ĐẶT VẤN ĐỀ
Việc giáo dục di sản - đưa các loại hình di sản văn hóa vào giới thiệu, giảng
dạy trong nhà trường là một trong những giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa thường được các nhà quản lý văn hóa đề cập đến trong nhiều
năm qua.
Theo các chuyên gia, di sản văn hóa là tài sản vô giá, góp phần làm nên bản
sắc riêng của từng địa phương, từng nước; là chất liệu gắn kết cộng đồng, dân tộc;
là cơ sở để sáng tạo những giá trị tinh thần mới và giao lưu, hội nhập giữa cộng
đồng dân tộc và các quốc gia. Trước nguy cơ một số di sản bị mai một, mất đi; có
trường hợp bị biến dạng, không giữ được các giá trị nguyên bản, đòi hỏi các nhà
hoạt động giáo dục, văn hóa phải tìm cách tháo gỡ. Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch Đặng Thị Bích Liên khẳng định, việc đưa di sản văn hóa vào dạy
trong các nhà trường cũng là cách để người địa phương biết quý trọng và bảo vệ di
sản, phát huy giá trị của di sản, tạo ra nguồn lực cho địa phương.
Nhằm góp phần giáo dục toàn diện học sinh, gìn giữ và phát huy giá trị của
di sản văn hoá vì lợi ích của toàn xã hội và truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các
dân tộc Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã
ban hành văn bản số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL ngày 16/1/2013 về việc Hướng
dẫn sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm giáo dục thường
xuyên. Tài liệu này sẽ góp phần hiện thực hóa văn bản này của 2 Bộ, tạo điều kiện
cho giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ của mình sau khi đã được tiếp thu trong các đợt
1
tập huấn mà Sở tổ chức trước đó.
NỘI DUNG
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN VÀ SỬ DỤNG DI SẢN TRONG QUÁ TRÌNH DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ DI SẢN
1. Nhận dạng di sản
a. Khái niệm về di sản
Di sản văn hóa Việt nam bao gồm di sản văn hóa vật thể và văn hóa phi vật
(bao gồm di sản văn hóa và di sản thiên nhiên) là sản phẩm tinh thần, vật chất có
giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được truyền từ đời này sang đời khác.
b. Đặc điểm của di sản văn hóa Việt Nam
- Di sản văn hóa Việt Nam là sự kết tinh từ sự sáng tạo văn hóa của cộng đồng 54
dân tộc anh em, trải qua 1 quá trình lịch sử lâu đời, kế thừa và tái tạo qua nhiều thế hệ.
- Di sản văn hóa Việt Nam là những giá trị sáng tạo từ việc học hỏi, giao lưu
và kế thừa văn minh nhân loại.
- Di sản văn hóa Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa phi vật thể có sức sống
mạnh mẽ, đang được bảo tồn và phát huy.
c. Phân loại di sản
- Di sản văn hóa Việt Nam được chia thành hai loại: Di sản văn hóa vật thể
và di sản văn hóa phi vật thể.
Di sản văn hóa vật thể: Là sản phẩm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao
gồm di tích lịch sử- văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.
Di sản văn hóa phi vật thể: là sản phẩm tinh thần gắn liền với cộng đồng cá
nhân, vật thể và không gian có liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể
hiện bản sắc cộng đồng và truyền từ thế hệ này sang thế hệ sang thế hệ khác.
Di sản văn hóa vật thể bao gồm:
- Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm, và các giá di vật, cổ
2
vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Danh lam thắng cảnh còn gọi là di sản thiên nhiên là cảnh quan thiên nhiên
hoặc địa điểm có sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có
giá trị lịch sử thẩm mỹ, khoa học.
- Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
- Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn
hóa, khoa học, có từ 100 năm tuổi trở lên.
- Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý
hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học.
Di sản văn hóa phi vật thể bao gồm:
- Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam.
- Ngữ văn dân gian, bao gồm sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò vè, câu đố,
truyện cổ tích, truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt
khác được chuyển tải bằng lời nói hoặc ghi chép chữ viết.
- Nghệ thuật trình diễn dân gian, bao gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu và
các hình thức trình diễn dân gian khác.
- Tập quán xã hội, bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi lễ
và các phong tục khác.
- Lễ hội truyền thống
- Nghề thủ công truyền thống.
- Tri thức dân gian.
2. Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học, giáo dục phổ thông
Di sản là một nguồn nhận thức, một phương tiện trực quan quý giá trong dạy
học nói riêng, giáo dục nói chung. Vì vậy, sử dụng di sản trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thông có ý nghĩa quan trọng.
- Góp phần đẩy mạnh hướng dẫn hoạt động nhận thức cho học sinh.
3
- Giúp học sinh phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức.
- Kích thích hứng thú học tập của học sinh.
- Phát triển trí tuệ của học sinh.
- Giáo dục nhân cách học sinh.
- Góp phần phát triển một số kĩ năng sống của học sinh.
+ Kĩ năng giao tiếp.
+Kĩ năng lắng nghe tích cực.
+ Kĩ năng trình bày suy nghĩ, ý tưởng.
+ Kĩ năng hợp tác.
+ Kĩ năng tư duy phê phán.
+ Kĩ năng đảm nhận trách nhiệm.
+ Kĩ năng đặt mục tiêu.
+ Kĩ năng quản lý thời gian.
+ Kĩ năng tìm kiếm, xữ lý thông tin.
- Tạo điều kiện tổ chức quá trình hoạt động của giáo viên và học sinh một
cách hợp lý.
3. Một số vấn đề khi khai thác, sử dụng giá trị các di sản trong dạy học
lịch sử ở trƣờng phổ thông
+ Mọi di sản đều có giá trị.
+ Di sản luôn ở xung quanh chúng ta.
+ Cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cán bộ nghiên cứu, cơ quan quản lý di sản.
+ Nhà trường có trách nhiệm khuyến khích, tạo điều kiện cho việc sử dụng
di sản như nguồn học liệu để trau dồi hiểu biết về di sản và rèn luyện phương pháp
học tập và kỹ năng sống cho học sinh.
II. SỬ DỤNG DI SẢN TRONG DẠY HỌC TÍCH CỰC
4
1. Những yêu cầu về sử dụng di sản trong dạy học tích cực
- Đảm bảo mục tiêu của CTGDPT và mục tiêu GD di sản.
- Xác định nội dung và thực hiện các bước chuẩn bị chu đáo.
+ Công việc chuẩn bị (Nội dung, phương tiện, thời gian, ...)
+ Tiến hành hoạt động với di sản (Ghi chép, quan sát,...)
+ Kết thúc hoạt động (Phát biểu cảm nghĩ, ..
+ Đánh giá hoạt động (Nhận xét chung, viết thu hoạch, hệ thống câu hỏi trắc
nghiệm...).
- Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, tạo điều kiện cho học sinh
trải nghiệm.
- Kết hợp đa dạng các hình thức thực hiện.
2. Một số phƣơng pháp dạy học tích cực sử dụng di sản
2.1. Quan niệm
2.2. Một số phương pháp truyền thống theo tinh thần đổi mới.
- Trình bày miệng.
- Sử dụng đồ dùng trực quan.
2.3. Sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại
2.3.1. Dạy học nêu vấn đề
2.3.2. Dạy học theo dự án
2.3.3. Sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học
3. Các hình thức dạy học, tổ chức hoạt động giáo dục với di sản
3.1. Khai thác, sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học ở trường phổ thông.
3.2. Tiến hành bài học tại nơi có di sản
3.2.1. Các quan điểm tiếp cận
3.2.2. Nghiên cứu, khai thác di sản.
5
3.2.3. Yêu cầu tiến hành bài học tại di sản
- Thứ nhất: Đảm bảo tốt công tác chuẩn bị( nội dung, địa diểm, kế hoạch...
- Thứ hai: Nội dung bài học tại di sản phải đảm bảo tính chính xác, bám sát
nội dung mà di sản phản ánh.
- Thứ ba: Bài học tại địa điểm có di sản phải phải phát triển được các hoạt động
nhận thức tích cực, độc lập óc quan sát, đặc biệt là tư duy độc lập của học sinh.
- Thứ tư: Bài học tại di sản phải giúp học sinh “ trực quan sinh động” các
chứng tích, hiện vật, phản ánh các kiến thức của môn học mà các em đang tìm hiểu.
- Thứ năm: Phải tổ chức cho học sinh tự học trong và sau giờ học.
3.2.4. Các bước tiến hành bài học tại di sản
- GV giới thiệu những nét cơ bản về nội dung kiến thức có liên quan đến di sản.
- Có thể mời 1 cán bộ địa phương,.... trình bày nội dung phù hợp với bài học.
- GV chốt lại những vấn đề chủ yếu, nhất là những vấn đề chủ yếu trong
chương trình học.
3.3. Tổ chức tham quan học tập tại nơi có di sản phải được tổ chức chặt chẽ.
3.4. Tổ chức tham quan ngoại khóa - trải nghiệm di sản.
3.5. Sử dụng di sản để tổ chức các hoạt động ngoại khóa.
4. Kiểm tra đánh giá việc sử dụng di sản trong dạy học
- Có thể trình bày miệng, hoặc trình bày 1 sản phẩm trên giấy, một bài báo cáo...
- Trong các bài kiểm tra định kỳ, thường xuyên nên thiết kế 1 câu hỏi liên quan...
- Trong quá trình dạy học với di sản, GV có thể hướng dẫn học sinh tự đánh
giá kết quả học tập của mình. GV nên làm mẫu nhận xét. HS có thể bắt đầu bằng
cách viết những suy xét của mình ra giấy hoặc nói với những bạn khác. Sau đó có
thể giúp học sinh tiến tới những hình thức đánh giá phức tạp hơn bằng cách GV
đưa ra những câu hỏi như:
+ Có thể cho tôi biết em đã làm gì khi tiến hành bài học tại địa điểm có di sản?
6
+ Ấn tượng lớn nhất trong em là gì?...
5. Quy trình thực hiện một bài học tại di sản
Quy trình được xây dựng trên cơ sở các bước, nội dung và hoạt động của mỗi
bước này hoàn toàn phụ thuộc vào sự sáng tạo của giáo viên. Các hoạt động cần linh
hoạt, không rập khuôn, máy móc. Quy trình này đặc biệt nhấn mạnh vào việc tổ chức
cho học sinh học tập tại di sản, có thể ứng dụng cho các giờ học trên lớp trong điều
kiện giáo viên có sự chuẩn bị tốt về nội dung di sản mình định sử dụng trong tiết học.
5.1. Bước chuẩn bị cho bài học tại di sản
- Học sinh:
+ Tự sưu tầm các tư liệu thông tin liên quan đến chuyên đề dưới sự hướng
dẫn của giáo viên : Hiện vật, ảnh, bài báo, các đoạn văn trong sách.
+ Sưu tầm trên mạng có kiểm chứng.
+ Hỏi chuyện cha mẹ, anh chị, hàng xóm,...
+ Học sinh tự đánh giá, phân tích các tư liệu đó bằng cách chia sẽ các thông
tin theo nhóm, lớp .
- Giáo viên;
+ Đọc và nghiên cứu trước tài liệu về di sản.
+ Soát xét các kiến thức học sinh đã có liên quan đến bài học.
+ Xem xét học sinh mong muốn gì với bài học.
+ Liên hệ và phối hợp với các cán bộ phụ trách di sản.
5.2. Tổ chức hoạt động dạy học
- Không bắt học sinh nghe quá nhiều hoặc chỉ thụ động trả lời câu hỏi của
giáo viên.
- Hãy để học sinh xem, tiếp cận, trải nghiệm cùng di sản.
- Tổ chức các hoạt động cho học sinh làm việc nhóm, các hoạt động cần gắn
liền với chủ đề bài học, mục đích bài học và lứa tuổi học sinh.
7
- Các hoạt động cụ thể gồm:
+ Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung bài học thông qua các di sản đã
được lựa chọn để học sinh được trải nghiệm và hưởng thụ
+ Giao nhiệm vụ, bài tập thông qua các hoạt động cho từng học sinh hoặc
theo nhóm.
