intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp chỉ đạo phong trào Giữ vở sạch, viết chữ đẹp

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:16

49
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm mầm non được hoàn thành với mục tiêu nhằm đưa ra một số biện pháp tích cực phù hợp với đặc điểm của địa phương, của nhà trường về phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” trong giai đoạn hiện nay. Từ đó quản lý và chỉ đạo có hiệu quả phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” trong trường tiểu học, phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về chữ viết tham gia có hiệu quả Hội thi Viết chữ đẹp cấp huyện, tỉnh, cấp quốc gia.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Một số biện pháp chỉ đạo phong trào Giữ vở sạch, viết chữ đẹp

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài Trong nhiều năm qua, phong trào “Giữ  vở  sạch, viết chữ  đẹp” của các  trường tiểu học trên địa bàn huyện Lệ  Thủy luôn được chú trọng. Song không  phải địa phương nào, trường nào, giáo viên nào cũng thực hiện tốt vấn đề  này.   Viết chữ đẹp là mong muốn của tất cả cán bộ, giáo viên, học sinh và của cả phụ  huynh học sinh nữa. Chữ viết cũng là một môn học, là kiến thức, nhất là ở Tiểu  học, bởi vì: “Nét chữ­ nết người”, dạy chữ là dạy người. Chữ viết sẽ góp phần  rèn luyện đạo đức và tính cách con người. Dạy cho các em viết đúng, viết cẩn   thận, viết đẹp là góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, thận trọng trong   công việc cũng như trong học tập, lòng tự tin của bản thân. Học chữ  chính là công việc đầu tiên khi các em đến trường. Tiểu học là  bậc học nền tảng, dạy Tiếng Việt và tập viết chữ  Việt là chúng ta đã trao cho  các em chìa khóa để mở ra cánh cửa để bước vào tương lai. Chữ viết là công cụ  dùng để giao tiếp và trao đổi thông tin, là phương tiện để ghi chép và tiếp nhận   những tri thức văn hóa khoa học và đời sống... Do vậy, ở trường tiểu học, việc   dạy học sinh viết chữ và từng bước làm chủ được công cụ chữ viết để phục vụ  cho học tập và giao tiếp là yêu cầu quan trọng hàng đầu của môn Tiếng Việt.   Đồng thời chữ  viết chính là cơ  sở, là nền tảng để  học tốt các môn học khác.  Mục tiêu của chúng ta là giúp cho trẻ  “Đọc thông ­ Viết thạo”. Trẻ  đọc thông  viết thạo sẽ giúp trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, học tốt hơn. Chính vì vậy, việc giữ  vở, rèn chữ cho học sinh Tiểu học có một tầm quan trọng rất lớn. Hơn nữa, nhìn  những trang vở của các em học sinh với những dòng chữ  đều tăm tắp, vở  sạch   đẹp thì cha mẹ và thầy cô đều vui và chính các em cũng thấy thích thú ­ là động   lực giúp các em ham thích học tập. Thật vậy, hiện nay “Giữ vở­ rèn chữ” là một  vấn đề đáng quan tâm trong nhà trường. Ngày nay chúng ta đang ở trong thời đại mới, thời đại công nghệ thông tin  bùng nổ, mọi người thường ngồi vào chiếc máy vi tính để  soạn thảo văn bản  thay vì cầm bút viết ngay trên giấy. Chính vì lẽ  đó mà nhiều năm nay việc rèn  chữ của người học không được chú trọng. Ở các trường Tiểu học nói chung và   1
  2. trường chúng tôi nói riêng, trong những năm học gần đây, tình trạng học sinh   viết chữ  chưa đúng chuẩn là một thực trạng đáng báo động. Thậm chí nhiều  giáo viên không chú trọng vào công tác rèn chữ, giữ  vở  cho học sinh; chữ  viết  của nhiều giáo viên còn chưa đúng quy cách. Chữ  viết của các em học sinh tiểu  học chưa được đẹp, chưa đúng mẫu, sự  liên kết giữa các nét chữ  hoặc liên kết  giữa các chữ cái chưa chuẩn, tốc độ viết còn chậm, học sinh sử dụng nhiều loại   bút ­ nhiều màu mực để  viết bài, vở  của các em còn quăn góc, bao bọc chưa  thẩm mỹ, .... nên còn hạn chế trong việc giữ gìn vở sạch ­ viết chữ đẹp. Đây là  một phần quan trọng có  ảnh hưởng lớn đến chất lượng