
BÀN VỀ VIỆC PHÂN BIỆT TRẠNG NGỮ VỚI MỘT SỐ THÀNH
PHẦN KHÁC TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
PGS-TS Nguyễn Thị Lương
Thành phần câu là một vấn đề quan trọng của ngữ pháp. Nhưng lâu nay, việc nhận diện một số thành phần
câu trong tiếng Việt, nhất là thành phần trạng ngữ - với người sử dụng, đặc biệt là với các đối tượng học
sinh, sinh viên và giáo viên ngữ văn các bậc phổ thông, còn có nhiều vướng mắc. Không ít trường hợp,
người ta băn khoăn không biết xếp chúng vào thành phần gì ? Trạng ngữ hay vế của câu ghép tỉnh lược ?
Trạng ngữ hay vị ngữ phụ ? Trạng ngữ hay bổ ngữ, định ngữ ? Trạng ngữ hay vị ngữ chỉ quan hệ ?
Bài viết này sẽ góp thêm tiếng nói giúp giải đáp các thắc mắc trên.
1.Trạng ngữ hay vế của câu ghép tỉnh lược.
Xét các trường hợp sau :
(1)Vì tôi ốm, nên tôi phải nghỉ học.
(2)Vì ốm, tôi phải nghỉ học.
(3)Vì nó, tôi bị mắng oan.
Câu (1) có mô hình vì C1 - V1, nên C2 - V2. Đó là mô hình dạng đầy đủ của câu ghép chính phụ (có
quan hệ nhân quả). Trường hợp này không có tranh luận.
Câu (3), thành phần “vì nó” có cấu tạo : quan hệ từ + đại từ, cũng được những người nghiên cứu thống
nhất xếp vào thành phần trạng ngữ chỉ nguyên nhân. Câu (3) có mô hình của câu đơn có trạng ngữ.
Câu (2) là dạng câu có ý kiến tranh luận. Thành phần “vì ốm” trong câu có hai cách đánh giá :
- Cho là trạng ngữ chỉ nguyên nhân.
- Cho là vế của câu ghép có chủ ngữ bị tỉnh lược.
Chúng tôi tán thành cách thứ hai với các lý do sau :
-Về mặt nghĩa: câu (2) biểu thị hai sự tình :
+ Sự tình thứ nhất được biểu thị bằng động từ “ốm”.
+ Sự tình thứ hai được biểu thị bằng cụm động từ “phải nghỉ học”.
Hai sự tình đó có cùng chung một chủ thể là “tôi”.
Tôi - ốm, tôi - phải nghỉ học. Điều đó hoàn toàn hợp lô gích.
-Về mặt cấu trúc ngữ pháp :
Lý thuyết về câu ghép cho rằng : Với dạng câu ghép chính phụ có mô hình :Quan hệ từ1 C1-V1, quan
hệ từ2C2-V2,
+ Nếu C1và C2khác chủ thể thì sự có mặt của C1và C2là cần thiết.
(4)Chúng taphải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc vìcác vị ấylà tiêu biểu của một dân tộc anh
hùng.
03:18 7/10/25
nguvan.hnue.edu.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-viet=ban-ve-viec-phan-biet-trang-ngu-voi-mot-so-thanh-phan-khac-trong-ca…
nguvan.hnue.edu.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-viet=ban-ve-viec-phan-biet-trang-ngu-voi-mot-so-thanh-phan-khac-trong-cau-tieng-viet-701
1/19

(Hồ Chí Minh)
(5) Có lẽtiếng Việt của chúng tađẹp bởi vìtâm hồn của người Việt tarất đẹp.
(Phạm Văn Đồng)
Nếu chủ ngữ bị tỉnh lược, người đọc sẽ khó hiểu hoặc hiểu sai nội dung câu - như ví dụ dưới đây :
(6) Ở lứa tuổi thích trái ô mai, thích viên kẹo ngọt hay vòi vĩnh bố mẹ, xin người lớn đừng bắt các em phải
ra trước sân trường hô những câu khẩu hiệu mà chính các em chưa hiểu rõ các từ trong đó.
(Báo)
Lô gích của câu (6) cho phép hiểu chủ thể của trạng thái “ở lứa tuổi thích trái ô mai ...” là “các em”, còn chủ
thể của hành động “xinngười lớn đừng bắt các em...” làngười nói. Hai chủ thể đó thuộc hai đối tượng khác
nhau. Vế đầu của câu, chủ ngữ “ các em ” bị tỉnh lược, khiến cho người nghe, người đọc hiểu nhầm rằng :
người phát ngôn hành động “xinngười lớn..” đang “ở lứa tuổi thích trái ô mai”.
