
9
HIỂU TÍNH CÁCH ĐẶC TRƯNG CỦA NGƯỜI NHẬT
TS. Võ Văn Thành Thân
Trường Đại học Kinh tế - Tài chính TP.HCM
Khoa Ngôn ngữ & Văn hóa Quốc tế
Tóm tắt
Thông qua cái nhìn khái quát về mối quan hệ cơ bản giữa người với người
trong xã hội Nhật Bản bài viết đã rút ra được một số tính cách đặc trưng của người
Nhật. Các mối quan hệ chủ yếu được đề cập ở đây là mối quan hệ giữa cá nhân
và tập thể; mối quan hệ theo chiều dọc và chiều ngang; mối quan hệ bên trong,
bên ngoài; mối quan hệ giữa bản chất bên trong và biểu hiện bên ngoài. Các mối
quan hệ này làm cơ sở cho việc lựa chọn hành vi giao tiếp thích hợp của người
Nhật.
Từ khóa: tính cách, đặc trưng, người Nhật, mối quan hệ
1. Giới thiệu
Bài viết tìm hiểu và giới thiệu về tính cách của người Nhật. Người Nhật có
tính cách khá đa dạng và phức tạp bởi sự trừu tượng và tối giản đan xen lẫn nhau.
Có những tính cách tưởng như trái ngược nhưng kỳ thực lại bổ sung nâng đỡ cho
nhau. Xin mượn nhan đề “Thanh gươm và hoa cúc” của R. Benedict đặt cho tác
phẩm khảo cứu về bản sắc dân tộc Nhật Bản để đúc kết những đặc trưng chủ yếu
trong tính cách người Nhật. Theo đó, “thanh gươm” tượng trưng cho các nguyên
tắc cứng nhắc, tính kỷ luật sắt còn “hoa cúc” tượng trưng cho sự nhạy cảm, giàu
tình yêu thương và cốt cách phong lưu của người Nhật.
2. Những tính cách đặc trưng của người Nhật
2.1 Khiêm Tốn
Khiêm tốn là một trong những tính cách đặc trưng của người Nhật. Họ tránh
nói nhiều về bản thân và tuyệt đối không đề cao các phẩm chất của mình. Nguyên
nhân hình thành tính cách khiêm tốn rất tự nhiên của người Nhật có lẽ là do ý thức
về “cái tôi” rất nhỏ, thêm vào đó là “tâm lý coi trọng thể diện” theo kiểu “Biết

10
người biết ta”. Việc này chẳng những không thiệt mà còn lợi như tránh “múa rìu
qua mắt thợ”, “tôi kính anh một bước, anh kính lại tôi ba bước” và cao nhất là
“trăm trận trăm thắng”. Thế nên, việc hai người Nhật tranh nhau nhận phần yếu
thế về mình không có gì là lạ.
Bản thân khiêm tốn song người Nhật lại có tinh thần tự tôn dân tộc rất cao,
Điều này xuất phát trước tiên là do quan niệm truyền thống về cội nguồn dân tộc
Nhật. “Theo thần đạo, hệ thống tín ngưỡng Nhật thì dân tộc Nhật là hậu duệ của
Nữ thần mặt trời Amaterasu, người sinh ra vị thiên hoàng huyền thoại Zimmu, lên
ngôi năm 660 trước Công Nguyên và trị vì “Vương quốc Yamato”. Chính vị hoàng
đế này là người mở đầu các triều đại Thiên Hoàng Nhật Bản, thay nhau trị vì xứ
sở suốt từ đó đến tận bây giờ” [3,9]. Với quan niệm là hậu duệ của thần mà lại là
vị thần tối cao cai quản các chư thần, người Nhật hoàn toàn có cơ sở để tự hào về
dòng dõi dân tộc mình. Cách gọi tên nước là 日本 ( ngày trước đọc là Nippon, giờ
đọc là Nihon) có ý nghĩa là nơi mặt trời sinh ra đã bộ lộ rõ nét lòng tự hào đó .