học sinh và được các   trường quan tâm. Nâng cao chất lượng giờ  dạy  để  học sinh viết  đúng, viết   nhanh, viết đẹp thì phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp” mới có chất lượng. Với những lí do trên, chúng tôi đã mạnh dạn áp dụng “Một số  biện pháp  chỉ  đạo phong trào “Giữ  vở  sạch, viết chữ  đẹp” nhằm nâng cao chất lượng   phong trào này ở trường tôi công tác. 1.2. Điểm mới của sáng kiến Ở sáng kiến này chúng tôi đưa ra một số biện pháp tích cực phù hợp với  đặc điểm của địa phương, của nhà trường về  phong trào “Giữ  vở  sạch, viết  chữ  đẹp” trong giai đoạn hiện nay. Từ  đó quản lý và chỉ  đạo có hiệu quả  phong trào “Giữ  vở  sạch, viết chữ  đẹp” trong trường tiểu học, phát hiện và  bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về  chữ  viết tham gia có hiệu quả  Hội thi   Viết chữ đẹp cấp huyện, tỉnh, cấp quốc gia. 1.3. Phạm vi áp dụng của sáng kiến kinh nghiệm Sáng kiến kinh nghiệm đã được áp dụng trong đơn vị và có thể áp dụng  được trong nhiều trường tiểu học.  2
  3. 2. NỘI DUNG 2.1. THỰC  TRẠNG VIỆC CHỈ   ĐẠO – QUẢN LÝ  PHONG  TRÀO “GIỮ  VỞ  SẠCH,  VIẾT CHỮ ĐẸP”, BỒI DƯỠNG HỌC SINH NĂNG KHIẾU VỀ CHỮ VIẾT CỦA ĐƠN  VỊ 2.1.1. Tình hình chung của trường Để  tìm hiểu thực trạng về phong trào “Giữ  vở  sạch, viết chữ đẹp” trong  nhà trường, ngay từ đầu năm học chúng tôi đã tiến khảo sát ý kiến của 15 giáo  viên, 25 phụ huynh và 236 học sinh lớp 2,3,4,5 trong toàn trường. Qua mẫu phiếu   điều tra chúng tôi đã thu được kết quả như sau: Bảng 1. Tầm quan trọng của việc rèn chữ viết trong nhà trường Tầm quan trọng của việc rèn chữ   Số lượng giáo   Tỷ lệ ( %) viết trong trường Tiểu học viên Rất quan trọng 12 80,0 Quan trọng 3 20,0 Không quan trọng 0 0 Qua bảng thống kê trên tôi nhận thấy: Không có giáo viên nào cho rằng  việc rèn chữ  viết trong trường tiểu học là không quan trọng, điều này cho thấy  đội ngũ đã nhận thức tốt về  vai trò và tầm quan trọng trong việc rèn chữ  viết   cho học sinh  tiểu học. Đây là điều kiện thuận lợi góp phần tích cực đến chất   lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường. Bảng 2. Sự quan tâm của phụ huynh đối với việc rèn chữ viết của con em Mức độ quan tâm của phụ   Số lượng phụ   Tỷ lệ ( %) huynh học sinh huynh Rất quan tâm 8 32,0 Quan tâm 9 36,0 Ít quan tâm 8 32,0 3
  4. Không quan tâm 0 0 Qua thực tế  công tác và lập phiếu khảo sát chúng tôi có thể  khẳng định  rằng những năm gần đây nhiều bậc phụ  huynh đã quan tâm, đầu tư  nhiều cho  con em mình về  học tập, về  chữ  viết, 32%   phụ  huynh thấy  được tầm quan   trọng của việc rèn chữ  viết cho con em mình. Có 36% phụ  huynh quan tâm, tuy   nhiên vẫn còn một bộ  phận (32%) phụ  huynh chưa thật quan tâm đến vấn đề  này Bảng 3. Kết quả khảo sát chất lượng chữ viết đầu năm của học sinh  (kĩ năng chính tả) Số lượng học   Kĩ năng  Tỷ lệ ( %) sinh Tốc độ đạt yêu cầu 196 83,1 Chữ viết rõ ràng, viết đúng cỡ chữ, kiểu  chữ 173 73,3 Trình bày đúng quy định, viết sạch, đẹp 201 85,2 Viết đúng chính tả 191 80,9 Bảng thống kê cho thấy số  học sinh viết đảm bảo tốc độ  196 em, tỉ  lệ  83,1%, chưa đảm bảo tốc độ vẫn còn 40 em tỉ lệ 16,9%. Số học sinh chữ viết rõ   ràng, viết đúng cỡ  chữ, kiểu chữ  173 em, tỉ  lệ  73,3%, số  em chữ  viết chưa rõ  ràng, chưa viết đúng cỡ chữ, kiểu chữ 63 em, tỉ lệ 26,7%. Số em trình bày đúng  quy định, viết sạch, đẹp 201 em, tỉ  lệ  85,2%, số  em trình bày chưa đúng quy  định, bài viết còn bẩn 35 em, tỉ lệ 14,8%. Số em viết đúng chính tả 191 em, tỉ lệ  80,9%, số em viết còn sai từ, chưa đúng chính tả 45 em, tỉ lệ 19,1%. Nhìn chung,  chất lượng phong trào “Giữ  vở  sạch, viết chữ  đẹp’ chưa tốt so với các trường  bạn. Từ  việc tìm hiểu tình hình của đơn vị  và thực tế  chỉ  đạo chúng tôi rút ra  được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình chỉ  đạo và quản lý phong trào   “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” ở đơn vị như sau:   Thuận lợi: 4
