
1
Tài liệu giúp các bạn ôn tập khoa học chính trị
Câu 1: Nội dung nguyên lý về MLH phổ biến các sự vật, hiện tượng. Ý nghĩa phương pháp luận. Sự
vận dụng của Đảng ta.
Phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt nhưng phạm trù, những nguyên lý, những quy luật được
khái quát từ hiện thực, phù hợp với hiện thực. Cho nên, nó có khả năng phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự
phát triển của tự nhiên, XH và tư duy. Tùy theo nhu cầu theo nhu cầu thực tiễn và trình độ nhận thức của con người,
phạm vi các vấn đề được bao quát trong phép biện chứng duy vật ngày càng được phát triển cả về bề rộng lẫn chiều
sâu. Nhưng ở bất kỳ cấp độ phát triển nào của nó, nguyên lý MLH phổ biến được xem là một trong những nguyên lý
có ý nghĩa khái quát nhất. Việc nh.thức và quán triệt nguyên lý này đối với đảng ta có ý nghĩa rất quan trọg, I là trong
thực tiễn cách mạng VN, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới đất nước.
1. Nội dung nguyên lý MLH phổ biến
- KN: Liên hệ là KN chỉ sự phụ thuộc lẫn nhau, sự tương tác và chuyển hóa nhau giữa các sự vật, hiện tượng
trong thế giới, hay giữa các mặt, các yếu tố of 1quá trình, 1 sv, ht.
+ Liên hệ phổ biến là khái niệm nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới (cả tự nhiên, xã hội và tư
duy) dù phong phú, đa dạng nhưng đều nằm trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác, đều chịu sự tác động,
chịu sự quy định của các sv, ht khác.
+ MLHPB là một phạm trù TH, dùng để chỉ sự tác động, sự quy định, sự ràng buộc, sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các mặt, các yếu tố trong 1 sv, ht hay trong các sv, ht.
Theo triết học duy vật biện chứng, cơ sở của mối LHPB chính là tính thống nhất vật chất của thế giới. Bởi lẽ,
mọi sv, ht trên thế giới dù đa dạng, phong phú khác nhau nhưng đều là những dạng tồn tại cụ thể của thế giới vật chất.
Ngay cả tư tưởng, ý thức của con người vốn là những cái phi vật chất, cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có
tổ chức cao là bộ óc con người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh của một quá trình vật chất khách
quan.
- Tính chất của MLH phổ biến
+ Tính khách quan của MLH phổ biến: MLH giữa các SV và HT là cái vốn của mọi SV, HT không phụ
thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Nó bắt nguồn từ tính thống nhất của SV của thế giới, sự tồn tại và phát
triển của chính SV, HT.
+ T1inh phổ biến của MLH: MLH giữa các SV và HT là phổ biến, diễn ra mọi lúc, mọi nơi. Không những
các SV, HT liên hệ với nhau mà các yếu tố, các bộ phận cấu thành SV, HT cũng liên hệ hữu cơ với nhau; không
những các giai đoạn trong một quá trình mà cả các quá trình trước và quá trình sau trong sự vận động và phát triển
của thế giới nói chung và của từng SV nói riêng cũng luôn liên hệ với nhau. Không chỉ trong tự nhiên mà cả trong
lĩnh vực đời sống XH và tinh thần mọi SV, HT cũng luôn luôn liên hệ tác động qua lại với nhau. Chẳng hạn, trong tự
nhiên giữa động vật và thực vật, giữa cơ thể sống và môi trường…, trong đời sống XH giữa các lĩnh vực đời sống
XH, giữa các cộng đồng, giữa các quốc gia…; trong lĩnh vực nhận thức giữa các hình thức nhận thức, giữa các giai
đoạn nhận thức… cũng có MLH với nhau.