+ Nếu C1và C2cùng chung một chủ thể thì có thể tỉnh lược một chủ ngữ của câu (một số trường hợp có
thể tỉnh lược cả hai chủ ngữ).
(7) Nếubạnsợ sặc nướcbạnsẽ không bao giờ biết bơi.
Nếu sợ sặc nước,bạnsẽ không bao giờ biết bơi.
(8) Tuyhọnghèo nhưnghọrất tốt bụng.
Tuy nghèo nhưnghọrất tốt bụng.
Trở lại với câu (1) và câu (2). Câu (1) có mô hình của câu ghép dạng đầy đủ : Vì tôi/ ốm nên tôi/
phải nghỉ học.
C1- V1 C2 - V2
Trong đó C1và C2cùng chung một chủ thể “tôi” nên câu (1) có thể tỉnh lược C1thành câu (2) : Vì ốm, tôi
phải nghỉ học.
Như vậy, xét về cấu trúc ngữ pháp, câu (2) có mô hình cấu trúc của câu ghép chính phụ (quan hệ nhân quả),
trong đó, chủ ngữ của vế nguyên nhân bị tỉnh lược vì có cùng chủ thể với chủ ngữ ở vế kết quả. Chủ ngữ đó
hoàn toàn có thể khôi phục lại - nếu cần.
Câu (2) có mô hình : Vì (C1tỉnh lược) - V1, C2- V2
-Về chức năng ngữ pháp :Sự phân tích về nghĩa và cấu trúc ngữ pháp ở trên cho phép rút ra kết luận :
+ Thành phần “vì ốm” ở câu 2 (có cấu tạo :kết từ + động từ/cụm độngtừ) giữ chức năng vị ngữ của vế
nguyên nhân. Nó chính là V1của mô hình câu ghép chính phụ mà ở vế nguyên nhân, chủ ngữ bị tỉnh lược.
+ Thành phần “vì nó” ở câu 3 : “ Vì nó, tôi bị mắng oan” không có các đặc điểm như đã phân tích với
thành phần “vì ốm” ở câu (2). Cụ thể :
·Về nghĩa, câu (3) không biểu thị hai sự tình.
·Về cấu trúc cú pháp, vế nguyên nhân của câu không có thành phần nào bị tỉnh lược, nên không thể
thêm vào đó một thành phần nào khác.
· Do đó,về chức năng, thành phầnvì nóở câu 3 (có cấu tạo :kết từ + đại từ/danh từ/cụm danh từ) là
thành phầntrạng ngữ chỉ nguyên nhân.
03:18 7/10/25
nguvan.hnue.edu.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-viet=ban-ve-viec-phan-biet-trang-ngu-voi-mot-so-thanh-phan-khac-trong-ca…
nguvan.hnue.edu.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-viet=ban-ve-viec-phan-biet-trang-ngu-voi-mot-so-thanh-phan-khac-trong-cau-tieng-viet-701
2/19

Kết quả phân tích trên cho phép nhận diện :
- Các phần in nghiêng ở các câu dưới đây làvị ngữ của vế câu ghép có chủ ngữ bị tỉnh lược:
(9) Bạn đã bỏ qua nhiều cơ hội chỉ vìkhông cố gắng hết mình.
(10) Trinh chưa muốn nói bây giờ vìmuốn dành cho tôi một sự bất ngờ.
- Các phần in nghiêng ở các câu dưới đây làthành phần trạng ngữ:
(11)Do một sự tình cờ, y biết được tên Tư.(Nam Cao)
(12) Cuộc đời chật hẹp và phù phiêm của cá nhânvì văn chươngmà trở nên thâm trầm và rộng rãi đến trăm
nghìn lần.
(Hoài Thanh)
(13) Haytại sự sung sướng bỗng được nhìn và ôm ấp cái hình hài máu mủ của mìnhmà mẹ tôi lại tươi đẹp
như thuở còn sung sức.
(Nguyên Hồng)
2. Trạng ngữ hay vế của câu ghép đầy đủ
Đó là trường hợp sau :
(14)Chân nọ đá chân kia, chị lại trở về ngồi ở đầu phản.
(Ngô Tất Tố)
(15) Hắn ngồi bổ củi,cằm ghếch đầu gối.
