
PHIM MÀU
1. Giới thiệu
Ở phần mở đầu của bộ phim Wizard Of Oz (1939), khi nhân vật chính
Dorothy (do Judy Garland thủ vai) phát hiện ra căn nhà của cô đang đậu trên mảnh
đất của Wicked Witch Of The East, cô đang đi một đôi hài màu hồng ngọc. Màu
đỏ của đôi giày tỏa ra một thứ ánh sáng lung linh khó quên, và nó ngay lập tức trở
thành trung tâm của một thời khắc quan trọng trong lịch sử điện ảnh: nó không chỉ
đánh dấu cho kỉ nguyên phim màu bằng một bộ phim có lẽ là nổi tiếng nhất mọi

thời đại, mà đấy còn là một trong những đồ vật vô giá ghi lại dấu ấn đậm nét lâu
dài trong lòng những người yêu điện ảnh thế kỉ 20
Có lẽ đôi hài trở thành một biểu tượng lớn của nền điện ảnh đương đại là
nhờ màu đỏ tuyệt vời của Technicolor - một màu đỏ rất khó gặp và rất lôi cuốn,
giống màu đá ruby trang sức hơn và khó có thể nhìn xuyên qua với sự tinh khiết
hơn tất cả những màu đỏ khác mà chúng ta có thể nhìn thấy trên màn ảnh, và thực
sự đó là sắc đỏ thẫm và mãnh liệt hơn tất cả những màu đỏ mà chúng ta có thể gặp
trong cuộc sống hàng ngày.
Đôi hài màu đỏ huyền thoại của Judy Garland trong The Wizard Of Oz
(1939)
Để hiểu rõ giá trị của sự phấn đấu nỗ lực trong việc nhuộm được màu vào
những hình ảnh động, trước tiên bạn phải hiểu rằng trong một số khía cạnh, mắt

người thì nhạy cảm đối với màu sắc hơn là phim ảnh, và trong một số khía cạnh
khác thì phim ảnh lại có khả năng phản ánh tốt hơn về chất lượng màu sắc hơn là
mắt người. Những biến đổi về màu sắc tinh tế nhất và sự thay đổi về mức độ thẩm
thấu để tạo nên đặc điểm riêng của sự vật thường vượt quá những gì phim ảnh có
thể ghi lại được. Nhưng tại thời điểm mà phim được quay, màu sắc có thể được
ghi lại một cách mạnh mẽ từ nhiệt độ của ánh sáng toả lên những sự vật đó, ví dụ
như đặc điểm màu xanh của ánh sáng ban ngày, hay màu vàng của ánh sáng phát
ra từ Vonfram, những trường hợp vốn mắt thường khó có thể cảm nhận và tiếp thu
được.
Hiệu ứng màu sắc trong kỹ thuật điện ảnh vì thế chưa bao giờ là một công
việc dễ dàng. Màu sắc trong những hiệu ứng đặc biệt được sử dụng trong nghề
thuật quay phim là một vấn đề lâu nay vẫn gây nhiều tranh cãi, đặc biệt đối với
những kết hợp của bản in dương bản và âm bản được sử dụng trong những tác
phẩm màu sắc mờ và chiếu hậu. Nhưng khả năng nhuộm màu sắc thống nhất lên
hình ảnh động bản thân nó đã tạo ra thử thách trong suốt chiều dài của lịch sử điện
ảnh.
2. Hệ thống tạo hiệu ứng màu sắc cho phim ảnh – tô màu và nhuộm
màu
Việc tạo ra màu sắc cho các bức ảnh động đã được bắt đầu với hệ thống
máy chiếu của Athanasius Kircher năm 1646, trong đó hình ảnh ánh nắng mặt trời
phản chiếu ngược lại qua những tấm gương được sơn màu đã tạo ra một hình ảnh
trên tường. Đây là tiền đề cho các phim màu trong cuối thể kỷ 19, đầu thế kỷ 20.
Trong kỹ thuật tinting (tô màu), màu sắc được đưa vào từng khung hình của phim
thật tỷ mỷ bằng tay; còn trong kỹ thuật toning (nhuộm màu) thì toàn bộ cảnh phim
đều được nhúng vào màu sắc để xử lý. Công ty Pathé của Pháp đã sử dụng quy