2.2 Coi trọng thể diện
Theo các nhà nghiên cứu “tâm lý coi trọng thể diện” của người Nhật chịu
ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ từ tinh thần võ sĩ, Tầng lớp võ sĩ xuất hiện trong xã
hội Nhật Bản từ thời Mạc phủ Kamakura (1192-1333). Cùng với sự xuất hiện tầng
lớp này là sự ra đời một bộ luật mới hết sức độc đáo là Bushido (Võ sĩ đạo, nghĩa
đen là con đường của người chiến binh) [3:11]. Bộ luật này vốn chỉ đề ra những
nguyên tắc cho người võ sĩ nhưng lại có ảnh hưởng mạnh mẽ đến cả nếp sống, suy
nghĩ của toàn thể cộng đồng Nhật Bản. Mãi về sau, khi mà tầng lớp võ sĩ “đã bị
thủ tiêu trên danh nghĩa nhưng việc đó tuyệt nhiên không gột bỏ được tận gốc các
quy phạm đạo đức “Võ sĩ đạo” trong tâm thức người Nhật. Một trong những
nguyên tắc lớn của võ sĩ là trọng danh dự. Điều này được phản ánh gần như đầy
đủ trong tâm lý coi trọng thể diện của người Nhật ngày xưa, ngoài việc tự sát theo
tôn chủ để thể hiện lòng tận trung của mình, người võ sĩ còn tự sát khi danh dự bị
xúc phạm. Điều đáng nói nữa là vấn đề danh dự có bị xúc phạm hay không không

11
phải chỉ do tác động của đối tượng bên ngoài mà nhiều khi do chính nhận thức bên
trong của bản thân.
Có một giai thoại về người võ sĩ rất được người Nhật ưa thích như sau:
“Tình cờ hai võ sĩ nọ có dịp quen nhau, hai người rất kính sự chân thành
và nhân cách cao cả của nhau. Rồi họ chia tay nhau, mỗi người một ngả không
quên hẹn ngày gặp lại. Ngày hẹn là thượng tuần tháng chín, đúng vào lúc ở Nhật
Bản hoa cúc nở rộ. Hai người mong chờ đến ngày đó để cùng nhau vừa ngắm hoa
cúc nở, vừa uống rượu. Nhưng trước ngày hẹn đó, một võ sĩ đã gặp phải chuyện
rắc rối do bọn người ác ý gây ra. Người võ sĩ nọ nóng lòng muốn lên đường để
giữ lời hứa gặp lại bạn nhưng vụ rắc rối vẫn chưa giải quyết được. Thế rồi, ngày
hẹn qua đi. Người võ sĩ bị đẩy vào tình cảnh không thực hiện được lời hứa, đã
chọn giải pháp cuối cùng đó là cái chết. Người ta nói rằng con người khi chết đi
biến thành linh hồn có thể bay ngay được đến nơi xa xôi. Để xin lỗi người bạn ở
nơi xa về chuyện lỗi hẹn, người võ sĩ này cuối cùng đã tự mổ bụng. Ông biến thành
linh hồn để đến ngay được chỗ bạn mình.
Trong khi đó, người võ sĩ kia bày biện hoa cúc, rượu chuẩn bị đón bạn, đã
lấy làm lạ khi ngày hẹn đã qua rồi mà bạn chưa tới. Nhưng rồi khi người bạn từ
phương xa tới, ông ngạc nhiên về hình thù kì dị của bạn, Ông lại càng ngạc nhiên
hơn khi nghe tới chuyện bạn mình phải tự mổ bụng một cách thương tâm. Ông đã
cảm ơn tấm lòng của bạn và hứa sẽ trả thù kẻ đã gây ra chuyện rắc rối. Cuối cùng
ông đã trừng phạt được kẻ đó” [2, 120-121]
Chính việc tự cảm thấy có lỗi vì không giữ được chữ tín, người võ sĩ đã “tự
trừng phạt” bản thân. Lúc này, tâm lý coi trọng thể diện đã chuyển sang tâm lý hổ
thẹn.
Như vậy, cảm giác hổ thẹn tự phát sinh ngay trong tư tưởng của người Nhật
khi họ ý thức được việc bản thân đã vi phạm những điều không nên làm như việc
không giữ được chữ tín với người khác trong giai thoại trên. Từ đó, hình thành tâm
lý mặc cảm thôi thúc ý chí phải giải quyết nỗi hổ thẹn đó. Đối với người võ sĩ xưa,
cách thức duy nhất mà họ có thể thực hiện là “tự sát”. Ngày nay, việc này đã bị

12
ngăn cấm nhưng tâm lý coi trọng thể diện, tâm lý hổ thẹn vẫn còn nguyên giá trị
đối với người khác, tránh gây mất lòng bằng các biểu hiện hạn chế bày tỏ cảm xúc
thật, cách nói trực tiếp, lấy việc tôn trọng người khác để tôn trọng mình và yêu cầu
sự tôn trọng ngược lại.
2.3 Tính kỷ luật cao
Người Nhật đặc biệt trọng kỷ luật. Tính kỷ luật cao của họ có nguồn gốc từ
đức “tín” trong giáo lý đạo Khổng (Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín) và nguyên tắc trọng
danh dự, phục tùng tôn chỉ một cách vô điều kiện của người võ sĩ. Phàm việc gì đã
là quy tắc cho dù có đi ngược lại sở nguyện của mình thì người Nhật cũng nhất
mực tuân thủ. Một khi vi phạm qui tắc, việc giải thích lý do dù là chính đáng đối
với người Nhật đều rất vô ích, thậm chí còn bị cho là biện hộ, không nhìn nhận sai
trái của bản thân. Cách tốt nhất là tỏ thái độ thành tâm nhận lỗi và tìm kiếm cơ hội
sửa chữa sai phạm.