  5. ­ Đa số giáo viên đã nhận thức tốt về vai trò và tầm quan trọng trong việc   rèn chữ viết cho học sinh  tiểu học;  nhiệt tình, có tinh thần đoàn kết thống nhất  cao, có giáo viên chuyên trách, nghiệp vụ sư phạm vững vàng.  ­ Những năm gần đây các bậc phụ  huynh đã quan tâm, đầu tư  nhiều cho   con em mình về học tập. ­ Nhiều học sinh có ý thức rèn chữ viết, giữ gìn sách vở sạch đẹp.    Khó khăn: ­ Điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động dạy và học còn  thiếu   thốn. ­ Đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, một bộ  phận không nhỏ  phụ  huynh chưa quan tâm đến việc rèn chữ viết cho con em. 2.1.2 Thành công – hạn chế ­ Những thành công của đơn vị chúng tôi trong những năm qua trong phong   trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” đó là: + Kế  hoạch nhà trường đề  ra đầu năm học đều được thực thi hiệu quả.   Phụ  huynh học sinh rất tích cực cùng với nhà trường tham gia các cuộc thi về  “Nét chữ, nết người” do các cấp tổ chức, số lượng phụ huynh cùng tham gia với  nhà trường ngày càng tăng. Cha mẹ học sinh sẵn sàng hỗ trợ vật chất, tinh thần   giúp học sinh tham gia thi tốt. + Có nhiều HS đạt giải cao trong các hội thi “Nét chữ, nết người” cấp tỉnh   và cấp Quốc gia. Số lượng HS đạt giải được tăng dần qua hằng năm. + Việc huy động xây dựng cơ  sở  vật chất phục vụ  dạy học đã được các   tổ chức, cá nhân và phụ huynh trên địa bàn đồng tình. ­ Bên cạnh những thành công, còn một số hạn chế:  + Một bộ  phận giáo viên, phụ  huynh và học sinh chưa nhận thức đúng tầm   quan trọng của việc rèn chữ viết trong giai đoạn hiện nay, chưa tích cực hưởng   ứng phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” của lớp, của trường.  + Trong quá trình dạy phân môn Tập viết, một số GV chưa chú ý đến các giải   pháp kĩ thuật phù hợp để hướng dẫn cho học sinh viết. + Cơ  sở  vật chất phục vụ  dạy học tuy có tăng trưởng nhưng vẫn chưa đáp  ứng được đầy đủ nhu cầu dạy và học, trong đó có dạy phân môn Tập viết. 5
  6. + Còn nhiều học sinh chữ viết chưa đẹp, chưa chú ý rèn chữ viết, giữ gìn vở  sạch, đẹp. + Công tác quản lí, chỉ  đạo phong trào “Giữ  vở  sạch – Viết chữ  đẹp” của  Lãnh đạo nhà trường đôi lúc chưa quyết liệt. + Các giải thưởng phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” đôi lúc chưa khích  lệ, lôi cuốn được giáo viên, phụ huynh và học sinh tham gia. 2.2.   BIỆN   PHÁP   CHỈ   ĐẠO   NÂNG   CAO   CHẤT   LƯỢNG   PHONG   TRÀO   “GIỮ   VỞ  SẠCH, VIẾT CHỮ ĐẸP” TRONG NHÀ TRƯỜNG Trường chúng tôi là một trong hai trường tiểu học trong xã,  số lượng học  sinh không nhiều so với các trường tiểu học trong cụm. Những năm gần đây  trường đã được cấp Uỷ đảng, chính quyền địa phương, ngành Giáo dục và Đào   tạo huyện đánh giá rất cao về  chất lượng giáo dục toàn diện cũng như  chất  lượng mũi nhọn HSG­HSNK trong các Hội thi cấp huyện, cấp tỉnh. Có được  những thành quả  như  vậy là nhờ  sự  đoàn kết, thống nhất, toàn tâm, toàn ý của   đội ngũ. Là sự tâm huyết, cố gắng lớn từ lãnh đạo đến giáo viên trong việc xây   dựng kế hoạch, quản lý, chỉ  đạo, điều hành, kiểm tra giám sát, xử  lý công việc  trong mọi tình huống. Qua thực tiễn chúng tôi rút được những kinh nghiệm trong  việc quản lý, chỉ đạo phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” ở  trường tôi công  tác như sau: 2.2.1.  Biện   pháp   1:   Nâng  cao   nhận   thức  cho   giáo  viên,   học  sinh   và  phụ  huynh trong việc rèn chữ viết Nhà trường đã tổ chức quán triệt và nâng cao nhận thức cho giáo viên, học  sinh và cha mẹ các em về vai trò của chữ viết, vị trí, tầm quan trọng của việc rèn  chữ  viết đối với việc hình thành nhân cách, tính kiên trì, tính kỉ  luật , chịu khó   của các em trong quá trình học tập. Chữ viết đẹp sẽ  tạo hứng thú cho học sinh   trong việc học các môn học khác. Đầu năm học, chúng tôi tổ  chức họp phụ huynh phổ  biến kế hoạch hoạt   động của nhà trường trong năm học mới, đồng thời kết hợp tuyên truyền trong  phụ huynh về việc cần phải quan tâm rèn chữ viết cho học sinh của phụ huynh,  xoá bỏ  quan điểm không cần rèn chữ  viết khi nền khoa học và công nghệ  ngày  6