Dạng câu này có các đặc điểm sau :
-Về cấu trúc ngữ pháp: câu (14), (15) có hai kết cấu C - V, hai kết cấu này không “bao nhau”, không
lồng vào nhau, chúng có mô hìnhC1- V1, C2- V2. Đó là mô hình của câu ghép.
-Về quan hệ nghĩa: quan hệ nghĩa giữa các thành phần câu (14), (15) khá đặc biệt. Đó là :
+ C1và C2có quan hệ bộ phận - chỉnh thể (hay chỉnh thể - bộ phận) :chân - chị, cằm - hắn.
+ Vị ngữ (của vế chỉnh thể) và toàn bộ kết cấu C - V của vế bộ phận có quan hệ hành động/trạng thái - tư
thế/cách thức của chính hành động/trạng thái ấy :trở vềđược thực hiện trong tư thếchân nọ đá chân kia;
hắn ngồibổ củitrong tư thếcằm ghếch đầu gối.
Trong tiếng Việt, mối quan hệ nghĩa đó, thường có giữa hai thành phần ngữ pháp : vị ngữ và trạng
ngữ chỉ cách thức. Do đó, về quan hệ nghĩa, kết cấu C - V ở vế chỉ bộ phận trong câu (14), (15) giữ chức
năng của một trạng ngữ chỉ cách thức.
-Về vị trí: kết cấu C - V của vế chỉ bộ phận có vị trí linh hoạt như một trạng ngữ chỉ cách thức : nó có
thể đứng trước - sau hay xen giữa kết cấu C - V của vế chỉ chủ thể.
Ví dụ :
+ Hắn ngồi bổ củi,cằm ghếch đầu gối.
+Cằm ghếch đầu gối, hắn ngồi bổ củi.
+ Hắn,cằm ghếch đầu gối, ngồi bổ củi.
03:18 7/10/25
nguvan.hnue.edu.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-viet=ban-ve-viec-phan-biet-trang-ngu-voi-mot-so-thanh-phan-khac-trong-ca…
nguvan.hnue.edu.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-viet=ban-ve-viec-phan-biet-trang-ngu-voi-mot-so-thanh-phan-khac-trong-cau-tieng-viet-701
3/19

Với các đặc điểm trên, dạng câu (14), (15) nếu xếp vào loại câu phức thành phần trạng ngữ thì sẽ hợp
lý hơn xếp vào loại câu ghép. Và như vậy, kết cấu C - V chỉ bộ phận sẽ được coi là trạng ngữ chỉ tư thế -
cách thức, một loại trạng ngữ đặc biệt trong tiếng Việt.
3. Trạng ngữ hay vị ngữ phụ.
Đó là các trường hợp sau :
(16)Dọn bát đũa xong, Thủy lên đứng ngắm nhìn mình trước gương.
(Dương Hướng)
(17)Xem mạch xong, Minh quay lại hỏi Diên.
(Khái Hưng)
(18)Rón rén, chị Dậu đến cạnh tràng kỷ.
(Ngô Tất Tố)
(19)Rồi vội vàng, ông vớ khăn áo, rủ Tới cùng đi.
(Nguyễn Công Hoan)
(20)Lặng lẽ và kiên tâm, bà mẹ vẫn tiếp tục nhích tới như theo một tiếng gọi mơ hồ nào.
(Tuyển tập truyện ngắn 1945-1985)
(21)Là người thích viết về lao động và tầng lớp dưới đáy xã hội,Nguyên Hồng được mọi người gọi là
“Goóc ki của Việt Nam”.
(Lê Hữu Tỉnh - Nguyễn Trọng Hoàn)
(22)Vừa toan thò miệng vào vòi nước để súc, bỗng anh nghe thấy tiếng gọi.
(Nguyễn Công Hoan)
Có 2 cách nhìn nhận về các thành phần in nghiêng dẫn trong các ví dụ trên :
- Coi đó là thành phầntrạng ngữ chỉ tình huống.
- Coi đó làvị ngữ phụ của câu.
Tác giả bài viết này theo quan điểm thứ hai. Bởi giữa vị ngữ phụ với trạng ngữ tuy có nhiều điểm giống
nhau nhưng vị ngữ phụ lại có nhiều điểm giống với vị ngữ chính mà trạng ngữ không có được.
Vị ngữ phụ giống trạng ngữ ở các điểm sau :
- Là thành phần phụ - ngoài nòng cốt của câu.
- Dùng để bổ sung ý nghĩa cho nòng cốt câu.
