
CHẾ LAN VIÊN
I.Tiểu sử:
Chế Lan Viên tên là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 23/10/1920, quê ở xã
Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị, nhưng suốt thời niên thiếu đến
tuổi trưởng thành lại gắn bó với vùng Bình Định – Quy Nhơn, nên đây
cũng được xem là quê hương thứ hai của ông. Sinh trưởng trong một gia
đình viên chức nhỏ, cha lại mất sớm, nhưng Chế Lan Viên được tạo điều
kiện theo học ở Quy Nhơn rồi Hà Nội, đến hết bậc trung học, sau đó đi dạy
ở các tỉnh miền Trung và làm báo ở Sài Gòn.
Tập thơ đầu tay nhan đề “Điêu tàn” được viết lúc nhà thơ mới 16 – 17 tuổi,
được xuất bản năm 1937, khi tác giả đang là học sinh năm thứ ba trung
học ở Quy Nhơn, đã gây được sự chú ý đặc biệt và đưa Chế Lan Viên vào
trong số những nhà Thơ mới hàng đầu.
Năm 1939, Chế Lan Viên ra học tại Hà Nội, sau vào Sài Gòn làm báo rồi ra
Thanh Hóa dạy học.
Vào những năm 1940 – 1945, xã hội Việt Nam hết sức ngột ngạt và đen tối
dưới ách thống trị cuả Nhật, Pháp. Cũng như nhiều trí thức, nghệ sĩ lúc ấy
không tìm thấy con đường đi, Chế Lan Viên rơi vào sự khủng hoảng, hầu
như không tìm thấy cảm hứng sáng tác. Ông tìm đến các triết học duy tâm
siêu hình và tôn giáo, mong tìm một lối thoát.
Giữa lúc nhà thơ đang chìm sâu trong sự bế tắc ấy thì Cách mạng tháng
Tám bùng nổ. Mặc dù chưa hiểu gì nhiều về cách mạng, Chế Lan Viên
hăng hái tham gia phong trào Việt Minh ở thị xã Quy Nhơn, rồi ra Huế làm
báo Quyết thắng của Việt Minh Trung Bộ.
Suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, Chế Lan Viên hoạt động văn nghệ và
làm báo ở liên khu IV, là thường vụ Chi hội Văn nghệ liên khu.
Ông đã có hai chuyến đi vào vùng chiến trường Bình - Trị - Thiên ác liệt,
tại đó năm 1949 ông đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản ngay trên đất
quê mẹ Quảng Trị.
Sau năm 1954, Chế Lan Viên ra Hà Nội làm biên tập viên ở Nhà xuất bản
rồi ở báo Văn nghệ của Hội Nhà văn.
Chế Lan Viên nhiều năm làm uỷ viên Ban Chấp hành, ban Thường vụ, Ban
thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.
Từ sau năm 1975, ông chuyển vào ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Chế Lan
Viên còn là một nhà hoạt động xã hội tích cực. Ông là đại biểu Quốc hội từ
khóa III đến khóa
VII, tham gia các ủy ban văn hóa giáo dục và đối ngoại của Quốc hội, từng
có mặt ở nhiều diễn đàn văn hóa quốc tế, nhất là trong những năm chống
Mĩ cứu nước.

Ông mất ngày 19/6/1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 69 tuổi. Năm
1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học
Nghệ thuật
II. Con đường thơ:
Con đường thơ của Chế Lan Viên với hơn nửa thế kỉ đã đi qua bốn chặng
đường chính. Trước Cách mạng tháng Tám, Chế Lan Viên chỉ có một tập
thơ Điêu tàn (1937) và một số bài thơ viết sau Điều tàn, dự định in thành
tập Thơ không tên. Bước chuyển của thơ Chế Lan Viên sau cách mạng
được ghi nhận bằng tập Gửi các anh (1954) và thật sự thành công với tập
Ánh sáng và phù sa (1960). Những năm cả nước chống Mĩ là một giai
đoạn sáng tác dồi dào và đầy hào hứng của nhà thơ, với các tập Hoa ngày
thường - Chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại
mới (1973), và còn được tiếp tục sau năm 1975 với Hái theo mùa (1977)
và một tập thơ về Bác Hồ: Hoa trước Lăng Người (1976). Chặng đường
cuối của thơ Chế Lan Viên được bắt đầu từ tập Hoa trên đá (1984), và tiếp
đó là Ta gửi cho mình (1986) và khép lại với các tập Di cảo thơ (tập I,
1992, tập II, 1993, tập III, 1996), mà phần lớn các bài được viết trong vài
năm cuối đời.
1. Điêu tàn – tập thơ đầu
Điêu tàn gồm 36 bài thơ được sáng tác khi Chế Lan Viên 16 – 17 tuổi,
đang là học sinh trung học ở Quy Nhơn. Tập thơ giúp ông trở thành một
hiện tượng của phong trào Thơ mới. Tập thơ thể hiện được cái tôi trữ
tình của chính nhà thơ, một cái tôi rất cô đơn, ưu phiền và đầy đau khổ,
chìm đắm trong điên loạn và bế tắc, tuyệt vọng tột độ. Dòng sông Linh
quằn quại, những tháp Chàm rêu phong, viên gạch cổ im lìm rụng vào
lòng tháp lãng quên một buổi chiều cô tịch, những nghĩa địa lạnh lẽo…
đó là một thế giới kinh dị. Chiêm quốc, sự hiện hữu và cát bụi hư vô,
thành Đồ Bàn và những kí ức hưng thịnh đổ nát,… là nỗi ngậm ngùi uất
ức, là hoài nhớ trong tuyệt vọng. Tất cả đều tái sinh trong Điêu Tàn.
2. Ánh sáng và phù sa – cái mốc quan trọng trên đường thơ sau
cách mạng của Chế Lan Viên.
Trong những năm kháng chiến chống P, CLV cũng như nhiều nghệ sĩ
trước năm 1945 đã nỗ lực nhập cuộc, dấn thân vào thực tiễn CM và đời
sống nhân dân, để từng bước thay đổi tư tưởng và tâm hồn mình.
Thành công thực sự của chặng đường ở CLV được ghi nhận bằng tập
thơ Ánh sáng và phù sa (1960).
Tập thơ gồm 69 bài thơ được sáng tác trong khoảng 1955 – 1960,
những năm đất nước ta bước vào công cuộc khôi phục và xây dựng
cuộc sống mới ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Đề tài và
cảm hứng trong tập thơ rất phong phú: Có kỉ niệm kháng chiến và niềm

vui trước sự hồi sinh của đất nước sau chiến tranh, có niềm tự hào
trước vẻ đẹp và sự giàu có của đất nước, có nỗi đau chia cắt B-N. Nổi
bật là hành trình tư tưởng – tâm hồn của cái tôi nhà thơ “từ thung lũng
đau thương ra cánh đồng vui”.
Về nhan đề CLV đã giải thích: Ánh sáng soi rọi tôi và phù sa bồi đắp tôi,
ánh sáng tinh thần và phù sa vật chất của lí tưởng tôi”.
a) Ánh sáng và phù sa trình bày cuộc phấn đấu trong tâm hồn và tư
tưởng nhà thơ để vượt qua những nỗi đau riêng hòa hợp với niềm vui
chung.
Trước CM, CLV đã lạc xa vào những suy tưởng siêu hình nên cuộc trở
về không ít khó khăn. Trước hết là phải giải quyết được vấn đề cơ bản
về quan niệm sống:
“Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
Ta vì ai? Khẽ xoay chiều gió bấc
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh”.
(Hai câu hỏi)
Chối bỏ câu hỏi thứ nhất để chỉ tập trung vào tìm lời giải đáp cho câu
hỏi thứ hai, đó chỉ là cách ứng xử mang tính chất thực tiễn và phù hợp
với tình thế lúc ấy.
Nhà thơ tìm được lời giải đáp cho nỗi băn khoăn về ý nghĩa đích thực
của thơ ca:
“Suốt một đời ăn hạt gạo nhân dân
Lần thứ nhất nhà văn đi học cấy
Bỗng hối tiếc nghìn câu thơ nước chảy
Chửa “vì người” bằng một bữa cơm ăn”.
(Đi thực tế)
Một đời ăn hạt Bình nhân dân": Câu thơ mở đầu như một lời khẳng
định về cuộc đời gắn liền với những điều giản dị, bình thường của
người dân. Hình ảnh "hạt" gợi lên sự nhỏ bé, khiêm nhường nhưng lại
nuôi dưỡng sự sống.
Ngợi giá trị của cuộc sống giản dị: Bài thơ đề cao lối sống giản dị, gần
gũi với thiên nhiên và con người. Nhà thơ nhấn mạnh rằng hạnh phúc
không đến từ những thứ vật chất xa hoa mà từ những điều bình dị, thiết
thực trong cuộc sống.
Suy ngẫm về giá trị của tri thức: Hình ảnh nhà văn đi học gợi lên khát
vọng tri thức, nhưng đồng thời cũng đặt ra câu hỏi về giá trị thực của tri
thức. Nhà thơ đặt câu hỏi liệu tri thức có thể thay thế được những nhu
cầu cơ bản của con người hay không.

Khi nhìn lại chặng đường thơ trước CM của mình, CLV thường thể hiện
niềm ân hận xót xa, nhiều khi là nhu cầu sám hối và sự bất lực của một
thế hệ được nói lên bằng sự thấm thía của mình.
Nhà thơ đã nói lên sự thay đổi hồn thơ mình bằng hai hình ảnh đối lập:
“Xưa phù du mà nay đã phù sa
Xưa bay đi mà nay không trôi mất
Cho đến được lúa vàng, đất mật
Phải trên lòng bao trận gió mưa qua”
(Nay đã phù sa)
+ Đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa những giá trị phù du và giá trị
bền vững.
“Xưa phù du >< nay phù sa”
“Xưa bay đi >< nay không trôi mất”
+Phù du : sự tạm bợ, thoáng qua, không có giá trị lâu dài Cuộc sống
xưa thật vô nghĩa và sớm nở tối tàn như kiếp phù du.
+ Phù sa: sự màu mỡ, bền vững và sinh sôi cuộc sống nay thật là
đáng sống: thấy mình như chất phù sa mang lại ích lợi cho ruộng đồng,
mùa màng.
Thể hiện quá trình thay đổi chuyển hóa thay da đổi thịt của đất nước
được nhìn nhận qua con mắt tinh tế của nhà thơ, từ những thứ tưởng
chứng như vô dụng, phù phiếm (phù du) theo thời gian năm tháng đã
tích tụ trở thành phù sa và những điều tốt đẹp, cao cả.
b) Vượt qua nỗi đau riêng tìm đến niềm vui chung, tập thơ thấm nhuần
niềm tin yêu, lòng biết ơn và sự gắn bó sâu sắc của nhà thơ với nhân
dân, đất nước và Đảng.
Ngay trong những ngày phải xa đất nước đi chữa bệnh, nhà thơ muốn
làm cánh chim lượn trăm vòng để mỗi sáng mai được trở về ngắm nhìn
đất nước yêu dấu, tươi đẹp.
Đến với nhân dân, cảm nhận cái hạnh phúc được trở về trong cội nguồn
của sự sống, được nuôi dưỡng và đùm bọc trong tình dân. Tiếng hát
con tàu với những cảm xúc chân thành mà bay bổng, với những hình
ảnh vừa hiện thực, vừa hư ảo, thể hiện niềm khao khát được hòa vào
cuộc sống sôi động và rộng lớn của nhân dân trong hiện tại còn ấm
nóng những kỉ niệm của thời kháng chiến.
TIẾNG HÁT CON TÀU
Đoạn thơ đề từ, tác giả đã mở ra những định hướng cho nội dung của toàn
bài thơ.
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu

Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”
“Tây bắc” vùng cực tây của xa xôi, hẻo lánh của Tổ quốc, đây cũng chính
là cái nôi bảo bọc quân dân ta trong suốt 9 năm trời kháng chiến chống
Pháp. Trong hiện tại Tây Bắc giờ đây đã không còn là bãi chiến trường ác
liệt, tàn khốc nữa mà lại trở về là một mảnh đất nghèo nàn, khô càn đang
rất cần những bàn tay chung• sức xây dựng và phát triển. “Tâm hồn ta là
Tây Bắc chứ còn đâu”. Có nghĩa rằng ta có thể hòa nhập với Tây Bắc, ta
có thể góp sức mình xây dựng Tây Bắc trở nên giàu đẹp hơn và ngược lại
Tây Bắc cũng sẽ mang lại những nguồn cảm hứng sáng tác bất tận cho
nhiều văn nhân nghệ sĩ.
Ở hai khổ thơ đầu tiên nhà thơ đã viết về nỗi trăn trở và lời vẫy gọi lên
đường tha thiết.
“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”
Chế Lan Viên đã lần lượt mở ra hai không gian hoàn toàn đối lập nhau đó
là Tây Bắc và Hà Nội. Nếu Tây Bắc hiện lên với những từ “đi xa”, “gió ngàn
rú gọi”, “đất nước mênh mông”,• “ngoài cửa ô” hay “trên kia”, gợi ra một
không gian bao la rộng lớn dẫu rằng còn nhiều thiếu thốn, nghèo nàn.
Không gian Hà Nội lại được tái hiện với những hình ảnh ngược lại• như
“giữ trời Hà Nội”, “đời anh nhỏ hẹp”, “lòng đóng khép”, gợi ra sự chật chội,
tù túng, bó hẹp, nhỏ bé trong xa hoa, sung túc. Từ đó tác giả đã đưa ra
một loạt các câu hỏi rằng “Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?”, rồi
“Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi”, rồi “Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành
trăng” hay “Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?” , những câu hỏi như được sắp
xếp theo mức độ tăng tiến dần đầy hối thúc khẩn trương, giục giã lên
đường. Rồi đỉnh điểm là sự dồn ép, yêu cầu người nghệ sĩ phải lựa chọn
một cách mạnh mẽ, dứt• khoát và nhanh chóng giữa mảnh đất xa hoa Hà
Nội và vùng đất Tây Bắc nghèo nàn thiếu thốn.
Chín khổ thơ tiếp theo tác giả đã thể hiện niềm khát khao được quay trở về
với mảnh đất kháng chiến khô cằn, khát khao được quay trở về với nhân
dân, đất nước.•
“Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng