intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tản mạn về Thư pháp Nhật Bản

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

115
lượt xem
16
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhật Bản là một quốc gia rất coi trọng nghệ thuật thư pháp, lĩnh vực có ảnh hưởng rất lớn với nền mỹ thuật của nước này. Tuy nhiên, không có bất cứ tiêu chuẩn nào đối với những người muốn trở thành nhà thư pháp, cũng không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Mời các bạn tham khảo loại hình nghệ thuật đặc sắc của "đất nước mặt trời mọc" này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tản mạn về Thư pháp Nhật Bản

  1. Tản mạn về Thư pháp Nhật Bản Nhật Bản là một quốc gia rất coi trọng nghệ thuật thư pháp, lĩnh vực có ảnh hưởng rất lớn với nền mỹ thuật của nước này. Trong số 127 triệu người, Nhật Bản có đến gần 10 triệu đang tham gia viết thư pháp bao gồm cả những nhà thư pháp nổi tiếng và người đang học viết thư pháp. Thư pháp được coi là một trong những loại hình nghệ thuật độc tôn của xứ sở Hoa Anh Đào. Tuy nhiên, không có bất cứ tiêu chuẩn nào đối với những người muỗn trở thành nhà thư pháp, cũng không có sự phân biệt giữa nam và nữ. Vấn là là ở chỗ họ có khả năng, đủ kiên trì và cái tâm để theo đuổi loại hình nghệ thuật thanh tao này không? Nhà nữ thư pháp Kanagawa Michico khẳng định: "Không có sự phân biệt nào giữa nam v à nữ, điểm khác biệt là ở chỗ mỗi người có cách thể hiện khác nhau”.
  2. “Người đam mê thư pháp có thể tìm thấy ở cuộc triển lãm này những bức thi pháp ấn tượng và có tính nghệ thuật cao. Với những nét bút tài hoa, các nghệ sĩ thư pháp bậc thầy của Nhật Bản đã mang đến cho người xem những cảm xúc độc đáo. Có cảm giác như họ đang vẽ chứ không phải viết. Một trong những điểm gây ấn tượng cho những người tham dự là màn biểu diễn của nhà nữ thư pháp Kanagawa Michiko. Bà đã dùng lại mực của 4 nhà thư pháp trình diễn trước mình với quan niệm sử dụng triệt để những gì đã có, theo đúng tinh thần của người Nhật”. “Dường như các nhà thư pháp Nhật Bản chú ý tới yếu tố tạo hình hơn là để người xem hiểu ý nghĩa của những chữ mình thể hiện. Chính ông Chủ tịch Hội thư pháp Mainichi cũng thừa nhận "có đến 80% những tác phẩm được trưng bày là không đọc được v à đây cũng là một trong những mục đích của những nhà thư pháp viết ra nó. Một trong những nét đặc trưng của nghệ thuật thư pháp là mang đến cho người xem những xúc cảm khác nhau. Họ có thể hiểu hoặc không hiểu, có thể thấy đẹp hoặc không đẹp... Đó cũng là chủ ý của các nhà thư pháp”. “Nghệ thuật thư pháp Nhật Bản xuất hiện sau Trung Quốc v à cũng bị ảnh hưởng bởi thư pháp nước này rất nhiều. Có thể nhận thấy điều này qua phần lớn những tác phẩm được trưng bày trong triển lãm lần này. Nếu như thư pháp Trung Quốc có lịch sử hình thành và phát triển hơn 2000 năm thì thư pháp Nhật Bản mới chỉ xuất hiện từ thế kỷ 6 tức là cách đây khoảng 1500 năm. Mặc dù đã có nhiều sự cách tân nhưng v ề cơ bản thư pháp Nhật Bản vẫn chịu ảnh hưởng tương đối lớn của Trung Quốc. Tuy nhiên, người Nhật vẫn có sự sáng tạo riêng mà bằng chứng rõ ràng nhất là hệ thống chữ Ca-na, chữ đặc trưng chỉ xuất hiện trong thư pháp Nhật Bản. Nếu như chữ Hán được viết trên giấy trắng thì chữ Ca-na được thể hiện trên nền giấy nhiều màu để phân biệt nét đặc trưng của nghệ thuật thư pháp Nhật Bản. Các nhà thư pháp có cách thể hiện trên các chất liệu khác nhau, dùng mực viết trên giấy và khắc chữ trên gỗ v à đá sau đó phủ nhũ lên... Hiện tại có một số tên tuổi nổi tiếng về thư pháp của Nhật Bản như: Mashiko Tetsushu, Miyake Soshu, Nagamori Soshu, Tanagi Hekien và Kanagawa Michiko....”.