+ Tính đa dạng của MLH: Tính đa dạng của MLH do tính đa dạng của sự tốn tại, vận động và phát triển của
chính các SV và HT quy định, biểu hiện ở tính nhiều vẻ, vô cùng phong phú của các MLH. Có trong MLH bên ngoài; có
MLH cơ bản, có MLH không cơ bản; có MLH trực tiếp. có MLH gián tiếp; có MLH bản chất, MLH không bản chất, liên
hệ tất yếu và liên hệ ngẫu nhiên…
MLH bên trong là MLH qua lại, là sự tác động lẫn nhau giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các thuộc tính, các
mặt khác nhau của một SV; nó giữ vai trò quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của SV. MLH bên ngoài là
MLH giữa các SV, các HT khác nhau; nói chung nó không có ý nghĩa quyết định; hơn nữa, nó thường phải thông
qua MLH bên trong mà phát huy tác dụng đốivới sự vận động và phát triển của SV.
MLH bản chất và ko bản chất, mlh tất yếu và ngẫu nhiên cũng có tính chất tương tự như đã nêu ở trên, ngoài
ra, chúng còn có những nét đặc thù. Chẳng hạn, cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này, lại là tất nhiên khi
xem xét trong một mối quan hệ khác; ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của cái tất nhiên; hiện tượng
là hình thức biểu hiện ít nhiều đầy đủ của bản chất.
Xét đến cùng các mlh bên trong, cơ bản, trực tiếp, tất nhiên… là nhữg mlh giữ vai trò quyết địh chi phối đến
sự tồn tại và ptriển của sv, ht. Còn các mlh khác chỉ tác động, ảhưởng đến quá trình đó.
- Nội dung của nguyên lý:
Thế giới vật chất vô cùng phong phú, đa dạng các SV, HT chúng rất khác nhau về chất, tuy chúng không tồn
tại tách rời một cách tuyệt đối. Trái lại chúng luôn luôn tồn tại trong những MLH phổ biến (luôn luôn tác động, quy
định, rang buộc, chuyển hóa lẫn nhau) Nhờ những MLH phổ biến này mà SV, HT mới vận động, biển đổi, phát triển.

2
2. Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ việc Ng.cứu nguyên lý về MLH phổ biên của các SV, HT chúng ta rút ra các quan điểm:
- Trong nhận thức, xem xét các SV,HT chúng ta cần phải quán triệt quan điểm toàn diện. Yêu cầu các quan
điểm toàn diện, thứ nhất là khi xem xét các SV, HT phải xem xét nó trong MLH qua lại giữa các bộ phận, giữa các
yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính SV, HT đó; thứ hai là xem xét các SV, HT phải xem xét nó trong MLH
giữa SV, HT đó với SV, HT khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp) quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách xem
xét dàn trải, liệt kê những thuộc t1inh khác nhau của SV hay HT đó; nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan
trọng nhất của SV, HT đó.
- Chúng ta cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra. Yêu
cầu quan điểm này đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh cụ thể đã làm phát sinh vấn đề đó, tới sự ra
đòi và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực – cả khách quan lẫn chủ quán. Bởi vì, mọi SV, HT đều tồn tại trong
không gian, thời gian nhất định và mang dấu ấn của không gian, thời gian.
Quán triệt quan điểm toàn diện, qđiểm lịch sử cụ thể, we cần khắc phục và nghiêm khắc phê phán quan điểm
phiến diện, chnghĩa chiết trung, thuật ngụy biện.
Quan điểm phiến diện xem xét sv, ht chỉ thấy 1 mặt, 1 mlh mà ko thấy nhiều mặt, nhiều mlh.
CN chiết trung cũng tỏ ra chú ý tới nhiều mặt khác nhau, nhưg lại kết hợp 1 cách vô ngtắc nhữg cái hết súc
khác nhau thành 1 hình ảnh ko đúng về sv. CN chiết trung ko biết rút ra mặt bản chất, mlh căn bản cho nên rơi vào
chỗ cào bằng các mặt, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mlh khác nhau.
Thuật ngụy biện cũng để ý tới những mặt, những mlh khác nhau của sv, ht, nhưng lại đưa cái ko bản chất
thành bản chất, cái ko cơ bản thành cái cơ bản.
Với tư cách là ngtắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn, nguyên ls mối liên hệ phổ biến đòi hỏi để
cải tạo sự vật. Muốn vậy, phải sử dụng đồng bộ nhiều ph/pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động nhằm thay
đổi những liên hệ tương ứng.
3. Sự vận dụng của đảng ta.
Quan điểm toàn diện được đảng ta quán triệt và thể hiện sinh động trong đường lối kháng chiến toàn dân và
toàn diện chống thực dân Pháp, trong đường lối chống Mỹ. Đó là sự kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh thời
đại, sức mạnh quân sự với sức mạnh chính trị, KT,VH, ngoại giao; sức mạnh của 3 vùng chiến lược và mũi tấn
công…Nhờ có sức mạnh toàn diện, tổng hợp và sự nghiệp giải phóng dân tộc đã giành được thắng lợi hoàn toàn.
Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn cũng đòi hỏi phải hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn
đều” và “chính sách có trọng điểm” (Lê nin). Trong khi khẳng định t1inh toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt,
các lĩnh vực của quá trình đổi mới, ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ 6 của Đảng cũng đồng thời coi đổi mới tư duy lý
luận, tư duy chính trị về CNXH là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới cả lĩnh vực KT và và
lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới KT là trọng tâm. Thực tiễn những năm đổi mới nước ta mang lại nhiều
bằng chứng xác nhận tính đúng đắn của những quan điểm nêu trên. Khi đề cập tời những vấn đề này, ĐHĐBTQ lần
thứ 8 của Đảng đã khẳng định “Xét trên tổng thể đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới tư duy chính trị trong
hoạch định đường lối của các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có sự đổi mới khác.
Song, đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới KT, khắc phục khủng
hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin
của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau của đời sống XH”
Chính vì vậy, Văn kiện ĐHĐBTQ lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định “Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có
kế thừa, có bản chất đi, hình thức và cách làm phù hợp”
ĐH XI của Đảng đã khẳng định “Tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ theo đường XHCN”. Thực tiễn phong
phú và thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sang tạo; đi lên CNXH là sự lựa chọn phù hợp
với quy luật khách quan và thực tiễn CMVN. Để xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN,
phải tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ với chất lượng hiệu quả cao hơn.
Tóm lại: Việc vận dụng nội dung nguyên lý về mlh phổ biến cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có
vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề do công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN hiện nay
ở nước ta đặt ra. Đối với mỗi cán bộ, Đảng viên thì việc nắm vững nguyên lý sẽ giúp chúng ta trong hoạt động
chuyên môn cũng như trong quản lý, chỉ đạo: một mặt phải thấy được mlh giữa các mặt yếu tố của sv, ht, đồng thời
cũng thấy được những mlh của nó với những sv, ht khác, đặt trong không gian, thời gian, điều kiện lịch sử cụ thể; một
mặt phải biết cách phân tích, xác định đúng các sự việc để có biện pháp giải quyết thích hợp, tránh rơi vào những
nguyên lý sai lầm, phiến diện, chiết trung, ngụy biện.

3
Câu 2: Nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và
ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận. Sự vận dụng của Đảng ta.
Mở đầu: Triết học Mác-Lênin cho rằng thế giới được tạo thành từ các sự vật, hiện tượng, quá trình khác
nhau. Chúng có mối liên hệ với nhau và luôn vận động, phát triển theo những quy luật khách quan nhất định. Một
trong những quy luật cơ bản là Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và
ngược lại (gọi tắt là quy luật lượng-chất). Quy luật này chỉ rõ cách thức của quá trình vận động và ptriển của các sự
vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Việc nhận thức và áp dụng đúng quy luật này trong thực tiễn có ý nghĩa rất
quan trọng, thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt là công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đã chứng minh điều đó.
1. Nội dung quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược
lại: - Phạm trù chất và lượng (theo quan điểm mác xít):
+ Chất là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự vật hiện tượng, là sự thống
nhất hữu cơ của các thuộc tính, làm cho nó là nó và phân biệt nó với cái khác.
Như vậy: Chất là cái khách quan, vốn có của mọi sự vật hiện tượng. Mỗi sự vật hiện tượng có nhiều thuộc
tính mà mỗi thuộc tính lại có những đặc trưng riêng về chất. Do đó, 1 sự vật không chỉ có 1 chất mà có nhiều chất, vô
vàn chất. Chất là tổng hợp của những thuộc tính, khi những thuộc tính cơ bản của Sự vật thay đổi thì chất cơ bản của
sự vật cũng thay đổi.
