Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT
lượt xem 18
download
Việc xây dựng hệ thống sơ đồ và vận dụng các biện pháp để hướng dẫn HS hệ thống kiến thức lịch sử sẽ có hiệu quả. Đặc biệt là khả năng tư duy Lịch sử theo cấu trúc sơ đồ. Xuất phát từ thực tế đó mà "Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT" đã được thực hiện.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Lịch sử là một môn khoa học xã hội. Lịch sử là những sự kiện, hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ xã hội của loài người, nó tồn tại độc lập, khách quan với ý muốn con người. Do đặc trưng môn Lịch sử khác với các môn học khác trong chương trình dạy học ở phổ thông đó là: học sinh không được trực tiếp chứng kiến sự kiện, vì lịch sử đó không lặp lại, không được biểu diễn trong phòng thí nghiệm. Hơn nữa, vấn đề nhận thức môn Lịch sử cũng khác so với các môn học khác: nó có nhận thức chung của quy luật loài người từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và thực tiễn. Đồng thời nhận thức lịch sử cũng có sắc thái riêng: nhận thức các sự kiện lịch sử phải tuân theo logic sự kiện, sự thật khách quan chứ không phải tùy theo trí tưởng tượng của con người. Mỗi tác động của giáo viên đều ảnh hưởng đến học sinh. Vì vậy, giảng dạy môn lịch sử mỗi giáo viên phải dạy thế nào đó để tác động vào đúng quy luật nhận thức, giúp học sinh lĩnh hội được đầy đủ những kiến thức mà mình truyền tải, từ đó biết đánh giá, nhận định cũng như chủ động lĩnh hội kiến thức trên lớp. Nhưng một thực tế cho thấy, từ lâu dạy học theo kiểu “đọc – chép” được coi là một phương pháp dạy học để truyền tải kiến thức cho học sinh và được sử dụng phổ biến ở nhiều trường trong cả nước. Ngành Giáo dục và Đào tạo cũng đã có nhiều cuộc hội thảo và cũng đã đưa ra nhiều phương pháp dạy học tích cực hơn… nhưng hiện tại không ít giáo viên vẫn sử dụng cách dạy học theo kiểu “đọc – chép” Phải nói rằng trong một tiết dạy, cũng có lúc giáo viên cần phải đọc cho học sinh chép như môn chính tả...ở bậc Tiểu học, đọc hoặc ghi lên bảng các công thức toán học, bảng cửu chương, một sự kiện lịch sử, một số yếu tố địa lý, đoạn thơ, các khái niệm...ở bậc Trung học, điều này không có nghĩa là giáo viên đã sử dụng phương pháp “đọc – chép”. Cũng phải khẳng định rằng, trong giáo học pháp, chưa bao giờ trong trường học có phương pháp dạy học mang tên “đọc – chép”. Do đó, “đọc” thế nào và học sinh “chép” ra sao mới là quan trọng. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trương chống việc dạy học “chủ yếu qua đọc chép – nhìn chép” nghĩa là chống việc chỉ đọc chép, truyền thụ kiến thức một chiều trong cả một tiết lên lớp. Với cách dạy này, người thầy đã máy móc, rập khuôn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc, không hứng thú trong cập nhật kiến thức, không sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với mọi đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu. Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều, không động não suy nghĩ, không biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Hơn nữa, đã dạy theo kiểu “đọc – chép” thì đề thi phải ra theo kiểu học thuộc. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc thi, lại chép những điều ấy Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 1
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT vào bài làm, không có khả năng sáng tạo, học sinh hiểu bài một cách máy móc không sáng tạo, không thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc không dám thể hiện “cái riêng” của mình. Bài dạy học đọc – chép tất yếu phải được tổ chức theo phương thức diễn dịch, do đó tiết dạy “đọc – chép” sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt. Việc giáo viên sử dụng cách dạy học theo kiểu đọc – chép, có thể kể ra một số nguyên nhân sau: Do một số bài học của chương trình có lượng kiến thức nhiều, trong một tiết học chỉ có 45 phút, mà đã mất 10 đến 15 phút ổn định tổ chức, kiểm tra bài cũ, dặn dò học, làm bài tập ở nhà…Như vậy, chỉ còn khoảng 30 phút để giảng bài mới nên giáo viên chọn cách “đọc – chép”. Học sinh hiện nay khả năng tự ghi bài là rất chậm, rất hạn chế, thụ động trong học tập đặc biệt là khối bổ túc văn hóa nên cũng có thầy cô chọn cách đọc bài, học trò chép bài. Học sinh về nhà chỉ cần học thuộc nội dung đã được ghi, khi kiểm tra bài chỉ cần đọc đúng, ghi đúng là được điểm cao… Cũng còn một số giáo viên không chịu khó đầu tư cho việc thiết kế bài dạy sao cho phù hợp với từng đối tượng học sinh mình đang phụ trách, sợ mất sức, cứ sẵn giáo án mẫu đọc cho học sinh chép, khi cần thỉnh thoảng mới dừng lại ghi vài chữ lên bảng. Như thế, vừa không sợ sai kiến thức cơ bản, lại vừa không tốn sức. Trang thiết bị và các phòng học chức năng không đủ hoặc không có để đáp ứng nhu cầu dạy học theo hướng đổi mới, hiện đại hóa, học sinh không có nhiều điều kiện để thực hành hoặc học theo phương pháp trực quan sinh động. Khắc phục tình trạng đọc – chép là một yêu cầu cần thiết để nâng cao chất lượng dạy học đối với tất cả các môn học. Đó là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn phức tạp trong điều kiện hiện nay của nhiều trường. Thực hiện tốt việc chống dạy học theo kiểu “đọc – chép” là cả một quá trình lâu dài với sự cố gắng của nhiều đối tượng khác nhau trong đó sự tận tâm của thầy cô giáo là điều hết sức quan trọng mới có thể có kết quả. Dạy theo kiểu “đọc cái có sẵn cho học sinh chép vào vở” cứ lặp đi lặp lại nhiều năm, khiến công việc của các nhà giáo trở nên nhàm chán, không có động lực để đổi mới. Còn với học sinh, dẫu biết rằng phải chép bài của thầy đọc từ sách giáo khoa, cái mà các em có thể tự đọc – là một sự miễn cưỡng. Nhưng biết làm sao, khi thầy yêu cầu trả bài phải đúng, thậm chí đúng nguyên văn những lời thầy đọc. Đã có những bài thi ngây ngô đến mức khó tin, bởi thiếu phương pháp tư duy, rập khuôn máy móc do việc học lệ thuộc hoàn toàn vào thầy, còn thầy thì lệ thuộc sách giáo khoa. Cách dạy và học này còn tiếp tay cho nạn quay cóp, gian lận trong thi cử, tạo ra sự thiếu công bằng giữa những người học nghiêm túc và những người thầy thực sự muốn đổi mới cách dạy học. Thầy đọc, trò chép trên lớp, cộng với việc học quá tải liên miên khiến các em không đủ thời gian suy ngẫm và tự học, thì lấy đâu ra việc tìm tòi, suy luận để có kiến thức thực sự? Nhưng vấn đề đặt ra, thế nào là thầy không đọc, Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 2
