừng đăng ký,

chuyển quyền sở hữu, sử dụng và thay đổi hiện trạng tài sản của ngƣời thi

hành án hoặc tài sản chung của ngƣời phải thi hành án với ngƣời khác theo

quy định tại Điều 69 Luật THADS SĐBS 2014 và Điều 19 Nghị định số

62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ. Quyết định tạm dừng đăng

ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng và thay đổi hiện trạng tài sản phải gửi ngay

cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để tạm dừng việc đăng ký, chuyển

quyền sở hữu, sử dụng và thay đổi hiện trạng tài sản.

Sau khi thực hiện việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử

dụng và thay đổi hiện trạng tài sản, Chấp hành viên Chấp hành viên yêu cầu

đƣơng sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp các giấy tờ, tài liệu

cần thiết để chứng minh quyền sở hữu, sử dụng; thông báo cho đƣơng sự, cơ

quan, tổ chức, cá nhân có liên quan về quyền khởi kiện yêu cầu xác định

quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản. Trƣờng hợp cần thiết, Chấp hành viên

68

phải xác minh, làm rõ hoặc yêu cầu Tòa án, cơ quan có thẩm quyền xác định

quyền sở hữu, sử dụng tài sản để thi hành án, giải quyết tranh chấp tài sản;

yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản theo quy định của pháp

luật. Khi có căn cứ xác định quyền sở hữu, sử dụng tài sản, trong thời hạn 10

ngày, Chấp hành viên thực hiện việc ra quyết định cƣỡng chế đối với tài sản

nếu tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ngƣời phải thi hành án hoặc ra

quyết định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng và

thay đổi hiện trạng nếu tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của ngƣời khác.

2.2.3. Cưỡng chế thi hành án

Cƣỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp đƣợc Chấp hành viên áp

dụng trong trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án có điều kiện thi hành án

nhƣng không tự nguyện thi hành án; là quyền năng đặc biệt đƣợc trao cho

Chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án để giải quyết dứt điểm

các việc thi hành án và đƣợc bảo đảm thực hiện bằng quyền lực Nhà nƣớc.

Hiện nay, theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự, Chấp hành viên

đƣợc áp dụng các biện pháp cƣỡng chế thi hành án dân sự sau: Khấu trừ tiền

trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của ngƣời phải thi hành

án; Trừ vào thu nhập của ngƣời phải thi hành án; Kê biên, xử lý tài sản của

ngƣời phải thi hành án, kể cả tài sản đang do ngƣời thứ ba giữ; Khai thác tài

sản của ngƣời phải thi hành án; Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài

sản, giấy tờ; Buộc ngƣời phải thi hành án thực hiện hoặc không đƣợc thực

hiện công việc nhất định.

a. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của

người phải thi hành án

- Khấu trừ tiền trong tài khoản để thi hành án: Trƣờng hợp xác định

ngƣời phải thi hành án có tiền trong tài khoản tại Kho bạc nhà nƣớc, ngân

hàng hoặc các tổ chức tín dụng khác thì Chấp hành viên ra quyết định khấu

69

trừ tiền trong tài khoản để thi hành án theo quy định tại Điều 76 Luật THADS

SĐBS 2014 và Điều 21 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của

Chính phủ; số tiền khấu trừ không đƣợc vƣợt quá số tiền phải thi hành án và

chi phí cƣỡng chế.

Cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản phải thực hiện ngay quyết

định khấu trừ của Chấp hành viên bằng cách khấu trừ tiền trong tài khoản của

ngƣời phải thi hành án và chuyển vào tài khoản của cơ quan thi hành án hoặc

chuyển cho ngƣời đƣợc thi hành án theo quyết định khấu trừ, trƣờng hợp cơ

quan, tổ chức quản lý tài khoản không thực hiện ngay quyết định khấu trừ của

Chấp hành viên dẫn đến việc đƣơng sự tẩu tán tài sản, gây thiệt hại cho ngƣời

đƣợc thi hành án thì phải bồi thƣờng.

Trên thực tế, Chấp hành viên sau khi xác minh đƣợc ngƣời phải thi

hành án có tiền trong tài khoản tại Kho bạc nhà nƣớc, ngân hàng hoặc các tổ

chức tín dụng thì sẽ phong tỏa số tiền tƣơng ứng với nghĩa vụ của ngƣời thi

hành án và chi phí cƣỡng chế (nếu có) và thông báo cho ngƣời phải thi hành

án về việc phong tỏa tiền để yêu cầu ngƣời phải thi hành án tự nguyện thi

hành án trong thời hại 10 ngày, hết thời hạn nói trên, ngƣời phải thi hành án

không tự nguyện thi hành án thì Chấp hành viên mới ra quyết định khấu trừ

tiền trong tài khoản.

- Thu hồi, xử lý tiền và giấy tờ có giá của người phải thi hành án

Trƣờng hợp phát hiện ngƣời phải thi hành án đang giữ tiền mà có căn cứ

xác định số tiền đó là của ngƣời phải thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết

định thu tiền, thu tiền và cấp biên lai thu tiền cho ngƣời phải thi hành án; việc

thu tiền phải đƣợc lập thành biên bản, có chữ ký của Chấp hành viên và ngƣời

phải thi hành án, trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án không ký vào biên bản thì

phải có chữ ký của ngƣời làm chứng (Điều 80 Luật THADS SĐBS 2014).

Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án có thu nhập từ hoạt động kinh

70

doanh thì Chấp hành viên ra quyết định thu tiền từ hoạt động kinh doanh của

ngƣời đó để thi hành án; khi thu tiền, Chấp hành viên phải để lại số tiền tối

thiểu cho hoạt động kinh doanh, sinh hoạt của ngƣời phải thi hành án và gia

đình, đồng thời cấp biên lai thu tiền cho ngƣời phải thi hành án (Điều 79 Luật

THADS SĐBS 2014). Về kỳ hạn thu tiền từ hoạt động kinh doanh của ngƣời

phải thi hành án và mức tối thiểu để lại cho hoạt động kinh doanh, sinh hoạt

của ngƣời phải thi hành án và gia đình đƣợc quy định tại Điều 22 Nghị định

số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ.

- Thu tiền, tài sản của người phải thi hành án do người thứ ba đang giữ

Trƣờng hợp phát hiện ngƣời thứ ba đang giữ tiền của ngƣời phải thi

hành án thì Chấp hành viên ra quyết định thu khoản tiền đó để thi hành án;

ngƣời thứ ba đang giữ tiền có trách nhiệm nộp tiền cho Chấp hành viên để thi

hành án và phải chịu trách nhiệm trong trƣờng hợp không chấp hành yêu cầu

của Chấp hành viên dẫn đến việc không thể thi hành án đƣợc; Chấp hành viên

lập biên bản về việc thu tiền, cấp biên lai thu tiền cho ngƣời thứ ba đang giữ

tiền và thông báo cho ngƣời phải thi hành án, trƣờng hợp ngƣời thứ ba đang

giữ tiền không ký vào biên bản thì phải có chữ ký của ngƣời làm chứng; đối

với tiền, tài sản của ngƣời thi hành án do ngƣời thứ ba giữ đã đƣợc xác định

trong quyết định, bản án đã có hiệu lực thi hành thì trƣờng hợp ngƣời thứ ba

không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên có quyền áp dụng các biện pháp

cƣỡng chế để thi hành án (quy định tại Điều 81 Luật THADS SĐBS 2014 và

Điều 23 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ).

b. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án

Theo quy định tại Điều 78 Luật THADS SĐBS 2014, thu nhập của

ngƣời phải thi hành án bao gồm tiền công, tiền lƣơng, tiền lƣơng hƣu, tiền trợ

cấp mất sức lao động và các thu nhập hợp pháp khác có thể bị khấu trừ theo

quyết định của Chấp hành viên trong các trƣờng hợp: theo thỏa thuận của các

71

đƣơng sự; bản án, quyết định ấn định trừ vào thu nhập của ngƣời phải thi

hành án; thi hành án cấp dƣỡng, thi hành án theo định kỳ, khoản tiền phải thi

hành án không lớn hoặc tài sản khác của ngƣời phải thi hành án không đủ để

thi hành án; đối với các khoản tiền công, tiền lƣơng, tiền lƣơng hƣu, tiền trợ

cấp mất sức lao động thì mức khấu trừ không vƣợt quá 30%; đối với các

khoản thu nhập hợp pháp khác thì mức khấu trừ căn cứ vào mức thu nhập

thực tế của ngƣời phải thi hành án nhƣng phải đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối

thiểu của ngƣời phải thi hành án và ngƣời đƣợc ngƣời phải thi hành án nuôi

dƣỡng theo quy định của pháp luật; các cơ quan, tổ chức, ngƣời sử dụng lao

động, Bảo hiểm xã hội nơi ngƣời phải thi hành án nhận tiền lƣơng, tiền công,

tiền lƣơng hƣu, tiền trợ cấp mất sức lao động và các khoản thu nhập hợp pháp

khác có trách nhiệm thực hiện quyết định khấu trừ của Chấp hành viên.

c. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản do

người thứ ba giữ

Nguyên tắc áp dụng biện pháp cƣỡng chế kê biên đƣợc quy định tại

Luật THADS SĐBS 2014 và Điều Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày

18/7/2015 của Chính phủ. Trong đó có các nguyên tắc cần phải lƣu ý sau đây:

- Không kê biên các loại tài sản là: (1) Tài sản bị cấm lƣu thông theo

quy định của pháp luật; tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích công

cộng; tài sản do ngân sách nhà nƣớc cấp cho cơ quan, tổ chức. (2) Số lƣơng

thực đáp ứng nhu cầu thiết yếu của ngƣời phải thi hành án và gia đình trong

thời gian chƣa có thu nhập, thu hoạch mới; Số thuốc cần dùng để phòng, chữa

bệnh của ngƣời phải thi hành án và gia đình; Vật dụng cần thiết của ngƣời tàn

tật, vật dụng dùng để chăm sóc ngƣời ốm; Đồ dùng thờ cúng thông thƣờng

theo tập quán ở địa phƣơng; Công cụ lao động cần thiết, có giá trị không lớn

đƣợc dùng làm phƣơng tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của ngƣời phải

thi hành án và gia đình; Đồ dùng sinh hoạt cần thiết cho ngƣời phải thi hành

72

án và gia đình của ngƣời phải thi hành án là cá nhân. (3) Số thuốc phục vụ

việc phòng, chữa bệnh cho ngƣời lao động; lƣơng thực, thực phẩm, dụng cụ

và tài sản khác phục vụ bữa ăn cho ngƣời lao động; Nhà trẻ, trƣờng học, cơ sở

y tế và thiết bị, phƣơng tiện, tài sản khác thuộc các cơ sở này, nếu không phải

là tài sản để kinh doanh; Trang thiết bị, phƣơng tiện, công cụ bảo đảm an toàn

lao động, phòng, chống cháy nổ, phòng, chống ô nhiễm môi trƣờng là tài sản

của ngƣời phải thi hành án là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất, kinh

doanh, dịch vụ;

- Trừ những tài sản không đƣợc kê biên, các tài sản khác của ngƣời

phải thi hành án đều có thể bị kê biên để thi hành án. Ngƣời phải thi hành án

có quyền thỏa thuận với ngƣời đƣợc thi hành án về tài sản kê biên để đảm bảo

thi hành án, đƣợc tự nguyện đề nghị kê biên tài sản thuộc quyền sở hữu của

mình để thi hành án nhƣng phải đảm bảo đủ giá trị để thi hành án và các chi

phí khác theo quy định của pháp luật;

