TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY
KẾT CẤU CHỮ NÔM
VÀ CHỮ NÔM VAY MƢỢN
TRONG THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG
HỒ XUÂN HƢƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
HÀ NỘI- 2018
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
NGUYỄN THỊ BÍCH THÚY
KẾT CẤU CHỮ NÔM
VÀ CHỮ NÔM VAY MƢỢN
TRONG THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG
HỒ XUÂN HƢƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. Nguyễn Thị Thanh Vân
HÀ NỘI- 2018
LỜI CẢM ƠN
Đề tài Kết cấu chữ Nôm và chữ Nôm vay mượn trong thơ Nôm truyền
tụng Hồ Xuân Hương là nội dung chúng tôi chọn để nghiên cứu và làm khóa
luận tốt nghiệp sau bốn năm theo học chương trình Đại học chuyên ngành Sư
phạm Ngữ văn tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Để hoàn thành quá trình nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận này, lời
đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến Cô: Nguyễn Thị Thanh Vân,
người đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để
tôi hoàn thiện khóa luận này. Ngoài ra tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy,
Cô trong khoa Ngữ văn đã đóng góp những ý kiến quý báu cho khóa luận
được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn bên tôi,
động viên tôi hoàn thành khóa học và khóa luận này.
Trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Thị Bích Thúy
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: khóa luận tốt nghiệp với đề tài Kết cấu chữ Nôm và
chữ Nôm vay mượn trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương là đề tài
nghiên cứu của riêng cá nhân tôi có sự hỗ trợ của giáo viên hướng dẫn, không
sao chép của bất cứ ai. Kết quả nghiên cứu trong khóa luận chưa được công
bố trên các công trình nào khác. Nếu không đúng như trên tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Sinh viên
Nguyễn Thị Bích Thúy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................. 6
4. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................ 6
5. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................... 7
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 7
7. Đóng góp của khóa luận ............................................................................................ 8
8. Bố cục của khóa luận ................................................................................................. 9
NỘI DUNG .................................................................................................................. 10
Chƣơng 1. NÉT CHÍNH VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA HỒ XUÂN
HƢƠNG ....................................................................................................................... 10
1.1. Nét chính về cuộc đời Hồ Xuân Hương ............................................................. 10
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội và tư tưởng văn hóa ............................................... 10
1.1.2. Thân thế .............................................................................................................. 11
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hương ........................................................... 13
1.2.1. Xuân Hương thi tập ........................................................................................... 14
1.2.2. Tập thơ Lưu hương ký ....................................................................................... 15
1.3. Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương .............................................................. 16
1.3.1. Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương ........................................................... 16
1.3.2. Hồ Xuân Hương với Thơ Nôm Đường luật .................................................... 18
1.4. Đóng góp của Hồ Xuân Hương với văn học dân tộc ........................................ 20
1.5. Tiểu kết chƣơng 1 ............................................................................................... 21
Chƣơng 2. KẾT CẤU CHỮ NÔM VÀ CHỮ NÔM VAY MƢỢN TRONG
THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG HỒ XUÂN HƢƠNG............................................. 22
2.1. Kết cấu chữ Nôm .................................................................................................. 22
2.1.1. Khái niệm chữ Nôm .......................................................................................... 22
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chữ Nôm ............................................ 22
2.1.2.1. Nguồn gốc chữ Nôm xuất hiện. .................................................................... 23
2.1.2.2. Chữ Nôm trong văn chương .......................................................................... 23
2.1.2.3. Chữ Nôm trong các văn bản hành chính ...................................................... 25
2.2. Kết cấu chữ Nôm .................................................................................................. 26
2.3. Khảo sát chữ Nôm vay mượn trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương .. 28
2.3.1. Âm Tiền Hán Việt ............................................................................................. 28
2.3.2. Âm Hán Việt Việt hóa ...................................................................................... 33
2.3.2.1. Hữu thanh hóa ................................................................................................. 34
2.3.2.2. Xát hóa ............................................................................................................. 35
2.3.2.3. Mũi hóa ............................................................................................................ 36
2.3.2.4. Những sự biến đổi âm đầu khác không thành xu hướng rõ rệt k sang kh 36
2.2.3. Âm Hán Việt ...................................................................................................... 38
2.4. Tiểu kết chƣơng 2 ............................................................................................... 41
Chƣơng 3. HƢỚNG TIẾP CẬN TÁC PHẨM TỰ TÌNH II CỦA HỒ XUÂN
HƢƠNG TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG ........................................... 42
3.1. Thực trạng giảng dạy tác phẩm trong nhà trường phổ thông ........................... 43
3.2. Tiếp cận tác phẩm từ đặc trưng thể loại .............................................................. 44
3.2.1. Khái niệm ........................................................................................................... 44
3.2.2. Đặc điểm thể loại thất ngôn bát cú Đường luật .............................................. 44
3.2.3 Phương hướng tiếp cận tác phẩm Tự Tình (II) theo đặc trưng thể loại ......... 45
3.2.4. Xác định nội dung và cách thức tiếp cận ......................................................... 46
3.2.5. Xác định kiến thức cơ bản ................................................................................ 48
3.3. Tiểu kết chƣơng 3 ............................................................................................... 51
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chữ Nôm là ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam, do người Việt sáng tạo
nên dựa trên cơ sở của chữ Hán, ra đời sau chữ Hán. Theo một số tài liệu thì
chữ Nôm xuất hiện ở thế kỉ XIII nhưng chưa có một văn bản nào còn lưu
truyền, đến thế kỉ XV có bước phát triển nhảy vọt với hai tập thơ lớn là: Quốc
âm thi tập và Hồng Đức quốc âm thi tập, chuyển sang thế kỷ XVI chữ Nôm
được ghi nhận với tác phẩm thơ Nôm Đường luật của Nguyễn Bỉnh Khiêm là
Bạch Vân quốc ngữ thi tập. Thế kỉ XVII thơ Nôm Đường luật không có nhiều
sự xuất hiện của các tác giả, tác phẩm nổi bật. Đến thế kỉ XVIII- đầu thế kỉ
XIX, thơ Nôm khởi sắc trở lại và đạt nhiều thành tựu rực rỡ.
Văn học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX được coi là “giai đoạn
hoàng kim” của văn học trung đại Việt Nam - giai đoạn văn chương đạt đến
đỉnh cao, kết tinh những thành tựu nội dung, nghệ thuật trong nhiều thể loại
văn học. Văn học chữ Hán vẫn phát triển với thành tựu thơ chữ Hán và văn
xuôi tự sự. Văn học Nôm thời kì này nở rộ với các thể loại: Thơ Nôm Đường
luật, Khúc ngâm song thất lục bát, Truyện Nôm lục bát và thơ hát nói, làm
nên đỉnh cao của lịch sử văn học. Thơ Nôm Đường luật có thi tập của “Bà
chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương, thi phẩm của Bà Huyện Thanh Quan.
Truyện Nôm có kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều) của Nguyễn
Du… và rất nhiều tác giả khác. Như vậy, giai đoạn này văn học phát triển có
sự đóng góp không nhỏ của nhà thơ Hồ Xuân Hương, bà đã đưa thơ Nôm
Đường luật phát triển trở lại và đạt thành tựu to lớn.Với hiện tượng thơ Hồ
Xuân Hương, Nôm Đường luật tiếp tục phát triển và có nhiều cải tiến mới mẻ
cả về nội dung và hình thức. Khối lượng tác phẩm thơ Nôm của Hồ Xuân
Hương đến nay chưa có tài liệu chính xác nhưng nhiều bài thơ đi sâu vào tâm
thức của dân gian.
1
Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, thật đúng
như lời nhận xét đó của Xuân Diệu, tác phẩm của bà chủ yếu bằng thể thơ
Nôm Đường luật truyền tụng đến nay. Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng lòng
trong muôn tấm lòng của người phụ nữ Việt. Trong văn học Việt Nam nửa
cuối thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, Hồ Xuân Hương là một nhà thơ nhân
đạo chủ nghĩa, bởi vì thơ bà trước hết là tiếng nói tâm tình của phụ nữ. Không
phải người phụ nữ lầu son gác tía, chinh phụ hay cung tần, mà là người phụ
nữ bình thường, người phụ nữ lao động có nhiều bất hạnh trong cuộc sống.
“Có thể nói, ngoài văn học dân gian, Hồ Xuân Hương là nhà thơ đầu tiên
trong lịch sử văn học dân tộc đã đem đến cho thơ văn tiếng nói của những
người phụ nữ ấy: những tiếng than và những tiếng thét, những tiếng căm hờn
và những tiếng châm biếm sâu cay” [20,t1]. Bởi trong xã hội lúc bấy giờ, phụ
nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ bị áp bức về mặt giai cấp
mà trong tư cách là người phụ nữ nói chung, họ còn bị áp bức về mặt giới tính
với đạo “tam tòng”. Tất nhiên, họ cũng không lặng câm mà chịu đau khổ, họ
vẫn nói, vẫn kêu, vẫn lên tiếng. Nhưng nhìn chung, tiếng nói ấy chỉ là những
tiếng kêu thương thất vọng. Đại diện cho giới phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã nói
bằng thứ ngôn ngữ riêng của mình, kết hợp nhuần nhuyễn với tiếng nói của
nhân dân lao động để tố cáo, đả kích xã hội bất công suy đồi ấy.
Việc sử dụng chữ Nôm trong các sáng tác của mình, Hồ Xuân Hương
đã vận dụng từ ngữ một cách linh hoạt và tinh tế, ngôn ngữ giàu âm thanh,
hình ảnh, lời thơ bình dị, chân thực. Vì thế ta có thể thấy rõ bà rất điêu luyện
trong việc sử dụng chữ Nôm. Chữ Nôm có rất nhiều cách cấu tạo khác nhau
nhưng có thể chia thành hai loại chính: chữ Nôm vay mượn và chữ Nôm sáng
tạo. Chữ Nôm vay mượn: là loại chữ Nôm mượn chữ Hán để đọc âm Nôm,
chữ Nôm tự tạo: là loại chữ do người Việt mượn chữ Hán để tạo ra chữ Nôm.
Vậy Hồ Xuân Hương đã sử dụng những chữ Nôm đó như thế nào trong những
trang thơ của mình?
2
Để hiểu rõ hơn về cấu tạo chữ Nôm và đặc biệt là chữ Nôm vay mượn
trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hương, khóa luận của chúng tôi tìm hiểu: Kết
cấu của chữ Nôm và chữ Nôm vay mượn trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân
Hương.
2. Lịch sử nghiên cứu
Thế kỉ XX, Hồ Xuân Hương cùng với những tác phẩm của bà thể hiện
sự cách tân thơ Nôm Đường luật một cách độc đáo, với nhiều bài thơ có giá
trị tiêu biểu đã khiến cho bao người tốn giấy mực để tìm hiểu, nghiên cứu.
Các nhà phê bình văn học, những lời bình sâu sắc, những nghiên cứu về thơ
Hồ Xuân Hương, bài viết, bài tiểu luận… đã đưa ra rất nhiều ý kiến về hiện
tượng thơ Hồ Xuân Hương. Cùng với những nghiên cứu về Hồ Xuân Hương
thì các nghiên cứu về chữ Nôm cũng như kết cấu chữ Nôm cũng có rất nhiều
những công trình tìm hiểu nghiên cứu sâu rộng về chữ Nôm. Liên quan đến
đề tài Kết cấu chữ Nôm và chữ Nôm vay mượn trong thơ Nôm truyền tụng Hồ
Xuân Hương mà chúng tôi đã chọn, có các bài viết và công trình nghiên cứu
sau:
Trong cuốn Các nhà thơ cổ điển Việt Nam in năm 1982 của Xuân Diệu,
tác giả đã đưa nhận xét “Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ Nôm” cũng theo đó
ông nói rằng “Thơ Xuân Hương là thứ thơ không chịu ở trong cái khuôn khổ
thông thường, một thứ thơ muốn lặn thật sâu vào sự thật, vào những đáy rất
kín thẳm của tâm tư; những đáy kín thẳm ấy không phải lạc lõng, cô đơn, cá
nhân chủ nghĩa mà trái lại được hàng vạn người đồng tình, đồng cảm”
[2,t5.6]. Xuân Diệu khẳng định: “Ít có tác giả nào mà đời lại gắn liền với tác
phẩm khăng khít như Xuân Hương” [2,t7]. Từ đó giúp ta hiểu hơn một phần
nào cuộc đời của bà cũng như nội dung thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã phản
ánh. Xuân Diệu với công trình nghiên cứu của mình với những tác giả cổ
điển, nhất là Hồ Xuân Hương người đứng đầu trong trang sách với những tìm
3
hiểu của tác giả đã khẳng định Xuân Hương là “bà chúa thơ Nôm”, mặt khác
tác giả còn cho chúng ta thấy được một phần về cuộc đời của nữ sĩ ấy và còn
đào sâu tính tư tưởng trong thơ của bà trong ba bài thơ: Tát nước, Trăng thu,
Cảnh thu. Đến nay những nghiên cứu này vẫn được người đọc tiếp nhận và
coi nó như là một nguồn tài liệu hữu ích.
Đào Thái Tôn với công trình nghiên cứu Hồ Xuân Hương - từ cội nguồn
vào thế tục xuất bản năm 1996. Theo như lời tựa thì “cội nguồn” ở đây hiểu là
những bài thơ đích thực của nhà thơ Hồ Xuân Hương mà ta có thể chứng
minh, “thế tục” dùng để chỉ những bài thơ từ lâu vẫn được truyền tụng được
xem là của Hồ Xuân Hương. Lưu Hương ký là “Tập thơ tình yêu có giá trị”.
Đưa ra cơ sở để lựa chọn thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương gần với
nguyên tác. Kết quả nghiên cứu là như vậy nhưng thật sự thơ văn của Hồ Xuân
Hương vẫn là một vấn đề nan giải, Đào Thái Tôn cũng chỉ dừng lại ở việc
muốn giải đáp một số vấn đề đó là: giá trị chân thực của các bài thơ Nôm, cơ
sở xác định những bài thơ Nôm được xem là của Hồ Xuân Hương, tiếp đó là
nói đến tập Lưu hương ký có đích thực là của Hồ Xuân Hương hay không.
Được xuất bản năm 1999, Đỗ Lai Thúy với cuốn Hồ Xuân Hương -
hoài niệm phồn thực đã lí giải hiện tượng tục dâm trong thơ Hồ Xuân Hương
từ điểm nhìn văn hóa, văn hóa phồn thực, tín ngưỡng phồn thực. Với phương
pháp nghiên cứu mới mẻ Đỗ Lai Thúy nhìn nhận thơ Hồ Xuân Hương, lí giải
yếu tố dâm tục trong thơ của bà và đưa người đọc tiếp nhận thơ Hồ Xuân
Hương theo một hướng tích cực.
Luận văn thạc sĩ Thơ Nôm Hồ Xuân Hương nhìn từ góc độ giới tính của
Bùi Thị Thanh Vân, trường Đại học Sư phạm Hồ Chí Minh năm 2009, Thời
gian và không gian nghệ thuật trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương,
khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Hải, trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
năm 2009… và rất nhiều công trình nghiên cứu lấy Hồ Xuân Hương làm đề
tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiêp.