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT trò không chép? Không đọc kiến thức đã có sẵn trong sách giáo khoa, thì thầy sẽ nói gì để các em ghi lại và phát triển tư duy? Đội ngũ giáo viên hiện nay phần lớn cũng được đào tạo bằng phương pháp “đọc – chép” nên để thay đổi cách giảng dạy cũng khó có thể đạt kết quả một sớm một chiều. Trong khi đó, bộ sách giáo khoa bậc phổ thông đang tiếp tục được thay đổi và nội dung còn khá nặng nề cũng là một lực cản trong quá trình nói không với “đọc – chép”. Thực tế những năm qua có nhiều giáo viên (kể cả bậc đại học) đã áp dụng phương pháp giảng dạy không đọc chép cho học sinh, sinh viên và đem lại hiệu quả rõ nét. Nhưng vì không có động lực, thiếu sự khuyến khích, động viên và tiêu chí rõ ràng, nên cách làm này chỉ có tính tự phát ở một số ít người. Chấm dứt tình trạng không đọc chép sẽ trở thành hiện thực nếu đội ngũ giáo viên được coi trọng, nếu đội ngũ giáo viên có động lực và sự đánh giá nghiêm túc, công bằng từ các cơ quan quan quản lý. Là một giáo viên trẻ, tuổi đời và tuổi nghề chưa nhiều, nhưng bản thân tôi luôn tâm niệm, phải làm sao cho học sinh của mình yêu lịch sử và ham lịch sử, nắm được kiến thức lịch sử. Đó là nhiệm vụ giáo dưỡng và giáo dục, như đồng chí Phạm Văn Đồng có viết: “Dạy lịch sử phải dạy như thế nào? Nhất định phải dạy cho học sinh hiểu biết những sự kiện lịch sử, những qui luật lịch sử qua các thời đại chứ không thể nói ba hoa về chính trị ở đây. Cả lịch sử nước ta là một sự cỗ vũ sâu xa vô cùng. Dạy sử tốt nhất định tạo cho người thanh niên ta say mê với dân tộc, say mê và tự hào về dân tộc một cách đúng mực, không hề tự kiêu, không hề nảy sinh chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.” Từ đó tôi mới tìm hiểu và áp dụng theo phương pháp “Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT” và bài trả lời cho câu hỏi làm thế nào để đổi mới phương pháp dạy học “không đọc – chép ; không nhìn – chép”. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu + Đối tượng nghiên cứu : Học sinh TTGDTX Yên Lạc khối 10,11,12 + Phạm vi nghiên cứu : Hướng dẫn học sinh ghi bài theobằng cách hệ thống hóa kiến thức Lịch sử bằng sơ đồ. + Không gian nghiên cứu: Trung tâm GDTX Yên Lạc 3. Giả thuyết khoa học Nếu xây dựng hệ thống sơ đồ và vận dụng các biện pháp để hướng dẫn HS hệ thống kiến thức lịch sử sẽ có hiệu quả. Đặc biệt là khả năng tư duy Lịch sử theo cấu trúc sơ đồ. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích tổng hợp: Tôi sử dụng phương pháp này theo hướng sưu tầm tìm đọc các tài liệu liên quan để phục vụ cho việc xây dựng cơ sở lí luận của đề tài - Phương pháp thực nghiệm: Tôi đã tiến hành dạy lớp 11A1, chia thành 2 nhóm, một nhóm sử dụng sơ đồ, một nhóm sử dụng phương pháp dạy truyền thống, sau đó cho làm bài kiểm tra 15 phút. Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 3
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT - Phương pháp toán học thống kê: Sử dụng công thức toán học thông kê để tính điểm kiểm tra đã chấm trong thực nghiệm sư phạm. - Đúc rút kinh nghiệm trong việc dạy học của bản thân thông qua phương pháp thực nghiệm sư phạm tiến hành dạy thử lớp 11A1. 5. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Cuộc vận động chấm dứt cách dạy học “đọc chép” nếu thành công, sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục. Theo GS – TS Đinh Quang Báo, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, để cuộc vận động này thành công, thì đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định. Do vậy ngay từ khâu đào tạo giáo viên ở các trường đại học, cao đẳng phải đào tạo họ biết cách “không đọc chép”. Nhiều đồng nghiệp đã nhận thức được sự tai hại của việc dạy học theo lối đọc chép, nhưng quả thực để “Nói không với đọc chép”, có người chưa biết nên bắt đầu từ đâu, làm như thế nào, thậm chí còn rất ái ngại, vì thay đổi một tập quán không dễ gì nếu thiếu một quyết tâm và sự định hướng. Để làm được điều đó, đòi hỏi giáo viên phải nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của việc dạy học lịch sử là phải cung cấp cho học sinh một hệ thống kiến thức cơ bản về lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương, qua đó giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, truyền thống cho học sinh. Nghĩa là phải vừa khai trí vừa khai tâm cho các em. Hai nhiệm vụ này luôn gắn chặt và hỗ tương với nhau. Phải giúp cho các em am tường và biết cách vận dụng những tri thức lịch sử vào cuộc sống.Trong sách giáo khoa, các nội dung sự kiện được trình bày một cách cô đọng vốn đã rất cần sự phân tích diễn giải, minh hoạ, so sánh, đối chiếu để giúp học sinh hiểu vấn đề một cách thấu đáo Mỗi phương pháp dạy học có một giá trị riêng, tuỳ theo nội dung kiến thức và đối tượng mà lựa chọn phương pháp cho phù hợp nhằm tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, khắc sâu kiến thức cơ bản… cho học sinh. Để phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập, phương pháp dạy học sử dụng sơ đồ tỏ ra có ưu thế. Mỗi bài học chứa đựng một số vấn đề cơ bản của lịch sử, bằng sự hiểu biết của mình, giáo viên nêu vấn đề, tổ chức cho học sinh giải quyết bằng cách sáng tạo thành sơ đồ tư duy nhằm phát huy tính tích cực và huy động bộ não các em làm việc hết công suất cho mỗi bài học, sẽ không còn tình trạng học sinh ngồi im thụ động chỉ có vài em được phát biểu và làm việc với giáo viên trong tiết học. Việc học sinh tham gia trực tiếp vào việc giải quyết những yêu cầu của bài học vừa có tác dụng phát triển tư duy vừa gây hứng thú học tập. Tất nhiên vai trò dẫn dắt của người thầy là hết sức quan trọng. Dạy học là một nghệ thuật, bằng tâm hồn, sự hiểu biết và nghệ thuật của giáo viên, những “phần xác” lịch sử sẽ được “phả hồn” vào một cách sinh động và đẹp đẽ, giúp các em cảm nhận tốt hơn, yêu thích hơn bộ môn lịch sử. 6. Kết cấu của đề tài sáng kiến kinh nghiệm Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3 phần: -Phần I : Nêu thực trạng của vấn đề. -Phần II : Mô tả và giới thiệu các nội dung, biện pháp chính. -Phần III : Kết quả, bài học kinh nghiệm và kiến nghị Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 4
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG I. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ 1. Thực trạng dạy và học ở TTGDTX Yên Lạc: 1.1. Thuận lợi: Giáo viên có nhiều cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua các phương pháp dạy học như: sử dụng dồ dùng trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, miêu tả, kể chuyện, nêu đặc điểm nhân vật …. Giáo viên tích cực hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau, thông qua hoạt động này những học sinh yếu kém sẽ được sự hướng dẫn của giáo viên và các học sinh khá giỏi, học sinh sẽ nắm chắc kiến thức và hiểu sâu hơn về bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp và khai thác triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, mô hình, ứng dụng công nghệ thông tin… Học sinh có chú ý nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi giáo viên đặt ra, một số em có chuẩn bị bài mới ở nhà. Học sinh tham gia tích cực trong việc thảo luận nhóm và đã đưa hiệu quả cao trong quá trình lĩnh hội kiến thức. Học sinh yếu, kém đã và đang nắm bắt kiến thức trọng tâm cơ bản thông qua các hoạt động như thảo luận nhóm, đọc sách giáo khoa, vấn đáp… các em đã mạnh dạn trả lời các câu hỏi ghi nhớ các sự kiện, nhân vật, một quá trình cách mạng trong việc chiếm lĩnh kiến thức của mình. 1.2. Hạn chế: Đặc thù của học sinh TTGDTX là nhận thức của các em còn hạn chế, tư duy chậm, lười suy nghĩ. Gặp phải những câu hỏi tư duy học sinh chưa trả lời được, ý thức chuẩn bị bài của một số em chưa tốt đã ảnh hưởng đến hiệu quả giờ dạy trên lớp của giáo viên. Mặt khác, vẫn còn một số ít giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, nắm vững kiến thức, vẫn còn sử dụng phương pháp dạy học “thầy nói, trò nghe’, “thầy đọc, trò chép”. Do đó nhiều học sinh chưa nắm kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc, trả lời câu hỏi thì nhìn sách giáo khoa hoàn toàn. Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh không trả lời được nhưng lại không có câu hỏi gợi ý nên nhiều khi phải trả lời thay cho học sinh. Một số tiết giáo viên chỉ nêu vài câu hỏi và chỉ gọi một số học sinh khá, chưa có câu hỏi giành cho đối tượng học sinh yếu, kém, làm cho đối tượng này ít được chú ý và không được tham gia hoạt động đều này làm cho các em tự ti về năng lực của mình, các em cảm thấy chán nản và không yêu thích môn học. Học sinh chưa có tinh thần học tập, một số em vừa học vừa làm, việc tiếp thu bài chậm, đặt câu hỏi phải cụ thể, lặp lại nhiều lần. Các em chưa xác định được động cơ học tập, học như thế nào? học cho ai? học để làm gì? Vì thế các em chưa phát huy hết vai trò và trách nhiệm của người học sinh. Học sinh Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 5
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT chưa xác định nội dung của bài học, tiếp thu bài một cách máy móc, các em luôn có tư tưởng lịch sử là môn phụ nên không cần thiết. 1.3. Điều tra cụ thể: Trong quá trình vừa giảng dạy vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học tập bộ môn của học sinh vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy.Việc điều tra được thực hiện thông qua những câu hỏi phát triển tư duy trên lớp, kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết …. Qua điều tra, đa số học sinh chỉ trả lời những câu hỏi mang tính chất trình bày, còn những câu hỏi giải thích tại sao, so sánh, đánh giá nhận thức thì trả lời chưa được tốt, chưa biết vận dụng và liên hệ kiến thức giữa các bài các chương, chưa nắm rõ các sự kiện lịch sử qua các giai đoạn hay lẫn lộn giữa sự kiện này với sự kiện khác. Cụ thể: Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % SL % 12A1 35 0 0 6 17,1 18 51,4 10 28,6 1 2,9 11A1 30 0 0 2 6.7 19 63,3 9 30 0 0 2. Giải Pháp thực hiện: 2.1. Đối với học sinh: Học sinh phải đọc trước bài mới trong sách giáo khoa, chuẩn bị tất cả các câu hỏi trong SGK phần sẽ học. Trong giờ học phải chú ý nghe giảng bài, tích cực phát biểu ý kiến, xây dựng bài, không tiếp thu máy móc phải có suy nghĩ. Biết cách làm việc theo nhóm, hợp tác với bạn để hoàn thành nhiệm vụ giáo viên giao cho. Học sinh tự giác học tập, dựa vào kiến thức giáo viên truyền thụ học sinh phải biết tự mình tìm tòi, sáng tạo, phân tích sự kiện hoặc so sánh sự kiện này với sự kiện khác. Học sinh cần có quyển sổ tay để ghi những vấn đề, những thông tin giáo viên cung cấp mà không có trong sách giáo khoa. Học sinh phải biết sử dụng bản đồ, lược đồ trình bày diễn biến một cuộc khởi nghĩa hoặc một giai đoạn lịch sử. 2.2. Đối với giáo viên: Chuẩn bị tất cả đồ dùng dạy học khi lên lớp: giáo án (hoặc giáo án điện tử), bản đồ tranh ảnh, sơ đồ…. Hạn chế giảng giải, thuyết trình, hạn chế đưa ra những câu hỏi vụn vặt nên tập hợp các câu hỏi thành gợi ý, hướng giải quyết vấn đề. Khi giảng bài mới phải kết hợp nhiều phương pháp và kết hợp với liên hệ kiến thức cũ. Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 6
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT Khi học sinh làm việc theo nhóm, giáo viên cần theo dõi, giải đáp ngay các thắc mắc của học sinh. Không nên đưa ra những câu hỏi quá đơn giản như: có, đúng, không, sai. Nếu đặt câu hỏi như vậy phải kèm theo vế sau như vì sao? Hoặc tại sao? Câu hỏi phải đi từ dễ đến khó, nếu đặt câu hỏi khó sẽ làm cho học sinh căng thẳng. Nếu câu hỏi khó giáo viên nên gợi ý cho học sinh trả lời, không nên cho học sinh suy nghĩ quá lâu làm không khí lớp nặng nề. Trong lúc học sinh suy nghĩ trả lời, giáo viên không nên hối thúc học sinh, có thể nêu gợi ý tạo cho học sinh không khí thoải mái. Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 7
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT CHƯƠNG II. MÔ TẢ VÀ GIỚI THIỆU CÁC NỘI DUNG, BIỆN PHÁP CHÍNH 1. Một số giải pháp thực tế trong việc hệ thống kiến thức lịch sử bằng sơ đồ trong dạy học lịch sử. Chương trình lịch sử lớp 11 gồm 3 phần: Lịch sử thế giới cận đại (tiếp theo), lịch sử thế giới hiện đại (từ năm 1917 – 1945), lịch sử Việt Nam (1858 – 1918). Các phần này kế tiếp chương trình lớp 10, vì thế khi học tập học sinh không thể nắm những kiến thức từng giai đoạn, từng nội dung cụ thể, mà còn phải tìm hiểu mối quan hệ giữa các sự kiện trong sự phát triển chung, thống nhất của lịch sử. Điều này đòi hỏi học sinh phải biết và hiểu lịch sử trên cơ sở phát huy tính tích cực, trí thông minh và sáng tạo. Học sinh phải biết sử dụng kiến thức đã học để tiếp nhận kiến thức mới, biết quá khứ để tìm hiểu hiện tại. Yêu cầu học sinh phải nắm vững kiến thức cơ bản, bao gồm những sự kiện, nhân vật lịch sử, không gian, thời gian … VD: Trong bài 24: Xã hội Việt Nam trong cuộc khai thác lần thứ nhất của Pháp, phần 1. Những chuyển biến về kinh tế, học sinh phải nắm được chính sách của Pháp đối với thuộc địa về kinh tế là vơ vét của cải để gánh đỡ những tổn thất thiếu hụt của Pháp, giáo viên có thể sử dụng sơ đồ sau để học sinh nắm được các chính sách khai thác về kinh tế Chính sách khai thác lần thứ nhất của thực dân Pháp Nông nghiệp Công nghiệp Thương Giao thông - Cướp đoạt - Khai thác mỏ nghiệp vận tải ruộng đất (than đá, thiếc, - Độc chiếm thị - Xây dựng hệ kẽm…) trường, tăng thống giao -Chú trọng công thuế thông phục vụ nghiệp nhẹ phục cuộc khai thác, vụ đời sống vừa phục vụ mục đích quân sự Sơ đồ chính sách cai trị về kinh tế của Pháp Qua sơ đồ giáo viên có thể trình bày thêm, để thực hiện ý đồ vơ vét của cải ở thuộc địa, Pháp tăng thuế, bắt dân mua quốc trái; tăng cường vơ vét lương thực và kim loại cần thiết cho việc chế tạo vũ khí; bắt dân chuyển từ trồng lúa Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 8
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT sang trồng cây công nghiệp phục vụ chiến tranh. Đó cũng là những điểm khác trong chính sách về kinh tế của Pháp so với trước chiến tranh. Chính sách kinh tế của Pháp trong chiến tranh đã ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam. Giáo viên có thể cho học sinh xem sơ đồ và sau đó học sinh thảo luận tự rút ra kết luận về chuyển biến của kinh tế Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp Chính sách của thực dân Pháp Kinh tế phong kiến Việt Nam Cơ cấu mất Phụ thuộc cân đối Lạc hậu, què quặt Những chuyển biến mới về kinh tế ở Việt Nam Những biến đổi trong cơ cấu kinh tế Việt Nam dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp kéo theo sự biến đổi về mặt xã hội, đó là sự phân hóa giai cấp sâu sắc, đồng thời xuất hiện thêm một số giai cấp mới, phần này yêu cầu học sinh phải nắm rõ các giai cấp trong xã hội, giáo viên có thể cho học sinh trình bày sau đó khắc sâu kiến thức bằng sơ đồ sau: Chế độ Chế độ thuộc địa Chế độ phong kiến nửa phong kiến thuộc địa Địa chủ Nông dân TTS, trí Tư sản Công nhân thức Sơ đồ sự thay đổi cơ cấu xã hội Việt Nam sau khi bị Pháp đô hộ Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 9
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT GV kết luận: dưới tác động của những chuyển biến về kinh tế, các giai cấp và tầng lớp như công nhân, tư sản ngày càng đông hơn và dần có vai trò trên vũ đài chính trị. Cuối cùng để củng cố bài học có thể sử dụng sơ đồ để khắc sâu kiến thức cho học sinh, để học sinh thấy rõ được hậu quả chính sách bóc lột của thực dân Pháp Chính sách của thực dân Pháp Kinh tế Xã hội, Chính trị văn hóa Nô dịch Lạc hậu Độc quyền Ngu dân Phụ thuộc Chuyên chế Mị dân Hậu quả chính sách bóc lột của Pháp Trong ôn tập chương hoặc ôn một giai đoạn lịch sử thì việc sử dụng sơ đồ là rất cần thiết, vì chỉ có dùng sơ đồ thì học sinh mới có thể củng cố được kiến thức cơ bản, giúp học sinh hiểu một cách sâu sắc và có hệ thống. VD bài 8: Ôn tập lịch sử thế giới cận đại, đây là phần tổng hợp kiến thức lịch sử thế giới cận đại lớp 10 và 11. Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh xác định được những sự kiện lịch sử cơ bản, sau đó lập bảng hệ thống các kiến thức đã học qua các bài, về kiến thức bài này yêu cầu học sinh phải nắm được một số nội dung sau: - Về các cuộc cách mạng tư sản TK VI – giữa TK XIX - Các nước tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa - Phong trào công nhân TK XIX – đầu TK XX và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học - Về các nước Châu Á, Châu Phi và khu vực Mĩ Latinh từ giữa TK XIX đến đầu TK XX - Về cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và kết cục của nó Lịch sử thế giới cận đại là giai đoạn hình thành và phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản được hình thành và xác lập qua các cuộc cách mạng tư sản. Từ giữa TK XIX đến đầu TK XX, chủ nghĩa tư bản chuyển Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 10
