intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học dạng toán tìm số trung bình cộng

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:33

67
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu dựa trên chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt được sau mỗi bài học, kiến thức đại trà học sinh phải đạt được, đồng thời cũng chú trọng đến kiến thức nâng cao để bồi dưỡng cho học sinh, vận dụng được mô hình dạy học mới vào giảng dạy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học dạng toán tìm số trung bình cộng

CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM<br /> Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC <br /> DẠNG TÌM SỐ TRUNG BÌNH CỘNG CHO HỌC SINH LỚP 4<br />                  <br /> <br />                                 Họ và tên: Nguyễn Thị Hương<br />                                 Chức vụ: Giáo viên<br />                                 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Mỹ Thủy         <br />                                  <br /> <br /> <br /> <br /> <br />                                <br /> <br /> <br />                                  <br /> <br /> 1<br />                                 <br /> <br />                                          Quảng Bình, tháng 5/2015   <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2<br /> CỘNG HÒA XàHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM<br /> Độc lập ­ Tự do ­ Hạnh phúc<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CH ẤT LƯỢNG DẠY HỌC <br /> DẠNG TÌM SỐ TRUNG BÌNH CỘNG CHO HỌC SINH LỚP 4<br /> <br /> <br /> <br /> <br />                                <br /> <br /> <br />                                 Họ và tên: Nguyễn Thị Hương<br />                                 Chức vụ: Giáo viên<br />                                 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Mỹ Thủy         <br />                                  <br />                                 <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br />                                           Quảng Bình, tháng 5/2015   <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 4<br />                                                  MỤC LỤC                       <br />                                                                                                                            Trang  <br /> <br /> I. PHẦN MỞ ĐẦU                     <br /> 1.1 Lí do chọn đề <br /> tài  ....................................................................................................1<br /> 1. 2. Ph ạm vi áp dụng sáng <br /> kiến..................................................................................2<br /> 1.3. Điểm mới của đề <br /> tài ..............................................................................................2<br /> <br /> <br /> II. PHẦN NỘI DUNG                                                 <br /> 2.1  Thực   trạng   của   vấn   đề   đòi   hỏi   phải   có   giải   pháp   mới   để   giải  <br /> quyết......................3<br /> 2.2  Một số biện pháp rèn kĩ năng giải toán dạng tìm số trung bình <br /> cộng...................5<br /> 2.2.1 Thay đổi không gian lớp học...............................................................................6<br /> 2.2.2 Vận dụng mô hình dạy học <br /> mới...........................................................................7<br /> 2.2.3 Gợi nhu cầu nhận thức cho học <br /> sinh.................................................................10<br /> 2.2.4 Tổ chức cho học sinh trải nghiệm, phân tích, khám phá và rút ra được kiến <br /> thức mới......................................................................................................................11<br />   2.2.5  Tìm   hiểu   một   số   sai   lầm   của   học   sinh   khi   giải  <br /> toán........................................13<br /> <br /> 2.2.6  Làm   tốt   công   tác   phối   hợp   với   phụ   huynh   học  <br /> sinh..........................................21<br /> <br /> 2.2.7 Linh hoạt trong lựa chọn hình thức và phương pháp dạy họckiểm tra và <br /> đánh giá học sinh......................................................................................................21<br /> 5<br /> 3. KẾT LUẬN.<br /> 3.1  Ý nghĩa của đề tài................................................................................................23<br /> 3.2   Kiến   nghị,   đề  <br /> xuất.................................................................................................24<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC DẠNG  TOÁN <br /> <br /> TÌM SỐ TRUNG BÌNH CỘNG CHO HỌC SINH LỚP 4 <br /> <br /> 1. PHẦN MỞ ĐẦU<br /> <br /> 1.1 Lý do chọn đề tài :<br /> <br /> Như  chúng ta đã biết bậc tiểu học được coi là “Bậc học nền tảng của hệ <br /> thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng và phát triển tình cảm đạo đức, trí  <br /> tuệ, thẩm mỹ và thể chất của trẻ em nhằm hình thành cơ  sở ban đầu cho sự phát <br /> triển toàn diện nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ  nghĩa” (Luật phổ  cập  <br /> giáo dục tiểu học). Điều đó cho thấy rằng giáo dục tiểu học được xác định là bậc  <br /> học của cách học, cách tạo nên những cơ sở rất cơ bản, rất bền vững cho các em. <br /> <br /> Chương trình Toán Tiểu học có vị trí và tầm quan trọng rất lớn. Toán học góp <br /> phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Toán học  <br /> rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp giải quyết  <br /> vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng  <br /> tạo. Toán học được coi là chìa khóa mở của các ngành khoa học khác,  nó còn đóng <br /> <br /> <br /> <br /> 6<br /> góp vào việc hình thành các phẩm