Chất của sự vật còn pụ thuộc vào những y/tố cấu thành và phương thức liên kết giữa các yếu tố đó
+ Lượng là 1 phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về số lượng, quy mô, trình độ, nhịp
điệu, tốc độ của sự vận động, ptriển của sự vật cũng như của các thuộc tính của nó.
Như vậy: Lượng là cái khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng. Lượng có thể được xác định cụ thể, chính
xác bằng các công cụ đo lường. Tuy nhiên, cũng có những tính quy định về lượng biểu thị dưới dạng trừu tượng và
khái quát. Một sự vật có nhiều chất, do đó cũng có vô vàn sự khác nhau về lượng.
Sự pân biệt giữa chất và lượg của sv, ht cũng chỉ có tính tươg đối.
- Mlh biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất:
Bất kỳ sự vật hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Chất và lượng của sự vật hiện tượng là một thể thống
nhất quy định lẫn nhau. Trong quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật hiện tượng cũng biến đổi. Sự
thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập đối với nhau, trái lại chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nhưng không phải bất kỳ sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật hiện
tượng. Lượng của sự vật hiện tượng có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất
của sự vật hiện tượng đó. Khuôn khổ mà trog đó, sự thay đổi về lượg chưa làm thay đổi về chất của svht, được gọi là
độ.
Độ là 1 fạm trù triết học dùng để chỉ sự thống I giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó sự
thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật. Những điểm giới hạn mà tại đó có sự thay đổi về
lượng sẽ làm thay đổi chất của sv được gọi là điểm nút. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi 2 điểm nút.
Sự thay đổi về lượg khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn tới sự ra đời của chất mới. Sự thống I giữa lượg và chất mới
tạo thàh 1 độ mới với điểm nút mới. Sự thay đổi về chất do những sự thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước
nhảy.
Bước nhảy là một phạm triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi về
lượng trước đó gây ra. Bước nhảy làm cho sự biến đổi của các sv, ht trong thế giới khách quan có sự thống nhất giữa
liên tục và đứt đọan, giữa tiệm tiến và nhảy vọt. Lênin khẳng định: “tính tiệm tiến mà ko có bước nhảy vọt, thì ko giải
thích được gì cả”.
Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Chất mới có thể làm thay đổi qui mô, kết cấu,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động và biến đổi của sự vật.
Sự thay đổi về chất của Sự vật diễn ra rất đa dạng với nhiều hình thức bước nhảy khác nhau. Xét về thời gian
và tính chất của sự thay đổi về chất thì buớc nhày được chia thành: bước nhảy đột biến (làm thay đổi căn bản về chất
một cách nhanh chóng) và buớc nhảy dần dần (thay đổi về chất bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất
mới); xét về qui mô thì có thể chia thành: bước nhảy toàn bộ (làm thay đổi căn bản về chất của tất cả các mặt, các bộ
phận, y/tố cấu thành sv) và bước nhảy cục bộ (làm thay đổi 1 số mặt, 1 số y/tố, 1 số bộ phận của sự vật).
Khi xem xét sự thay đổi về chất trong đời sống xh, người ta còn chia thành sự thay đổi cm (cải tạo căn bản về
chất của sự vật) và sự thay đổi có tính chất tiến hóa (thay đổi về lượng cùng những biến đổi về chất không căn bản
của sự vật).
- Nội dung quy luật:
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất, có thể khái quát nội dung cơ bản của qui luật chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại như sau: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều
có sự thống nhất giữa chất và lượng. Sự thay đổi dần về lượng vượt qua giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn
bản về chất của sự vật thông qua 1 bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.
2. Ý nghĩa phương pháp luận:

4
Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa thay đổi về lượng và thay đổi về chất chúng ta sẽ rút ra
đuợc ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn:
- Mọi sự vật, hiện tượng đều là thể thống nhất hữu cơ giữa chất và lượng. Do vậy để có tri thức đầy đủ về sự
vật ta phải nhận thức đuợc cả mặt lượng và mặt chất của nó, không được tuyệt đối hóa cái này mà xem nhẹ cái kia.