Tính kỷ luật đảm bảo cho xã hội Nhật Bản được phát triển trong điều kiện
ổn định, thống nhất xuyên suốt lãnh thổ (cho dù điều kiện địa lý, địa hình của Nhật
Bản khiến đất nước này có dạng như hình cánh cung, trải dài từ Bắc chí Nam và
bị chia cắt thành nhiều vùng, miền). Từ đó, chính quyền Nhật Bản huy động được
tối đa sức mạnh tập thể. Đây là một trong những nguyên nhân giúp Nhật Bản đạt
được những “bước tiến thần kỳ” trong lĩnh vực kinh tế từng gây sốt thế giới và tiếp
tục đồng hành với họ trên chặng đường tìm lại thời hoàng kim đầy cam go trong
thời đại ngày nay.
2.4 Tâm lý
“甘え”
=Amae ( tâm lý mong mỏi sự thông cảm)
Khi mới giao tiếp với người Nhật, hầu như ai cũng ngạc nhiên không hiểu
sao người Nhật lại nói cảm ơn và xin lỗi nhiều đến thế. Về sau, chúng ta có thể đã
quen với hiện tượng thú vị này nhưng mấy ai biết được căn nguyên của nó chính
là tâm lý “甘え”=Amae của người Nhật, “甘え”=Amae có nghĩa gốc là tâm lý hay
nũng nịu , vòi vĩnh , nhõng nhẽo của con trẻ với bố mẹ của mình. Động cơ khiến
đứa bé thực hiện những hành vi này là mong muốn được mẹ yêu thương dỗ dành,

13
được chiều chuộng. Từ đó suy rộng ra, người Nhật thể hiện tâm lý amae với các
đối tượng khác để tìm kiếm, mong mỏi sự thông cảm, đồng tình, tha thứ của họ
dành cho hành vi nào đó của mình.
2.5 Cốt cách phong lưu
“Cốt cách phong lưu là một trong những đặc trưng tiêu biểu cho toàn thể
cộng đồng Nhật Bản. Phong lưu là từ diễn đạt tình cảm thẩm mỹ của người Nhật
và nhà văn Tetsuzo Tanikawa đã cho rằng, tình cảm thẩm mỹ là nền tảng của bản
sắc dân tộc Nhật, là nét chủ đạo, chi phối mọi đặc trưng còn lại của sắc dân Phù
Tang” [3,30].
Cốt cách phong lưu của người Nhật được thể hiện trong đời sống thường
nhật hết sức đa dạng. Đó là tình yêu thiên nhiên, yêu vẻ đẹp; nỗ lực phấn đấu để
vươn tới những giá trị cao; những thú vui tao nhã… Như chúng ta đã biết, người
Nhật vốn rất giỏi ở khả năng tiếp thu và “Nhật hóa” các giá trị có xuất xứ từ bên
ngoài. Kết quả là nhiều giá trị cũ bỗng chốc trở nên mới mẻ và cuốn hút lạ kỳ; trà
đạo, hoa đạo là những ví dụ tiêu biểu. Chúng không sinh ra trên đất Phù Tang
nhưng phải đến khi đặt chân vào đất nước này chúng mới hóa thành những giá trị
nghệ thuật thiêng liêng được con người suy tôn và có khả năng cứu rỗi tâm hồn
con người (Chẳng hạn, khi bước vào trà thất, con người phải rũ bỏ mọi vui buồn
thế tục, mọi phân biệt đẳng cấp…để nhập vào thế giới của hòa, kính, thanh, tịnh).
Những nghệ thuật như thế chỉ có ở Nhật Bản.
Đối với nghệ thuật giao tiếp, ứng xử, cốt cách phong lưu cũng chi phối một
cách sâu sắc. Một trong những nhận định chung của nhiều người sau khi tiếp xúc
với người Nhật là từ cử chỉ, thái độ cách cư xử đến từng “lời ăn tiếng nói” của họ
đều toát lên sự nhẹ nhàng, điềm đạm, ôn hòa.
3. Kết luận
Như vậy, bên cạnh những đặc trưng tính cách nặng tính khuôn phép, bị chế
ngự chủ yếu bởi uy quyền thì cốt cách phong lưu như một đối trọng mang lại cảm
giác cân bằng cho người Nhật trong cuộc sống.