ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

HÀ THUÝ ANH

TÍNH KHẨU NGỮ TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Phƣơng Thái

Thái Nguyên, năm 2010

1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU....................................................................................................................1

1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................1

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu……..............................................................................3

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................7

5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................8

6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... 8

7. Kết cấu luận văn......................................................................................................9

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN.............................10

1.1. Tác giả Nguyễn Trãi..........................................................................................10

1.1.1. Thời đại Nguyễn Trãi......................................................................................10

1.1.2. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi..................................11

1.1.3. Quốc âm thi tập...............................................................................................15

1.2. Giới thuyết về vấn đề nghiên cứu......................................................................16

1.2.1. Khái niệm về khẩu ngữ...................................................................................16

1.2.2. Đặc điểm của khẩu ngữ...................................................................................18

1.2.3. Vai trò của khẩu ngữ trong tác phẩm văn học. ..............................................21

CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT TÍNH KHẨU NGỮ TRONG THƠ NÔM

NGUYỄN TRÃI…………………………………………………………………………….……… .23

2.1 Về phương diện từ vựng ....................................................................................23

2.1.1. Thực từ ...........................................................................................................24

2.1.1.1. Danh từ.........................................................................................................25

2.1.1.2. Động từ.........................................................................................................26

2.1.1.3. Tính từ..........................................................................................................28

2.1.1.4. Số từ.............................................................................................................31

2.1.1.5. Đại từ............................................................................................................32

2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2.1.2. Hư từ ..............................................................................................................34

2.2. Về phương diện cú pháp....................................................................................37

2.2.1. Kết hợp từ ngữ trong sự đăng đối hài hòa ......................................................38

2.2.2. Sử dụng các kiểu câu cảm thán, câu nghi vấn.................................................40

2.2.3. Sử dụng kết cấu của lối nói khẩu ngữ.............................................................43

2.3. Một số biện pháp tu từ......................................................................................47

2.3.1. Cách so sánh ví von giàu hình ảnh.................................................................47

2.3.2. Sử dụng biện pháp ẩn dụ, hoán dụ .................................................................50

Tiểu kết ............ ......................................................................................................53

CHƢƠNG 3: HIỆU QUẢ NGHỆ THUẬT CỦA TÍNH KHẨU NGỮ TRONG

THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI..................................................................................55

3.1. Giá trị biểu hiện..................................................................................................55

3.1.1. Thể hiện con người cá nhân Nguyễn Trãi ……..............................................56

3.1.2. Sức sống lâu bền của thơ Nôm Nguyễn Trãi..................................................62

3.2. Nguồn gốc sử dụng từ ngữ mang tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi..68

3.2.1. Nhân tố khách quan.........................................................................................68

3.2.1.1. Ảnh hưởng văn học dân gian.......................................................................68

3.2.1.2. Ảnh hưởng của văn thơ Nôm đời Trần .......................................................71

3.2.1.3. Vay mượn thi liệu Hán học..........................................................................73

3.2.2. Nhân tố chủ quan............................................................................................79

3.2.2.1. Tư tưởng nhân dân.......................................................................................79

3.2.2.2. Ý thức xây dựng nền văn hóa Việt...............................................................81

Tiểu kết ...................................................................................................................83

KẾT LUẬN...............................................................................................................84

TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................87

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

PHỤ LỤC..................................................................................................................91

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Lí do khoa học

Nguyễn Trãi không chỉ là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới mà

còn là một nhà văn nhà thơ vĩ đại. Trên nhiều phương diện khác nhau, Nguyễn Trãi

đã được định vị bởi những cống hiến hết sức to lớn cho lịch sử văn hóa nước nhà.

Trong văn học, sự đóng góp ấy thể hiện rõ rệt ở việc đẩy mạnh sự phát triển của thơ

Nôm. Kế thừa những thành tựu của tác phẩm đời Trần, Quốc âm thi tập của Nguyễn

Trãi khẳng định vị trí ngày càng quan trọng của thơ Nôm trong dòng văn học viết.

Quốc âm thi tập được coi là tập thơ quốc âm đầu tiên của dân tộc ta, cổ nhất, chính

xác nhất.

Chúng tôi nhận định vậy không phải phủ nhận trước Nguyễn Trãi chưa có

thơ chữ Nôm. Văn thơ tiếng Việt được nhen nhóm từ đời Lý - Trần (thế kỉ XIII).

Lịch sử và các chứng tích còn ghi lại dưới thời Lý chữ Nôm được dùng để ghi tên

người, tên đất và còn lưu lại ở một số văn bia nhà chùa... Đến thời Trần thơ phú

bằng tiếng Việt bắt đầu xuất hiện. Theo Đại Việt sử kí toàn thư có đoạn ghi: "Năm

1306 gả công chúa Huyền Trân cho vua nước Chiên Thành là Chế Mân. Các văn sĩ

trong triều, ngoài nội nhiều người mượn điển vua nhà Hán đem Chiêu Quân gả cho

hung nô làm bài thơ bằng chữ quốc ngữ chê cười" [23, tr.102] và cũng theo sách

đó thì Nguyễn Thuyên là người đầu tiên dùng chữ Nôm làm thơ cách luật. Ban đầu

việc làm thơ bằng chữ Nôm còn lẻ tẻ sau trở thành một niềm vui thú của các văn

nhân trí thức. Tiếp sau Nguyễn Thuyên là Nguyễn Sĩ Cố, Chu An... Theo Lê Quý

Đôn trong Đại Việt thông sử thì Nguyễn Thuyên có Phi sa tập, trong tập có nhiều

quốc âm; Chu An có Quốc âm ngữ thi văn. Nhưng đến ngày nay, chúng ta không

còn chút gì về những áng thơ Nôm mở đầu ấy. Chính vì vậy, Quốc âm thi tập được

xem là "tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển" (6,tr.587).

Nếu như thơ văn chữ Hán nặng về chính trị, khi đọc ta như bay lên với khí

thế hoành tráng, kì vĩ và ngọn lửa bùng cháy như tấm lòng yêu nước và quyết tâm

4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

diệt kẻ thù của Nguyễn Trãi .... thì thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi lại nhẹ nhàng, bộc

lộ tâm tình của nhà thơ với cảm xúc đa dạng gắn bó với nhiều cảnh ngộ khác nhau

trong cuộc đời. Mỗi bài thơ bộc lộ một mảnh tâm tình. Như vậy nhìn từ nhiều

phương diện, Quốc âm thi tập là một di sản văn hóa quý báu, có nhiều đóng góp lớn

lao cho văn học nước nhà trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

Ngay từ khi xuất hiện bản phiên âm và chú giải tác phẩm Quốc âm thi tập

của GS. Đào Duy Anh đã thu hút rất nhiều người nghiên cứu với những công trình

khoa học chi tiết đền từng đề tài, từng bài thơ, thậm chí đến từng câu chữ trong thơ.

Qua các công trình nghiên cứu, công lao và đóng góp của tác giả Quốc âm thi tập

đối với nền thơ ca tiếng Việt ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên có thể nhận

thấy các ý kiến đánh giá chủ yếu xoay quanh phương diện nội dung tư tưởng của tác

phẩm. Về nghệ thuật mặc dù có một số công trình đề cập đến nhưng để chỉ ra được

những đặc sắc, cống hiến cụ thể thì chưa có.

Với 254 bài thơ Nôm được tập hợp trong Quốc âm thi tập đã thể hiện

Nguyễn Trãi là người rất coi trọng việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Ta có thể nhận

thấy dấu ấn Hán học hiện ra trong tập thơ nhưng chính điều này đã cho thấy sự

thành công và cống hiến lớn lao của Nguyễn Trãi trong việc tiếp thu và Việt hóa

ngôn ngữ Hán để tạo nên thể thơ Đường luật dân tộc viết bằng ngôn ngữ văn học

dân tộc dựa trên ngôn ngữ nhân dân và ngôn ngữ văn học dân gian. Ngôn ngữ văn

học dân gian vốn được xây dựng trên cơ sở gọt giũa và cách điệu hóa ngôn ngữ

hàng ngày của nhân dân. Điều này có thể thấy rõ trong Quốc âm thi tập Nguyễn

Trãi đã đưa những khẩu ngữ hằng ngày của nhân dân và tận dụng những ưu điểm

của nó để tả cảnh, tả người, tả tình, tả vật. Và việc đưa khẩu ngữ vào trong thơ một

cách tài tình, Nguyễn Trãi đã tạo ra được những hình tượng thơ nhịp nhàng, uyển

chuyển và đầy màu sắc dân tộc.