chất của người lao động như: cần cù, cẩn thận,  <br /> ý chí vượt khó, làm việc có kế hoạch, có nền nếp, khoa học. <br /> <br /> Giải toán có lời văn là một trong bốn mạch kiến thức cơ bản của môn Toán  <br /> lớp 4. Nội dung chủ yếu của mạch kiến thức này bao gồm: Tiếp tục giải các bài  <br /> toán đơn, toán hợp có dạng đã học từ  lớp 1, 2, 3 và phát triển các bài toán đó đối  <br /> với các phép tính trên phân số và các số đo đại lượng mới học ở lớp 4. Đồng thời <br /> toán lớp 4 còn đề cập đến những dạng toán mới như  giải toán về: “Tìm số  trung  <br /> bình cộng”; “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”; “Tìm hai số khi biết <br /> tổng ( hoặc hiệu)  và tỉ  số của hai số đó”; “ Tìm phân số của một số”… Trong đó <br /> dạng toán “ Tìm số trung bình cộng” là dạng toán thường gặp, nó là một bài toán <br /> đơn hoặc nằm trong một bài toán hợp thuộc dạng khác. <br /> <br /> Các bài toán về  tìm số  trung bình cộng  lại được chia thành các loại nhỏ  mà <br /> khi gặp phải học sinh thường lúng túng mơ  hồ  và sai lầm; khó tìm ra hướng giải <br /> quyết và thường nhầm lẫn từ dạng này sang dạng khác, không phát hiện số các số <br /> hạng và cách giải. Ngôn ngữ toán học của học sinh còn hạn chế, kĩ năng tính toán,  <br /> trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, học toán và giải toán một cách máy móc  <br /> nặng nề  về  rập khuôn, bắt chước. Nếu không xác định cho học sinh những kiến <br /> thức cơ bản ban đầu vững chắc thì học sinh sẽ không giải quyết được những bài  <br /> toán ở dạng cơ bản (đối với học sinh trung bình) và nâng cao lên (đối với học sinh <br /> khá giỏi). <br /> <br /> Chính vì những lí do đó, qua thực trạng học phần giải các bài toán về Tìm số <br /> trung bình cộng của học sinh, tôi nhận thấy việc giúp đỡ  học sinh phát hiện ra <br /> được cái sai và tìm cách giải các bài toán là việc làm hết sức quan trọng, giúp học  <br /> sinh có khả năng phân tích, tổng hợp, tư duy nhằm nâng cao chất lượng học toán. <br /> Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy  líp 4 nªn tôi đã chọn nghiên cứu  đề  tài: “  <br /> Một số  biện pháp nâng cao chất lượng dạy học dạng toán tìm số  trung bình  <br /> <br /> 7<br /> cộng” với mong muốn nâng cao trình độ nghiệp vụ nhằm giúp học sinh có kĩ năng <br /> nhận dạng toán, phân tích bài toán, biết lựa chọn phương pháp giải phù hợp cho  <br /> từng bài toán thuộc dạng toán này, tránh những sai lầm khi giải toán tạo sự hứng <br /> thú đối với môn học.<br /> <br /> 1.2 Phạm vi áp dụng sáng kiến<br /> <br /> Đề  tài được áp dụng trong công tác giảng dạy môn Toán cho học sinh lớp 4  <br /> đặc biệt là dạng toán “Tìm số trung bình cộng” của học sinh trường Tiểu học nơi  <br /> tôi công tác.<br /> <br />  1.3 Điểm mới của đề tài.    <br /> <br /> Khi dạy học các bài toán về  trung bình cộng   học sinh phải tư  duy một cách <br /> tích cực và linh hoạt huy động tích hợp các kiến thức và khả năng đã có vào những <br /> tình huống khác nhau. Điểm mới của đề tài này là phát hiện ra được những cái sai <br /> của học sinh thường gặp phải, phân loại được các dạng toán trung bình cộng để <br /> tìm ra các biện pháp nhằm khắc phục những khó khăn, sai lầm của học sinh khi  <br /> giải  các bài toán  có liên quan đến dạng  này,  góp phần trong việc nâng cao chất <br /> lượng học tập môn Toán của học sinh.  Giải pháp này giúp cho học sinh lập kế <br /> hoạch giải một cách dễ dàng, phát triển kỹ năng, kỹ xảo, năng lực, tư duy và khả <br /> năng giải toán của các em.<br /> <br /> Đề tài nghiên cứu dựa trên chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt được sau mỗi bài <br /> học, kiến thức đại trà học sinh phải đạt được, đồng thời cũng chú trọng đến kiến  <br /> thức nâng cao để  bồi dưỡng cho học sinh, vận dụng được mô hình dạy học mới <br /> vào giảng dạy.<br /> <br /> 2. PHẦN NỘI DUNG<br /> <br /> 2.1 Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết<br /> <br /> <br /> <br /> 8<br />        Dạng toán Tìm số trung bình cộng được đưa vào chương trình Toán 4 gồm 3  <br /> tiết. <br /> <br /> Cụ thể là: <br /> <br /> ­ 1 tiết cung cấp quy tắc và công thức tính Trung bình cộng của một dãy số <br /> cách đều trang 26 ­ 27; <br /> <br /> ­ 1 tiết Luyện tập áp dụng công thức vừa học trang 28;<br /> <br /> ­ 1 tiết cuối cùng là ôn tập về tìm số trung bình cộng trang 175. <br /> <br /> Với thời lượng ít như  vậy nên giáo viên chưa đầu tư  nhiều vào dạng toán <br /> này.<br /> <br /> Vào đầu năm học 2013 ­ 2014, tôi đã được Nhà trường và chuyên môn phân <br /> công chủ  nhiệm và giảng dạy lớp 4C, lớp có 25 học sinh. Qua một thời gian dạy  <br /> học, tôi đã tiến hành làm bài kiểm tra.<br /> <br /> Sau khi thu bài kiểm tra tôi đã thu được một số kết quả như sau: <br /> <br /> 9­ 10 7­ 8 5­ 6 3­ 4 0­ 2<br /> <br /> 6 ( 24%) 7 (28%) 9(3 6%) 3(12%) 0 ( 0%)<br /> <br /> <br /> <br /> Đề  bài kiểm tra gồm cả  phần tự  luận và trắc nghiệm với các mạch kiến <br /> thức: đọc viết số, chia cho số có 1 chữ số, tìm thành phần chưa biết của phép tính, <br /> giải toán dạng Tìm số  trung bình cộng. Tôi phân tích cụ thể  các dạng bài tập của  <br /> bài kiểm tra và nhận thấy đa số các em đọc và viết số số thành thạo, biết cách chia  <br /> cho số  có 1 chữ số và tìm thành phần chưa biết của phép tính. Tuy nhiên kỹ  năng <br /> giải toán về Tìm số Trung bình cộng còn rất yếu. <br /> <br /> Qua nh×n nhËn thực tế tôi thấy rằng chất lượng bài kiểm tra chưa cao là do <br /> nhiều nguyên nhân :<br /> <br /> 9<br /> *Về phía giáo viên<br /> <br /> ­ Thời lượng ít như  vậy và trên thực tế  giáo viên phải dạy nhiều môn, thời <br /> gian dành để  nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học phù hợp với đối <br /> tượng học sinh trong lớp còn hạn chế. Do vậy, chưa lôi cuốn được sự  tập trung  <br /> chú ý nghe giảng của học sinh. <br /> <br /> ­ Nhận thức về  vị  trí, tầm quan trọng của các bài toán điển hình trong môn  <br /> Toán cũng chưa đầy đủ bởi đây là một dạng toán mới đầu tiên các em gặp khi  <br /> bước vào lớp 4. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn <br /> dàn trải.<br /> <br /> *Về phía học sinh:<br /> <br /> +  Nguyên nhân khách quan:<br /> <br />            ­ Học sinh chưa có hứng thú với các môn học nói chung, môn Toán nói riếng <br /> <br /> và đặc biết là dạng Toán tìm số trung bình cộng <br /> <br />   ­  Học sinh chưa chịu khó, tích cực tư  duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những  <br /> <br /> phương pháp học đúng để  biến tri thức của thầy cô thành của mình. Cho nên sau <br /> khi học xong bài, các em chưa nắm bắt được lượng kiến thức thầy cô giáo giảng, <br /> rất nhanh quên và kĩ năng tính toán chưa nhanh, số lượng học sinh tiếp thu chậm,  <br /> yếu toán có lời văn tương đối nhiều. Học sinh chưa có kĩ năng giải toán có lời văn. <br /> <br /> ­ Trình độ  của học sinh không đồng đều trong một lớp: có em làm nhanh  <br /> nhưng cũng có em làm chậm. Các em bước đầu chuyển từ  tư  duy cụ  thể sang tư <br /> duy trừu tượng cho nên việc nhận thức và tiếp thu kiến thức gặp không ít khó <br /> khăn, chưa mang lại kết quả như chương trình đề ra.<br /> <br /> ­ Hiện nay chương trình Toán tiểu học đã có sự  đổi mới, khoa học hơn song  <br /> chương trình kiến thức lớp 1, 2, 3 rất  đơn giản, đến lớp 4 học sinh phải gặp  <br /> <br /> <br /> <br /> 10<br /> những kiến thức khó với lượng kiến thức khá nhiều. Đây là một vấn đề khó khăn <br /> cho cả người dạy và người học.<br /> <br /> ­ Trong các dạng toán có lời văn ở lớp 4 thì dạng “ Tìm số trung bình cộng”  <br /> là dạng toán được học đầu tiên ở lớp 4 và các em có thể  gặp suốt trong quá trình <br /> học toán  ở  Tiểu học. Nếu các em học tốt dạng toán này thì sẽ  tốt các dạng toán  <br /> khác.  <br /> <br /> +  Nguyên nhân chủ quan:<br /> <br />  ­ Một số học sinh đọc đề  vội vàng, chưa biết tập trung vào những dữ  kiện <br /> trọng tâm của đề  toán, không chịu phân tích đề  toán khi đọc đề, dẫn tới thường <br /> nhầm lẫn giữa các dạng toán, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán.<br /> <br /> ­ Một số học sinh chưa có kĩ năng phân tích và tư duy khi gặp những bài toán  <br /> phức tạp. Hầu hết, các em làm theo khuôn mẫu của những dạng bài cụ thể mà các <br /> em thường gặp trong sách giáo khoa, khi gặp bài toán đòi hỏi tư duy, suy luận một <br /> chút  các em không biết cách phân tích dẫn đến lười suy nghĩ.  Một số em tiếp thu <br /> bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài  <br /> toán, vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức.<br /> <br /> ­  Học sinh chưa có một phương pháp tư duy logic để giải quyết các dạng bài  <br /> tập về tìm số Trung bình cộng. Khi giải xong bài toán, đa số học sinh bỏ qua bước  <br /> kiểm tra lại bài, dẫn đến nhiều trường hợp sai sót đáng tiếc do tính nhầm, do chủ <br /> quan.<br /> <br /> 2.2   Một số  biện pháp nâng cao chất  lượng  dạy học dạng toán tìm số <br /> trung bình cộng<br /> <br /> Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn và phức tạp, hình thành kỹ  năng <br /> giải toán khó hơn nhiều so với kỹ xảo tính, vì các bài toán là sự  kết hợp đa dạng <br /> nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải toán Tìm số trung bình cộng không <br /> chỉ  là nhớ  mẫu rồi áp dụng mà đòi hỏi nắm chắc khái niệm, quan hệ  toán học, <br /> 11<br /> nắm chắc ý nghĩa các phép tính, các dạng toán, đòi hỏi khả năng độc lập, suy luận  <br /> của học sinh, đòi hỏi biết làm tính thành thạo.<br /> <br /> Sau khi khảo sát chất lượng giải toán đầu năm học, bản thân tôi đã đã nắm <br /> bắt được tình hình học sinh qua kĩ năng giải toán Tìm số trung bình cộng đồng thời <br /> tìm hiểu những sai lầm mà các em thường mắc phải khi giải toán, tôi đã tiến hành <br /> xây dựng các giải pháp như sau:     <br /> <br /> II.2.1 Thay đổi không gian lớp học<br /> <br />         <br />       <br /> <br /> <br /> <br /> B<br /> ả<br /> n<br /> g<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Đổi mới không gian cho lớp học tạo nên lớp học sẽ được “thay áo mới”, thú <br /> vị  và bổ  ích. Trang trí lớp học thân thiện, phù hợp đặc điểm tâm lý học sinh tiểu  <br /> học còn giúp các em tự hào về lớp, nâng cao ý thức gìn giữ  lớp học sạch đẹp, có <br /> thêm không gian để  giao lưu, chia sẻ, nghiên cứu, góp phần nâng cao chất lượng <br /> đổi mới phương pháp giảng dạy, đồng thời khuyến khích học sinh sự  giác học <br /> tập                          <br /> <br /> <br /> <br /> 12<br /> Học sinh sẽ được tiếp cận với nhau trong quá trình học, giáo viên chỉ là người  <br /> hỗ trợ các em tìm ra kiến thức. Không gian lớp học sẽ được thay đổi thường xuyên <br /> để đảm bảo em nào cũng phát huy được mọi năng lực khả năng của mình.<br /> <br /> Cách sắp sếp ngồi học như  hình minh họa trên không  ảnh hưởng gì tới thể <br /> chất của học sinh cả: việc tổ  chức hoạt động nhóm thường xuyên thay đổi vị  trí <br /> ngồi học, lúc thì ngồi học chỗ  này, tiết học sau lại ngồi chỗ  khác. Hay nói cách <br /> khác  áp dụng hình thức dạy học theo nhóm thì chỗ ngồi của học sinh là chỗ  ngồi <br /> không ổn định.<br /> <br /> Ngày xưa ngồi học là lấy bảng làm trung tâm để tiếp thu kiến thức của thầy, <br /> và chú ý nghe thầy giảng bài, ngày nay, ngồi học tức là ngồi làm việc, ngồi để <br /> thực hiện một nhiệm vụ không đơn thuần chỉ nhìn về  phía bảng, các em chỉ nghe <br /> phổ biến nhiệm vụ sau đó cùng nhau thực hiện nhiệm vụ đó trên tinh thần hợp tác, <br /> chia sẻ ngay trên bàn mình ngồi.