
201
TRUYỀN TẢI KIẾN THỨC VĂN HÓA TRONG GIẢNG
DẠY TIẾNG NHẬT CHO SINH VIÊN
Tiết Thụy Tường Vy
Trường Đại học Công Nghệ TP.HCM (HUTECH)
Viện Công nghệ Việt - Nhật (VJIT)
Tóm tắt
Người ta thường nói rằng ngôn ngữ và văn hóa là hai mặt của cùng một
đồng tiền. Tuy nhiên ngôn ngữ không chỉ đơn thuần biểu đạt văn hóa của quốc gia
đó, mà còn nói lên tính cách của từng cá nhân. Dù là người Nhật như nhau, cùng
sử dụng tiếng Nhật nhưng họ lại khác nhau [1]. Điểm khác nhau đó được thể hiện
qua ngôn ngữ. Hơn nữa, văn hóa sinh ra ngôn ngữ, ngôn ngữ lại là cách để thể hiện
văn hóa. Thông qua ngôn ngữ, chúng ta có thể thấy rõ đức tính khiêm nhường,
kiên nhẫn đáng quý trọng của con người Nhật Bản. Hiện nay có rất nhiều người
học tiếng Nhật, trong số đó có không ít đã thừa nhận rằng tiếng Nhật là một ngôn
ngữ khó; Và thậm chí ngay cả người Nhật cũng nói tiếng Nhật khá khó học. Nhưng
thực tế cho thấy vẫn có rất nhiều người lựa chọn tiếng Nhật để học. Học tiếng Nhật
không chỉ vì sẽ dễ tìm được việc làm hơn do Nhật Bản là quốc gia đang thiếu
nguồn lao động trẻ, mà còn vì ngôn ngữ này gắn liền với một nền văn hóa đẹp, vô
cùng đặc sắc và đáng được ngưỡng mộ. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “truyền
tải kiến thức văn hóa trong giảng dạy tiếng Nhật cho sinh viên”, nhằm giúp sinh
viên vận dụng và biểu đạt kiến thức văn hóa xã hội vào trong tiếng Nhật một cách
tự nhiên.
Từ khóa (Keywords): giảng dạy tiếng Nhật, người học, sinh viên, truyền tải kiến
thức, văn hóa
1. Đặt vấn đề
Khi học tiếng Nhật, người học nói chung và các bạn sinh viên nói riêng, họ
không chỉ gặp trở ngại do sự khác biệt ngôn ngữ mà còn do đặc trưng văn hóa đa
dạng nằm ẩn trong ngôn ngữ. Sự khác biệt giữa nền văn hóa riêng của người học
tiếng Nhật và nền văn hóa mà trong đó ngôn ngữ đích đang hoạt động có thể gây
mâu thuẫn và hiểu lầm khi giao tiếp. Byram (1994) nhận xét “kiến thức về hệ thống

202
ngữ pháp của một ngôn ngữ - năng lực ngữ pháp (grammatical competence) phải
được bổ sung bằng sự hiểu biết về ý nghĩa văn hóa cụ thể - năng lực giao tiếp
(communicative competence), hay đúng hơn là năng lực văn hóa (cultural
competence)” [2]. Nhận định này đã được nhiều quốc gia trên thế giới như Anh,
Mỹ… áp dụng trong chính sách giáo dục ngôn ngữ. Các quốc gia này khuyến khích
giáo viên cập nhật thêm kiến thức văn hóa và cách tiếp cận liên văn hóa trong việc
dạy ngoại ngữ [3]. Hiện nay có rất nhiều giáo trình dạy tiếng Nhật tại Việt Nam,
tuy nhiên những giáo trình vừa giảng dạy tiếng Nhật vừa kết hợp kiến thức văn
hóa thì chưa có nhiều. Để đáp ứng nhu cầu đa dạng trong đào tạo, học tập tiếng
Nhật, và nhằm xây dựng môi trường thuận lợi cho việc dạy và học tiếng Nhật được
diễn ra liên tục và dễ dàng ở bất cứ đâu trên toàn thế giới, Quỹ Giao lưu Quốc tế
Nhật Bản (Japan Foundation) đã xây dựng các tài liệu cũng như phương pháp giảng
dạy tương ứng để tạo thuận lợi cho người học. Hiện tại, Japan Foundation đã có
bộ giáo trình “Marugoto – Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản” qua đó người học có
thể vừa học tiếng Nhật giao tiếp, vận dụng tiếng Nhật, vừa chú trọng nâng cao sự
hiểu biết văn hóa Nhật Bản; Và bộ giáo trình “Irodori – Tiếng Nhật trong đời sống”
nhằm cung cấp kiến thức nền tảng, trang bị đầy đủ năng lực giao tiếp tiếng Nhật
cơ bản cho từng tình huống thực tế trong đời sống tại Nhật Bản [4].
