
cộng đồng. Số lượng bệnh nhân có thể đến 1/3 dân số thế giới, đặc biệt là ở
các nước kém phát triển.mà nguyên nhân là do thiếu hụt iod, và khoảng 12
triệu người bị tình trạng đần độn cộng đồng. Các nước Châu Á như Ấn Độ,
Indonesia, Trung Quốc là những vùng có số người bị nguy cơ thiếu hụt Iod
cao nhất trên thế giới, ít hơn là các nước Châu Âu như Italy, Tây Ban Nha,
Hungary, Ba Lan và Nam Tư…Trong các vùng thiếu hụt Iod nặng, triệu
chứng lâm sàng của bướu giáp xuất hiện ở độ tuổi rất trẻ. Tần suất tăng đặc
biệt cao ở độ tuổi mới lớn hay dậy thì. Tần suất giảm ở độ tuổi trưởng thành;
đặc biệt cao ở nữ giới.
Hậu quả của chuyển hóa do thiếu hụt Iod
Thay đổi sinh lý mạn tính do tình trạng thiếu hụt iod ảnh huởng đến một số
thay đổi rõ rệt về cơ thể học và chuyển hóa. Sự giảm hấp thu iod lâu ngày có
thể dẫn đến giảm sản xuất T3 và T4. Hậu quả là làm tăng từ từ sự thanh thải
Iod ở tuyến giáp và giảm tiết ở thận. Do sự giảm sản xuất T3 hay gặp hơn
T4 nện làm tăng quá trình chuyển T4 thành T3 ở ngoại vi. Do sự sản xuất T3
và thanh thải các hormone hoạt hóa chuyển hóa có hiệu lực, tình trạng suy
giáp lâm sàng có thể tránh khỏi phần lớn các TH mà các xét nghiệm sinh hóa
cho thấy giảm T4, tăng TSH và T3 gần ở mức bình thường. Trong các TH
nặng, T3 và T4 có thể thấp, TSH cao. Trong tình huống này triệu chứng lâm
sàng của suy giáp có thể xảy ra. Cùng với sự thay đổi về sinh lý do thiếu hụt
Iod, phì đại tuyến giáp cũng có thể xảy ra. Các nang giáp phì đại, khoảng
trống giữa các nang giảm. Khi thiếu hụt Iod nặng hơn, các nang trở nên bất
hoạt và bị tràn ngập bởi các chất keo. Một số vùng có hiện tượng tăng sinh
hạt và phát triển thành các nhân, một số thành nhân nóng và tự hoạt động,
những nang khác thì bất hoạt và trì trệ. Hoại tử, xơ hóa hay xuất huyết có thể