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT sang giai đoạn CNTB độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Để học sinh hệ thống được kiến thức, nắm được nội dung cơ bản của một thời kì lịch sử, giáo viên phải thống kê kiến thức qua sơ đồ, sau khi học sinh trình bày giáo viên sẽ củng cố lại kiến thức bằng sơ đồ sau: 2. Thực trạng và giải pháp khi sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Lịch sử 2.1 Giảng dạy theo sơ đồ tư duy tăng cường tính tích cực của học sinh Năm học 2011-2012 là năm đầu tiên ngành Giáo dục và Đào tạo triển khai giảng dạy theo sơ đồ tư duy ở bậc học THPT. Qua thực tế cho thấy việc giảng dạy này đã tạo hứng thú cho học sinh. Mỗi học sinh có thể tự lập sơ đồ tư duy cho mình dưới sự hướng dẫn của giáo viên để bài học trở nên dễ thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Cùng một nội dung nhưng các em có thể thêm nhánh, thêm chú thích dưới dạng hình vẽ nhiều màu sắc tùy vào cách hiểu, cách lĩnh hội kiến thức trong bài học của mình. Sơ đồ tư duy đặc biệt chú trọng về màu sắc, hình ảnh với từ ngữ ngắn gọn thể hiện qua mạng liên tưởng (các nhánh trong bài giảng). Từ phần nội dung chính, giáo viên vẽ ra từng nhánh nhỏ theo từng tiểu mục chính của bài giảng và chú thích, giảng giải theo một ngôn ngữ dễ hiểu và gần gũi với học sinh. Như vậy, thay vì phải học thuộc lòng các khái niệm, định nghĩa hay cả bài giảng đọc chép như lúc trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được khái niệm qua hình vẽ. Chính sự liên tưởng theo hướng dẫn của giáo viên cũng giúp các em nhớ được phần trọng tâm của bài giảng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ, vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy, hệ thống hóa kiến thức chọn lọc những phần nào trong bài để ghi, thể hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc, vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Để giảng dạy theo sơ đồ tư duy, giáo viên có thể chủ động vẽ hình trên bảng rồi cho học sinh tiếp tục lên phân nhánh sơ đồ hay để học sinh chia thành từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ sơ đồ theo cách hiểu của mình sau đó giáo viên định hướng lại từng nội dung cho học sinh. Sơ đồ tư duy thực chất là một sơ đồ mở không theo một khuôn mẫu hay tỷ lệ nhất định mà là cách hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động, đầy màu sắc và thực sự hiệu quả. Giảng dạy theo sơ đồ tư duy phát huy tính tích cực nhiều nhất trong các giờ ôn tập. Khi học sinh trở thành chủ thể thành nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học, các em sẽ trở nên hào hứng và hăng say hơn trong học tập. 2.2 Giáo viên trở thành người hướng dẫn, hỗ trợ Trước đây, giáo viên vẫn thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức cho học sinh nhưng học sinh vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Với việc giảng dạy bằng sơ đồ tư duy, nhất là cho học sinh tự phát huy khả năng sáng tạo của mình bằng cách tự vẽ, tự phân bố và thể hiện nội dung bài học qua sơ đồ sau đó yêu cầu các bạn khác bổ sung những phần còn thiếu. Kết thúc bài giảng, thay vì phải ghi chép theo cách truyền thống, học sinh có thể tự “vẽ” bài học theo cách hiểu của mình với nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau. Đến tiết học sau, chỉ cần Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 11
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT nhìn vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng tâm của bài học. Giảng dạy theo sơ đồ tư duy mang tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kỳ điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường, có thiết kế trên giấy, bìa, bảng bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm sơ đồ tư duy đã được triển khai đến từng trường. Việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, giáo viên giúp học sinh có thói quen tự tay ghi chép hay tổng kết một vấn đề, một chủ đề đã đọc – đã học, theo cách hiểu của học sinh với dạng sơ đồ tư duy. Khái niệm của sơ đồ tư duy: Nguyên lý hoạt động theo nguyên tắc liên tưởng “ý này gợi ý kia” của bộ não. Học sinh có thể tạo một sơ đồ tư duy ở dạng đơn giản theo nguyên tắc phát triển ý: từ một chủ đề tạo ra nhiều nhánh lớn, từ mỗi nhánh lớn lại tỏa ra nhiều nhánh nhỏ và cứ thế mở rộng ra vô tận. (Cách vẽ cũng rất giản đơn và còn rất nhiều tiện ích khác khiến cho sơ đồ tư duy ngày càng trở nên phổ biến toàn cầu).. 2.3. Tiến trình một tiết dạy theo sơ đồ tư duy Trước khi áp dụng phương pháp "Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở trường THPT” giáo viên giới thiệu cho học sinh xem một số đoạn phim ngắn, cho học sinh thấy hiệu quả của việc sử dụng sơ đồ tư duy khi ghi bài, học bài và hướng dẫn học sinh cách vẽ sơ đồ tư duy gồm nội dung cả bài học trên một trang giấy rất dễ học, dễ thực hiện và học sinh sẽ rất thích thú với mỗi tác phẩm sơ đồ tư duy của mình. Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy. Đây là phương pháp dễ nhất để chuyển tải thông tin vào bộ não của học sinh rồi đưa thông tin ra ngoài bộ não. Nó là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả theo đúng nghĩa của nó là “Sắp xếp” ý nghĩ của học sinh. Với cách thể hiện gần như cơ chế hoạt động của bộ não, Bản đồ tư duy sẽ giúp học sinh: Sáng tạo hơn Tiết kiệm thời gian Ghi nhớ tốt hơn Nhìn thấy bức tranh tổng thể Tổ chức và phân loại suy nghĩ của học sinh và nhiều vấn đề khác trong quá trình học tập… Hướng dẫn học sinh làm sơ đồ tư duy Đây là những thành phần cấu tạo nên một bản đồ tư duy, mặc dù chúng có thể được chỉnh sửa tự do theo ý muốn cá nhân. Bắt đầu ở trung tâm với một bức ảnh của chủ đề, sử dụng ít nhất 3 màu. Sử dụng hình ảnh, ký hiệu, mật mã, mũi tên trong bản đồ tư duy của bạn. Chọn những từ khoá và viết chúng ra bằng chữ viết hoa. Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 12
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT Mỗi từ/hình ảnh phải đứng một mình và trên một dòng riêng. Những đường thẳng cần phải được kết nối, bắt đầu từ bức ảnh trung tâm. Những đường nối từ trung tâm dày hơn, có hệ thống và bắt đầu ốm dần khi toả ra xa. Những đường thẳng dài bằng từ/hình ảnh. Sử dụng màu sắc – mật mã riêng của bạn – trong khắp sơ đồ. Phát huy phong cá ch cá nhân riêng của học sinh. Sử dụng những điểm nhấn và chỉ ra những mối liên kết trong sơ đồ tư duy của mỗi học sinh. Làm cho sơ đồ rõ ràng bằng cách phân cấp các nhánh, sử dụng số thứ tự hoặc dàn ý để bao quát các nhánh của sơ đồ tư duy. Khi kiểm tra bài cũ giáo viên goi học sinh lên bảng thuyết trình sơ đồ tư duy của bài học cũ trước lớp. Giáo viên và các bạn khác có thể đặt thêm câu hỏi để học sinh trả lời. Bắt buộc 100% hoc sinh phải có sơ đồ tư duy bài học cũ và các sơ đồ tư duy được học sinh lưu trong bìa giấy hoặc một túi hồ sơ để sử dụng khi ôn tập và khi giáo viên kiểm tra thay cho vỡ ghi bài. Học sinh cũng có thể có một tập nháp vẽ sơ đồ tư duy ngay tại lớp trong giờ học. Ví dụ minh họa : Sơ đồ tư duy bài 23 lịch sử 12 Sơ đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 13
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng sơ đồ tư duy theo một cách riêng, do đó việc lập sơ đồ tư duy phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. Chúng ta có một ví dụ minh họa khác, vẫn là bài 23 Lịch sử 12 Có thể tóm lược sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử như sau: Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả 100% học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của học sinh của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Trước đây, các tiết ôn tập chương một số giáo viên cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ,… và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của giáo viên hoặc của tài liệu, chứ không phải do học sinh tự xây dựng theo cách hiểu của mình, hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc và đường nét. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử bước đầu tạo một không khí sôi nổi, hào hứng của cả thầy và trò trong các hoạt động dạy học của nhà trường, là một trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua “Xây Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 14
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đang đẩy mạnh triển khai. Sơ đồ tư duy một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng phụ,… bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn, tẩy,… hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm sơ đồ tư duy. Với trường có điều kiện cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tốt có thể cài vào máy tính phần mềm Mindmap cho giáo viên và học sinh sử dụng, bằng cách vào trang web www.download.com.vn gõ vào ô “tìm kiếm” cụm từ Mindmap, ta có thể tải về bản demo ConceptDraw MINDMAP 5 Professional, phần mềm này không hạn chế số ngày sử dụng và việc sử dụng nó cũng khá đơn giản. Bước đầu cho phép kết luận: Việc vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THCS và THPT. Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 15
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT CHƯƠNG III. KẾT QUẢ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM 1. Kết quả đạt được: Khi hệ thống hóa kiến thức Lịch sử bằng sơ đồ tôi đã sử dụng kinh nghiệm này vào các tiết dạy và đạt được kết quả khả quan, sử dụng sơ đồ phù hợp trong việc củng cố kiến thức trong bài hoặc hệ thống kiến thức chương hoặc cả thời kì lịch sử. Học sinh nắm vững được kiến thức cơ bản, ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng lịch sử mà quan trọng là học sinh hiểu được lịch sử nắm được bản chất của sự kiện, giúp học sinh tổng hợp, phân tích, so sánh để tìm ra sự giống nhau và khác nhau về bản chất các sự kiện Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém Lớp Sĩ số SL % SL % SL % SL % SL % 12A1 35 13 37,1 12 34,3 10 28,6 0 0 0 0 11A1 30 6 20,0 14 46.7 9 30,0 1 3,3 0 0 Còn thực tế khi sử dụng sơ đồ tư duy trong giờ dạy lịch sử sẽ bắt buộc tất cả 100% học sinh đều phải động não, sáng tạo và chỉ trong một tờ giấy các em có thể trình bày nội dung của bài học. Học sinh sẽ tự khám phá và khi tạo được một tác phẩm đẹp, ý tưởng hoàn chỉnh được giáo viên và các bạn ngợi khen sẽ phấn khởi rất nhiều. Các em khác cũng sẽ cố gắng tự hoàn thiện mình và mỗi học sinh có một tính cách, một ý tưởng rất khác nhau khi trình bày sơ đồ tư duy của mình nhưng điều quan động là