<br /> <br /> II.2.2  Vận dụng mô hình dạy học mới <br /> <br />          Mô hình trường học mới VNEN nhằm chuyển đổi từ giáo dục truyền thống <br /> sang mô hình giáo dục trường học mới: tập tr ung nâng cao phẩm chất năng lực <br /> người học, coi trọng giáo dục toàn diện để  dạy làm người như  lời dạy của Bác  <br /> Hồ  là đào tạo lớp người “vừa hồng vừa chuyên”.  Trong quá trình dạy học giáo <br /> viên giữ vai trò là người tổ chức quá trình hoạt động của học sinh. <br /> <br /> Nhận thức là hoạt động trí tuệ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà hình thức <br /> thể  hiện của nó là khả  năng tiếp thu. Khả  năng tiếp thu lại phụ  thuộc vào nhiều <br /> yếu tố  môi trường. Xây dựng môi trường riêng cho mỗi cá nhân trong giờ  học có  <br /> vai trò quan trọng trong việc giúp các em lĩnh hội các kiến thức bài học. Ta đã biết <br /> <br /> học là hoạt động đơn phức của hoạt động trí óc. Do đó từ đầu năm, qua quá trình <br /> theo dõi  tôi  đã chú trọng cá biệt hóa từng cá nhân,  nắm  thật cụ  thể lực học của <br /> từng cá nhân trong tập thể  lớp để  từ  đó xây dựng môi trường riêng, cách hướng  <br /> <br /> 13<br /> dẫn riêng cho cá nhân trong hoạt động nhận thức tiếp thu bài, vận dụng mô hình <br /> dạy học nhóm để học sinh cùng chia sẻ kết quả.<br /> <br />      VD: Học sinh Nguyên có tầm vóc thấp bé, cần bố trí chỗ ngồi hợp lý tránh <br /> tình trạng đứng viết hoặc viết trên ghế.<br /> <br />      VD: Học sinh Tiến có thị lực yếu, cần bố trí vị trí ngồi hợp lý trong lớp để <br /> em nhìn rõ thuận tiện cho quá trình học tập.<br /> <br />     VD: Học sinh Lan( nhóm Vàng Anh) ham chơi, khả năng tiếp thu chậm thì <br /> cần bố  trí chỗ  ngồi gần bảng gần bàn giáo viên  ở  dãy ngoài để  thuận tiện cho <br /> việc học của học sinh cũng như  giáo viên sẽ  thuận tiện hơn trong việc kèm cặp, <br /> giúp đỡ; mặt khác thành lập đôi bạn cùng tiến để  các bạn giúp đỡ  lẫn nhau; yêu <br /> cầu các thành viên trong nhóm giúp đỡ bạn.<br /> <br /> Đối với những học sinh yếu thì tôi phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi phụ nhiều <br /> hơn, chi tiết hơn để gợi ý hướng dẫn các em từng bước tìm ra cách giải bài toán.<br /> <br /> Ví dụ 1: Một đội công nhân đào đường, ngày đầu đào được 1200m, ngày thứ <br /> hai đào được ít hơn ngày đầu 150m. Hỏi trung bình mỗi ngày đội công nhân đào <br /> được bao nhiêu mét đường?<br /> <br /> Câu hỏi gợi ý: <br /> <br /> ­ Để  tìm được trung bình mỗi ngày đội công nhân đào được bao nhiêu mét <br /> đường ta phải biết được cái gì? ( Tổng số mét đường của hai ngày đào chia cho 2)<br /> <br /> ­Tổng số  m của hai ngày đào đã biết chưa ? (Chưa biết vì chưa biết số  mét  <br /> đường ngày thứ hai đào được)<br /> <br />  Ví dụ  2<br />    :   Một ô tô chạy  từ tỉnh A đến tỉnh B. Trong 2 giờ đầu, mỗi giờ ô tô <br /> chạy được 46km, giờ  thứ ba ô tô chạy được 52km, hai giờ  sau mỗi giờ  ô tô chạy <br /> được 43km thì  đến tỉnh B. Hỏi trung bình mỗi giờ  ô  tô chạy được bao nhiêu <br /> kilomet? <br /> <br /> 14<br /> * Câu hỏi gợi ý ( Dành cho học sinh trung bình) “Xuất phát từ câu hỏi đến các <br /> dữ kiện của bài toán”(Đường lối phân tích)<br /> <br />      ­ Bài toán hỏi gì? (Trung bình mỗi giờ ô tô chạy được bao nhiêu km?)       <br /> <br />      ­ Có thể biết ngay được chưa? (chưa). Vì sao? (Vì chưa biết được  tổng số <br /> km, tổng số giờ ô tô đã đi)<br /> <br />      ­ Ta có thể biết được số tổng km? (chưa). Vì sao? (Chưa biết số  km ô t ô <br /> đi trong 2 giờ đầu, 2 giờ sau).<br /> <br />      ­ Có thể biết được số gi ờ mà ô tô đã  đi chưa? (có thể được).<br /> <br />      ­ Vậy việc đầu tiên ta sẽ tìm là gì? ( Tìm số km ô tô đi trong 2 giờ đầu; số <br /> km ô tô đi trong 2 giờ sau). Bằng cách nào? (Lấy 46 x 2, 43 x 2)<br /> <br />      ­ Việc thứ hai ta tìm cái gì?(Tìm số giờ ô tô đã đi). Bằng cách nào?(2 + 1+ <br /> 2)<br /> <br />      ­ Sau khi tìm được số giờ ô tô  đã đi thì ta tìm gì nữa? (Tìm Tổng số km mà <br /> ô tô đã chạy). Bằng cách nào? (Lấy kết quả của phép tính thứ   nhất cộng kết quả <br /> của phép tính thứ hai ). <br /> <br />      ­ Bước cuối cùng ta làm gì? (Tìm trung bình mỗi mỗi giờ ô tô chạy  )Vậy ta <br /> đã trả lời được câu hỏi của bài toán chưa? (Rồi)<br /> <br />  Với bài toán này giáo viên cần cho học sinh thảo luận nhóm, tiến hành chia <br /> sẻ kết quả làm việc trước lớp để  rút ra cách giải cho bài toán này, nếu nhóm nào  <br /> còn lúng túng thì giáo viên giúp đỡ, gợi ý hoặc có thể nhờ nhóm bạn (với hệ thống  <br /> câu hỏi đó)<br /> <br />        Từ việc nắm chắc nội dung, đối tượng học sinh trong lớp, đồ  dùng dạy học <br /> mình có, tôi chọn cách chia nhóm sao cho phù hợp: mỗi nhóm từ  3  ­ 4 học sinh . <br /> Các chức danh nhóm trưởng và thư  kí luân phiên. Khi bắt đầu làm việc, nhóm <br /> trưởng phải phân công các thành viên trong nhóm, mỗi người một việc, sau đó cá <br /> <br /> 15<br /> nhân làm việc độc lập rồi từng em đưa ra ý kiến để thảo luận trong nhóm. Ý kiến <br /> thống nhất được ghi nhận để  chuẩn bị  trình bày trước lớp. Người trình bày cũng  <br /> luân phiên để tạo điều kiện cho tất cả học sinh được rèn luyện kĩ năng. Trong thời <br /> gian  HS  làm việc, giáo viên thường xuyên theo dõi để  hướng dẫn, giúp đỡ  các <br /> nhóm trao đổi thảo luận đúng yêu cầu bài học, tránh thảo luận tùy hứng dẫn đến <br /> nguy cơ đi lệch yêu cầu hoặc giáo viên gợi mở thêm nhằm mở rộng kiến thức và  <br /> giáo dục kỹ năng sống cho các em. <br /> <br />         *Cách chia nhóm:<br /> <br />      + Khi nội dung yêu cầu không khác nhau, ít có chênh lệch về độ  khó nên chia <br /> nhóm ngẫu nhiên.<br /> <br />      + Khi nội dung cần có sự phân hóa về độ khó, dễ nên chia nhóm cùng trình độ.