  3. “Thư pháp là một môn nghệ thuật có xuất xứ từ Trung Hoa, du nhập v ào các nước Nhật, Hàn Quốc, Việt Nam... rồi được các nước này phát triển theo những cách riêng. Ðối với người phương Ðông, nói đến môn Thư pháp, người ta thường nghĩ đến cách viết chữ Hán với phong cách đặc biệt... Với cây bút lông, mực v à giấy, người Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ vươn lên đỉnh cao với lý thuyết phong phú, mang tính triết học v à nghệ thuật cao. Thư pháp cũng giống như hội họa của Trung Quốc, đều là bộ phận quan trọng nhất của nghệ thuật truyền thống Trung Hoa. Có thể phân ra làm 3 thời kỳ phát triển của thư pháp: Thời kỳ Tiên Tần (trước năm 221 TCN) - giai đoạn sơ kỳ của nghệ thuật thư pháp; Từ nhà Tây Hán đến cuối nhà Đường (từ 206 TCN - 907 SCN) - giai đoạn chín muồi của thư pháp; Từ thời Ngũ Đại đến cuối nhà Thanh (907-1911) - giai đoạn phát triển độc đáo”.
  4. Nguồn gốc thư pháp Tiền vệ Nhật Bản Nhật bản là một đất nước kì quặc, và cả lẽ không có gì lạ lùng trong khi khoa học kĩ thuật vượt trội, thì nghệ thuật Thư pháp xa xưa vẫn đang tồn tại. Đó là một bộ môn nghệ thuật cã sự hồi kháng tuyệt vời và đã phát triển chậm rãi từ hơn 3.000 năm qua. Trong thế kỉ 20, Thư pháp đã phải đối mặt với những thách thức ghê gớm nhất để sống sót và giữ bản sắc. Từ máy chữ, bộ vi xử lý ngôn ngữ, cho đến máy tính điện tử đã tạo ra việc viết lách tốt cho mọi công việc, nhưng những thành phần nhàn dỗi như trẻ em hay các bà nội trợ sẽ là những đối tượng chủ yếu để học Thư pháp, thì họ lại bị lôi cuốn bởi những môn nghệ thuật khác hay theo đuổi thời trang. Bất chấp điều đó, một số người thực hành nghiệp
  5. dư ưu tú vẫn tiêu tốn thời gian và tiền bạc cho môn nghệ thuật này. Đó là sự bảo trợ cho việc sống còn của Thư pháp. Về nghệ thuật, các Thư pháp gia đã đặt vấn đề về tính tự nhi ên của Thư pháp, như dễ đọc, mối quan hệ với nghệ thuật trừu tương, và tự nhiên của sự vật. Các trường phái Thư pháp khác nhau đảm bảo câu trả lời khác nhau cho các vấn đề về phong cách khác nhau, trải dài từ bảo thủ đến cấp tiến. Sự cấp tiến tối cao của phong cách-Thư pháp Tiên phong- là vấn đề được thảo luận trong tiểu luận này. Thư pháp Tiên phong hay còn gọi là Zeneisho trong tiếng Nhật, có thể bắt nguồn từ những ý tưởng của Thư pháp gia Nhật bản tên là Hidai Tenrai (1872- 1939). Ông được coi là cha đẻ của Thư pháp Hiện đại Nhật bản. Hidai nhạy cảm với việc học tập Thư pháp chính thống từ Thư pháp cổ điển TH, kết hợp với nghệ thuật hiên đại phương Tây. Vấn đề của nghệ thuật trừu tương- từng thống trị tư tưởng của rất nhiều nghệ sỹ p. Tây - đã tìm được tiếng vang trong những cuộc thảo luận về Thư pháp Nhật bản, và đã được thể hiện trong các tác phẩm Thư pháp hiện đại từ sau Thế chiến II. Năm 1880, Dương Thủ Kính(1839- 1915) nguyên là nhà Lịch sử địa lý học, khi đó làm Tùy viên Đại sứ quán TH tại Nhật bản, đã mang các bản rập Triện thư của các Thư gia thời Bắc triều chưa từng có đến Nhật bản. Thời gian đó, các Thư pháp gia TH đã từng rất hứng thú với các thác bản đó, tới mức họ đã nhàm chán rồi. Khi các Thư pháp gia Nhật bản tiếp cận các thác bản này, họ đã tỏ ra bị kích thích, rất hứng