các em biết cách tự ghi chép đầy đủ nội dung bài học để học ở nhà có thể trinh bày trước tập thể lớp và ghi nhớ lâu kiến thức bài học. 2. Bài học kinh nghiệm Giáo viên lịch sử phải luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới trong phương pháp dạy học. Có kế hoạch cụ thể trong việc tìm kiếm và thiết kế các đồ dùng dạy học đẹp chính xác phù hợp với nội dung bài dạy. Giáo viên cần nghiên cứu kĩ sách giáo khoa, thường xuyên nghiên cứu thêm tài liệu tham khảo để cung cấp thêm thông tin và kiến thức ở mỗi bài học. kết hợp các phương tiện dạy học khác nhau như đồ dùng trực quan, hình ảnh, tranh vẽ, hệ thống thao tác sư phạm khi lên lớp.. để góp phần phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong mỗi tiết học, nâng cao hiệu quả giờ dạy. Giáo viên phải biết hướng dẫn tổ chức cho học sinh tự mình khám phá kiến thức mới, dạy cho học sinh không chỉ có kiến thức mà cả phương pháp học trong đó, cốt lõi là tự học. Chính trong các hoạt động tự lực được giao cho từng cá nhân hoặc nhóm nhỏ tiềm năng sang tạo của mỗi học sinh được bộc lộ và phát huy, Giáo viên phải biết luyện tập cho các em có thói quen nhìn nhận sự kiện dưới những góc độ khác, biết đặt ra nhiều giả thuyết khi lí giải một hiện Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 16
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT tượng. Biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi xử lí một tình huống. Phải giáo dục cho học sinh không vội vã bằng lòng với giải pháp đầu tiên được nêu ra, không suy nghĩ cứng nhắc theo những qui tắc đã học trước đó, không máy móc áp dụng những mô hình hành động đã gặp trong các bài học, trong sách vở để ứng xử trước những tình huống mới. Người giáo viên lịch sử cần bồi dưỡng năng khiếu vẽ bản đồ, lược đồ khoa học chính xác, sử dụng các phương pháp dạy học tích cực nhằm thu hút sự chú của học sinh làm cho học sinh yêu thích môn học. Môn lịch sử cũng như nhiều môn học khác đòi hỏi sự chăm chỉ trong quá trình học tập. Sự đầu tư thời gian và công sức để học là một trong những nhân tố quan trọng làm nên thành công. Nếu các học sinh nghĩ rằng chỉ học thuộc lòng để nhớ các sự kiện là đã học tốt môn lịch sử thì đơn giản quá. Lịch sử là môn học đòi hỏi rất cao tư duy độc lập của người học trong cách đánh giá, phân tích nhân vật, sự kiện, v.v... Học sinh không nên hiểu chỉ học trong sách giáo khoa là đủ. Những kiến thức trong sách giáo khoa mới chỉ tóm lược vắn tắt tiến trình lịch sử quốc gia và thế giới. Nếu có thời gian giáo viên hướng dẫn học sinh đọc thêm các sách lịch sử khác để hiểu biết thêm. Để học sinh yêu lịch sử thì cần có sự quan tâm đúng mức của xã hội. Một dân tộc yêu lịch sử, tôn trọng lịch sử thì sẽ có những học sinh yêu lịch sử, thích học lịch sử. Giáo viên dạy môn lịch sử trước hết phải có lòng yêu nghề và có kiến thức sâu về chuyên môn. Dạy vô cảm thì hậu quả học trò học vô cảm. Vì vậy các thầy cô cần phải dạy học trò không bằng trái tim mà cả khối óc nữa. Dạy bằng trái tim là để truyền sự rung cảm. Dạy bằng khối óc là để truyền đạt tri thức. Làm cho học sinh thấy được học lịch sử có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn tại của quốc gia dân tộc. Học lịch sử trước hết là học về lòng yêu nước, học xưa để biết nay. Nếu các cá nhân trong một dân tộc không biết nguồn gốc và tổ tiên của mình thì dân tộc đó sẽ tiêu vong. Đánh mất lịch sử đồng nghĩa với đánh mất quốc gia dân tộc mình. Cần cho học sinh thấy học lịch sử không có giới hạn mà là học suốt đời như các môn học khác. Các em có thể học bất cứ lúc nào nếu muốn miễn là lòng đam mê với lịch sử là không có giới hạn.Làm cho học sinh thấy được học lịch sử có lợi cho nghề nghiệp của mình sau này. Lịch sử có trong tất cả các lĩnh vực, bởi ngành nghề nào mà chẳng có lịch sử hình thành và phát triển. Khi dạy học các thầy cô không nên quá cứng nhắc về phương pháp, mà phải có sự linh hoạt trong từng bài giảng. Không dạy theo kiểu “thầy đọc trò chép”, vì hậu quả của nó là đến khi đi thi học trò sẽ “chép hết gì thầy đã đọc”. Nên dạy cho học sinh cách phân tích, đánh giá, thậm chí là phê phán các sự kiện lịch sử. Để học sinh thực sự nhập cuộc vào bài học, chủ động trong lối suy và cách nghĩ, các thầy cô cần đưa ra các chủ đề lịch sử để các em tham gia thảo luận, nhất là thảo luận theo các nhóm. Trước đây theo cách thảo luận nhóm cũ học sinh quay mặt vào nhau cùng phát biểu những nội dung trong bài học chỉ vài Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 17
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT phút rất máy móc và phản tự nhiên. Dạy học theo sơ đồ tư duy mỗi nhóm sẽ cùng nhau hình thành một tác phẩm sơ đồ tư duy theo ý tưởng riêng của từng học sinh hoặc từng nhóm rất đa dạng phong phú và hấp dẫn tất cả học sinh cả lớp cùng tham gia. Chúng ta cần đa dạng hóa cách dạy và cách học. Dạy học mà khuôn cứng là bóp chết lòng đam mê học tập của học trò. Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 18