+ Giao nhiệm vụ cho học sinh xem, khảo sát,tìm hiểu, hiểu đúng ý nghĩa, giá
trị của di sản, tìm kiếm đúng các thông tin để điền vào phiếu học tập theo chủ đề
bài học đã được soạn sẵn
+ Học sinh có thể ghi lại cảm nhận riêng của mình trong quá trình xem với
từng hiện vật hoặc từng nhóm hiện vật một cách ngắn gọn vào sổ cảm tưởng hoặc
vở của mình.
+ Các nhóm học sinh thảo luận và chia sẽ với nhau thông tin, kiến thức mới
và cảm xúc của mình theo những vấn đề mà giáo viên hướng dẫn.
5.3. Báo cáo kết quả sau khi học tập
- Cho học sinh tự trình bày thu hoạch nhóm của mình
- Khuyến khích làm việc theo nhóm
- Các hoạt động cụ thể bao gồm:
+ Tổ chức thảo luận, chia sẻ giữa các nhóm trong lớp về những thông tin thu
được trước và trong quá trình đi thăm di sản.
+ So sánh, liên hệ, đánh giá các nguồn thông tin khác nhau...
+ Mỗi học sinh tự viết thu hoạch, cảm nhận riêng của mình...
+ Giáo viên chọn ra những bài hay nhất cho học sinh trình bày
+ Cho học sinh tự tổ chức trưng bày các sản phẩm làm ra trong cả hai hoạt
động như trên: Các tư liệu, hiện vật sưu tầm được, các sản phẩm thủ công, các bài
8
thu hoạch, gắn với nội dung trưng bày vừa được xem.
CHƢƠNG II: SỬ DỤNG TƢ LIỆU VỀ CÁC DI SẢN Ở QUẢNG BÌNH PHỤC VỤ GIẢNG DẠY LỊCH SỬ DÂN TỘC
I. CÁC DI SẢN CÓ THỂ ĐƢỢC GIỚI THIỆU TRONG QUÁ TRÌNH
GIẢNG DẠY LỊCH SỬ DÂN TỘC
- Bài 13. Việt Nam thời nguyên thuỷ
- Di tích khảo cổ học Bàu Tró.
- Di tích khảo cổ học Cồn Nền
- Bài 14. Các quốc gia cổ đại trên đất nƣớc Việt Nam
+ Di tích thành nhà Ngo.
+ Di tích thành Lồi Cao Lao Hạ.
- Bài 15. Thời Bắc Thuộc và cuộc đấu tranh giành ĐLDT (từ thế kỉ II đến thế kỉ X)
- Bài 16. Thời Bắc Thuộc và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc (tiếp theo)
- Bài 17. Quá trình hình thành và phát triển của nhà nƣớc phong kiến
(Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV)
- Bài 18. Công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế trong thế kỉ X - XV
+ Di tích lăng mộ Hồ Cưỡng
+ Di tích lăng mộ Hoàng Hối Khanh.
+ Di tích Điện Thành Hoàng Vĩnh Lộc.
- Bài 19. Những cuộc chiến đấu chống ngoại xâm ở các thế kỉ X-XV
- Bài 20. Xây dựng và phát triển văn hoá các thế kỉ X - XV
- Bài 21. Những biến đổi của nhà nƣớc phong kiến trong các thế kỉ XVI - XVII
+ Di tích sông Gianh.
+ Di tích hệ thống lũy Đào Duy Từ.
- Bài 22. Tình hình kinh tế ở các thế kỉ XVI - XVII
9
+ Di tích lò gốm Mĩ Cương
+ Đền Truy Viễn Đường
+ Làng Xuân Hồi
- Bài 23. Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nƣớc, bảo vệ
Tổ quốc cuối thế kỉ XVIII
- Bài 24. Tình hình văn hoá ở các thế kỉ XVI - XVIII
+ Di tích đền mẫu Liễu Hạnh.
+ Đình làng Lũ Phong
+ Di tích Đình Lí Hòa
- Bài 25. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá dƣới triều Nguyễn (nửa đầu
thế kỉ XIX)
+ Di tích Quảng Bình Quan.
+ Di tích thành Đồng Hới.
II. TƢ LIỆU VỀ CÁC DI SẢN
1. Di chỉ khảo cổ học Bàu Tró
Bàu Tró là tên một hồ nước ngọt thuộc phường Hải Thành, nằm phía Bắc thành
phố Đồng Hới. Các nhà khảo cổ học đã nhiều lần tiến hành khai quật và đã phát hiện
rất nhiều hiện vật của người nguyên thủy còn lưu giữ trong lòng đất. Qua nghiên cứu,
10
người ta đã khẳng định văn hóa Bàu Tró xuất hiện khoảng cuối thời đại đá mới.
Đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa Bàu Tró là sự phổ biến loại rìu, bôn có
vai xuôi bên cạnh loại rìu bôn hình thang, mặt cắt ngang, thân hình bầu dục hay hình
thấu kính. Loại hình bôn thân cong chiếm tỉ lệ cao hơn rìu. Các công cụ này được làm
từ hai loại nguyên liệu chính là đá trầm tích biến chất và đá silic, được mài toàn thân
nhưng chưa hết vết ghè đẽo. Đồ trang sức bằng đá đã xuất hiện nhưng vẫn còn hiếm.
Hiến mới phát hiện 34 tiêu bản gồm vòng tay, hạt chuỗi hình ống, hình khuyên tai và
nhẫn. Trong đó vòng tay là phổ biến nhất. Điều đáng lưu ý là có một số hạt chuỗi làm
bằng đá ngọc được cưa, khoan, mài và đánh bóng trau chuốt….
Đồ gốm văn hóa Bàu Tró hết sức phong phú về loại hình và hoa văn trang
trí. Có thể khái quát thành những đặc trưng nổi bật như: Phổ biến loại gốm thô,
thành phần cấu tạo xương gốm là đất sét pha nhiều hạt cát thô và vụn nhỏ nhuyễn
thể. Loại hình đồ gốm đa dạng, bao gồm các loại: nồi, bình, vò, bát, đĩa, cốc …
Loại hình gốm đặc trưng cho giai đoạn sớm là nồi có miệng gần thẳng, đáy
nhọn, nặn bằng phương pháp dải cuộn kết hợp với bàn đập và hòn kê … Hoa văn
điển hình trên đồ gốm văn hóa Bàu Tró là văn khắc vạch kiểu khuông nhạc được
trang trí trên nền văn thừng hay chải và được coi là có mặt sớm nhất trong nghệ
thuật trang trí gốm cổ ở Việt Nam. Một đặc trưng nổi bật nữa là đồ gốm tô màu.
Có hai loại gốm tô màu: đỏ và đen. Màu đen cũng có hai loại: đen bóng và đen ánh
chì. Đây chính là điểm khởi đầu cho truyền thống gốm tô màu ở Việt Nam…
(Khảo cổ học tiền sử - sơ sử miền Trung - Tây Nguyên của Lê
Đình Phúc và Nguyễn Khắc Sử, trang 77, 78; NXB Đại học Huế - 2006)
2. Di chỉ khảo cổ học Cồn Nền
Di chỉ Cồn Nền thuộc thôn Pháp Kệ, xã Quảng Phương, huyện Quảng
Trạch. Đây là một di chỉ khảo cổ học có hiện vật phong phú bao gồm cả đồ gốm,
đồ đá, đồ đồng. Đồ đá có cuốc, rìu, bôn, đục. Kĩ thuật đẽo đá, khoan, cưa đá đã
được phổ biến tạo nên những công cụ đá có kiểu dáng đẹp, chủ yếu được làm bằng
đá silic. Đồ gốm có nồi, niêu, vò, bát… được làm bằng tay là chủ yếu, có trang trí
hoa văn thừng thô, hoa văn thừng mịn, văn song nước, hoa văn chấm gãi … Các
11
hiện vật tìm thấy đã chứng minh cách đây 3500 năm đến 4000 năm cư dân Cồn
Nền đã có cuộc sống định cư thành làng xã lâu dài. Họ có một nền nông nghiệp lúa
nước khá phát triển; đời sống vă hóa tinh thần phong phú. Cư dân Cồn Nền đã biết
làm đẹp bằng các vòng tay, vòng cổ bằng đá, trang trí các đồ vật bằng màu đỏ thổ
hoàng, màu đen ánh chì và các loại hoa văn.
Di chỉ Cồn Nền (thuộc văn hóa Bàu Tró) là một mắt xích trong mối liên hệ
giữa hai thời đại đồ đá và đồ đồng ở Quảng Bình nói riêng và miền Trung nói chung.
(Lược theo Quảng Bình di tích và danh thắng -
Ban quản lí di tích Quảng Bình - Năm 2002)
3. Di tích Thành Lồi Cao Lao Hạ
Di tích lịch sử thành Lồi Cao Lao Hạ còn gọi là thành khu Túc nằm ở bờ nam
sông Gianh, thuộc địa phận làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch. Theo sử
cũ, thành được xây khoảng cuối thế kỉ III, được củng cố, mở rộng hơn ở thế kỉ IV.
Người Chăm sau khi giành được độc lập đã cho xây dựng nhiều thành
quách, các công trình phòng thủ quân sự nhằm bảo vệ quốc gia. Quy tắc chung của
người Chăm pa trong quá trình xây thành là họ thường chọn những nơi xung yếu,
gần cửa sông, cận biển hoặc ngã ba sông, lấy sông làm trục chính và thường nằm ở
bờ nam sông. Địa hình tự nhiên (đắc địa) được lợi dụng tối đa nhằm tăng cường
tính phòng thủ của tường thành và hào lũy; thành thường có cấu trúc kép, vòng
thành phía ngoài có khuynh hướng dựa vào địa hình tự nhiên, vòng thành bên
trong được đắp khá quy chỉnh.
Thành Lồi Cao Lao Hạ cũng được xây dựng theo nguyên tắc đó. Thành nằm
ở vị trí khá hiểm yếu bên bờ nam sông Gianh, lấy sông làm trục chính, có núi bọc
phía tây - nam sang đông - nam. Nếu bỏ qua những ngọn núi phía Tây thì vị trí của
tòa thành nằm ở điểm cao nhất, xung quanh thành là đồng ruộng phì nhiêu với hệ
thống sông ngòi khá thuận lợi về mặt giao thông, giao thương - một đặc điểm dễ
nhận thấy ở các tòa thành, đền tháp Chămpa.
Theo Thủy kinh Chú, thành được “xây giữa hai con sông Lô Dung và Thọ
Linh, chu vi 6 dặm 170 bộ, xây gạch cao hai trượng, trên lại có tường cao một
trượng, có nhiều lỗ rỗng, trên tường gạch có lát ván, trên ván dựng năm tầng gác, 12
trên gác có nóc, trên nóc có lầu. Lầu cao7,8 trượng, tháp cũng 5,6 trượng, thành
có 13 cửa, tất cả các cung điện đều hướng về phía Nam. Chung quanh thành có
21.000 ngôi nhà, dân chúng ở bao vây chung quanh”.
Một góc hào và bờ thành Lồi Cao Lao Hạ còn lại
Theo khảo sát thực địa của các nhà nghiên cứu thì thành Lồi Cao Lao Hạ có
dạng hình chữ nhật, chiều rộng bắc nam khoảng 200m, chiều dài đông tây khoảng
270m, cao khoảng 2m, chân thành rộng khoảng 10m, mặt thành rộng 5m. Thành có
3 cửa (cửa Nam, cửa Bắc và cửa Đông). Xung quanh tòa thành là thửa ruộng hẹp
chạy vòng theo bức tường thành và thấp hơn so với các thửa ruộng xung quanh đó.
Từ vị trí địa lý với những dấu tích bờ thành còn sót lại ở thành Cao Lao Hạ, chúng
ta thấy rằng, tuy không được xây dựng theo cấu trúc kép như thường thấy ở các
thành Chăm khác nhưng có sự bao bọc của dãy núi Trường Sơn và dòng sông Son
ở phía Tây, sông Gianh ở phía Bắc đã tạo nên hào lũy tự nhiên cho tòa thành,
khiến vị trí của nó trở nên hiểm yếu, đắc địa hơn.
Năm 2005, Viện khảo cổ học và Bảo tàng Tổng hợp Quảng Bình phối hợp
tiến hành khai quật, khảo sát thành Lồi Cao Lao Hạ và phát hiện được một số hiện
vật như gạch Chăm làm bằng đất nung, các mảnh gốm, hũ... và đặc biệt là những
mảnh đầu ngói ống trang trí hình thủy quái (kala), đặc trưng của vật liệu kiến trúc
Chămpa. Ngoài ra, sự có mặt của những phiến đá to dài, khá bằng phẳng dưới chân
thành và những viên gạch nung có kích thước 18cm x 10cm x 40cm giống như
những viên gạch người Chăm thường dùng để xây dựng các công trình kiến trúc 13
của mình. Đặc biệt những lớp gạch được xếp chồng lên nhau mà không có lớp vữa
kết dính, một kỹ thuật xây khá phổ biến của người Chăm.
Thành Lồi Cao Lao Hạ gắn liền với một thời kỳ tồn tại và phát triển mạnh
mẽ quốc gia Lâm Ấp (Chămpa) trên đất Quảng Bình; là một trong những công
trình kiến trúc thành lũy độc đáo, ẩn chứa tài năng, trí tuệ của người Chăm. Cùng
với chiến lũy tự nhiên Đèo Ngang, thành Lồi đóng vai trò quan trọng trong việc
phòng thủ vùng biên địa cực Bắc của quốc gia Lâm Ấp, góp phần ổn định đời sống
chính trị - xã hội trên vùng đất này.
Theo Thành Lồi Cao Lao Hạ của Lê Mai - Minh Đức (trang thông tin
điện tử tỉnh Quảng Bình) và Quảng Bình thời Khai Thiết của Phan Viết Dũng.
4. Di tích Thành nhà Ngo
Thành được đế chế Chiêm Thành xây dựng nên. Từ năm 1069 trở về trước
đất Lệ Thủy thuộc Chiêm Thành. Vua Chiêm đã cho xây thành để trấn giữ phên
dậu phía bắc với Đại Việt.
Vị trí của thành được ghi trong “Ô châu cận lục” của Dương Văn An là:
“Thành ở xã Uẩn Áo huyện Lệ Thủy. Sông Bình Giang (Kiến Giang) chảy phía
trước, sông Ngô Giang (hói Quy Hậu) chẹn phía sau, Hai dòng đều Tây Bắc hợp
làm một. Ba mặt có sông, một mặt giáp núi, chính là nơi hiểm yếu của nước nhà,
phên dậu cuả Hóa thành vậy. Cửa Nam có tấm đá khắc ba chữ Ninh Viễn Thành”.
Xưa thành được xây bằng đất và đá, cao 5m, rộng 5m có chỗ 10m. Chu vi
khoảng 5000m. Thành có bốn cữa Đông - Tây - Nam - Bắc. Mỗi cửa có điếm canh
ở trên. Những dấu tích của thành Ninh Viễn nay vẫn còn, như Bàn thề, Bàn giáo,
nằm trên đất “Trưa Kênh” nối từ thành ra đến giáp hói Quy Hậu. Từ năm 1945
phân lại địa giới, thành Ninh Viễn thuộc về làng Quy Hậu. Các cụ xưa nói rằng:
Dân gian gọi thành Ninh Viễn là thành Nhà Ngo là vì, ở mỗi cửa thành và góc
thành xưa có một chòi canh. Tiếng địa phương quê ta gọi là “chòi doi”, thổ ngữ cổ
thì “ngó” và “doi” đồng nghĩa. Lâu dần “nhà ngó” gọi chệch ra thành “nhà ngo”.
Lược theo các bài viết trên trang thông tin điện tử tỉnh
14
Quảng Bình và Quảng Bình thời khai thiết của TS. Phan Viết Dũng.
5. Di tích lăng mộ Hồ Cƣỡng
Hồ Cưỡng sinh vào khoảng niên hiệu Đại Trị (1358 - 1369), đời Trần Dụ Tông.
Ông đã từng làm Giám Quân Tả Thánh Dực và làm Đại Trị châu lộ Diễn Châu. Sách
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập 2, Bản kỷ, quyển 8, trang 194 Viết: ’’Quý Dậu năm
thứ 6 (1393) Minh Hồng Đức thứ 26 mùa xuân tháng Giêng lấy Hồ Cưỡng làm Giám
Quân Tả Thành Dực (Cương người ở Diễn Châu), Quý Ly ngầm tìm được dòng dõi
họ Hồ định đổi theo họ cũ mới đem Cưỡng làm người tâm phúc.’’ Cuối thế kỷ XIV,
Hồ Cưỡng được Lê Quý Ly (Hồ Quý Ly) lúc bấy giờ với tước Đại Vương phong làm
Chánh đội trưởng chỉ huy một đạo quân trên 2.400 quân vào đánh Chiêm Thành ở
miền Thuận Hóa. Vào đây ông lấy thêm một bà vợ, chiêu dân lập ấp, khai khẩn đất
đai và đã trở thành ông tổ họ Hồ khai canh vùng Lý - Nhân - Nam. Trong miếu thờ ở
khuôn viên mộ họ Hồ có câu: ’’Thần Hiền khai khẩn Lý - Nhân - Nam’’. Dòng họ Hồ
ở Nhân Trạch từ đó được sinh sôi đông đúc. Ông là vị tướng được coi là có tài, đánh
giặc nhiều nơi, thắng nhiều trận giòn giã. Gia phả họ Hồ Nhân Trạch có ghi lại những
trận đánh do ông chỉ huy như trận đánh ở cửa sông Nhật Lệ, ở Bàu Tró, ở Phú Hội...
Con cháu họ Hồ ở Quảng Bình, Nghệ An đều đông đúc, nhiều người thành
đạt. Vì có nhiều công lao đối với quê hương, đất nước nên nhân dân làng Quỳnh
Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An đã rước bài vị ông Hồ Kha (cha Hồ Cưỡng) và bài vị
của Hồ Cưỡng về thờ trong thành hoàng làng. Cả hai cha con ông đều được vua
Khải Định sắc phong là Dực Bảo trung hưng thần 7/1925).
Ở Quảng Bình, sau khi sắc phong nhà vua cũng cho xây khuôn viên lăng mộ
thuộc địa phận xã Nhân Trạch, huyện Bố Trạch tỉnh Quảng Bình. Lăng mộ có
thành bao quanh xây bằng gạch thời Nguyễn, trước cổng là hai trụ biểu, trong cổng
là bức bình phong, mặt chính diện của bức bình phong có đắp nổi hình đầu rông.
Phần mộ là một khối vữa dày hình bán nguyệt úp sấp, phía trên có hai hình khối
đặt hình hai con rùa ngoảnh mặt về hai hướng Đông - Tây. Phía trước mộ có tấm
bia bằng đá, mặt trước bia có khắc bốn câu thơ do vua Khải Định ban tặng.
Di tích lăng mộ Hồ Cưỡng ở Nhân Trạch - Bố Trạch có giá trị lịch sử tiêu
15
biểu - là nơi an nghỉ của một vị tổ có công khai cơ lập ấp ở Quỳnh Đôi - Quỳnh
Lưu - Nghệ An và Nhân Trạch - Bố Trạch - Quảng Bình. Di tích có giá trị giúp
chúng ta hiểu thêm về thân thế, sự nghiệp của Hồ Cưỡng trong lịch sử dân tộc.
Ông là danh tướng - niềm tự hào của hai dòng họ Hồ ở Quảng Bình và Nghệ An.
Lược theo bài viết Hồ Cưỡng ông tổ vùng Lý - Nhân - Nam
(Trang Thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình); sách Quảng Bình di tích và danh thắng.
6. Di tích lăng mộ Hoàng Hối Khanh
Đền thờ Hoàng Hối Khanh tại thôn Thượng Phong 2
Miếu thờ Hoàng Hối Khanh (thôn Hà Thanh - Phong Thủy)
16
Lăng mộ Hoàng Hối Khanh (Đại Giang- Trường Thủy)
Lăng mộ Hoàng Hối Khanh nằm trên một khu đất bằng phẳng, non nước
hữu tình, gần núi An Mã, thuộc thôn Đại Giang, xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy.
Miếu thờ Hoàng Hối Khanh tọa lạc trên một khu đất thiêng tại thôn Hà Thanh, xã
Phong Thủy, huyện Lệ Thủy.
Lăng mộ và miếu thờ được xây dựng vào năm Thiệu Trị thứ 6 (1845), về sau
được trùng tu vài lần. Lăng mộ và miếu thờ xây theo dáng cổ, có mặt bằng hình
chữ nhật. Tổng thể hai kiến trúc đều được xây đăng đối theo đường thần đạo, xung
quanh có tường bao bọc. Hàng năm, vào ngày 6/6 âm lịch - ngày mất của Hoàng
Hối Khanh và lễ kì yên 2/9 - cầu cho quốc thái an, nhân dân Lệ Thủy lại tổ chức
cúng tế - tưởng niệm một danh tướng có công lớn với dân tộc nói chung và với
vùng đất Lệ Thủy Quảng Bình nói riêng.
Ông sinh năm 1363, mất năm 1407, người thôn Bái Trại, xã Định Tăng,
huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1384, ông thi đỗ Thái học sinh (tương
đương học vị Tiến sĩ sau này). Làm quan dưới triều Trần - Hồ, trong giai đoạn vận
nước rối ren, khó khăn, phức tạp, hoạt động trên nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự,
ngoại giao, kinh tế ông đã thể hiện đầy đủ tài năng, phẩm chất của một người trung
17
nghĩa ái quốc. Đối với vùng đất Quảng Bình, trong thời gian làm tri huyện Nha
Nghi (Lệ Thủy) từ 1385 đến năm 1391 ông đã có những đóng góp lớn trong việc
khai khẩn đất đai, phát triển kinh tế bằng mô hình điền trang, tạo điều kiện cho Lệ
Thủy phát triển về mọi mặt.
Theo ghi chép của sử cũ, khi vào làm tri huyện Nha Nghi, ông đã nghiên
cứu kĩ lưỡng thực địa và chọn vùng đất nằm giữa hai con sông Bình Giang và Ngô
Giang (vùng tiếp giáp giữa Phong Thủy và Liên Thủy) để đóng huyện sở. Sau đó
ông trở ra Thanh Hóa, Nghệ An chiêu tập dân của 12 dòng họ gồm họ Hoàng,
Phạm, Trần, Lê, Thân, Khổng, Đào, Phan, Diệp, Bạch, Nguyễn, Võ vào khai hoang
lập điền trang cùng với dân sở tại gồm tù binh Chiêm Thành và người Việt được
đưa vào từ thời Lí Thánh Tông.
Hoàng Hối Khanh khai khẩn được 500 mẫu đất, lập thành một điền trang
rộng lớn có trung tâm chỉ huy là thành Ninh Viễn (nằm trên địa bàn hai làng Uẩn
Áo, Quy Hậu thuộc Liên Thủy ngày nay). Mô hình điền trang của ông có kiểu kiến
trúc trong thành ngoài thị (cách thành khoảng 2km là chợ Tréo) và các làng nghề
vây quanh trong khuôn khổ của nền kinh tế tự cung tự cấp. Thời đó, các làng được
gọi là Kẻ hoặc Nhà. Kẻ làm nghề nông chiếm đa số: Kẻ Tiểu (Thượng Phong -
Phong Thủy), Kẻ Đợi (Đại Phong - Phong Thủy), Kẻ Tuy (Tuy Lộc - Lộc
Thủy)…; Kẻ làm nghề chài có Kẻ Soi (Xuân Hồi - Liên Thủy); Kẻ Tréo (Chợ
Tréo). Các Nhà chủ yếu là làng nghề thủ công như Nhà Vàng (Hoàng Giang)
chuyên sản xuất công cụ lao động cày, hái, đục, chàng…; Nhà Mòi (Mai Hạ)
chuyên làm nghề dệt, trông dâu nuôi tằm; Nhà Ngo (Uẩn Áo) chuyên sản xuất đồ
gốm nồi niêu, ấm đất… Mô hình điền trang của Hoàng Hối Khanh đã làm cho
vùng đất Lệ Thủy vốn nghèo nàn trở thành một vùng trù phú, giàu có, một trung
tâm kinh tế, chính trị lớn hơn nhiều so với quy mô của các điền trang thời bấy giờ.
