
231
YẾU TỐ THỜI TIẾT TRONG VĂN HOÁ GIAO TIẾP
CỦA NGƯỜI NHẬT
- NGHIÊN CỨU TẬP TRUNG TRONG HAI MÙA: MÙA
XUÂN VÀ MÙA HẠ -
Đồng Thị Ngọc Hạnh
Trường Đại học Công Nghệ TP.HCM (HUTECH)
Viện Công nghệ Việt - Nhật (VJIT)
Tóm tắt
Bài viết tìm hiểu về các yếu tố thời tiết trong văn hoá giao tiếp của Người Nhật
qua giao tiếp thường nhật và giao tiếp thư tín. Khí hậu Nhật Bản với đặc trưng
bốn mùa: mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông. Và được phân bố rõ rệt trong
một năm, mỗi mùa có những đặc trưng riêng về thời tiết, hay hoạt động của động
thực vật. Yếu tố thời tiết được đề cập từ trong những câu chào hỏi thường nhật
như là một cách để bắt đầu một cuộc trò chuyện, cho đến việc xuất hiện như một
phần không thể thiếu trong thư tín của Nhật. Bốn mùa của Nhật Bản là yếu tố tạo
nên sự phong phú trong những lời chào mang đậm tính thời tiết. Bài viết tập trung
nghiên cứu vào hai mùa: mùa xuân và mùa hạ.
Từ khóa: Giao tiếp thường nhật, giao tiếp qua thư tín, văn hoá giao tiếp, yếu tố
thời tiết, lời chào hỏi mùa xuân, lời chào hỏi mùa hạ
Đặt vấn đề
Giao tiếp là một nhu cầu tâm lý – xã hội cơ bản của con người, là điều kiện
tồn tại và phát triển con người như một nhân cách. Trong quá trình giao tiếp, ngoài
kiến thức về ngôn ngữ, người nói còn cần có sự hiểu biết nhất định về đặc trưng
văn hoá của cộng đồng ngôn ngữ đó. Vì mỗi cộng đồng ngôn ngữ sẽ có những đặc
trưng riêng trong giao tiếp. Bài viết tìm hiểu về yếu tố thời tiết trong văn hoá giao
tiếp của người Nhật được thể hiện qua giao tiếp thường nhật, và giao tiếp thư tín.
Yếu tố thời tiết có vai trò như thế nào trong văn hoá giao tiếp của Nhật, nguyên
nhân mà những yếu tố thời tiết lại được đề cập trong văn hoá giao tiếp, và cách mà
các yếu tố xuất hiện trong giao tiếp của người Nhật. Từ việc hiểu được vai trò của

232
các yếu tố thời tiết trong văn hoá giao tiếp của người Nhật bài viết sẽ đề xuất
phương pháp giảng dạy nhằm góp phần vào hoạt động giảng dạy tiếng Nhật cho
sinh viên nhóm ngành ngôn ngữ Nhật.
Nội dung nghiên cứu
1. Cở sở lý thuyết
1.1 Văn hoá giao tiếp
Ngôn ngữ không chỉ là một công cụ để con người trao đổi thông tin mà còn
phản ánh những thói quen, tập quán, đặc trưng của mỗi cộng đồng người cùng với
những cách thức hoạt động giao tiếp ở những hoàn cảnh khác nhau. “Văn hoá giao
tiếp chính là những định chuẩn giao tiếp được tinh tuyển, được tạo thành nền nếp,
được hoàn thiện và nâng cao về cách thức, nếp ứng xử ngôn ngữ lời nói và cử chỉ,
hành vi: cả về phương thức trao đổi và tiếp xúc với nhau trong xã hội [Phạm Vũ
Dũng 1996: 19-20].
“Văn hoá giao tiếp của một xã hội, một dân tộc là toàn bộ những nguyên
tắc, những chuẩn mực và những quy định chỉ đạo hoạt động giao tiếp giữa người
và người trong xã hội đó, thuộc dân tộc đó, để sự giao tiếp đó được đánh giá và có
giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ, hợp lý, phù hợp với quan niệm xã hội đó về văn
hoá và văn minh, về truyền thống và bản sắc của dân tộc mình và phù hợp với điều
kiện tự nhiên, xã hội, kinh tế, văn hoá của dân tộc đó” [Trần Tuấn Lộ, 1995: 90].