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: “Dân ta phải biết sử ta” không chỉ là mối quan tâm của Bác, đó cũng là nỗi trăn trở của những giáo viên dạy môn lịch sử, chúng tôi luôn mong muốn học sinh của mình hiểu được nội dung bài, hiểu được lịch sử của dân tộc từ đó các em sẽ cảm thấy yêu thương gắn bó với quê hương đất nước mình hơn. Phương pháp trên đã và sẽ được áp dụng tại TTGDTX Yên Lạc và cũng đạt được kết quả phát huy được tính tích cực của học sinh, rèn được kĩ năng tổng hợp, phân tích, so sánh, các em biết sử dụng sách giáo khoa, vận dụng kiến thức cũ để hiểu kiến thức mới. Giúp học sinh hiểu bài nhanh, thu hút sự cảm hứng đối với môn học này và học sinh có thể hiểu và nhớ bài ngay tại lớp, đồng thời giúp học sinh nhận thức được một cách sâu sắc về vị trí tầm quan trọng của lịch sử trong xã hội mà bấy lâu nay hầu như các em chưa mấy quan tâm. Hệ thống hóa kiến thức lịch sử bằng sơ đồ, Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả 100% học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức + hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của học sinh của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên sơ đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. 2. Kiến nghị Cùng với việc đổi mới mục tiêu và nội dung dạy học, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo triết lý lấy người học làm trung tâm được đặt ra một cách bức thiết. Bản chất của dạy học lấy người học làm trung tâm là phát huy cao độ tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo của người học. Để làm được điều đó thì vấn đề đầu tiên mà người giáo viên cần nhận thức rõ ràng là quy luật nhận thức của người học. Người học là chủ thể hoạt động chiếm lĩnh tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và thái độ chứ không phải là “cái bình chứa kiến thức” một cách thụ động. Trong thực tế hiện nay, còn nhiều học sinh, sinh viên học tập một cách thụ năng tư duy. Học thụ động, chỉ đơn thuần là nhớ kiến thức một cách máy móc mà chưa rèn luyện kỹ năng, học sinh chỉ học bài nào biết bài đấy, cô lập nội dung của các môn, phân môn mà chưa có sự liên hệ kiến thức với nhau vì vậy mà chưa phát triển được tư duy logic và tư duy hệ thống. Sử dụng sơ đồ giúp các em giải quyết được các vấn đề trên và nâng cao hiệu quả học tập. Sơ đồ chính là một bức tranh tổng thể về chủ đề đang hướng tới để mỗi cá nhân có thể hiểu được bức tranh đó, nắm bắt được diễn biến của quá trình tư duy theo nhóm đang diễn ra đến đâu, đang ở nhánh nào của sơ đồ tư duy và tổng Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 19
- Đề tài: Sử dụng sơ đồ để hệ thống hóa kiến thức Lịch sử THPT quan toàn bộ kết quả của nhóm ra sao. Điều này giúp tiết kiệm thời gian làm việc trong nhóm do các thành viên không mất thời gian giải thích ý tưởng của mình thuộc ý lớn nào. Trong quá trình thảo luận nhóm có rất nhiều ý kiến trong khi đó mỗi người luôn giữ chính kiến của mình, không hướng vào mục tiêu đã đề ra dẫn đến không rút ra được kết luận cuối cùng. Sử dụng sơ đồ tư duy sẽ khắc phục được những hạn chế đó bởi sơ đồ tư duy tạo nên sự đồng thuận trong nhóm, các thành viên đều suy nghĩ tập trung vào một vấn đề chung cần giải quyết, tránh được hiện tượng lan man và đi lạc chủ đề. Không những vậy, sơ đồ tư duy đa chiều tạo nên sự cân bằng giữa các cá nhân và cân bằng trong tập thể. Mọi thành viên đều đóng góp ý kiến và cùng nhau xây dựng nên sơ đồ tư duy của cả nhóm. Các thành viên tôn trọng ý kiến của nhau và các ý kiến đều được thể hiện trên sơ đồ tư duy. Người thực hiện: Nguyễn Thị Huyền – Giáo viên Trung tâm GDTX Yên Lạc 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng di sản trong dạy học tích cực bộ môn Lịch sử ở trường trung học cơ sở
34 p | 195 | 58
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng có hiệu quả sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử
14 p | 499 | 45
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp sử dụng định luật bảo toàn cơ năng và chuyển hóa năng lượng, ưu thế của phương pháp so với phương pháp động lực học trong việc giải các bài toán cơ Vật lý lớp 10
17 p | 249 | 38
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng phần mềm trắc nghiệm vào kiểm tra đánh giá học tập của học sinh trên phòng máy thực hành
20 p | 365 | 36
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng âm nhạc trong dạy học môn Lịch sử lớp 12, phần lịch sử Việt Nam (1919-1954) tại trường THPH Lý Tự Trọng
55 p | 344 | 36
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp sử dụng Moodle trong kiểm tra đánh giá
22 p | 199 | 24
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng phương pháp vectơ trong giải bài toán hình học không gian
16 p | 193 | 23
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy và học môn Lịch sử 9
24 p | 126 | 22
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Kĩ năng sử dụng MTCT để tạo vòng lặp và viết quy trình giải toán ở bậc THCS
23 p | 165 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy môn Lịch sử
7 p | 112 | 20
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp chỉ đạo phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở Trường Tiểu học số I xã Mường Than
31 p | 121 | 18
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Xây dựng và sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học Lịch sử lớp 10 ở trường THPT chuyên Lê Quý Đôn
19 p | 123 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng video, thí nghiệm ảo và các hình ảnh phù hợp nhằm nâng cao kết quả học tập môn Vật lý của học sinh lớp 12A1 Trường THPT số 3 Văn Bàn khi học xong chương lượng tử ánh sáng
32 p | 110 | 17
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng hệ quy chiếu tương đối để giải các bài toán về chuyển động ném
14 p | 145 | 16
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng công nghệ thông tin vào các bài giảng
0 p | 125 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Sử dụng di sản trong giảng dạy môn địa lý ở trường trung học phổ thông
40 p | 104 | 12
-
Sáng kiến kinh nghiệm: Vận dụng phương pháp cộng vận tốc để giải một số bài toán cực trị trong chương trình Vật lí lớp 10 tại trường THPT
18 p | 101 | 11
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn