intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Khơi gợi ý tưởng sáng tạo trong học vật lý

Chia sẻ: Trần Thị Ta | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:15

56
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài được thực hiện nhằm nêu lên một số gợi ý để giải quyết những vướng mắc mà tôi thường gặp phải trong việc dạy học. Nhằm gắn kết chặt chẽ kiến thức vật lí với thực tế đời sống. Hạn chế một số tồn tại trong việc dạy và học là: Việc dạy của giáo viên nặng về lý thuyết chưa chú ý đến việc hướng dẫn học sinh vận dụng vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày; việc vận dụng kiến thức vật lí vào đời sống còn rất mơ hồ và yếu kém;

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Khơi gợi ý tưởng sáng tạo trong học vật lý

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN MỎ CÀY NAM MÔ TẢ GIẢI PHÁP Tên sáng kiến: NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG KIẾN  THỨC VẬT LÝ VÀO ĐỜI SỐNG.   MàSỐ:
  2. CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc MÔ TẢ SÁNG KIẾN Mã số (do Thường trực HĐ ghi):............................................ 1. Tên sáng kiến: KHƠI GỢI Ý TƯỞNG SÁNG TẠO TRONG HỌC VẬT LÝ. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: chuyên môn. 3. Mô tả bản chất của sáng kiến: 3. 1. Tình trạng giải pháp đã biết: Giáo dục đang chuyển từ chương trình giáo dục “tiếp cận nội dung” sang “tiếp   cận năng lực” của người học; quan tâm học sinh học được cái gì đến chỗ học sinh   vận dụng cái gì qua việc học. Để  đảm bảo điều đó, nhất định phải chuyển đổi  thành công việc dạy học theo lối “truyền thụ một chiều”  sang dạy cách học, cách  vận dụng kiến thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành năng lực và phẩm chất; năng lực   vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề thực tiễn cuộc sống.      3.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến:  a) Mục đích của giải pháp:  Đề  tài được thực hiện nhằm nêu lên một số  gợi ý để  giải quyết những  vướng mắc mà tôi thường gặp phải trong việc dạy học. Qua đó, mục đích chính   của tôi khi thực hiện đề tài này là: ­ Nhằm thực hiện tinh thần chỉ  đạo của Luật Giáo dục số  6138/2005/QH11  điều 28 qui định “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự   giác, chủ  động, sáng tạo của học sinh phù hợp với đặc điểm từng lớp học, bồi   dưỡng phương pháp tự  học, khả  năng làm việc theo nhóm, rèn luyên kĩ năng vận   dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại sự hứng thú cho học   sinh”;  Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện  giáo dục: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ  phương pháp dạy và học theo hướng hiện  
  3. đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức kĩ năng của   người học; khắc phục lối truyền thụ một chiều, ghi nhớ máy móc; tập trung dạy   cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và   đổi mới tri thức, kĩ năng phát tiễn năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang   hình thức học đa dạng chú ý ngoại khóa, nghiên cứu khoa học”; ­ Nhằm  gắn kết chặt chẽ kiến thức vật lí với thực tế đời sống. Hạn chế một  số tồn tại trong việc dạy và học là: Việc dạy của giáo viên nặng về lý thuyết chưa  chú ý đến việc hướng dẫn học sinh vận dụng vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày;   việc vận dụng kiến thức vật lí vào đời sống còn rất mơ hồ và yếu kém;  ­ Nhằm khuyến khích học sinh nghiên cứu, sáng tạo khoa học, công nghệ, kĩ   thuật và vận dụng kiến thức đã học để  giải quyết một số  vấn đề  về  thực tiển   cuộc sống; ­ Nhằm tạo cơ  hội cho học sinh phát triển năng lực nghiên cứu khoa học kĩ   thuật, năng lực tự  học tự  rèn. Dưới sự  hướng dẫn của giáo viên, chính học sinh   khám phá thực tiễn, tiến hành thực hành thí nghiệm, thực hành quan sát để  rút ra   kiến thức. Những kiến thức và kĩ năng này là cơ sở trong việc tham gia nghiên cứu  khoa học­ kĩ thuật. Đây cũng chính là nguyên lí cơ  bản của phương pháp" bàn tay   nặn bột"; ­ Nhằm củng cố, bổ sung làm phong phú nguồn dụng cụ dạy học hiện có; ­  Nhằm giúp giáo viên không ngừng nâng cao nghiệp vụ của mình; ­ Mục đích cuối cùng giúp đổi mới phương pháp một cách toàn diện đưa giáo   dục ngày một đi lên.         b) Tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ:  ­ Phương pháp dạy học vật lí bị chi phối bởi cơ sở vật chất, thiết bị dụng cụ  thí nghiệm. Vì vậy nếu không có đồ  dùng dạy học thì giáo viên dù muốn đổi mới  phương pháp cũng khó thực hiện được. Nay với các thí nghiệm do giáo viên và học  
  4. sinh tư  làm, nên khó khăn về  cơ  sở  vật chất sẽ  được khắc phục phần nào, từ  đó  giáo viên có cơ sở xây dựng những phương án dạy học phù hợp từng đối tượng; ­ Thí nghiệm tự làm học sinh sẽ tự đánh giá năng lực chuyên môn của mình.  Ngoài ra khi cùng so sánh kết quả thực nghiệm chung cả lớp học sinh sẽ biết được   những ưu, khuyết điểm của nhóm và của bản thân; ­ Qua việc tự làm thí nghiệm, một số năng lực được bộc lộ, giáo viên có cơ  hội đánh giá năng lực thực sự  của học sinh (nếu những em trước đây thụ  động,  không có năng khiếu vật lí thì trong phương pháp tích cực này các em thể  hiện   được những năng lực ẩn dấu tiềm tàng, nhờ  đó mà ta có cái nhìn chính xác khách   quan hơn học sinh của mình). Thấy học sinh bộc lộ  rõ tình cảm hứng thú niềm  đam mê, sở  thích đối với môn học điều này cũng giúp giáo viên tự  đánh giá hiệu   quả giảng dạy của mình; ­ Kĩ năng của học sinh được bộc lộ  đây của là cơ  sở  quí báo để  từ  đó giúp   học sinh trong học tập, chọn nghề cho tương lai; Tóm lại: Làm được điều đó tức rèn được khả năng sáng tạo, khéo léo trong  việc vận dụng kiến thức, kĩ năng của nhiều môn học, cũng như kinh nghiệm của  học sinh để giải quyết vấn đề đặt ra, sự gắn giữa kiến thức nhà trường với thực  tiễn cuộc sống; Những phân tích trên đó là tính mới, tính khác biệt của giải pháp mới so với   giải pháp cũ. Trên cơ sở đó tôi xin trình bày bước thực hiện giải pháp mới như sau: c) Các bước thực hiện của giải pháp mới để giải quyết vấn đề:  * Cách thức thực hiện: ­ Hình thành nhu cầu phải có thí nghiệm tự làm xuất phát từ tình huống sau: + Sách giáo khoa: Hầu hết các bài học trong sách giáo khoa đều có các   bài thí nghiệm, song không phải bất cứ thí nghiệm nào cũng thực hiện được, chưa   kể  dụng cụ  đã xuống cấp không thực hiện hoặc thực hiện không thành công. Vì   vậy, nếu giáo viên thấy cần thì cho tiến hành thí nghiệm tự  làm, thì trong tuần 