<br /> <br />      + Khi nội dung đơn vị kiến thức cần có sự hỗ trợ lẫn nhau như các bài ôn tập  <br /> thì nên chia nhóm tương trợ…<br /> <br />        Tôi cũng chuẩn bị đầy đủ các phương tiện như phiếu học tập, tranh ảnh, vật  <br /> thật  (đưa ra hình  ảnh trực quan như  các cái kẹo thật làm tiền đề  cho phần giới <br /> thiệu bài) và thảo luận, bàn bạc; thời gian quy định cho mỗi hoạt động; phiếu học <br /> tập nhóm hoặc cá nhân để học sinh ghi chép kết quả hoạt động sau khi thảo luận. <br /> Như vậy học sinh dễ lĩnh hội kiến thức chắc chắn hơn.<br /> <br /> Bản thân tôi đã vận dụng mô hình dạy học này vào quá trình giảng dạy đặc <br /> biệt là trong môn Toán góp thêm cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thoải <br /> mái, sinh động, hăng say trong giờ học, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.<br /> <br /> Giáo viên phải xây dựng được Hội đồng tự  quản học sinh, tìm hiểu kĩ về <br /> từng  học sinh của lớp mình. Coi trọng công tác tổ chức lớp ngay từ đầu năm học. <br /> Xây dựng được Hội đồng tự quản học sinh nhiệt tình có năng lực chỉ đạo lớp.<br /> <br /> Đây là mô hình không những đổi mới về tổ chức lớp học, về trang trí lớp mà <br /> quá trình dạy học cũng được đổi mới từ dạy ­ học cả lớp sang dạy ­ học theo <br /> 16<br /> nhóm. Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích cực, <br /> chủ động, sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động <br /> dạy học giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức và tạo mọi điều kiện tốt nhất để <br /> mọi học sinh được  tham gia vào quá trình học tập.<br />          Ngoài ra vận dụng mô hình trường Tiểu học kiểu mới giúp học sinh rèn <br /> phương pháp tự học, tự giác, tự quản, tự trọng, tự tin, tự đánh giá, tự hợp tác, tự <br /> rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem <br /> lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh.<br /> <br /> 2.2.3 Gợi nhu cầu nhận thức cho học sinh<br /> <br /> Nhà tâm lí học Pôlya nói: “… Con người chỉ  tư  duy tích cực khi có nhu cầu. <br /> Hoạt động nhận thức chỉ  có kết quả  cao khi chủ  thể  ham thích, tự  giác và tích <br /> cực”.<br /> <br />                                                              (Pôlya, Tâm lý học, Tập II, Tr 128)<br /> <br /> Do đó trong dạy học giải toán tôi đã khéo léo sử dụng các phương pháp thích <br /> hợp có tác dụng khêu gợi và kích thích sự chú ý, tích cực hoá hoạt động tư duy của  <br /> học sinh, làm cho học sinh nhận thức được đầy đủ ý nghĩa thực tiễn của giờ đang <br /> học. Đồng thời xây dựng niềm tin vào khả  năng cho học sinh, làm cho học sinh  <br /> cảm thấy rằng nếu mình tập trung, chịu khó học tập thì sẽ  thu lượm được những  <br /> kết quả tốt đẹp có ích cho bản thân, vừa lòng thầy cô, cha mẹ. Đặc thù của việc  <br /> giải toán đòi hỏi có các đức tính cần cù, chịu khó, tỉ  mỉ, nhẫn nại, thẩm mĩ, …  <br /> nhưng học sinh tiểu học do tâm lý lứa tuổi thường hay phân tán sự  tập trung,  <br /> chóng chán. Hoạt động gợi nhu cầu nhận thức, gây hứng thú môn học có thể được  <br /> sử  dụng linh hoạt trong quá trình giảng dạy. Không nhất thiết, đơn thuần chỉ  sử <br /> dụng ngay đầu tiết dạy.<br /> <br /> Muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng thú của <br /> học sinh về chủ đề sẽ học, bản thân tôi nghiên cứu kỹ tài liệu, sách giáo khoa để <br /> <br /> 17<br /> lựa chọn hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu hỏi, câu đố vui, kể chuyện,  <br /> một   tình   huống,   tổ   chức   trò   chơi   hoặc   sử   dụng   các   hình   thức   khác…<br />                  Ví dụ<br />       1 : Bài :  Tìm số  Trung bình cộng   ( tài liệu Toán lớp  4  trang  26)<br />         Trước khi vào tiết học, GV tổ chức HS chơi trò chơi “ Ai nhanh ai đúng”. Các <br /> em sẽ  cùng nhau tính nhanh 1 bài toán nhỏ  gắn với thực tế các em: Bạn Lan có 4 <br /> cái kẹo, bạn bình có 6 cái kẹo. Nếu chia đều số  kẹo đó thì mỗi bạn được bao  <br /> nhiêu cái ? Thông qua trò chơi, HS sẽ cảm thấy trò chơi mà mình vừa được tham  <br /> gia rất gần gũi với bản thân, không chỉ thế trò chơi còn kích thích tính tò mò, khơi <br /> dậy hứng thú trong học. Cũng bắt đầu từ đây giáo viên dẫn dắt vào bài mới và giới  <br /> thiệu đây là dạng toán mới trong chương trình lớp 4  mà các em được tìm hiểu, từ <br /> đó các em muốn tiếp tục được trải nghiệm kiến thức mới.<br /> <br />        2.2.4 Tổ chức cho học sinh trải nghiệm, phân tích, khám phá và rút ra được  <br /> kiến thức mới<br /> <br />        Để hình thành khái niệm số trung bình cộng và tìm ra được quy tắc của dạng  <br /> toán tìm số trung bình cộng tôi đã sử dụng hình thức thảo luận nhóm 4, yêu cầu HS <br /> tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng tìm ra quy tắc tìm số trung bình cộng của nhiều số <br /> hạng. Tôi đã đưa thêm 1 ví dụ nữa, các em tiếp tục thực hành và sau đó tìm điểm <br /> chung giữa 2 ví dụ này để cùng rút ra công thức tính.<br /> <br /> Ví dụ  2: Số  học sinh của 3 lớp 5A, 5B, 5C lần lượt là 25 học sinh, 27 học  <br /> sinh, 32 học sinh. Hỏi trung bình mỗi lớp có bao nhiêu học sinh ?<br /> <br /> Muốn làm được điều đó điều đầu tiên đỏi hỏi các em phải tìm hiểu nội dung <br /> bài toán (đề  toán) thông qua việc đọc bài toán dù bài toán cho  ở  dạng có lời văn  <br /> hoàn chỉnh hoặc bằng dạng tóm tắt sơ  đồ. Học sinh cần phải đọc kĩ, hiểu rõ đề <br /> toán cho biết cái gì? Bài toán hỏi gì? Khi đọc bài toán phải hiểu thật kĩ một số từ, <br /> thuật ngữ  quan trọng chỉ  rõ tính huống toán học được diễn đạt theo ngôn ngữ <br /> thông thường, chẳng hạn như “bay đi”, “làm vở”, “ăn hết”. Nếu trong bài toán nào <br /> <br /> 18<br /> có có thuật ngữ  học sinh chưa hiểu rõ thì giáo viên phải  hướng dẫn để  cho học <br /> sinh hiểu được nội dung và ý nghĩa của từ  đó  ở  trong bài toán đang làm. Khi đọc <br /> đề xong có thể gạch chân các từ ngữ quan trọng trong đề bài. Các từ ngữ đó là sẽ <br /> là cơ sở quan trọng để tìm ra cách giải bài toán, sau đó cho học sinh thuật lại vắn <br /> tắt bài toán mà không cần phải đọc nguyên văn bài toán đó.