Trên cơ sở phát triển kinh tế Hoàng Hối Khanh đã nổ lực xây dựng tiềm lực
địa phương vững mạnh. Ông thực hiện chính sách khuyến nông, tích trữ quân
lương phòng khi có chiến tranh. Trong huyện và trong điền trang của mình ông
chăm lo luyện tập quân sĩ, sẵn sàng chiến đấu khi giặc đến. Nhờ vậy, quân đội của
Hoàng Hối Khanh khi làm tri huyện Nha Nghi đã đóng góp nhiều cho các cuộc
18
chiến tranh bảo vệ biên cương phía Nam của Đại Việt.
Có thể nói, trong thời gian làm quan ở Quảng Bình, Hoàng Hối Khanh đã để lại
một dấu ấn sâu sắc đối với lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Lệ Thủy.
Sau khi ổn định tình hình Lệ Thủy, Quảng Bình, triều đình điều ông vào trấn
giữ vùng biên viễn phía Nam châu Hóa. Nhà Trần ngày càng suy yếu, giặc Minh
âm mưu xâm lược nước ta, ông được điều ra làm An phủ sứ lộ Tam Đái (1394);
sau đấy được điều về kinh Tây Đô giữ chức Phát vận sứ ty (1394) để chuẩn bị
chống giặc Minh.
Năm 1400, Hồ Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần. Giặc Minh mượn cớ ''phò Trần
diệt Hồ'' để xâm lược nước ta. Hoàng Hối Khanh ra làm quan cho nhà Hồ, được
thăng chức Đồng tri Khu mật sứ (1401) để đối phó với bọn xâm lược Minh. Ông
cho lập xưởng đúc rèn vũ khí, chế tạo súng thần cơ là loại ''Đại bác'' lúc bấy
giờ. Năm 1404, ông làm thái thú Đông Lộ, Hồ Hán Thương sái ông chỉ huy, đốc
suất xây dựng hệ thống phòng thủ thành Đa Bang kéo dài từ sông Bạch Hạc qua
núi Tản Viên, lòng sông Bạch Hạc được đóng cọc phòng thủ đường thuỷ.
Sau khi nhà Hồ bị quân Minh đánh bại, Hoàng Hối Khanh không hợp tác với
quân Minh đã cùng thân thuộc lên thuyền chạy ra biển. Đến cửa Đan Huy (tức Cửa
Hội-Nghệ An) ông nhảy xuống sông tuẫn tiết. Tướng giặc Trương Phụ lấy đầu
đem bêu ở chợ Đông Đô. Sau khi Lê Lợi kháng chiến đánh đuổi giặc Minh ra khỏi
bờ cõi, đã truy phong Sắc thần cho ông: "Tước Phong Dực bảo trung hưng, Linh
phù đoan túc tôn thần''.
Để tưởng nhớ công ơn vị tiền khai khẩn, dân làng Thượng Phong (tức làng
Kẻ Tiểu-Tiểu Phúc Lộc khi xưa) đã lập đền thờ bên hữu ngạn sông Kiến Giang.
Hàng năm cứ đến ngày mồng 6 tháng 6 âm lịch dân làng tổ chức tế lễ long trọng.
Ngày 23 tháng 7 năm 1998 Bộ Văn hoá-thông tin ra Quyết định số 1422
QĐ/VHTT công nhận và cấp Bằng di tích lịch sử danh tướng Hoàng Hối Khanh.
Lược theo Quảng Bình ẩn tích thời gian Hội Di sản Văn hóa Việt Nam tỉnh
19
Quảng Bình - 2008; Quảng Bình di tích và danh thắng.
7. Di tích Điện Thành Hoàng Vĩnh Lộc
Điện Thành hoàng làng Vĩnh Lộc (xã Quảng Lộc huyện Quảng Trạch) được
xây dựng ở đầu làng, trên một thế đất cao, hướng về phía Nam nhìn ra sông Hòa
Giang. Điện được xây từ năm 1483. Năm 1815, Điện được xây dựng hoàn chỉnh
thành một quần thẻ di tích gồm sân ngoài, san trong, bình phong, tiền điện, hậu
điện, miếu tả, miếu hữu. Điện Thành hoàng Vĩnh Lộc là một kiểu kiến trúc độc đáo
trong loại hình kiến trúc thời phong kiến ở Quảng Bình. Điện xây khá đẹp, phối trí
hài hòa, công phu. Đặc biệt hình tượng rồng được thể hiện với nhiều góc độ: Rồng
nhìn chính diện, nhìn nghiêng, rồng bay trên trời, rồng dưới đất lên, rồng chầu cách
điệu ở các đầu đao, rồng chầu mặt nguyệt.
8. Điện thờ Thƣợng thƣ Đại Hành khiển Trần Bang Cẩn
Trần Bang Cẩn thuộc dòng dõi hoàng tộc, là người có công đánh dẹp giặc
Chiêm Thành , được vua Trần Minh Tông tấn phong Đại hành khiển, hàm Thượng
thư. Năm 1318, sau khi hoàn thành nhiệm vụ cùng đại quân nhà Trần dẹp yên nạn
xâm lấn của Chiêm Thành, Trần Bang Cẩn được phép vua đem quân quay về chiêu
dân lập điền trang tại ấp Thị Lang (nay là làng Vĩnh Lộc, xã Quảng Lộc, huyện
Quảng Trạch), hướng dẫn nhân dân khai khẩn đất đai, mở mang cương vực ven
sông Gianh, vùng hạ lưu tạo lập làng xóm, kiến thiết ruộng đồng. Trần Bang Cẩn
lúc đó vừa chỉ huy quân đồn trú vừa là chủ điền trang của hai giáp Đông và Đoài.
Ông đã vận dụng chính sách ngụ binh ư nông, cho binh lính luân phiên sản xuất,
tập luyện vừa bảo vệ vùng đất phía Nam Hoành Sơn vừa xây dựng trang trại, dạy 20
dân sản xuất tạo nên vùng làng xóm trù phú ở hai xứ Đông, Đoài (nay là hai xã
Quảng Lộc, Quảng Hòa).
Trần Bang Cẩn được tôn phù là Thành Hoàng làng, lập đề thờ. Điện thờ
Trần Bang Cẩn nhìn ra bờ sông Hòa Giang (một nhánh sông nhỏ chảy về bến đò
Cửa Hác của sông Gianh). Điện là điểm tham qua du lịch văn hóa tín ngưỡng dân
gian của Quảng Trạch nói riêng và Quảng Bình nói chung.
Nguồn: Quảng Bình ẩn tích thời gian - Hội Di sản Văn hóa Việt Nam
tỉnh Quảng Bình - 2008 và Lược sử Quảng Bình của TS. Nguyễn Khắc Thái.
9. Thành Đồng Hới
Thành Đồng Hới thuộc phường Hải Đình, trung tâm thành phố Đồng Hới.
Đây là di tích kiến trúc - nghệ thuật thành luy quân sự. Thành được xây dựng từ
năm Gia Long thứ 16 (1812) bằng đất. Thành được xây ngay trên mảnh đất xưa kia
chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho xây lũy Trấn Ninh và đồn Động Hải - cắm chốt
trên con đường độc đạo xuyên việt từ Bắc vào Nam. Năm 1824, Minh Mạng đã
nhờ một một sĩ quan Pháp thiết kế lại thành Đồng Hới rồi xây lại bằng gạch theo
kiểu vô băng. Thành có kiến trúc đẹp, hình múi khế, 4 múi to, 4 múi nhỏ. Những
múi nhỏ nằm theo hướng Tây Nam - Đông Bắc và Tây Bắc - Đông Nam. Chu vi
thành 465 trượng (1860m), cao 1 trượng (4m). Mặt thành rộng 1m35, móng thành
dày 2m. Mặt chính của thành quay về hướng Tây. Thành có ba cổng lớn phía Bắc,
Đông, Nam. Trên cổng có vọng canh 8 mái. Cổng thành xây cuốn kiểu tam quan
thông ra ngoài bằng chiếc cầu gạch cũng xây vòm cuốn. Bên ngoài thành cách
khoảng 5 - 6m là con hào rộng 7 trượng (khoảng 28m) nay còn khoảng 15 - 20m.
Mặt trong đắp đất phụ thêm dày 3 trượng (12m). Phần đắp phụ này đã bị san
phẳng, dấu tích còn lại rất ít. Thành xây bằng gạch, vữa bằng mật mía, không tô
trát. Các đầu múi khế là các vọng lâu và là sở chỉ huy khi có các cuộc chiến đấu
xảy ra. Năm 1842, vua Thiệu Trị đi Bắc tuần, ghé lại Động Hải và ra lệnh cho quan
Thượng thư Bộ Công cùng quân dân địa phương tu sửa thành chắc chắn hơn.
Thành Đồng Hới ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của lịch sử Quảng
21
Bình từ thế kỉ XIX đến nay.
Cửa đông thành Đồng Hới
22
Một đoạn còn lại của thành Đồng Hới
Quảng Bình Quan
23
10. Lũy Trƣờng Dục và Lũy Nhật Lệ
Cổng Võ Thắng - một phần của lũy Đầu Mâu thuộc xã Vĩnh Ninh huyện Quảng Ninh
Một đoạn còn lại của lũy Nhật Lệ - dưới chân tháp Hải Đăng (Đồng Hới)
Sau trận chiến 1627, Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ nhận thấy nguy cơ một cuộc
chiens tranh mới là khó tránh khỏi nên đã hiến kế với chúa Nguyễn cho xây dựng
hệ thống thành lũy phòng thủ. Được chúa Sãi thuận ý, Đào Duy Từ đã trù liệu và
dựng đồ thức các tuyến lũy phòng thủ vùng hạ lưu sông Nhật Lệ - là nơi địa bàn
24
hiểm yếu, quân Trịnh có thể tấn công.
Sở dĩ ông không chọn sông Linh Giang để lấy thế hiểm trở của con sông lớn
mà đối chọi trực tiếp với quân Trịnh ở bờ Bắc bởi ông đã tính đến những bất lợi
khi phòng thủ nơi đây. Trước hết, tại bở Bắc, quân Trịnh đã xây dựng căn cứ đồn
trú vững chắc, có nơi hội quân và đóng quân, dưỡng quân, lại có địa bàn dân cư
huyện Bình Chính ở sau lưng. Quân Trịnh đang ở thế mạnh do đứng chân tại căn
cứ của mình được chuẩn bị từ trước, có hậu thuẫn phía sau. Nếu đánh nhau ở đây,
quân Trịnh trở thành quân tại chỗ, còn quân Nguyễn phải huy động từ xa đến.
Ngược lại, nếu lùi vào phòng tuyến Nhật Lệ thì quân Trịnh phải di chuyển từ xa,
qua vùng đất đồi Nam Bố Chính - bấy giờ dân cư thưa thớt, nghèo khó, khí hậu
khắc nghiệt. Quân Nguyễn lấy cái nhàn của người tại chỗ đối phó với cái nhọc của
kẻ từ xa đến tất có lợi thế. Nếu thiết lập phòng tuyến tại Linh Giang thì quân
Nguyễn dễ bị quân Trịnh dùng thủy binh tập kích cửa Nhật Lệ rồi đánh vu hồi
quân Nguyễn khiến quân Nguyễn phải một lúc đối phó 2 mặt, tiền hậu khó ứng
cứu nhau. Thứ ba, nếu phòng thủ ở Linh Giang, quân Nguyễn mất chỗ dựa về
nguồn lương thực, nhân lực trực tiếp của vùng đất trù phú hai huyện Khang Lộc,
Lệ Thủy. Thứ tư, thế đất Nam Linh Giang là thế “tử ngục”, bởi phía trước là sông
Linh Giang, phía sau là núi (Lệ Đệ, đèo Lí Hòa), sông Lí Hòa, quân Nguyễn dễ rơi
vào thế cô lập. Trong khi đó, thế đất ở phòng tuyến Nhật Lệ có chiều sâu của sông
Nhật Lệ chạy dọc theo hai chi lưu Long Đại, Kiến Giang, địa hình có hình thế chữ
nhân mà sách xưa gọi là nhân trận, khi đánh thì có thế gọng kìm, khi rút thì có thể
chia thành nhiều ngả mà địch không thể một lúc mà đánh được. Vì lẽ đó mà kế
sách của Đào Duy Từ được chúa Nguyễn Phúc Nguyên và quan lại trong phủ chúa
đồng tình.
Để đảm bảo phòng thủ chắc chắn, phòng khi nhà Trịnh huy động đại binh
đánh lớn, Đào Duy Từ cho xây hệ thống lũy có chiều lùi sâu nhất định theo hình
thế quân sự cổ truyền gọi là thế “ỷ giốc”, đó là hệ thống lũy Trường Dục. Lũy đã
được Đào Duy Từ tính toán kỹ. Ông nói: “Tôi xin hiến một bản đồ, sai quân dân
hai trấn theo đó đắp một cái lũy từ chân núi Trường Dục đến bãi Hạc Hải, ấy là
nhân hình thế đất đai mà đặt phòng thủ giữ vững biên giới, thì quân địch có đến
25
cũng không làm gì được.”
Lũy Trường Dục được xây năm 1630, là một trường thành bằng đất chắn
ngang địa hình, kéo dài từ chân núi Trường Sơn bên hữu ngạn sông Long Đại đến
bờ Tây chi lưu sông Kiến Giang. Lũy bắt đầu từ dưới chân núi Thần Đinh chạy dọc
theo sông Rào Đá đến chỗ giáp sông Nhật Lệ lại ngược lên tả ngạn, đến làng
Quảng Xá, đi qua địa phận các làng Trường Dục, Xuân Dục, Cổ Hiền tới Đình
Thôn, chạy tới bãi cát đầu phá Hạc Hải ở phía Đông. Lũy này đi qua làng Trường
Dục nên được gọi là lũy Trường Dục. Lũy được khởi công tháng 3 năm Canh Ngọ,
do chính Đào Duy Từ đứng ra lập đồ thức và điều khiển xây đắp. Để xây dựng hệ
thống lũy này, chúa Sãi đã huy động đông đảo nhân công trấn Thuận, Quảng xây
đắp trong một tháng thì xong. Lũy dài khoảng 10 - 12km (2500 trượng), có nơi cao
3m, chân rộng 6m. Lũy Trường Dục tạo thế đứng chân về phía tả ngạn sông Nhật
Lệ để dựa vào hình thế làng mạc, cánh đồng và đồi núi phía Tây mà chặn các mũi
tấn công từ phía Đông (từ đường biển đánh vào). Quân Trịnh nếu vượt sông Nhật
Lệ thì gặp nhiều chướng ngại khó qua bởi phía đông là đầm lầy Võ Xá, rồi đến bãi
cát rộng có nhiều công sự phòng thủ. Trong lũy có trại lính, kho lương.
Sau khi đắp xong lũy Trường Dục, chúa Nguyễn sai Đào Duy từ và Nguyễn Hữu
Dật đi Quảng Bình xem hình thế núi non, sông nước để bố trí quân cơ đòn trú phòng thủ.
Đào Duy Từ và Nguyễn Hữu Dật lại tấu trình chúa Nguyễn xin đắp thêm một lũy nữa
nhằm chặn quân địch khi mới đổ bộ lên sông Nhật Lệ và để phối hợp với lũy Trường
Dục chia hình thế mà bố trí quân cố thủ. Lũy này bắt đầu từ núi Đầu Mâu kéo dài ra đến
sông Nhật Lệ nên gọi là lũy Nhật Lệ hay Chính Lũy, ngoài ra còn được lấy tên các địa
danh liên quan để gọi là Lũy Đầu Mâu, Lũy Động Hải, lũy Đông Hồi...
Lũy Nhật Lệ cách lũy Trường Dục 10km về phía Bắc. Đào Duy từ và Nguyễn
Hữu Dật dựa vào thế núi Trường Sơn phía tây và vùng ruộng đồng sình lầy phía Đông
để xây dựng một chiến lũy hiểm yếu. Từ chân núi Đầu Mâu, địa hình chia làm hai dãy
đồi như hai cái càng cua ôm lấy đồng bằng rộng lớn, bùn lầy hình bán nguyệt, mùa
mưa nước lớn không qua được. Lũy Nhật Lệ được xây trên đường từ cửa Nhật Lệ - nơi
có làng Động Hải chạy về phía Nam, rồi rẽ sang phía Tây cho đến núi Đầu Mâu, cắt
ngang giữa cánh đồng nói trên, phía Bắc có sông Lệ Kì khá rộng và hai bờ đầy bùn lầy.
26
Lũy xây 8 tháng thì xong, cao 1 trượng 5 thước (khoảng 6m), ngoài đóng tường rào
bằng gỗ lim, phía trong đắp đất làm 5 bậc, trên đó voi, ngựa có thể đi được. Lũy dài
khoảng 3000 trượng (khoảng 12km), cách một trượng đặt một khẩu súng quá sơn, cách
3 - 5 trượng xây một pháo đài, đặt một khẩu đại bác. Sau khi xây xong Đào Duy Từ
cho tập kết lương thảo, xây kho thuốc súng, cử quân đồn trú canh giữ. Lũy Nhật Lệ
thành một pháo đài lợi hại của các chúa Nguyễn trong cuộc chiến tranh chống Trịnh.
Theo Lịch sử Quảng Bình từ thời tiền sử đến thế kỉ XX của TS.
Nguyễn Khắc Thái.
11. Di tích lò gốm Mĩ cƣơng
Hiện vật gốm Mĩ Cương lưu giữ tại Bảo tàng Tổng hợp Quảng Bình
Khu lò gốm sành Mĩ Cương thuộc làng Mĩ Cương cách thành phố Đồng Hới
chừng 5km về phía Tây theo đường chim bay. Làng nằm sát phía Bắc sông Mĩ Cương
- một nhánh sông nhỏ chảy ra sông Lệ Kì, nhập vào sông Nhật Lệ rồi đổ ra cửa biển
Nhật Lệ. Đây là con đường thủy thuận lợi nhất để vận chuyển sản phẩm đi mọi nơi.
Di chỉ khảo cổ học làng gốm, sành Mĩ Cương được phát hiện vào năm 1996. Qua ba
hố khai quật, các nhà nghiên cứu đã khẳng định vào thế kỉ 17,18 tại Làng Mĩ Cương,
xã Nghĩa Ninh, thành phố Đồng Hới đã có một trung tâm sản xuất đồ gốm sành có
đặc trưng là không tráng men, được nung ở nhiệt độ cao. Sản phẩm sản xuất chủ yếu
là chum, lọ, vại vò, nồi ... không những phục vụ cho sinh hoạt tại địa phương mà còn
có mặt tại tỉnh Sakai - Nhật Bản. Như vậy, gốm sành Mĩ Cương đã tham gia con
đường thương mại gốm, sành Việt - Nhật trong các thế kỉ XVII, XVIII.
27
Theo Quảng Bình di tích và danh thắng
12. Đền Truy Viễn Đƣờng
Đền Truy Viễn Đường được xây dựng thời vua Lê Trung Hưng khoảng năm
1681, thuộc thôn Vĩnh An, xã Thị Lệ, châu Bố Chánh, nay là thôn Vĩnh Phước, xã
Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Đền là nơi thờ thành hoàng làng Nguyễn Khắc Minh - người khai sinh dòng
họ Nguyễn Khắc ở Vĩnh Phước và đã có công khai phá vùng đất lưu vực sông Gianh thời Trịnh - Nguyễn phân tranh. Khuôn viên đền khoảng 300m2. Đền có ba
gian, lợp ngói liệt, kiến trúc còn mang dáng vẻ cổ xưa với những họa tiết trang trí
lân, quy, hoa, lá ... được đắp bằng vữa. Ở đây vẫn lưu giữ bức hoành phi Truy Viễn
Đường, 4 cặp câu đối bằng gỗ, các hương cổ và những sắc phong của các triều vua
nhà Nguyễn. Ở giữa đền có mộ táng và bàn thờ Quận Công Nguyễn Khắc Minh.
Thân phụ của Nguyễn Khắc Minh là ông Nguyễn Khắc Tuấn thuộc dòng dõi
khoa bảng, có lịch sử phát triển hơn 500 năm ở thôn Hoa Kinh, xã Nhân Mục, huyện
Thanh Trì, phủ Thường Tín, thuộc trấn Sơn Nam thượng nay là xã Nhân Chính,
huyện Từ Liêm, Hà Nội. Mẹ của Nguyễn Khắc Minh là bà Nguyễn Thị Chuẩn, người
làng Thị Lệ, châu Bố Chính. Từ khi sinh ra, Nguyễn Khắc Minh sống với mẹ ở làng
quê ngoại, lập ra chi họ Nguyễn Khắc ở Quảng Bình từ đầu thế kỉ XVII.
Nguyễn Khắc Minh thi đỗ Tiến sĩ đời vua Lê Trung Hưng, thường theo cha
xông pha trận mạc nên được chúa Trịnh tin dùng. Ông làm quan từ Cẩm y vệ,
Chưởng vệ, Đề Đốc, Thượng tướng quân đến chức Lại Bộ Thượng thư, được chúa
28
Trịnh phong tước Nghiêm tuân hầu rồi đến Nghiêm Quận công.
Ông có nhiều công lao trấn giữ vùng đất Bắc Bố Chính (Quảng Trạch,
Tuyên Hóa ngày nay), khai mở đất đai, bảo vệ dân nghèo được chúa Trịnh tin
dùng, nhân dân ngưỡng mộ. Khi ông mất được đưa táng vào Truy Viễn Đường.
Nhà Nguyễn kể từ đời vua Đồng Khánh trở đi đã có rất nhiều sắc phong cho ông.
Năm 1909, vua Duy Tân sắc phong ông là Thành Hoàng làng.
Trong thời kì vận động giải phóng dân tộc, đền Truy Viễn Đường là nơi hội
họp bí mật của các nhà hoạt động cách mạng, là nơi các đồng chí lãnh đạo Đảng về
chỉ đạo, phân công chuẩn bị cho cướp chính quyền ở huyện, xã. Những năm kháng
chiến chống Mĩ, đền là nơi cất giấu vũ khí của dân quân chuẩn bị tiếp vận cho trận
địa phòng không. Trong khuôn viên của đền, địa phương đã làm một ngôi nhà hầm
là nơi sinh hoạt chính trị của Đảng bộ và chính quyền sở tại.
Lược theo Quảng Bình - di tích và danh thắng
13. Di tích đền mẫu Liễu Hạnh
Di tích đền Mẫu Liễu Hạnh nằm dưới chân núi Đèo Ngang, trên khu đất khá
bằng phẳng, sát đường thiên lí Bắc - Nam trước đây. Phía sau đền là dãy Hoành
Sơn, trước mặt là hồ nước ngọt xã Quảng Đông, mặt đền quay hướng Nam.