4
Trong cuốn Hồ Xuân Hương - Thơ và đời của Nhóm trí thức Việt, xuất
bản năm 2016 cũng thu hút được khá nhiều bạn đọc, nó tập hợp tất cả những
bài thơ được coi là của Hồ Xuân Hương và một số bài nghiên cứu nhận xét
của một số tác giả về thơ cũng như cuộc đời của bà.
Theo khuynh hướng sưu tầm, xác định những văn bản thơ Nôm truyền
tụng của Hồ Xuân Hương của Hội nhà văn với cuốn Thơ Nôm Hồ Xuân
Hương năm 2008. Một số tác giả tiêu biểu khác như Tuấn Thành - Anh Vũ
với cuốn Hồ Xuân Hương - tác phẩm và lời bình, tái bản lần thứ ba vào năm
2017 đã sưu tầm và tổng hợp khá đầy đủ các tác phẩm thơ Nôm truyền tụng
của bà cũng như một số lời bình về cuộc đời của Hồ Xuân Hương.
Sách Giáo trình văn học trung đại Việt Nam của Lã Nhâm Thìn, tái bản
lần thứ ba năm 2017 đã cho ta thấy một phần thời đại, hoàn cảnh lịch sử mà
Hồ Xuân Hương sống. Thể loại thơ Nôm Đường luật với những đóng góp to
lớn của Hồ Xuân Hương trong sự phát triển đỉnh cao của nó.
Về chữ Nôm, cuốn sách của Đào Duy Anh Chữ Nôm nguồn gốc- cấu
tạo - diễn biến xuất bản năm 1975, đã đưa ra những dẫn chứng cụ thể để
chứng minh nguồn gốc và sự hình thành và phát triển chữ Nôm của dân tộc.
Tác giả đưa ra một số phương pháp cấu thành nên chữ Nôm và cách đọc chữ
Nôm. Những nghiên cứu của ông được lưu giữ đến ngày nay và trở thành tài
liệu quan trọng cho những người muốn tìm hiểu sâu về chữ Nôm.
Đưa ra nhiều ý kiến về vấn đề cấu tạo của chữ Nôm là nghiên cứu của
Nguyễn Ngọc San với cuốn Lý thuyết chữ Nôm văn Nôm xuất bản năm 2003.
Ông đưa ra những cách cấu tạo về chữ Nôm khác với Đào Duy Anh, đưa ra
những minh chứng cho cách cấu tạo ấy. Đến nay cuốn sách được nhiều người
đọc và tìm hiểu.
Như vậy, tất cả những công trình nghiên cứu trước đó đã cho ta thấy
được không chỉ về nội dung, nghệ thuật trong thơ của Hồ Xuân Hương mà
còn hiểu rõ hơn cuộc đời của bà theo một số nghiên cứu riêng của các tác giả
5
tiêu biểu. Và những nghiên cứu về chữ Nôm cho ta biết về kết cấu của nó.
Nhưng chưa có một công trình nghiên cứu nào nói đến việc sử dụng chữ Nôm
như thế nào trong thơ của nữ sĩ. Trong công trình nghiên cứu của mình, chúng
tôi sẽ tập trung tìm hiểu về kiểu chữ Nôm vay mượn trong thơ Nôm truyền
tụng Hồ Xuân Hương, để làm rõ được sự điêu luyện trong việc sử dụng chữ
Nôm trong sáng tác văn học của bà qua hai cuốn sách có sự tương đồng với
nhau về số lượng bài thơ Nôm truyền tụng đó là cuốn Thơ Nôm Hồ Xuân
Hương của Hội nhà văn, xuất bản năm 2008 và cuốn Hồ Xuân Hương tác
phẩm và lời bình của hai tác giả Tuấn Thành - Anh Vũ tái bản lần thứ 3, xuất
bản năm 2017.
3. Mục đích nghiên cứu
Từ trước đến nay việc tìm hiểu, khảo sát kết cấu chữ Nôm vay mượn
trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương mới chỉ được một số ít công
trình nghiên cứu quan tâm.
Bởi vậy, mục tiêu nghiên cứu của chúng tôi là thông qua quá trình khảo
sát 48 bài thơ Nôm truyền tụng để tìm hiểu kết cấu chữ Nôm vay mượn trong
thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, xác định được cách sử dụng chữ
Nôm trong thơ của bà. Cách nhận diện chữ Nôm vay mượn trong thơ Nôm
của Hồ Xuân Hương không chỉ thông qua những bài thơ Nôm truyền tụng của
bà mà còn với những tác phẩm khác của các tác giả khác cùng thời hoặc sau
này.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
Khóa luận có tên Kết cấu chữ Nôm và chữ Nôm vay mượn trong thơ
Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương, chúng tôi lựa chọn các bài thơ Nôm truyền
tụng của Hồ Xuân Hương để khảo sát. Chúng ta đã biết những tác phẩm của
bà chia làm hai phần: thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm, ở đây chúng tôi chỉ tập
trung nghiên cứu mảng thơ chữ Nôm của bà. Trong khóa luận của mình,
6
chúng tôi lựa chọn bộ phận thơ Nôm truyền tụng trong cuốn Hồ Xuân Hương
- tác phẩm và lời bình tái bản lần thứ ba, xuất bản tháng 3 năm 2017 của Nhà
xuất bản Văn học. Có thể nói cho đến nay các tài liệu về con người cũng như
các sáng tác của Hồ Xuân Hương chưa có một tài liệu cụ thể nào, cũng như
khẳng định về thơ Nôm của bà. Tuy vậy, trong quá trình khảo sát chúng tôi
lựa chọn 48 bài (có phụ lục đính kèm) được coi là của Hồ Xuân Hương mà
nhiều người đã xếp vào mảng thơ Nôm truyền tụng của bà.
5. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận của chúng tôi với đề tài: Kết cấu chữ Nôm và chữ Nôm vay
mượn trong thơ truyền tụng Hồ Xuân Hương. Phạm vi nghiên cứu thuộc
mảng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương như đã nêu ở trên. Trọng
tâm của khóa luận là đi sâu phân tích cấu tạo chữ Nôm vay mượn trong các
bài thơ Nôm truyền tụng của bà. Từ đó nêu lên hướng tiếp cận văn bản của
Hồ Xuân Hương trong nhà trường phổ thông.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài Kết cấu chữ Nôm và chữ Nôm vay mượn trong thơ
Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương, chúng tôi đã vận dụng những phương pháp
và một số thao tác nghiên cứu sau:
6.1. Phương pháp văn bản văn học Hán Nôm
Phương pháp văn bản văn học Hán Nôm là phương pháp giúp ta xác
định được các văn bản Nôm, bản in, bản sao, giấy in… thể chữ, kĩ thuật, kí
hiệu, xác định tác giả và thời gian ra đời của tác phẩm.
6.2. Phương pháp phân tích văn học
Phương pháp phân tích này là phương pháp xem xét hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm, những giá trị nội dung và nghệ thuật mà hàm chứa trong tác
phẩm đó.
6.3. Phương pháp phân tích lịch sử
7
Sự xuất hiện của các tác phẩm thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương,
và thể loại thơ Nôm Đường luật gắn liền với một thời đại, một giai đoạn văn
học. Vì vậy việc sử dụng phương pháp phân tích lịch sử này giúp chúng tôi
xác định đúng vị trí, vai trò của tác phẩm, những đóng góp của tác phẩm đối
với nền văn học nước nhà.
6.4. Phương pháp thống kê
Phương pháp thống kê là đem tất cả những tác phẩm thuộc một phạm
vi tập hợp lại, sau đó phân tích và khảo sát.
6.5. Phương pháp kết cấu - hệ thống
Ở phương pháp này giúp ta xem xét kết cấu chữ Nôm vay mượn trong
hệ thống các bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương, tìm ra và hệ thống
những chữ Nôm vay mượn được bà sử dụng trong các tác phẩm của mình.
Ngoài những phương pháp nêu trên chúng tôi còn sử dụng một số thao
tác khoa học khác như: so sánh, đối chiếu…
Những phương pháp và thao tác khoa học nêu trên tuy phân chia tách
bạch nhưng đã được chúng tôi vận dụng một cách linh hoạt trong khóa luận
của mình. Các phương pháp có sự xen kẽ lẫn nhau, bổ trợ cho nhau.
7. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận của chúng tôi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác thơ
văn Hồ Xuân Hương dựa trên những tài liệu chúng tôi tìm được giúp người
đọc hiểu rõ hơn thế nào là chữ Nôm, kiểu kết cấu chữ Nôm và đặc biệt tìm
hiểu sâu rộng việc sử dụng chữ Nôm vay mượn trong thơ Nôm truyền tụng
của Hồ Xuân Hương.
Từ những vấn đề chung về Hồ Xuân Hương khóa luận còn nghiên cứu
hướng tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương trong nhà trường phổ thông với bài thơ Tự
tình (II). Từ đó thấy được những đóng góp của nữ sĩ trong nền văn học dân tộc.
8
8. Bố cục của khóa luận
Bài khóa luận gồm ba phần chính như sau:
Chương 1: Nét chính về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương
Chương 2: Kết cấu của chữ Nôm và chữ Nôm vay mượn trong thơ Nôm
truyền tụng Hồ Xuân Hương
Chương 3: Hướng tiếp cận tác phẩm Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương
trong trường phổ thông
9
NỘI DUNG
Chƣơng 1. NÉT CHÍNH VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
CỦA HỒ XUÂN HƢƠNG
1.1. Nét chính về cuộc đời Hồ Xuân Hƣơng
1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử, xã hội và tư tưởng văn hóa
Hồ Xuân Hương một nhà thơ nữ nổi tiếng của nền văn học dân tộc Việt
Nam. Tên tuổi của bà được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và cả sau này
người đời vẫn nhớ đến bà. Hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng
đặc biệt, ở đây đặc biệt không chỉ là những cách tân trong nội dung và hình
thức sáng tác trong thơ của bà mà còn đặc biệt về cuộc đời riêng tư của mình.
Cho đến nay chưa có một tài liệu nghiên cứu nào chính xác về cuộc đời và sự
nghiệp của bà. Đến cả năm sinh, năm mất cũng chưa một ai nắm rõ được, chỉ
biết bà sống vào khoảng cuối triều nhà Lê đầu triều nhà Nguyễn, ở cuối thế kỉ
XVIII đầu thế kỉ XIX.
Xã hội Việt Nam thời kì này có nhiều những biến động, để lại một dấu
chấm lớn trong lịch sử. Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, cuộc chiến tranh
giữa chúa Nguyễn và chúa Trịnh kéo dài suốt nửa thế kỉ khiến cho nhân dân
Đàng trong cũng như Đàng ngoài rơi vào tình trạng khổ cực và điêu đứng.
Kéo theo đó là sự suy tàn của xã hội phong kiến, giai cấp thống trị ngày càng
xuống dốc, tha hóa khiến cho xã hội phong kiến lâm vào khủng hoảng trầm
trọng. Mâu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng trở nên sâu sắc, quyết liệt. Từ
những mâu thuẫn trong xã hội một cách sâu sắc như vậy thì cuộc khởi nghĩa
của nhân dân được nổi lên đấu tranh một cách mạnh mẽ. Tiêu biểu là cuộc
khởi nghĩa Tây Sơn, cuộc khởi nghĩa này đã đập tan mọi xiềng xích của chế
độ Lê - Trịnh - Nguyễn và hơn nữa đã lột trần bộ mặt xấu xa của những lễ
giáo và đạo đức từng tồn tại trong chế độ phong kiến mục rỗng ấy.
10
Với cuộc khởi nghĩa bão táp này đã làm lay động nền tảng tư tưởng xã hội
và ý thức hệ phong kiến bị đổ vỡ. Từ đó ảnh hưởng đến tư tưởng và nhận thức
của nhiều người, theo Lã Nhâm Thìn “Trào lưu tư tưởng dân chủ, nhân văn
phát triển mạnh mẽ, tác động đến ý thức con người thời đại, đặc biệt là tầng lớp
nho sĩ tiến bộ, dẫn đến sự chuyển biến mạnh mẽ trong thế giới quan, thái độ
chính trị và quan niệm đạo đức xã hội của các tác gia văn học” [8, t20].
Thời kì này, văn học phát triển một cách mạnh mẽ và nở rộ để lại một
khối lượng tác phẩm đồ sộ cả về hình thức cũng như nội dung và thể loại.
Chính yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc tới việc nhận thức và quan niệm
sáng tác các tác phẩm văn chương của nhiều tác giả. Lúc này, văn học làm
một nhiệm vụ tất yếu của nó đó là phản ánh sức mạnh của con người, của thời
đại, của dân tộc, phơi bày cái mặt trái của xã hội; phản ánh số phận con người
- đặc biệt là người phụ nữ với những nỗi khổ đau, vất vả, sự lam lũ, cam chịu
cũng như khát vọng mãnh liệt về tình cảm, hạnh phúc, tự do, công lí…
Văn học nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX là một giai đoạn văn
học phát triển đỉnh cao của chữ Nôm. Với nhiều thể loại như: Thơ Nôm
Đường luật, Khúc ngâm song thất lục bát, Truyện Nôm lục bát và thơ hát nói.
Đóng góp to lớn đó phải kể đến những tác giả tiêu biểu là “Bà chúa thơ Nôm”
Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm…
Như vậy, ta có thể thấy thời đại là yếu tố tất yếu ảnh hưởng đến cuộc
đời cũng như những sáng tác của Hồ Xuân Hương.
1.1.2. Thân thế
Hồ Xuân Hương - một cái tên quen thuộc trong nền văn học dân tộc, nữ
tác giả nổi tiếng trong nền lịch sử văn học dân tộc của Việt Nam. Nhưng rất ít
ai biết chắc chắn về cuộc đời của bà. Bằng những tư liệu văn học và qua
những nguồn thông tin từ những nghiên cứu trước đó (tuy chưa có cơ sở chắc
chắn), nhưng các nhà nghiên cứu của nhiều thế hệ đã cố gắng vẽ nên hình
11
dáng cuộc đời của nhà thơ, mặc dù giữa họ còn những dị biệt, nhưng cũng đã
có nhiều điểm tương đồng:
Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn
Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm, Hồ Xuân Hương bà là con ông Hồ Phi Diễn
(sinh 1704) ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông thi đậu tú
tài năm 24 tuổi dưới triều Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học,
ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà Bắc, để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái
Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình
duyên đó. Nhưng theo một tài liệu mới được công bố (trên Tạp chí Văn học,
số 10-1964) của nhà nghiên cứu văn học cố giáo sư Trần Thanh Mại, thì Hồ
Xuân Hương có cùng quê quán, nhưng là con ông Hồ Sĩ Danh (1706-1783),
em cùng cha với Hồ Sĩ Đống (1738-1786).
Có giai thoại cho rằng trước khi Hồ Xuân Hương ra đời gia đình thầy
đồ Diễn dọn về ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận (gần Hồ Tây - Hà
Nội bây giờ). Lúc Hồ Xuân Hương đã lớn, gia đình về thôn Tiên Thị, Tổng
Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư - Hà Nội). Ở tuổi thành
niên, nữ sĩ có một ngôi nhà riêng dựng gần Hồ Tây, lấy tên là Cổ Nguyệt
đường. Cổ Nguyệt đường: có thể là phòng văn, cũng có thể là nơi dạy học.