  7. càng hiện đại. Yêu cầu phụ  huynh mua sắm đủ  các loại học cụ  có chất lượng   cho học sinh trong quá trình học tập như: bút, vở, mực, thước kẻ ... Hướng dẫn   phụ  huynh dựa vào mẫu chữ   ở  vở  tập viết để  kiểm tra và thường xuyên quan   tâm sửa chữa các sai sót cho con em mình. Chúng tôi đã quán triệt trong giáo viên tầm quan trọng của phân môn Tập  viết, Chính tả, Tập làm văn trong môn Tiếng Việt  ở  trường tiểu học, để  từ  đó  giáo viên có ý thức trách nhiệm và sự  quan tâm đúng mực khi dạy học các giờ  này. Chúng tôi cho mỗi giáo viên tự nêu được tầm quan trọng của việc rèn luyện   chữ  viết cho học sinh đối với chất lượng các môn học khác, từ  đó hàng ngày   giáo viên thường xuyên có ý thức quan tâm  rèn chữ viết cho các em. Thông qua giáo viên chủ nhiệm lớp, hoạt động Đội, Sao nhi đồng… tuyên  truyền trong học sinh tác dụng của việc rèn chữ  viết đẹp đối với các môn học   khác và việc hình thành nhân cách của các em sau này. Phát động phong trào học   tập gương rèn chữ viết của các học sinh tiêu biểu trong trường. 2.2.2. Biện pháp 2: Chỉ đạo dạy học tốt nội dung phần Tập viết  Với mục đích, nhiệm vụ quan trọng như vậy nên việc tổ chức dạy học tốt   nội dung phần Tập viết được đặt lên hàng đầu đối với mỗi giáo viên. Trước hết   để  giúp giáo viên tổ  chức dạy học tốt Tập viết, chúng tôi đã triển khai chuyên   đề  “Đổi mới Phương pháp dạy học Tập viết”. Qua chuyên đề  đã củng cố  cho  giáo viên về  các biện pháp dạy học chủ  yếu trong giờ Tập viết. Đó là phải có   các biện pháp kĩ thuật phù hợp để hướng dẫn cho học sinh viết chữ cái, chữ, câu  đoạn, bài; cách viết liền mạch, cách đặt dấu thanh; Chấm chữa bài tập viết cho   các em một cách cụ  thể, giúp các em tự  rút ra được  ưu, nhược của mình để  tự  khắc phục. Ngoài ra, chúng tôi đã đồng thời thực hiện nhiều biện pháp tích cực tác  động hỗ  trợ  cho giáo viên như  xây dựng môi trường học tập giáo dục phù hợp  với từng khối lớp đặc biệt là lớp 1, 2, 3; tăng cường thiết bị  dạy học; tạo điều   kiện cho đội ngũ của mình học tập chuyên môn nghiệp vụ; tăng cường kiểm tra  đánh giá chất lượng dạy học và giáo dục ... của đội ngũ. 2.2.3. Biện pháp 3: Tiến hành tốt công tác chỉ đạo của ban giám hiệu 7
  8. Để  nâng cao chất lượng chữ  viết cho học sinh, ngay từ   đầu năm học  chúng tôi đã tổ  chức phát động phòng trào rèn chữ  viết đẹp trong toàn trường.  Thành lập ban chỉ đạo. Xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể, rõ ràng. Phân công  trách nhiệm cho các thành viên trong ban chỉ đạo. Đề ra yêu cầu cụ thể trong các   đợt kiểm tra. Ngoài ra, yêu cầu mỗi học sinh lớp Một phải có một bảng mẫu   chữ  thường; học sinh lớp Hai, Ba, Bốn, Năm có một bảng mẫu chữ  thường và  chữ hoa lồng trong giấy bóng để tập tô theo mẫu chữ. Nhờ  đó mà chữ  viết của  các em mềm mại hơn, đẹp hơn. Tổ chức kiểm tra theo định kì bốn đợt, trong đó đợt 1 và đợt 3 c ăn cứ Công  văn số 539/QDD­GD&ĐT ngày 14/9/2012 của Phòng GD&ĐT Lệ  Thủy về  ban  hành Quy định đánh giá, xếp loại phong trào “Giữ  vở  sạch, viết chữ  đẹp” cấp   Tiểu học, giáo viên chủ nhiệm lớp tự kiểm tra và đánh giá, báo cáo kết quả cho  nhà trường. Ban chỉ đạo chỉ  kiểm tra xác suất một số  lớp để  nắm tình hình, có   sự bổ sung, điều chỉnh kế hoạch. Đợt 2 và 4 chúng tôi yêu cầu ban kiểm tra phải   kiểm