<br /> <br /> Yêu cầu các nhóm thảo luận tóm tắt bằng sơ đồ như sau:<br /> <br /> <br /> <br /> <br />                              <br /> <br />          Khi các em tóm tắt được có nghĩa là các em đã phân tích được bài toán, hiểu <br /> được nội dung bài toán.<br /> <br />     Nếu nhóm nào còn lúng túng trong câu hỏi thì tôi đưa ra thêm câu hỏi gợi ý <br /> giúp nhóm đi vào tiến trình phân tích thuận lợi hơn là : Nếu chia đều sô học sinh  <br /> vào các lớp thì mỗi lớp có bao nhiêu học sinh? Như  vậy các em sẽ  dễ  dàng nắm <br /> bắt kiến thức hơn. Bản thân các em sẽ  cảm thấy hứng thú hơn với giờ  học bởi  <br /> chính mình đã tự tìm ra quy tắc này, tự khắc sâu kiến thức cho bản thân mình.<br /> <br />  Học sinh rút ra được cách tìm số trung bình cộng như sau: <br /> <br /> ­ Bước 1: Tính tổng của các số đó  <br /> <br /> ­ Bước 2: Chia tổng đó cho số các số hạng<br /> <br /> Sau khi tìm ra được công thức của dạng toán này, học sinh sẽ  thực hành để <br /> vận dụng kiến thức mới đó thông qua các bài tập cụ thể hình thành cho học sinh kĩ <br /> năng giải toán dạng này. Mục tiêu ở đây là hình thành năng lực khái quát hóa và kĩ <br /> năng giải toán, rèn luyện năng lực sáng tạo trong học tập. Ta có thể tiến hành giải <br /> pháp sau đây: cho HS giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp trong mối quan  <br /> hệ giữa số đã cho và số phải tìm hoặc là điều kiện trong bài toán. <br /> <br /> Ví dụ: <br /> 19<br />      Bài toán 1: Tìm số trung bình cộng của các sô 36, 42, 57<br /> <br />      Bài toán 2: Tổ Một góp được 36 quyển vở. Tổ Hai góp được nhiều hơn tổ <br /> Một 2 quyển nhưng lại ít hơn tổ Ba 2 quyển. Hỏi trung bình mỗi tổ góp được bao <br /> nhiêu quyển vở?<br /> <br />      Bài toán 3: Số trung bình cộng của hai số là 14. Biết một trong hai số là 9. <br /> Tìm số kia.<br /> <br />      ­ Giải bài toán có nhiều cách khác nhau (VD: Bài toán 2, 3)<br /> <br />       ­ Tiếp xúc với các bài toán thiếu đi một số  các dữ  liệu đã cho (VD: Bài  <br /> toán 2, 3)<br /> <br />       ­ Giải các bài toán trong đó phải xét tới nhiều khả  năng xảy ra để  chọn <br /> được một khả thỏa mãn với điều kiện của bài toán.<br /> <br />      ­ Biết lập và biến đổi bài toán  (Xây dựng bài toán ngược)<br /> <br /> Điều quan trọng và chủ yếu của việc dạy học giải toán là giúp cho học sinh  <br /> tự mình tìm hiểu được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện <br /> của bài toán và thiết lập được các phép tính số  học tương  ứng.   Trước khi cùng <br /> nhau bước vào phần thực hành, yêu cầu học sinh trong nhóm nhắc lại các bước <br /> giải 1 bài toán: <br /> <br /> *Bước 1: Tìm hiểu nội dung của bài toán<br /> <br /> *Bước 2: Tìm tòi cách giải của bài toán<br /> <br /> *Bước 3: Hướng dẫn thực hiện cách giải bài toán<br /> <br /> *Bước 4: Kiểm tra kết quả của bài toán<br /> <br />         Để củng cố phần hình thành kiến thức này giáo viên đưa ra hình thức trò chơi  <br /> "Ô cửa bí mật".   Mỗi ô cửa là 1 bài tập nhỏ  về  tìm số  trung bình cộng. Trong 1  <br /> khoảng thời gian nào đó các em làm nhanh, nếu bạn nào nhanh và đúng thì sẽ được <br /> phần thưởng. Đó là một trong những hình thức khắc sâu kiến thức cho học sinh.<br /> 20<br /> 2.2.5  Tìm hiểu một số sai lầm của học sinh khi giải toán<br /> <br />          Trong quá trình dạy học nói chung và dạy học giải toán có lời văn nói  <br /> riêng, giáo viên cần theo dõi để tìm ra được những sai lầm của học sinh trong học  <br /> tập cũng như  trong giải toán như: không nắm được cách giải; bài giải còn thiếu, <br /> phép tính chưa đúng với lời giải đặt ra; lời giải chưa đầy đủ; sai tên đơn vị… Để <br /> từ đó tìm ra hướng khắc phục những thiếu sót, sai lầm cho học sinh nhằm giúp các <br /> em ngày càng tiến bộ hơn.<br /> <br /> Đặc biệt ở bài toán Tìm số trung bình cộng này tôi đã phát hiện ra sai lầm của <br /> các em là nhầm lẫn số các số hạng hoặc là xác định số các số hạng chưa đúng. Sau  <br /> đây là một số ví dụ cụ thể tương ứng với các dạng:<br /> <br /> a. Dạng 1: Các bài toán giải trực tiếp nhờ công thức<br /> <br /> Ví dụ  : Bốn em Mai, Hoa, Hưng, Thịnh lần lượt cân nặng là 36kg, 38kg, <br /> 40kg, 34kg. Hỏi trung bình mỗi em cân nặng bao nhiêu kg? <br /> <br /> * Nguyên nhân sai: Học sinh tính được tổng song xác định sai số các số hạng, <br /> áp dụng công thức tìm số trung bình cộng một cách máy móc rập khuôn. (Học sinh  <br /> cứ nghĩ số các số hạng ở đây là 2)<br /> <br /> Bài giải:<br /> <br /> Số mét kg cân nặng của bốn em là:<br /> <br /> 36 +38+40+34 = 148(kg)<br /> <br /> Trung bình mỗi em cân nặng số kg là<br /> <br /> 148: 4 = 37(kg)<br /> <br /> :Đáp số: 37 kg<br /> <br /> b. Dạng 2: Các bài toán chưa giải trực tiếp nhờ công thức<br /> <br /> <br /> <br /> 21<br /> Ví dụ 1: Tổ Một góp được 36 quyển vở. Tổ Hai góp được nhiều hơn tổ Một  <br /> 2 quyển nhưng lại ít hơn tổ Ba 2 quyển. Hỏi trung bình mỗi tổ góp được bao nhiêu <br /> quyển vở?<br /> <br /> Bài giải sai<br /> <br /> Tổng số vở của 3 tổ là:<br /> <br /> 36 + 2 + 2= 40 (quyển vở)<br /> <br /> Trung bình mỗi tổ góp được số quyển vở?<br /> <br /> 40 : 2 = 20(quyển vở)<br /> <br /> Đáp số: 20 quyển vở<br /> <br /> * Nguyên nhân sai: Học sinh tìm hiểu dữ kiện bài toán không kĩ nên chưa xác <br /> định được tổng của ba số, xác định sai số các số hạng. Học sinh cứ áp dụng công <br /> thức trực tiếp để làm.