- Chấp hành viên chỉ đƣợc kê biên tài sản của ngƣời phải thi hành án đủ

để thi hành án và các chi phí phát sinh. Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án chỉ

có tài sản duy nhất có giá trị lớn hơn mức phải thi hành án mà không thể phân

chia đƣợc hoặc việc phân chia làm giảm giá trị của tài sản thì Chấp hành viên

có quyền kê biên tài sản đó để thi hành án;

- Chấp hành viên tiến hành thực hiện biện pháp cƣỡng chế kê biên

đối với tài sản riêng của ngƣời phải thi hành án trƣớc, trƣờng hợp ngƣời

phải thi hành án không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng có giá trị không

đủ để thi hành án thì mới kê biên tài sản chung của ngƣời phải thi hành án

với ngƣời khác;

- Khi kê biên tài sản của ngƣời phải thi hành án có chung quyền sở hữu

với ngƣời khác, trƣờng hợp tài sản chia đƣợc thì Chấp hành viên kê biên phần

thuộc sở hữu của ngƣời phải thi hành án; trƣờng hợp tài sản chung không thể

73

chia đƣợc hoặc việc chia tài sản làm giảm giá trị tài sản thì Chấp hành viên kê

biên, xử lý toàn bộ tài sản và thanh toán cho chủ sở hữu chung giá trị phần

thuộc quyền sở hữu của họ; trƣờng hợp chƣa xác định đƣợc phần sở hữu của

ngƣời phải thi hành án và những chủ sở hữu chung thì Chấp hành viên thông

báo để các bên xác định, thỏa thuận phần sở hữu trong tài sản chung, trong

thời hạn 30 ngày, nếu các bên không thỏa thuận để xác định phần sở hữu

trong tài sản chung thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xác

định theo quy định của pháp luật; trƣờng hợp là tài sản chung của vợ, chồng

hoặc tài sản chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu

theo quy định của pháp luật về hôn nhân gia định hoặc theo phần dựa trên số

lƣợng thành viên hộ gia đình tại thời điểm xác lập quyền sở hữu tài sản chung

đồng thời thông báo để các bên đƣợc biết, trong thời hạn 30 ngày, nếu các bên

không đồng ý với việc xác định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa

án có thẩm quyền xác định phần sở hữu, quá thời hạn nói trên thì Chấp hành

viên tổ chức thi hành theo đúng quy định của pháp luật;

- Khi kê biên tài sản là bất động sản, Chấp hành viên phải thông

báo cho chính quyền cấp xã, đại diện tổ dân phố, ngƣời phải thi hành án,

ngƣời có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án ít nhất 03 ngày,

trừ trƣờng hợp cần ngăn chặn việc đƣơng sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn

tránh việc thi hành án;

- Việc kê biên phải đƣợc ghi nhận bằng biên bản, ghi rõ giờ, ngày,

tháng, năm kê biên, họ, tên Chấp hành viên, đƣơng sự hoặc ngƣời đƣợc ủy

quyền, ngƣời lập biên bản, ngƣời làm chứng và ngƣời có liên quan đến tài

sản; diễn biến của việc kê biên; mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của

đƣơng sự và ý kiến của ngƣời làm chứng; biên bản kê biên có chữ ký của

đƣơng sự hoặc ngƣời đƣợc ủy quyền, ngƣời làm chứng, đại diện chính quyền

cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cƣỡng chế, Chấp hành viên và

74

ngƣời lập biên bản.

Khi kê biên tài sản để thi hành án, Chấp hành viên tuân thủ các nguyên

tắc về kê biên tài sản, ngoài ra, tùy thuộc vào tài sản là đối tƣợng kê biên còn

phải tuân thủ các quy định riêng:

- Kê biên tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ:

Theo quy định tại Điều 91 Luật THADS SĐBS 2014, trƣờng hợp xác định

ngƣời thứ ba đang giữ tài sản của ngƣời phải thi hành án, kể cả trƣờng hợp tài

sản đã đƣợc xác định bằng bản án, quyết định khác thì Chấp hành viên ra

quyết định kê biên để thi hành án; trƣờng hợp ngƣời thứ ba không tự nguyện

giao tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên cƣỡng chế buộc giao tài sản để

thi hành án; trƣờng hợp tài sản kê biên đang cho thuê thì ngƣời thuê tiếp tục

đƣợc tiếp tục thuê theo nội dung đã thỏa thuận trong hợp đồng thuê.

- Kê biên đồ vật bị khóa, đóng gói: đối với đồ vật bị khóa, đóng gói,

khi kê biên, Chấp hành viên yêu cầu chủ sở hữu, ngƣời quản lý, sử dụng mở

khóa, mở gói để kê biên; trƣờng hợp họ không mở hoặc cố tình vắng mặt thì

Chấp hành viên có thể tự mình hoặc thuê các tổ chức, cá nhân mở khóa, mở

gói để kê biên; việc mở khóa, mở gói phải lập thành biên bản, có chữ ký của

những ngƣời tham gia, ngƣời làm chứng (theo quy định tại Điều 93 Luật thi

hành án đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2014).

- Kê biên vốn góp: Chấp hành viên yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân

nơi ngƣời phải thi hành án có vốn góp cung cấp các thông tin liên quan đến

phần vốn góp của ngƣời phải thi hành án để thực hiện việc kê biên; trƣờng

hợp cần thiết, Chấp hành viên yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xác định phần

vốn góp của ngƣời phải thi hành án và yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có

chuyên môn theo quy định của pháp luật xác định giá trị phần vốn góp để

cƣỡng chế thi hành án (theo quy định tại Điều 92 Luật THADS SĐBS 2014).

- Kê biên phương tiện giao thông: Theo quy định tại Điều 96 Luật

75

THADS SĐBS 2014, khi kê biên phƣơng tiện giao thông của ngƣời phải thi

hành án, Chấp hành viên yêu cầu ngƣời phải thi hành án, ngƣời đang quản lý,

sử dụng phƣơng tiện giao giấy đăng ký phƣơng tiện; Chấp hành viên có thể

thu giữ phƣơng tiện khi kê biên hoặc giao cho ngƣời phải thi hành án, ngƣời

đang quản lý, sử dụng tiếp tục quản lý, sử dụng phƣơng tiện với điều kiện

không đƣợc chuyển nhƣợng, cầm cố, thế chấp; Chấp hành viên có thể thông

báo việc kê biên đến cơ quan đăng ký giao dịch, cơ quan đăng ký sở hữu

phƣơng tiện để hạn chế việc giao dịch, chuyển nhƣợng phƣơng tiện.

- Kê biên hoa lợi: Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án có tài sản mang

lại hoa lợi thì Chấp hành viên kê biên hoa lợi đó để thi hành án, nếu hoa lợi là

lƣơng thực thực phẩm, khi kê biên, Chấp hành viên phải để lại số lƣơng thực,

thực phẩm đủ đáp ứng thiết yếu cho ngƣời phải thi hành án và gia đình trong

thời gian chƣa có thu nhập, thu hoạch mới (theo quy định tại Điều 97 Luật

THADS SĐBS 2014).

- Kê biên quyền sở hữu trí tuệ: Theo quy định tại Điều 84 Luật THADS

SĐBS 2014, các quyền sở hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan

đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với cây trồng của

ngƣời phải thi hành án có thể bị kê biên trong trƣờng hợp ngƣời phải thi hành

án chuyền quyền sử dụng quyền sở hữu trí tuệ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân

khác hoặc đã chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ cho cơ quan, tổ chức, cá nhân

khác mà chƣa đƣợc thanh toán hoặc mới đƣợc thanh toán một phần tiền thì

Chấp hành viên ra quyết định buộc cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận chuyển

giao nộp khoản tiền chƣa thanh toán để thi hành án.

Khi kê biên quyền sở hữu trí tuệ của ngƣời phải thi hành án, tùy từng

đối tƣợng của quyền sở hữu trí tuệ mà Chấp hành viên thu giữ các giấy tờ, tài

liệu liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của ngƣời phải thi hành án.

- Kê biên nhà ở và tài sản gắn liền với đất: Theo quy định tại Điều 94,

76

Điều 95 Luật THADS SĐBS 2014 thì khi kê biên tài sản là công trình xây

dựng gắn liền với đất phải kê biên cả quyền sử dụng đất, trừ trƣờng hợp

quyền sử dụng đất không đƣợc kê biên theo quy định của pháp luật hoặc việc

tách rời tài sản kê biên và đất không làm giảm đáng kể giá trị tài sản đó; việc

kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của ngƣời phải thi hành án và gia đình thì chỉ

đƣợc thực hiện khi xác định ngƣời đó không có tài sản khác hoặc có tài sản

nhƣng không đủ giá trị để thi hành án, trừ trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án

đồng ý kê biên nhà ở để thi hành án; khi kê biên nhà ở phải kê biên cả quyền

sử dụng đất gắn liền với nhà ở, nếu quyền sử dụng đất gắn liền với nhà ở

thuộc quyền sở hữu của ngƣời khác thì chỉ đƣợc kê biên khi có sự đồng ý của

ngƣời đó hoặc việc tách rời nhà ở với đất không làm giảm đáng kể giá trị;

trƣờng hợp nhà ở đang đƣợc cho thuê hoặc cho ở nhờ thì khi kê biên Chấp

hành viên phải thông báo cho ngƣời đang thuê, đang ở nhờ đƣợc biết, nếu thời

hạn thuê, thời hạn lƣu cƣ vẫn còn thì họ vẫn đƣợc tiếp tục thuê hoặc lƣu cƣ

theo quy định của Bộ luật dân sự.

- Kê biên quyền sử dụng đất: Quyền sử dụng đất thuộc trƣờng hợp

đƣợc chuyển quyền sử dụng theo quy định của pháp luật đất đai, quyền sử

dụng đất chƣa đƣợc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhƣng thuộc

trƣờng hợp đủ điều kiện để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo pháp

luật đất đai hoặc thuộc diện quy hoạch phải thu hồi đất nhƣng chƣa có quyết

định thu hồi đất thì Chấp hành viên đƣợc kê biên để thi hành án (theo quy

định tại Điều 110 Luật THADS SĐBS 2014). Khi kê biên quyền sử dụng đất,

Chấp hành viên yêu cầu ngƣời phải thi hành án, ngƣời đang quản lý các giấy

tờ về quyền sử dụng đất phải nộp các giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất

bị kê biên cho cơ quan thi hành án; trƣờng hợp trên đất có tài sản gắn liền với

đất thuộc quyền sở hữu của ngƣời phải thi hành án thì kê biên cả tài sản gắn

liền với đất; trƣờng hợp trên đất có tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở

77

hữu của ngƣời khác thì chỉ kê biên quyền sử dụng đất và thông báo cho ngƣời

có tài sản đƣợc biết về việc kê biên quyền sử dụng đất; việc kê biên quyền sử

dụng đất phải đƣợc lập biên bản ghi rõ vị trí, diện tích, ranh giới, có chữ ký

của Chấp hành viên và những ngƣời tham gia (theo quy định tại Điều 111

Luật THADS SĐBS 2014).