  5. trước đó, vào giờ  ra chơi 5 phút, giáo viên nêu mục đích yêu cầu của thí nghiệm,   các nguyên liệu cần có, hướng dẫn học sinh gia công kèm theo mẫu vật để  học   sinh dễ hình dung; + Thực tế  cuộc sống: Giáo viên nêu một thực tế  trong cuộc sống đòi  hỏi cần phải giải quyết bằng các thí nghiệm vật lí; + Một trò chơi, một câu đố, một nghịch lí có liên quan đến vật lí. Nội  dung này thường trình bày dạng câu hỏi có vấn đề, một thí nghiệm vui mang tính  chất thách thức đánh đố. Thông thường vấn đề này bao gồm các thành phần: Tên của vấn đề: tôi nêu gọn, có yếu tố bất giờ, mâu thuẫn, nghịch  lí thậm chí huyền bí nhằm kích thích tò mò, sự  hứng thú, nhu cầu  cần giải quyết vấn đề của các em học sinh. Nội dung và yêu cầu của vấn đề. Yêu cầu số  lượng kích cỡ  của các dụng cụ  để  thực hiện vấn đề  trên (nếu yêu cầu này khá nghiêm ngặt thì nhằm phát huy sáng tạo  và tạo ra nhiều bất ngờ).   Ví dụ 1: Tên của vấn đề : “ Khoét một lõ trong lòng bàn tay” Yêu cầu: Em hãy khoét một lõ trong lòng bàn tay. Dĩ nhiên không  được gây thương tích cho bàn tay.  Dụng cụ : Một tờ giấy cuộn lại hình ống. Ví dụ 2: Tên cua vấn đề: “ Tay ai to hơn”  Yêu cầu: Tìm ra bàn tay của bạn nào có thể tích lớn nhất. Dụng cụ: Một bình chia độ, một chậu nước. Ví dụ  3: Vấn đề  chỉ  gói gọn trong một câu thơ, ca dao hoặc   thành ngữ “Vừa to vừa nặng hơn kim, thế mà tàu nổi kim chìm”. ­ Hướng dẫn tìm nguyên liệu: vật liệu đơn giản dể tìm, nhưng tuy thuộc vào  địa phương. Giáo viên cần nêu địa điểm để  học sinh liên hệ  (hạn chế  bỏ  tiền  mua);
  6. ­ Hướng dẫn học sinh gia công: nêu gia công ở lớp thì thực hiện thao tác đơn   giản như: cắt, dán, đo… Nếu thí nghiệm phức tạp mất nhiều thời gian thì yêu cầu  về nhà (hướng dẫn kĩ quá trình gia công và quy tắc an toàn). * Các bước thực hiện của giải pháp mới: Trong khuôn khổ  một bài kinh nghiệm, tôi xin trình bày một cách xây dựng   nhằm khai thác kiến thức vật lý mà tôi đã sử dụng trong quá trình soạn giảng như  sau:  Bước 1: Giáo viên chuẩn bị một tiết dạy chu đáo về giáo án, làm thí nghiệm  trước xem mức độ thành công bao nhiêu, cố gắng sửa chữa thiết bị hiện có làm lại  thí nghiệm nếu lần đầu chưa đem đến kết quả  khả  quan. Tránh đem dụng cụ  xuống tiến hành thí nghiệm không thành công rồi đổ lỗi cho dụng cụ, cho nhà sản   xuất... làm mất lòng tin của học sinh. Bước 2: Khi lên lớp tiến hành đủ  các bước lên lớp như  thường lệ  nhưng   giáo viên cần coi trọng thí nghiệm thực hành, thí nghiệm chỉ “đọc” trong sách, xem  trên màn hình thì không đủ; muốn nâng cao tư  duy kỹ  thuật ta  cố  gắng tìm mọi   cách để  học sinh được tiếp cận, được làm, được vận hành, được quan sát, được   nhận xét... để  có thể  nâng lên thành kỹ  năng, kỹ  xảo. Hiện nay với công nghệ  thông tin  đã xây dựng thí nghiệm “ảo”, phần mềm dạy học và tự  học, sách giáo  khoa điện tử và đưa vào đĩa CDR mô tả y như thật rất hấp dẫn. Ta thao tác nhiều   lần không sợ nguy hiểm, không tốn kém gì. Thao tác trên máy tính, xem băng hình   hay phim khoa học có liên quan cũng làm tăng năng lực nhận thức, tăng khả  năng   nghe ­ nhìn. Tất nhiên,  thí nghiệm "ảo" cũng chỉ  là để  tham khảo chứ  không thể  thay thực nghiệm được. Với thiết bị hiện đại trên thường đắc tiền, khó mua sắm,   dễ  hư  hỏng nếu bảo quản không tốt. Mà khổ  nổi không phải lúc nào cũng được  dạy ở phòng trình chiếu để đưa thí nghiệm ảo vào.  Bước 3: Dù được tiến hành thí nghiệm ngay tại lớp nhưng khao khát muốn  làm thí nghiệm thêm lần nữa, ước được thực hiện tại nhà, do quá đam mê và nói: “ 