Điều chắc chắn đó là nơi diễn ra các cuộc bình thơ, tiếp bạn bè [6,t22].
Vì không có một tài liệu chính xác nào nói về cuộc đời Hồ Xuân
Hương, nên các đoạn đời của Hồ Xuân Hương không thể sắp xếp một cách
hợp lí được. Nhiều tài liệu cho biết, sau khi cha của bà mất Hồ Xuân Hương ở
với mẹ, có đi học, sáng dạ, thông minh, nhưng không được học nhiều, thích
làm thơ. Bà có một bạn thơ rất đỗi tri âm, tri kỉ là Chiêu Hổ. Nhưng Chiêu Hổ
là ai? Vẫn còn là một ẩn số?
Hồ Xuân Hương cũng như bao người con gái cùng thời khác, khi đã
trưởng thành thì lấy chồng. Nhưng cuộc đời của nữ sĩ ấy bất hạnh, có thuyết
12
nói rằng người chồng đầu tiên của bà đó là Tổng Cóc- một người cai tổng góa
vợ. Sau khi ông tổng Cóc chết Hồ Xuân Hương đã làm thơ: Khóc Tổng Cóc.
Người chồng thứ hai của bà là một ông thủ khoa làm quan tri phủ Vĩnh
Tường, lấy bà làm vợ lẽ. Nhưng hạnh phúc không được bao lâu thì ông phủ
Vĩnh Tường mất, bà lại làm thơ để khóc chồng nhưng khóc khác với Tổng
Cóc. Với bài thơ: Khóc ông phủ Vĩnh Tường bà đã khóc với biết bao suy nghĩ,
bài thơ có sự tiếc thương nhưng lại không rõ sự yêu mến. Ngoài ra, nhiều tài
liệu ghi chép giai thoại về Hồ Xuân Hương và Chiêu Hổ, nhưng cũng không
rõ hai người làm bạn xướng họa với nhau vào thời gian nào. Ta có thể thấy
được Hồ Xuân Hương lấy chồng nhưng đều chịu cảnh làm vợ lẽ, đây cũng là
một yếu tố tác động đến những sáng tác của bà. Ở một số cuốn sách nói rằng
sau khi hai người chồng của mình qua đời thì Hồ Xuân Hương không vướng
mắc gì nữa và thời gian tiếp đến Xuân Hương hay đi đó đây, du ngoạn cảnh
đẹp ở khắp mọi nơi và bà đi đến đâu đều có thơ viết về những nơi bà đã đến
như Vịnh Thăng Long hoài cổ, Trạo thanh ca, Hải ốc trù…
Qua những vấn đề vừa nêu trên ta thấy Hồ Xuân Hương với một cuộc
đời gặp nhiều trắc trở nhất trong chuyện tình duyên của bà. Sống trong hoàn
cảnh xã hội phong kiến suy tàn, Hồ Xuân Hương đã mạnh dạn lên tiếng phê
phán sâu sắc cái xã hội mục rỗng ấy và bà cảm thông cho số phận của người
phụ nữ thời kì ấy. Từ những điều kiện trên nó chi phối ảnh hưởng sâu sắc tới
những sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Hồ Xuân Hƣơng
Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng. Bà đã để lại nhiều bài thơ
độc đáo với phong cách thơ vừa thanh vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa
thơ Nôm (Xuân Diệu). Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ
tiêu biểu của văn học Việt Nam, người ta nói đến hiện tượng thơ Hồ Xuân
Hương một phần cho ta thấy được nét độc đáo trong thơ ca của bà. Hồ Xuân
13
Hương có nhiều đóng góp đối với nền văn học dân tộc với các tác phẩm chữ
Hán và chữ Nôm. Nhưng đến nay các tác phẩm của Hồ Xuân Hương vẫn còn
nhiều tranh cãi rằng đó có phải thơ do chính bà sáng tác hay của ai khác? Các
tác phẩm của bà đã bị mất nhiều, đến nay còn lưu truyền chủ yếu là những bài
thơ chữ Nôm truyền miệng.
1.2.1. Xuân Hương thi tập
Hầu hết di tác của nữ sĩ họ Hồ được gom trong cuốn Xuân Hương thi
tập, Phúc Văn Đường tàng bản ấn hành tại Hà Nội năm 1930. Trong sách có
khoảng 60 bài nhưng lẫn cả thơ của nhiều tác giả khác, nay chưa truy nguyên
được tất cả. Tuy nhiên xuất xứ của tập thơ và một số bài thơ trong đó hiện nay
vẫn còn là một ẩn số.
Xuân Hương Thi Tập nói chung là tập thơ Nôm Đường luật, Xuân
Diệu đã nhận xét rằng: “Xuân Hương chỉ chuyên dùng thể thơ thất ngôn luật
Đường, thế mà không phút nào ta nghĩ nó là một điệu thơ nhập nội, thơ Xuân
Hương cứ nôm na, bình dân, tự nhiên; lời cứ trong veo không gợn, đọc cứ
thoải mái dễ thuộc; những câu đối nhau thì căn chỉnh già giặn đến ai cũng
phải sợ mà vẫn như lời nói thường” [11,t157].
Điểm nổi bật của tập thơ là thơ của người phụ nữ viết về người phụ nữ
phong kiến Việt Nam. Bên cạnh những chùm thơ than thân thân còn có những
chùm thơ phản kháng lại lễ giáo phong kiến, bày tỏ quan điểm về vai trò của
cuả người phụ nữ. Hồ Xuân Hương bày tỏ thái độ cảm thông đối với số phận
người phụ nữ thời xưa.
Hồ Xuân Hương dùng những lời thơ bình dị mà rất nên thơ, trong thơ sử
dụng lời nói thường nhiều nhưng vẫn tạo nên cái hay riêng của nó, sử dụng
ngôn ngữ giàu âm thanh, hình ảnh, mang nhiều màu sắc và đặc biệt ngôn ngữ
thơ luôn sống động, cách gieo vần tinh tế độc đáo. Thơ văn bà có ý lẳng lơ, mai
mỉa, tinh nghịch, táo bạo, nhưng chứa chan tình cảm lãng mạn, thoát ly hẳn với
14
những lễ giáo phong kiến thời bấy giờ. Cách tả cảnh, tả tình, cách dùng từ...
trong thơ Nôm của bà có một không hai, vô cùng sống động và đặc sắc.
1.2.2. Tập thơ Lưu hương ký
Lưu hương ký mang bút danh của nữ sĩ do ông Trần Thanh Mại phát
hiện vào năm 1964 gồm 24 bài thơ chữ Hán và 28 bài thơ Nôm. Với một nghệ
thuật điêu luyện, nhà thơ viết về tâm sự và những mối tình của mình với
những người bạn trai. Đọc kỹ người ta thấy có một khoảng cách khá xa giữa
tập thơ Nôm của Xuân Hương và Lưu hương ký, chủ yếu là về phong cách
biểu hiện. Trong Lưu hương ký có cả thơ chữ Hán lẫn thơ chữ Nôm. Riêng
phần thơ chữ Nôm trong Lưu hương ký nếu so sánh với thơ lâu nay được coi
là của Xuân Hương thì hai bên vẫn có sự khác nhau. Thơ cữ Nôm trong Lưu
hương ký có rất nhiều từ Hán Việt, giọng thơ lại hiền lành chứ không góc
cạnh, gân guốc như ở Xuân Hương thi tập.
Lưu Hương Ký là tập thơ có nội dung tình yêu gia đình, đất nước, nó
không thể hiện rõ cá tính mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương, cho nên, việc nghiên
cứu giá trị thơ Hồ Xuân Hương chủ yếu được thực hiện trên những bài thơ
Nôm truyền tụng của bà. Vì lý do trên, để bảo đảm tính khoa học, các nhà
nghiên cứu chủ yếu chỉ dừng lại ở tập thơ Nôm còn Lưu hương ký được coi là
một tập thơ để tham khảo.
Tuy nhiên, văn bản đáng quý nhất là Lưu hương ký với bài tựa
của Phan Huy Huân, được học giả Trần Thanh Mại phát kiến và công bố trên
thi đàn vào năm 1964. Trước đó không lâu, năm 1962, đã có học giả Trần
Văn Giáp đăng trên báo Văn Nghệ (Hà Nội) 5 thi phẩm chữ Hán được cho là
của Hồ Xuân Hương. Nhưng mãi đến năm 1984, học giả Hoàng Xuân
Hãn mới dịch nghĩa và đăng trên tập san Khoa Học Xã Hội (Paris), lại đặt
nhan đề lần lượt là Độ hoa phong, Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh, Trạo ca
thanh, Thủy vân hương. Bà cũng có một số bài thơ viết bằng chữ Hán. Đến
15
nay, tác phẩm thơ chữ Hán của bà chỉ còn lại rất ít bài, trong đó có 5 bài thơ
đã ông Trần văn Giáp công bố năm 1962 gồm: Hải ốc trù, Nhãn phóng thanh,
Độ Hoa Phong, Trạo ca thanh, Thuỷ vân hương.
Xuân Hương là một nữ sĩ có thiên tài và giàu tình cảm, nhưng “vì số
phận hẩm hiu, thân thế long đong, nên trong thơ của bà hoặc có ý lẳng lơ, hoặc
có giọng mỉa mai, nhưng bài nào cũng chứa chan tình tự”. Thơ Xuân Hương
cũng rắc rối, phức tạp như chính cuộc đời bà. Số bài thơ còn lại cho đến nay
chủ yếu nhờ vào sự lưu truyền, bảo vệ của nhân dân nên có nhiều dị bản.
Thơ Hồ Xuân Hương luôn được trình bày theo phong cách thất ngôn bát
cú hoặc thất ngôn tứ tuyệt, bút pháp được nhận định là điêu luyện nhưng
phần chữ Nôm nhiều phần đặc sắc hơn chữ Hán. Ý tưởng trong thơ cũng rất táo
bạo, dù là điều cấm kị đối với lễ giáo đương thời. Cho nên, Hồ Xuân Hương
được xem như hiện tượng kỳ thú của dòng thi ca cổ điển Việt Nam khi tích cực
đưa ra cái nhìn đối lập với truyền thống đạo đức, nhưng không vì thế mà tự trở
nên suy đồi. Tựu trung, các di tác phần nào cho phép hậu thế thấy thực trạng
tang thương ở thời đại bà sống và cả quá trình mục rữa của nhiều lề lối cũ.
1.3. Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng
1.3.1. Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương
Theo từ điển Tiếng Việt, truyền tụng được hiểu là truyền miệng cho
nhau rộng rãi và ca ngợi [12, t1504]. Một bài thơ được truyền tụng đồng
nghĩa với việc ca tụng nó. Như vậy, ta có thể thấy thơ Nôm truyền tụng Hồ
Xuân Hương là những bài thơ được người xưa truyền cho nhau với lòng
ngưỡng mộ, người xưa ca tụng thơ của bà. Do đó phần nào ta hiểu được giá
trị lớn của các sáng tác Hồ Xuân Hương.
Nội dung tư tưởng trong thơ Nôm của nữ sĩ Hồ Xuân Hương mang nội
dung tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Đó là những tiếng nói đả kích, tố cáo bọn
giai cấp thống trị, những cái xấu xa thối nát của xã hội phong kiến lúc bấy
16
giờ, tố cáo thói đạo đức giả của chúng. Qua đó lời thơ của bà đã nói lên lòng
yêu thương, cảm thông, chia sẻ những bất hạnh của những con người đặc biệt
là những người phụ nữ. Nói lên những khao khát về quyền sống và quyền
mưu cầu hạnh phúc của những con người bất hạnh.
Cuộc đời nhà thơ vẫn còn là vấn đề mà nhiều nhà nghiên cứu còn để một
dấu hỏi, vậy nên các tác phẩm của bà cũng không ngoại lệ, chưa có một tài liệu
chính xác nào nói về các tác phẩm của bà, các tác phẩm vẫn còn gây nhiều
tranh cãi đối với giới nghiên cứu về thơ văn bà… Hồ Xuân Hương tạo nên
tiếng vang lớn với những tác phẩm thơ bằng chữ Nôm. Các tác phẩm thơ Nôm
truyền tụng Hồ Xuân Hương là những sáng tác từ rất lâu, mà các sách vở ghi
chép chỉ mới xuất hiện gần đây, vì vậy các tác phẩm này vô cùng phức tạp.
Theo giáo sư Nguyễn Lộc“Trong một thời gian rất dài, thơ Hồ Xuân
Hương chỉ tồn tại trong kí ức của mọi người và lưu hành bằng con đường
truyền miệng, giống như phương thức lưu hành của văn học dân gian. Cho
nên không nghi ngờ gì cả, thơ Hồ Xuân Hương hoặc nhiều hoặc ít đã bị
nhuận sắc thêm bớt, mô phỏng, bắt chước… Góp nhặt tất cả những tác phẩm
được công bố trên các sách báo nói là của Hồ Xuân Hương có khoảng trên
60 bài, nhưng thực tế cho thấy chỉ có 30 bài theo một phong cách thống
nhất” [6, t31].
Mặt khác trong cuốn Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục, Đào
Thái Tôn đã đưa ra những minh chứng chứng minh rằng thơ Nôm truyền tụng
Hồ Xuân Hương không chỉ có hơn 60 bài mà lên tới con số 139 bài.
Như vậy, ta có thể thấy các tác phẩm thơ Nôm của Hồ Xuân Hương
đến nay chưa có một số liệu chính xác về các tác phẩm thơ Nôm của bà.
Nhưng theo rất nhiều nhà nghiên cứu thì thơ Nôm của bà trong tập Lưu hương
kí là 28 bài, trong Xuân Hương thi tập khoảng 60 bài. Nhưng các tác phẩm
của bà vẫn còn gây nhiều tranh cãi trong giới nghiên cứu vì nhiều người cho
rằng những tác phẩm đó là của nhiều người sáng tác.
17
Tác phẩm của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương là những bài thơ viết bằng chữ
Nôm, theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật (tám câu bảy chữ) và thất ngôn
tứ tuyệt (bốn câu bảy chữ) - thơ Nôm Đường luật.
Một số tác phẩm thơ nôm của bà: Bánh Trôi Nước, Bọn Đồ Dốt, Cái
Quạt, Cảnh Làm Lẽ, Quả mít, Ốc nhồi, Lũ ngẩn ngơ, Phường lòi tói, Dỗ
người đàn bà khóc chồng, Không chồng mà chửa... Thơ của Hồ Xuân Hương
vừa thanh vừa tục, chủ yếu viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam, về thói hư
tật xấu của nhà sư, thầy đồ thời phong kiến.
1.3.2. Hồ Xuân Hương với Thơ Nôm Đường luật
Thơ Nôm Đường luật là một thể loại thơ lớn của văn học trung đại Việt
Nam. Trên cơ sở tiếp thu thơ Đường luật của Trung Quốc để sáng tạo nên một
thể loại văn học mới. Với sự ra đời của thơ Nôm Đường luật, văn học Việt
Nam chính thức xuất hiện dòng văn học Tiếng Việt tồn tại và phát triển song
song với văn học chữ Hán.
Khái niệm thơ Nôm Đường luật là bao hàm những bài thơ viết bằng
chữ Nôm theo luật Đường hoàn chỉnh và cả những bài viết theo thơ luật
Đường phá cách - những bài có xen câu ngũ ngôn, lục ngôn vào bài thơ thất
ngôn [8, t142]. Việc đưa câu thơ năm chữ hay sáu chữ vào vào bài thất ngôn
luật Đường làm thay đổi bản chất và hình thức của Đường luật Nôm so với
thơ Đường luật. Nhưng nhìn chung cái hình thức cơ bản của thơ Đường luật
vẫn được giữ lại như: số câu trong bài, kết cấu bài thơ, luật, đối, vần và thanh
điệu. Theo Lã Nhâm Thìn “Đặc điểm của thơ Nôm Đường luật, nói một cách
ngắn gọn nhất và bản chất nhất là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố Nôm và yếu
tố Đường luật” [8, t142].
Thơ Nôm Đường luật có lẽ ra đời từ thế kỉ XIII, thể thơ phú quốc âm
nhưng cho đến nay chưa có một văn bản nào chứng minh cho điều đó. Đến
thế kỉ XV, được gọi là thế kỉ của thơ Nôm Đường luật với sự xuất hiện của
18
hai tập thơ lớn đó là Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và Hồng Đức quốc âm
thi tập của các tác giả thời Hồng Đức. Ở thế kỉ XVI bước phát triển mới của
thơ Nôm Đường luật với Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Sự phát triển ở thế kỉ XVII dường như nhạt dần và chủ yếu là truyện thơ
Nôm, với nhịp điệu phát triển một cách bình thường, không có những thành
tựu lớn thì bước sang thế kỉ XVIII - thế kỉ XIX Đường luật Nôm khởi sắc trở
lại. Sự trở lại của thơ Nôm Đường luật đó chính là hiện tượng thơ Hồ Xuân
Hương, với hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương đã giúp thơ Nôm Đường luật
giành lại vị trí của mình.
Với thơ Hồ Xuân Hương, Đường luật Nôm tiếp tục xu hướng dân tộc
hóa đồng thời di chuyển nhanh trên con đường dân chủ hóa nội dung và hình
thức thể loại [8, t149]. Dân chủ hóa thể Đường luật là xu hướng mạnh mẽ
nhất ở thơ Hồ Xuân Hương. Thơ của bà là sự giải tỏa hoàn toàn khỏi những
giáo điều phong kiến, thể hiện sự triệt để với tinh thần của Nho giáo, từ đó ta
có thể thấy thơ của Hồ Xuân Hương không viết dưới ánh sáng của học thuyết
tôn giáo nào, học thuyết chính trị nào. Thơ Hồ Xuân Hương, Đường luật Nôm
thực hiện cuộc cách tân đầy ý nghĩa: cuộc sống đời thường, những điều bình
dị, chất phác, dân dã nó đã trở thành đối tượng thẩm mĩ. Cái gọi là bản năng,
trần tục, tự nhiên vốn dĩ không thuộc vào phong cách cao quý, trang trọng của
Đường luật, giờ đây nó trở nên thích hợp với phong cách trữ tình trào phúng
của thơ Hồ Xuân Hương. Bà đưa một nội dung “không nghiêm chỉnh” vào
một hình thức “nghiêm chỉnh” vào thơ của mình để khẳng định chức năng
trào phúng của Đường luật Nôm.
Thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân Hương là sự trở về với kết cấu vốn
có của thể Đường luật. Sau thơ hồ Xuân Hương, câu lục ngôn không còn là
dấu hiệu để nhận diện thơ Nôm Đường luật. Đóng góp lớn nhất của bà với sự
phát triển của thơ Nôm Đường luật là ở xu hướng dân chủ hóa chứ không
19
phải xu hướng dân tộc hóa. Đến thơ Hồ Xuân Hương, Đường luật Nôm đạt
đến đỉnh cao của nó.
1.4. Đóng góp của Hồ Xuân Hƣơng với văn học dân tộc
Để làm nên một giai đoạn văn học trong lịch sử, ắt hẳn phải có sự góp
mặt của những tác giả tiêu biểu cho văn chương lúc bấy giờ. Văn học trung
đại đạt đến đỉnh cao của nó thì phải kể đến văn học thế kỉ XVIII- nửa đầu thế
kỉ XIX với nhiều tác giả tiêu biểu với lối văn chương độc đáo. Một trong
những tác giả góp mặt trong lịch sử văn học đưa nền văn học thời kì đó lên
tầm cao mới phải kể đến Hồ Xuân Hương. Nữ sĩ ấy đã có những đóng góp
không nhỏ trong nền văn học dân tộc với những tấc phẩm thơ độc đáo cả về
nội dung hình thức và thể loại.
Trước hết, là về nội dung, nội dung tư tưởng trong các sáng tác của Hồ
Xuân Hương là giá trị nhân đạo. Nhân đạo ở đây gồm 2 yếu tố là nhân văn
(giá trị, vẻ đẹp tinh thần của con người) và nhân bản (cái gốc, cái bản chất của
con người, đi sâu vào đời sống bản năng của con người đặc biệt là đời sống
tình cảm, xúc cảm). Trong thơ bà yếu tố nhân đạo biểu hiện ở các nội dung:
Thứ nhất đó là tiếng nói đả kích, tố cáo tội ác giai cấp thống trị, vạch trần sự
xấu xa, thối nát của xã hội phong kiến. Thứ hai, bày tỏ lòng cảm thông, yêu
thương với con người đặc biệt là số phận là người phụ nữ trong xã hội phong
kiến. Thứ ba, đề cao con người cá nhân đi sâu vào thế giới nội tâm phong
phú, phức tạp của con người khẳng định quyền sống của con người. Hồ Xuân
Hương nhà thơ nữ đầu tiên nói lên số phận của người phụ nữ.
Tiếp đến về về giá trị nghệ thuật: Hồ Xuân Hương đã dùng thể thơ thất
ngôn bát cú theo thể Đường luật Trung Quốc với sự sáng tạo của mình một
cách độc đáo, nhiều câu phá vỡ khuôn nhịp cũ của thơ Đường luật thất ngôn
bát cú nhưng câu thơ vẫn uyển chuyển. Sử dụng nghệ thuật thơ trào phúng lên
đến đỉnh, thơ của bà có tính chiến đấu mạnh với những vũ khí sắc bén nhất,
20
đặc biệt nhất đó là châm biếm và khôi hài. Trong việc vận dụng nghệ thuật
khôi hài, Hồ Xuân Hương thường dùng hai phương tiện là xây dựng hình ảnh
tương phản và lối nói ám dụ nửa tục nửa thanh, dùng cái tục để nói đến cái
thanh. Ngoài ra, bà còn sử dụng nghệ thuật tả cảnh độc đáo bằng ngôn ngữ
của nhân dân, nôm na, giản dị, dễ hiểu giàu âm thanh, hình ảnh. Hồ Xuân
Hương còn sử dụng tục ngữ, ca dao, lối so sánh, ví von trong thơ của mình.
Cuối cùng là sự đóng góp về thể loại văn học, với thể loại thơ Nôm
Đường luật cùng với sự thành công trong việc vận dụng yếu tố Nôm và yếu tố
Đường luật trong thơ của mình, đã làm cho văn học trung đại có những thành
tựu nổi bật của thể thơ này.
1.5. Tiểu kết chƣơng 1
Hồ Xuân Hương một nhà thơ nổi tiếng của văn học dân tộc, được mệnh
danh “Bà chúa thơ Nôm”, nhưng đến nay cuộc đời và thơ của bà vẫn chưa
được sáng tỏ, vẫn còn là một dấu hỏi cho giới nghiên cứu.
Từ những tìm hiểu trên, ta có thể thấy Hồ Xuân Hương một nhà thơ có
những sáng tác đặc sắc trong nội dung và nghệ thuật. Bà là nhà thơ sử dụng
ngôn ngữ chữ Nôm một cách điêu luyện và sắc sảo, ít người sánh kịp. Hồ Xuân
Hương thường chọn những âm khó đọc để hạ vần nói lái, nghiã bóng thành
những bài thơ rất tài tình và đầy thú vị trong đó ý thơ và tình thơ bao gồm: đạo
đức, tiếu lâm, hay châm biếm, độc đáo có một không hai trong văn chương bác
học.
Hồ Xuân Hương có những đóng góp không nhỏ trong nền văn học dân
tộc nước nhà với sự cách tân độc đáo của Nôm Đường luật trong các sáng tác
của bà. Một nhà thơ nữ viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy tàn
của Việt Nam.
21
Chƣơng 2. KẾT CẤU CHỮ NÔM VÀ CHỮ NÔM VAY MƢỢN
TRONG THƠ NÔM TRUYỀN TỤNG HỒ XUÂN HƢƠNG
2.1. Kết cấu chữ Nôm
2.1.1. Khái niệm chữ Nôm
Theo dòng lịch sử phát triển văn hóa của Việt Nam không thể không kể
đến chữ Nôm - ngôn ngữ do người Việt sáng tạo nên. Vậy chữ Nôm là gì?
Khái niệm: Wikipedia Tiếng Việt: chữ Nôm gọi là quốc âm, nó là
một hệ chữ ngữ tố từng được dùng để viết tiếng Việt. Bao gồm các từ Hán-
Việt và các từ vựng khác, hơn nữa nó còn gồm chữ Hán tiêu chuẩn và các chữ
khác được tạo ra dựa theo quy tắc nhất định.
Một khái niệm khác trong Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 6/1979
Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Tokyo do Lã Minh Hằng sưu
tầm và biên dịch, chữ Nôm được định nghĩa như sau: Chữ có nghĩa là văn tự,
Nôm có nghĩa là lời nói hay là Nam (đối lập với Trung Quốc) cả từ này có
nghĩa là văn tự của lời nói hay văn tự của nước Nam, nó đối lập với văn tự
chính thống “chữ Nho” với ý nghĩa là văn tự của nhà Nho.
2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của chữ Nôm
Đất nước đang từng bước phát triển, ý thức về dân tộc và đặc biệt đó là
văn hóa dân tộc ngày càng mạnh mẽ, nhu cầu về việc tạo ra một ngôn ngữ của
dân tộc ngày càng bức thiết - văn tự ghi âm Tiếng Việt. Trải qua hàng nghìn
năm Bắc thuộc, ngôn ngữ dân tộc không mất đi, trước yêu cầu của đời sống
xã hội chữ Nôm đã ra đời. Đây có thể coi là một cuộc cách mạng văn tự, đánh
dấu bước phát triển tiến lên của lịch sử, nó thể hiện mạnh mẽ ý chí tự cường
của dân tộc ta. Thời điểm ra đời của chữ Nôm đến nay vẫn còn nhiều vấn đề
tranh luận.
22
2.1.2.1. Nguồn gốc chữ Nôm xuất hiện
Những dấu tích xa xưa nhất của chữ Nôm, theo nghiên cứu của Đào
Duy Anh về Chữ Nôm nguồn gốc - diễn biến - cấu tạo thì dấu vết của chữ
Nôm thuộc về thời Lý. “Trong báo tổ quốc số 3 năm 1963, ông Trần Huy Bá
có giới thiệu một cái chuông đồng của chùa Vân bản ở Đồ Sơn mà năm 1958
ngư dân vùng Đồ sơn vớt ở dưới biển lên. Ông thấy có chữ Hán khắc ở thành
chuông và có lẫn ba chữ Nôm nhưng khi được kiểm tra thì thấy có hai chữ là
Ông Hà” [1,t12]. Ông Bá dựa vào những dòng chữ Hán để thấy rằng chuông
này do thầy tăng Hương Tâm và cư sĩ Đại ác xây dựng, căn cứ vào chữ Bính
thìn để biết chuông ấy đúc vào năm Bính thìn thời Lý Nhân Tôn, tức năm
1076 sau khi xây dựng tháp Đồ Sơn.
Sau chuông đồng chùa Vân bản thì tấm bia chùa Tháp miếu huyện Yên
Lãng tỉnh Vĩnh Phú đề đầu năm 1210 đời Lý Cao Tôn, có hơn 20 chữ Nôm
khác nhau. Văn bia này được xếp trong tập I Văn bia của Thư viện khoa học
xã hội. Chữ Nôm dùng để chép tên đất và tên người. Chữ Nôm lúc này được
viết với quy cách đầy đủ mà đời sau vẫn dùng như vậy có thể nói chữ Nôm
xuất hiện trước rồi.
Sử chép rằng nước ta có thơ phú chữ Nôm từ thời Trần. Theo như Đào
Duy Anh “Thời Trần Nhân Tôn, Ty Hành khiển phải giải nghĩa các chiếu chỉ
của vua bằng chữ Nôm” [1,t53]. Nghiên cứu của tác giả đưa ra 4 bài phú
Nôm nhưng đến nay các bài phú này không có một bản lưu truyền nào.
Từ đó chúng ta có thể suy ra rằng do các yêu cầu của xã hội từ sau các
cuộc giải phóng, đặc biệt dưới các triều Đinh Lê và đầu triều Lý, chữ Nôm
xuất hiện.
2.1.2.2. Chữ Nôm trong văn chương
Thời Trần đã khởi phát một phong trào dùng chữ Nôm để sáng tác văn
học, như thơ phú Nôm nhưng đáng tiếc là các tác phẩm hầu hết đã bị thất
23
truyền. Sự xuất hiện củ chữ Nôm và thơ văn Nôm thể hiện sự cố gắng nâng cao
địa vị Tiếng Việt trong việc xây dựng nền văn học dân tộc, là bước ngoặt quan
trọng đánh dấu sự trưởng thành của ý thức dân tộc, của nền văn hóa dân tộc.
Từ trước đến nay nói đến văn chương chữ Nôm xưa nhất còn truyền thì
người ta kể đến Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, ra đời đầu thời Lê. Văn
chương chữ Nôm thời Trần chỉ là sử chép.
Chữ Nôm đi vào các sáng tác văn chương từ đó. Ta có thể thấy rõ trong
văn học thế kỉ XV- XVII, chữ Nôm có bước phát triển vượt bậc so với thế kỉ
trước với sự xuất hiện của nhiều tập thơ với quy mô đồ sộ như: Quốc âm thi
tập của Nguyễn Trãi (gồm 254 bài), Hồng Đức quốc âm thi tập các tác gia
nửa sau thế kỉ XV (gồm 328 bài), Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn
Bỉnh Khiêm (khoảng 170 bài)… Ngoài ra còn có các tác phẩm phú Nôm của
Nguyễn Giản Thanh, Nguyễn Hãng… Các sáng tác bằng chữ Nôm còn được
thử trên một số đề tài khác nữa. Đầu tiên chúng ta có thể thấy được việc sử
dụng nhiều bài thơ Nôm Đường luật nối tiếp nhau để xây dựng truyện thơ, với
tác phẩm tiêu biểu đó là Lâm truyền kì ngộ (với 146 bài thơ thất ngôn bát cú
và một bài thất ngôn tứ tuyệt) và Thạch tuyền ca khúc dài 12 câu gần với điệu
hát nói… Đặc biệt hơn thế kỉ XVI- XVII xuất hiện rất nhiều các tác phẩm thơ
ca Nôm viết bằng thể thơ dân tộc, có quy mô lớn. Ví dụ: thơ lục bát được
dùng viết tác phẩm như Lâm tuyền vãn của Phùng Khắc Hoan (185 câu),
Ngọa Long cương vãn (136 câu), Tư Dung vãn (332 câu) của Đào Duy Từ.
Đồ sộ hơn vào cuối thế kỉ XVII là sự ra đời của Thiên Nam ngữ lục, tập diễn
ca lịch sử Việt Nam bằng thơ Nôm gồm 8136 câu lục bát… Thành tựu nổi bật
của hai thể thơ này mở ra một chân trời mới cho thơ ca dân tộc, bao gồm thơ
trữ tình và thơ tự sự.
Ở giai đoạn văn học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX, văn học Nôm
nở rộ và phát triển mạnh mẽ. Thành tựu tiêu biểu với các thể loại: Thơ Nôm
24
Đường luật, Khúc ngâm song thất lục bát, Truyện Nôm lục bát và thơ hát nói
với những thể loại này đã tạo nên đỉnh cao nghệ thuật của nền văn học dân
tộc. Thơ Nôm Đường luật có thi tập của “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân
Hương, chùm thi phẩm của Bà Huyện Thanh Quan. Đến Truyện Nôm thể thơ
lục bát được hoàn thiện, ngôn ngữ trong sáng và tinh tế hơn. Thành tựu về thể
loại này khá nhiều nhưng phải kể đến kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện
Kiều) của Nguyễn Du, Quan âm Thị Kính của Nguyễn Cấp, Sơ kính tân trang
của Phạm Thái… Ngoài ra thì còn hàng loạt truyện Nôm khuyết danh khác.
Thể thơ song thất lục bát được nhiều tác giả sử dụng trong các sáng tác của
mình qua nhiều thế kỉ. Khúc ngâm song thất lục bát là thể loại có quy mô lớn
và đạt được thành tựu rực rỡ trong thơ ca trữ tình của Việt Nam. Những tác
phẩm tiêu biểu có Chinh phụ ngâm khúc của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm
khúc của Nguyễn Gia Thiều, Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ… Thơ hát nói là
thể loại độc đáo của văn học Nôm thế kỉ XIX, mang tính chất phóng khoáng
với các sáng tác đỉnh cao của các tác giả như: Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… Ta có thể thấy văn học Nôm giai đoạn
này phát triển rực rỡ và đạt đến đỉnh cao của nó với nhiều tác phẩm để đời và
các tác giả tiêu biểu của nền văn học dân tộc.
Văn học nửa sau thế kỉ XIX, là giai đoạn mà văn học chữ Hán và văn
học chữ Nôm kết thúc vai trò lịch sử để văn chương dân tộc bắt đầu với sáng
tác bằng chữ Quốc ngữ. Nhưng giai đoạn này văn học Nôm vẫn có những
đóng góp quan trọng, thơ văn mang tính cụ thể, thời sự và phản ánh một cách
chân thực. Tiêu biểu là các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu với thơ ca
chống Pháp (Chạy giặc, Thơ điếu Trương Định, Thơ điếu Phan Tòng), văn tế
các anh hùng liệt sĩ….
2.1.2.3. Chữ Nôm trong các văn bản hành chính
Chữ Nôm ngoài việc sử dụng trong các sáng tác văn chương, thì còn
được sử dụng trong các văn bản hành chính nhưng số lượng hạn chế. Trong
25
các sử liệu, nhất là chính sử cùng các văn bản hành chính của triều đình thì
nhất thể đều bằng chữ Hán.
Ngoại lệ là những năm tồn tại ngắn ngủi của nhà Hồ ở thế kỉ XV và nhà
Tây Sơn thế kỉ XVIII. Những văn bản hành chính như sổ sách, công văn, giấy
tờ, thư từ, khế ước, địa bạ v.v. chỉ đôi khi xen chữ Nôm nếu không thể tìm
được một chữ Hán đồng nghĩa để chỉ các danh từ riêng (như tên đất, tên làng,
tên người), nhưng tổng thể vẫn là văn bản Hán Việt bởi quan niệm chung của
giới sĩ đại phu các triều đại bấy giờ thì cho là: "nôm na là cha mách qué".
Dưới triều đại nhà Tây Sơn, do sự hậu thuẫn của Quang Trung hoàng
đế, toàn bộ các văn kiện hành chính bắt buộc phải viết bằng chữ Nôm trong
24 năm, từ 1788 đến 1802. Nói cách khác, chữ Nôm là công cụ thuần Việt ghi
lại lịch sử văn hoá của dân tộc trong khoảng 10 thế kỷ, mặc dù đó là công cụ
còn nhiều hạn chế về mặt kỹ thuật cũng như mức phổ dụng so với chữ Hán.
Như vậy, chữ Nôm được sử dụng trong các văn bản hành chính còn rất
hạn chế vì nó không được phổ biến bằng chữ Hán.
Tóm lại qua quá trình hình thành và phát triển của chữ Nôm phần nào
cho ta thấy được văn học Nôm có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền
văn học của dân tộc. Chữ Nôm ra đời là kết quả của sự sáng tạo của người
Việt tạo nên một ngôn ngữ riêng của dân tộc. Cho đến nay chữ quốc ngữ đã
thay thế chữ Nôm và chữ Nôm không còn được sử dụng nữa. Và nó dường
như đã mờ dần trong nhận thức của người Việt. Các văn bản chữ Nôm hiện
chỉ được lưu trữ và bảo tồn trong các thư viện.
2.2. Kết cấu chữ Nôm
Cha ông ta sáng tạo ra chữ Nôm dựa trên cơ sở của chữ Hán, chọn cách
cấu tạo chữ khoa học hơn chứ không sử dụng tất cả các cách cấu tạo của chữ
Hán. Vì vậy, khi chạm vào các văn bản Nôm tức là chúng ta đang tiếp xúc với
văn tự của dân tộc chứ tuyệt nhiên không phải là sự tiếp xúc với một loại biến
26
thể của văn tự Hán. Vậy để nghiên cứu chữ Nôm các nhà khoa học đã chia ra
thành các cách cấu tạo. Tuy có nhiều cách khác nhau nhưng có thể qui tụ lại
hai cách cấu tạo sau:
+ Loại 1: Chữ Nôm vay mượn: Đây là loại chữ Nôm mượn chữ Hán để
đọc âm Nôm. Loại này có thể chia nhỏ ra làm 6 loại. Loại ghi tiếng Hán việt
như chữ 學 (học); ghi âm Hán cổ như chữ 房 buồng (phòng); ghi âm Việt cổ
như 馬 mựa (mã); mượn nghĩa như 而 mà (nhi); mượn âm chính xác như 半
(bán); mượn âm đọc chệch như 固 có (cố).
+ Loại 2: Chữ Nôm tự tạo: Đây là loại chữ do người Việt mượn chữ
Hán để tạo ra chữ Nôm. Loại này chia thành 5 loại nhỏ. Loại mượn chữ Hán
thêm dấu phụ để đọc âm nôm như 乃 nảy (nãi); loại mượn hai âm của chữ
Hán để tạo chữ Nôm như 禥 sang (cự + lang); loại mượn nghĩa của hai chữ
Hán để suy đọc âm Nôm như mệt (亡 vong: mất + 力 lực: sức; mất sức nên
mệt); loại mượn một chữ Hán biểu âm, một chữ Hán biểu nghĩa ghép lại để
đọc âm Nôm như 禥 mở (美 mỹ (âm) + 開 khai (mở)); loại chữ Nôm do chữ
Hán viết giản thể rồi đọc theo nghĩa của chữ Hán như chữ 乄 (làm) vốn từ
chữ 為 vi (làm) của chữ Hán. Khi nghiên cứu cấu tạo chữ Nôm phần lớn các
nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng: càng về sau các tác phẩm viết bằng chữ
Nôm càng có xu thế tăng dần loại chữ tự tạo và giảm dần loại chữ nôm vay
mượn chữ Hán.
27
2.3. Khảo sát chữ Nôm vay mƣợn trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hƣơng
Chữ Nôm là công cụ ghi lại tiếng Việt, dựa trên cơ sở chữ Hán, dựa
vào âm Hán và hệ thống chỉnh âm trong tiếng Việt mà hình thành nên âm
Nôm. Sau gần một nghìn năm độc lập, ông cha ta đã sáng tạo ra chữ Nôm để
dùng trong nhiều phạm vi từ thực tiễn đến văn học. Qua nhiều thời kỳ, số
lượng chữ tăng lên nhanh chóng nhờ mô phỏng các phương pháp cấu tạo của
chữ Hán và cũng được điều chỉnh, thay đổi theo quan niệm của người sử
dụng, hoặc theo tình hình của lịch sử của các giai đoạn phát triển ngôn ngữ.
Chữ Nôm đóng góp cho nền văn hóa dân tộc nhiều tác phẩm và tác gia văn
học nổi tiếng mà ở đây phải kể đến Hồ Xuân Hương, nhà thơ nữ thế kỷ
XVIII, bà đã để lại cho nền văn học nước nhà nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm
có giá trị được lưu truyền đến ngày nay và được đông đảo các nhà khoa học
trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Bên cạnh văn chương xuất sắc của
Hồ Xuân Hương còn phải kể đến cách dùng chữ Nôm tài tình trong thơ bà,
trong khóa luận chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu chữ Nôm vay mượn trong
tập thơ Nôm truyền tụng 47 bài thơ của bà.
Khảo sát thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương, những chữ Nôm vay
mượn sẽ được chúng tôi khảo sát và đưa ra những nhận định mà theo chúng tôi
là xác đáng trong khóa luận của mình. Để làm được việc này đầu tiên chúng tôi
phân định chữ Nôm dựa theo tiêu chuẩn âm đọc trong chữ Nôm, hay nói cách
khác, để đi tới âm đọc, thực hiện chức năng văn tự của nó, một chữ Nôm
thường trải qua các bước sau: Xác định âm Tiền Hán Việt, âm Hán Việt và Âm
Hán Việt Việt hóa mới có thể đọc được những chữ Nôm vay mượn.
2.3.1. Âm Tiền Hán Việt
Tiếng Hán bắt đầu xâm nhập vào Giao Châu từ đầu công nguyên, được
bọn đô hộ sử dụng trên phương diện giao dịch hành chính. Với tư cách công
cụ của ngoại bang nên lúc này nó còn mang tính chất một sinh ngữ. Trong lúc
28
giao dịch với người Hán, người Việt đã phải cố gắng phát âm theo cách nói
của người Hán, tất nhiên nó đã bị thay đổi đi ít nhiều do cách phát âm của
người Việt. Chính một số cách đọc này đã lọt vào được các khẩu ngữ của
quần chúng và lưu lại được đến ngày nay tạo ra cái mà ta gọi là âm Tiền Hán
Việt. Quá trình này kéo dài khá lâu. Đồng thời các nhà nghiên cứu cũng
thường gọi loại âm này là âm cổ Hán Việt. Âm Tiền Hán Việt cũng là âm Hán
Việt nhưng là âm Hán Việt cổ.
Âm Hán Việt là cách đọc chữ Hán ở Việt Nam có xuất phát điểm từ
ngữ âm tiếng Hán ở một giai đoạn nhất định và biến chuyển ở tiếng Việt theo
những quy luật và phương thức nhất định, trở thành một cách đọc duy nhất và
phổ biến cho tất cả các thư tịch của người Hán và người Việt được sáng tác từ
trước đến nay, kể từ thời Tiên Tần ở Trung Quốc cho đến Ngục trung nhật ký
của Hồ Chí Minh ở thế kỷ XX. Như thế là âm Hán Việt có thể dùng để đọc cả
những từ du nhập từ thời Bắc thuộc cho đến những từ du nhập ở thế kỷ XX do
người Nhật dùng chữ Hán trong văn tự của họ dịch các khái niệm của châu
Âu như hiến pháp, quân chủ, tự do, giai cấp,... truyền sang Trung Quốc, từ đó
lại truyền sang Việt Nam. Do đó, người ta có thể hiểu cổ Hán Việt là những
từ Hán Việt du nhập vào ta từ thời cổ đại và Trung cổ, khu biệt với những từ
du nhập gần đây. Khái niệm Tiền Hán Việt để chỉ những âm và từ Hán Việt
đã du nhập vào Việt Nam trước khi có âm Hán Việt.
Âm Tiền Hán Việt có một sự phát triển riêng khác với âm Hán Việt.
Tuy nhiên ở các thời điểm khác nhau âm chữ Hán cũng có thể có những cách
đọc khác nhau. Âm 角 ở thời kỳ của Hồ Xuân Hương và thế kỷ XVII đọc là
giác nhưng ở thế kỷ XV còn có thể đọc là chác trong tác phẩm Thập giới cô
hồn quốc ngữ văn còn ghi âm này với chữ chác có nghĩa là mua. Thế kỷ XIII
còn ghi âm cóc trong tác phẩm Thiền Tông bản hạnh với nghĩa là hay, biết.
29
Âm Tiền Hán Việt thuộc một hệ quy chiếu khác có thể xuất hiện sớm
hơn âm Hán Việt gần chục thế kỷ. Xuất phát điểm của nó phần lớn là hệ
thống âm Hán Thượng cổ, âm này tồn tại từ thời từ Tiên Tần Lưỡng Hán cho
đến khoảng các đời Ngụy Tấn. Lúc này ở Giao Châu tiếng Hán thượng cổ còn
mang tính chất là một sinh ngữ. Về âm Hán Thượng cổ, giới Hán ngữ Trung
Quốc bắt đầu đề cập đến từ thời Ngụy Tấn nhưng đến đời Thanh nó mới bắt
đầu được nghiên cứu một cách hệ thống với các công trình của Đoàn Ngọc
Tài, Cố Viêm Võ, Trần Phong, Đới Chấn. Các ông đã dựa vào thành tựu
nghiên cứu của cổ nhân, dựa vào các trước tác thời Tiên Tần như Kinh Thi,
Kinh Thư, Sở Từ,… và nghiên cứu những cứ liệu ngữ âm cổ còn bảo tồn lại
được như Thiết vận, Đường vận, Quảng vận để từ đó tái hiện lại bộ mặt của
âm Hán Thượng cổ.
Trong thơ Nôm qua khảo sát hệ thống chữ Nôm thơ Hồ Xuân Hương
chúng tôi nhận thấy có rất nhiều âm Tiền Hán Việt được xuất phát từ âm Hán
Thượng cổ. Dưới đây là dấu vết của âm Hán Thượng cổ trong cách đọc Tiền
Hán Việt được sử dụng trong chữ Nôm của Hồ Xuân Hương
Chữ Tiền Hán Việt Hán Việt
放 buông phóng
房 buồng phòng
煩 buồn phiền
禥 buộc phọc
舞 múa vũ
晚 muộn vãn
30
望 mong vọng
霧 mù vụ
誇 khoe khoa
盞 chén trản
斬 chém trảm
限 hẹn hạn
察 xét sát
Sang âm Tiền Hán Việt do i không thích ứng với ngữ âm tiếng Việt nên
bị thủ tiêu:
Chữ Tiền Hán Việt Hán Việt
主 chúa chủ
注 chua chú
須 tua tu
重 chuộng trọng
驅 khua khu
鍾 chuông chung
Cùng với nguyên âm đôi, giữa và sau, tạo ra xu hướng ưa > ư
驢 lừa lư
31
御 ngừa ngự
貯 chứa trữ
似 tựa tự
Ở đây chúng tôi cũng lựa chọn phân tích một số điểm liên quan đến
cách đọc Tiền Hán Việt. Trong phần vần của tiếng Hán Thượng cổ, riêng về
nguyên âm, chúng tôi đã khảo sát đến một số điểm sau trong thơ chữ Nôm
truyền tụng Hồ Xuân Hương:
- â và a không đứng một mình hoặc không theo sau giới âm w và i
Chữ Tiền Hán Việt Hán Việt
皮 bia bì
碑 bia bi
惜 tiếc tích
隻 chiếc chích
席 tiệc tích
碧 biếc bích
- o sẽ chuyển dần sang uo qua một bước trung gian là wo
o > wo > uo
Nếu đứng sau i thì nó sẽ dừng lại ở bước trung gian này, nhưng nếu
không đứng sau i nó tiếp tục thành uo. Trong âm Tiền Hán Việt và Hán Việt
chúng ta cũng thấy dấu vết của quá trình này.
丸 yon (hòn) ywon --- yuon (hoàn)
32
Có những từ vay mượn trước thời Tam Quốc khi thanh mẫu r còn có
giá trị đi cùng thanh huyền, sau này sang âm Hán Việt chúng biến thành âm
đầu L đi cùng thanh ngang.
簾 rèm liêm
梁 rường lương
龍 rồng long
Thuộc âm Tiền Hán Việt, ngoài những chữ bắt nguồn từ âm Hán
Thượng cổ nêu trên nhưng có một số chữ chưa đi tới được âm Hán Việt mà
nửa chừng đã tạo ra các âm Việt hóa khác.
- Chữ 叫 sách Từ nguyên phiên là “các điểu thiết, tiêu vận”, âm kêu.
Âm này có trước âm Hán Việt đọc là khiếu.
- Chữ 梗 âm Hán Việt là ngạnh, nhưng trước đó là âm cành.
2.3.2. Âm Hán Việt Việt hóa
Cũng như âm Tiền Hán Việt, âm Hán Việt Việt hóa là âm Hán Việt
được đọc khác đi theo những ngữ âm tiếng Việt xảy ra sau quá trình Hán Việt
hóa. Xuất phát điểm của nó là âm Hán Việt. Trong thực tế nó còn bao gồm
những âm bắt nguồn từ tiếng Hán Trung cổ xảy ra song song với quá trình
Hán Việt Việt hóa nhưng đọc theo cách biến thể dân gian.
Âm Hán Việt là kết quả của một quá trình biến đổi có tính quy luật chặt
chẽ xảy ra đồng loạt cho các chữ Hán nằm trong thư tịch, kinh, sử, tử, tập từ
Tiên Tần, Lưỡng Hán đến Đường Tống. Nó được dùng làm âm đọc chính
thức để giảng dạy chữ Hán trong các trường học ở Việt Nam từ chốn kinh kỳ
đến nơi phiên trấn, từ đời này sang đời khác. Nó được dùng làm âm đọc chữ
Hán trong cơ quan hành chính cũng như trong sáng tác văn học. Nó là âm đọc
33
của nền văn tự bác học qua nhiều thời kỳ, nhiều thế hệ, do đó cách đọc Hán
Việt ngày càng thống nhất và được tiêu chuẩn hóa. Vì vậy, những biến đổi
của ngữ âm tiếng Việt không tác động đồng loạt vào tất cả các bộ phận của
âm Hán Việt mà chỉ ảnh hưởng vào một số đơn vị lẻ tẻ. Đứng trước tác động
này, một số âm Hán Việt đã bảo tồn tính thống nhất và hệ thống của mình
bằng cách để các đơn vị nói trên tách ra làm đôi, một là giữ lại âm Hán Việt,
hai là sinh ra âm Hán Việt Việt hóa.
Trong thơ chữ Nôm Hồ Xuân Hương ta thấy rất rõ điều này trong quá
trình khảo sát các tác phẩm.
鏡 được đọc thành: kính, gương
紙 được đọc thành: chỉ, giấy
停 được đọc thành: đình, đừng
Dưới đây chúng ta lựa chọn và sắp xếp các âm Hán Việt Việt hóa căn
cứ vào những biến đổi xảy ra chữ Nôm thơ Hồ Xuân Hương
2.3.2.1. Hữu thanh hóa
Từ k sang g:
Chữ Hán Việt Hán Việt Việt hóa
肝 can gan
几 kỷ ghế
寄 kí gửi
寡 quả góa
筋 cân gân
34
Từ ch sang gi:
紙 chỉ giấy
正 chính giêng
種 chủng giồng, giống
争 tranh giành
2.3.2.2. Xát hóa
Từ đ sang d:
停 đình dừng
篤 đốc dốc
帶 đái dải
刀 đao dao
Từ b sang v:
本 bản vốn
板 bản ván
壁 bích vách
補 bổ vá
Từ hw sang v:
劃 họa vẽ
35
回 hồi về
丸 hoàn viên
完 hoàn vẹn
2.3.2.3. Mũi hóa
Từ d sang n, từ b sang m, từ gi sang nh:
毒 độc nọc
盤 bàn mâm
家 gia nhà
2.3.2.4. Những sự biến đổi âm đầu khác không thành xu hướng rõ rệt k sang kh:
巾 cân khan
t sang th:
錫 tích thiếc
粟 túc thóc
繡 tú thêu
s sang th:
所 sở thửa
紗 sa the
s sang t:
灑 sái tưới
36
th sang s:
鐵 thiết sắt
Về phần vần thì giữa âm Hán Việt và âm Hán Việt Việt hóa tuy có biến
đổi nhưng vẫn giữ các nét ngữ âm sau:
Giống nhau về nguyên âm dòng giữa hoặc dòng sau và âm cuối:
Chữ Hán Việt Hán Việt Việt hóa
初 sơ xưa
事 sự thờ
爐 lô lò
禥 lự lo
庫 khố kho
共 cộng cùng
桶 thống thùng
散 tán tan, tản
銀 ngân ngần
Chỉ giống nhau ở âm cuối, nguyên âm xê dịch giữa dòng trước và dòng sau:
源 nguyên nguồn
嘲 trào (lộng) chèo
棹 trạo chèo
37
説 thuyết thốt
生 sinh sống
Đọc theo lối biến thể dân gian, chưa chứng minh được mối quan hệ ngữ âm:
夷 di rợ
卜 bốc bói
瓦 ngõa ngói
仰 ngưỡng ngửa
Các loại âm Hán Việt Việt hóa trình bày trên trong thơ chữ Nôm Hồ
Xuân Hương được dùng trong rất nhiều trong các văn bản gần đây như
Truyện Kiều và các văn bản truyện Nôm khác. Sở dĩ như vậy là vì loại âm này
bù đắp được một khoản đáng kể các âm tiết thiếu hụt trong hệ thống Hán
Việt. Cho đến gần đây vẫn còn có người cho chúng là loại chữ đọc theo nghĩa
trong chữ Nôm. Qua phần phân tích trên ta đã chứng minh rằng đó là quan
điểm sai lầm.
2.2.3. Âm Hán Việt
Từ thời Tủy, Đường việc giảng dạy chữ Hán ở Giao Châu đã mở rộng
cho người bản xứ, chế độ sĩ tộc trước kia đã được thay thế bằng chế độ khoa
cử. Mặt khác, Phật giáo và Đạo giáo thuộc chi phái do người Hán truyền bá
sang cũng được phát triển cùng với sự phổ biến của sách Phật bằng chữ Hán.
Càng gần thời tự chủ, thư tịch lưu hành ở Giao Châu càng nhiều. Số lượng
các nho sĩ và cao tăng tinh thông chữ Hán cũng tăng lên. Rõ ràng lúc này
ngôn ngữ văn tự Hán đã có một ảnh hưởng nhất định trên địa bàn Việt Nam.
Sang đến thời tự chủ, chữ Hán lại được các triều đại phong kiến Việt Nam sử
38
dụng trong công việc hành chính, trong khoa cử và cả trong trước tác. Nhưng
lúc này tiếng Hán không còn mang tính chất là một sinh ngữ nữa, cách đọc
chữ Hán ở Việt Nam càng ngày càng xa dần âm Hán và được đọc dưới sự tác
động của các quy luật ngữ âm tiếng Việt. Tiếng Hán đọc theo kiểu Việt hóa.
Lúc này tiếng Hán đã đọc theo âm Hán trung cổ và gây ảnh hưởng ở Việt
Nam với tư cách là một hệ thống nên sự Việt hóa cũng xảy ra cho toàn hệ
thống và tạo thành một loại âm đọc mà ta gọi là âm Hán Việt.
Từ đó chúng ta có thể thấy một chữ Hán từ khi được tạo ra cho đến nay
có thể có nhiều âm đọc, ví dụ âm Hán thượng cổ, âm Hán Trung cổ, âm thời
Trung nguyên âm vận. Lại có hiện tượng một chữ Hán trong quá trình sử
dụng có thể biểu thị những nghĩa mới. Đó là hiện tượng một mã chữ biểu thị
nhiều từ khác nhau trong đó có những từ đồng âm và dị âm.
Âm 角 giác có các từ với những nghĩa sau:
Sừng 1.
Xương trán 2.
Chén đựng cơm 3.
Góc 4.
Tên một ngôi sao 5.
6. Vật chứa có ba chân, đựng được bốn thăng.
Âm giốc cũng được coi là âm Hán Việt, nhưng âm này không có trong
các từ điển Hán, có các nghĩa:
1. Vật nhau
2. Một âm trong ngũ âm (cung, thương, giốc, chủy, vũ)
3. Cái tù và.
Ngoài ra còn có âm.
- Cốc (cổ lục thiết, âm cốc) từ tượng thanh tiếng chim kêu.
39
Về lý thuyết thì bất cứ chữ Hán nào cũng có âm Hán Việt. Nhưng
không phải âm Hán Việt nào cũng được sử dụng trong chữ Nôm. Chữ Nôm
chỉ lựa chọn lấy một vài trong những âm đó để ghi tiếng Việt, ở đây cần phân
tích ra hai trường hợp khác nhau:
Một là sử dụng chữ Hán để ghi chép hoặc sáng tạo ra những thư tịch Hán
văn, lúc này chữ Hán nằm trong hệ thống ngôn ngữ Hán. Do chỗ một chữ Hán
có nhiều âm, thực ra là nhiều từ, tùy theo nghĩa từ mà âm đọc khác nhau:
度 đạc, nghĩa là đo và âm đọc độ, trong pháp độ
Hai là sử dụng chữ Hán với tư cách một đơn vị, trong hệ thống văn tự
dân tộc của người Việt. Lúc này chữ Hán biểu thị những đơn vị từ hội ít nhiều
quen thuộc trong tiếng Việt, nó được biểu thị từ gốc Hán hoặc được dùng thuần
âm để biểu thị từ thuần Việt. Những đơn vị từ hội Hán khác, tuy cùng mặt chữ
với loại trên, rất ít khi được dùng tới. Hiện tượng dùng một lúc nhiều âm Hán
Việt của một chữ Hán đôi khi gây trở ngại cho việc ghi âm tiếng Việt.
Chữ 度 trong chữ Nôm thường được dùng ghi âm độ, khi cần ghi âm
đạc chữ Nôm dùng chữ Hán khác là 鐸 (âm đạc, nghĩa là cái mõ dùng gõ khi
tuyên đọc chiếu chỉ hay khi xuống dân gian thu thập thi ca).
Dưới đây là cách đọc Hán Việt của chữ Hán, âm thường dùng trong thơ
Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương:
台 đài, hai, di, thai
司 tư, ti, tứ
合 hợp, cáp
呼 hô, há
40
唇 thần, chân
圜 hoàn, viên
土 thổ, đỗ
塗 đồ, trà
Điều này chứng tỏ chữ Nôm tôn trọng hai nguyên tắc:
Hạn chế hiện tượng một chữ Hán cùng một lúc có hai cách đọc trong
chữ Nôm, trừ trường hợp thật cần thiết và tiết kiệm được số lượng chữ. Trong
chữ Nôm âm phiết được dùng chữ 丿 âm ảnh được dùng chữ 影, âm đỗ được
dùng chữ 杜.
Cố gắng sử dụng các âm Hán Việt quen thuộc được dùng để đọc chữ Nôm.
Cả hai nguyên tắc này đều nhằm làm cho chữ Nôm thể hiện được chính
xác âm Việt, loại trừ những khả năng đọc theo nhiều cách.
2.4. Tiểu kết chƣơng 2
Như vậy, để hiểu rõ được kết cấu của chữ Nôm việc đầu tiên chúng ta
cần tìm hiểu về nguồn gốc và quá trình phát triển của nó. Hơn nữa là phải
hiểu được thế nào là chữ Nôm. Và đặc biệt là phải hiểu rõ được kết cấu của
chữ Nôm.
Từ việc hiểu rõ kết cấu chữ Nôm ta áp dụng vào khảo sát chữ Nôm vay
mượn trong thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương. Thông qua quá trình
khảo sát ta có thể thấy được lượng chữ Nôm vay mượn trong thơ Nôm Hồ
Xuân Hương khá đa dạng và được bà sử dụng rất tinh tế. Nữ sĩ đã sử dụng âm
tiền Hán Việt, âm hán Việt hóa và đặc biệt là sử dụng âm Hán Việt trong các
sáng tác của mình. Mặc dù là chữ Nôm vay mượn nhưng vẫn tôn trọng
nguyên tắc về âm và về cách đọc để đảm bảo chính xác các âm đọc.
41
Chƣơng 3. HƢỚNG TIẾP CẬN TÁC PHẨM TỰ TÌNH II
CỦA HỒ XUÂN HƢƠNG TRONG NHÀ TRƢỜNG PHỔ THÔNG
Văn học trung đại Việt Nam, phát triển rực rỡ và đạt đến đỉnh cao với
nhiều tác phẩm có giá trị và nhiều các thể loại khác nhau như: truyện Nôm
của Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều, bản diễn Nôm của Đoàn Thị Điểm
là Chinh phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều…
Không thể thiếu Hồ Xuân Hương với những sáng tác về thơ Nôm Đường luật.
Hồ Xuân Hương với những tác phẩm thơ Nôm truyền tụng đã có những đóng
góp không nhỏ trong kho tàng văn học dân tộc. Những sáng tác của bà đã để
lại những giá trị lớn về nội dung nghệ thuật và thể loại. Chương trình giáo dục
của trường phổ thông đã lựa chọn bài thơ Tự tình (II) của bà để giảng dạy,
giúp học sinh hiểu được phần nào nội dung, nghệ thuật độc đáo mà Hồ Xuân
Hương tạo nên những vần thơ đó trong thể Nôm Đường luật.
Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương có mặt trong chương trình Ngữ văn
lớp 11 THPT hiện hành. Là một tác phẩm tiểu biểu có giá trị lớn về nội dung
và nghệ thuật nhưng tác phẩm này cũng có những khó khăn đối với việc tiếp
nhận của học sinh nó được gọi là khoảng cách tiếp nhận, khoảng cách ấy biểu
hiện ở chỗ giữa học sinh với tác phẩm này. Và có nhiều yếu tố tác động đến
để tạo ra cái khoảng cách đó là: yếu tố về văn hóa, lịch sử, các từ ngữ cổ, điển
tích, điển cố… Những yếu tố về lịch sử- văn hóa, tâm trạng của nhân vật trữ
tình được thể hiện trong bài nhưng vẫn có khoảng cách nhất định đối với học
sinh lớp 11 ở lứa tuổi 16, 17 hiện nay. Điều đặc biệt là người tiếp nhận dù có
muốn hay không cũng phải có sự hiểu biết về hoàn cảnh lịch sử, thời đại của
tác giả sinh sống, về văn hóa Việt Nam trung đại, tư tưởng ý thức hệ phong
kiến hơn cả là người phụ nữ trong xã hội phong kiến thời xưa. Qua tất cả
những yếu tố trên ta đã thấy phần nào gây ra những khó khăn và trở thành rào
42
cản khi cho học sinh tiếp xúc với một văn bản. Trong việc dạy học một tác
phẩm văn chương, người giáo viên cần phải xác định được khoảng cách tiếp
nhận của học sinh để đưa ra những biện pháp, phương pháp phù hợp với nhận
thức của học sinh. Vì vậy, chúng tôi nghiên cứu vấn đề này để phần nào giải
quyết được khó khăn trong việc dạy và học nhằm nâng cao hiệu quả bài học
Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương trong chương trình phổ thông hiện nay.
Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, một trong những người phụ trách
soạn thảo chương trình sách giáo khoa phổ thông trung học ở Việt Nam đánh
giá Hồ Xuân Hương là một nhà thơ vĩ đại nhưng không thể đưa nhiều các tác
phẩm vào chương trình giảng dạy mà cần phải có sự chọn lọc. Tự tình (II) là
tác phẩm được chọn với nội dung phù hợp với nhận thức của lứa tuổi học
sinh, tác phẩm được giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 11, học kì I.
Với nội dung nghệ thuật và thể loại độc đáo có sự cách tân trong việc sử dụng
ngôn từ giàu hình ảnh, ý nghĩa nhưng Tự Tình (II) vẫn gây ra khó khăn với
người dạy ở từng hoạt động cụ thể của bài. Vì vậy, chúng tôi đưa ra hướng
tiếp cận của tác phẩm từ đặc trưng thể loại, để phần nào giúp việc dạy của
giáo viên và việc tiếp nhận tác phẩm của học sinh dễ dàng hơn.
3.1. Thực trạng giảng dạy tác phẩm trong nhà trƣờng phổ thông
Bài thơ Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương tác phẩm thơ Nôm thuộc thể
thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Thể thơ này được đưa vào giảng dạy dưới
góc độ tiếp cận của tác phẩm tiêu biểu là Tự tình (II) sách giáo khoa Ngữ văn
lớp 11, tập 1. Là một trong những bài thơ mà giáo viên thường lấy để làm đề
kiểm tra 15 phút, 1 tiết hay cả thi học kì. Một tác phẩm thơ thì nội dung vẫn là
phần trọng điểm nhưng tiếp cận tác phẩm từ nội dung dễ gây nhàm chán, ít
người đưa ra hướng tiếp cận từ đặc trưng thể loại.
Theo khảo sát của tôi, hiện nay phần nhiều giáo viên khi dạy tác phẩm
hướng đến nội dung là chủ yếu mà chưa khai thác từ đặc trưng thể loại, chưa
43
làm rõ được đặc điểm của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hồ Xuân
Hương với tài thơ của mình đã tạo nên một tác phẩm có giá trị đối với văn
học dân tộc, góp phần sáng tạo đề tài mới cho văn học. Để lĩnh hội trọn vẹn
một tác phẩm thì phải đi từ nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó đặc trưng thể
loại của bài thơ phần nào cũng nói lên nội dung của tác phẩm, đặc trưng thể
loại giúp ta am hiểu hơn về tài của người sáng tác. Như vậy tiếp cận tác phẩm
này ta nên đi từ đặc trưng thể loại của nó.
3.2. Tiếp cận tác phẩm từ đặc trƣng thể loại
3.2.1. Khái niệm
Thể loại tác phẩm văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình tác phẩm.
Trong đó ứng với một loại nội dung nhất định là một loại hình thức nhất định,
tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại chỉnh thể.
Thể thơ thất ngôn bát cú là loại cổ thi, xuất hiện sớm ở Trung Quốc. Đến
đời nhà Đường (thế kỉ thứ VII) mới được các nhà thơ đặt quy định cụ thể, rõ
ràng. Một thời gian dài trong chế độ phong kiến, thể thơ này đã được các đời
vua Trung Quốc và Việt Nam dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài.
Thơ thất ngôn bát cú là loại thơ mỗi bài có 8 câu và mỗi câu 7 chữ, tức
là chỉ có 56 chữ trong một bài thơ thất ngôn bát cú. Thơ thất ngôn bát cú là
thể thơ có luật rất chặt chẽ.
3.2.2. Đặc điểm thể loại thất ngôn bát cú Đường luật
- Luật bằng trắc: Cấu trúc bài thơ thất ngôn bát cú gồm 8 câu, mỗi câu
7 chữ. Nếu tiếng thứ hai của câu 1 là vần bằng thì gọi là thể bằng, là vần trắc
thì gọi là thể trắc. Luật bằng vần bằng là bài thơ mà tiếng thứ hai của câu đầu
là tiếng bằng và các tiếng ở cuối các câu 1-2-4-6-8 phải vần với nhau và đều
là vần bằng. Luật trắc vần bằng là bài thơ mà tiếng thứ hai của câu đầu là
tiếng trắc và các tiếng ở cuối các câu 1-2-4-6-8 phải vần với nhau và phải là
vần bằng.
44
- Thể thơ quy định rất nghiêm ngặt về luật bằng trắc. Luật bằng trắc
này đã tạo nên một mạng âm thanh tinh xảo, uyển chuyển cân đối làm lời thơ
cứ du dương như một bản tình ca. Người ta đã có những câu nối vấn đề về
luật lệ của bằng trắc trong từng tiếng ở mỗi câu thơ: các tiếng nhất - tam - ngũ
bất luận còn các tiếng: nhị - tứ - lục phân minh.
- Luật thơ: Thất ngôn bát cú Đường luật: Có quy luật nghiêm khắc về
Luật, Niêm, Vần và có bố cục rõ ràng.
- Bố cục:
Hai câu đầu tiên (1 và 2) là Mở Đề và Vào Đề (mở bài, giới thiệu...)
Hai câu tiếp theo (3 và 4) là hai câu Thực (miêu tả), yêu cầu của 2
câu này là đối nhau cả về thanh (bằng đối trắc hoặc ngược lại) và về nghĩa.
Hai câu 5 và 6 là hai câu Luận (suy luận), yêu cầu cũng đối nhau cả
về thanh và nghĩa, tương tự như hai câu thực ở trên
Hai câu cuối cùng (7 và 8) là hai câu Kết (kết luận), không yêu cầu
đối nhau.
- Cách ngắt nhịp: 2/2/3 hoặc 4/3, 3/4.
Như vậy, ta có thể thấy thể loại thất ngôn bát cú Đường luật có quy
định rất chặt chẽ, thiếu đi một yếu tố nào thì không thể gọi là Đường luật.
Mặc dù thể thơ quy định chặt chẽ như vậy nhưng Hồ Xuân Hương vẫn làm
nên những vần thơ đi sâu vào lòng người.
3.2.3 Phƣơng hƣớng tiếp cận tác phẩm Tự Tình (II) theo đặc trƣng thể loại
Tự tình (II) là bài thơ thuộc thể thất ngôn bát cú Đường luật và là một
bài thơ trữ tình sâu sắc vì vậy mà quá trình tiếp cận khó khăn hơn so với thể
tự sự hay truyện… Học sinh khó tiếp nhận được văn bản là do các bài thơ viết
bằng chữ Nôm, theo thể Đường luật tuy có phiên âm, dịch nghĩa nhưng sử
dụng nhiều từ ngữ Hán Việt, từ cổ, sử dụng điển tích, điển cố vì vậy rất khó
hiểu được nội dung nếu như không hiểu được nghĩa của các từ đó. Vì bài thơ
45
từ đầu đến cuối là tâm trạng của nhân vật trữ tình, cảm xúc đau buồn, nỗi xót
xa cay đắng của số phận vì vậy nó cũng là rào cản đối với việc tiếp nhận của
học sinh.
Ở Tự tình (II), nhân vật trữ tình là một người phụ nữ đau buồn, phẫn
uất trước bi kịch tình duyên của mình và khao khát hạnh phúc, tình yêu. Hay
Hồ Xuân Hương đang gián tiếp nói lên số phận của mình. Nội dung của tác
phẩm nói lên quyền của mình đó là quyền được yêu thương và hạnh phúc,
quyền được tồn tại.
Tác phẩm là một trong những bài tiêu biểu trong các sáng tác của Hồ
Xuân Hương nêu lên được giá trị nội dung nghệ thuật đặc sắc thơ Nôm của
bà. Dựa trên cơ sở đặc trưng thể loại và yêu cầu của dạy học đọc hiểu tác
phẩm thơ Nôm Đường luật, nội dung phương hướng tiếp cận bài thơ hướng
đến mục tiêu cụ thể sau:
+ Giúp học sinh hiểu được tâm trạng vừa buồn tủi vừa phẫn uất trước
duyên phận éo le và khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc mạnh mẽ của một
người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
+ Giúp học sinh hiểu được tài thơ Nôm của Hồ Xuân Hương: Thơ
Đường luật được viết bằng ngôn ngữ tiếng Việt đa nghĩa, giàu hình ảnh, linh
hoạt và có sức biểu cảm cao.
Phương hướng tiếp cận của bài thơ được thể hiện qua từng hoạt động cụ
thể, từ hoạt động gợi dẫn đến cách tổ chức hoạt động tiếp thu các kiến thức cơ
bản trong bài và cách thức vận dụng tri thức đã học trong phần liên hệ thực tế.
3.2.4. Xác định nội dung và cách thức tiếp cận
Gợi dẫn tiếp cận một tác phẩm văn học là một hoạt động không thể
thiếu của các giáo viên dạy Văn. Hoạt dộng này sẽ cung cấp những thông tin,
công cụ hữu ích và định hướng hoạt động cho học sinh tiếp cận ban đầu với
tác phẩm thông qua hoạt động tự đọc văn bản. Với bài Tự tình (II) của Hồ
46
Xuân Hương giáo viên có thể gợi dẫn cách tiếp cận cho học sinh qua những
nội dung chủ yếu sau:
Đầu tiên, là về tác giả Hồ Xuân Hương: chúng ta giới thiệu nét đặc
trưng về tác giả, quê quán, thời đại sinh sống. Những đánh giá của những tác
giả đương thời về bà.
Thứ hai, về tác phẩm Tự tình (II) cần nêu xuất xứ của bài thơ, thể loại
sáng tác, để học sinh dễ hơn trong việc tìm hiểu nội dung của bài
Thứ ba, gợi dẫn đọc tác phẩm: giáo viên cần lưu ý với học sinh đọc đúng
nhịp điệu của một bài thơ trữ tình: ngắt nhịp đúng, chậm rãi, buồn, tha thiết…
Thứ tư, hoạt động gợi dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm đó chính là quá
trình tổ chức hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản một cách chi tiết. Giáo
viên gợi dẫn học sinh tìm hiểu tác phẩm trên hai bình diện nội dung và nghệ
thuật để thấy được cái hay cái đẹp trong bài thơ. Qua hoạt động đọc hiểu giúp
cho học sinh có thêm những kiến thức về thể loại thất ngôn bát cú Đường luật
mà tác giả Hồ Xuân Hương sử dụng, về nội dung mà bà muốn phản ánh trong
thực trạng xã hội phong kiến thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX. Trong phần
gợi dẫn này giáo viên cần lưu ý hướng dẫn học sinh phát hiện và cảm thụ
được một bài thơ trữ tình đằng sau lớp vỏ ngôn từ của nó. Từ đó giúp học
sinh tổng hợp những kiến thức cơ bản của bài học.
Thứ năm, hoạt động gợi dẫn củng cố bài học, giáo viên đưa ra một số
câu hỏi trắc nghiệm có liên quan đến bài học, học sinh trả lời để nhắc lại kiến
thức và giúp học sinh có mạch lạc kiến thức qua bài học.
Cuối cùng, giáo viên định hướng cho học sinh vận dụng những kiến
thức vừa học vào làm các bài tập nâng cao, liên hệ thực tế đời sống hiện nay.
Về cách thức gợi dẫn cho học sinh, chúng ta có nhiều cách thức gợi dẫn
khác nhau ở những hoạt động khác nhau trong bài học. Một số cách thức gợi
dẫn như: sử dụng tranh ảnh, các dạng câu hỏi, thuyết trình, giảng bình, đánh
47
giá, nhận xét… thông qua các hoạt động hướng dẫn chuẩn bị bài, tìm hiểu tác
giả, đọc và tìm hiểu tác phẩm. Trong tất cả các hình thức trên thì đặt câu hỏi
là hình thức gơi dẫn quan trọng nhất, các hình thức câu hỏi như: câu hỏi nêu
vấn đề, câu hỏi tái hiện, câu hỏi cảm xúc, câu hỏi hiểu biết, câu hỏi vận dụng
cao thấp, câu hỏi liên hệ… Tóm lại, gợi dẫn là hoạt động quan trọng của giáo
viên khi giảng dạy tác phẩm, điểm chính ở đây là giáo viên gợi dẫn như thế
nào để phát huy tính tích cực chủ động cho học sinh trong quá trình học tập
mà vẫn đảm bảo được nội dung kiến thức của bài học.
3.2.5. Xác định kiến thức cơ bản
Kiến thức cơ bản của một bài học bao gồm những kiến thức chủ yếu
như: đảm bảo nội dung kiến thức bài học, thái độ và kĩ năng. Đây là một nội
dung mà giáo viên cần đạt được trong hoạt động dạy của mình. Khi dạy Tự
tình (II) cần chú ý những nội dung cơ bản sau:
Về tác giả, việc đầu tiên trước khi đi tìm hiểu một tác phẩm văn học là
tìm hiểu về cuộc đời sự nghiệp văn học của tác giả đó. Từ đó cho ta biết hoàn
cảnh lịch sử xã hội, gia đình, thân thế của bà đã ảnh hưởng đến việc sáng tác
các tác phẩm. Hồ Xuân Hương chưa rõ năm sinh năm mất, quê ở Nghệ An và
sinh sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Cuộc đời tình duyên của bà có
nhiều éo le, trắc trở. Bà được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”, là người phụ
nữ đầu tiên nói lên tiếng nói của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.
Về xuất xứ của tác phẩm: đây là một yếu tố quan trọng để biết được vị
trí của tác phẩm. Tự tình (II) nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài của Hồ
Xuân Hương, tập trung thể hiện sự cảm thức về thời gian, không gian và đặc
biệt là tâm trạng buồn tủi, phẫn uất trước duyên phận éo le và khát vọng sống,
khát vọng hạnh phúc của nhà thơ.
Về thể loại của bài thơ: cho ta biết được kết cấu của một bài thơ thông
qua thể loại của bài thơ đó. Bài Tự tình (II) là bài thơ theo thể thất ngôn bát cú
48
Đường luật, vì vậy khi đọc hiểu bà thơ ta phải thông qua kết cấu của một bài
thơ Nôm Đường luật để tìm hiểu tâm trạng của nhân vật trữ tình. Mặc dù là
một thể thơ có kết cấu rất chặt chẽ về luật (luật bằng trắc, luật thơ về niêm,
đối, vần, nhịp…) nhưng cái tài tình của Hồ Xuân Hương là sử dụng lời thơ
của mình vào thể thơ này một cách rất tinh tế. Thấy được tài năng nghệ thuật
thơ Nôm của Hồ Xuân Hương: thơ Đường luật viết bằng tiếng Việt, cách
dùng từ ngữ, hình ảnh giản dị, giàu sức biểu cảm, táo bạo.
Về đề tài, chủ đề của tác phẩm: đề tài, chủ đề của tác phẩm nói về
người phụ nữ trong văn học trung đại xưa. Thông qua nhân vật trữ tình cảm
nhận được tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất trước tình cảnh éo le và khát
vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương.
Về nội dung: Bài thơ mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Với việc giãi bày
nỗi cô đơn, buồn tủi của mình, Hồ Xuân Hương đã nói lên được tình cảnh
chung của muôn vàn phụ nữ trong xã hội phong kiến thời xưa. Đó là một xã
hội bất công đã làm cho bao nhiêu thân phận “hồng nhan” bị lỡ làng, đau khổ,
phẫn uất. Buồn tủi với tình cảnh hiện tại, nữ sĩ luôn khao khát một cuộc sống
hạnh phúc, một tình yêu lứa đôi trọn vẹn. Khát vọng của Hồ Xuân Hương về
hạnh phúc lứa đôi cũng chính là khát vọng của người phụ nữ trong xã hội lúc
bây giờ. Đó là một khát vọng chính đáng và đầy tính nhân văn.
Về nghệ thuật: cái đầu tiên nói đến trong nghệ thuật của bài là về thể
loại thơ thất ngôn bát cú Đường luật mà Hồ Xuân Hương đã sử dụng. Giáo
viên cho học sinh tìm hiểu về thể thơ, có thông tin gì thiếu giúp học sinh bổ
sung. Và đặc biệt là vận dụng kiến thức về thể thơ để áp dụng vào việc tìm
hiểu bài thơ tự tình. Trong bài thơ Tự tình (II) Hồ Xuân Hương đã vận dụng
thể thơ đó như sau:
- Luật bằng trắc: Ở bài thơ Tự tình II chữ thứ hai của câu 1 là vần bằng
nên toàn bộ bài thơ theo thể bằng.
49
- Cách gieo vần: cách gieo vần “dồn”, “non”, “tròn”, “hòn” và “con” ở
các vị trí 1, 2, 4, 6 và 8 hiệp vần bằng với nhau nên gieo vần độc vận, thuộc
bình vận. Tác dụng của gieo vần độc vận: gieo vần đúng theo nguyên tắc nhất
- tam - ngũ bất luận còn các tiếng nhị - tứ - lục phân minh của thể thơ.
- Niêm: Câu 1 niêm câu 8, câu 4 niêm câu 5 theo luật bằng.
Câu 2 niêm câu 3, câu 6 niêm câu 7 theo luật trắc.
Tác dụng của niêm: tạo âm điệu và sự gắn kết giữa các câu thơ.
- Đối: câu 3 đối câu 4 đều thể hiện cái buồn, cái sầu và nói lên sự dở
dang, chưa trọn vẹn hạnh phúc trong tình yêu. Câu 5 đối câu 6 đều thể hiện
thái độ phản kháng mãnh liệt của người phụ nữ.
- Cách ngắt nhịp: 2/2/3/ hoặc 4/3.
- Bố cục: theo bố cục của bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật: đề, thực,
luận, kết.
o Hai câu đề: nỗi niềm buồn tủi, xót xa của nhân vật trữ tình.
o Hai câu thực: hiện thực tâm trạng, nỗi lòng.
o Hai câu luận: nỗi niềm phẫn uất
o Hai câu kết: tâm trạng chán chường, buồn tủi.
Ngoài ra, nghệ thuật còn thể hiện ở cách dùng từ ngữ của Hồ Xuân
Hương. Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm, táo bạo nhưng lại rất tinh tế. Với
tài nghệ sử dụng từ ngữ của mình Hồ Xuân Hương đã tạo cho bài thơ nhiều
giọng điệu với đầy đủ các sắc thái tình cảm: tủi hổ, phiền muộn, bực dọc,
phản kháng và cuối cùng là chua chát, chán chường.
Về kĩ năng: bài dạy đọc hiểu văn bản thơ trữ tình theo thể Đường luật
phải đảm bảo yêu cầu cơ bản là rèn luyện kĩ năng đọc và hiểu được thể loại
thơ thất ngôn bát cú Đường luật.
Như vậy, ta có thể thấy nội dung kiến thức cơ bản của mỗi bài học là
do mục tiêu bài học đặt ra quyết định, đi liền với quá trình dạy học. Trong quá
50
trình giảng dạy tùy theo từng đối tượng, hoàn cảnh, môi trường mà giáo viên
cần sử dụng những phương pháp linh hoạt trong giảng dạy để có được hiệu
quả tốt nhất.
3.3. Tiểu kết chƣơng 3
Thông qua quá trình thực tập và thực nghiệm tại lớp 11A5 trường
THPT Trung Giã - Sóc Sơn, Hà Nội, tôi nhận thấy việc cho học sinh tiếp cận
tác phẩm theo đặc trưng thể loại sẽ tạo điều kiện cho học sinh dễ tiếp thu bài
học, hiểu hơn về đặc trưng thể loại thơ thất ngôn bát cú Đường luật, nội dung
của bài thơ và tài năng sử dụng chữ Nôm trong việc sáng tác thơ văn của Hồ
Xuân Hương.
Qua hoạt động đọc hiểu tác phẩm thơ trữ tình, học sinh chủ động tham gia
tích cực, chủ động trong quá trình tiếp nhận văn bản. Vì vậy, nên kiến thức mà
học sinh thu nhận đuộc là kết quả của sự khám phá, tìm tòi của chính học sinh.
Giúp các em hiểu bài và ghi nhớ bài một cách nhanh nhất. Nhưng làm thế nào để
học sinh có một kĩ năng đọc hiểu tốt thì giáo viên phải là người chủ động, linh
hoạt trong quá trình định hướng cho học sinh, từ khâu hướng dẫn các em tìm
hiểu tác phẩm ở nhà cho đến quá trình học tập trên lớp và cuối cùng là quá trình
vận dụng kiến thức đã học vào thực hành. Để làm được việc đó giáo viên cần bỏ
nhiều công sức trong việc tìm đặt câu hỏi phù hợp với từng đối tượng học sinh,
đưa học sinh vào hoạt động học một cách hứng thú.
Hướng dẫn học sinh tìm đọc hiểu một tác phẩm văn học, điều cần chú ý
ở đây là giáo viên phải đưa ra những hướng tiếp cận tác phẩm ở những góc độ
khác nhau. Để hình thành cho học sinh về kiến thức bài học, từ việc đi tìm
hiểu một văn bản học sinh còn hiểu về thể loại đặc trưng của tác phẩm ấy,
cách nhận biết một thể loại văn học với một số tác phẩm khác nữa. Như vậy
mấy có thể cho học sinh hiểu sâu, hiểu kĩ về tác phẩm văn học, quá trình tiếp
nhận của học sinh được hình thành sau mỗi bài học.
51
Qua Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương, học sinh cần nắm rõ kiến thức về
nội dung cũng như nghệ thuật và đặc biệt phải nắm vững kiến thức về thể thơ
thất ngôn bát cú Đường luật. Từ đó hiểu được một phần về Hồ Xuân Hương,
bà có những đóng góp không nhỏ trong việc hình thành thể thơ mới cho văn
học dân tộc, làm cho vốn ngôn ngữ dân tộc phong phú hơn. Biệt tài sử dụng
chữ Nôm trong những sáng tác của bà, tạo nên một phong cách thơ độc đáo
của riêng. “Bà chúa thơ Nôm” Hồ Xuân Hương vẫn mãi đi sâu vào lòng
người đọc với những tác phẩm để đời.
52
KẾT LUẬN
Hồ Xuân Hương nữ thi tài của văn học Việt Nam. Mặc dù những yếu tố
về cuộc đời cũng như thơ văn của bà đến nay vẫn là những dấu hỏi, nhưng
qua nhiều tài liệu mà chúng tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu đã cho ta biết đôi
nét về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của bà. Được mệnh danh là “bà chúa thơ
Nôm”, Hồ Xuân Hương với những tác phẩm của mình đã có những đóng góp
quan trọng trong nền văn học nước ta.
Mảng thơ Nôm truyền tụng của tác giả chúng tôi đi sâu vào việc phân
tích các chữ Nôm vay mượn trong 48 bài thơ chữ Nôm (có phụ lục đính kèm),
để hiểu được kết cấu, cấu tạo của chữ Nôm thông qua các văn bản.
Đi vào thực tiễn, chúng tôi khảo sát cách tiếp cận thơ Nôm Hồ Xuân
Hương trong nhà trường phổ thông với bài thơ Tự tình (II), để học sinh nắm
được kiến thức cơ bản về tác giả Hồ Xuân Hương, nội dung nghệ thuật và thể
loại chính trong tác phẩm Tự tình (II). Hiểu được ý đồ của người sáng tác
trong tác phẩm.
Như vậy, ta có thể thấy kho tàng văn học Hán Nôm mà người xưa để
lại rất phong phú và đa dạng. Đó được coi là những thành quả, những đứa con
tinh thần của ông cha ta đã để lại cho dân tộc bằng trí tuệ và tài năng của
mình. Những thành quả ấy chúng ta cần khai thác, giữ gìn và bảo vệ. Nhiều
tác phẩm Nôm đã bị mất, hoặc thất lạc do chiến tranh, hay thất truyền từ đời
này qua đời khác, tác phẩm còn lại thì đã cũ, hỏng vì thế chúng ta cần bảo vệ
giữ gìn vì đó không phải trách nhiệm của cá nhân nào mà là của chung tất cả
mọi người.
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đào Duy Anh (1975), Chữ Nôm nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến, Nxb
Khoa học và xã hội.
[2]. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học.
[3]. Nguyễn Thị Hải (2009), khóa luận tốt nghiệp có tên Thời gian và không
gian nghệ thuật trong thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương, Đại học Sư
phạm Hà Nội2.
[4]. Nguyễn Ngọc San (2003), Lý thuyết chữ Nôm văn Nôm, Nxb Đại học Sư phạm.
[5]. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hóa
thông tin.
[6]. Đào Thái Tôn (1996), Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục, Nxb
Giáo dục.
[7]. Hà Thị Kim Thoa (2013), Khóa luận tốt nghiệp có tên Hiệu quả sử dụng
lớp từ, ngữ thuộc phong cách hội thoại trong thơ Nôm Đường luật của Hồ
Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
[8]. Lã Nhâm Thìn (2017), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Nxb
Giáo dục Việt Nam.
[9]. Tuấn Thành - Anh Vũ (2017), Hồ Xuân Hương tác phẩm và lời bình,
Nxb Văn học.
[10]. Bùi Thị Thanh Vân (2009), Luận văn thạc sĩ có tên Thơ Nôm Hồ Xuân
Hương nhìn từ góc độ giới tính, Đại học Sư phạm Hồ Chí Minh.
[11]. Nhóm tri thức Việt (2016), Hồ Xuân Hương thơ và đời, Nxb văn học.
[12]. Viện nghiên cứu ngôn ngữ (2003), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng,
trung tâm từ điển học.
[13]. Hội nhà văn (2008), Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Nxb Hội nhà văn.
[14]. Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 6/1979 Trung tâm Nghiên cứu
Đông Nam Á, Đại học Tokyo, Lã Minh Hằng (sưu tầm và dịch).
[15]. Nguyễn Ngọc San (2003), Tìm hiểu Tiếng Việt lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm.
[16]. Nguyễn Ngọc San (1984), Vấn đề cấu trúc của chữ Nôm, luận văn Tiến sĩ.
[17]. Chữ Nôm Việt Nam, Vài nét về chữ Nôm, nguồn gốc và phát triển,
http://chunom.net/Vai-net-ve-chu-Nom-nguon-goc-va-su-phat-trien-1.html.
[18]. Ngô Gia Võ (2002), Hồ Xuân Hương với dòng thơ Nôm Đường luật trào
phúng, http://luanan.nlv.gov.vn/luanan.
[19]. Trương Xuân Tiếu (2002), Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong thơ Nôm
truyền tụng Hồ Xuân Hương, http://luanan.nlv.gov.vn/luanan2002.
[20]. Tạp chí online thơ Đường đất Việt (22/11/2011), Hồ Xuân Hương- nhà
thơ của phụ nữ. http://thoduongdatviet.com/11851/145/d/nws/ho-xuan-huong-
nha-tho-cua-phu-nu.aspx.
[21]. Xuân Hương di cảo, Xuân Hương quốc âm thi tuyển, Thư viện Quốc gia
Việt Nam.
[22]. Lê Anh Gia Tuấn (2004), Chữ Nôm thực hành, Nxb Đạo học Quốc gia.
[23]. Nguyễn Văn Khang (2006), Từ ngoại lai trong Tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
[24]. GS. TS. Nguyễn Thiện Giáp chủ biên (2004), Lịch sử Việt ngữ học, Nxb
Tri thức.
[25]. Đặng Đức Siêu (2000), Dạy và học Tiếng Việt ở trường phổ thông, Nxb
Giáo dục.
[26]. Đinh Trọng Thanh chủ biên (2007), Ngữ Văn Hán Nôm, Nxb Đại học
quốc gia.
[27]. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2004), Ngữ văn Hán Nôm tập 1, tập 2, Nxb
khoa học Xã hội.
[28]. Lê Chí Viễn chủ biên (1987), Cơ sở Ngữ văn Hán Nôm tập 1,2,3,4, Nxb
Giáo dục.
[29]. Vũ Văn Kính (1996), Đại từ điển Chữ Nôm, Nxb Đà Nẵng.
[30]. Lê Quang Thiêm (2004), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội.
PHỤ LỤC
TÊN BÀI STT
Bánh trôi 1.
Bỡn bà lang khóc chồng 2.
3. Cái quạt (I)
4. Cái quạt (II)
5. Cái nợ chồng con
6. Cái kiếp tu hành
7. Chùa quán sứ
8. Chợ trời chùa Thầy
9. Cảnh thu
10. Cảnh chùa ban đêm
11. Dệt cửi
12. Dỗ người đàn bà khóc chồng
13. Đồng tiền hoẻn
14. Đánh đu
15. Đá ông chồng bà chồng
16. Đài khán xuân
17. Đền Sầm Nghi Đống
18. Đèo Ba Dội
19. Động Hương Tích
20. Giếng thơi
21. Hang Thánh Hóa
22. Hang Cắc Cớ
23. Hỏi Trăng
24. Không chồng mà chửa
25. Khóc tổng cóc
26. Khóc ông phủ Vĩnh Tường
27. Kẽm trống
28. Lũ ngẩn ngơ
29. Làm lẽ
30. Miếng trầu
31. Ốc nhồi
32. Phường lòi tói
33. Quan thị
34. Quả mít
35. Quán khánh
36. Sư bị ong châm
37. Sư hổ mang
38. Tranh tố nữ
39. Trống thủng
40. Tát nước
41. Thiếu ngữ ngủ ngày
42. Tự tình (I)
43. Tự tình (II)
44. Tự tình (III
45. Trăng thu
46. Xướng (I)
47. Xướng (II)
48. Xướng (III)