<br /> <br /> Bài giải (đúng)<br /> <br /> Tổ Hai góp được số quyển vở là <br /> <br /> 36 +2 = 38 (quy ển vở)<br /> <br /> Tổ Ba góp được số quyển vở là<br /> <br /> 38 + 2 = 40 (quyển vở)<br /> <br /> Tổng số vở của 3 tổ là:<br /> <br /> 36 + 38+ 40= 114 (quyển vở)<br /> <br /> Trung bình mỗi tổ góp được số quyển vở là:<br /> <br /> 114 : 3 = 38(quyển vở)<br /> <br /> Đáp số: 38 quyển vở<br /> <br /> <br /> <br /> 22<br /> *Ví dụ 2:  Một ô tô chạy  từ tỉnh A đến tỉnh B. Trong 2 giờ đầu, mỗi giờ ô tô  <br /> chạy được 46km, giờ  thứ ba ô tô chạy được 52km, hai giờ  sau mỗi giờ  ô tô chạy <br /> được 43km thì  đến tỉnh B. Hỏi trung bình mỗi giờ  ô  tô chạy được bao nhiêu <br /> kilomet? <br /> <br />  Bài giải 2: (sai)<br /> <br /> 2 giờ đầu ô tô chạy được số km là:<br /> <br /> 46 x 2 = 92 (km )<br /> <br /> 2 giờ sau ô tô chạy được số km là:<br /> <br /> 43 x 2 = 86 ( km )<br /> <br /> Trung bình mỗi giờ ô tô chạy được số km  là:<br /> <br />   (92 +86 +52): 3 = 76 (km)<br /> <br /> * Nguyên nhân sai: (có 2 nguyên nhân)<br /> <br /> ­ Học sinh không đọc kĩ đề, áp dụng rập khuôn công thức tìm số  trung bình <br /> cộng. Bài làm sai, đáp số sai. <br /> <br /> ­ Học sinh nhầm lẫn khi tính trung bình, tính đư ợc tổng  thấy tổng của ba số <br /> hạng 92, 86 và 52 nên đem chia cho 3 dẫn đến bài làm sai (mặc dù kết quả không <br /> được tròn). Học sinh xác định sai số các số hạng <br /> <br /> Bài giải:<br /> <br /> 2 giờ đầu ô tô chạy được số km là:<br /> <br /> 46 x 2 = 92 (km )<br /> <br /> 2 giờ sau ô tô chạy được số km là<br /> <br /> 43 x 2 = 86 ( km )<br /> <br /> Số giờ ô tô đã chạy là<br /> <br /> 23<br /> 2 + 1+ 2 = 5 (giờ)<br /> <br /> Tổng số km mà ô tô đã chạy là: <br /> <br />   92 + 52 + 86 = 230 (km)<br /> <br /> Trung bình mỗi giờ ô tô chạy được số km  là:<br /> <br />  230 : 5 = 46 (km)<br /> <br /> Đáp số: 46km<br /> <br />   *Ví dụ 3:  Một nhà máy làm 246 sản phẩm trong 5 ngày. Hai ngày đầu, mỗi <br /> ngày nhà máy đã làm được 54 sản phẩm. Hỏi trung bình mỗi ngày sau, nhà máy  <br /> phải làm bao nhiêu sản phẩm?<br /> <br /> * Nguyên nhân sai: Học sinh không xác định được số các số hạng ( t ức là số <br /> ngày sau) và số sản phẩm của các ngày còn lại<br /> <br /> Với bài toán này HS cần thảo luận nhóm để  tìm ra cách giải thích hợp, giáo  <br /> viên chỉ là người gợi mở nếu như học sinh chưa hiểu với các câu hỏi gợi ý sau: <br /> <br /> ­ Muốn biết trung bình mỗi ngày làm được bao nhiêu sản phẩm ta làm thế <br /> nào?<br /> <br /> ­  Số sản phẩm đã biết chưa, số ngày sau đã biết chưa? Bao nhiêu<br /> <br /> ­ Muốn biết được số sản phẩm trong 3 ngày sau ta làm thế nào?<br /> <br />        Để củng cố bài giáo viên yêu cầu học sinh có thể lập sơ đồ tư duy để cho bạn  <br /> còn non kiến thức dễ dàng hiểu bài hơn:<br /> <br /> Số sản phẩm trong 2 ngày đầu<br /> <br /> <br /> Số sản phẩm trong 3 ngày  Số ngày còn lại<br /> sau<br /> <br /> <br /> TB mỗi ngày sau làm được số sp<br /> 24<br /> Bài giải:<br /> <br /> Số sản phẩm làm trong 2 ngày đầu:<br /> <br /> 54 x 2 = 108 ( sản phẩm )<br /> <br />                                         Số ngày còn lại:<br /> <br /> 5 – 2 = 3 ( ngày )<br /> <br /> Số sản phẩm làm trong 3 ngày sau: <br /> <br /> 246 – 108 = 138 ( sản phẩm)<br /> <br /> Trung bình mỗi ngày sau làm được<br /> <br /> 138 : 3 = 46 ( sản phẩm)<br /> <br /> Đáp số: 46 sản phẩm.<br /> <br /> Đối với học sinh khá giỏi các em có thể làm bước tính gộp ở bước tính trung  <br /> bình cộng <br /> <br /> *Ví d<br />   ụ  4<br />    :    Trung bình cộng của hai số  là 30. Biết một trong hai số đó bằng <br /> 18, tìm số kia?<br /> <br /> * Nguyên nhân sai: Đây là bài toán mà tôi thấy học sinh dễ  nhầm lẫn nhiều <br /> nhất do tính hấp tấp, đọc không kĩ để, xác đinh chưa đúng nội dung bài toán (bài <br /> toán cho biết trung bình cộng chứ không phải tìm số trung bình cộng),học sinh  vẫn <br /> áp dụng máy móc cách tính trung bình cộng dẫn đến bài giải sai. Yêu cầu các nhóm <br /> phân tích lại các bước giải toan tìm số trung bình cộng và phân tích ngược lại nêu  <br /> biết trung bình của các số rồi thì ta sẽ tìm được cái gì?<br /> <br /> c.  Dạng 3: Dạng toán trung bình cộng của dãy số cách đều:<br /> <br />           Đối với những bài tập dạng này sẽ được chia thành 2 loại:<br /> <br />           ­ Loại bài dành cho dãy số có số số hạng lẻ.<br /> 25<br />          ­ Loại bài dành cho dãy số có số số hạng chẵn.<br /> <br /> * Ví dụ 1: Tìm 5 số lẻ liên tiếp có tổng là 105.<br /> <br /> * Phân tích: Ta biết rằng 2 số lẻ liên tiếp cách nhau 2 đơn vị. Vậy số thứ ba  <br /> (là số  chính giữa dãy số) của 5 số  lẻ  liên tiếp bằng trung bình cộng của 5 số  đó. <br /> Từ đó tìm ra các số khác. <br /> <br /> Cách 1                                                    Bài giải:<br /> <br /> Vì dãy có 5 số lẻ liên tiếp nên số chính giữa chính là trung bình cộng của 5 số.<br /> <br />                Số chính giữa ( số thứ 3 ) là:   105 : 5 = 21<br /> <br /> Số thứ hai là:  21 – 2 = 19<br /> <br /> Số thứ nhất là: 19 – 2 = 17<br /> <br />                                            Số thứ tư là: 21 + 2 = 23<br /> <br /> Số thứ năm là: 23 + 2 = 25<br /> <br />                        Đáp số: 17; 19; 21; 23; 25<br /> <br />  Cách 2 :     Phân tích: Vì hai số  lẻ  liên tiếp hơn kém nhau 2 đơn vị  nên nếu ta  <br /> xem số tự nhiên thứ  nhất là 1 đoạn thẳng thì số  tự  nhiên thứ  hai là 1 đoạn thẳng  <br /> như thế và thêm 2 đơn vị. Cứ tiếp tục như thế ta sẽ có sơ đồ:<br /> <br /> Số thứ nhất<br /> 2<br /> Số thứ hai<br /> 2 2<br />            105<br />  Số thứ ba<br /> 2 2 2<br />                5 lần số thứ  nhất <br /> Số thứ tư<br /> 2 2 2 2<br /> là:  <br /> Số thứ năm<br />                         105 – ( 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 + 2 ) = 85<br /> <br />                   Số thứ nhất là:   85:5 = 17<br /> <br />                   Số thứ hai là:     17 +2 = 19<br /> <br /> 26<br />                   Số thứ ba là: 19 +2 = 21<br /> <br />                  Số thứ tư là: 21 +2 = 23<br /> <br />                   Số thứ năm là:  23 +2 = 25<br /> <br />                                                          Đáp số: 17, 19, 21, 23, 25<br /> <br /> d. Dạng 4:    Dạng toán liên quan đến bản chất của số  trung bình cộng  <br /> trong một dãy<br /> <br /> Đối với dạng này, giáo viên cần cho học sinh nắm được bản chất sau: Nếu ta  <br /> xem trung bình cộng của một dãy số  có n số là 1 đoạn thẳng thì tổng của n số  đó <br /> chính là có  n đoạn như thế gộp lại.