tra, cân nhắc chặt chẽ  để  xếp theo thứ  tự  các lớp, không có sự  đồng thứ  giữa các lớp, chú ý đến sự tiến bộ về chữ viết của học sinh trong lớp. Phải tìm   ra được những  ưu điểm và tồn tại, nguyên nhân dẫn đến tồn tại, chỉ  ra biện  pháp khắc phục cụ  thể  cho từng lớp qua mỗi đợt kiểm tra. Tổ  chức cho giáo  viên nghiên cứu từ  thực tế  để  chọn màu mực phù hợp, chọn bút, vở  có chất   lượng và được thống nhất trong toàn trường bằng quy chế chuyên môn. 2.2.4. Biện pháp 4: Tổ chức bồi dưỡng biện pháp kĩ thuật cho giáo viên và   học sinh để nâng cao chất lượng chữ viết * Đối với đội ngũ giáo viên: Chúng tôi yêu cầu mỗi giáo viên phải   tích cực, nhiệt tình, kiên trì, chịu  khó, có phương pháp khoa học và kinh nghiệm đã được đúc kết trong quá trình  rèn học sinh. Muốn dạy cho học sinh kĩ năng viết chữ  đúng yêu cầu, luyện cho   học sinh viết chữ  ngày càng đẹp; ngoài việc nắm vững nội dung phương pháp  dạy học, giáo viên còn cần có năng lực thẩm mĩ để cảm nhận được vẻ đẹp của  chữ  viết, có khả  năng viết chữ  đẹp để  học sinh noi theo. Vì thế, trong   năm   học, chúng   tôi   tổ   chức   các   tiết   thao   giảng,   mở   các   chuyên   đề,   hội   thảo   về  8
  9. phương pháp dạy và học phân môn Tập viết, Chính tả để giáo viên có điều kiện  trao đổi tìm ra những biện pháp tối ưu nhất giúp đỡ học sinh viết đúng, viết đẹp. Để làm gương cho học sinh, ngoài việc yêu cầu giáo viên phải viết đúng,  viết đẹp bất kì mọi lúc, mọi nơi;  chúng tôi đã chỉ đạo thống nhất cách trình bày  bảng của giáo viên ở từng phân môn và thể loại bài dạy. Cách trình bày ở bảng  của giáo viên cũng là cách trình bày  ở  vở  của học sinh. Đây là vấn đề  có tính  quyết định, là nền tảng vững chắc cho việc thực hiện phong trào vở  sạch chữ  đẹp của nhà trường. Việc ghi và trình bày bảng lớp luôn đòi hỏi những yêu cầu  về tính khoa học (nội dung chính xác), tính sư  phạm (có tác dụng giảng dạy và  giáo dục) và tính thẩm mĩ (viết chữ và trình bày đẹp). Muốn thực hiện tốt những  yêu cầu trên, chúng tôi khuyến khích giáo viên cần thường xuyên có ý thức luyện   tập, rút kinh nghiệm trong viết chữ và trình bày bảng sao cho đạt hiệu quả  cao   nhất. Mục đích quan trọng của việc dạy viết là học sinh viết đúng mẫu chữ quy  định, có kĩ năng viết nhanh, viết đẹp và biết trình bày một bài viết sạch sẽ. Do   vậy, trong quá trình tổ  chức bồi dưỡng giáo viên chúng tôi đã chú trọng bồi  dưỡng cho giáo viên nắm chắc các yêu cầu sau: ­ Tên gọi các nét cơ  bản trong khi hướng dẫn học sinh: nét thẳng (thẳng  đứng, thẳng ngang, thẳng xiên); nét cong (cong kín, cong hở, cong phải, cong   trái); nét móc (móc xuôi trái, móc ngược phải, móc hai đầu); nét khuyết (khuyết   xuôi, khuyết ngược) và nét hất. Biện pháp thực hiện chủ yếu là luyện viết từ dễ đến khó theo từng nhóm  chữ. Người giáo viên phải nắm chắc các nhóm chữ viết để rèn luyện dứt điểm,    đúng trọng tâm. Cụ thể như sau: * Đối với chữ viết chữ thường có thể chia thành các nhóm sau: + Nhóm có nét móc: n, m, i, u, ư, v, r, t. + Nhóm có nét khuyết: l, b, h, k, g, y. + Nhóm có nét cong và có dấu mũ: a, ă, â, o, ô, ơ, e, ê ... + Nhóm các chữ ghép: nh, kh, ch, ngh, ng, ph. 9
  10. *  Các nhóm chữ  viết hoa cũng tương tự theo cấu tạo nét giống nhau với   mức độ từ dễ đến khó, giáo viên phải lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp. Ví dụ: + Khi dạy nhóm chữ:  A, Ă, Â, N, M. Nhóm chữ viết hoa này chủ yếu tạo bởi nét cong và sự phối hợp hay biến   điệu của những nét cong. Vì vậy khi dạy cần luyện kĩ cách điều khiển đầu bút  để tạo nét cong cho đúng mẫu... * Đối với chữ số: Việc luyện viết chữ số có phần thuận lợi hơn chữ viết   vì cấu tạo của các số chỉ gồm các nét thẳng và nét cong là chủ yếu. Giáo viên có   thể  tiến hành lần lượt các chữ  số  kiểu 1, kiểu 2 theo