- Sự phát triển của Sự vật, bao giờ cũng bắt đầu từ lượng đổi dẫn đến chất đổi. Do vậy, để cải tạo sự vật phải
quan tâm thích đáng đến quá trình tích lũy về lượng, đồng thời phải chủ động tạo những đìều kiện cần thiết để quá
trình chuyển hóa từ chất cũ sang chất mới đựoc thực hiện 1 cách hoàn hảo nhất.
Khi vận dụng quy luật mối quan hệ giữa chất và lượng vào thực tiễn, ta không được tuyệt đối hóa mặt nào,
nếu tuyệt đối hóa một trong hai mặt này thì chúng ta sẽ rơi vào tư tưởng nôn nóng (tả khuynh) hoặc tư tưởng bảo thủ
(hữu khuynh).
Khuynh hướng nôn nóng tả khuynh là khuynh hướng không quan tâm thực hiện quá trình tích lũy về
lượng mà chỉ chú ý thực hiện những bước nhảy vọt làm thay đổi về chất trong khi chưa có đủ điều kiện tích lũy về
lượng cần thiết. Những người có tư tưởng này trong hoạt động thực tiễn thường nóng vội, chủ quan duy ý chí, họ cho
rằng sự phát triển chỉ gồm toàn những bước nhảy liên tục nên có thể đốt giai đoạn
Khuynh hướng bảo thủ hữu khuynh là khuynh hướng chí chú ý đến quá trình tích lũy về lượng, không
chú ý phát huy nổ lực của nhân tố chủ quan, không dám thực hiện bước nhảy vọt về chất khi đã có sự tích lũy đầy đủ
về lượng hoặc kéo dài sự tích lũy, chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần về lượng.
Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn đến những sai lầm có tác hại rất lớn làm cản trở hoặc kìm hãm sự phát
triển của sự vật hiện tượng.
3. Sự vận dụng của Đảng ta:
Nắm vững và vận dụng đúng quy luật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xem xét và giải quyết những vấn
đề do thực tiễn đặt ra, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Trong thực tiễn VN trước thời kỳ đổi mới, Đảng ta cũng có lúc phạm sai lầm của 2 khuynh hướng trên. Đánh
giá về những sai lầm này, VKĐH VI đã nêu rõ: “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là 1 qtrình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn
bỏ qua những bước đi cần thiết... trên thực tế, chúng ta đã chủ trương đẩy mạnh cnh trong khi chưa có đủ các tiền đề
cần thiết, mặt khác, chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời... Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ
cấu sản xuất và đầu tư, thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính tới điều kiện và khả năng thực
tế... Đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng
biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh ... cần phải khắc phục cả hai khuynh hướng: bảo thủ, trì trệ, không
muốn đổi mới; và nóng vội, giản đơn, mưuốn giải quyết xong mọi vấn đề trong một thời gian ngắn. Những sai lầm
nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ
chức thực hiện ... We vừa chủ quan nóng vội, vừa bảo thủ trì trệ, trong thực tế hai mặt đó cùng tồn tại và đều cản trở
bước tiến của cm". 9 những sai lầm này là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng ktế xh trầm trọng ở
nước ta trước thời kỳ đổi mới.
Từ những thất bại trong đường lối chỉ đạo trước thời kỳ đổi mới, Đảng đã có những tổng kết, đánh giá kịp
thời về những sai lầm trên. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đánh dấu bước đột phá đầu tiên của tư duy lý luận của
Đảng trong việc vận dụng nội dung quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất trong sự nghiệp đổi mới ở
nước ta.
Công cuộc đổi mới mà Đảng đã khởi xướng từ Đại hội VI và từ đó đến nay đang diễn ra trên đất nước ta có ý
nghĩa như là một quá trình mang tính cách mạng bởi nó tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã
hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã
khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta. Đây là một quá trình cm mạng sâu sắc, triệt để,
đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xh,
nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước ptriển, nhiều hình thức tổ chức ktế, xh đan xen”.
Trong quá trình chuyển biến đó thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa được xem là nhiệm vụ trọng tâm và phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để đạt được mục tiêu đề ra, Đảng đã khẳng định (tại Văn kiện Đại hội IX): “Con đường công nghiệp hóa -
hiện đại hóa ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt”.
Tại Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm
năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức. Coi
trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa
phương, trong từng dự án kinh tế - xã hội”.
Cương lĩnh xd đất nước trong thời kỳ quá độ lên cnxh (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Phát
triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức và bảo vệ tài nguyên, môi trường; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu quả và bền vững, gắn kết

5
chặt chẽ công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Coi trọng phát triển các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo
có tính nền tảng và các ngành công nghiệp có lợi thế; phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công
nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm phát triển hài hoà giữa
các vùng, miền. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
Đại hội XI đã đề ra nhiệm vụ: “Đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh, bền vững” với các nội dung cụ thể:
- Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều
rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững.
- Cơ cấu lại, xây dựng nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những ngành có tính nền tảng, có lợi thế
so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của
nền kinh tế, từng bước có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu.
- Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với giải quyết
tốt vấn đề nông dân, nông thôn.
- Phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, du lịch và các dịch vụ có giá
trị gia tăng cao.
- Tập trung xây dựng, tạo bước đột phá về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước.
- Phát triển kinh tế - xã hội hài hoà giữa các vùng, đô thị và nông thôn
Như vậy, bên cạnh việc thực hiện những giải pháp nhằm tích lũy dần tiềm lực về khoa học công nghệ, về kết
cấu hạ tầng ngày càng hiện đại và chuyển biến quy trình sản xuất từ nền sản xuất lao động thủ công sang lao động với
phương tiện và phương pháp tiên tiến có năng suất cao theo những bước đi phù hợp với quy luật phát triển, chúng ta
cần phải biết phát huy những lợi thế của đất nước, tạo điều kiện và phát huy tối đa nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh
thần của người Việt Nam, chú trọng phát triển giáo dục và đào tạo, Khoa học và công nghệ ... để làm nền tảng, động
lực thúc đẩy sự nghiệp phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước có những bước nhảy vọt, đột phá. Nhân
tố chủ quan có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo sự đột phá về bước nhảy để rút ngắn thời gian trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đây là quan điểm đúng đắn dựa trên cơ sở tác động của chất đối với
lượng để tạo sự đột phá trong bước nhảy. Đảng ta nhấn mạnh “phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu
tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Đó là việc tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ
khoa học kỹ thuật, đội ngũ cán bộ quản lý nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng phải được xây dựng trên những bước đi tuần tự
trong việc xác định cơ chế kinh tế cũng như xây dựng lực lượng lao động cơ bản trong hệ thống sản xuất tiên tiến
cho phù hợp với điều kiện sản xuất hiện đại, có trình độ khoa học - công nghệ, nghiệp vụ chuyên môn và tay nghề vì
như bất kỳ sự thay đổi về chất nào khác, những bước nhảy trong con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay
cũng chỉ có thể là kết quả của quá trình thay đổi về lượng, thích hợp ở đây bất kỳ một sự nôn nóng chủ quan, ảo
tưởng nào đều có thể gây ra tổn thất cho cách mạng, cản trở sự nghiệp đổi mới đất nước.
Tóm lại: Việc vận dụng nội dung qui luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và
ngược lại cũng như ý nghĩa phương pháp luận của nó có vai trò to lớn trong việc xem xét và giải quyết những vấn đề do
công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN hiện nay ở nước ta đặt ra. Đối với mỗi cán bộ, Đảng viên thì việc nắm vững
quy luật sẽ giúp chúng ta trong hoạt động chuyên môn cũng như trong quản lý, chỉ đạo: một mặt phải biết phát huy đúng
mức vai trò của nhân tố chủ quan, có quyết tâm và nghị lực cao trong việc thực hiện đột phá trong công việc khi có điều
kiện chín muồi, một mặt phải biết cách phân tích, xác định đúng các sự việc để có biện pháp giải quyết thích hợp, tránh rơi
vào khuynh hướng nôn nóng chủ quan duy ý chí hoặc bảo thủ.