Tả cây đào mùa xuân
Cây đào (danh pháp khoa học: Prunus persica) một loài cây lẽ nguồn
gốc từ Trung Quốc, được trồng để lấy quả hay hoa. một loài y sớm rụng
thân gỗ nhỏ, thể cao tới 5–10 m. Lá của hình mũi mác, dài 7–15 cm và rộng
2–3 cm. Hoa nở vào đầu mùa xuân, trước khi ra lá; hoa đơn hay đôi, đường kính
2,5–3 cm, màu hồng với 5 cánh hoa. Quả đào cùng với quả của anh đào, mận, mơ
các loại quả hạch.Quả của một hạt to được bao bọc trong một lớp vỏ gcứng
(gọi là "hột"), cùi thịt màu vàng hay ánh trắng, có mùi vthơm ngon và lớp vỏ có lông
tơ mềm như nhung.
Tên gọi khoa học persica lẽ từ niềm tin ban đầu của người châu Âu cho
rằng đào có nguồn gốc ở khu vực Ba Tư (Persia) (hiện nay Iran). Sự đồng thuận lớn
trong gii các nhà thực vt học ngày nay đã cho rằng nó nguồn gốc từ Trung Quốc
được đưa vào Ba cũng như khu vực Địa Trung Hải theo con đường lụa vào
khoảng thời gian ban đầu của lịch sử nhân loại, có lẽ vào khoảng thiên niên kỷ 2 TCN
(Huxley và những người khác, 1992).
Các giống đào trồng được chia thành hai loại "hột rời" và "hột dính", phụ
thuộc vào việc hột dính với cùi thịt hay không; cả hai loại này đều cùi thịt trắng
hay vàng. Quả đào vi cùi thịt trắng thông thường vị rất ngọt ít vchua, trong
khi loại cùi thịt màu vàng thông thường v chua kèm theo vị ngọt, mặc điều
này cũng sự dao động lớn. Cả hai màu thông thường đều các vệt đỏ trong lớp
thịt của chúng. Loại đào cùi trắng, ít chua phổ biến nhất tại Trung Quốc, Nhật Bản
và các quốc gia châu Á xung quanh, trong khi người châu Âu và Bắc Mỹ ưa thích loại
có cùi thịt màu vàng và có vị chua hơn.
Đào được biết đến tại Trung Quốc và Nhật Bản không chỉ như một loại quả
phổ biến còn gắn liền với nhiều truyện dân gian và tín ngưỡng. Momotaro (Đào
Thái Lang), một trong những nhân vật bán lịch sử và cao quý nhất tại Nhật Bản, được
sinh ra trong một quả đào khổng lồ trôi theo dòng sông.
Tại Trung Quốc, quả đào được coi là được các vtiên ăn do các tính chất huyền
của đối vi sự trường thọ dành cho những người ăn nó. Ngọc Hoàng, vthần cai
quản thiên đình, v tên Tây Vương Mẫu. Tây Vương Mẫu mời các vị tiên ăn
những quả đào trường sinh và như thế đã đảm bảo cho sự tồn tại vĩnh cửu của họ. Các
vị tiên được Tây Vương Mẫu thết đãi một bữa tiệc sang trọng tại hội bàn đào. Các vị
tiên phải chờ đợi 6.000 năm để được bữa tiệc sang trọng này; cây đào tiên chỉ ra
sau mỗi một nghìn năm và cần tới 3.000 m để m quả chín. Các bức tượng bằng
ngà voi họa lại những người tham dự bữa tiệc của Tây Vương Mẫu thông thường
ba quả đào.
Quả đào đóng một vai trò quan trọng trong n ngưỡng Trung Hoa biểu
tượng của sự trường thọ. Một ví dụ liên quan đến quả đào chuyện vTrương Đạo
Lăng (张道), được nhiều người cho người đã sáng lập ra Lão giáo. Trương Quả
Lão (張果老), mt trong số Bát Tiên của người Trung Quốc, thường được họa lại
mang theo quả đào trường sinh. Hoa đào cũng được đánh giá cao trong văn hóa Trung
Hoa, tương tự như hoa mai (mơ).
Đào một trong những cây ăn quả quan trọng nhất, sản lượng toàn thế giới
hàng năm đạt tới 7 - 8 triệu tấn. Cách đây n 300 năm, Đào đã được trồng ở các tính
miền Tây Bắc Trung Quốc, hiện nay Đào được trồng nhiều các nước: Trung Quốc,
Mỹ, Ý, Pháp, Nhật, Achentina… ở nước ta, Đào được trồng nhiều ở các tỉnh: Lào Cai,
Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Đào cũng được trồng vùng núi các tỉnh miền Bắc
nhưng hiệu quả kinh tế kém, ở vùng đồng bằng, Đào được trồng chủ yếu để cho hoa là
chính.
Đào vị thơm, ngon, giàu chất dinh dưỡng. Trong 100g cùi thịt quả Đào
0,9g protein, 0,1g lipit, 7g gluxit, 8mg canxi, 20mg phốtpho, 10mg sắt, 2mg caroten,
8,3mg Vitamin B1, 2mg Vitamin B2, 6mg Vitamin C, các axit hữu : xitric, tactric,
clorogenic. Đào rất bổ dưỡng nhưng không nên ăn nhiều Đào tính m, vị ngọt,
chua, ăn nhiều dễ sinh bốc hoả, đầy chướng bụng, sinh mụn nhọt.
Ngoài thịt quả, các bộ phận khác của cây Đào đều là những vị thuốc quý. Nhân
hạt Đào (Đào nhân) vị đắng ngọt, tính bình vào 2 kinh tâm và can, tác dụng phá
huyết tan ứ, làm tan đờm, nhuận tràng, điều hchức năng quan hấp, giảm ho,
chữa bế kinh, đau bụng kinh, cao huyết áp, viêm ruột thừa, tụ huyết sưng đau do chấn
thương, điều trị chứng tắc nghẽn mạch máu.
Rễ Đào: Dùng ngoài da chữa sưng đau, sắc uống chữa viêm gan vàng da.
Nhựa thân cây Đào: Chữa kiết lỵ ra máu, đái tháo đường, viêm phế quản.
Cành Đào: Chữa sốt rét.
Đào: amygdalin, axit tanic, cumarin. Thường dùng Đào diệt sâu bọ:
Ngâm vào nước tù đọng diệt được bọ gậy, cho vào hố xí diệt được giòi, đun lấy nước
chữa lở ngứa, ghẻ, viêm âm đạo.
Hoa Đào: tác dụng hạ khí, tiêu báng nước, lợi tiểu. Dầu hoa Đào làm kem
bôi mặt, da mặt sẽ mịn màng.