mẫu, hoặc luyện viết  trước các chữ số ở nhóm có nhiều nét thẳng, sau đó đến nét cong. Đặc biệt cần tập trung kiểm soát và tăng cường việc bồi dưỡng cho giáo  viên cách chấm chữa bài trong vở Tập viết và Chính tả. Việc chấm chữa bài cho  học sinh trong vở Tập viết, Chính tả thường phải căn cứ vào mục đích, yêu cầu   đặt ra cho từng bài học theo quy trình, chương trình của từng khối lớp, giáo viên   bắt kỹ lỗi các nét cơ bản ở bài tập viết. Ở bài chính tả, ngoài việc bắt lỗi như  trên, giáo viên phải kiểm tra chặt chẽ hơn quy trình nối nét, cách đánh dấu thanh,   các dấu phụ, cách trình bày của học sinh. Qua việc chấm bài, giáo viên giúp học sinh tự  nhận thức được những ưu   điểm để  phát huy, thấy rõ những thiếu sót để  khắc phục, sửa chữa; kịp thời   động viên những cố gắng nỗ lực của từng học sinh khi viết chữ. Bên cạnh việc   chấm (bắt lỗi quy trình, nối nét, cách đánh dấu thanh, dấu phụ) giáo viên cần  chú ý kết hợp chữa lỗi và đồng thời ghi lời nhận xét (ngắn gọn) để thể hiện sự  biểu dương hay góp ý, yêu cầu về  chữ  viết đối với học sinh. Đây là một trong  những yêu cầu nghiêm ngặt của nhà trường buộc giáo viên phải thực hiện. * Đối với học sinh: Chúng tôi yêu cầu giáo viên thường xuyên làm tốt công tác giáo dục đạo   đức, nâng cao ý thức rèn chữ  viết cho học sinh, thông qua công tác chủ  nhiệm  lớp, các hoạt động của Đội và Sao nhi đồng… Bồi dưỡng cho các em tính kiên   10
  11. trì, chịu khó trong học tập cũng như việc luyện chữ viết. Thường xuyên chăm lo   rèn luyện cho các em nền nếp viết chữ rõ ràng và sạch đẹp. Chúng tôi hướng dẫn giáo viên cần thường xuyên quan tâm hướng dẫn,  nhắc nhở các em một số mặt chủ yếu dưới đây: ­ Chuẩn bị  và sử  dụng hợp lí các đồ  dùng học tập như: bảng con, phấn   trắng, khăn lau, vở Tập viết, bút chì, bút mực, …. ­ Thực hiện đúng quy định khi viết chữ từ tư thế ngồi viết, cách cầm bút,  cách để vở, xê dịch vở khi viết, … cho đến cách trình bày bài. Trên cơ  sở  hướng dẫn của giáo viên, các em thường xuyên rèn luyện tư  thế của mình khi viết. Ngồi viết phải ngay ngắn, lưng thẳng, không tì ngực vào  mép bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách mặt vở 25 ­ 30 cm. Cánh tay trái đặt trên mặt  bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay  phải cùng ở trên mặt bàn... Khi viết, các em phải cầm bút và điều khiển bút viết  bằng ba ngón tay (Ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay phải. Đầu ngón tay  trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón tay cái giữ  bên trái. Phía bên phải của đầu bút tựa   vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. Khi viết đặt vở nghiêng so với mép bàn một góc   khoảng 30 0 nghiêng về bên phải. 2.2.5. Biệp pháp 5: Tăng cường điều kiện cơ sở vật chất phục vụ cho việc   rèn chữ viết của học sinh và giáo viên Rèn kĩ năng viết cho học sinh là một quá trình lâu dài, phức tạp và đòi hỏi   sự  nỗ  lực cố  gắng của cả  giáo viên và học sinh. Đặc biệt là kĩ năng viết chữ  đẹp. Đây là một kĩ năng không phải tự nhiên mà có, đòi hỏi sự chăm lo rèn luyện  thường xuyên cho các em, phải dạy cho các em một cách có định hướng và có kế  hoạch. Ngoài những biện pháp nói trên, học sinh còn cần có những điều kiện thuận lợi  khác hỗ trợ. Đó là: Đối với nhà trường: Phòng học có đủ ánh sáng cho mọi học sinh ngồi học  theo quy định của vệ sinh học đường. Để đảm bảo đủ ánh sáng trong mùa đông,  chúng tôi đã bắt 8 bóng đèn/phòng học. 11