trình khuôn tô để tạo màu bằng tay, điều này đã làm giảm đi sự phong phú vốn
được xem là nét đặc trưng của phim màu Mỹ; các bản in thuê từ Pathé thường
giống nhau nhiều hơn là các bản thuê từ Edison. 2 trong số những bộ phim chiếu
trong chương trình đầu tiên tại nhà hát Koster and Bial’s Music Hall ở New York
ngày 23-04-1896 đã sử dụng màu in bằng tay này. Ông bầu Siegmund Lubin
(1851 – 1923) đã từng chiếu phim một màu trong năm 1904, đã sản xuất những
phim chứa nhiều cảnh vật với màu sắc khác nhau; kỹ thuật tương tự đã được sử
dụng trong “The Lonedale Operator" của D. W. Griffith (D. W. Griffith, 1911), bộ
phim mà các cảnh màu đỏ và xanh lam đã được thay bằng màu đen trắng nhìn như
chưa hề được tô màu để tăng thêm hiệu quả hình ảnh.
Kỹ thuật in màu bằng tay có thể thấy được trong phim “The Great Train
Robbery” (1903), khoảnh khắc nổi tiếng nhất của phim này là cú chớp nổ đỏ rực
từ khẩu súng trên tay tên cướp bắn về phía camera (tuỳ vào ý thích của người chọn
bản phim nào để chiếu trên Nickelodeon, mà người xem có thể thấy cảnh bắn này
ở đầu hoặc ở cuối phim). Alfred Hitchcock (1899-1980) đã thể hiện sự ngưỡng mộ
của mình bằng cách tạo ra một cảnh quay bắn súng tương tự được tạo màu trong
phần cuối phim Spellbound (1945), trong khi tất cả các cảnh còn lại của phim đều
vẫn là đen trắng. Rất nhiều cảnh trong phim “The Great Train Robbery” đã được
tô màu bằng tay như cảnh vụ nổ acid vàng rực từ một chiếc hộp đặt trên tàu;
những vết màu vàng do gót giày của cô vũ công để lại trên sàn; rồi chiếc áo
choàng có màu hoa oải hương của con gái người chủ ga tàu; và những lượt nổ màu
cam bắn ra từ chiếc súng của đội cảnh sát về phía camera khi đóng cảnh đuổi theo
những tên cướp trong rừng. Trong phim này, màu sắc đã tạo ra hiệu ứng giúp nhấn
mạnh vào những chi tiết nổi bật hay làm tăng tính cao trào của một số phân cảnh,
khiến cho chúng trở nên thực sự sống động và sâu sắc.
Toning là quá trình đưa các bức ảnh đen trắng được nhuộm trong màu.
Trong “Un home et une femme” (A man and a woman, Claude Lelouch, 1966),

nhiều cảnh phim đen trắng cũng đã được nhuộm màu theo cách này, cảnh thì là
màu xanh hoàng gia, cảnh là màu cam của quả quýt bị cháy, cảnh có màu xepia
(màu nâu đen). Nhiều cảnh mang tính chất thuật lại trong 2 màu sắc tương phản
nhau là đen và trắng (ví dụ như cảnh một chiếc xe ô tô đi từ Normandy đến Pari
trong mưa, trong xe là một đôi tình nhân nghe được tin “một người đàn ông và
một phụ nữ đã bị giết” trong một tai nạn ô tô từ chiếc radio), với những bức ảnh
được in màu và xếp chồng lên nhau, đã tạo nên một lăng kính huyền ảo đầy xúc
cảm mà ở đó đôi uyên ương cùng nhau trải nghiệm thực tế. Với những cảnh thể
hiện ký ức, thì các khung hình sau khi quay sẽ được phơi ra ngoài ánh nắng nhẹ để
màu sắc mờ đi. Mục đích muốn hoà các hành động diễn ra trước mắt với hành
động trong qua quá khứ và những nhu cầu muốn làm điều gì trong tương lai của
đạo diễn sẽ quyết định việc có tạo màu hay không, và sử dụng loại nào.
Một trong những hệ thống tạo màu chop him ảnh được ra đời sớm nhất có
tên là Kinemacolor, do G.A.Smith (1864-1959) phát triển năm 1904. Những
khung hình nối tiếp nhau đều được tô lần lượt màu đỏ cam hoặc xanh lục kết hợp
xanh lam, và sau đó được chiếu qua một tấm lọc xoay 2 màu với tốc độ 32 hình
trên giây. Với tốc độ này mắt thường sẽ chỉ thấy những cảnh phim màu tiếp nối
nhau chứ không thể quan sát được sự chuyển động của màu sắc được tạo ra qua
các cảnh. Vào năm 1912 hai sinh viên tại Học viện Công nghệ Massachusetts,
Herbert Kalmus (1881-1963) và Daniel Comstock, đã cùng hợp tác với W. Burton
Wescott (cùng với người vợ của Kalmus là Natalie Dunfee (1878-1965). Kalmus,
Comstock và Wescott muốn tiến xa hơn việc tô và nhuộm màu cho những khung
hình đen trắng những khung hình đen trắng cũng như hệ thống lọc thô sơ của
Kinemacolor, để phát triển lên một quá trình thực hiện phim màu độc lập. Công ty
Technicolor được lập nên ngày 1915, và 2 năm sau đó bộ “phim màu” đầu tiên,
The Gulf Between (1917) đã được ra mắt. Một chiếc máy quay được thiết kế để
mỗi lần chụp là có 2 bức ảnh giống nhau, một bức đi qua tấm lọc màu xanh và bức
còn lại đi qua tấm đỏ. Trong khi quá trình Kinemacolor chiếu những khung hình