2. Cách thức truyền tải văn hóa trong giảng dạy tiếng Nhật
Hiện tại Viện Công nghệ Việt Nhật – HUTECH đang sử dụng giáo trình
Marugoto – Ngôn ngữ và Văn hóa Nhật Bản để giảng dạy tiếng Nhật liên văn hóa
cho sinh viên của Viện. Giảng viên đang cố gắng giảng dạy theo hình thức giúp
sinh viên tiếp cận nền văn hóa đích, lồng ghép giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa giúp
sinh viên không chỉ có kiến thức về tiếng Nhật, mà còn am hiểu cả văn hóa của
ngôn ngữ bản thân đang theo học. Từ đó khơi gợi sự hứng thú học tập của sinh
viên; Sinh viên sẽ cảm thấy học mà chơi, không bị gò bó quá nhiều vào các mẫu
ngữ pháp khô khan. Bên cạnh đó, giảng viên nên chọn lọc các tình huống ứng dụng
văn hóa thực tế, phù hợp với trình độ của sinh viên, đồng thời áp dụng các hình
thức học tập đa dạng. Dưới đây là một số cách thức truyền tải văn hóa trong giảng
dạy.

203
- Giải thích và đối chiếu: giảng viên sẽ giới thiệu ngữ pháp chính và lồng
ghép văn hóa xuất hiện trong ngữ pháp đó, chỉ ra tự tương đồng và khác
biệt giữa văn hóa Nhật Bản với văn hóa của Việt Nam.
- Thảo luận nhóm: dựa vào văn hóa được giới thiệu trong bài hội thoại có
sẵn trong giáo trình Marugoto, giảng viên hỏi ý kiến của một vài sinh
viên kết hợp gợi ý thêm, và cho sinh viên chia theo nhóm để thảo luận.
- Đóng vai: đây là một trong những hoạt động mà giáo trình Marugoto
mong muốn mang lại cho người học nhất. Sau khi học xong từ vựng và
mẫu ngữ pháp, hiểu được ý nghĩa của bài hội thoại, sinh viên sẽ đóng
vai thành nhân vật có trong bài hội thoại. Trong lúc sinh viên đóng vai
đang nói, các sinh viên khác phải lắng nghe và sửa lỗi sai cho bạn mình
nếu có.
- Chia sẻ ”tài nguyên” văn hóa: sinh viên là những người đến từ mọi miền
đất nước nên có thể chia sẻ nhiều kiến thức văn hóa khác nhau. Từ những
kiến thức văn hóa đó, thử so sánh với văn hóa của Nhật Bản để tìm ra
điểm giống và khác nhau. Nhờ đó, mọi người không chỉ hiểu biết thêm
về văn hóa Nhật Bản, mà còn được mở mang thêm kiến thức về nền văn
hóa của dân tộc.
- Thiết bị nghe nhìn: audio, video... được trang bị sẵn trên trang mạng của
giáo trình Marugoto, giúp sinh viên vừa học tiếng Nhật vừa nhận thức
về văn hóa của Nhật một cách sống động, chân thực. Đồng thời, cách
thức này cũng rất hữu ích trong việc giảng dạy tiếng Nhật giao tiếp lồng
ghép văn hóa đích. Dựa vào cử chỉ, thái độ, nét mặt... của người đóng
vai trong video, sinh viên trước khi được giảng viên giải thích cũng đã
có thể hiểu được phần nào nội dung của bài học.
3. Nội dung truyền tải văn hóa trong việc giảng dạy tiếng Nhật
3.1 Cách nhìn nhận giá trị, phong tục thông qua việc giảng dạy
“Văn hóa” là một thuật ngữ rất rộng, nó phản ánh quan điểm về phong tục,
giá trị và cách nhìn nhận sự vật, sự việc. Khi giảng viên giảng dạy ngôn ngữ cũng
đồng nghĩa giảng dạy về văn hóa. Ví dụ như: khi dạy từ vựng 「しょうがつ」 có

204
nghĩa là “Tết” thì giảng viên không chỉ nói ý nghĩa của từ, mà còn lồng ghép các
phong tục như trang trí Kadomatsu, món súp Ozoni, hoặc đôi khi giảng viên còn
dạy các câu chúc tết cho sinh viên. Hoặc là các từ nói về món ăn Nhật Bản như
「すし」(sushi),「ラーメン」(mì ramen),「てんぷら」(tempura), tuy giảng
viên có giải thích chi tiết về món ăn, nhưng cũng gọi tên món ăn giống như cách
đọc trong tiếng Nhật. Bên cạnh đó, trong tiếng Nhật cũng có những từ vựng khó
dịch sang tiếng Việt nói riêng và tiếng nước ngoài nói chung như 「おもいやり」
(omoiyari),「きくばり」(kikubari). Những từ ngữ này đại diện cho giá trị, những
điều đáng được coi trọng trong xã hội Nhật Bản. Khi sinh viên học những từ vựng
này, đồng thời cũng đánh giá được giá trị văn hóa của xã hội Nhật Bản.
3.2 Giảng dạy dựa vào hoàn cảnh, tình huống ngôn ngữ được sử dụng
Trong tiếng Nhật kính ngữ rất phát triển và có nhiều cách biểu đạt khác nhau
tùy vào ngữ cảnh sử dụng. Ví dụ, động từ 「食べる」và 「召し上がる」tuy có
cùng ý nghĩa nhưng khi dùng trong hoàn cảnh trang trọng như là: nói chuyện với
người có địa vị cao hơn, người lớn tuổi hơn... thì phải nên dùng 「召し上がる」
để thể hiện sự tôn trọng đối phương. Còn khi rủ bạn bè đi ăn mà nói là 「召し上
がりませんか。」thì không phù hợp, nên nói là 「食べませんか。」. Kính
ngữ giúp cho người nói thể hiện được sự lễ phép, kính trọng của mình dành cho
đối phương. Tuy nhiên nếu người nói không biết cách chọn lọc cho thỏa đáng sẽ
dễ tạo mối quan hệ trở nên xa cách với bạn bè, người thân. Tiếp đến là, khái niệm
“Uchi / Soto” (mối quan hệ bên trong / bên ngoài) cũng có mối liên hệ đến điều
này. Mối quan hệ bên trong là những người trong gia đình mình, bạn bè, những
người làm chung công ty… Còn mối quan hệ bên ngoài là những người trong gia
đình người khác, khách hàng, những người có mối quan hệ không thân thiết… Ví
dụ: 「ちち」(ba mình) là từ dùng để nói về ba của mình,「お父さん」(ba của
người khác) là chỉ ba của người khác. Tuy nhiên trong thực tế khi nói về ba của
mình, nhiều người Nhật vẫn dùng 「お父さん」, thậm chí dạo gần đây còn
thường được nghe thấy ngay cả trong các bối cảnh công cộng. Khi nói chuyện trực
tiếp với cấp trên thì dùng tôn kính ngữ: 「社長、お出かけになりますか。」

205
(Giám đốc, ông đi ngoài à?), nhưng khi nói chuyện với người “Soto” (mối quan hệ
bên ngoài) thì dù người được nhắc đến là cấp trên của người nói thì cũng phải dùng
khiêm nhường ngữ「社長はお出かけしました (Giám đốc đã đi ra ngoài). Chính
vì vậy, kính ngữ phản ánh rất rõ nét xã hội Nhật Bản, thể hiện sự tôn trọng trong
giao tiếp giữa người với người, sự đối xử tốt và hòa thuận trong giao tiếp bằng từ
ngữ [5].
4. Lưu về nội dung truyền tải văn hóa trong việc giảng dạy tiếng Nhật
4.1. Sự khác biệt về văn hóa chào hỏi của Việt Nam – Nhật Bản
Không chỉ khi giảng dạy tiếng Nhật, mà bất kể ngôn ngữ nào cũng phải gắn
liền với nội dung văn hóa. Để sinh viên nhận thức được nét đẹp trong văn hóa đó
thì giảng viên cần phải đưa ra được những đặc tính văn hóa liên quan đến ngôn
ngữ đích. Nội dung giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa phải được chọn lọc, kết hợp
để phục vụ cho việc thực hiện một hành vi giao tiếp. Ví dụ, khi dạy hỏi tuổi「あ
なたは なんさいですか。」(dùng để hỏi người có tuổi nhỏ hơn người nói) hoặc
「あなたはおいくつですか。」(dùng để hỏi người lớn hơn người nói, hoặc hỏi
lịch sự với người có tuổi tương đương người nói). Khi đó giảng viên có thể lưu ý
cho học viên là ở Việt Nam có thể hỏi tuổi người khác trong lần gặp đầu tiên. Còn
đối với văn hóa Nhật thì lại kiêng kị điều này. Trong trường hợp muốn biết độ tuổi
của đối phương có thể uyển chuyển đổi những cách hỏi khác như: “Anh/Chị đã tốt
nghiệp đại học năm nào”; “Anh/Chị đã kết hôn chưa“; “Anh/Chị có mấy đứa con”...
Bằng cách hỏi khéo léo như vậy, chúng ta phần nào cũng có thể đoán được độ tuổi
của đối phương mà không làm cho đối phương cảm thấy khó chịu, có ấn tượng
không tốt về mình trong lần gặp gỡ đầu tiên. Truyền tải văn hóa trong việc giảng
dạy tiếng Nhật cần được thể hiện chuẩn kiến thức ngôn ngữ và kỹ năng giao tiếp.
Nội dung văn hóa liên quan đến ngôn ngữ thường được coi trọng trong việc giảng
dạy. Giáo trình Marugoto luôn chú trọng việc giúp cho sinh viên thực hiện các
hành vi giao tiếp cơ bản như: chào hỏi, chỉ đường, rủ rê đi chơi, ăn uống...
4.2. Cách diễn đạt phần kết luận được đưa ra sau cùng