thú với nét chữ và say sưa học theo. Một trong những Thư pháp gia đầu tiên học theo là viên Thư lại Kusakabe Meikaku. Như một văn nhân, ông học tập thơ ca TH và nghiêm túc luyện tập Thư pháp. Hidai Tenrai là môn sinh của Kusakabe. Ở Nhật bản, các môn sinh vẫn thường thực tập các thể chữ Hán theo thủ bản của thầy mình. Hidai cũng giống như bao môn sinh khác của Kusakabe, ông cũng học theo các thủ bản mà thầy ông viết ra; tuy nhiên, không giống như các môn sinh khác, ông đã say mê nghiền ngẫm các bản rập cho riêng mình và trực tiếp học theo. Theo Hidai, việc luyện tập Thư pháp không phải chỉ là lâm mô theo chính tác, mà điều quan trọng là phải lý giải đường nét cho mình. Cả Kusakabe và Hidai đều cảm nhận được mục đích của việc luyên tập Thư pháp, đó là sự giáo dục nhân cách và biểu hiện tinh thần. Kusakabe nhấn mạnh việc giáo dục phiến diện, ông cho rằng việc luyên tập từ thủ bản của thầy là cần thiết, và thao tác viết là quan trọng. Còn Hidai thì ngược lại, ông lại nhấn mạnh tính biểu cảm tự nhiên của Thư pháp. Ông không khuyến khích học tập theo bất kỳ bia
  6. thiếp nào của thời hậu Đường và không đề cập đến tính chân xác theo thủ bản của thày. (Sự rõ ràng trong thủ bản của thày và thực tế thu hoạch của ông). Một lý do khác cho việc học tập trực tiếp từ các bản rập l à, ông cảm thấy rằng, hầu hêt các Thư pháp gia đều chuộng biến pháp, phái sinh dòng riêng. Các thể chữ Hán, về cơ bản đã phát triển và hoàn thiên từ đời Đường, và lịch sử Thư pháp được bắt đầu khi có việc lâm mô chỉ như một sự diễn giải. Khi các Thư pháp gia đã nắm bắt được tinh thần của con chữ và sáng tác tác phẩm có thiện cảm hơn. Sự cảm nhận đó là cần thiết đẻ tập trung trong sự mô phạm của bản thân, và sẽ đạt tới sự tự do hơn, giải phóng cá nhân hơn. Và, các tác phẩm Thư pháp hậu Đường chỉ là sự diễn giải. Như vậy, thủ bản chỉ có thể hỗ trợ cho học tập, nhưng không thể thay thế tính nguyên thủy của chữ Hán được. Sự chính xác của việc lâm mô và việc phó bản có được tinh thần của
  7. nguyên bản là yếu tố thiết yếu cho tính toàn ven của Thư pháp, khi mà bản mới sáng tạo ra phải biểu hiện được cá tính tác giả. Hidai đặt ra chủ trương tinh thần bút ý làm yếu tố thiết yếu khi sáng tác tác phẩm Thư pháp. Điều đó thể hiên tác phẩm có tinh thần hay không, và Thư pháp gia phải thể hiện được cá tính sáng tạo của mình. Đó cũng là ý niệm linh hoạt phụ thuộc vào ngọn bút lông, đường nét (đồng nghĩa với Thư pháp), và vì vậy, không nhất thiết chỉ có trong chữ Hán chuẩn. Bản thân Hidai thừa nhận chuyện này. Trong một lần, ông phác thảo nghệch ngoạc một bức để chỉ cho môn sinh thấy rằng tinh thần bút ý là sự biểu hiện trong mỗi nét chữ, và chúng phải thể hiện được sự cương kiện, ý vị. Hidai gọi phác thảo của mình là jo, hay giống một cái gì đó. Điều này mang đến sự ghi nhận là tình huống đầu tiên của Thư pháp gia tham gia vào sáng tạo nghệ thuật mực trừu tượng. Hidai đã định danh cho nhóm Thư pháp của mình là Thư đạo Nghệ thuật giả vào năm 1933. Nhóm này ti ếp tục hoạt động trong 15 năm sau, thành viên gồm Ueda Sokyu, Ozawa Gakyu, Samejima Kazan,... Trọng tâm trong giáo dục của Hidai là, phải học tập Thư pháp cổ điển trước Đường, kết hợp học tập thẩm mỹ phương Tây, và phát triển triết lý Thư pháp mới dựa trên nền tảng tinh thần bút ý. Nhóm này bắt đầu thể hiện các tác phẩm theo trào lưu hiện đại trong Thư pháp Tiên phong Nhật bản - sự vượt trước. Tuy nhiên, Hidai và những người đi theo đã nghĩ lại cách thức học tập và xác định Thư pháp. Vấn đề tự nhiên trong Thư pháp được đặt ra đối với các thành viên của tầng lớp Văn nhân, khi họ tan rã vào cuối thời Minh Trị. Tầng lớp này dùng Thư pháp để viết thơ ca TH, và theo họ, Thư pháp chủ yếu phải mang ý nghĩa nội dung hơn là bản thân đường nét. Điều đó đúng với những người luyện tập thư pháp khác: giới thư lại, những người lâm mô chính thức; và tầng lớp tăng lữ, đặc biết với các Thiền sư, Thư pháp như một phần của việc hành Thiền vậy. Tầng lớp Văn nhân cho rằng Thư pháp, về bản chất thuộc về TH, và việc viết lách đương nhiên là cần thiết cho khả năng chính xác. Họ quyết tâm tạo tác chữ viết tới mức khách quan nhất có thể, và không phải là sự giãi bày cá tính. Nishikawa Shundou- người từng theo Hội Thư đạo Hiền nhân năm 1933, vẫn tiếp tục học tập và cẩn trọng trong sáng tác. Việc bàn luận về nghệ thuật Thư pháp và sự nổi bật của thẩm mỹ đã bị gác lại một bên, trong khi các Thư pháp gia vẫn chỉ quan tâm đến bản thân với kỹ pháp cần thiết cho thể chữ, mà họ nghĩ là phải trung thành với bản gốc. Kết quả là, tầng lớp Văn nhân đã trực tiếp ganh đua với các thư lại trong triều, sự cạnh tranh về kỹ pháp đó diễn ra gay gắt.
  8. Vào thập kỷ 20 của thế kỷ 20, các Thư pháp gia đã tự tổ chức thành các nhóm cơ động và rộng rãi. Thủ lĩnh các nhóm đều có xu hướng luyện tập chữ mẫu đã chọn, và mong muồn môn sinh luyện tập theo các thủ bản. Điều đó không tránh khỏi việc, với đẳng cấp khác nhau và sự phát triển rộng rãi các triển lãm Thư pháp đã tạo ra sự nhấn mạnh về kỹ pháp và tạo ra các phó bản rập khuôn chính xác. Viện Thư dạo Đại đồ- một tổ chức thúc đẩy Thư pháp- đã được thành lập vào năm 1930, tồn tại kéo dài đến năm 1942, và đã tài trợ cho các cuộc triển lãm Thư pháp. Các tác phẩm triển lẫm ngày càng trở nên chính thức hóa cho đến khi Hidai Tenrai và Onoe Saishu thiết lập ra nhóm phá phách Viện Thư đạo Đại Nhật bản vào năm 1937. Năm 1948, lần đầu tiên tác phẩm Thư pháp được gom vào Triển lãm Nghệ thuật Quốc gia- Nitten. Các Thư pháp gia từ Viện Thư đạo Đại đồ được nộp tác phâm. Ở Nitten, chủ yếu vẫn l à Thư pháp Hàn lâm, được lựa chon chính thống và chặt chẽ. Người tham gia nộp tác phâm phải lựa theo ý tuyển trạch vi ên đẻ được đảm bảo lựa chọn. Hầu hết các Thư pháp gia ngày nay đều thuộc Nitten. Quyền lực của Hội Thư đạo Hiền nhân kiểm soát tới 30% tác phẩm đóng góp, trong khi Viện Nghệ thuật Hán tài Nhật bản tuy không mạnh bằng Nitten, nhưng chiếm tới 90% Thư pháp gia Nhật bản theo phương Tây. Những nhóm Thư pháp không tham gia vào Nitten thì thuộc vào Viên Thư đạo đại Nhật bản, những người có vai trò đã được Hội Triển lãm Thư pháp Mainichi tiếp quản vào năm 1948. Vấn đề quan trọng đặt ra với các nhóm là hệ thống nghiên cứu nghệ thuật Thư pháp, và phong trào Tiên phong phải tìm được
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2