Sắp Đặt, Trình Diễn Và NghThuật Thân
Th
Nghệ thuật Sắp đặt (Installation Arts),
Nghệ thuật Trình din (Performance Arts)
và Nghthuật Thân thể (Body Arts) là ba
khuynh hướng sáng tác và thhin mới của
ngôn ngmỹ thuật, ca nghệ thuật thị giác.
Nó được coi là một hình thái, khuynh
hướng nghệ thuật hậu hin đại.
Trong thực tế thì loại hình nghệ thuật được
gọi là Nghệ thuật Trình din không hoàn
toàn ging với loại nghệ thuật vn đang
giảng dạy trong các Trường Nghthuật Sân
khấu và Điện ảnh. Về thuật ngữ thì các loi
hình thuộc nghệ thuật sân khấu điệnnh
cũng được gọi chung là “Performance
Arts”. Nhưng Nghệ thuật Trình diễn mà
chúng ta nói tiđây là thuộc lĩnh vực mỹ
thuật chứ không phải ca nghệ thuật sân
khấu…
Theo Lch sử Mỹ thuật thì động cơ nảy
sinh ra ngôn ngNghệ thuật Sắp đặt vốn
được khởi nguồn tý tưởng ca tác phẩm
Bánh Xe đạp” của họa sĩ Marcel Duchamp; kế đó là một số ý tưởng dùng
các phế liu để phối hợp trình y tác phm.
Nó cũng bắt đầu manh nha từ kỷ nguyên nghệ thuật bình dân (Pop - art -
era) vào cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, đôi khi nó có liên h
chút ít vi khái niệm Nghthuật Ngẫu nhiên (Happenings).
Khuynh hướng Nghthuật Sắp đặt này chính thức mở rộng từ 1970 tại Mỹ
và Châu Âu.
Ý nghĩa gần đây nhất nói về nghệ thuật này: Nghthuật Sắp đặt là loi tác
phm đặc biệt được sắp đặt tại mt vị trí không phi chỉ trên tường mà còn
cả trên sàn nhà trong gallery hay ngoài tri để tạo thành một môi trường
không gian tác phm chứ không phải trên mặt phng như các tác phẩm trước
kia.
Điểm đặc biệt là tên tác phẩm ca nó không cố định. Khi tháo dđể di
chuyển và i tạo lại trong một không gian khác thì tênc phmthể biến
MARCEL DUCHAMP. Bánh
xe đạp. 1913. Vật có sẵn.
64,8cm trên ghế cao 60,2cm
đổi. Bởi lkhi bố tli ln sau, vị tríc hiện vật, các bộ phận của tác phẩm
có thể được thay đổi. Nghệ thuật Sắp đặt không phải chỉ dành riêng cho
nghệ sĩ hội họa mà nó còn ngôn ngữ ca các nghệ sĩ điêu khắc nữa. Nói
chung tác giả của nó có thlà nhng nghệ sĩ tự do của các lĩnh vực khác.
Một số nghệ sĩ tiêu biểu của nghệ thuật này: Đức có Terry Allen, Joseph
Beuys. Ở Pháp có Christian Boltanski, Daniel Burren. Bỉ có Jonathan
Borofsky, Marcel Broodthaers. Canada có Chrias Burden, Bruce
Charlesworth, Terry Fox, Howard Fried. Ở Nga có Ilya Kabakov. Ở Ý có
Josept Kosuth, Sol LeWitt, Donald Lipski, Walter De Maria, Tom Mationi,
Michael McMillen, Mario Merz, Michelangelo Pistoletto, Maria Normand,
Nam June Pail, Judyu Pfaff. Ở Tây Ban Nha có Antonio Muntadas. Ở Nam
Tư cũ có Lynn
Hirshman, David
Ireland, Patrick
Ireland, Robert
Irwin…
Tác phm của
Nghệ thuật Sắp đặt
không phải là ngh
thuật hai chiều, ba
chiều mà là
tổng hợp tất cả các
phương tiện biểu
đạt từ hai chiều, ba
chiều và môi
trường không gian. Tác phm Nghthuật Sắp đặt bao gồm cả một không
gian như căn phòng hay môi trường không gian mngoài sân, trên snh
Tác phm là một tổ hợp các hình vẽ, tranh, tượng, đồ vật, hiện vật, phim
ảnh, âm nhạc, mùi hương được nghệ sĩ dàn dng theo ý tưởng nào đó. Và từ
đó nó có những đặc điểm quan trong sau đây: * Đặc diểm thứ nhất là với
loi tác phẩm này thì người thưởng thức phải “đi vào” bên trongc phẩm để
nhìn ngm, lắng nghe âm thanh, sờ chạm hiện vật, ngửi, cảm nhận cả mùi v
của không gian mà tác gidàn dng. Điu này chứng minh rằng nghệ thut
này là loại hình mang tính tổng hợp. Bởi lẽ, để cảm thụ thì cùng một lúc
phải dùng nhiu quan năng.
MARISOL. Bữa ăn tối cuối cùng (sắp đặt tại gallery
Sidney Janis). 1982. Gỗ, đá nâu, thạch cao, sơn và
than. 3,07x9,09x1,7m. Nguồn: Sách "Lịch sử nghệ
thuật phương Tây" ca Laurie Schneider Adams
* Đặc điểm thhai là trong ni dung của
các tác phm trước kia đều trình bày ý
tưởng đã định hình trên những hình thức
biểu hiện tng thường như màu sắc, hình
khối từ hai chiu đến ba chiều. Còn trong
Nghệ thuật Sắp đặt, ý tưởng mà nghệ sĩ
diễn tả là một chuỗi hiệu quả tổng hợp
tương tác của các hiện vật, hình nh, âm
thanh, ánh sáng, màu sắc, mùi vTừ đó,
nó hình thành trong tư duy người xem như
là một chuỗi được xâu kết trong quá trình
đi lại, quan sát, cảm thụ ngay trong lòng
tác phm, thậm chí ngay khi bước ra khi
tác phm thì người xem mới hình dung
được ý tưởng trọn vẹn của nó.
Nghĩa là tác phẩm Nghệ thuật Sắp đặt
trình bày “một quá trình hình thành ý
tưởng” chứ không định hình sẵn “một ý
tưởng tĩnhnhư trước kia. Đây là đặc
điểm quan trọng mà gii thưởng ngoạn
phải am hiểu.
* Đặc điểm thứ ba là tác phẩm nghthuật
này rất khó bán (có thể bán được ở nước
ngoài nhưng rất hiếm). Và động cơ sáng
tác cũng không phi để bán mà để trình
bày ý tưởng.
* Đặc điểm thứ tư là tác phẩm chỉ tồn tại
tại nơi trưng bày một thời gian ngn rồi
phải tháo dỡ ra nếu không có không gian
lắp đặt, trưng bày cố định.
Còn Nghthuật Trình din thì ra đời trong khoảng thi gian trong thập niên
1960 vi những tác phẩm của những nghệ sĩ vốn đã tạo ra tên giTình c”,
Ngẫu nhiên” (Happenings). Đó là các nghệ sĩ như: Vito Acconi, Hermann
Nitsch, Joseph Beuys và Allan Kaprow. Nó còn được coi là Nghệ thuật Sống
(live art) hay Nghthuật Hành động (action art).
Nghệ thuật Trình din được coi là nghệ thuật mà trong đó hoạt động của một
nhân hay một nhóm được diễn ra một vị trí đặc biệt và cũng trong một
thời gian đặc biệt để hình thành tác phm.
Bản thân nghệ thuật này bao gm bốn yếu tố cơ bản như sau: thời gian
(time), không gian (space), thân thể người din (performer’s body) và mối
NAM JUNE PAIK. Hamlet
Robot. 1996. Video Art. 2
radio, 24 tivi, 2 đầu đĩa laser v
à
đĩa, máy biến thế, vương miện,
vương trượng, kiếm và đầu
lâu. 3,66 x 2,24 x 0,81m.
Nguồn: Sách "Lịch sử ngh
thuật phương Tây" c
a Laurie
Schneider Adams
quan hệ tương tác giữa người diễn người thưởng ngoạn. Nó có vẻ như là
hình thức đối kháng lại vi hội họa và điêu khắc.
Mặc dù Nghthuật Trình diễn có thể được phối hợp bao gm một chui
những hoạt động như sân khấu, (theater), múa (dance), âm nhạc (music),
xiếc (circus) cùng liên kết vi nghệ thut phun lửa (fire breathing), tung
hứng (juggling) và thể dục nhào ln (gymnastics). Nhưng Nghệ thuật Trình
diễn mà chúng ta nói ti đây không hoàn toàn giống vi lĩnh vực ngh
thuật biểu din của Sân khấu Đin ảnh thông thường mà là nó do những
nghệ sĩ mỹ thuật thực hiện nhằm diễn đạt ý tưởng của nghệ thut tạo hình
chứ không phải ý tưởng văn học thuần tuý.
Điểm đặc biệt ở chỗ là bn thânc giả li chính là một bộ phận của tác
phm hay chính là tác phẩm. Nghĩa là, tác giả cũng chính là tác phẩm và tác
phm chính là tác giả.
Ngày xưa, trong mỹ thuật bao gm ba mi quan hệ chủ yếu thhin như
sau: tác giả, tác phm và người xem ở ba vế khác nhau.
Giờ đây mối quan hệ tay ba rút gọn còn tay đôi, quan hệ từ hai phía. Đó là
quan hgiữa mt bên là “tác gi- tác phẩmvà bên kia người xem. Nghĩa
là khái niệm vtác giả và tác phm đã chuyển sang quan hệ mới hơn không
còn là hai khái nim biệt lập.
Tuy nhiên từ trong bản thân cái gi là “tác gi- tác phẩm” cũng có mi quan
hệ riêng dạng khác trước. Đó là tác gi có thlà một người hay một nhóm
người cùng được coi là đồng tác giả hay do một người trong nhóm chỉ đạo
chung và họ dùng thân xác của chính mình để biểu diễn. Vìđược coi là
Nghệ thuật Hành động (action art) cho nên hễ hành động, diễn thì phải dùng
sức lực ca chính tác giả.
Do đó sẽ có tình huống là tác gi“bị mệt” và din không hoàn toàn giống
những ln diễn trước đó. Đặc biệt hơn nữa là ngay trong quá trình din đi
diễn lại thì mối quan hệ giữa tác gi- tác phm và những người xem sẽ
những sự tương tác vtâm lý, giao lưu tình cm, từ đó hình thành ngay
trong bn thân tác giả cái gọi là “m lý, tâm trng biểu diễn”.
Còn trong Ngh
thuật Trình din
ngày nay thì giữa
tác gi- tác phm
và người xem thực
sự có sự giao lưu,
tương tác với nhau
qua cái nhìn của
tác gi- tác phm
với trạng thái cảm
xúc ca người xem
diễn ra ngay trong
khi xem diễn. Tác
giả diễn bị mệt,
người xem biết.
Người xem vui,
hứng t hay uoải thì tác giả cũng biết. Thậm c người xem đẹp hay xấu
cũng tác động đến cảm xúc và trạng thái diễn ca tác giả - tác phm.
Từ những đặc điểm i trên ta thấy, đối vi Nghệ thuật Trình diễn thì khái
nim trin lãm (exhibition) ngày xưa đã được thay thế bằng tngữ, hay khái
nimdin” (display). Vì thi gian din của nghthuật này có gii hạn
(phi diễn li, sau khi nghĩ ngơi), cho nên được gi là thi hạn (duration).
Chính vì phải diễn đi diễn lại theo chu k giống chiếu phim trong Nghệ thuật
Video (Video Arts) hay Nghệ thuật Thân th(Body Art) cho nênc nhà
luận ngày nay gi các loại hình này thuộc dạng Nghệ thuật Phù du
(phemeral Arts).
Trên đây là vài nét về các đặc điểm quan trọng ca Nghệ thuật Sắp đặt và
Nghệ thuật Trình din. Chính từ các đặc điểm này, ngày nay việc quy hoạch
thiết kế hệ thống, không gian của Bảo tàng Mỹ thuật phải quan tâm, dự kiến
không gian trưngy cho các loại hình nghệ thuật này.
Ngoài ra, Nghệ thuật Thân th(Body art) là nghệ thuật rất gần với Nghệ
thuật Trình din (Performance art) hay nói các khác thì Nghệ thuật Thân thể
cũng là một dạng của Nghthuật Trình din, nhưng chu kỳ diễn rất ngắn hay
bản thân tác githực hin một thế dáng, động tác nào đó và giữ thế “yên
tĩnh” suốt thời gian trìnhy (tất nhiên cũng có c bản thân tác giả - tác
phm” phi nghỉ mệt).
Điểm giống cơ bản giữa hai nghệ thuật này là snhập chung hai vế “tác giả”
và “tác phm” thành một, gọi là “tác gi- tác phm” và cũng phải có các
thao tác “diễn”.
Nghệ thuật Thân thể cũng ra đời trong những thập niên 1960 - 1970, nhưng
Một tác phẩm Body art