  12. Bàn ghế  đúng quy cách, vừa tầm với học sinh, mỗi bàn chỉ  có hai chỗ  ngồi. Bảng lớp đạt tiêu chuẩn chống loá, treo ở độ cao vừa phải, cạnh dưới của   bảng ngang tầm đầu của học sinh ngồi trong lớp. Trang bị cho mỗi lớp một tủ đựng sách vở, học cụ dùng chung. Đối với giáo viên: Có bảng mẫu chữ viết theo quy định của Bộ Giáo dục  và Đào tạo, có bộ chữ mẫu để giáo viên minh hoạ. Đối với học sinh: Đồ  dùng học tập phải đầy đủ  như  giấy, vở, bút, bảng  con, phấn, thước... đạt tiêu chuẩn quy định. Thống nhất sử  dụng một loại mực   (mực xanh); một loại bút viết (bút viết nét hoa), một loại vở  có chất lượng cao,  không bị  nhoè khi viết. Mỗi học sinh có một bảng chữ  mẫu để  tô được lồng  trong giấy bóng theo quy định cụ thể cho từng khối lớp.  2.2.6. Biệp pháp: Tiến hành tốt phong trào thi đua và tổ chức Hội thi viết  chữ đẹp cấp trường Kinh nghiệm cho thấy, nếu chỉ  dạy chữ  qua các giờ  học chính khoá thì   mới chỉ  dừng lại  ở mức độ  rèn học sinh viết đúng. Muốn học sinh có chữ  viết  đẹp, giáo viên cần phải sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp để tổ  chức cho học   sinh tự rèn luyện chữ viết của mình. Đồng thời phải xây dựng được phong trào   thi  đua Viết chữ   đẹp trong toàn trường. Chính vì thế  nên  đầu năm học nhà  trường phối kết hợp với Liên đội tổ chức phát động phong trào thi đua " Giữ vở  sạch ­ Viết chữ đẹp" trong toàn trường. Phong trào được duy trì trong suốt năm  học. Tổ chức kiểm tra theo các đợt kiểm tra định kì và đột xuất. Hàng tuần, hàng   tháng thông qua các buổi chào cờ, sinh hoạt tập thể, hội họp…   có những nhận  xét đánh giá cụ thể về phong trào luyện viết chữ trong giáo viên, học sinh. Chọn  những học sinh có chữ  viết đẹp để  nhà trường nhân bản gửi về  các lớp để  các   em có điều kiện tham khảo, học tập chữ viết của bạn. Bên cạnh đó, các bài chữ  viết đẹp còn dùng để  trưng bày trong giang trưng bày sản phẩm của Ngày hội  học sinh tiểu học được tổ chức hằng năm. Nhà trường tổ  chức Phần thi “Nét chữ  ­ Nết người” trong Ngày hội học  sinh tiểu học, qua đó đánh giá phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp của các   12
  13. lớp và tuyển chọn những bài đạt giải Nhất của các khối tham gia dự thi cấp tỉnh.  Hằng năm, trường đều có học sinh đạt giải cấp tỉnh và cấp Quốc gia. 2.2.7. Biện pháp 7: Tăng cường công tác quản lí chỉ  đạo trong phong trào  “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”  Chúng tôi chỉ  đạo giáo viên chủ  nhiệm thực hiện nghiêm túc công tác  chấm chữa theo TT 22/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là các phân  môn Tập viết, Chính tả và Tập làm văn. Sau đó ghi kết quả của từng học sinh ở  mỗi tuần vào sổ  theo dõi chấm chữa và có công bố  rõ ràng cho học sinh để  các   em kịp thời sửa chữa, khắc phục sai sót đồng thời động viên, khích lệ  tính thi  đua của học sinh. Ban giám hiệu nhà trường kiểm tra thường xuyên bằng nhiều   hình thức: nghe báo cáo, kiểm tra đột xuất bài viết; kiểm tra chữ viết thông qua  kiểm tra vở  Tập viết, Chính tả, Luyện viết chữ  đẹp của giáo viên và học sinh   để  nắm bắt chính xác những thông tin, kịp thời tuyên dương những em có chữ  viết đẹp, có sự tiến bộ trong các giờ chào cờ đầu tuần để  động viên phong trào.  Tổ chức đánh giá phong trào "Vở sạch chữ đẹp" theo từng đợt, từng học kì và cả  năm học một cách nghiêm túc, chặt chẽ. Trong  đó tiêu chí đánh giá về  chất   lượng chữ  viết được đặt lên hàng đầu. Kết thúc mỗi năm học, giáo viên, tổ  chuyên môn và nhà trường tổ chức rút kinh nghiệm, chọn những bài tập viết đẹp  lưu giữ lại phòng truyền thống của nhà trường để làm tư  liệu nhân rộng phong  trào cho những năm tiếp theo. 2.3. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC  Áp dụng một số kinh nghiệm này trường chúng tôi đã đạt được nhiều kết  quả đáng khích lệ trong năm học 2018 – 2019, đó là:  Về  nhận thức: Cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh và phụ  huynh đã  thấy rõ vai trò quan trọng của việc rèn chữ  viết và tích cực hưởng  ứng phòng   trào “Giữ  vở  sạch, viết chữ  đẹp” của trường. Việc phối hợp giữa các tổ  chức  trong và ngoài nhà trường nhằm hướng tới hội thi “Nét chữ, nết người” của các   cấp ngày càng chặt chẽ có hiệu quả.  Về kết quả: 13