<br /> <br /> * Ví dụ: Lân có 20 viên bi, Long có số bi bằng một nửa số bi của Lân, Quý có <br /> số bi nhiều hơn trung bình cộng của 3 bạn là 6 viên. Hỏi Quý có bao nhiêu viên bi?<br /> <br /> Cách 1                                            <br /> <br />                                            Bài giải:<br /> <br />                                   Số bi của Long là:<br /> <br /> 20 : 2 = 10 ( viên bi )<br /> <br />                                    Số bi của Long và Lân là:<br /> <br /> 10 + 20 = 30 ( viên bi )<br /> <br />                                    Trung bình cộng số bi của 3 bạn là:<br /> <br />         ( 30 + 6 ) : 2 = 18 ( viên bi )<br /> <br />                                               Số bi của Quý là: <br /> <br /> 18 + 6 = 24 ( viên bi )<br /> <br /> Đáp số: 24 viên bi<br /> <br /> Cách 2                                           <br /> 27<br /> Phân tích: Ta xem trung bình cộng số  bi của 3 bạn là 1 đoạn thẳng thì tổng  <br /> số  bi của 3 bạn là 3 đoạn như  thế  gộp lại. mà số  bi của Lân đã biết, số  bi của  <br /> Long ta sẽ tính qua Lân. Từ đó ta tính được số bi của Quý<br /> <br /> Số bi của Long là: <br /> <br />                                    20 : 2 = 10 (hòn)<br /> <br />  Số bi của Long và Lân là: <br /> <br />                                    10 + 20 = 30 (hòn)<br /> <br />  Trung bình cộng số bi của 3 bạn là: <br /> <br />                                    ( 30 + 6 ) : 2 = 18 (hòn)<br /> <br />  Số bi của Quý là: <br /> <br />                                    18 + 6 = 24 (hòn)<br /> <br />                                                            Đáp số: 24 hòn<br /> <br />     Từ việc thống kê được một số  lỗi sai lầm học sinh thường mắc phải khi giải  <br /> các bài toán Tìm số  trung bình cộng, tôi đã đưa ra một số  biện pháp nhằm khắc <br /> phục, đó là:<br /> <br /> ­ Cần suy nghĩ về tình huống bài toán để hiểu ý nghĩa các số đã nêu trong bài  <br /> toán, xác định đâu là cái đã cho, đâu là cái phải tìm.<br /> <br /> ­ Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ hoặc bằng ngôn ngữ kí hiệu ngắn gọn. Thông  <br /> qua đó để thiết lập mối liên hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm.<br /> <br />         ­ Phân tích bài toán để tìm cách giải. Kết quả của bước này là xác định một  <br /> trình tự để giải toán.<br /> <br />        ­ Lần lượt thực hiện các phép tính theo trình tự giải đó. Có để đi tới đáp số.  <br /> Cần thử  lại sau mỗi phép tính và đáp số  để  tự  kiểm tra xem mình đó chắc đóng <br /> chưa, sau đó viết cẩn thận  bài giải vào vở.<br /> <br /> 28<br /> 2.2.6  Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh học sinh<br /> <br /> Xây dựng mối quan hệ Gia đình – Nhà trường có vai trò quan trọng trong tất  <br /> cả các môn học. Riêng phân môn Toán đặc biệt là giải toán có lời văn thì giáo viên  <br /> cần có biện pháp phối kết hợp cùng gia đình để  rèn luyện kỹ  năng giải toán cho  <br /> học sinh, đó  cũng chính là một trong những nội dung giá của Thông tư  30/2014/ <br /> TT­BGDĐT, cụ thể:<br /> <br /> ­ Đề nghị phụ huynh thường xuyên theo dõi dành quỹ thời gian hợp lý để kèm <br /> các em học giải toán khi cần.<br /> <br /> ­ Cung cấp các thông tin về tình hình học tập, sai lầm và lỗi hay gặp của học  <br /> sinh để phụ huynh phối hợp cùng uốn nắn sửa chữa.<br /> <br /> ­ Cung cấp các số  liệu về  môi trường làm việc của trẻ  để  phụ  huynh nắm  <br /> được như: Quy cách bàn – ghế phù hợp với trẻ, khoảng thời gian hợp lý để học. <br /> <br /> ­ Phối hợp cùng gia đình học sinh động viên giúp đỡ  học sinh bằng các hình <br /> thức như điện thoại, sổ liên lạc,…<br /> <br /> 2.2.7  Linh hoạt trong lựa chọn cách kiểm tra và đánh giá học sinh theo  <br /> TT30/2014/TT­BGDĐT<br /> <br /> Trong quá trình dạy học, giáo viên có sổ  nhật kí ghi lại những vấn đề  học <br /> sinh chưa nắm được để có biện hỗ trợ hướng dẫn học sinh làm bài. Quan tâm tới <br /> mức độ hoàn thành từng nhiệm vụ của học sinh để giúp các em vượt qua khó khăn. <br /> Hiện nay giáo viên không được ra bài tập về nhà nhưng không vì thế mà học sinh  <br /> có thể quên kiến thức đã học. Giáo viên cần có biện pháp củng cố bài cũ trước khi  <br /> vào bài mới, bổ sung bù đắp kiến thức còn thiếu cho học sinh kịp thời để  các em <br /> có thể học tốt hơn bài học mới.<br /> <br /> Trong quá trình dạy học, giáo viên cũng cần có sự  khen ngợi động viên học  <br /> sinh kịp thời dù sự tiến bộ của các em rất nhỏ. Động viên học sinh tham gia nhận  <br /> <br /> 29<br /> xét, góp ý bạn trong quá trình học tập. Tổ  chức các hoạt động dạy học trên lớp  <br /> linh hoạt. Có thể vận dụng môn hình dạy học nhóm, dạy học theo đối tượng. Giáo <br /> viên cũng cần nghiên cứu kỹ chuẩn kiến thức kỹ năng của từng bài học để  giảng  <br /> dạy hợp lý, tránh quá sức đối với học sinh.<br /> <br />         Việc nhận xét quá trình làm việc của nhóm cũng không nên qua loa, đại khái. <br /> Càng đưa ra nhận định cụ  thể  càng giúp học sinh tích lũy nhiều kinh nghiệm cho  <br /> những ho
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2