Sau khi kê biên, cơ quan thi hành án phải tiến hành xác định giá trị tài

sản kê biên theo quy định tại Điều 98, Điều 99 Luật THADS SĐBS 2014 và

Điều 26 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ. Theo

đó: Trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án, ngƣời đƣợc thi hành án thỏa thuận

đƣợc về giá hoặc tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên lấy giá đã đƣợc

thỏa thuận để làm giá khởi điểm bán đấu giá hoặc ký hợp đồng với tổ chức

thẩm định giá do các bên đã thỏa thuận; trƣờng hợp hết thời hạn 05 ngày tính

từ ngày kê biên, ngƣời phải thi hành án, ngƣời đƣợc thi hành án không thỏa

thuận đƣợc về giá hoặc tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên có quyền ký

hợp đồng thẩm định giá với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố

trực thuộc trung ƣơng nơi có tài sản kê biên; trƣờng hợp trên địa bàn không

có tổ chức thẩm định giá hoặc tài sản kê biên là tài sản tƣơi sống, mau hỏng

hoặc có giá trị nhỏ (có giá mua bán trên thị trƣờng không quá 10.000.000

đồng) thì Chấp hành viên đƣợc quyền tự xác định giá.

Tài sản đã kê biên theo quy định của Luật THADS SĐBS 2014 có thể

đƣợc giao cho ngƣời đƣợc thi hành án theo quy định tại Điều 100, Điều 104

hoặc bán tài sản đã kê biên để thi hành án theo quy định tại Điều 101 hoặc trả

lại cho ngƣời phải thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104.

d. Khai thác tài sản của người phải thi hành án

Việc khai thác tài sản của ngƣời phải thi hành án để thi hành án đƣợc quy

định tại Điều 107, Điều 108 và Điều 109 Luật THADS SĐBS 2014. Theo đó:

Chấp hành viên ra quyết định cƣỡng chế khai thác tài sản của ngƣời

78

phải thi hành án trong trƣờng hợp tài sản của ngƣời phải thi hành án có giá trị

quá lớn so với nghĩa vụ phải thi hành và tài sản đó có thể khai thác để thi

hành án hoặc ngƣời đƣợc thi hành án đồng ý cƣỡng chế khai thác tài sản để

thi hành án nếu việc khai thác tài sản không ảnh hƣởng đến quyền, lợi ích hợp

pháp của ngƣời thứ ba.

Đối với tài sản ngƣời phải thi hành án đang trực tiếp khai thác hoặc

đang cho ngƣời khác khai thác thì ngƣời đang khai thác tiếp tục khai thác; đối

với tài sản bao gồm cả quyền sử dụng đất của ngƣời phải thi hành án chƣa

đƣợc khai thác thì Chấp hành viên yêu cầu ngƣời phải thi hành án ký hợp

đồng với các tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác. Số tiền thu đƣợc từ việc

khai thác tài sản sau khi trừ các chi phí cần thiết phải nộp cho cơ quan thi

hành án để thi hành án.

Việc cƣỡng chế khai thác tài sản của ngƣời phải thi hành án bị chấm

dứt trong trƣờng hợp việc khai thác tài sản không hiệu quả hoặc làm cản trở

việc thi hành án; ngƣời phải thi hành án, ngƣời khai thác tài sản thực hiện

không đúng yêu cầu của Chấp hành viên trong việc khai thác tài sản; ngƣời

phải thi hành án đã thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án và các chi phí thi

hành án; có quyết định đình chỉ thi hành án.

e. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ

- Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả vật: Việc cƣỡng chế thi hành nghĩa

vụ trả vật thƣờng trong trƣờng hợp bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật

của Tòa án xác định rõ ngƣời phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ trả vật

(thông thƣờng vật phải trả là vật đặc định và là động sản) và hết thời hạn thực

hiện nghĩa vụ cũng nhƣ thời hạn tự nguyện thi hành án mà ngƣời phải thi

hành án không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ trả vật thì cơ quan thi hành án tổ

chức cƣỡng chế thi hành nghĩa vụ trả vật.

Theo quy định tại Điều 114 Luật THADS SĐBS 2014 thì:

79

Đối với vật phải trả là vật đặc định thì Chấp hành viên yêu cầu ngƣời

phải thi hành án, ngƣời đang quản lý, sử dụng vật đó phải chuyển giao cho

ngƣời đƣợc thi hành án, nếu không thi hành thì Chấp hành viên thu hồi vật để

trả cho ngƣời đƣợc thi hành án; trƣờng hợp vật phải trả giảm giá trị mà ngƣời

đƣợc thi hành án không đồng ý nhận thì Chấp hành viên hƣớng dẫn các bên

thỏa thuận để thi hành án, nếu các bên thỏa thuận đƣợc thì tổ chức thi hành

theo thỏa thuận, nếu các bên không thỏa thuận đƣợc thì Chấp hành viên

cƣỡng chế thu hồi vật để giao cho ngƣời đƣợc thi hành án, đồng thời ngƣời

đƣợc thi hành án có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết thiệt hại

do vật phải trả bị giảm giá trị; trƣờng hợp vật phải trả không còn hoặc hƣ

hỏng đến mức không sử dụng đƣợc thì Chấp hành viên hƣớng dẫn các bên

thỏa thuận, nếu các bên thỏa thuận đƣợc thì tổ chức thực hiện theo thỏa thuận,

nếu các bên không thỏa thuận đƣợc thì ngƣời đƣợc thi hành án có quyền yêu

cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết thiệt hại do vật phải trả không còn hoặc

bị hƣ hỏng đến mức không sử dụng đƣợc.

Đối với vật phải trả là vật cùng loại thì Chấp hành viên thu hồi tài sản

để thi hành án, trƣờng hợp vật phải trả bị giảm giá trị, hƣ hỏng đến mức

không sử dụng đƣợc hoặc không còn thì Chấp hành viên yêu cầu ngƣời phải

thi hành án phải trả vật cùng loại hoặc thanh toán giá trị của vật cùng loại, trừ

trƣờng hợp có thỏa thuận khác.

- Cưỡng chế giao nhà, trả nhà

Việc cƣỡng chế giao nhà, trả nhà đƣợc thực hiện theo quy định tại Điều

115 Luật THADS SĐBS 2014 thì trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án phải trả

nhà hoặc phải giao nhà để thi hành án thì Chấp hành viên yêu cầu ngƣời phải

thi hành án và những ngƣời khác có mặt trong nhà ra khỏi nhà đồng thời

chuyển dọn hết tài sản của họ ra khỏi nhà; nếu họ không tự nguyện ra khỏi

nhà, không tự chuyển dọn tài sản ra khỏi nhà thì Chấp hành viên yêu cầu lực

80

lƣợng cƣỡng chế đƣa họ cùng tài sản ra khỏi nhà.

Sau khi chuyển dọn tài sản ra khỏi nhà, nếu những ngƣời có tài sản

không nhận tài sản thì cơ quan thi hành án thực hiện việc thống kê, đóng gói

và niêm phong tài sản để chuyển về kho của cơ quan thi hành án dân sự hoặc

giao cho tổ chức, cá nhân có điều kiện bảo quản đồng thời thông báo cho

những ngƣời có tài sản đƣợc biết về địa điểm và thời gian nhận tài sản. Trong

thời hạn 03 tháng, nếu ngƣời có tài sản không đến nhận tài sản thì cơ quan thi

hành án dân sự tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với trƣờng hợp cƣỡng chế giao nhà là nhà ở duy nhất của ngƣời

phải thi hành án cho ngƣời mua đƣợc tài sản bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi

thanh toán các khoản nghĩa vụ thi hành án mà ngƣời phải thi hành án không

còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì trƣớc khi làm thủ tục chi trả

cho ngƣời đƣợc thi hành án, Chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản

một khoản tiền để ngƣời phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà

trung bình tại địa phƣơng trong thời hạn 01 năm.

- Cưỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất

Việc cƣỡng chế chuyển giao quyền sử dụng đất đƣợc thực hiện theo

quy định tại Điều 117 Luật THADS SĐBS 2014, theo đó:

Khi tiến hành giao đất phải có sự tham gia của cơ quan quản lý đất đai

cùng cấp và ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất chuyển giao.

Đối với tài sản gắn liền với đất hình thành sau khi có bản án, quyết định

có hiệu lực pháp luật thì Chấp hành viên yêu cầu ngƣời có tài sản đó tháo dỡ

hoặc chuyển tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển giao cho ngƣời đƣợc thi

hành án, nếu ngƣời có tài sản không thực hiện thì Chấp hành viên cƣỡng chế

tháo dỡ, đƣa tài sản ra khỏi diện tích đất phải chuyển giao để chuyển về kho

của cơ quan thi hành án dân sự hoặc giao cho tổ chức, cá nhân có điều kiện

bảo quản đồng thời thông báo cho những ngƣời có tài sản đƣợc biết về địa

81

điểm và thời gian nhận tài sản, trừ trƣờng hợp đƣơng sự có thỏa thuận khác.

Trong thời hạn 03 tháng, nếu ngƣời có tài sản không đến nhận tài sản thì cơ

quan thi hành án dân sự tiến hành xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với tài sản gắn liền với đất hình thành trƣớc khi có bản án, quyết

định sơ thẩm nhƣng bản án, quyết định đƣợc thi hành không tuyên rõ việc xử

lý đối với tài sản đó thì cơ quan thi hành án dân sự yêu cầu Tòa án đã ra bản

án, quyết định giải thích rõ việc xử lý đối với tài sản hoặc đề nghị Tòa án có

thẩm quyền xem xét lại nội dung bản án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

- Cưỡng chế giao, trả giấy tờ

Cƣỡng chế giao, trả giấy tờ có thể đƣợc áp dụng độc lập hoặc áp dụng

đồng thời với các biện pháp cƣỡng chế khác nhƣ cƣỡng chế trả vật, trả nhà,

chuyển giao quyền sử dụng đất; kê biên, xử lý những tài sản phải đăng ký

quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm; kê biên quyền sở hữu trí tuệ

nếu nhƣ trƣớc đó Chấp hành viên chƣa tạm giữ, thu giữ những giấy tờ liên

quan đến tài sản đã kê biên. Theo quy định tại Điều 116 Luật THADS SĐBS

2014, trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án, ngƣời đang quản lý các giấy tờ liên

quan đến việc thi hành án không tự nguyện giao, nộp các giấy tờ theo yêu cầu

của Chấp hành viên để thi hành án thì Chấp hành viên tiến hành cƣỡng chế;

nếu giấy tờ không thu hồi đƣợc nhƣng có thể cấp lại thì Chấp hành viên yêu

cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy

tờ mới cho ngƣời đƣợc thi hành án, ngƣời mua đƣợc tài sản bán đấu giá.

f. Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện hoặc không được thực

hiện công việc nhất định

- Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc thực hiện công việc nhất định:

Trƣờng hợp bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật buộc ngƣời phải thi hành

án có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc nhất định mà ngƣời này không

thực hiện thì Chấp hành viên ra quyết định phạt tiền và ấn định thời hạn 05

82

ngày làm việc để ngƣời đó thực hiện công việc, tính từ thời điểm ra quyết

định phạt tiền. Nếu hết thời hạn nói trên, ngƣời phải thi hành án không thực

hiện thì đối với trƣờng hợp công việc có thể giao cho ngƣời khác thực hiện

thay thì Chấp hành viên giao cho ngƣời khác thực hiện, chi phí cho việc thực

hiện do ngƣời phải thi hành án chi trả; trƣờng hợp công việc bắt buộc phải do

ngƣời phải thi hành án thực hiện thì Chấp hành viên đề nghị cơ quan có thẩm

quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không chấp hành án.

Việc cƣỡng chế giao ngƣời chƣa thành niên cho ngƣời đƣợc giao nuôi

dƣỡng theo bản án, quyết định và buộc nhận ngƣời lao động trở lại làm việc đƣợc

thực hiện theo quy định tại Điều 120 và Điều 121 Luật THADS SĐBS 2014.

- Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ không được thực hiện một công việc

nhất định: Theo quy định tại Điều 119 Luật THADS SĐBS 2014 thì ngƣời

phải thi hành án không tự nguyện chấm dứt việc thực hiện công việc mà theo

bản án, quyết định không đƣợc thực hiện thì Chấp hành viên ra quyết định

phạt tiền đối với ngƣời đó, trong trƣờng hợp cần thiết có thể yêu cầu họ khôi

phục hiện trạng ban đầu. Trƣờng hợp ngƣời đó vẫn không chấm dứt công việc

không đƣợc làm, không khôi phục lại hiện trạng ban đầu thì Chấp hành viên

đề nghị cơ quan có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình sự về tội không

83

chấp hành án.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Chƣơng 2 đã thể hiện các vấn đề cốt lõi trong pháp luật về tổ chức và

hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở nƣớc ta hiện nay mà cụ thể là Luật

thi hành án dân sự; Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ

Quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số Điều của Luật thi hành án dân

sự; Thông tƣ số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 của Bộ Tƣ pháp Quy định

chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức chuyên

ngành thi hành án dân sự; … các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt động

của Chi cục thi hành án dân sự hiện hành cơ bản đã tạo khung pháp lý để cơ

quan thi hành án dân sự nói chung và các Chi cục thi hành án dân sự nói riêng

thực hiện một cách hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ của mình.

Tuy nhiên, khách quan quá trình phát triển về mọi mặt của đất nƣớc,

trong đó có sự phát triển vƣợt bậc của nền kinh tế tất yếu kéo theo sự biến

động, thay đổi về nhiều mặt của các mối quan hệ xã hội và bộc lộ một số hạn

chế nhất định trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự

nói chung và của các Chi cục thi hành án dân sự nói riêng.

Những bất cập trong pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi

hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay sẽ đƣợc tác giả đề cập, phân tích và có

84

các ý kiến kiến nghị hoàn thiện ở Chƣơng 3 của luận văn.

Chương 3

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA

CHI CỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY, QUAN

ĐIỂM VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN

3.1. Một số bất cập trong pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

3.1.1. Về tổ chức

- Về điều kiện thi nâng ngạch công chức: Theo quy định của pháp luật

về cán bộ, công chức, Thông tƣ số 05/2017/TT-BNV của Bộ Nội vụ thì công

chức đƣợc dự thi nâng ngạch lên chuyên viên chính, thời gian giữ ngạch

chuyên viên và tƣơng đƣơng là 9 năm, trong đó thời gian giữ ngạch chuyên

viên chỉ đủ 12 tháng; nâng ngạch lên chuyên viên cao cấp thì thời gian giữ

ngạch chuyên viên chính và tƣơng đƣơng là 6 năm, trong đó thời gian giữ

ngạch chuyên viên chính chỉ đủ 12 tháng. Tuy nhiên, theo quy định của Luật

Thi hành án dân sự, Thông tƣ số 03/2017/TT-BTP của Bộ Tƣ pháp thì để

đƣợc tham gia dự thi nâng ngạch lên chấp hành viên trung cấp, chấp hành

viên cao cấp thì thời gian giữ ngạch chấp hành viên sơ cấp (thi lên chấp hành

viên trung cấp), chấp hành viên trung cấp (thi lên chấp hành viên cao cấp) là

phải đủ 5 năm (60 tháng). Quy định nhƣ trên là rất bất hợp lý, vì hiện tại trong

hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, lực lƣợng cán bộ còn rất mỏng, nhất là

công chức giữ chức vụ lãnh đạo. Việc yêu cầu công chức mới đƣợc điều

động, luân chuyển, bổ nhiệm từ các ngạch công chức khác, cơ quan khác giữ

chức vụ lãnh đạo có thời gian giữ ngạch chấp hành viên đủ 5 năm không

những không phù hợp với các quy định của Luật Cán bộ, công chức mà còn

không đảm bảo chế độ, chính sách, không khuyến khích công chức ở các

ngạch khác, ngành khác về công tác trong điều kiện cơ quan thi hành án dân

85

sự còn rất thiếu lực lƣợng.

- Về xử lý kỷ luật công chức:

Theo khoản 2, Điều 79 Luật cán bộ công chức năm 2008 quy định:

1. Công chức vi phạm quy định của Luật này và các quy định khác

của pháp luật có liên quan thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm

phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây: a) Khiển

trách; b) Cảnh cáo; c) Hạ bậc lƣơng; d) Giáng chức; đ) Cách chức;

e) Buộc thôi việc. 2. Việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối

với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.

Nhƣ vậy, việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ

chức vụ lãnh đạo, quản lý, tuy nhiên Điều 65 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy

định cách chức Chấp hành viên (là chức danh tƣ pháp không phải là chức

danh lãnh đạo), theo đó:

Chấp hành viên có thể bị cách chức Chấp hành viên khi thuộc một

trong các trƣờng hợp sau đây: 1. Vi phạm quy định của pháp luật

trong quá trình tổ chức thi hành án chƣa đến mức bị buộc thôi việc

hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự nhƣng xét thấy cần phải áp dụng

hình thức kỷ luật cách chức Chấp hành viên. 2. Vi phạm nghiêm

trọng quy định tại Điều 21 Luật Thi hành án dân sự mà xét thấy cần

thiết phải áp dụng hình thức kỷ luật cách chức Chấp hành viên.

Trình tự, thủ tục xét đề nghị Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp quyết định cách

chức Chấp hành viên thực hiện theo quy định về kỷ luật đối với cán

bộ, công chức là chƣa phù hợp với Luật Cán bộ công chức.

3.1.2. Về hoạt động

- Về thẩm quyền ra quyết định thi hành án

Tại điểm i khoản 2 Điều 35 Luật thi hành án dân sự quy định: Cục thi

hành án dân sự có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định quy định tại

86

khoản 1 Điều 35 Luật thi hành án dân sự mà có đƣơng sự hoặc tài sản ở nƣớc

ngoài hoặc cần phải ủy thác tƣ pháp về thi hành án. Quy định nhƣ trên chƣa

phân định rõ thẩm quyền ra quyết định thi hành án khoản chủ động đối với

trƣờng hợp bản án, quyết định của Tòa án sơ thẩm cấp huyện xét xử các vụ

việc liên quan đến Công ty của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam hoặc

ngƣời Việt Nam đang cƣ trú tại nƣớc ngoài.

- Về thời hạn xác minh: tại khoản 1 Điều 44 Luật THADS SDDBS

2014 quy định, Chấp hành viên tiến hành xác minh trong thời hạn 10 ngày kể

từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà ngƣời phải thi hành án không

tự nguyện thi hành; trƣờng hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn

cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay. Việc quy định nhƣ trên gây bất

lợi cho Chấp hành viên trong trƣờng hợp cùng một lúc nhận nhiều hồ sơ thi

hành án hoặc hồ sơ thi hành án có nhiều ngƣời phải thi hành án hoặc địa điểm

xác minh cách xa trụ sở làm việc.

- Về xác định việc chưa có điều kiện thi hành án

Xác định việc chƣa có điều kiện thi hành án theo quy định tại Điều 44a

Luật thi hành án dân sự còn chung chung, chƣa phân tách đƣợc những phần

có điều kiện thi hành và phần chƣa có điều kiện thi hành, phản ánh chƣa đúng

thực chất điều kiện thi hành án của đƣơng sự (Ví dụ: Số tiền phải thi hành án

rất lớn khoảng 100 tỷ, ngƣời phải thi hành án chỉ có tài sản duy nhất và đang

đƣợc xử lý để thi hành án với giá trị khoảng 10 tỷ. Theo quy định hiện hành

thì vụ việc có giá trị phải thi hành là 100 tỷ đƣợc xếp vào diện có điều kiện thi

hành nhƣng trên thực tế chỉ có điều kiện thi hành khoảng 10 tỷ. Nhƣ vậy, việc

xếp cả số tiền khoảng 90 tỷ thuộc diện có điều kiện thi hành là chƣa phù hợp

vì bản chất số tiền 90 tỷ là thuộc diện chƣa có điều kiện và cần phải đƣa vào

diện chƣa có điều kiện thi hành). Ngoài ra, nhiều trƣờng hợp thuộc diện chƣa

có điều kiện thi hành nhƣng Luật chƣa quy định để xác định việc chƣa có điều

87

kiện thi hành án (Ví dụ: ngƣời phải thi hành án là ngƣời nƣớc ngoài nhƣng địa

chỉ không rõ ràng nên không thể thực hiện việc yêu cầu tƣơng trợ tƣ pháp về

dân sự trong thi hành án theo quy định tại Điều 181 của Luật thi hành án dân

sự; tài sản đảm bảo là động sản bản án tuyên xử lý để thi hành án nhƣng qua

xác minh tài sản không còn hoặc không xác định đƣợc tài sản ở đâu....).

- Về ủy thác thi hành án dân sự

Ủy thác thi hành án dân sự đƣợc quy định tại Điều 55, 56, 57 của Luật

thi hành án dân sự và Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015

của Chính phủ. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định trên để thực

hiện việc ủy thác thi hành án dân sự, các cơ quan thi hành án dân sự gặp một số

khó khăn, vƣớng mắc nhất định, đặc biệt là đối với các vụ án hình sự về kinh

tế, tham nhũng, án tín dụng ngân hàng. Đặc điểm của các vụ án hình sự về kinh

tế, tham nhũng là có số tiền phải thi hành án lớn, số lƣợng tài sản kê biên để

đảm bảo thi hành án nhiều và nằm rải rác ở nhiều địa phƣơng trên cả nƣớc.

Nếu áp dụng quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật thi hành án dân sự thì cơ quan

thi hành án dân sự phải xử lý xong các tài sản kê biên có tại địa bàn rồi mới

đƣợc phép ủy thác đến cơ quan thi hành án dân sự nơi có tài sản kê biên khác

để tiếp tục xử lý. Trong khi đó, các tài sản kê biên có tại địa bàn chƣa thể xử lý

ngay đƣợc vì nhiều lý do khác nhau nhƣ hiện trạng pháp lý chƣa rõ ràng, chƣa

xác định đƣợc ranh giới trên thực địa, có sự chênh lệch về diện tích đo đạc thực

tế với diện tích trong quyết định kê biên hoặc giấy chứng nhận, bán đấu giá

nhiều lần nhƣng không có ngƣời mua, đƣơng sự liên tục có khiếu nại, tố cáo

nên quá trình tổ chức thi hành án bị đình trệ, ... Do vậy, các tài sản kê biên tại

địa phƣơng khác phải chờ một khoảng thời gian dài để đƣợc xử lý, dễ dẫn đến

tình trạng hƣ hỏng, xuống cấp, giảm giá trị, bị lấn chiếm, sử dụng trái phép,

làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của các bên liên quan, gây khó khăn cho quá

trình tổ chức thi hành án sau này, dễ nảy sinh khiếu nại, tố cáo của đƣơng sự và

88

làm chậm quá trình thu hồi tiền, tài sản thi hành án.