- Có thể lược bỏ mà không ảnh hưởng đến tính trọn vẹn của câu.
Vị ngữ phụ khác với trạng ngữ ở những điểm sau :
-Về cấu tạo: vị ngữ phụ là những vị từ hoặc cụm vị từ (các ví dụ trên), còn trạng ngữ chỉ tình hình thường
là những danh từ, cụm danh từ hay giới ngữ. Trạng ngữ có thể được dẫn nhập bằng quan hệ từ, còn vị ngữ
phụ thì không cần quan hệ từ đứng trước. So sánh vị ngữ phụ với các trạng ngữ chỉ tình hình dưới đây :
03:18 7/10/25
nguvan.hnue.edu.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-viet=ban-ve-viec-phan-biet-trang-ngu-voi-mot-so-thanh-phan-khac-trong-ca…
nguvan.hnue.edu.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-viet=ban-ve-viec-phan-biet-trang-ngu-voi-mot-so-thanh-phan-khac-trong-cau-tieng-viet-701
4/19

(23)Theo nghị quyết của Chính phủ và ý chí của quốc dân, tôi cùng đoàn đại biểu sẽ đi Pháp.
(24) Cả công cuộc dân tộc giải phóng miền Nam (....) tuần tự tiến tới con đường tranh thủ độc lập cho nước,
tự do, hạnh phúc cho dân,dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch.
(25)Với cái mác bộ đội chuyển ngành, tôi trở lại Quế Võ, Bắc Ninh nơi đóng quân lấy vợ.
-Về ý nghĩa:
Trạng ngữ tình hình không biểu thị sự tình, nó chỉ nêu lên cái tình huống, cái điều kiện mà sự tình được biểu
thị ở nòng cốt câu diễn ra.
Vị ngữ phụ chỉ một sự tình xảy ra hoặc đồng thời (ví dụ 19, 20, 22) hoặc trước sự tình ở vị ngữ nòng cốt (ví
dụ 16, 17). Vị ngữ phụ và vị ngữ chính nêu 2 sự tình khác nhau, nhưng chúng cùng chung một chủ thể -
được biểu thị ở chủ ngữ.
-Về chức năng ngữ pháp: vị ngữ phụ có thể kết hợp với chủ ngữ để tạo thành một câu, trong khi đó trạng
ngữ không có khả năng này.
Hãy so sánh câu (17) với câu (25):
(17)Xem tim mạch xong, Minh quay lại hỏi Diên.
Minh xemtim mạch xong(+)
(25)Với cái mác bộ đội chuyển ngành, tôi trở lại Quế Võ, Bắc Ninh nơi đóng quân lấy vợ.
Tôivới cái mác bộ đội chuyển ngành(-).
-Về vị trí :
+ Cũng như các loại trạng ngữ khác, trạng ngữ chỉ tình hình không có vị trí cố định trong câu, chúng có thể
đứng trước - sau hoặc xen giữa nòng cốt câu. Xét lại ví dụ (23) :
Theo nghị quyết của Chính phủ và ý chí của quốc dân, tôi cùng đoàn đại biểu sẽ đi Pháp.
Tôi cùng đoàn đại biểu sẽ đi Pháp,theo nghị quyết của Chính phủ và ý chí của quốc dân.
Tôi cùng đoàn đại biểu,theo nghị quyết của Chính phủ và ý chí của quốc dân,sẽ đi Pháp.
+ Vị ngữ phụ : chỉ đứng trước chủ ngữ (như các ví dụ đã dẫn). Trong thực tế sử dụng, thành phần được gọi
là vị ngữ phụ có thể chuyển xuống liền ngay sau chủ ngữ, hoặc xuống cuối câu. Nhưng ở các vị trí đó,
chúng không được coi là vị ngữ phụ mà thường là :
* Vị ngữ chính của câu :
Xét lai ví dụ (17) :
Xem xong tim mạch, Minh/ quay lại hỏi Diên.
VNP C V
Minh/ xem xong tim mạch, quay lại hỏi Diên.
C V1 V2
* Bổ ngữ cách thức :
Xét lại ví dụ (18) :
03:18 7/10/25
nguvan.hnue.edu.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-viet=ban-ve-viec-phan-biet-trang-ngu-voi-mot-so-thanh-phan-khac-trong-ca…
nguvan.hnue.edu.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-viet=ban-ve-viec-phan-biet-trang-ngu-voi-mot-so-thanh-phan-khac-trong-cau-tieng-viet-701
5/19