Đền có diện tích khoảng 335m2 gồm cổng đền, bức bình phong, cổng tam
quan, hai trụ đầu lân trước điện thờ, đền Tiền và đền Hậu. Xét tổng thể, đây là một
công trình kiến trúc quy mô nhỏ, được xây bằng gạch, đá, vôi nhưng vẫn mang
29
truyền thống mĩ quan Á Đông và bảo lưu bản sắc văn hóa dân tộc.
Đền có cấu trúc cân xứng, đăng đối, hài hòa tạo nên một vẻ đẹp tôn nghiêm.
Các họa tiết trang trí có Tứ Linh (Long, Ly, Quy, Phụng), Tứ Thủ (Cầm, Kì, Thi,
Họa), Tứ Quý (Tùng, Trúc, Mai, Sen)... là các hình tượng gắn với những quan niệm,
tư tưởng, ước mơ tốt đẹp của cư dân nông nghiệp lúa nước phương Đông.
Đền Liễu Hạnh là điểm thờ Mẫu ở Quảng Bình
Trong tín ngưỡng dân gian của người Việt, việc tôn thờ Nữ Thần, thờ Mẫu là
một hiện tượng khá phổ biến và có căn nguyên lịch sử xã hội sâu xa từ truyền thống
trọng nữ, coi trọng vai trò người mẹ trong gia đình và xã hội của người Việt cổ. Đền
thờ công chúa Liễu Hạnh ở Quảng Bình có tích riêng, nhưng cũng chính là hình tượng
Mẫu Liễu Hạnh chung trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt đặc biệt phát
triển trong các thế kỉ XVI - XVIII.
Thuở xa xưa, Liễu Hạnh vốn là công chúa con Ngọc Hoàng, vì mắc lỗi trên
Thiên Đình nên chịu cảnh đày xuống trần gian ba năm. Khi xuống trần gian, Liễu Hạnh
hóa thân làm một cô gái xinh đẹp, dựng lều quán bán hàng ở chân núi Đèo Ngang. Đây
là nơi rừng núi vắng vẻ, nhưng lại nằm trên đường thiên lí Bắc - Nam nên bất kì ai qua
lại đèo đều ghé quán nghỉ chân. Hễ ai vào quán thấy chủ quán xinh đẹp nơi núi rừng cô
quạnh mà giở thói cợt nhã hoặc có ý cậy sức cậy thế mà làm điều bất chính thì sẽ bị
Liễu Hạnh công chúa trừng trị, kể cả Thái tử con vua. Vì vậy nhân dân lập đền thờ Liễu
Hạnh công chúa cầu mong được ơn trên che chở, đó cũng là gởi gắm niềm khao khát
30
cuộc sống bình an, sự cầu mong về một lẽ công bằng trong nhân dân.
14. Di tích lịch sử đình làng Thuận Bài
Đình làng Thuận Bài
Đình được xây dựng vào nửa đầu thế kỷ XVI bằng vật liệu tranh tre, nứa lá để ghi nhận
công lao của vị nhất tổ có công khai khẩn lập làng Đường Quốc Công Trần Đạt. Vào cuối thế kỷ
XIV, khi nhà Trần lung lay, nhà Hồ lật đổ lập nên vương triều Hồ, Trần Đạt - một vị tướng của
nhà Trần không chịu quy phục nhà Hồ đã cùng em là Trần Kế và Trần Thị Ngọc Tranh chạy
vào vùng đất này gây dựng cơ nghiệp tại làng An Bài, phường Quảng Thuận ngày nay. Sau khi
31
phò giúp Giản Định Đế và Trùng Quang khởi nghĩa không thành, Trần Đạt về An Bài tiếp tục
cuộc sống ẩn dật. Năm 1418, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Ông ra Lam Sơn góp công đánh đuổi
giặc Minh, được Lê Lợi ban chức Đường quốc công, các em trai ông là Thạch quốc công, cháu
gái ông là Ngọc Dung được phong là Hoàng phi của Lê Lợi.
Trải qua nhiều thế kỷ, An Bài trở thành vùng đất địa đầu trong cuộc tương tàn
giữa hai tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn. Năm 1643, chúa Trịnh đưa quân theo vua
Lê Thuận Tông vào lập tổng hành dinh ở An Bài và cho xây dựng hệ thống thành lũy sát
bờ Bắc sông Gianh phục vụ cho việc bảo vệ bờ Bắc để đánh chiếm phía Nam. Tại đây
trở thành nơi tập dượt của binh lính chuẩn bị cho đánh chiếm Nhật Lệ, Thuận Hóa,...
Đến giữa thế kỷ XIX (năm 1850), đình làng Thuận Bài được ông Trần Điển, một con
cháu trong làng làm quan Tuần vũ tại Bình Thuận tài trợ về tài chính và được ông Trần
Hồ Báu làm đốc công xây dựng lại đình làng Thuận Bài theo kiến trúc triều Nguyễn.
Đình được dời về vị trí mới cách chỗ cũ 200m theo hướng Đông.
Đình thiết kế theo hình chữ U, hai bên có tả vu hữu vu, có chuông gác trống.
Xung quanh có tường xây bao bằng đá và có ba cổng tam quan. Cổng cuốn vòm,
trên mái có đắp nổi ngói âm dương; có bức bình phong với qui an và hổ phục giữ.
Hai bên co hai cột nanh, có lưỡng nghề canh giữ. Cột kèo được chạm trỗ trang trí
hoa văn. Mái lợp bằng ngói liệt, các bờ nóc, bờ quyết có trang trí lưỡng long chầu
nguyệt đắp nổi gắn mảnh sành sứ cổ. Bên trong hậu cung có nhiều hoành phi, câu
đối và các chạm lọng cùng các đồ án thờ tự khác.
Đình làng là nơi tưởng nhớ các vị tiền bối đã có công khai khẩn, lập làng,
nơi tập trung người dân trong làng về tụ hội trong các dịp lễ Tết và hội làng. Các lễ
hội mang đậm bản sắc văn hóa của vùng đất phía Bắc sông Gianh. Mỗi lần trong
làng có người đỗ đạt qua các lần thi cử, người dân trong làng tổ chức lễ rước
chứng chỉ vào hậu đình, sau đó mở tiệc ăn mừng khoản đãi ở sân đình. Bởi vậy,
Thuận Bài luôn là địa phương có nhiều người đỗ đạt trong các kỳ thi cử được đúc
rút qua câu: “Sơn, Hà, Cảnh, Thổ, Văn, Võ, Cổ, Kim”. Theo các gia phả trong làng
thì có tới 31 vị có tên trong danh sách khoa bảng của làng.
Vào các dịp lễ Tết, đình là nơi các họ tộc trong làng tổ chức các cuộc thi, các
32
trò chơi dân gian như thi nấu cơm, làm “cổ bánh dâng thần” do chị em phụ nữ đảm
nhiệm. Ai được chọn bánh sẽ được dâng cúng lên bàn thờ chính của đình để thần
ngự lãm. Đây là tàn dư của chế độ mẫu hệ còn sót lại và tín ngưỡng thờ nữ thần rất
xa xưa của người Việt vẫn còn duy trì ở Thuận Bài; ngoài ra còn có thi đánh đu, thi
cờ người. Vào ngày 7 tháng giêng âm lịch, đình là nơi làm lễ cầu an đầu năm để
cầu mong một năm mới làm ăn phát đạt, con cháu đi làm ăn xa được may mắn, an
lành. Lễ cúng tiết thanh minh, tiết Đoan Ngọ, rằm tháng 7, rằm tháng 10 mừng
cơm mới… đều được tổ chức tại đình làng. Năm 1885, thực dân Pháp nổ súng xâm
lược nước ta. Thuận Bài có nhiều con em tham gia vào phong trào Cần Vương.
Khi Vua Hàm Nghi ra Tuyên, Minh Hóa và bị thực dân Pháp bắt năm 1888, thì
đình làng Thuận Bài là nơi địch đã đưa vua Hàm Nghi về giam giữ. Nhân dân
Thuận Bài đấu tranh để đòi gặp mặt nhà Vua. Đây là địa điểm ghi dấu nơi dừng
chân cuối cùng của vua Hàm Nghi trước khi bị Pháp bắt đi đày biệt xứ. Thực dân
Pháp đã bắt 30 người dân Thuận Bài đi làm cu li tại Roòn và họ bị dìm chết. Hàng
năm vào ngày 28 tháng 1 âm lịch, tại đình làng, nhân dân trong làng đã tổ chức
cúng tập thể cho 30 người, gọi là ngày giỗ culi.
Trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đình làng Thuận Bài là nơi tổ chức
lực lượng tập trung diễn thuyết. Tại đây, các đồng chí Trần Sớ, Trần Mạnh Hổ, Ma
Văn Thay, Trần Quang đã tập trung lực lượng huấn luyện, trang bị vũ khí để nhân
dân tham gia giành chính quyền ngày 23 tháng 8 năm 1945 thắng lợi. Cách mạng
thành công, đình được dùng làm trụ sở của Ủy ban hành chính kháng chiến. Ngày
6-1-1946, đình là nơi tổ chức bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa đầu tiên.Trong quá
trình kháng chiến chống thực dân Pháp, đình làng là nơi tổ chức quyên góp “Tuần
lễ vàng, tuần lễ đồng” và phát động nhân dân tiết kiệm “Hũ gạo nuôi quân”, tổ
chức nấu cháo cứu đói 300 người tại đình làng. Kháng chiến bùng nổ, đình làng
vẫn là nơi che giấu các cán bộ cách mạng về hoạt động: Đặng Gia Tất, Trần Hoàn,
Lê Khai, Trần Hồ Lung,...
Đặc biệt, đình làng Thuận Bài còn là nơi tập kết cho Đoàn 365 về chuẩn bị
đánh trận đồn Mỹ Hòa, là cơ sở để lực lượng công an tổ chức bắt sống tên mật
thám khét tiếng Lê Hồng Đức. Đình làng còn là địa điểm để tập trung huấn luyện
33
dân quân du kích từ năm 1949-1952. Tòa máng đình là nơi cất giấu vũ khí bí mật
của du kích xã, phối hợp thành công với bộ đội chủ lực đánh đồn Thuận Bài giết
nhiều tên Pháp, hòa chung với khí thế của phong trào “Quảng Bình quật khởi”.
Vào những năm hòa bình, đình làng là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, nơi tổ chức các sinh hoạt, hội làng rất sôi nổi. Năm 1965, đế quốc Mỹ
leo thang bắn phá miền Bắc, đình làng Thuận bài trở thành tọa độ chính của bom
Mỹ để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam. Đình làng Thuận
bài trở thành một trong 12 trạm trung chuyển lớn nhất miền Bắc. Tại đây đã tập kết
các kho hàng lớn chứa lương thực, vũ khí đạn dược chi viện chiến trường miền
Nam. Các bệ thờ, các vách ngăn được nhân dân trong làng chủ động tháo dỡ để
chứa hàng. Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, mặc cho máy bay và bom
đạn Mỹ liên tục dội xuống, nhưng hàng hóa vẫn được bốc chuyển an toàn.
Cũng tại mái đình này, đêm 9-3-1968 đã ghi nhớ gương hy sinh anh dũng
của 12 chiến sỹ trong đơn vị vận tải dũng cảm cứu hàng dưới pháo sáng và bom
Mỹ. Các anh đã được ghi ơn và công nhận liệt sỹ, chiến công của các anh đã gắn
bó với mái đình thân yêu này. Chiến tranh càng ngày càng khốc liệt hơn, đình làng
Thuận Bài trở thành trọng điểm đánh phá ác liệt bên cạnh phà Gianh. Ban chấp
hành Đảng ủy xã Quảng Thuận đã cùng với nhân dân làm tốt công tác phòng tránh,
hỗ trợ cho công nhân, bộ đội hạn chế sự thiệt hại do đế quốc Mỹ gây ra. Dân quân
Quảng Thuận tham cùng tham gia tháo gỡ thủy lôi trên sông Gianh. Đình làng là
nơi chứng kiến và là điểm tập kết dừng chân của bộ đội trên đường vào Nam đánh
giặc và còn là nơi che chở hàng nghìn lượt các em nhỏ Quảng Bình, Vĩnh Linh sơ
tán ra Bắc. Năm 1968, cảng Gianh là nơi tập kết hàng hóa trong chiến dịch VT5.
