
NGUYEN PHUONG LAW & PARTNERS – CUNG CẤP TÀI LIỆU HỌC LUẬT SƯ
LÝ THUYẾT ÔN TẬP LUẬT TÀI CHÍNH PHẦN 1
1. So sánh ngân sách nhà nước và ngân sách của các chủ thể khác
Tiêu chí
Ngân sách nhà nước
Ngân sách của các chủ thể khác
Khái niệm
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước được
dự toán và thực hiện trong một
khoảng thời gian nhất định do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định để bảo đảm thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Ngân sách của các chủ thể khác là 1 dự
toán thu chi của Cá nhân, cơ quan hoặc tổ
chức dự toán và thực hiện trong khoảng
thời gian lâu dài.
Tính chất
Là một đạo luật
Là 1 dự toán thu chi
Chủ thể ban
hành
Do Quốc hội biểu quyết thông qua
trước khi thi hành
Cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức
Thực hiện
Do Chính phủ tổ chức t/hiện dưới
sự giám sát trực tiếp của Quốc hội
Không cần được cơ quan lập pháp phê
chuẩn trước khi thi hành
Các chủ thể tự qđịnh, tự chịu trách
nhiệm trong quá trình xây dựng và thi
hành
Mục tiêu
Mưu cầu lợi ích chung cho toàn thể
quốc gia
Lợi nhuận
Thời gian
Một năm
Lâu dài, không xác định được cụ thể
2. Phân biệt đơn vị dự toán ngân sách với cấp ngân sách.
Tiêu chí
Cấp ngân sách
Đơn vị dự toán
Khái
niệm
Cấp ngân sách là việc xác định phạm vi,
trách nhiệm và quyền hạn của chính
quyền các cấp, các đơn vị dự toán
ngân sách trong việc quản lý ngân sách
đơn vị dự toán ngân sách là cơ quan, tổ chức, đơn
vị được cấp có thẩm quyền giao dự toán ngân sách,
thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước

NGUYEN PHUONG LAW & PARTNERS – CUNG CẤP TÀI LIỆU HỌC LUẬT SƯ
nhà nước phù hợp với phân cấp quản
lý kinh tế - xã hội.
Vị trí, tư
cách
Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở
cấp chính quyền nhà nước –
Là bộ phận cơ bản cấu thành của hệ thống
NSNN.
Là một cơ quan, đơn vị được nhà nước thành lập hay
thừa nhận – thực hiện một nhiệm vụ được nhà nước
giao, được nhận kinh phí từ ngân sách cấp để thực
hiện nhiệm vụ đó.
Là bộ phận cấu thành của thành của một cấp NS.
được cấp ngân sách của mình phân bổ giao dự toán
để quản lý sử dụng. Riêng ngân sách xã vừa là cấp
NS vừa là đơn vị trực tiếp sử dụng NS – dưới nó
không có đơn vị dự toán.
Thẩm
quyền
Gồm quyền quyết định, phân bổ, quản lý,
giám sát kiểm tra NS của các đơn vị dự toán
thuộc cấp mình trên cơ sở được phân cấp
nguồn thu nhiệm vụ chi cho NS cấp mình
Quyền sử dụng ngân sách được giao, quyền quản lý
giám sát đơn vị dự toán cấp dưới trực thuộc.
Phạm vi
thu chi
Rộng: nguồn thu có được từ nhiều nguồn
khác nhau trong đó có nguồn thu quan trọng
từ thuế – Chi cho nhiều lĩnh vực, nhiều đối
tượng khác nhau, mức độ chi lớn.
Thu hạn chế – chỉ từ một và nguồn được phân giao
chủ yếu quản lý sử dụng nguồn kinh phí ngân sách
cấp để chi cho một nhiệm vụ, lĩnh vực được phân
công hay đối tượng trực thuộc đơn vị mình
Quyền
chủ
động và
trách
nhiệm
đối với
NS
Mức độ tự chủ cao có quyền quyết định,
quyền điều chỉnh dự toán ngân sách cấp
mình. Tự bảo đảm cân đối ngân sác cấp
mình trên cơ sở nguồn thu, nhiệm vụ chi
được phân cấp và tình hình thực tế hoạt
động thu của ngân sách cấp mình.
Mức độ tự chủ không cao, mọi hoạt động thu chi
phải theo dự toán được phân bổ, chỉ được thay đổi
dự toán NS khi có sự cho phép của cơ quan có
thẩm quyền. Được NS bảo đảm đúng số kinh phí
theo dự toán được giao.

NGUYEN PHUONG LAW & PARTNERS – CUNG CẤP TÀI LIỆU HỌC LUẬT SƯ
Chủ thể
quản lý
Hệ thống cơ quan quyền lực và cơ quan
hành chính nhà nước – hệ thống các cơ quan
tài chính các cấp .
Thủ trưởng đơn vị và bộ phận tài chính kế toán của
đơn vị;
Số lượng
Có 4 cấp ngân sách tương ứng với cấp chính
quyền.
Có nhiều đơn vị dự toán ngân sách – trong một cấp
ngân sách có đơn vị dự toán cấp I – cấp II, cấp 3
dưới cấp III . Riêng cấp xã không có đơn vị dự toán.
3. Phân tích bản chất của hoạt động quyết toán NSNN? Hoạt động quyết toán NSNN
có ý nghĩa pháp lý như thế nào?
Quyết toán NSNN là khâu cuối cùng trong một chu trình ngân sách nhằm tổng kết,
đánh giá việc thực hiện ngân sách cũng như các chính sách ngân sách của năm ngân sách
đã qua. Với hàm nghĩa đó, quyết toán NSNN trở thành một khâu quan trọng, là nhiệm vụ
của nhiều cơ quan, đơn vị từ đơn vị sử dụng ngân sách, các cấp ngân sách đến các cơ quan
quản lý ngân sách, cơ quan kiểm tra kiểm soát ngân sách cho đến cơ quan quyền lực tối cao
của mỗi quốc gia là Quốc hội
Bản chất của NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các tổ chức,
cá nhân. Nguồn thu của NSNN được hình thành chủ yếu từ việc thực hiện nghĩa vụ thu nộp
của các tổ chức, cá nhân theo luật định. Chi của NSNN lại chủ yếu phục vụ cho việc cung
cấp hàng hóa công cộng và thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước. NSNN có tác động
và chi phối mạnh mẽ đến các mặt hoạt động xã hội thậm chí đến từng gia đình thông qua
việc nhận lương của công chức nhà nước, phúc lợi công cộng và các khoản an sinh xã hội.
Chính vì vậy, khi quyết toán phải đảm bảo tính minh bạch để có sự tham gia kiểm soát đối
với hoạt động ngân sách.
- Thứ nhất, quyết toán NSNN phải giải quyết được vấn đề về số liệu ngân sách. Điều đó có
nghĩa là phản ánh được đầy đủ số liệu thu, chi ngân sách. Các khoản thu phải được hạch
toán và phản ánh đầy đủ khi báo cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mức độ đầy đủ
của quyết toán NSNN tuỳ thuộc vào quy định của pháp luật của từng quốc gia. Nhìn chung
đa số các nước quan niệm về mức độ đầy đủ của NSNN là phải phản ánh được tình hình
thu, chi quỹ NSNN; các quỹ bên cạnh và có mối liên hệ chặt chẽ với quỹ ngân sách như
các quỹ an sinh xã hội, bảo trợ xã hội… Việc giải quyết đầy đủ số liệu quyết toán cũng xuất
phát từ trách nhiệm giải trình của Chính phủ. Theo mô hình nhà nước đại diện, Chính phủ
không phải trình quyết toán NSNN trực tiếp cho từng người dân mà trình cho Quốc hội

NGUYEN PHUONG LAW & PARTNERS – CUNG CẤP TÀI LIỆU HỌC LUẬT SƯ
(hay nghị viện) là người đại diện cho quyền lực của nhân dân (cử tri). Các Nghị sỹ là những
người đại diện cho quyền lợi của cử tri có trách nhiệm xem xét bản quyết toán NSNN do
Chính phủ trình và qua đó giải toả trách nhiệm cho Chính phủ thông qua hình thức phê
chuẩn quyết toán.
- Thứ hai, quyết toán NSNN phải thể hiện được tính tuân thủ trong việc thu, chi ngân sách.
Chính phủ giải trình về quyết toán không chỉ là các vấn đề về số liệu mà còn phải giải trình
được việc quản lý thu, chi ngân sách trong niên độ có tuân thủ các quy định của pháp luật
cũng như đạt được các yêu cầu mà Quốc hội đã đề ra khi quyết định ngân sách. Như chúng
ta đã biết, ngân sách hàng năm phải được lập dự toán và trình cơ quan có thẩm quyền quyết
định trước khi thực hiện. Khi thực hiện ngân sách phải tuân theo các quy định của pháp luật
về thu, chi ngân sách. Theo luận điểm này, ngoài báo cáo đầy đủ số liệu thu, chi NSNN,
Chính phủ còn phải giải trình trước Quốc hội rằng việc thực hiện các khoản thu, chi cũng
như chính sách ngân sách đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật cũng như tuân thủ
dự toán NSNN đã được quyết định. Quốc hội khi xem xét phê chuẩn quyết toán không chỉ
xem xét vấn đề về số liệu quyết toán mà còn xem xét khía cạnh tuân thủ pháp luật của việc
thực hiện ngân sách.
- Thứ ba, quyết toán NSNN phải báo cáo được tính hiệu lực, hiệu quả của các khoản thu,
chi ngân sách. Đây là vấn đề quan trọng bởi nguồn lực của mỗi quốc gia là có hạn do vậy
cơ quan quản lý, điều hành nguồn lực quốc gia phải báo cáo và giải trình với Quốc hội là
cơ quan đại diện cho dân chúng - những người nộp thuế - rằng các nguồn thu đã được sử
dụng đúng mục đích, đạt hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Các chính sách trong năm ngân
sách có phát huy được hiệu lực, hiệu quả hay không. Quyết toán NSNN không chỉ báo cáo
được về số liệu, về tính tuân thủ mà còn phải đề cập tính hiệu lực, hiệu quả của các khoản
thu, chi ngân sách cũng như chính sách ngân sách. Thông qua việc đánh giá tính hiệu lực,
hiệu quả có thể biết được việc phân bổ ngân sách có hợp lý hay không, có đảm bảo nguồn
lực cho việc thực thi chính sách một cách tốt nhất hay không.
- Thứ tư, quyết toán NSNN được xác định trong một khoảng thời gian nhất định, thường là
một năm (12 tháng). Trở lại khái niệm quyết toán NSNN, chúng ta thấy rằng ngân sách
được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Và việc quyết toán ngân sách là tính
toán, xác định, đánh giá NSNN được thực hiện trong chính khoảng thời gian đó. Khoảng
thời gian xác định này phù hợp với thời gian ngân sách mà cơ quan quyền lực nhà nước đã
quyết định. Đây là cơ sở để xuất hiện khái niệm năm ngân sách (một số quốc gia còn gọi là
năm tài khóa hay năm tài chính). Năm ngân sách được hiểu là khoảng thời gian bắt đầu
thực hiện một ngân sách cho đến khi kết thúc ngân sách ấy và thường lấy khoảng thời gian
là 1 năm (12 tháng) để xác định. Tuỳ từng quốc gia khác nhau mà ngân sách được xác định
trong một thời gian khác nhau, chẳng hạn như ở Việt Nam, năm ngân sách được xác định

NGUYEN PHUONG LAW & PARTNERS – CUNG CẤP TÀI LIỆU HỌC LUẬT SƯ
theo năm dương lịch từ 1/1 đến 31/12. Một số nước khác lại xác định năm ngân sách từ 1/4
đến 31/3 năm sau như ở Nhật Bản.
- Thứ năm, quyết toán NSNN phải trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê chuẩn. Về
khía cạnh pháp lý, để trách nhiệm quản lý được giải toả, quyết toán NSNN phải được cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất (Quốc hội) là cơ quan đại diện cho quyền lợi của dân
chúng xem xét phê chuẩn. Chỉ khi quyết toán được phê chuẩn thì trách nhiệm của cơ quan
quản lý (Chính phủ) mới được giải toả. Luật của các nước đều đề cao trách nhiệm này và
coi đây là nhiệm vụ mà cơ quan quyền lực nhà nước phải thực thi. Để Quốc hội xem xét
phê chuẩn đòi hỏi quyết toán NSNN phải được lập, kiểm toán xác nhận và các cơ quan
tham mưu của Quốc hội thẩm tra. Trên cơ sở các thông tin được cung cấp các nghị sỹ sẽ
xem xét và biểu quyết phê chuẩn. Tuy nhiên một số nước lại quy định cơ quan thường trực
của Quốc hội (Uỷ ban Thường vụ Quốc hội) phê chuẩn và báo cáo Quốc hội kỳ họp gần
nhất. Việc phê chuẩn phải thực hiện theo nguyên tắc không trùng lắp có nghĩa là không phê
chuẩn những vấn đề mà cấp khác đã phê chuẩn. Ở nước ta, quyết toán NSNN do Quốc hội
phê chuẩn theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên do NSNN Việt Nam lồng ghép giữa các cấp ngân sách nên việc phê chuẩn quyết
toán NSNN bao gồm ngân sách địa phương đã được Hội đồng Nhân dân phê chuẩn.
4. Phân biệt thuế, phí và lệ phí
Tiêu chí
Thuế
Phí
Lệ phí
Khái niệm
Là khoản thu nộp mang
tính bắt buộc mà các tổ
chức, cá nhân phải nộp cho
Nhà nước khi có đủ những
điều kiện nhất định.
Là khoản tiền mà tổ chức,
cá nhân phải trả nhằm cơ
bản bù đắp chi phí và
mang tính phục vụ khi
được cơ quan Nhà nước,
đơn vị sự nghiệp công lập
và tổ chức được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền
giao cung cấp dịch vụ
công (khoản 1, điều 3, luật
phí và lệ phí)
Là khoản tiền được ấn
định mà tổ chức, cá nhân
phải nộp khi được cơ
quan Nhà nước cung cấp
dịch vụ công, phục vụ
công việc quản lý Nhà
nước (Khoản 2, điều 3,
luật phí và lệ phí)
Cơ sở
pháp lý
Được điều chỉnh bởi văn
bản pháp luật có hiệu lực
pháp luật do cơ quan
quyền lực nhà nước cao
nhất ban hành là Quốc hội
hoặc Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội theo trình tự ban
hành chặt chẽ (Luật, Pháp
lệnh, Nghị quyết): Luật
thuế xuất khẩu, nhập khẩu,
Luật phí và lệ phí 2015