  7. cô ơi em thích dụng cụ đó qua, cho em mượn về nhà và hứa không làm hư”. Trước  niềm đam mê đó làm tôi vô cùng vui mừng và xúc động. Do đó tôi hướng học sinh   khai thác thí nghiệm tự tạo, rẽ tiền, dễ tìm nhằm giải quyết tình trạng thiếu thiết  bị. Phần này tôi dành từ  5 phút cuối cùng với hướng dẫn về nhà. Thí nghiệm đơn   giản thì phát động cả  lớp, thí nghiệm công phu hơn thì giao theo địa bàn học sinh   nhà gần cùng nhau làm. Kết quả  là không ghi điểm vào sổ  điểm mà ghi nhận kết   quả  vào nhận kí riêng để  tôi khen, tuyên dương, khích lệ  khả  năng sáng tạo cho  "nhà vật lý nhỏ", nhằm tìm nhân tài khoa học kĩ thuật sáng tạo cho những năm sau. + Đặc tính của thí nghiệm này là: Đơn giản hình thức gọn nhẹ, dễ  lắp rắp giáo viên có thể  chế  tạo mọi lúc mọi nơi; Các nguyên liệu dễ tìm nên có thể triễn khai cùng lúc nhiều học  sinh tham gia; + Tác dụng nổi bậc của thí nghiệm này là: Rèn cho tính tự lực học hỏi, thích ứng với hoàn cảnh, khác   vọng cải tạo thiên nhiên; Giúp giải quyết vấn đề  nẩy sinh trong cuộc sống hàng  ngày như   ở nhà, ngoài đồng, du lịch...... phù hợp thực tế  bản thân,   gia đình và địa phương; Rèn ý thức tiết kiệm, bảo vệ môi trường. + Chia ra các loại thí nghiệm như sau: * Thí nghiệm chế  tạo ra các dụng cụ  đo: trong chương trình có yêu  cầu nhưng trong phòng không có hoặc bị hư, còn ít, không sửa được nhằm bổ sung   thiết bị phục vụ việc dạy. Để chế tạo dụng cụ đó học sinh thực hiện 2 bước: Tìm   kiếm nguyên liệu gia công; xác định giới hạn đo, độ  chia nhỏ  nhất của dụng cụ  (giáo viên dùng dụng cụ mẫu để hướng dẫn vạch các vạch chia trên thang đo). Ví  
  8. dụ như: chế tạo lực kế, cân, cân đòn, phù kế,  biến trở,  nhiệt kế khí....Tôi xin trình  bày cách chế tạo lực kế (hình 2.3).  ­ Mục đích: Trong chương trình vật lý 6 lực kế  là dụng cụ  đo   lực, đo trọng lượng của vật. Vì thế lực kế là dụng cụ cơ bản để nghiên cứu phần  cơ học. thí nghiệm này nhằm hướng học sinh tự tạo lực kế bằng dụng cụ dễ tìm. ­ Vật liệu: dây mayso (dây làm điện trở  của bếp lò xo), vỏ  ống  mực thường dùng để viết bảng. ­ Tiến hành:  +   Dùng   một   đoạn   lưỡi   cưa   sắt   vạch   một   đường   dài  khoãng  8cm,  rộng  0,5mm  từ   phía  đầu  trên  của   ống  bút   đến  cách   đầu  của   bút  khoảng 5cm; +   Cắt   dây   mayso   một   đoạn   khoãng  5cm. Đầu trên của dây gắn với nắp bút, đầu dưới gắn 1 sợi dây thép uốn hình chữ  U để treo vật cần đo. Gắn 1 mẫu thép nhỏ để dùng kim chỉ thị. Gắn 1 móc treo vào   nắp ống; + Luồn cả hệ thống vào trong ống viết, sao cho kim chỉ thị  có thể trượt trong khe. Dùng lực kế mẫu để khắc các độ chia trên thân viết. ­ Giới hạn dãn của lò xo: dây mayso có độ  đàn hồi không lớn.   Thực tế cho thấy một đoạn dây mayso dài 5cm có thể dãn thêm 2,5cm mà chưa bị  biến dạng dẽo. Với lực kế này có thể đo các lực đến 2N. ­ Ưu điểm của thí nghiệm này: Dây mayso là vật liệu dễ tìm với  sợi dây mayso thông thường có thể làm 6 lực kế như trên. Lực kế có thể áp dụng 1   số  nội dung học tập của chương trình vật lý hiện hành. Cấu tạo như  trên lực kế  chỉ dãn tối đa 3cm thì chặn lại vì vậy không sợ lò xo biến dạng quá mức làm hỏng  lực kế. Gia công đơn giản.