Tìm hiểu "Tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi", chúng tôi hi vọng sẽ

góp thêm những cứ liệu để làm rõ công lao của Nguyễn Du với nền văn học viết

bằng ngôn ngữ dân tộc,ngôn ngữ bình dân và thấy được ý thức sâu sắc của ông

trong việc đưa lời ăn tiếng nói dân gian vào trong sáng tác thơ ca. Với Quốc âm thi

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tập Nguyễn Trãi được coi là một trong "những người đầu tiên xây dựng lâu đài thi

ca Việt Nam" [40, tr.965] và giá trị lao động nghệ thuật của ông đã "dần nâng cao

giá trị văn học của tiếng Việt lên, làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú, càng có

vị trí xứng đáng trên văn đàn, ngang với tiếng nói của nhiều nước tiên tiến trên thế

giới" [26,tr.814].

1.2. Lí do thực tiễn

Từ lâu Nguyễn Trãi cùng với các di sản tư tưởng, văn hóa đã được thu thập

phân tích đáng giá khá đầy đủ - thu hút được sự quan tâm đông đảo của giới nghiên

cứu trong và ngoài nước. Có thể khẳng định, Nguyễn Trãi có ảnh hưởng và địa vị

rất sâu sắc trong đời sống văn hóa của dân tộc. Vì vậy tác giả Nguyễn Trãi cùng với

các kiệt tác, trong đó có thơ Nôm được giới thiệu rộng rãi, được đưa vào chương

trình giảng dạy trong các nhà trường phổ thông, đại học ngày càng nhiều. Và đây

cũng là nguồn đề tài phong phú cho hàng loạt các công trình nghiên cứu khoa học

có giá trị.

Hiện nay trong chương trình dạy và học ở bậc Phổ thông trung học, tác phẩm

của Nguyễn Trãi chiếm một số lượng tương đối ở lớp 10 với những tác phẩm như:

Bình Ngô đại cáo, Dục Thúy sơn, Cây chuối, Bảo kính cảnh giới. Và với sự đổi mới

phương pháp giảng dạy - tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc độ thể loại và bám sát

vào ngôn từ được thể hiện trên văn bản thì với đề tài trên ít nhiều sẽ có ích cho

người học, người giảng dạy và người nghiên cứu thơ Nôm Nguyễn Trãi.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Xem xét tập thơ Quốc âm thi tập ở giá trị tự thân cũng như vai trò, vị trí của

nó trong hoàn cảnh nền văn học truyền thống thì tác phẩm gợi mở nhiều hướng tiếp

cận, nhiều vấn đề đáng chú ý kể cả về phương diện nội dung cũng như phương diện

nghệ thuật. Đặc biệt khi nghiên cứu văn học thì đối tượng nghiên cứu trước hết

chính là ngôn ngữ bởi vì ngôn ngữ là chất liệu, là nơi chứa thông tin, thể hiện ý định

của tác giả khi sáng tạo ra tác phẩm. Vì thế, tìm hiểu ngôn ngữ trong thơ Nôm

Nguyễn Trãi là một trong những điểm thu hút rất nhiều các nhà nghiên cứu. Sự

quan tâm chú ý của các nhà nghiên cứu đối với Quốc âm thi tập bắt đầu từ khi bản

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phiên âm, chú giả của học giả Đào Duy Anh công bố năm 1956. Tuy nhiên sau khi

cuốn phiên âm, chú giải tái bản lần 2 (1976) thì phương diện ngôn ngữ mới được đề

cập một cách rộng rãi. Có thể điểm qua các tác giả với những công trình nghiên cứu

như: Thanh Lãng với Quốc âm thi tập [tr.22], Nguyễn Thiên Thụ với Ảnh hưởng và

địa vị của Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam [tr.42], Hoàng Văn Hành - Vương

Lộc với Mấy đặc điểm vốn từ tiếng Việt văn học thế kỉ XV qua "Quốc âm thi tập"

của Nguyễn Trãi [tr.10], Vương Lộc với Một vài hư từ trong Quốc âm thi tập

[tr.28], Xuân Diệu với Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu cho nền thơ ca cổ điển

Việt Nam [tr.6], Hoàng Tuệ với Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt

[tr.46], Phạm Thị Phương Thái với Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập của

Nguyễn Trãi...

Tác giả Thanh Lãng ngay từ năm 1967 đã cho rằng, Nguyễn Trãi là ông tổ

của nền văn học cổ điển, là ông tổ của nghệ thuật dân tộc. Đồng thời xét từ khía

cạnh Nguyễn Trãi sử dụng chất liệu làm nên tác phẩm là ngôn ngữ từ dân gian -

"những kiểu nói của nhân dân (tục ngữ hay ca dao) tác động được tới nhân dân,

bằng việc đem tư tưởng tiếng nói của mình vào tiếng nói của nhân dân" [22, tr.805],

tác giả nhấn mạnh đến vai trò "khai sinh ra một nghệ thuật dùng ngôn ngữ dân gian

của Nguyễn Trãi" [22, tr.805]. Tuy Thanh Lãng là người nêu ra vấn đề nhưng ông

chưa đi sâu tìm hiểu lí giải về hiện tượng đó.

Đồng quan điểm với Thanh Lãng, Nguyễn Thiên Thụ ngay đầu bài viết của

mình cũng đưa ra lời nhận xét và đánh giá Nguyễn Trãi là một trong " những người

đầu tiên xây dựng lâu đài thi ca Việt Nam" [43, tr.956]. Lâu đài thi ca ấy được xây

dựng nên từ "kho tàng văn chương bình dân cùng hòa hợp với tinh hoa của văn

chương Trung Hoa" [43, tr.967]. Như vậy, tác giả đã khẳng định: Quốc âm thi tập

là tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, trên cơ sở một số thi liệu từ văn hóa Trung

Hoa, Nguyễn Trãi đã Việt hóa chúng. Đặc biệt Nguyễn Trãi đã sử dụng kho tài

nguyên phong phú của nền văn chương Việt Nam là ca dao, tục ngữ của dân gian.

Đi sâu vào tìm hiểu yếu tố tục ngữ ca dao trong Quốc âm thi tập, Bùi Văn

Nguyên cho rằng, "Tiếng nói của tổ tiên ta được truyền lại gần như nguyên vẹn

7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong tục ngữ, ca dao qua bao thế hệ" [26,tr.807]. Và trong tập thơ Quốc âm của

chính mình, Nguyễn Trãi dựa trên những tri thức về tục ngữ, ca dao đã thể hiện thái

độ, tâm tình của mình một cách rõ nhất. Từ đó có thể thấy được ý thức" trân trọng

tiếng nói tổ tiên" của Nguyễn Trãi. Đồng thời từ trong lao động nghệ thuật của nhà

thơ đã "dần dần nâng cao giá trị văn học của tiếng Việt, làm cho tiếng Việt ngày

càng phong phú, càng có vị trí xứng đáng trên văn đàn, ngang vói tiếng nói của

nhiều nước tiên tiến trên thế giới" [26, tr.815].

Khác với các tác giả trên, hai tác giả Hoàng Văn Hành - Vương Lộc lại tiếp

cận với Quốc âm thi tập từ khía cạnh khác. Các tác giả đi sâu tìm hiểu một số đặc

điểm của vốn từ tiếng Việt văn học thế kỉ XV qua Quốc âm thi tập. Với việc khảo

sát một số cặp từ đối lập về cách sử dụng, về mặt cấu tạo từ, nguồn gốc của các từ

đơn tiết, song tiết và một vài hiện tượng sử dụng hư từ, từ láy trong Quốc âm thi

tập, các tác giả đã đưa ra kết luận, "Tiếng Việt thời Nguyễn Trãi đã phát triển đến

mọt trình độ tương đối cao. Điều đó biểu hiện rõ ở sự hình thành các lớp từ đối lập

nhau trong cách sử dụng và ở hệ thống các phương thức cấu tạo" [10,tr.22].

Tác giả Đinh Gia Khánh khi trình bày quan điểm của mình về thi liệu trong

thơ Nôm Nguyễn Trãi đã cho rằng, "Thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi không

phải ở chỗ đồng hóa kho từ vựng và văn liệu Hán học mà là ở chỗ xây dựng ngôn

ngữ văn học dân gian trên cơ sở ngôn ngữ nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân

gian" [14, tr.275]. Đồng thời tác giả cũng lí giải ngôn ngữ trong văn học dân gian

vốn đã xây dựng trên cơ sở của sự gọt giũa và cách điệu hóa ngôn ngữ hàng ngày

của nhân dân. Với việc Nguyễn Trãi "đưa khẩu ngữ hàng ngày vào thơ ca và tận

dụng khả năng của khẩu ngữ ấy để tả cảnh, tả lòng, tả người, tả vật" [14,tr.258] đã

làm cho "hình tượng thơ nhịp nhàng, uyển chuyển và đầy màu sắc dân tộc".

Trong luận án tiến sĩ "Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập của

Nguyễn Trãi", tác giả Phạm Thị Phương Thái khi đưa ra những nhận định của mình

về việc xây dựng ngôn ngữ tiếng Việt văn hóa từ ngôn ngữ thông tục của Nguyễn

Trãi đã viết, "Là một nhà văn hóa, tư tưởng có tầm nhìn chiến lược, Nguyễn Trãi ý

thức sự cần thiết xây dựng ngôn ngữ văn hóa" và "hạt nhân cơ bản của ngôn ngữ

8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thơ Nôm Nguyễn Trãi là tiếng Việt"[41,tr.101]. Tác giả đã lí giải nguyên nhân dẫn

đến ý thức đó chính là do đòi hỏi của xã hội cũng như ảnh hưởng và tiềm năng diễn

đạt của ngôn ngữ bình dân nên đã thôi thúc Nguyễn Trãi đưa khẩu ngữ vào trong

tác phẩm của mình. Như vậy việc vận dụng lời ăn tiếng nói, lối diễn đạt trong đời

sống hàng ngày vào thơ Nôm đã cho thấy Nguyễn Trãi là người có ý thức đưa khẩu

ngữ vào trong văn học viết. Đồng thời nhà thơ đã đưa tiếng Việt giao tiếp thành

tiếng Việt văn hóa. Qua đó tác giả Phạm Thị Phương Thái khẳng định, "Với Quốc

âm thi tập, Nguyễn Trãi đã có công rất lớn trong việc xây dựng ngôn ngữ văn học,

ngôn ngữ văn hóa từ ngôn ngữ giao tiếp thông thường" [41,tr.104].

Tác giả Xuân Diệu trong bài viết "Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ

cổ điển Việt Nam" đã đánh giá cao những đóng góp về mặt ngôn từ của tập thơ và

dành một phần nghiên cứu về "hành văn" trong thơ Nguyễn Trãi. Tác giả khẳng

định, về mặt ngôn ngữ, Quốc âm thi tập " là một kho chất liệu cho ta nghiên cứu lời

nói câu viết của tổ tiên làm ngót sáu trăm năm trước" [14,tr.618]. Theo ông,

Nguyễn Trãi lấy hình tượng và ý tứ trong những câu tục ngữ ngày xưa hoặc dựa vào

lối sáng tạo của tục ngữ để tạo ra những câu thơ vào loại thành công nhất, vào loại

"có nhiều nội tâm nhất" [14, tr. 595].

Khác với các tác giả trên, GS. Hoàng Tuệ khi nghiên cứu về Nguyễn Trãi

trực tiếp tập trung bàn về "Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt". Theo tác

giả cống hiến trước hết của Nguyễn Trãi được thể hiện ở "Bản lĩnh ngôn ngữ trong

cuộc đấu tranh của Nguyễn Trãi để bảo vệ nền văn hiến lâu đời của dân tộc"

[46,tr.818]. Bản lĩnh ấy được thể hiện ở "thái độ quý trọng và đề cao chất liệu của

tiếng "Nôm", tức tiếng Việt, văn học dân gian truyền miệng". Cống hiến của

Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt ở nhiều phương diện, trước hết đó là: "Bộ phận từ

vựng Việt (...) ngữ pháp cũng là Việt, đáng chú ý là các hư từ, ngữ điệu" [46,tr. 819]

và đặc biệt tục ngữ rất được "quý chuộng" và "đề cao" trong Quốc âm thi tập. Bên

cạnh đó, Nguyễn Trãi còn làm giàu ngôn ngữ tiếng Việt bằng cách "dùng chất liệu

hình thức Việt để tiếp nhận chất liệu nội dung Hán" [46,tr.821]. Để khẳng định

công lao, vị trí của Nguyễn Trãi trong nền thơ ca viết bằng tiếng Việt và để kết thúc

9

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bài viết GS. Hoàng Tuệ nhấn mạnh: "Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt,

đó là cống hiến thực lớn lao. Nếu như về tiếng Việt, đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Du đã

tạo nên được niềm tự hào, thì ở thế kỉ XV, điều mà Nguyễn Trãi đã xây dựng nên

được, là niềm tin" [46, tr.826].

Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ

trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi đã được nhìn nhận trên khá nhiều phương diện,

trong đó có các đánh giá về việc sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân

hay khẩu ngữ. Tuy nhiên, những công trình này chỉ dừng lại ở mức độ đưa ra các

nhận xét khái quát về đặc sắc trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Trãi mà

chưa đi sâu tìm hiểu, khảo sát các biểu hiện cụ thể của khẩu ngữ - một phương diện

trong ngôn ngữ nghệ thuật Nguyễn Trãi. Chính vì lí do trên, chúng tôi chọn lựa đề

tài "Tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi" với hy vọng sẽ tổng kết, phân loại

hợp lí các biểu hiện của khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và chỉ ra được ý

nghĩa biểu đạt cũng như những giá trị thẩm mĩ tiêu biểu của "hệ lời" đặc biệt này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở khảo sát, thống kê, so sánh, phân tích lí giải các đặc điểm của tính

khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, đề tài sẽ đưa ra những nhận định, đánh giá

khoa học về mức độ ảnh hưởng và cách thức sử dụng những thi liệu của khẩu ngữ

trong Quốc âm thi tập. Kết quả của nó sẽ đóng góp phần nào vào việc đánh giá toàn

diện và sâu sắc hơn về Quốc âm thi tập, về tác giả Nguyễn Trãi từ góc độ ngôn ngữ

trong nền văn học viết bằng tiếng Việt.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Tìm hiểu tính khẩu ngữ ở nhiều góc độ thể hiện (từ vựng, cú pháp, biện pháp

tu từ) được thể hiện trong thơ Nôm đó là đóng góp lớn lao của Nguyễn Trãi trong

nền thơ ca viết bằng ngôn ngữ dân tộc.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tƣợng nghiên cứu

Như tên gọi của đề tài, luận văn sẽ tập trung tìm hiểu những biểu hiện đặc

10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trưng của tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.

Để đảm bảo tính khách quan, khoa học trong việc đánh giá những đóng góp

của Quốc âm thi tập trong tiến trình thơ Nôm về phương diện ngôn ngữ (tính khẩu

ngữ), chúng tôi sẽ đặt tập thơ này trong sự đối sánh với một số tác phẩm thơ trước

và sau Nguyễn Trãi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận văn tập trung nghiên cứu những đặc điểm biểu hiện của tính khẩu ngữ

trong 254 bài thơ Nôm.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ vận dụng tổng hợp một số phương

pháp chính sau:

- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại được sử dụng để có được những

cứ liệu cần thiết trong quá trình nghiên cứu. Qua đó cung cấp dữ liệu, số liệu chính

xác, tạo cơ sở tin cậy cho những kết luận của luân văn.

- Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng để phân tích các cứ liệu có

được khi thống kê, phân loại. Trên cơ sở phân tích, chúng tôi tổng hợp, khái quát về

hiệu quả của việc đưa khẩu ngữ vào trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Nhờ vậy các

nhận xét về Quốc âm thi tập sẽ được sáng tỏ hơn.

- Phương pháp so sánh đối chiếu được sử dụng để đưa các hiện tượng cần xét

vào trong tiến trình phát triển thơ ca của dân tộc. Từ đó rút ra được những nhận xét

về các đặc trưng của khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.

6. Đóng góp của luận văn

Thực hiện luận văn này, chúng tôi hi vọng sẽ:

1. Chỉ ra được những đặc sắc trong cách sử dụng các từ ngữ, cú pháp, biện

pháp tu từ mang tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.

2. Thông qua những con số thống kê và phân tích cụ thể về từ ngữ, cú pháp,

biện pháp tu từ mang tính khẩu ngữ trong Quốc âm thi tập sẽ có thêm những cứ liệu

khoa học, khách quan để khẳng định sự đóng góp của Nguyễn Trãi về mặt ngôn ngữ

11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong nền thơ ca cổ điển trung đại.