Việc nắm bắt được văn hoá giao tiếp của một cộng đồng ngôn ngữ sẽ góp phần
tích cực vào quá trình giao tiếp, tiến gần hơn đến mối quan hệ giữa con người với
con người.
1.2 Đặc trưng khí hậu của Nhật Bản
Quần đảo Nhật Bản nằm trong hệ thống chuỗi đảo vòng cung Đông Á, có
khí hậu ôn đới. Quần đảo Nhật Bản nằm trải dài theo hướng Bắc Nam, do đó nhiệt
độ và lượng mưa thay đổi theo từng mùa và từng miền. Chính vì thế khí hậu Nhật
Bản có bốn mùa trong năm: mùa xuân, mùa hè, mùa thu và mùa đông. Mùa hè
nóng, ẩm, có gió mùa đông nam thổi từ Thái Bình Dương. Mùa đông có gió mùa
tây bắc thổi từ lục địa ra bờ biển Nhật Bản, thường u ám và có nhiều mưa tuyết.

233
Mùa xuân và mùa thu là hai mùa khí hậu ôn hoà. Địa hình và khí hậu đã tạo cho
nước Nhật một hệ sinh thái đa dạng, và cũng ảnh hưởng đến sự hình thành văn hoá
truyền thống của Nhật Bản.
2. Quan niệm của người Nhật về thời tiết
Trong lịch sử, người Nhật cũng là những cư dân trồng lúa nước. Chính vì
cũng xuất phát từ nguồn gốc thuần nông nghiệp giống như Việt Nam nên người
Nhật cũng rất quan tâm đến các hiện tượng thời tiết trong một năm. Đối với cư dân
trồng lúa nước nói riêng và cư dân canh tác nông nghiệp nói chung thì việc quan
sát các hiện tượng thời tiết trong một năm là điều rất quan trọng. Yếu tố thời tiết
là một trong những yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến thành quả nông nghiệp trong
năm đó của người dân. Chính sự quan tâm đến các hiện tượng thời tiết như vậy
nên các yếu tố về thời tiết cũng ảnh hưởng đến trực tiếp đến việc hình thành văn
hoá giao tiếp của người Nhật.
3. Yếu tố thời tiết trong giao tiếp thường nhật
3.1 Yếu tố thời tiết trong chào hỏi thường nhật
Trong văn hoá Việt Nam, khi gặp một người quen trên đường thường sẽ hỏi
câu “Anh/chị đi đâu thế?”. Nếu là một người học ngoại ngữ không am hiểu về văn
hoá giao tiếp của người Việt Nam thì sẽ hiểu đây là một câu nghi vấn thông thường,
và cảm thấy khó chịu khi bị hỏi như thế. Nhưng nếu là người Việt thì sẽ hiểu đây
là câu nghi vấn nhưng không yêu cầu người nghe phải đáp lại bằng câu trả lời
chính xác mà, và là một câu được sử dụng thay thế cho lời chào hỏi.
Ở giai đoạn đầu tiên khi tiếp xúc với tiếng Nhật, cụ thể là trong giáo trình
Marugoto Nhập môn A1 (Hiểu biết về ngôn ngữ) người học được tiếp cận với các
câu chào hỏi cơ bản như「おはようございます」(Chào buổi sáng),「こんにち
は」(Xin chào / chào buổi trưa),「こんばんは」(Chào buổi tối). Và lời chào hỏi
lại một lần nữa nhắc đến trong bài 4 của cuốn giáo trình Marugoto (Ngôn ngữ và
Văn hoá Nhật Bản), cuốn sơ cấp 1 A2 (Hiểu biết về ngôn ngữ). Chủ đề bài 4 là
「いい天気ですね」(Thời tiết đẹp nhỉ). Trong phần 「ことばと文化」(Văn
hoá và ngôn ngữ) ở cuối bài đã đưa ra một câu hỏi:「しりあいにみちで会った

234
とき、何と言ってあいさつをしますか」(Khi gặp người quen trên đường, bạn
thường chào hỏi như thế nào?). Câu trả lời được đưa ra là 「いい天気ですね」
(Thời tiết đẹp nhỉ). Qua câu trả lời được đưa ra đó, có thể thấy rằng yếu tố thời tiết
là một phần trong văn hoá giao tiếp của người Nhật. Việc dành một chủ đề riêng
để nói về thời tiết như thế chứng tỏ “thời tiết” không chỉ đơn thuần là nằm trong
một lời chào hỏi thông thường, hay chỉ là một cách mào đầu câu chuyện, mà còn
những vai trò khác.
Đặc biệt, thời tiết có thể độc lập để trở thành chủ đề chính của câu chuyện
như một ví dụ sau đây là một đoạn hội thoại mẫu được trích ra từ bài 4 của giáo
trình.
パク:きのうはすごい雨でしたね。
Hôm qua trời mưa lớn nhỉ.
あべ:はい、よくふりましたね。そして、さむかったです。
Vâng, đúng là mưa lớn nhỉ. Còn lạnh nữa.
私は一日じゅううちにいました。
Cả ngày hôm qua tôi chỉ ở nhà thôi.
パク:そうですか。でも、今日はいい天気になりましたね。
Vậy ư? Nhưng mà hôm nay thời tiết đẹp lên rồi nhỉ.
あべ:ええ、今日は晴れですね。
Ừ, hôm nay nắng nhỉ.
Như vậy, ở phần này người học sẽ được tiếp cận thêm nét văn hoá giao tiếp
trong quá trình học tập tiếng Nhật. Câu chào hỏi “Thời tiết đẹp nhỉ” như một câu
nói được sử dụng để mở đầu câu chuyện hoặc thậm chí có thể trở thành chủ đề
chính của câu chuyện. Trong nội dung phần đọc hiểu của bài 4, yếu tố thời tiết
cũng được nhắc đến, nhưng dưới hình thức là qua các bức thư ngắn. Mặc dù chỉ là

235
một đoạn văn ngắn được sử dụng như một mẫu tin nhắn để thông báo cho người
bạn nhưng các câu văn liên quan đến thời tiết lại chiếm 2/3 mẫu tin.
「今日はごぜんちゅうくもりでした。でも、ごごいい天気いなりま
した。そしてあたたかくなりました。私はおてらを見に行きました。き
れいでした」
Cả buổi sáng nay trời âm u. Nhưng mà chiều đến thì trời đã đẹp lên rồi. Cũng
ấm áp nữa. Tôi đã đi tham quan chùa. Chùa rất là đẹp.
Từ đó ta có thể thấy được yếu tố thời tiết có thể nắm giữ một vai trò khác
trong tiếng Nhật.
3.1.1 Yếu tố thời tiết trong thư tín
3.1.1.1 Bố cục của một bức thư trong tiếng Nhật
Mặc dù Nhật Bản là một nước phát triển khoa học kỹ thuật, nhưng
thói quen viết thư hay viết thiệp chúc mừng năm mới, thiệp chúc mừng
mùa hè vẫn còn tiếp tục, thậm chí thói quen này còn giữ vai trò hết sức
quan trọng trong xã hội. Thông qua những bức thư hay những tấm thiệp
đó, mọi người trong xã hội sẽ hiểu nhau hơn. Có lẽ vì thế mà người Nhật
có những nguyên tắc để viết một bức thư. Dưới đây là bố cục của một bức
thư trong tiếng Nhật
17
(手紙の構成)
前文
Phần
đầu thư
1. 書き出し
の言葉
2. 時候のあ
いさつ
3. 安否のあ
いさつ
1. Lời mở đầu
2. Lời chào thời tiết
3. Lời hỏi thăm
17
“Chugaku kokugo jiyu jizai”, Juken kennkyu, 2012, tr. 382 – 384.