Mặc dù Khoản 3 Điều 16 Nghị định số 62 đã cho phép cơ quan thi hành

án dân sự đƣợc ủy thác việc xử lý các tài sản kê biên ở nơi khác với điều kiện

tài sản đó đƣợc bảo đảm cho một nghĩa vụ cụ thể. Tuy nhiên, nhiều cơ quan

thi hành án dân sự cho rằng Nghị định là văn bản dƣới luật, vì vậy không

nhận ủy thác thi hành án để xử lý tài sản bảo đảm khi cơ quan thi hành án dân

sự ủy thác chƣa xử lý xong tài sản bảo đảm (tức là, chỉ đƣợc áp dụng Khoản 3

Điều 16 Nghị định số 62 khi đã xử lý xong các tài sản kê biên có trên địa bàn

theo quy định tại Khoản 1 Điều 57 Luật thi hành án dân sự; nếu chƣa xử lý

xong các tài sản kê biên có trên địa bàn thì không đƣợc áp dụng quy định tại

Khoản 3 Điều 16 Nghị định số 62).

Trong bối cảnh hiện nay, nhiều vụ án vụ án kinh tế, tham nhũng điển

hình có khó khăn, vƣớng mắc liên quan đến ủy thác thi hành án dân sự, mặc

dù Bộ Tƣ pháp đã tích cực phối hợp thống nhất quan điểm với Viện kiểm sát

nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Ban Nội chính Trung ƣơng để

giải quyết theo hƣớng cho phép cơ quan thi hành án dân sự đƣợc ủy thác đến

nơi có tài sản để xử lý mà không cần chờ kết quả xử lý tài sản có tại địa bàn.

Tuy nhiên, liên ngành Trung ƣơng thống nhất đây chỉ là phƣơng án áp dụng

cho từng vụ việc cụ thể mà không áp dụng chung toàn quốc, do đó khi có khó

khăn, vƣớng mắc của từng vụ việc cụ thể thì Bộ Tƣ pháp phải tổ chức họp,

xin ý kiến các cơ quan có liên quan để giải quyết nên quá trình tổ chức thi

hành án các vụ việc khác có nội dung tƣơng tự có thể sẽ kéo dài khi phải chờ

ý kiến của liên ngành tại Trung ƣơng mới đƣợc ủy thác để xử lý tài sản. Vì

vậy, cần thiết phải nghiên cứu để sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật

THADS để kịp thời giải quyết vƣớng mắc này.

Bên cạnh đó, trƣờng hợp thi hành án cấp dƣỡng theo định kỳ thì hiện

nay Luật thi hành án dân sự chƣa quy định vấn đề thẩm quyền ra quyết định

89

thi hành án đối với nghĩa vụ cấp dƣỡng của kỳ tiếp theo trong trƣờng hợp ủy

thác thi hành án và ngƣời đƣợc thi hành án có yêu cầu thi hành án. Với các

quy định của Luật thi hành án dân sự hiện nay thì có thể hiểu là đối với án cấp

dƣỡng theo định kỳ, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án ban đầu có

thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với nghĩa vụ cấp dƣỡng của kỳ tiếp

theo. Điều này gây khó khăn cho ngƣời đƣợc thi hành án trong quá trình yêu

cầu thi hành án cũng nhƣ cho chính các cơ quan thi hành án ra quyết định ban

đầu khi phải thực hiện lại các quy trình thụ lý, xác minh và ủy thác.

+ Về tạm giao quản lý, khai thác, sử dụng diện tích đất đã kê biên, tại

khoản 1Điều Luật THADS SĐBS 2014 quy định, trƣờng hợp diện tích đất đã

kê biên đang do ngƣời phải thi hành án quản lý, khai thác, sử dụng thì Chấp

hành viên tạm giao diện tích đất đã kê biên cho ngƣời đó. Tuy nhiên, trên thực

tế, nhiều trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án thay đổi hiện trạng, làm giảm giá

trị tài sản thi hành án hoặc ngƣời phải thi hành án không hợp tác trong việc

bàn giao quyền sử dụng đất khi quyền sử dụng đất đã kê biên, bán đấu giá

thành cho ngƣời mua trúng đấu giá. Điều này dẫn đến việc cơ quan thi hành

án phải tiến hành cƣỡng chế để chuyển giao quyền sử dụng đất, gây phát sinh

chi phí, rủi ro pháp lý và nguy cơ mất ổn định an ninh trật tự.

- Về thứ tự thanh toán tiền thi hành án

Điểm b khoản 2 Điều 47 Luật THADS quy định:

2. Trƣờng hợp có nhiều ngƣời đƣợc thi hành án thì việc thanh

toán tiền thi hành án đƣợc thực hiện nhƣ sau:…b) Số tiền thi

hành án thu theo quyết định cƣỡng chế thi hành án đƣợc thanh

toán cho những ngƣời đƣợc thi hành án tính đến thời điểm có

quyết định cƣỡng chế đó; số tiền còn lại đƣợc thanh toán cho

những ngƣời đƣợc thi hành án theo các quyết định thi hành án

90

khác tính đến thời điểm thanh toán.

Khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định:

1. Trƣờng hợp thanh toán tiền thi hành án theo quy định tại Điểm b

Khoản 2 Điều 47 Luật THADS thì Chấp hành viên xác định số tiền

đƣợc thanh toán của những ngƣời đƣợc thi hành án đã yêu cầu thi

hành án tính đến thời điểm có quyết định cƣỡng chế thi hành án.

Trƣờng hợp bản án, quyết định đang do cơ quan thi hành án dân sự

tổ chức thi hành xác định nhiều ngƣời đƣợc thi hành án nhƣng chỉ

một hoặc một số ngƣời yêu cầu thi hành án mà tài sản của ngƣời

phải thi hành án không đủ để thi hành nghĩa vụ tài sản theo bản án,

quyết định thì cơ quan thi hành án dân sự thanh toán cho ngƣời đã

yêu cầu thi hành án theo tỉ lệ mà họ đƣợc nhận, số tiền còn lại gửi

vào ngân hàng theo loại tiền gửi kỳ hạn 01 tháng, đồng thời thông

báo và ấn định thời hạn không quá 01 tháng cho những ngƣời đƣợc

thi hành án chƣa yêu cầu về quyền yêu cầu thi hành án, trừ trƣờng

hợp đã hết thời hiệu.

Hết thời hạn thông báo mà cơ quan thi hành án dân sự không nhận

đƣợc yêu cầu thi hành án thì số tiền đã gửi và tiền lãi đƣợc thanh

toán tiếp cho những ngƣời đã có yêu cầu thi hành án tính đến thời

điểm hết thời hạn thông báo; số tiền còn lại, nếu có, đƣợc thanh

toán cho những ngƣời đƣợc thi hành án theo các quyết định thi hành

án khác tính đến thời điểm thanh toán hoặc trả lại cho ngƣời phải

thi hành án.

Khoản 2 Điều 6 Thông tƣ liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-

VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định:

2. Trƣờng hợp thực hiện theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 47

Luật THADS và khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP

91

ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và

hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS thì cơ quan thi

hành án dân sự xác định rõ những bản án, quyết định đang trực tiếp

tổ chức thi hành có trƣớc thời điểm có quyết định cƣỡng chế thi

hành án mà có nhiều ngƣời đƣợc thi hành án để xác định ngƣời đã

yêu cầu thi hành án, ngƣời chƣa yêu cầu thi hành án; số tiền đƣợc

thanh toán của ngƣời đã yêu cầu thi hành án và của ngƣời chƣa yêu

cầu thi hành án theo các bản án, quyết định đó.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận đƣợc tiền, cơ quan thi

hành án dân sự chi trả cho ngƣời đã yêu cầu thi hành án số tiền theo

tỷ lệ mà họ đƣợc nhận, đồng thời thông báo cho những ngƣời đƣợc

thi hành án chƣa yêu cầu thi hành bản án, quyết định đó về quyền

yêu cầu thi hành án. Việc thông báo đƣợc thực hiện theo địa chỉ có

tại bản án, quyết định qua dịch vụ bƣu chính bằng thƣ bảo đảm.

Trong thời hạn đã ấn định mà tiếp tục nhận đƣợc yêu cầu thi hành

án thì cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án theo quy

định và chi trả cho họ số tiền đã gửi, tiền lãi theo tỷ lệ đã đƣợc xác

định, số tiền của những ngƣời không yêu cầu thi hành án còn lại

đƣợc thanh toán tiếp cho những ngƣời đã có yêu cầu thi hành bản

án, quyết định đó tính đến thời điểm hết thời hạn thông báo. Số tiền

còn lại đƣợc thanh toán cho những ngƣời đƣợc thi hành án theo các

quyết định thi hành án khác tính đến thời điểm thanh toán.

Khi áp dụng các quy định trên, cơ quan thi hành án dân sự gặp nhiều

khó khăn, vì có nhiều cách hiểu khác nhau: Số tiền thi hành án thu theo quyết

định cưỡng chế thi hành án được thanh toán cho những người được thi hành

án tính đến thời điểm có quyết định cưỡng chế đó, vậy “ngƣời đƣợc thi hành

án” ở đây đƣợc hiểu là ngƣời đƣợc thi hành án đã có yêu cầu thi hành án hay

92

bao gồm cả những ngƣời chƣa có yêu cầu thi hành án? Của bản án, quyết định

do cùng một cơ quan thi hành án dân sự tổ chức thi hành hay cả những bản

án, quyết định của các cơ quan thi hành án khác thi hành? Việc thông báo cho

những ngƣời đƣợc thi hành án chƣa yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều 49

Nghị định số 62/NĐ-CP đƣợc hiểu là thông báo cho những ngƣời đƣợc thi

hành án giới hạn trong một bản án, quyết định đã có quyết định thi hành án

(kể cả chỉ mới ra quyết định chủ động thi hành án) hay phải thực hiện việc

thông báo cho tất cả những ngƣời đƣợc thi hành án trong những bản án, quyết

định mà cơ quan THADS đó đang trực tiếp tổ chức thi hành?

- Về đình chỉ thi hành án

Khi có căn cứ tại điểm c, khoản 1 Điều 50 Luật (Đƣơng sự có thỏa

thuận bằng văn bản hoặc ngƣời đƣợc thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan

thi hành án dân sự đình chỉ thi hành) thì cơ quan THADS ra quyết định đình

chỉ thi hành án. Tuy nhiên, điều luật chƣa quy định việc ngƣời đƣợc thi hành

án không có quyền yêu cầu thi hành án trở lại khi đã ra quyết định đình chỉ

trong trƣờng hợp này (chỉ mới thể hiện trong biểu mẫu của quyết định đình

chỉ thi hành án quy định tại Thông tƣ 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016

hƣớng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp

vụ trong THADS). Mặt khác, Luật cũng chƣa giải quyết trƣờng hợp đình chỉ

thi hành án để đƣơng sự yêu cầu thi hành án tại Văn phòng Thừa phát lại mà

sau đó lại yêu cầu thi hành án tại cơ quan THADS.