7. Kết cấu luận văn

Ngoài phần Mở đầu (7trang), Kết luận (3 trang), Thư mục tham khảo (4

trang), Phụ lục (50 trang), Phần nội dung chính của luận văn (71 trang) gồm 3

chương:

Chương 1: Những vấn đề chung có liên quan (từ trang 10 -> trang 23)

Chương 2: Khảo sát tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi (từ trang 24 ->

trang 54)

Chương 3: Giá trị và vai trò của tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.(từ

12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trang 55 -> trang 92)

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN

1.1. Tác giả Nguyễn Trãi

1.1.1. Thời đại Nguyễn Trãi

Trong tiến trình lịch sử xã hội, mỗi thời đại đều tạo ra những con người vĩ

đại. Vào cuối thế kỉ XIV, đất nước ta ở vào tình trạng rối ren và phức tạp. Đây là

giai đoạn lịch sử với nhiều biến cố thăng trầm.Từ cuối đời nhà Trần sang nhà Hồ,

thời kì đấu tranh quyết liệt chống giặc Minh xâm lược cho đến hết hai đời vua đầu

tiên nhà Lê... Chính trong hoàn cảnh ấy, lịch sử đã phôi thai và kết tinh vẻ đẹp của

thời đại trong con người toàn tài Nguyễn Trãi - nhà văn hóa xuất sắc của Việt Nam

với các tư cách anh hùng dân tộc - nhà văn - nhà tư tưởng - nhà chính trị - quan

chức, nhà ngoại giao - nhà sử học và địa lý học.

Thời kì cuối thế kỉ XIV, các ông vua vãn Trần đắm chìm trong cuộc sống xa

hoa, không lo triều chính chỉ lo hưởng thụ vì thế đã trở thành những ông vua nhu

nhược, hèn yếu. Lợi dụng tình hình đó, Hồ Quý Li đã thao túng quyền lực của nhà

Trần. Đến năm 1400, Hồ Quý Li chính thức cướp ngôi nhà Trần, lập lên nhà

Hồ.Sau khi lên làm vua, Hồ Quý Li tiến hành cải cách nhiều mặt của đời sống xã

hội nhằm đưa nhà nước phong kiến thể kỉ XIV ra khỏi cơn khủng hoảng như: hạn

chế ruộng đất của quý tộc, đánh thuế theo tài sản, phát hành tiền giấy, di dân đi khai

hoang... Tuy nhiên những biện pháp cải cách táo bạo không làm khởi sắc được bộ

mặt héo úa tàn lụi của xã hội vãn Trần để lại. Bởi những cải cách ấy về thực chất

vẫn duy trì những đặc quyền của quý tộc quan liêu mà không mang lại lợi ích thiết

thực cho nhân dân cho nên nó không thể bắt rễ được vào trong quần chúng. Vì thế

cơ đồ nhà Hồ sụp đổ nhanh chóng sau sáu năm vào tay quân Minh là tất yếu.

Sau khi cướp được nước ta, giặc Minh ra sức đàn áp và khủng bố nhân dân ta

về mọi mặt. Nhân dân ta rơi vào cảnh khốn cùng, bao cảnh tang tóc, điêu linh thật

oán thán... Biết bao cuộc đấu tranh của nông dân nổ ra chống giặc nhưng tất cả đều

13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

bị nhấn chìm trong bể máu.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi dấy lên như ngọn gió thổi bùng lên ý

chí diệt giặc của nhân dân ta. Toàn dân tộc tiến hành cuộc khởi nghĩa kì diệu nhất,

lâu dài nhất, gian khổ nhất và chiến thắng vẻ vang nhất trong lịch sử. Đất nước sạch

bóng quân thù, giấc mộng xây dựng một đất nước "trong thôn cùng xóm vắng không

có tiếng hờn giận oán sầu" có cơ hội thực hiện.

Sau khi giải phóng đất nước, triều đại mới đã ra sức khôi phục nền kinh tế -

văn hóa bị phá hoại nghiêm trọng. Tuy nhiên, xã hội nước ta với những mặt thối nát

đã là nguồn gốc nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột trong tầng lớp các quan lại,

quý tộc. Nguyễn Trãi đã nhận ra sự thay đổi thời cuộc và con người. Chính ông

nhận ra sự bất lực của mình trong trách nhiệm mới ấy và nhận thấy những công thần

thủa nào từng là bạn chiến đấu vào sinh ra tử, giờ đây trở thành bọn quan lại sâu

mọt, tham ô, kết bè đảng tranh giành quyền vị, làm hại lẫn nhau. Và cũng chính ông

chứng kiến Lê Lợi từ vị chủ tướng tài ba thành ông vua đa nghi, độc tài, đa sát. Nhà

vua nghi ngờ tấm lòng trung nghĩa của ông, nghi ngờ sự tận tụy của ông và đỉnh cao

là phải nhận thảm án oan khiên nhất trong lịch sử dân tộc - chu di tam tộc.

1.1.2. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi.

1.1.2.1. Cuộc đời.

Nguyễn Trãi (1380 - 1442) - nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng kiệt xuất

của Việt Nam, hiệu là Ức Trai; Người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng

Giang (nay là huyện Chí Linh - Hải Dương).

Khi Nguyễn Trãi lên 6 tuổi thì mẹ mất, ông phải sống với ông ngoại ở Côn

Sơn (Chí Linh - Hải Dương). Nhưng đến 1390 khi ông 10 tuổi thì ông ngoại cũng

mất. Nguyễn Trãi về sống với cha ở Nhị Khê (Thường Tín - Hà Nội). Tại đây ông

được cha dạy dỗ rèn cặp. Năm 1400, Hồ Quý Li mở khoa thi đầu tiên, Nguyễn Trãi

thi đỗ Thái học sinh. Ông được Hồ Quý Li cử giữ chức Ngự sử đài chánh trưởng.

Vì sớm nhận ra ở Nguyễn Trãi một nhân cách đặc biệt, dám nói, dám làm, một tài

năng xuất chúng trong sự nghiệp cải cách đất nước nên Hồ Quý Li đã tin tưởng ở

Nguyễn Trãi rất nhiều. Nhưng tiếc rằng, Nguyễn Trãi chưa có dịp bộc lộ tài năng thì

14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giặc Minh xâm lược nước ta. Năm 1407, nhà Hồ bị giặc Minh đánh bại. Cha con Hồ

Quý Li và nhiều bề tôi của nhà Hồ trong đó có phụ thân của Nguyễn Trãi bị bắt về

Trung Quốc. Nghe tin, ông vội vàng cùng em trai đi theo chăm sóc cha. Sau khi

nghe lời khuyên của cha, Nguyễn Trãi trở về "tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù

cho cha thì mới là đạo hiếu".

Khi trở về ông bị tướng giặc bắt và giam lỏng ở thành Đông Quan. Mặc dù

quân giặc dùng nhiều mưu mua chuộc nhưng ông nhất quyết không ra làm quan cho

giặc. Thời gian ở thành Đông Quan (từ 1406 - 1414) là khoảng thời gian Nguyễn

Trãi tìm tòi, nghiên cứu, suy nghĩa sách lược đánh quân Minh. Sau khi trốn khỏi

thành Đông Quan, Nguyễn Trãi tìm đến với Lê Lợi - vị chủ soái phong trào Tây

Sơn và dâng Bình Ngô sách. Được tin dùng Nguyễn Trãi trở thành một trợ thủ đắc

lực, tin cậy luôn sát cánh cùng Lê Lợi.

Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh với cương vị Tuyên Phụng đại

phu Hàn lâm thừa chỉ, ông đã cùng Lê Lợi xây dựng một đường lối quân sự, chính

trị táo bạo và đúng đắn, giúp quân ta dành hết thắng lợi từ trận này sang trận khác.

Có thể nói trong 10 năm kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi cùng với nghĩa

quân đã trải qua muôn vàn khó khăn gian khổ, thiếu thốn những đây cũng là giai

đoạn rực rỡ, huy hoàng nhất trong cuộc đời ông. Tài năng của ông được đánh giá

đúng, khí phách ngang tàng của ông có chốn để vẫy vùng thỏa chí.