Hàng ngàn, vạn tấn hàng hóa, vũ khí, đạn dược chi viện chiến trường, đình làng
Thuận Bài một lần nữa trở thành bãi đỗ chính hàng hóa chi viện chiến trường.
Đình là một địa điểm trong hệ thống đường Hồ Chí Minh trên đất Quảng Bình, góp
phần cùng nhân dân cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Đình làng Thuận Bài là di tích lịch sử cách mạng gắn với những bước thăng
trầm của lịch sử dân tộc, ghi dấu những chiến công oanh liệt của quân dân ta trong
hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Di tích đình làng Thuận
Bài đã được xếp hạng cấp tỉnh và được trùng tu năm 1993. Đình còn là nơi gắn với 34
những sinh hoạt văn hóa mang đậm đà bản sắc của cư dân ruộng nước xứng đáng là
Trần Thị Diệu Hồng - Cổng thông tin điện tử tỉnh Quảng Bình
địa điểm du lịch tâm linh và du lịch về nguồn mỗi khi du khách đến với Quảng Bình.
15. Đình làng Thọ Linh
Đình làng Thọ Linh (xã Quảng Sơn, thị xã Ba Đồn) nằm trên khuôn đất cao
ráo chừng 500 mét vuông ngay đầu làng, phía đông giáp thôn Trung Thượng, phía
tây giáp núi Động Cao, Động Ngùi (là hai dãy núi thoai thoải, án ngữ vững chãi
sau lưng ngôi làng), phía nam hướng ra thôn Hà Sơn và dòng sông Rào Nan, con
sông hiền hòa, quanh năm tạo tác phù sa làm nên những mùa vàng trù phú, và phía
bắc giáp quốc lộ lên xã Cao Quảng.
Đình làng Thọ Linh thờ Thành hoàng và các vị có công lập làng, mở mang
tri thức cho dân làng như ông Trần Minh Nghĩa, hay thờ người có công xây dựng
ngôi đình là ông Đinh Xuân Trạc. Ở phía trên cao mặt trước ngôi đình có 5 hộp gỗ
được sơn son thiếp vàng đựng 5 đạo sắc của 5 Đức thủy tổ các họ (Trần, Mai,
Phan, Đinh, Trần Ngọc). Trước đình làng là 2 cột cổng xây cao vững chắc, có 2
câu đối: “Địa lưu thần tích hương hoa vãn niên trường tồn/Thiên mệnh thánh sinh
Thọ Linh bách kiết sử sách”.
Đình là nơi diễn ra mọi hoạt động văn hóa, tín ngưỡng trong thiết chế làng
xã. Đình làng luôn nhộn nhịp mỗi dịp tết đến xuân về, khi mọi người cùng tề tựu
mừng tuổi nhau và mừng thọ những bậc cao niên trong làng. Bởi thế, đình làng là
ngôi đền thiêng, là công trình văn hóa, tín ngưỡng luôn vẹn tuyền trong tâm thức
của mỗi người. Gia phả của 5 dòng họ ở làng Thọ Linh và cứ liệu lịch sử trên bia
đá dựng uy nghiêm trước đình làng đã khẳng định thời điểm thành lập đình làng
Thọ Linh vào khoảng giai đoạn cuối đời Trần và đầu thời Lê thuộc thế kỷ XVI:
“Cuối thời Hậu Trần có giặc Chiêm Thành quấy nhiễu. Nhà vua sai một vị tướng
tài vào đất Ô Châu dẹp loạn, tức là Đức Phù Diễn Hầu Quang Khải. Vừa dẹp giặc
vừa chiêu dân khai khẩn lập ấp. Dẹp giặc chưa yên thì Đức Hầu tiếp chiếu chỉ triệu
về dẹp giặc phương Bắc. Ngài giao binh quyền lại cho Thế tử Trần Minh Nghĩa
35
tiếp tục sự nghiệp”.
Đình làng Thọ Linh
Đình làng Thọ Linh được lập tại cồn Mã Bụt, đến năm 1781 được di chuyển về cồn
Đình, nay đổi tên thành xóm Đình. Buổi mới ra đời, mái đình tuy được lợp bằng tranh, bốn bề
chắn gỗ nhưng các vì kèo cột rường đã được chạm trổ tinh vi, kỳ công. Đình gồm 5 gian, 4 mái
và có hiên lồi bao quanh. Sau một thế kỷ tồn tại (lấy mốc dựng lại đình đầu thế kỷ XIX) tới đầu
thế kỷ XX, đình bị xuống cấp hoàn toàn, không còn giá trị sử dụng. Đến năm 1914, người có
công lớn trong việc xây dựng lại ngôi đình là Quan cố Tham tri Đinh Xuân Trạc, làm Quan Án
sát ở Thanh Hóa. Ông trực tiếp gửi thư về đề nghị với làng cho bán số ruộng dư nằm ngoài rìa
làng mà lâu nay các phú gia tự tiện thuê nhân công với giá rẻ mạt để cấy trồng nhằm thu lợi bất
chính. Số tiền bán đất được dùng để tôn tạo miếu mạo, đình chùa và dựng trường học cho dân
làng. Nhờ thế đình làng Thọ Linh mới được khởi tạo lại, vì kinh phí eo hẹp nên lúc đó chỉ dựng
lại được đình hậu theo kiểu mái vòm cổ điển. Quan cố Tham tri Đinh Xuân Trạc về nghỉ hưu tại
quê nhà khi tuổi đã già, vẫn tiếp tục đôn đốc dân làng góp công tích của để xây nốt đình tiền.
Đình làng Thọ Linh là địa điểm mà cụ Lãnh binh Mai Lượng, người con ưu tú của đất Quảng
Sơn phò vua Hàm Nghi trong phong trào Cần Vương (1885-1896) để kháng Pháp và tay sai.
Ông đã tụ họp dân làng và nghĩa quân để truyền đạt chiếu Cần Vương nhằm
quyên góp lương thực, tiền bạc, vũ khí ủng hộ các nghĩa sĩ Cần Vương. Không lâu
36
sau, thực dân Pháp cho quân lùng quét xóm Đình hòng lấy đình làng làm đồn bốt
để ngăn chặn các con đường giao thông huyết mạch từ Ba Đồn lên Cao Mại, Tuyên
Hóa, vào Bố Trạch, ra Hà Tĩnh và đi các tỉnh từ Bắc chí Nam. Đình làng Thọ Linh
sau đó được lệnh phá theo chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đình Thọ Linh tiếp tục đồng hành cùng
công cuộc thống nhất dân tộc. Đình được dùng làm kho dự trữ quốc gia chứa quân
trang, quân dụng, lương thực, thực phẩm nuôi quân; là nơi dừng chân của nhiều
cán bộ chiến sĩ quân đội hành quân ngày đêm vào Nam chiến đấu.
Hòa bình lập lại, để phục vụ đời sống tín ngưỡng và nhu cầu thưởng thức văn hóa
của người dân, chính quyền xã Quảng Sơn được nhân dân đồng sức, đồng lòng đã tôn tạo
lại nguyên mẫu ngôi đình làng. Chi tiết đặc biệt có ở đình làng Thọ Linh là dân làng thờ
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong đình, với ý niệm hướng thiện. Với bề dày truyền thống
xuyên suốt tiến trình lịch sử, đình làng Thọ Linh đã được UBND tỉnh Quảng Bình xếp
hạng di tích cấp tỉnh tại Quyết định số 1573/QĐ-UBND ngày 19 tháng 6 năm 2014.
16. Di tích lăng mộ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh
Lăng mộ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh được xây dựng trên ngọn đồi rộng của núi
An Mã, xã Trường Thủy, huyện Lệ Thủy, cách trung tâm huyện lị 25km về phía Nam.
Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh tại Thác Ro, Lệ Thủy, Quảng Bình
Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh là bậc công thần tướng quốc đời chúa
Nguyễn Phúc Chu (Hiến Tông Hiếu Minh Hoàng đế (1691-1725 ). Ông sinh quán
37
Quảng Bình, nhưng quê gốc từ Tiền tổ ở Gia Viễn Ninh Bình. Ông nội của Lễ Thành
Hầu Nguyễn Hữu Cảnh là quan tham chiến Triều Văn Hầu Nguyễn Triều Văn, vì bất
mãn với chúa Trịnh tiếm quyền vua Lê, nên theo phò chúa Nguyễn vào Đàng trong.
Bước dừng chân đầu tiên của dòng Nguyễn Hữu vào năm 1609 do Triều Văn Hầu
định hướng là đất Quảng Bình. Khi ấy người con trai thứ năm của Triều Văn Hầu là
Chiêu Vũ Hầu Nguyễn Hữu Dật mới được 6 tuổi. Ông Dật sau này là cha của Lễ
Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh. Đến lượt Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh được sinh
vào năm 1650 tại Phước Long, xã Chương Tín, huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình.
Sinh ra trong gia đình võ tướng, am tường quốc sự, lại chứng kiến bao cảnh truân
chuyên của xã hội thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, ông đã sớm dấn thân vào cuộc chiến.
Nguyễn Hữu Cảnh đã cầm quân “Thống binh” xông pha trận mạc khi tuổi đời chưa quá
22 để phò chúa an dân, giữ yên bờ cõi. Với tài thao lược, trí tuệ thông minh và bản lĩnh
hơn người, ông đã lập nhiều chiến công hiển hách, được chúa Nguyễn Phúc Chu tin cẩn
trọng dụng ban tước Lễ Thành Hầu và cử giữ chức Cai Cơ. Năm 1692, trước việc vua
Chăm Pa là Kế Bà Tranh từ bỏ bang giao với chúa Nguyễn, có ý muốn giành đất ở phủ
Diên Ninh (Diên Khánh), chúa Nguyễn phái Nguyễn Hữu Cảnh làm thống binh cùng với
tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân đi bình định biên cương. Xuân 1693, bờ cõi
được dẹp yên, các phần đất của Chăm pa sát nhập vào Đàng Trong. Nguyễn Hữu Cảnh y
lệnh chúa lập ra Thuận Thành trấn, tháng 8 năm ấy đổi thành phủ Bình Thuận.
Tháng 7/1693, Nguyễn Hữu Cảnh trở về Phú Xuân xin chúa Nguyễn Phúc Chu
chiêu mộ dân nghèo khắp xứ Thuận - Quảng đưa vào nam khẩn đất. Tháng 2 năm
1698, chúa Nguyễn Phúc Chu cử Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất
kinh lược xứ Đồng Nai (gồm cả Sài Côn Bến Nghé). Thuở ấy Ông cho đóng đại bản
doanh tại Cù Lao Phố còn gọi là Đông Phố (Đồng Nai). Ngoài mỏm đất này ra chung
quanh toàn là rừng núi âm u: phần đất đai hoang hóa đầy hiểm trở, sông rạch thì
chằng chịt, gai góc ngút ngàn, đầy rẫy hang ổ của các loài mãnh thú, ác ngư...
"...Đồng Nai địa thế hãi hùng
Dưới sông sấu lội, trên giồng cọp um...’’
Phần nhân chủng tuy gồm các sắc tộc: Khơme, Chăm, Việt, Hoa... nhưng lại
38
quá ít ỏi vắng vẻ, đời sống sinh hoạt còn quá thô sơ nghèo nàn. Với ý chí quả cảm
và lòng yêu nước thương dân, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh kiên quyết vượt gian
nguy, vạch ra kế sách cấp thiết cùng quân dân gấp rút liên tiếp thi hành:
- Khai hoang mở cõi
- Dàn xếp biên cương
- Bảo vệ chủng dân và vùng đất mới
- Thiết lập cơ sở hành chính thôn xã có quy củ
- Lập phủ Gia Định và chính thức cho sát nhập vào bản đồ Đại Việt
- Đề xuất công trình chiêu mộ lưu dân và khuyến nông
Tận tâm tận lực trong vòng chưa đầy một năm, Thống suất Nguyễn Hữu
Cảnh đã thành công rực rỡ trước mọi phương án do ông đề ra. Riêng công trình di
dân đã được đa số dân chúng miền Phú Xuân - ngũ Quảng hưởng ứng, nhất là nhân
dân vùng Bố Chánh (Quảng Bình) đã sốt sắng đáp lời kêu gọi của bậc lãnh tướng
đồng hương mà họ hằng kính yêu, nên đã hăng hái rủ nhau vào Đồng Nai lập
nghiệp rất đông - Điển hình bằng cả những câu ca dao thời ấy:
"Làm trai cho đáng nên trai
Phú Xuân cũng trải Đồng Nai cũng từng"
Chốn rừng rậm đầm lầy quanh vùng Đồng Nai Bến Nghé đã nhanh chóng trở
thành phủ Gia Định rộng lớn, đầy sinh khí..., mà Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã là
vị Thống suất kinh lược có công đầu trong lớp người khai sơn ra phủ Gia Định, là ân
nhân mở đường đưa dân chúng đến cuộc sống hạnh phúc ấm no tại vùng đất mới này:
"Nghĩa nhân chủng hằng tâm đắp xây Đại Việt,
Ơn biển trời lao khó gầy dựng Đồng Nai"
Không những ông là vị tướng khai biên xuất, nhà chính trị tài giỏi mà còn là
người giàu đức tính, đầy lòng nhân hậu, và có một tâm hồn thuần phác “Uống
nước nhớ nguồn", với lòng yêu, quê hương Tổ Quốc thiết tha. Đặc biệt, Ông đặt
nặng tình lưu luyến chân thành với sinh quán Quảng Bình của ông. Như ta thấy,
39
Ông đã chắt chiu đem từng tên của hai huyện Phước Long, Tân Bình ở tận Quảng
Bình vào đặt tên cho vùng đất mới khai hóa này, mà đến nay phần lớn vẫn còn.
Trước hết là hai huyện Phước Long (vùng Đồng Nai) và Tân Bình (vùng Sài Côn -
Bến Nghé). Rồi còn biết bao thôn xã khóm ấp được mang tên Bình hoặc Tân như:
Bình Dương, Bình Đông, Bình Tây, Bình Tiên, Bình Trị, Bình Long, Bình Quới,
Bình Hòa, Bình Điền, Bình Phước, ...Tân Định, Tân Hưng, Tân Khai, Tân Thuận,
Tân Mỹ, Tân Phước, Tân Thạnh...
Do công nghiệp ấy, ân đức ấy, Ông đã được nhân dân trong vùng kính trọng,
họ tỏ lòng tôn kính uy danh ông, không dám gọi tên húy luôn cả hai tên Kính và
Cảnh mà chỉ tôn xưng bằng chức tước của ông là Quan Chương Cơ, quan Thống
Suất và tôn quý gọi là Lễ Công, Đức Ông.
Sau hơn 8 năm quan hệ Việt - Miên yên ổn, triều đình Chân Lạp lại cho
quân qua đốt phá nhà cửa của dân chúng, cướp phá các dinh của ta. Chúa Nguyễn
lại lệnh cho Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam lo liệu việc biên cương.
Tháng 2 năm 1700, đại quân của Nguyễn Hữu Cảnh đóng quân ở Rạch Cá tức
Long Hồ tỉnh Vĩnh Long ngày nay. Lần này, ông cũng dùng chính sách ôn hòa,
đem nhân tâm thu phục lòng người là chính. Công cuộc an định biên cương mau
chóng hoàn tất, ông hạ lệnh dong thuyền xuôi dòng Cửu Long về Dinh Trấn.
Nhưng khi về đến ngã ba Tiền Giang - Rạch Gầm (tục còn gọi quãng này là Sầm
Giang) thì bị bệnh mất đột ngột. Khi ấy nhằm ngày 9-5 Canh Thìn (1700). Quan
quân bàng hoàng xao động, âm thầm đưa linh cữu của ông về đình cữu và huyền
táng cạnh dinh Trấn Biên Đồng Nai, thuộc thôn Bình Hoành, Cù Lao Phố.
Được tin dữ bất ngờ, Chúa Nguyễn Phúc Chu rất xót, ban sắc truy tặng Hiệp
Tán Công Thần, đặc tấn Chưởng dinh Tráng Hoàn Hầu (Vĩnh An Hầu) thụy là Trung
Cần. Truyền rằng sau đó linh hài của ông đã được cải về an táng tại Thác Ro thuộc
huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Nơi này mới đây được hậu duệ 10 đời của ông đã tìm ra
mộ và tấm bia khắc tên Ông bằng chữ Hán, được dịch là (mặt trước) Vĩnh An Hầu
Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) chi mộ, (mặt sau) ghi: Bảo Đại năm thứ 5 ngày 16, hậu duệ
là Viện trưởng Cơ mật Đại thần Thái tử Thái phó Hiển đại học sĩ Phước Môn Bá
40
Nguyễn Hữu Bài cùng con Hữu Giải và nữ thị Dương cung kính dựng bia. Xét ra mộ
chí của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh ở Thác Ro, Quảng Bình đã rất đúng hướng
địa lý đặt mộ của tiền nhân dòng Nguyễn Hữu đã chọn và truyền lại:
- Thượng Yên Mã = phía trước giáp núi Yên Mã
- Hạ Đùng Đùng = phía dưới gần phá Hạc Hải
- Trung trung nhất huyệt = khoảng trung tâm là nơi an táng được
Ở Cù Lao Phố xưa nay vẫn có lăng mộ của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu
Cảnh. Phải chăng tiền nhân khi xưa vừa làm công việc cải táng linh hài ông về
Quảng Bình, vừa đắp lại như cũ mộ huyền táng của Ông ở Cù Lao Phố để trấn an
lòng sùng kính của nhân dân vùng Đồng Nai. Ngoài ra, Thượng Đẳng Thần Lễ
Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh còn có một ngôi mộ vọng nữa ở xã Điện Thắng,
Điện Bàn, Quảng Nam. Thuở ấy, sau khi ông mất, nhân dân khắp nơi lập Đền,
Miếu thờ phụng, cùng những liễn đối hoành phi..., ghi ơn Đức Ông Lễ Thành Hầu
Nguyễn Hữu Cảnh. Ngoài đền Vĩnh Yên ở Quảng Bình, đền Binh Kính ở Biên
Hòa (Đồng Nai), còn suốt miền đồng bằng sông Cửu Long, nhưng địa phương nào
trước đã từng được đón tiếp ông hay những nơi ông đóng doanh trại đều có đền thờ
như: Cù Lao Tiêu Mộc (sau đổi là Cù Lao Ông Chưởng), Long Điền, Kiến An,
Vĩnh Ngươn, Châu Đốc, Rạch Gầm, Thới An, Bình Mỹ, Mỹ Đức, Cù Lao Phố...
Đâu đâu ông cũng được sắc phong Thượng đẳng thần. Không những người Việt
tôn thờ ông, mà người Trung Hoa cũng tỏ lòng ngưỡng mộ đặt bài vị thờ Ông tại
đền Minh Hương Chợ Lớn. Thậm chí người Chân Lạp cũng kính phục uy danh
Ông, họ lập miếu thờ ở đầu chợ Nam Vinh (Nam Vang) thờ Đương Cảnh Thành
Hoàng Nguyễn Hữu Cảnh.
Phía triều đình các vua chúa nối ngôi sau này đều có ban sắc phong tước hiệu
truy tặng cố công thần Nguyễn Hữu Cảnh. Dân ta vốn là một dân tộc có truyền thống
uống nước nhớ nguồn, cho nên trải qua hàng bao thế hệ, cho dù các nhà cầm quyền
thuộc thể chế nào, thời gian nào. và cho đến tận ngày nay cũng đều muốn tỏ lòng ghi
khắc công ơn Nguyễn Hữu Cảnh bằng mọi hình thức và ở mọi địa phương.
Theo Quảng Bình non nước huyền diệu - NXB Văn nghệ TP Hồ Chí
41
Minh - 2000 và Quảng Bình di tích và danh thắng - tập 2 năm 2002
KẾT LUẬN
Di sản văn hóa có vai trò thực sự to lớn trong việc giữ gìn và phát huy bản
sắc dân tộc. Trong dạy học, biết sử dụng di sản văn hóa để hướng đến những giá trị
về chân - thiện - mỹ thì bài giảng của người thầy mang sức sống văn hiến và có
thêm độ dày của lịch sử. Di sản văn hóa Việt Nam là sản phẩm tinh thần, vật chất
có giá trị lâu bền về lịch sử, khoa học và được lưu truyền vĩnh cửu từ thế hệ này
sang thế hệ khác. Có thể coi di sản văn hóa là một thứ của cải vô cùng quý báu mà
ông cha ta đã để lại cho con cháu muôn đời sau. Vì vậy việc nghiên cứu cách thức
sử dụng di sản trong dạy học tích cực ở bộ môn Lịch sử, trường Trung học phổ
thông là rất cần thiết và có ý nghĩa khoa học. Mặt khác việc dạy và học môn Lịch
sử tại trường Trung học phổ thông bằng cách sử dụng di sản văn hóa đang là vấn
đề được Bộ giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch hết sức quan
tâm, đẩy mạnh.
Trong bối cảnh đổi mới sâu sắc và toàn diện giáo dục hiện nay, sử dụng di
sản trong dạy học sẽ góp phần đắc lực trong việc hoàn thiện hơn nữa về phương
42
pháp giảng dạy sáng tạo môn Lịch sử sau này.
MỤC LỤC
1 ĐẶT VẤN ĐÊ
2 NỘI DUNG
Chƣơng I. Những vấn đề chung về di sản và sử dụng di sản
2 trong quá trình dạy học lịch sử ở trƣờng phổ thông
2 I Một số vấn đề chung về di sản
1 Nhận diện di sản 2
2 Ý nghĩa của di sản đối với hoạt động dạy học 3
3 Một số vấn đề khi khai thác, sử dụng giá trị các di sản trong dạy
học lịch sử ở trường phổ thông 4
4 II Sử dụng di sản trong dạy học tích cực
1 Những yêu cầu về sử dụng di sản trong dạy học tích cực 4
2 Một số phương pháp dạy học tích cực sử dụng di sản 5
3 Các hình thức dạy học, tổ chức hoạt động giáo dục với di sản 5
4 Kiểm tra, đánh giá việc sử dụng di sản trong dạy học 6
5 Quy trình thực hiện một bài học tại di sản 7
Chƣơng II. Sử dụng tƣ liệu về các di sản ở Quảng Bình phục
9 vụ giảng dạy lịch sử dân tộc
I Các di sản có thể đƣợc giới thiệu trong quá trình giảng dạy
9 lịch sử dân tộc
10 II Tƣ liệu về các di sản
1 Di chỉ khảo cổ học Bàu Tró 10
2 Di chỉ khảo cổ học Cồn Nền 11
3 Di tích Thành Lồi Cao Lao Hạ 12
4 Di tích Thành nhà Ngo 14
5 Di tích lăng mộ Hồ Cưỡng 15
6 Di tích lăng mộ Hoàng Hối Khanh 16
7 Di tích Điện Thành Hoàng Vĩnh Lộc 20
8 Điện thờ Thượng thư Đại Hành khiển Trần Bang Cẩn 20
43
9 Thành Đồng Hới 21
10 Lũy Trường Dục và Lũy Nhật Lệ 23
11 Di tích lò gốm Mĩ Cương 27
12 Đền Truy Viễn Đường 28
13 Di tích đền mẫu Liễu Hạnh 29
14 Di tích lịch sử đình làng Thuận Bài 31
15 Đình làng Thọ Linh 35
16 Di tích lăng mộ Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh 37
44
42 KẾT LUẬN