- Về phân chia, xử lý tài sản chung

Theo khoản 1 Điều 74 Luật thi hành án dân sự quy định:

1. Trƣờng hợp chƣa xác định đƣợc phần quyền sở hữu tài sản, phần

quyền sử dụng đất của ngƣời phải thi hành án trong khối tài sản

chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho ngƣời

phải thi hành án và những ngƣời có quyền sở hữu chung đối với tài

93

sản, quyền sử dụng đất biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản

chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đƣợc thông báo mà các bên

không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6

của Luật này hoặc thỏa thuận không đƣợc và không yêu cầu Tòa án

giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho ngƣời đƣợc thi hành án

có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần

quyền sử dụng đất của ngƣời phải thi hành án trong khối tài sản

chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày

nhận đƣợc thông báo mà ngƣời đƣợc thi hành án không yêu cầu

Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần

quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của ngƣời phải thi

hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp

hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Tòa án.

Nhƣ vậy, nếu đƣơng sự không thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải

quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Tuy

nhiên, theo điểm c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định:

Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng chung của vợ, chồng

thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy

định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ,

chồng biết. Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng đất

chung của hộ gia đình thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu, sử

dụng theo số lƣợng thành viên của hộ gia đình tại thời điểm xác lập

quyền sở hữu tài sản, thời điểm đƣợc Nhà nƣớc giao đất, cho thuê

đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử dụng đất.

Chấp hành viên thông báo kết quả xác định phần sở hữu, sử dụng

cho các thành viên trong hộ gia đình biết. Trƣờng hợp vợ hoặc

chồng hoặc các thành viên hộ gia đình không đồng ý với việc xác

94

định của Chấp hành viên thì có quyền yêu cầu Tòa án phân chia tài

sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày đƣợc thông báo hợp

lệ. Hết thời hạn này mà không có ngƣời khởi kiện thì Chấp hành

viên tiến hành kê biên, xử lý tài sản và trả lại cho vợ hoặc chồng

hoặc các thành viên hộ gia đình giá trị phần tài sản thuộc quyền sở

hữu, sử dụng của họ.

Theo đó, Chấp hành viên sẽ tiến hành tự phân chia tài sản chung của vợ

chồng, hộ gia đình trong trƣờng hợp đƣơng sự không thỏa thuận, không yêu

cầu Tòa án giải quyết.

+ Về việc hỗ trợ tiền thuê nhà trong trƣờng hợp xử lý tài sản là nhà ở

duy nhất: Khoản 5 Điều 115 Luật THADS SDDBS 2014 quy định sau khi

thanh toán các khoản nghĩa vụ mà ngƣời phải thi hành án không còn tiền để

thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở mới thì cơ quan thi hành án dân sự trích lại một

khoản tiền để ngƣời đó thuê nhà (giá thuê trung bình tại địa phƣơng) trong

thời hạn 01 năm. Đây là chính sách nhân đạo nhằm đảm bảo nơi cƣ trú tối

thiểu cho ngƣời phải thi hành án khi bị cƣỡng chế giao nhà nhằm ổn định tình

hình an ninh trật tự tại địa phƣơng. Tuy nhiên, Nghị quyết số 42/2017/QH14

quy định ƣu tiên thanh toán cho tổ chức tín dụng trƣớc khi thực hiện các

nghĩa vụ khác. Đối với trƣờng hợp này, thông thƣờng các Chấp hành viên vận

động các tổ chức tín dụng là ngƣời đƣợc thi hành án hỗ trợ tiền để thuê nhà

cho ngƣời bị cƣỡng chế tài sản là nhà ở duy nhất. Có nhiều trƣờng hợp tổ

chức tín dụng đồng ý hỗ trợ tiền để thuê nhà cho ngƣời bị cƣỡng chế, tuy

nhiên cũng có không ít các trƣờng hợp, các tổ chức tín dụng không chấp nhận

hỗ trợ tiền để thuê nhà cho ngƣời bị cƣỡng chế, gây khó khăn cho cơ quan thi

hành án khi tiến hành cƣỡng chế.

- Về miễn, giảm thi hành án

Theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 5 của Thông tƣ liên tịch số

95

12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC thì đối với khoản án phí, lệ

phí, khoản tiền phạt, sung công trong các bản án hình sự, cơ quan thi hành án

dân sự phải xác minh điều kiện thi hành án của ngƣời phải thi hành án để làm

căn cứ xét miễn, giảm thi hành án. Tuy nhiên, có nhiều vụ việc đƣơng sự

đang chấp hành hình phạt tù với thời hạn dài hoặc đƣơng sự đã đi khỏi nơi cƣ

trú, không xác định đƣợc địa chỉ nên việc xác minh không đạt kết quả, không

đáp ứng đƣợc điều kiện này.

Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tƣ liên tịch số

12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC, để đƣợc xét miễn, giảm đối

với khoản tiền phải thu, nộp ngân sách thì ngƣời phải thi hành án phải nộp ít

nhất 1/50 khoản tiền phải thi hành. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết những

ngƣời phải thi hành án không đáp ứng đƣợc điều kiện này.

Ngoài ra, đối với ngƣời phải thi hành án là tổ chức, doanh nghiệp

không còn hoạt động nhƣng chƣa bị tuyên bố phá sản theo quy định của Luật

phá sản, pháp luật thi hành án dân sự hiện hành chƣa có quy định cụ thể về

trình tự, thủ tục, điều kiện miễn, giảm cho các đối tƣợng này.

3.2. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi

hành án dân sự phải gắn liền với quan điểm, đường lối của Đảng về xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong công cuộc xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Quan điểm và đƣờng lối của Đảng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động

của Nhà nƣớc, các tổ chức, cá nhân và đƣợc thể chế hóa để áp dụng vào thực

tiễn cuộc sống thông qua các quy định của pháp luật. Việc hoàn thiện pháp

luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở nƣớc ta hiện

nay phải gắn liền và không đƣợc tách rời với các quan điểm, đƣờng lối của

96

Đảng. Cụ thể là:

Mục tiêu “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống

nhất, khả thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi mới căn bản cơ chế

xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để

góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội

nhập quốc tế, xây dựng nhà nƣớc trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền con

ngƣời, quyền tự do dân chủ của công dân, góp phần đƣa nƣớc ta trở thành

nƣớc công nghiệp theo hƣớng hiện đại vào năm 2020” theo nội dung Nghị

quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị “về chiến lƣợc xây dựng

và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến 2010, định hƣớng đến năm 2020”.

Và nhiệm vụ “Sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh

vực tƣ pháp phù hợp với mục tiêu chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự, bảo đảm quyền lợi, lợi ích

hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch, thúc đẩy các quan hệ

dân sự phát triển lành mạnh” theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005

của Bộ Chính trị “về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020”.

3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi

hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay phải được đặt trong tổng thể hoàn

thiện cả hệ thống pháp luật Việt Nam

Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự là

một bộ phận của pháp luật dân sự nhƣng có mối quan hệ chặt chẽ và tác động

qua lại với nhiều bộ phận khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Chính vì

vậy, việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành

án dân sự phải đƣợc đặt trong mối liên hệ với việc hoàn thiện của các bộ phận

pháp luật khác có liên quan.

97

Điều này đòi hỏi quá trình hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động

của Chi cục thi hành án dân sự ngoài vấn đề đáp ứng các yêu cầu của thực

tiễn cần phải gắn liền với việc rà soát các bộ phận pháp luật khác có liên quan

và ngƣợc lại, mức độ hoàn thiện của pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Chi cục thi hành án dân sự cũng ảnh hƣởng đến quá trình hoàn thiện của các

bộ phận pháp luật khác. Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi

hành án dân sự phải đƣợc hoàn thiện và đồng bộ với các bộ phận khác của hệ

thống pháp luật, góp phần tạo nên hệ thống pháp luật đồng bộ, thông suốt.

3.2.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi

cục thi hành án dân sự trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu có chọn

lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới

Pháp luật về thi hành án dân sự nói chung và pháp luật về tổ chức và

hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự ở nƣớc ta nói riêng trong thời gian

vừa qua đã có những bƣớc phát triển và ngày càng hoàn thiện, góp phần

không nhỏ trong việc duy trì và ổn định xã hội và nền kinh tế của đất nƣớc.

Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hệ thống pháp luật các nƣớc ngày

càng tiệm cận với nhau hơn; cùng với sự vận động liên tục của xã hội, sự phát

triển không ngừng của nền kinh tế đất nƣớc, thì hệ thống pháp luật, pháp luật

về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự luôn cần đƣợc quan

tâm nghiên cứu, hoàn thiện. Trong đó, nghiên cứu pháp luật thế giới, pháp

luật về thi hành án dân sự của các quốc gia trên thế giới để chọn lọc tiếp thu

kinh nghiệm phù hợp là cần thiết.

Bên cạnh đó, với vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế, ở góc

độ nào đó là sự đảm bảo cho các mối quan hệ kinh tế, trong đó có các mối

quan hệ kinh tế có yếu tố nƣớc ngoài thì trong quá trình hoàn thiện pháp luật

về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự cũng cần tạo nên sự

98

phù hợp nhất định với những nguyên tắc, thông lệ phổ biến với pháp luật thi

hành án dân sự trên thế giới để tránh tình trạng lạc hậu so với pháp luật của

các quốc gia trên thế giới và khu vực, làm giảm mức độ hấp dẫn đối với các

nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, ảnh hƣởng đến nền kinh tế đất nƣớc.

Tuy nhiên, bản thân pháp luật có tính kế thừa nhƣng cũng mang tính

đặc thù xã hội và văn hóa. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật, hoàn thiện pháp luật

về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự cần dựa trên đặc thù

về văn hóa và xã hội Việt Nam; việc nghiên cứu các quy phạm pháp luật của

các quốc gia trên thế giới mang tính chất tham khảo, học hỏi kinh nghiệm để

từ đó lựa chọn những chính sách phù hợp đối với Việt Nam.

3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi

hành án dân sự phải đảm bảo hiệu lực, hiệu quả áp dụng trên thực tế

Chức năng cơ bản của pháp luật là chức năng điều chỉnh, pháp luật điều

chỉnh các quan hệ xã hội và hƣớng các quan hệ này theo hƣớng có lợi. Pháp

luật phải có tính khả thi trên thực tiễn, nếu pháp luật không có tính khả thi

trên thực tiễn thì pháp luật đó chỉ mang tính hình thức.

Thực tế những năm vừa qua, hệ thống pháp luật nƣớc ta ngày càng phát

triển về số lƣợng nhƣng không đồng nghĩa với tăng trƣởng về chất lƣợng.

Nhiều văn bản pháp luật đƣợc ban hành mới hay nhiều văn bản pháp luật

đƣợc sửa đổi, bổ sung nhƣng không đi vào thực tiễn cuộc sống, làm tăng thêm

sự rƣờm rà, chồng chéo cho hệ thống văn bản pháp luật.

Chính vì thế, khi xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, hoàn thiện

pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự phải tính

đến tính khả thi và hiệu quả một cách đầy đủ, toàn diện, trong đó phải hết sức

chú ý đến các điều kiện về cơ chế tổ chức, đội ngũ cán bộ, Chấp hành viên,

Thẩm tra viên, Thƣ ký thi hành án và các điều kiện khác nhằm đảm bảo áp

99

dụng pháp luật một cách hiệu quả.

3.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của

Chi cục thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

3.3.1. Về tổ chức

- Để bảo đảm sự thống nhất trong quy định về điều kiện thi nâng ngạch

Chấp hành viên với các quy định pháp luật về cán bộ, công chức, các văn bản

hƣớng dẫn của Bộ nội vụ - cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc về

lĩnh vực cán bộ, công chức, viên chức nhà nƣớc thì thay vì quy định phải giữ

ngạch Chấp hành viên phải đủ 05 năm (60 tháng) mới đƣợc dự thi nâng ngạch

lên Chấp hành viên trung cấp nhƣ hiện nay, kiến nghị sửa đổi điều kiện để

đƣợc dự thi nâng ngạch lên Chấp hành viên trung cấp là có thời gian giữ

ngạch Chấp hành viên hoặc tƣơng đƣơng đủ 05 năm (60 tháng) trong đó có ít

nhất 12 tháng giữ ngạch Chấp hành viên thì đƣợc dự thi nâng ngạch Chấp

hành viên trung cấp.

- Về xử lý kỷ luật công chức, kiến nghị sửa đổi Điều 65 Nghị định theo

hƣớng: “Chấp hành viên có thể bị cách chức Chấp hành viên khi thuộc một

trong các trường hợp sau đây: 1. Vi phạm quy định của pháp luật trong quá

trình tổ chức thi hành án chưa đến mức bị buộc thôi việc hoặc truy cứu trách

nhiệm hình sự nhưng xét thấy cần phải áp dụng hình thức kỷ luật cách chức

Chấp hành viên. 2. Vi phạm nghiêm trọng quy định tại Điều 21 Luật Thi hành

án dân sự mà xét thấy cần thiết phải áp dụng hình thức kỷ luật cách chức

Chấp hành viên. Trình tự, thủ tục xét đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết

định cách chức Chấp hành viên thực hiện theo quy định về kỷ luật đối với cán

bộ, công chức”.

3.3.2. Về hoạt động

- Kiến nghị bỏ điểm i khoản 2 Điều 35 Luật thi hành án dân sự và quy

định thẩm quyền ra quyết định thi hành án khoản chủ động đối với bản án,

100

quyết định của Tòa án sơ thẩm cấp huyện xét xử các vụ việc có liên quan đến

yếu tố nƣớc ngoài thuộc diện Cục thi hành án dân sự thấy cần thiết lấy lên để

thi hành (tổ chức thi hành hoặc thực hiện các thủ tục ủy thác tƣ pháp) vào

điểm h khoản 2 Điều 35 luật thi hành án dân sự để giải quyết bất cập do

không phân định rõ thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

- Kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 44 Luật THADS SĐBS 2014 theo

hƣớng tăng thời hạn xác minh điều kiện thi hành án do thực tế hiện nay,

lƣợng hồ sơ thi hành án Chấp hành viên trực tiếp giải quyết có số lƣợng lớn,

đồng thời trƣờng hợp ngƣời phải thi hành án, địa điểm xác minh cách xa trụ

sở của cơ quan thi hành án dân sự thì Chấp hành viên không thể đảm bảo

đƣợc thời hạn xác minh. Đề xuất nâng thời hạn Chấp hành viên tiến hành xác

minh lên thành 15 ngày tính từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà

ngƣời phải thi hành án không tự nguyện thi hành thay vì 10 ngày nhƣ quy

định hiện nay của Luật THADS.

- Kiến nghị bổ sung các căn cứ nhƣ: ngƣời phải thi hành án là ngƣời

nƣớc ngoài nhƣng địa chỉ không rõ ràng nên không thể thực hiện việc yêu cầu

tƣơng trợ tƣ pháp về dân sự trong thi hành án theo quy định tại Điều 181 của

Luật thi hành án dân sự; tài sản đảm bảo là động sản bản án tuyên xử lý để thi

hành án nhƣng qua xác minh tài sản không còn hoặc không xác định đƣợc tài

sản ở đâu, … để bổ sung vào các căn cứ xác định việc chƣa có điều kiện thi

hành án quy định tại khoản 1 Điều 44a Luật thi hành án dân sự và cho xác

định việc chƣa có điều kiện một phần trong trƣờng hợp khoản phải thi hành

án lớn nhƣng giá trị tài sản của ngƣời phải thi hành án theo xác minh có giá trị

không đáng kể để đảm bảo khách quan trong kết quả hoạt động của các cơ

quan thi hành án.

- Về ủy thác thi hành án dân sự:

Kiến nghị bổ sung nội dung quy định rõ trƣờng hợp “bản án, quyết định

101

tuyên tài sản đảm bảo cho khoản phải thi hành án cụ thể mà tài sản đó ở nơi

khác thì có thể ủy thác khoản phải thi hành án mà tài sản đó bảo đảm cho cơ

quan thi hành án dân sự nơi có tài sản bảo đảm” đã đƣợc quy định tại khoản 3

Điều 16 Nghị định 62/2015/NĐ-CP để tránh tình trạng áp dụng không thống

nhất do nhiều cơ quan thi hành án dân sự cho rằng phải xử lý xong tài sản bảo

đảm mới đƣợc ủy thác thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Luật thi

hành án dân sự chứ không áp dụng khoản 3 Điều 13 Nghị định 62/2015/NĐ-

CP do Nghị định 62/2015/NĐ-CP là văn bản dƣới Luật, có giá trị pháp lý thấp

hơn Luật, gây ảnh hƣởng đến quá trình, hiệu quả thi hành án, ảnh hƣởng đến

quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nƣớc và các tổ chức, cá nhân khác.

Đối với án cấp dƣỡng theo định kỳ, đề nghị có quy định cụ thể về

thẩm quyền ra quyết định thi hành án đối với nghĩa vụ kỳ kế tiếp trong

trƣờng hợp ủy thác và ngƣời đƣợc thi hành án có yêu cầu thi hành án. Vì

vậy, kiến nghị bổ sung quy định về thẩm quyền ra quyết định thi hành án

đối với trƣờng hợp thi hành án cấp dƣỡng theo định kỳ thì trong trƣờng hợp

ủy thác thi hành án, cơ quan nhận ủy thác thi hành án có thẩm quyền ra

quyết định thi hành án đối với nghĩa vụ thi hành án cấp dƣỡng kỳ tiếp theo

yêu cầu của ngƣời đƣợc thi hành án.

Ngoài ra, kiến nghị bổ sung quy định về trƣờng hợp ủy thác đến nơi

ngƣời đƣợc thi hành án có điều kiện thực hiện quyền đối với các khoản hoàn

tiền tạm ứng án phí hoặc nơi địa phƣơng đang thực tế tạm giữ tài sản để tạo

điều kiện thuận lời cho ngƣời đƣợc thi hành án nhận tiền, tài sản.

- Về thứ tự thanh toán tiền thi hành án: Theo quy định tại điểm b khoản

2 Điều 47 Luật THADS, khoản 1 Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày

18/7/2015 của Chính phủ thì những ngƣời đƣợc thi hành án trong các bản án,

quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành phải đƣợc hiểu là ngƣời đã yêu cầu

thi hành án tính đến thời điểm có quyết định cƣỡng chế thì đƣợc ƣu tiên thanh

102

toán. Trƣờng hợp giữ nguyên quy định này thì cần quy định rõ việc thông báo

cho những ngƣời đƣợc thi hành án không giới hạn trong một bản án, quyết

định mà phải thực hiện việc thông báo cho tất cả những ngƣời đƣợc thi hành

án trong những bản án, quyết định mà cơ quan THADS đang trực tiếp tổ chức

thi hành mà có nhiều ngƣời đƣợc thi hành án và đã có một hoặc một số ngƣời

đƣợc thi hành án trong Bản án, Quyết định đó đã yêu cầu thi hành án trƣớc

khi ban hành Quyết định cƣỡng chế kê biên.

- Về việc giao bảo quản tài sản sau khi kê biên: Kiến nghị sửa đổi

khoản 1 Điều 112 Luật THADS SĐBS 2014 theo hƣớng cho phép Chấp hành

viên lựa chọn đối tƣợng để giao bảo quản tài sản kê biên. Trƣờng hợp diện

tích đất đã kê biên đang do ngƣời phải thi hành án quản lý, khai thác, sử dụng

thì Chấp hành viên tạm giao diện tích đất đã kê biên cho ngƣời đó hoặc tổ

chức, cá nhân khác có điều kiện bảo quản.

- Về đình chỉ thi hành án: Để đảm bảo hiệu lực của quy định tại điểm c

khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự thực hiện trên thực tế, tránh việc

đƣơng sự lợi dụng việc pháp luật chƣa quy định để tiếp tục yêu cầu thi hành

án, kiến nghị bổ sung nội dung: “Đƣơng sự không có quyền yêu cầu thi hành

án trở lại đối với nội dung đã đƣợc cơ quan THADS ra quyết định đình chỉ thi

hành, trừ trƣờng hợp bị lừa dối hoặc do nhầm lẫn” đối với trƣờng hợp đình

chỉ thi hành án quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật thi hành án dân sự.

- Về phân chia, xử lý tài sản chung: Kiến nghị bãi bỏ quy định tại điểm

c, khoản 2 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP do cho phép Chấp hành viên

phân chia tài sản chung trong quá trình tổ chức thi hành án dẫn đến nhiều bất

cập trên thực tế; Chấp hành viên gặp khó khăn trong việc xác minh làm rõ về

nguồn gốc tài sản, do đó có tiềm ẩn nhiều thiếu sót, thiếu công bằng, thiếu

khách quan trong việc xác định, phân chia tài sản chung. Vì vậy, việc yêu cầu

Tòa án phân chia tài sản chung theo quy định tại Điều 74 Luật thi hành án dân

103

sự là giải pháp hữu hiệu, đảm bảo chính xác và khách quan.

- Về việc đảm bảo chỗ ở cho ngƣời phải thi hành án sau khi bị cƣỡng

chế chuyển giao nhà là chỗ ở duy nhất: Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền

nghiên cứu, cân nhắc khi hết thời hạn có hiệu lực của Nghị quyết số

42/2017/QH14 thì áp dụng tinh thần đƣợc quy định tại khoản 5 Điều 115 Luật

THADS SDDBS 2014, Chấp hành viên trích lại từ số tiền bán tài sản một

khoản tiền để ngƣời phải thi hành án thuê nhà phù hợp với giá thuê nhà trung

bình tại địa phƣơng trong thời hạn 01 năm trong trƣờng hợp cƣỡng chế giao

nhà là nhà ở duy nhất của ngƣời phải thi hành án cho ngƣời mua đƣợc tài sản

bán đấu giá, nếu xét thấy sau khi thanh toán các khoản nghĩa vụ thi hành án

mà ngƣời phải thi hành án không còn đủ tiền để thuê nhà hoặc tạo lập nơi ở

mới thì trƣớc khi làm thủ tục chi trả cho ngƣời đƣợc thi hành án.

- Về miễn, giảm thi hành án: Kiến nghị bãi bỏ quy định phải thi hành

đƣợc ít nhất bằng 1/50 khoản thu, nộp ngân sách nhà nƣớc là điều kiện để xét

miễn, giảm thi hành án quy định trong các văn bản hƣớng dẫn thi hành; bổ

sung trƣờng hợp không xác định đƣợc địa chỉ, tài sản của ngƣời bị kết án thì

vẫn có thể đƣợc xét miễn, giảm thi hành án và thu hẹp các trƣờng hợp “đã thi

hành đƣợc một phần” nghĩa vụ thi hành án là căn cứ để thực hiện việc xét

miễn, giảm. Đồng thời, kiến nghị bổ sung quy định xét miễn, giảm đối với các

104

doanh nghiệp không còn hoạt động, không có tài sản.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Có thể thấy, trong thời gian qua, pháp luật về thi hành án dân sự nói

chung, trong đó có pháp luật điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của Chi cục

thi hành án dân sự đã có những sự phát triển, ngày càng hoàn thiện, tạo khung

pháp lý cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự, đặc biệt

là các Chi cục thi hành án dân sự. Tuy còn bộc lộ nhiều bất cập trong quy

định nhƣng nhìn chung, tổ chức các cơ quan thi hành án dân sự, các Chi cục

thi hành án dân sự ngày càng đƣợc kiện toàn, hoạt động thi hành án dân sự

ngày càng đạt hiệu quả cao, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho Nhà nƣớc

và các cá nhân, tổ chức trong xã hội.