  14. Bảng 4.   Kết quả  chất lượng chữ  viết cuối năm của học sinh lớp  2,3,4,5 (kĩ năng chính tả) Số lượng học   Kĩ năng  Tỷ lệ ( %) sinh Tốc độ đạt yêu cầu 227 96,2 Chữ viết rõ ràng, viết đúng cỡ chữ, kiểu  210 89,0 chữ Trình bày đúng quy định, viết sạch, đẹp  226 95,8 Viết đúng chính tả 223 94,5 Bảng thống kê cho thấy: Số học sinh viết đảm bảo tốc độ 227 em (tăng 31  em), tỉ  lệ  96,2% (tăng 13,1%), tuy nhiên số  học sinh viết chưa đảm bảo tốc độ  vẫn còn 9 em (giảm 31 em) tỉ lệ 3,8% (giảm 13,19%). Số học sinh chữ viết rõ  ràng, viết đúng cỡ chữ, kiểu chữ 210 em (tăng 37 em), tỉ lệ 89,0% (tăng 15,7%),  số  em chữ  viết chưa rõ ràng, chưa viết đúng cỡ  chữ, kiểu chữ  26 em (giảm 37  em), tỉ lệ 11% (giảm 15,7%). Số em trình bày đúng quy định, viết sạch, đẹp 226   em (tăng 25 em), tỉ  lệ 95,8% (tăng 10,6%), số  em trình bày chưa đúng quy định,  bài viết còn bẩn 10 em, tỉ lệ 4,2% (giảm 10,6%). Số em viết đúng chính tả  223  em (tăng 32 em), tỉ lệ 94,5% (tăng 13,6%), số em viết còn sai từ, chưa đúng chính  tả  13 em (giảm 32 em), tỉ  lệ  5,5% (giảm 13,6%). Kết quả  thống kê phản ánh  chất lượng chữ viết của học sinh bước đầu có tiến bộ  so với kết quả  khảo sát   đầu năm, điều này cho thấy các biện pháp chúng tôi áp dụng bước đầu có hiệu  quả. ­ Kết quả kiểm tra, đánh giá phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp” cuối  năm học 2018 – 2019 của Ban kiểm tra nhà trường: Có 12/12 lớp đạt chuẩn   phong trào “Giữ vở sạch, viết chữ đẹp”, tỉ lệ 100%. ­ Có 99 học sinh và 12 tập thể  lớp đat gi ̣ ải trong Ngày hội viết chữ  đẹp   cấp trường  ­ Có 02 giải nhất, 01 giải Nhì, 02 giải Ba và 01 giải Khuyến khích Hội thi   “Nét chữ, nết người” cấp tỉnh ­ Có 01 giải Khuyến khích cuộc thi “Nét chữ, nết người” cấp Quốc gia 14
  15. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của sáng kiến Trường Tiểu học là cái nôi đầu tiên giáo dục trẻ  em khi các em bước vào   tuổi đi học. Chính vì lẽ đó, chúng ta cần phải coi trọng việc rèn luyện cho học  sinh các kỹ  năng nghe, nói, đọc, viết, đặc biệt là việc rèn chữ  viết. Bởi vì, nét  chữ là nết người, một khi đã trở thành thói quen viết không đúng thì sau này lớn   lên khó sửa chữa được. Sáng kiến này nhằm mục đích nói trên. Qua triển khai sáng kiến ở cơ sở bước đầu đã thu được những kết quả sau: ­ Đã đưa ra được một số  biện pháp chỉ  đạo phong trào “Giữ  vở  sạch, viết  chữ  đẹp” nhằm nâng cao chất lượng dạy học cho giáo viên và học sinh, góp  phần   nâng   cao   chất   lượng   dạy   học   môn   Tiếng   Việt   và   đổi   mới   nội   dung,  phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ  động, linh hoạt và sáng  tạo của học sinh. ­ Việc áp dụng các biện pháp nêu trên cho thấy bước đầu các biện pháp này   đã đem lại hiệu quả và có tính khả thi. Song bên cạnh đó, sáng kiến này còn một số hạn chế nhất định : Các biện pháp trên mới chỉ áp dụng tại đơn vị mà tôi đang công tác. Những  kết quả đạt được chỉ  là những kết quả bước đầu. Chúng tôi sẽ  tiếp tục nghiên  cứu, điều chỉnh, bổ sung các giải pháp phù hợp nhằm góp phần đưa chất lượng  phong trào “Giữ vở sạch – Viết chữ đẹp” của nhà trường ngày một nâng cao. 3.2. Đề xuất Nên chăng cần tổ  chức các chuyên đề  sinh hoạt chuyên môn về  rèn chữ  viết để trao đổi, rút kinh nghiệm (trong tổ, trong trường hoặc liên trường) Những kết quả đạt được của sáng kiến mới chỉ là bước đầu. Chúng tôi sẽ  tiếp tục nghiên cứu để  khắc phục những hạn chế  và mở  rộng phạm vi  ứng  dụng của sáng kiến. Rất mong được sự trao đổi, góp ý của chuyên môn các cấp,   đồng nghiệp và bạn bè để giúp tôi hoàn thiện sáng kiến này. Xin chân thành cảm ơn ! 15
  16. 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2