  9. * Thí nghiệm nghiên cứu hiện tượng vật lí: mục đích của thí nghiệm  này nhằm: Quan sát các hiện tượng vật lý; thu thập các thông tin từ  việc quan sát   đo đạc; phát hiện khảo sát các qui luật, định luật vật lý  ở  mức độ  đơn giản; mô   phỏng xây dựng các mô hình vật chất. Ví dụ  như: thí nghiệm mô hình máy ném  thủy lực; thí nghiệm chứng tỏ nhiệt độ không thay đổi trong quá trình đông đặc; thí  nghiệm âm không truyền được trong chân không.....Tôi xin trình bày cách chế  tạo   mô hình hóa máy nén thủy lực. ­ Mục đích: Trong chương trình vật lý 8 có giới thiệu máy nén   thủy lực dùng nước để nâng các vật nặng hoặc dùng để ép. Thí nghiệm này để mô   phỏng máy nén thủy lực trên. ­ Hình thức tổ  chức: Mặc dù đơn giản nhưng khó thực hiện và  mất nhiều thời gian nên được làm thí nghiệm nghiên cứu, củng cố tại nhà. ­ Vật liệu: hai  ống bơm tiêm có tiết diện khác nhau  ống nhựa   dùng để nối 2 đầu ống bom tiêm lại, nước màu. ­ Tiến hành bơm nước vào  ống bơm tiêm, đặt một vật có khối  lượng M lên pittong lớn, dùng tay ép pittong nhỏ để nâng vật lên  (h2.21)
  10. * Thí nghiệm tạo ra các thiết bị phục vụ cuộc sống: mục đích của thí  nghiệm này nhằm: giải thích các hiện tượng thiên nhiên thường gặp; có kiến thức  để biết sự  dụng các dụng cụ, máy móc thiết bị  thông thường trong cuộc sống gia   đình; giải quyết những tình huống nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày có liên quan   đến vật lí; chế tạo ra dụng cụ phục vụ sinh hoạt hằng ngày.  Ví dụ như: chế tạo ta   bình thông nhau (lí 8­ Hình 2.49) là dụng cụ kiểm tra mặt phẳng nằm ngang nhiều  ứng dựng trong xây dựng;  hệ thống báo động (vận dụng kiến thức học xong phần   điện lớp 7, kiểm tra vật dụng đồ dùng của mình còn hay mất), tính thể tích buồng  phổi (học xong bài đo thể tích lí 6­ hình 2.25 ); móc áo để so sánh khối lượng 2 vật.   Máy hút đinh, khoá nắp túi xách (ứng dụng của nam châm vĩnh cửu). Tự quấn ống   dây để  làm nam châm điện và phục vụ  cho các thí nghiệm về  từ  trường của  ống  dây có dòng điện chạy qua (lí 9)...Tôi xin trình bày cách chế tạo mô hình đo thể tích   chứa trong buồng phổi. ­ Mục đích: Lượng khí trao đổi trong một lần hít thở là 1 tiêu chí   để đánh giá sức khõe. Thí nghiệm này vận dụng bài đo thể tích trong chương trình  vật lý 6 để đo thể tích không khí tối đa mà buồng phổi chứa được. ­ Dụng cụ: một bình khoãng 5 lít, ống nhựa, chậu nước. ­ Tiến hành: hứng đầy nước vào bình nhựa; lật ngược bình nhựa  úp vào chậu nước; hít một hơi dài, sau đó thổi vào miệng bình nhựa cho đến khi   cạn hết không khí trong buồng phổi, lúc này không khí trong buồng phổi chính là  phần thể tích không khí nằm trên của bình nhựa.  hình 2.25
  11. * Thí nghiệm thư giãn: ngoài việc phục vụ học tập còn có thể đáp ứng  như cầu giải trí của cuộc sống ảo thuật, âm nhạc, nghệ thuật như: ứng dụng định  luật truyền thẳng của ánh sáng (lí 7) để  tạo các bóng trên tường; vận dụng độ  to  của âm để  chế  tạo nhạc cụ; vận dụng sự  chuyển hóa động năng và thế  năng để  chế tạo Yo­Yo (lí 8­ hình 2.63)....Tôi xin trình bày cách chế tạo mô hình  tạo bóng  trên tường. ­ Mục đích: Ứng dụng định luật truyền thẳng ánh sáng để tạo ra   bóng trên tường. đó có thể là hình ảnh tĩnh hoặc động. ­ Tiến hành: Thắp ngọn nến trong phòng tối. Dùng 2 bàn tay tạo   thành các kiểu dáng khác nhau để  hiện lên trên tường bóng con chó đang sủa, con   chim đại bàng đang bay... Có thể tạo ra các nhân vật để kể 1 mẫu chuyện nhỏ, một  sự tích hoặc một truyền thuyết như múa rối (hình 2.59)   Bước 4: Tổ  chức làm đồ  dùng dạy học thì cuối cùng là  tiến hành kiểm tra  những gì học sinh đã thực hiện. Tuy nhiên giáo viên cũng phải tham khảo ý kiến  
  12. của học sinh trước khi đưa ra kết quả sau cùng. Khen thưởng hay tuyên dương các  em là điều không thể thiếu trong một cuộc thi đua. Chúng ta có thể  khen ngợi các   em bằng lời, những tràn pháo tay hay những món quà thật đơn giản hoặc ghi điểm  thi đua tập thể để khích lệ tinh thần các em. Riêng đối với những em còn hạn chế,   chưa hoàn thành được công việc của mình chúng ta không nên khiển trách mà phải  động viên, an  ủi giúp các em làm tốt hơn  ở  những lần sau. Bởi vì tôi muốn kích  thích niềm đam mê nghiên cứu khoa học của các em, để  cho các em vừa học vừa  chơi coi như thư giãn sau những buổi học mệt mỏi. Phương án trên đây là phương án thí nghiệm kết hợp tại nhà và tại lớp, để  thực hiện tốt tôi có chú y sau:  + Do tiến hành tại nhà, không có sự chứng kiến của tôi nên có tình huống xảy   ra ngoài dự  đoán mà học sinh không lí giải được. Vì vậy đòi hỏi tôi phải có kiến  thức khá vững chắc, có nhiều kinh nghiệm, thậm chí phái tiến hành thí nghiệm  trước ở nhà để hình dung những khó khăn mà học sinh mắc phải; + Trong trường hợp tất cả  các nhóm không tiến hành được thì tôi thực hiện  phương án thí nghiệm của mình. Do không có sự giám sát của tôi nên phải chọn thí   nghiệm không gây nguy hiểm không gây cháy nổ không hóa chất; + Cần đảm bảo tính vừa sức để  thí nghiệm thành công, kích thích nguồn   hứng thú, nên đưa các sản phẩm này vào bổ sung ở phòng thực hành hoặc dự thi để  động viên khuyến khích các em. 3.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:   Với nội dung đề tài này tôi áp dụng cho chương trình giảng dạy môn vật lý  của học sinh lớp 6,7,8,9 trong trường trung học cơ  sở. Tuy nhiên từng lúc, chứ  không tức thời áp dụng hết vì tùy vào khả năng tiếp thu vận dụng, từng đối tượng,   từng lớp, vào thời lượng chương trình, tùy vào phân công giảng dạy. 3.4. Hiệu quả, lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng   giải pháp:
  13. a) Hiệu quả lợi ích thu được do áp dụng giải pháp:  * Trước khi áp dụng đề tài này thì: ­ Chất lượng bộ môn học kì 1 năm học 2014­2015 tuy hụt chỉ tiêu nếu tính  chung toàn trường thì đảm bảo chỉ tiêu nhưng vẫn chưa đồng đều ở mỗi khối. Khối Giỏi Khá Trung bình Yếu  Lớp 6 32.0% 40.9 % 24.8% 2.3% Chỉ tiêu 39.5% 37.2% 21.3% 2% ­ Đồ  dùng dạy học: hư hỏng nặng, có sửa chữa nhưng ít, chủ  yếu sử  dụng  dụng cụ nào tốt để làm thí nghiệm, không có sản phẩm nào của học sinh.  * Sau khi khi áp dụng đề tài này thì kết quả: Năm học 2014­2015:  ­ Chất lượng bộ  môn thì đạt vượt chỉ  tiêu, tỉ  lệ  giỏi tăng và yếu được kéo   giảm. Khối Giỏi Khá Trung bình Yếu  Lớp 6 43.3% 34.4 % 20.4% 1.9% Chỉ tiêu 39.5% 37.2% 21.3% 2%  ­ Đồ dùng dạy học hư hỏng có học sinh và giáo viên kết hợp sửa chữa đặc  biệt  100% dụng cụ  thí nghiệm vật lý  6 được sử  dụng tốt. Số  học sinh tham gia  vào thí nghiệm tự làm chiếm 30%. Có sản phẩm của học sinh bổ sung trong phòng  thí nghiệm như: 2 loại lực kế, dụng cụ đo thể tích chứa trong buồng phổi (lớp 6).   Mô hình máy nén thủy lực, Yo­Yo (lớp 8). "Nghiên cứu khoa học kĩ thuật dành cho  học sinh trung học cơ sở" dự thi cấp huyện: một sản phẩm. Năm học 2015­2016 (học kì 1):  ­ Chất lượng bộ  môn thì đạt vượt chỉ  tiêu, tỉ  lệ  giỏi tăng và yếu được kéo   giảm. Khối Giỏi Khá Trung bình Yếu­ K  Lớp 6 50,2% 25.4 % 22.8% 1.6% Chỉ tiêu 43.3% 34.5 % 20.4% 2%
  14.  b) Trong quá trình ứng dụng sáng kiến  này bản thân tôi nhận thấy:  ­ Không chỉ  học sinh hiểu bài, kĩ năng vận dụng được nâng cao mà học sinh  trở  nên yêu thích môn học này hơn. Học sinh có ý thức hơn trong việc rèn luyện   tính tích cực khả năng sáng tạo, độc lập suy nghĩ, có niềm tin trong cuộc sống. Rèn   luyện thói quen làm việc khoa học, chính xác theo tác phong công nghiệp;  ­ Các giờ dạy trở nên linh hoạt, ít gò bó nhưng vẫn đạt hiệu quả khá tốt. Khả  năng học tập được nâng lên một bước, kiến thức của phần lớn học sinh trở nên   rộng rãi và toàn diện mang tính ứng dụng cao; ­ Học sinh dạn dĩ hơn vì được bày tỏ những gì mình nghiên cứu được, tháo gỡ  được vướn mắc trong quá trình thực hiện, trở nên thân thiện với giáo viên hơn. Trên đây là   một số  kinh nghiệm mà bản thân rút ra được trong khi giảng  dạy. Trong quá trình biên soạn  chắc chắn không tránh khỏi thiếu xót mà bản thân   chưa phát hiện, trong giới hạn  sáng kiến tôi không thể viết hết các cách tiến hành  của từng loại "Thí nghiệm vật lý tự làm", nếu cần xin liên hệ để tôi có cơ hội trao  đổi chia sẽ nâng cao nghiệp vụ của mình. Tôi rất mong sự góp ý nhiệt tình của Hội  Đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm,  để tôi đạt hiệu quả tốt hơn trong giảng dạy.   ̉ ơn. Chân thanh cam  ̀ 3.5. Tài liệu kèm theo: không có.                   Bến tre, Ngày  tháng  năm          
  15. B. Phách kèm bên góc trái của bản mô tả sáng kiến: PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO MỎ CÀY NAM TRƯỜNG: THCS ĐA PHƯỚC HỘI HỌ VÀ TÊN: TỐNG THỊ NGỌC LÝ NHIỆM VỤ: DẠY LỚP       Mã số:...................................(do hội đồng ghi)      Tên sáng kiến: NÂNG CAO HIỆU QUẢ ỨNG DỤNG KIẾN THỨC  VẬT LÝ VÀO ĐỜI SỐNG.   B. Phách kèm bên góc trái của bản mô tả sáng kiến:
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2