Chƣơng 3 đã tổng kết đƣợc thực tiễn về tổ chức và hoạt động của các

Chi cục thi hành án dân sự, chỉ ra những bất cập trong quy định của pháp luật

hiện hành về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự. Trên cơ sở

tổng hợp kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất một số kiến nghị để hoàn

thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chi cục thi hành án dân sự trong

105

thời gian tới.

KẾT LUẬN

Tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự nói chung và

tổ chức, hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự nói riêng ở Việt Nam

hiện nay đóng vai trò rất quan trọng trong hiệu quả hoạt động thi hành án dân

sự, trong việc đảm bảo các lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp

của các tổ chức, cá nhân; đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, hiệu lực,

hiệu quả thực tế của các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của các cơ

quan giải quyết tranh chấp; góp phần tạo sự ổn định chính trị - xã hội và sự ổn

định của nền kinh tế.

Để đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án dân

sự đƣợc hiệu quả thì thời gian qua, hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt

động của các cơ quan thi hành án dân sự đã đƣợc quan tâm nghiên cứu, sửa

đổi, bổ sung và hoàn thiện. Mặc dù hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động

của các cơ quan thi hành án dân sự đã tạo nên cơ sở pháp lý khá vững chắc cho

tổ chức, hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự, đặc biệt là của các Chi

cục thi hành án dân sự nhƣng do những thay đổi liên tục của thực tế khách

quan, một số nội dung trong pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan

thi hành án dân sự hiên nay còn chƣa đáp ứng đƣợc tình hình thực tế, còn có

bất cập, gây khó khăn cho tổ chức và hoạt động của các cơ quan thi hành án

dân sự nói chung và các Chi cục thi hành án dân sự nói riêng.

Luận văn đã luận giải làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thi hành

án dân sự nhƣ khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc, vai trò của thi hành án dân sự

cũng nhƣ lƣợc sử pháp luật và kinh nghiệm về mô hình tổ chức, hoạt động thi

hành án dân sự ở một số quốc gia trên thế giới. Luận văn cũng phân tích, đánh

giá đƣợc thực trạng pháp luật Việt Nam về tổ chức và hoạt động của các Chi

cục thi hành án dân sự, chỉ ra những hạn chế, khiếm khuyết trong các quy

106

định của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Thông qua kết quả thực tiễn thi

hành án dân sự thể hiện trong các báo cáo kết quả công tác của Tổng cục thi

hành án dân sự trong những năm gần đây, tác giả đã chỉ ra đƣợc những vƣớng

mắc, bất cập chủ yếu trong thực tiễn thực hiện pháp luật về vấn đề này. Trên

cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu tại Chƣơng 1 và Chƣơng 2, những thực

trạng đƣợc chỉ ra tại Chƣơng 3, luận văn đã đƣa ra những kiến nghị nhằm

hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của các Chi

cục thi hành án dân sự trong thời gian tới.

Mặc dù đã hết sức cố gắng nhƣng do vấn đề nghiên cứu của đề tài rộng,

sự giới hạn về thời gian, nghèo nàn về tài liệu nhất là mức độ phức tạp trong

thực tiễn tổ chức và hoạt động của các Chi cục thi hành án dân sự cao nên

luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Tác giả rất mong

nhận đƣợc sự góp ý của các thầy cô để rút kinh nghiệm và bổ khuyết cho việc

107

nghiên cứu sau này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính (2009), Thông tư liên tịch số 04/2009/TTLT- BNV-BTC ngày 24/12/2009 hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên nghề đối với cán bộ Công chức đã được xếp lương theo các ngạch hoặc chức danh chuyên ngành toà án, kiểm sát, kiểm toán, thanh tra, thi hành án dân sự và kiểm lâm, Hà Nội.

2.

Bộ Nội vụ, Bộ Tƣ pháp (2011), Thông tư liên tịch số 02/2011/TTLT- BNV-BTP ngày 15/04/2011 hướng dẫn việc chuyển xếp lương đối với công chức ngạch chấp hành viên thi hành án dân sự, Hà Nội.

3.

Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), Thông tư liên tịch số 07/2018/TTLT - BTP-VKSNDTC - TANDTC ngày 12/6/2018 quy định việc phối hợp trong thi hành quyết định của Tòa án giải quyết phá sản, Hà Nội.

4.

Bộ Tƣ pháp (2015), Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26/6/2015 quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động thuộc Tổng cục thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự, Hà Nội.

5.

Bộ Tƣ pháp (2016), Báo cáo số 354/2016/BC-BTP ngày 12/12/2016 của Bộ Tư pháp về Kết quả công tác thi hành án dân sự, hành chính năm 2016 và phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ yếu năm 2017, Hà Nội.

6.

Bộ Tƣ pháp (2016), Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/2/2016 hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ thi hành án dân sự, Hà Nội.

7.

Bộ Tƣ pháp (2016), Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/2/2016 quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự, Hà Nội.

8.

108

Bộ Tƣ pháp (2017), Báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự năm 2017 và phương hướng, nhiệm vụ công tác thi hành án năm 2018, Hà Nội.

9. Bộ Tƣ pháp (2017), Thông tư số 01/2017/TT-BTP ngày 23/01/2017 về

quản lý kho vật chứng, tài sản tạm giữ trong thi hành án dân sự, Hà Nội.

10. Bộ Tƣ pháp (2017), Thông tư số 02/2017/TT-BTP ngày 23/3/2017

hướng dẫn một số nội dung quản lý công chức, viên chức, người lao

động thuộc hệ thống tổ chức thi hành án dân sự, Hà Nội.

11. Bộ Tƣ pháp (2017), Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05/4/2017 quy

định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công

chức chuyên ngành thi hành án dân sự, Hà Nội.

12. Bộ Tƣ pháp (2018), Báo cáo kết quả công tác thi hành án dân sự năm

2018 và phương hướng, nhiệm vụ công tác thi hành án năm 2019, Hà Nội.

13. Bộ Tƣ pháp (2018), Thông tư số 08/2018/TT-BTP ngày 28/12/2018 sửa

đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 02/2017/TT-BTP ngày 23 tháng

3 năm 2017 hướng dẫn một số nội dung quản lý công chức, viên chức,

người lao động thuộc hệ thống tổ chức thi hành án dân sự, Hà Nội.

14. Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an (2012), Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-

BTP-BCA ngày 30/03/2012 của quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ

cưỡng chế trong thi hành án dân sự, Hà Nội.

15. Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính (2013), Thông tư liên tịch số

07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC ngày 06/02/2013 hướng dẫn trình tự,

thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải THADS và trả

tiền, giấy tờ cho người được thi hành án dân sự là phạm nhân, Hà Nội.

16. Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, TANDTC, VKSNDTC (2016),

Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT-BTP-BCA-BTC-TANDTC-

VKSNDTC ngày 19/5/2016 quy định hoạt động của Ban Chỉ đạo thi

hành án dân sự, Hà Nội.

17. Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, TANDTC, VSKNDTC (2013), Quy chế liên

ngành số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 09/10/2013

109

về phối hợp liên ngành trong công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.

18. Bộ Tƣ pháp, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng, Bộ

Công an (2013), Thông tư liên tịch số 15/2013/TTLT-BTP-BGTVT-

BTNMT-BCA ngày 05/11/2013 hướng dẫn việc trao đổi, cung cấp thông

tin về tài sản bảo đảm giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm với tổ

chức hành nghề công chứng, cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan đăng

ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền lưu hành tài sản, Hà Nội.

19. Bộ Tƣ pháp, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội, Ngân

hàng Nhà nƣớc Việt Nam (2014), Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-

BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN ngày 14/01/2014 hướng dẫn việc cung

cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi hành án và thực

hiện phong tỏa, khấu trừ để thi hành án dân sự, Hà Nội.

20. Bộ Tƣ pháp, Bộ Tài chính, TANDTC, VKSNDTC (2015), Thông tư

liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-VKSNDTC ngày

15/6/2015 hướng dẫn việc miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với

khoản nộp ngân sách Nhà nước, Hà Nội.

21. Bộ Tƣ pháp, TANDTC, VKSNDTC (2016), Thông tư liên tịch số

11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016 quy định một

số vấn đề về thủ tục THADS và phối hợp liên ngành trong thi hành án

dân sự, Hà Nội.

22. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 quy

định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án

dân sự, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày

24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,

Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày

02/6/2005 Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,

110

Hà Nội.

25. Đinh Thanh Hƣơng (2014), Xác minh điều kiện thi hành án, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

26. Trần Huy Liệu (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, Luận án tiến sĩ, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

27. Lê Thùy Linh (2016), Thỏa thuận thi hành án dân sự theo pháp luật thi hành án dân sự Việt Nam hiện hành, Luận án tiến sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

28. Vũ Hoài Nam (2013), Tổ chức và hoạt động của thừa phát lại ở Việt

Nam hiện nay, Nxb Tƣ pháp, Hà Nội.

29. Ngôn ngữ Việt Nam (2018), Từ điển Tiếng việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

30. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2009), Từ điển thuật ngữ pháp lý Pháp -

Việt, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Quốc hội (2008), Luật cán bộ, công chức, Hà Nội.

32. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, Hà Nội.

33. Quốc hội (2014), Luật thi hành án dân sự, Hà Nội.

34. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

35. Quốc hội (2015), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

36. Nguyễn Quang Thái (2008), Pháp chế xã hội chủ nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

37. Nguyễn Bích Thảo, Nguyễn Thị Hƣơng Giang (2018), “Hoàn thiện cơ chế xác minh thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN: Luật học, tập 34, (1).

111

38. Phạm Phúc Thịnh (2014), Thừa phát lại trong thi hành án dân sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

39. Lê Anh Tuấn (2015), "Bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân trong công tác thi hành án dân sự", Tạp chí Dân chủ và Pháp luật.

40. Lê Anh Tuấn (2017), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi

hành án dân sự, Luận án tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

41. Thủ tƣớng Chính phủ (2012), Quyết định số 27/2012/QĐ-TTg ngày 11/6/2012 quy định chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Chấp hành viên, Công chứng viên, Thẩm tra viên và Thư ký thi hành án, Hà Nội.

42. Thủ tƣớng Chính phủ (2015), Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2015 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp, Hà Nội.

43. Thủ tƣớng Chính phủ (2017), Chỉ thị số 05/CT-TTg ngày 06/02/2017 về

tăng cường công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.

44. Nguyễn Thanh Thủy (2008), Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh năm, Hà Nội.

45. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Lý luận nhà nước và

pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

46. Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2018), Giáo trình Luật thi hành án dân

sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

47. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.

48. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội.

49. Ủy ban Thƣờng vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh Thi hành án dân sự, Hà Nội

112

50. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp (2005), Luận cứ khoa học và thực tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới, Báo cáo phúc trình đề tài cấp nhà nƣớc độc lập, Hà Nội.