
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
=====o0o=====
MÔN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI 2
BÀI TẬP NHÓM
Mã lớp học phần: : 2421LITR1882
Giảng viên hướng dẫn: : TS. Đàm Thị Thu Hương
TP. HCM, tháng 9 năm 2025
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
.......................................................................................................................... .
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
............................................................................................................................
...........................................................................................................................

STT HỌ VÀ TÊN MSSV NHIỆM VỤ CHỮ KÝ
1VÕ NGỌC ÚT 50.01.606.105 Tổng hợp nội
dung, làm word
2ĐẶNG NHƯ NGỌC 50.01.606.040 Làm nội dung
3NGUYỄN TẤN VINH 50.01.606.108 Làm nội dung
4VÕ ANH KIỆT 50.01.606.032 Làm nội dung
5TRẦN ANH TUẤN 50.01.606.103 Làm nội dung
6TRƯƠNG THÀNH ĐẠT 50.01.606.029 Làm nội dung
7NGUYỄN KHÁNH HUYỀN 50.01.606.023 Làm nội dung
- Đề tài về người phụ nữ là một đề tài trải dài xuyên suốt trong tiến trình văn học Việt Nam.
Nhưng trong các giai đoạn trước đó thì đề tài về người phụ nữ vẫn chưa được xem là đề tài

trung tâm, mãi cho đến giai đoạn văn học thế kỷ XVII - XIX thì nó mới được xem là một đề tài
trung tâm của văn học.
- Không phải ngẫu nhiên hình ảnh người phụ nữ lại trở thành hình tượng nghệ thuật trung tâm
và tiêu biểu nhất trong giai đoạn này. Họ chính là biểu tượng cho sự đau khổ, khốn cùng nhất
của số phận con người, số phận của những người dưới đáy xã hội, bị cuộc đời khinh rẻ.
- Bên cạnh đó, họ là những hình ảnh tiêu biểu cho những phẩm chất cao đẹp đáng được tôn
vinh. Trong giai đoạn này “Chủ nghĩa Nhân Đạo” cũng phát triển một cách mạnh mẽ với những
tư tưởng cốt lõi về việc bảo vệ phái yếu, tố cáo những thế lực đen tối, độc ác đang chà đạp cái
yếu một cách không thương tiếc.
- Người phụ nữ trong văn học giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII - đầu thế kỉ XIX đã được khắc
họa là những con người có tiếng nói riêng của bản thân, họ biết ghét biết yêu, cá nhân hóa là
một con người bình thường chứ không lý tưởng hóa như giai đoạn trước đó. Vì vậy, lên tiếng
cho người phụ nữ chính là cách văn học lên tiếng cho con người, đặc biệt là những con người bị
lãng quên. Tình yêu tự do mà văn học giai đoạn này ca ngợi không chỉ là tình cảm nam nữ, mà
còn là. Khát vọng sống đúng với bản thân. Sự dũng cảm vượt thoát khỏi lễ giáo, số phận định
sẵn một cách phản kháng mềm mại nhưng đầy nhân văn. Như việc Thúy Kiều lén gặp Kim
Trọng trong đêm cũng là một hành động gạt bỏ lễ giáo, đi theo tiếng gọi của tình yêu tự do
trong thời điểm mà vốn dĩ là “nam nữ thụ thụ bất thân” :
- Thơ ca giai đoạn này đi sâu khai thác tâm hồn nhạy cảm, những nỗi niềm riêng tư, sự khát
khao yêu thương và ước mơ được sống thật với bản thân. Nguyễn Du đã từng viết: “Một hai
nghiêng nước nghiêng thành, / Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”, vừa ca ngợi nhan sắc, tài
năng rực rỡ của Thúy Kiều, vừa ngầm dự báo bi kịch số phận. Quả thực, như nhận định trong
một nghiên cứu: “Người con gái có sắc đẹp và tài năng thường có số phận hẩm hiu, đau khổ,
đường đời lắm những truân chuyên, lận đận trong tình duyên và cuộc sống”. Điều đó cho thấy,
bên cạnh vẻ đẹp và khát vọng, hình tượng người phụ nữ còn gắn liền với những nỗi đau, những
bất công và bi kịch mà xã hội phong kiến khắt khe áp đặt. Họ phải chịu cảnh éo le trong tình
yêu, hôn nhân và cuộc đời, nhiều khi tài sắc vẹn toàn nhưng vẫn bị số phận vùi dập. Không chỉ
là khát vọng tình yêu, các nhân vật nữ còn thể hiện mong ước sâu xa về hạnh phúc và quyền
sống: khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc và khát vọng về quyền sống. ương tiếc.

- Như trong Tự tình II của Hồ Xuân Hương có viết: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/Mảnh tình
san sẻ tí con con.” Điều này cho thấy, người phụ nữ đã nói lên tiếng lòng với sự bất hạnh và cô
đơn bằng nghệ thuật độc thoại nội tâm. Thứ hai, khát vọng tình yêu và hạnh phúc lứa đôi, vượt
qua những lễ giáo phong kiến, những quy định “thép” của tôn giáo, tín ngưỡng, hay chế độ XH
đương thời, với Hồ Xuân Hương, bà đã vạch trần bản chất xấu xa của chế độ đa thê phong kiến
“Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.” Hay “Đau đớn thay
phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” của Nguyễn Du. Thứ ba, giữ gìn đức hạnh
và nhân phẩm xuyên suốt từ thời kì trước đến giai đoạn XVIII - XIX, dù ở giai đoạn nào, người
phụ nữ Việt Nam vẫn luôn giữ gìn được cho mình những phẩm hạnh, cốt cách, tốt đẹp và thanh
cao, “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn/Mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
Điểm khác so với thơ ca giai đoạn trước đó là:
Trở lại với thời điểm trước thế kỉ XVIII, người phụ nữ bị ràng buộc bởi lễ giáo phong
kiến nặng nề (Nho giáo) “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”. Thứ hai, “Tam
tòng, tứ đức”. Thứ ba, khát vọng sống, tình yêu đôi lứa rất hạn chế, thường bị che giấu.
Đến với thế kỉ XVIII - XIX, nhiều nhà văn, nhà thơ, tác gia lớn đã làm bật hình ảnh
người phụ nữ với khát vọng được sống, được yêu, được hạnh phúc (như Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du,…) Bên cạnh đó, họ đã đề cao tài năng, cái sắc của người phụ nữ. Trong Chinh Phụ
Ngâm Khúc: (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm dịch)
Ca ngợi tình yêu lứa đôi, sự chung thủy của người phụ nữ đời chồng trở về từ biên cương.
Giai đoạn Văn học trước TK XVII Giai đoạn Văn học sau TK XVII
Nhấn mạnh những phẩm chất của người
phụ nữ về sự hi sinh tiết hạnh, quan điểm
nho giáo về người phụ nữ. Luôn đặt chồng
con gia đình lên hàng đầu.
Đề cao cảm xúc, tiếng nói, khát vọng sống,
quyền được tự do yêu đương, tự do thể hiện
cảm xúc cũng như làm chủ cuộc đời.
Không có tiếng nói riêng, chỉ có sự chèn
ép, tước quyền làm chủ
Bắt đầu được thể hiện tiếng nói và đòi quyền
được yêu, được sống, được mưu cầu hạnh