Sau cuộc kháng chiến thắng lợi đầy oanh liệt, triều đình non trẻ nhà Lê vừa

được thành lập đã nhanh chóng rơi vào khủng hoảng, mâu thuẫn trong nội bộ tầng

lớp thống trị phát sinh. Do tầm nhìn hạn hẹp, do quá lo lắng cho quyền lợi của

hoàng gia, Lê Lợi đã ngăn cản Nguyễn Trãi phát huy hết tài năng ý nguyện của

mình. Cho nên chức vụ của Nguyễn Trãi tuy cao nhưng không đủ quan trọng để thi

thố tài năng.

Năm 1429 do nghi kị, Lê Lợi đã sai bắt Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo

- hai nhân vật vào hàng khai quốc công thần. Năm sau, Nguyễn Trãi cũng bị tống

giam nhưng sau đó được tha. Tuy nhiên cho đến tận khi Lê Lợi mất (1432), Nguyễn

15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trãi vẫn không được giao một trọng trách đáng kể nào. Sau khi Lê Lợi mất, Lê Thái

Tông lên ngôi, Nguyễn Trãi vẫn được làm quan nhưng đó chỉ là chức quan "hữu

danh vô thực" mà thôi.

Năm 1439, Nguyễn Trãi cáo quan về Côn Sơn. Nguyễn Trãi về Côn Sơn mà

trong lòng mang nhiều tâm trạng u uất. Năm 1440, khi Lê Thái Tông hiểu Nguyễn

Trãi là người có tài có đức bèn triệu ông ra làm quan, phong cho ông chức Kim tử

vinh lộc đại phu, Hàn lâm thừa chỉ coi việc Tam quán và kiêm chức Hành khiển

Đông Bắc đạo, phụ trách dân bạ tịch Hải Dương, An Quảng. Nguyễn Trãi tin rằng

đây là lúc quyền thần bị diệt thì chắc rằng có thể thi thố tài năng - có những ngày

tháng hả hê nhất. Thế nhưng cuộc đời Nguyễn Trãi đâu được thỏa ý mà lại rẽ sang

ngả đường đầy oan nghiệt bởi vụ án oan tại Trại Vải (làng Đại La, Gia Bình, Bắc

Ninh ngày nay). Nguyễn Trãi bị vu oan, kết tội thí nghịch và tru di tam tộc.

Hai mươi năm sau ngày Nguyễn Trãi qua đời (1464), vua Lê Thánh Tông

xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù Bá, bổ dụng

Nguyễn Anh Vũ làm tri huyện và cấp 100 mẫu ruộng dùng vào việc thờ cúng.

Năm 1962, Đảng và Chính phủ ta đã tổ chức lễ kỉ niệm 520 năm ngày

Nguyễn Trãi mất. Sau đó, năm 1980 lại tổ chức lễ kỉ niệm 600 năm Nguyễn Trãi

sinh và tổ chức văn hóa - khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi

nhận ông là: Danh nhân văn hóa thế giới và được kỉ niệm rộng rãi trên toàn thế giới.

Ở cả hai lần, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ca ngợi Nguyễn Trãi hết lời, coi

Nguyễn Trãi "là anh hùng cứu nước, đồng thời là nhà văn lớn, nhà thơ lớn nước

ta", coi "Nguyễn Trãi là một tiêu biểu rất đẹp của thiên tài Việt Nam".

1.1.2.2. Sự nghiệp sáng tác

Sau thảm họa tru di tam tộc, tác phẩm của Nguyễn Trãi bị thất lạc hoặc bị

hủy nhiều. Tuy nhiên với một khối lượng lớn sáng tác còn lại thì có thể khẳng định,

Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, trong sáng tác chữ Hán và

chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Tác phẩm của ông còn lại, về phần

Hán văn có những quyển như, Quân trung tư mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai

16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí, Văn kia

Vĩnh Lăng, Văn loại. Sáng tác chữ Nôm có Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ viết

theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn (sáu chữ).

Trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận lỗi lạc

nhất. Ông đã để lại một khối lượng khá lớn văn chính luận, Quân trung từ mệnh

tập, Bình Ngô đại cáo, chiếu biểu dưới thời Lê... Nguyễn Trãi là người đầu tiên đã

có ý thức dùng văn chính luận như một vũ khí chiến đấu có hiệu quả nhất cho cuộc

đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì quyền lợi nhân dân, vì lý tưởng nhân nghĩa. Văn

chính luận Nguyễn Trãi có giá trị mẫu mực, cổ điển và là cột mốc đánh dấu sự phát

triển của văn chính luận dân tộc.

Ngoài ra về văn chính luận của Nguyễn Trãi phải kể đến những tác phẩm,

Chí Linh sơn phú, Băng hồ di sự lục, Truyện Nguyễn Phi Khanh, Văn bia Vĩnh

Lăng, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí....

Trên lĩnh vực thơ ca, cống hiến của Nguyễn Trãi vào lịch sử văn học cũng

lớn lao không kém văn xuôi; có khi qua thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm chúng ta mới

thật sự hiểu hết ông - một tâm hồn phong phú và tế nhị, phóng khoáng và sáng tạo.

Về sáng tác thơ chữ Hán, người ta luôn nhắc tới Ức Trai thi tập. Tác phẩm

gồm 105 bài thơ ngũ ngôn và thất ngôn và do Trần Khắc Kiệm sưu tập, đề tựa năm

1480. Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi giàu tính chất trữ tình tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh

di tích lịch sử, tả tâm tình,... và đặc biệt người đọc dường như hiểu nhiều điều về

thân thế, cảnh ngộ và niềm tâm sự sâu lắng trong hồn thơ Nguyễn Trãi. Có thể nói,

trong văn học Việt Nam, thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một tác phẩm đặc sắc và

cũng là tập thơ hay bậc nhất của dòng thơ chữ Hán Việt Nam.

Tuy nhiên những đóng góp lớn lao của Nguyễn Trãi với nền văn học dân tộc

là tập thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc – Quốc âm thi tập. Đó cũng là lí do quan

trọng xuất hiện tập thơ Nôm đầu tiên của nước ta - Quốc âm thi tập. Tác phẩm gồm

254 bài thơ Nôm bộc lộ tâm sự, tình cảm, khí tiết của cá nhân con người Nguyễn

Trãi đối với giang sơn đất nước, cỏ cây, cầm thú. Và với Quốc âm thi tập, Nguyễn

Trãi được xem là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên với số lượng nhiều nhất trong

17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nền thơ cổ điển dân tộc.

Xuất hiện ở nửa đầu thế kỉ XV, thiên tài văn học Nguyễn Trãi đã trở thành

một hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học Lí - Trần, đồng thời mở

đường cho cả một giai đoạn văn học mới. Về nội dung, văn chương Nguyễn Trãi

kết hợp hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo. Về

nghệ thuật, văn chương Nguyễn Trãi đóng góp lớn ở cả hai bình diện thể loại và

ngôn ngữ. Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất, nhà thơ trữ tình sâu sắc.

Ông đem đến cho văn học dân tộc thơ Đường luật viết bằng chữ Nôm, góp phần

làm cho ngôn ngữ văn học của người Việt thêm giàu và đẹp.

1.1.3. Quốc âm thi tập

Quốc âm thi tập được viết vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời

nhiều thăng trầm của Nguyễn Trãi. Tuy nhiên phần lớn thơ Nôm Nguyễn Trãi được

sáng tác vào những năm cuối đời. Tập thơ gồm 254 bài, không còn cái hào hùng

tráng lệ như Bình Ngô đại cáo,không phải là những vần thơ chất nặng suy tư của

con người đang tìm đường, người cô đơn, thất vọng đối với vương triều mới như

trong Ức Trai thi tập mà ở đó chất chứa bao tâm sự u uất, ngậm ngùi của một tấm

lòng suốt đời vì dân vì nước.

Về nội dung : Quốc âm thi tập là tập thơ bộc lộ những tâm sự, tình cảm, khí

tiết của cá nhân con người Nguyễn Trãi. Tập thơ Quốc âm thi tập thể hiện tình yêu

thiên nhiên thiết tha, ca ngợi cảnh đời an lạc thái bình, tự băn khoăn đến nền đạo

đức luân lí ...và đặc biệt chứa đựng những tâm sự sâu kín của con người cá nhân

Nguyễn Trãi. Chẳng hạn Nguyễn Trãi không chỉ sống với khát vọng, đòi hỏi của

riêng mình mà còn đòi hỏi cho người khác. Ông ao ước có một xã hội mà :

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương. ( Bài 170)

Về nghệ thuật : Quốc âm thi tập là tài liệu văn học cổ nhất hiện nay còn lưu

giữ được của nền văn học quốc âm. Tác phẩm là kho chất liệu về những lời nói của

ông cha ta thời trung đại và Nguyễn Trãi được mệnh danh là ông tổ của nền văn học

cổ điển, ông tổ của nền nghệ thuật dân tộc. Thành tựu lớn nhất tập thơ Quốc âm là

18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc trên cơ sở ngôn ngữ của nhân dân, ngôn ngữ

văn học dân gian và sự vay mượn sáng tạo thi liệu Hán học. Có thể nói với 254 bài thơ,

Nguyễn Trãi được xem là nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ Nôm, đồng thời cũng là người

sáng tác thơ Nôm đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc.

Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã đem đến một cách nghĩ Việt, một tâm hồn thơ

Việt Nam. Quốc âm thi tập là sự thể hiện một bước trong quá trình xây dựng "thi pháp

Việt Nam” và đặt nền móng cho thơ ca dân tộc ở giai đoạn tiếp theo.

1.2. Giới thuyết về vấn đề nghiên cứu

1.2.1. Khái niệm về khẩu ngữ

Không một nền văn học nào trên thế giới có thể tồn tại và phát triển mà

không phản ánh con người dân tộc mình bằng chính thứ ngôn ngữ mà dân tộc đó

đang sử dụng và lưu giữ. Hay nói cách khác, văn chương nghệ thuật muốn phản ánh

chân thực hiện thực cuộc sống thì phải dùng chính lời ăn tiếng nói hàng ngày - khẩu

ngữ của nhân dân làm chất liệu. Khi đi vào văn học viết, tiếng nói ấy mang cả điệu

hồn dân tộc vào trong đó. Có lẽ vì thế nên các nhà văn, nhà thơ lớn ở bất kì thời đại

nào cũng đều ý thức sâu sắc việc đưa khẩu ngữ vào trong tác phẩm của mình. Nhận

thức được tầm quan trọng của việc đưa khẩu ngữ vào trong sáng tác văn học, các

nhà nghiên cứu đã quan tâm và chú ý nghiên cứu về khẩu ngữ.

Hiện nay có rất nhiều các công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm khẩu

ngữ. Có thể điểm qua những công trình như, Hoàng Phê với Từ điển tiếng Việt;

Nguyễn Như Ý với Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học; Đinh Trọng Lạc với Phong

cách học tiếng Việt, Mai Ngọc Trừ - Vũ Đức Nghiệu - Hoàng Ngọc Phiến với Cơ sở

ngôn ngữ học và tiếng Việt, Cù Đình Tú với Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng

Việt, Ngữ văn 10 (tập 1) sách nâng cao... Nhìn chung các tác giả đều đưa ra những

khái niệm về khẩu ngữ, mặc dù có thể nhấn mạnh ở khía cạnh này hay khía cạnh

khác nhưng tựu chung lại các tác giả đều cho rằng,khẩu ngữ là lời nói thường dùng

trong cuộc sống của người dân. Với việc dựa vào đặc trưng, phạm vi sử dụng của

khẩu ngữ, Hoàng Phê trong Từ điển tiếng Việt cho rằng, "khẩu ngữ là dạng lời nói

thường, dùng trong cuộc sống hàng ngày, có phong cách đối lập với phong cách

19

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

viết" [33, tr.196].

Tiếp nhận đối tượng ở khía cạnh tính chất của khẩu ngữ, chỉ ra sự khu biệt

giữa ngôn ngữ cầu kì kiểu cách trong văn chương với ngôn ngữ sinh hoạt đời

thường, các tác giả Quang Hùng và Minh Nguyệt nêu định nghĩa khẩu ngữ như sau,

"Khẩu ngữ là lời nói thường, bạch thoại (lời nói thông thường không kiểu cách, xa

hoa) khác với văn chương cầu kì kiểu cách" (9, tr.574).

Hay Nguyễn Như Ý khi nói về khẩu ngữ thì lại cho rằng khẩu ngữ giống như

ngôn ngữ nói và định nghĩa ngôn ngữ nói như sau:

"1. Ngôn ngữ nói chỉ tồn tại dưới dạng nói, không có chữ viết.

2. Biến thể phong cách của ngôn ngữ đặc trưng cho dạng nói; còn gọi là khẩu

ngữ. (Đó là một hệ thống kí hiệu có thể được thể hiện bằng âm thanh và có chức

năng đáp lại một kích thích tố hữu quan (thường đòi hỏi phản ứng ngay lúc ấy) một

cách năng động, tức là sự phản ứng phải hoàn chỉnh và nêu rõ mặt cảm xúc cũng

như nội dung của các sự kiện hữu quan)[49, tr.170]. Như vậy, tác giả cho rằng khẩu

ngữ chỉ là một biến thể phong cách của ngôn ngữ đặc trưng cho dạng nói. Cho nên

biến thể này có thể có rất nhiều. Nó mang đặc điểm của người nói, của môi trường

giao tiếp, năng lực ngôn ngữ của người giao tiếp...và nó chỉ tồn tại ở dạng nói.

Khác với các quan niệm trên, các tác giả trong các công trình, Phong cách

học tiếng Việt, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Phong cách học và đặc điểm tu từ

trong tiếng, Ngữ văn 10 (tập 1) sách nâng cao... cũng đưa ra khái niệm khẩu ngữ

nhưng với tư cách là phong cách sinh hoạt hàng ngày. Có thể dẫn ra quan niệm của

Đinh Trọng Lạc trong Phong cách học tiếng Việt như sau, "Phong cách sinh hoạt

hàng ngày (SHHN) là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp phát ngôn (văn bản)

trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày"(16,

tr.122). Đồng thời tác giả cũng chỉ rõ vai của người tham gia giao tiếp trong sinh

hoạt hằng ngày có thể là "vai của người ông, người bà, vai của bố, mẹ, con, cháu,

anh, em, bạn, đồng nghiệp, đồng hành .... tất cả những ai với tư cách cá nhân trao

đổi tư tưởng, tình cảm của mình với người khác"(16, tr.122). Vì thế phong cách sinh

hoạt được chia ra hai biến thể, Sinh hoạt hằng ngày tự nhiên (thông tục) và sinh

20

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoạt hằng ngày văn hóa (thông dụng).

Sau khi tham khảo trong các cuốn sách trên các khái niệm về khẩu ngữ,

chúng tôi hiểu khẩu ngữ là ngôn ngữ cửa miệng của người dân. Xét về phạm vi

khẩu ngữ không phụ thuộc vào lãnh thổ hay tổ chức xã hội. Bởi là ngôn ngữ cửa

miệng của người dân cho nên khẩu ngữ là kiểu diễn đạt trong giao tiếp hàng ngày,

mang tính chất tự nhiên, thoải mái và sinh động, giàu cảm xúc, ít chau chuốt khác

với kiểu diễn đạt theo quy cách.

1.2.2. Đặc điểm của khẩu ngữ

1.2.2.1. Đặc điểm về từ ngữ

Muốn nhận diện và phân biệt các đối tượng người ta thường dựa vào những

đặc điểm riêng của từng đổi tượng để nhận diện và phân biệt. Vì vậy, khi tiến hành

chỉ ra đặc điểm của từ khẩu ngữ đồng nghĩa với việc chỉ ra các nét riêng biệt của

lớp từ này so với các ngôn ngữ khác.

Do đặc trưng của lớp từ khẩu ngữ là những từ được dùng trong giao tiếp

hàng ngày, cho nên đặc điểm nổi bật của những từ này là những từ mang tính cụ

thể, giàu hình ảnh và màu sắc cảm xúc.

Trước hết về mặt cấu trúc hình thức, lớp từ khẩu ngữ có cấu trúc khá lỏng

lẻo (có thể tách từ hoặc thêm các yếu tố khác) dẫn tới khả năng biến đổi cấu trúc

vốn có tính bền vững. Ví dụ: chồng con: chồng với chả con; học hành: học với chả

hành, tíu tít: tíu ta tíu tít, vớ vẩn: vớ va vớ vẩn....

Từ khẩu ngữ thường là những từ có nội dung biểu cảm phong phú. Ví dụ:

Nói về mức độ tột cùng của cảm xúc,khẩu ngữ dùng, hết chê, hết xẩy, nhất

trần đời, chưa từng có, mê hồn ....

Bắt nguồn từ tính chất tự nhiên của từ khẩu ngữ, cho nên khi nói người ta

thường sử dụng nhiều cảm thán từ chỉ những màu sắc tình cảm, cảm xúc, thái độ

khác nhau vốn làm thành nội dung biểu hiện bổ sung lời nói mang lại cho khẩu ngữ

cái ý nhị duyên dáng sâu xa, hấp dẫn: ôi, ôi chao, a ha, cha mẹ ơi... Các ngữ khí từ

như: à, ư, nhỉ nhé, mà lại, ấy chứ... Các từ ngữ đưa đẩy: nói khí vô phép, nói bỏ

ngoài tai, nói dại mồm, nói khí không phải, bỏ quá cho... Các phó từ nhấn mạnh:

21

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngay, cả, chính, ...nào...nào, ngay cả, ...đến cả...

Từ khẩu ngữ chấp nhận lối xưng hô thân mật đậm màu sắc bày tỏ thái độ. Ví

dụ: cậu, tớ, mình, chúng mình, hai đứa mình... Bên cạnh đó là những từ có sắc thái

thông tục , thô thiển. Ví dụ: ra cái chó gì, chẳng nước mẹ gì, ngu như lợn, khốn

nạn, tồi, khốn khiếp, mất dạy...

Như vậy, những đặc điểm nổi bật trên của từ khẩu ngữ tạo nên giá trị khu

biệt của từ khẩu ngữ thuộc phong cách ngôn ngữ sinh hoạt với ngôn ngữ gọt giũa,

gia công trong văn chương. Và cũng chính vì thế trong kinh nghiệm trau dồi vốn

ngôn ngữ để sáng tác các nhà văn đều cho rằng nguồn từ ngữ quý báu nhất đối với

mình cần phải thường xuyên ghi chép lượm lặt là những từ ngữ dùng trong lời nói

thường ngày của quần chúng.

1.2.2.2. Đặc điểm về cú pháp

Một đặc điểm nổi bật của khẩu ngữ về mặt ngữ pháp là hay dùng những câu

hỏi, những câu cảm thán, những câu nói trực tiếp, những câu đưa đẩy... với tính sinh

động cụ thể của nó. Ví dụ: xem xét đoạn hội thoại sau:

"- Chí Phèo đấy hở? Lè bè vừa thôi chứ, tôi không phải là cái kho.

- Cầm lấy mà cút đi cho rảnh. Rồi làm mà ăn chứ cứ báo người ta mãi thế à.

- Tao không đến đây xin 5 hào.

- Thôi cầm lấy vậy. Tôi không còn hơn. Hắn vênh cái mặt lên rất là kiêu ngạo:

- Tao đã bảo tao không đòi tiền.

- Giỏi! Hôm nay mới thấy anh không đòi tiền. Thế anh cần gì?

- Tao muốn làm người lương thiện!

- Ồ tưởng gì! Tôi chỉ cần anh lương thiện cho thiên hạ nhờ.

- Không được! Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh

chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không ! Chỉ còn

một cách... biết không ! Chỉ còn một cách là ... cái này, biết không!".

(Nam Cao - Chí Phèo)

Trong đoạn hội thoại trên có các kiểu câu sau: Câu cầu khiến, " Lè bè vừa

thôi chứ, tôi không phải là cái kho", " Cầm lấy mà cút đi cho rảnh", " Tôi chỉ cần

22

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

anh lương thiện cho thiên hạ nhờ". Câu nghi vấn, " Thế anh cần gì?", " Ai cho tao

lương thiện?", " Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?". Câu

trần thuật, "Tao không đến đây xin 5 hào", " Tao đã bảo tao không đòi tiền", " Tao

không thể là người lương thiện nữa".

Khẩu ngữ sử dụng những cấu trúc cú pháp riêng mà các ngôn ngữ khác ít

dùng như:

+ Dùng cấu trúc với nhiều từ ngữ chêm xen như: thì, là, rất là, coi như, ấy

là.... Với cách nói chêm xen này khiến câu văn trở nên dài dòng phù hợp với kiểu

"vừa nói vừa nghĩ" của nhân vật giao tiếp. Ví dụ:

"Xảy mẹ ra một cái là khổ ngay, con ạ. Ấy là mới rời tao ra hơn một tháng...

Chúng mày đã gầy dơ xương, mình mẩy chân tay thì ghẻ gúm. Ngộ tao chết thì có

lẽ chúng mày rã xương ra được. Này cái cổ tay... có khác gì cái cẳng gà không?".

(Nam Cao - Từ ngày mẹ chết).

+ Dùng kết cầu thì, là ở đầu câu. Ví dụ:

"Thì cũng như ở nhà chứ gì mà bu phải hối".

(Đình Hiểu - Giận hờn)

+Dùng kết cấu theo nghĩa phủ định theo mẫu: động từ + gì mà + động từ.

Ví dụ: "Có cái gì ta nói chuyện tử tế với nhau, cần gì mà phải làm thanh

động lên như thế, người ngoài biết mang tiếng". (Nam Cao - Chí Phèo)

+ Dùng "nó" làm chủ ngữ giả. Ví dụ:

"Trời hôm nay, người tôi nó mệt thế nào ấy".

1.2.2.3. Đặc điểm về biện pháp tu từ

Do tính chất trực tiếp, ít được chuẩn bị mà trong khẩu ngữ có những đoạn,

những câu, những từ ngữ trùng lặp hoặc cố ý hoặc vô ý. Ví dụ:

"Đã thế thì thôi, thôi mặc kệ". (Hồ Xuân Hương - Quan thị)

- Khẩu ngữ ưa dùng lối ví von, so sánh để có thể miêu tả sự vật một cách sinh

động. Ví dụ: "Thân em như quả mít trên cây"

(Hồ Xuân Hương - Quả mít)

23

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Từ hình ảnh quả mít Hồ Xuân Hương đã nói lên thân phận của người phụ nữ

trong xã hội phong kiến. Trong xã hội ấy, họ chỉ là những con người nhỏ bé, không

làm chủ được cuộc đời mình. Và cuộc sống cơ cực, bị động ấy cũng chính là ngọn

nguồn thương cảm của Bà chúa thơ Nôm.

- Biện pháp nói quá, cách diễn tả khoa trương trong khẩu ngữ để tô đậm hình

ảnh khiến người nghe chú ý như: run như cầy sấy, chậm như rùa, đen như cột nhà

cháy, đẹp mê hồn, đẹp tuyệt trần, nắng như thiêu như đốt....

Ví dụ: Trong thơ Hồ Xuân Hương không bao giờ có những cảnh nhợt nhạt

màu sắc hay chỉ dừng lại ở mức độ trung tính, không có những sự vật bình thường,

tĩnh tại mà lúc nào cũng hàm chứa cái góc cạnh, khác thường. Trong thơ Hồ Xuân

Hương màu sắc lúc nào cũng được đẩy tới tối đa: trắng phau phau, xanh rì, chín

mõm mòm, đỏ lòm lòm:

"Một trái trăng thu chín mõm mòm

Nảy vừng quế nguyệt đỏ lòm lòm". (Hồ Xuân Hương - Hỏi trăng)

Biện pháp nói quá đã góp phần tạo cho câu văn thêm sinh động giàu sức biểu cảm.

Tóm lại, đặc điểm ngôn ngữ của khẩu ngữ được thể hiện qua, đặc điểm về từ

vựng, đặc điểm về cú pháp, đặc điểm về sử dụng biện pháp tu từ.

1.2.3. Vai trò của khẩu ngữ trong tác phẩm văn học.

Trước hết để hiểu vài trò của khẩu ngữ trong tác phẩm văn học, ta phải đi từ

vai trò của ngôn ngữ nói chung đối với tác phẩm.

Trong cuốn "Bàn về văn học", Nxb Văn học, 1965, tập 2. trang 206, Maxim

Gorki đã khẳng định, "Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu

của nó và cùng các sự kiện, các hiện tượng của đời sống - là chất liệu văn học".

Ngôn ngữ là công cụ, là yếu tố đầu tiên và quan trọng trong quá trình nhà văn sáng

tạo ra tác phẩm.

Trong tác phẩm văn học có thể có nhiều loại ngôn ngữ - trang trọng, đài các

hay giản dị, bình dân. Người nghệ sĩ tùy theo cái "tạng" và tùy từng trường hợp mà

lựa chọn hệ thống ngôn từ cho phù hợp. Có thể nói khẩu ngữ là máu thịt của thể loại

văn xuôi. Văn xuôi sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày, ngôn ngữ sinh động đúng

24

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

như nó đang diễn tiến để làm chất liệu xây dựng tác phẩm. Điều này không thể thấy

trong thơ ca truyền thống. Bởi thơ ca truyền thống chịu sự quy định của hệ thống thi

pháp trung đại - coi trọng hệ thống ngôn ngữ có tính công thức, ước lệ, tượng trưng,

tính sùng cổ và nệ cổ, nghiêng về uyên bác và có tính cách điệu hóa. Bên cạnh đó là

đối tượng sáng tạo và tiếp nhận chủ yếu là ở tầng lớp trên của xã hội. Cho nên về cơ

bản văn học trung đại ít sử dụng ngôn ngữ bình dân. Ngôn ngữ bình dân đặc biệt là

khẩu ngữ tuy có xuất hiện nhưng do chưa được chú ý sử dụng nên hiệu quả nghệ

thuật không cao. Tuy nhiên có thể nói chỉ từ thế kỉ XV trở đi, khẩu ngữ mới được

sử dụng phổ biến hơn với những sáng tác của Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương,

Nguyễn Du... Đưa khẩu ngữ giúp cho tác phẩm văn học trở nên gần gũi, dễ hiểu

hơn và đối tượng thưởng thức và tiếp nhận không còn hạn chế ở tầng lớp có học

nữa mà mở rộng đến công chúng bình dân. Việc đưa khẩu ngữ vào thơ (đặc biệt là

trong giai đoạn trung đại khi mà hệ thống thi pháp chịu rất nhiều quy định chặt chẽ

về ngôn ngữ) mà tạo ra được giá trị thẩm mĩ mới mẻ là điều không dễ. Thậm chí có

thể coi đây là một thách thức - một bước ngoặt lớn của thơ ca tiếng Việt.

Khẩu ngữ khi được đưa vào tác phẩm văn học đã giúp tác giả tái hiện cuộc

sống ở nhiều chiều cạnh, nhiều sắc vẻ và góp phần biểu đạt tư tưởng và thể hiện

quan điểm thẩm mĩ của tác giả. Cho nên tác phẩm văn học sẽ mang tính hiện thực,

sinh động và hấp dẫn hơn. Chính vì lẽ đó, khi nghiên cứu văn học cần phải đặt nó

trong thế tương quan với thời đại mà tác phẩm hình thành để thấy được những nét

độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ và những cách tân của người nghệ sĩ.

Trong văn học trung đại việc đưa khẩu ngữ vào tác phẩm không phải là

hiện tượng phổ biến. Tiếng thơ Nguyễn Trãi đã tạo ra được dự khác biệt với thời

đại cũng chính nhờ khả năng sử dụng vốn khẩu ngữ đặc biệt ấy của dân tộc.

"Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi là một trong những đỉnh cao của thơ Nôm

viết theo thể đoản thiên và xứng đáng là tác phẩm có tính chất mở đầu cho nền

25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thơ cổ điển Việt Nam.

Chƣơng 2:

KHẢO SÁT TÍNH KHẨU NGỮ TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI

Thơ ca truyền thống chịu sự chi phối mạnh mẽ của hệ thống thi pháp nên

luôn coi trọng hệ thống ngôn ngữ có tính công thức, ước lệ, mang tính uyên bác và

có tính cách điệu hóa cao. Chính vì điều này cho nên thơ ca trung đại chối từ việc

sử dụng những ngôn ngữ có tính “bình dân” – ngôn ngữ đời thường vào những

trang thơ. Tuy nhiên không thể phủ nhận rằng bất kì một tác phẩm thành công nào

đều bắt rễ từ đời thường và phản ánh đời thường bằng chính những ngôn từ của nó.

Qua đó hồn cốt dân tộc mới được biểu hiện một cách cụ thể và sinh động nhất. Vì

thế có thể nói khẩu ngữ là loại ngôn từ sinh động và có vai trò hết sức quan trọng

trong việc góp phần biểu đạt những nội dung mà tác giả muốn thể hiện. Nhận thức

được vấn đề đó, Nguyễn Trãi là người đầu tiên trong lịch sử dân tộc đưa khẩu ngữ

vào sáng tác nghệ thuật của mình một cách có ý thức.

Với thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người đầu tiên phá bỏ những quy tắc sáng tạo

nghệ thuật của thi ca trung đại và khẳng định vị trí của khẩu ngữ trong sáng tạo

nghệ thuật – trở thành một bộ phận không thể thiếu trong cấu trúc tác phẩm.

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tìm hiểu tính khẩu ngữ trong thơ

Nôm - Nguyễn Trãi với mong muốn chỉ ra được đặc điểm – hệ lời riêng (mã) về

phương diện ngôn ngữ mà cụ thể ở đây là khẩu ngữ trong thơ. Từ đó góp phần hiểu

thêm về con người Nguyễn Trãi và cống hiến lớn lao của ông với nền văn học dân

tộc. Ở luận văn này chúng tôi khảo sát tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi

thể hiện ở các phương diện sau: phương diện từ vựng, phương diện cú pháp và biện

pháp tu từ.

2.1 Về phƣơng diện từ vựng

Trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, từ vựng là phương diện biểu hiện phong

phú, phức tạp và có vai trò tương đối quan trọng nhất. Trong sáng tạo thơ ca thì từ

vựng chính là chất liệu quan trọng bậc nhất để tạo nên tác phẩm. Dựa vào phong

cách ngôn ngữ, từ vựng được chia thành các lớp: từ khẩu ngữ, từ trung tính và từ

26

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trang trọng. Do mục tiêu của đề tài, chúng tôi chỉ khảo sát Quốc âm thi tập về mặt

từ vựng trên phương diện sự có mặt của từ khẩu ngữ ở tất cả các bài thơ. Sự xuất

hiện của từ khẩu ngữ có mặt ở hai lớp từ lớn là thực từ và hư từ.

2.1.1. Thực từ

Trong đời sống hàng ngày thực từ là những từ dùng để gọi tên các sự vật, hiện

tượng; các hoạt động, trạng thái…; các tính chất, mức độ… mà con người gán tên

cho nó phù hợp với một hoặc nhiều nét nghĩa mà nó mang trong mình. Có thể nói

đây là lớp từ số lượng lớn nhất trong bất kì ngôn ngữ nào. Khi những thực từ được

đưa vào trong thơ thì tùy theo mục đích và ý thức sử dụng chúng có thể được giữ

nguyên hoặc được tác giả gia công, trau dồi, gọt giũa. Điều này sẽ góp phần tác

động trực tiếp đến cảm nhận của người đọc cũng như khẳng định cá tính, phẩm chất

và phong cách nhà thơ.

Trong giao tiếp để hiểu nhau người ta phải sử dụng thực từ để biểu đạt. Điều

này sẽ góp phần giảm thiểu sự không hiểu giữa những người giao tiếp. Thơ xưa

luôn sử dụng những thực từ để biểu đạt, gọi tên chính xác điều mà nhà thơ muốn

nói. Tuy nhiên những thực từ được sử dụng trong thơ xưa phần lớn đã được các tác

giả dụng công nhào nặn nên. Nhưng đến với thơ Nôm Nguyễn Trãi, thực từ xuất

hiện một cách tự nhiên, giản dị như những gì vốn có.

Qua việc khảo sát 254 bài thơ Nôm trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy số

lượng thực từ - khẩu ngữ được sử dụng rất nhiều ( 2471 lượt từ/ 254 bài thơ) và ở

nhiều tiểu loại từ khác nhau (danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ). Trong đó

phong phú nhất là hệ thống tính từ chiếm khoảng 33,7%.

Thực từ Danh từ Động từ Tính từ Số từ Đại từ

Số lượng 286 980 885 255 65

Tỉ lệ (%) 11.6 39.7 35.8 10.3 2.6

Sử dụng thực từ trên diện rộng, số lượng lớn, Nguyễn Trãi đã tạo ra những câu

thơ mới lạ, gần gũi, đời thường nhưng hết sức đẹp đẽ so với những câu thơ cùng

thời. Trong việc sử dụng thực từ mang tính khẩu ngữ thì trong từng tiểu loại đều có

những đặc trưng riêng góp phần làm nên vẻ đẹp lung linh, huyền ảo cho Quốc âm

27

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thi tập.

2.1.1.1. Danh từ

Trong đời sống hàng ngày, danh từ được dùng để gọi tên các sự vật, hiện tượng.

Nên có thể nói ngôn ngữ của dân tộc nào càng có nhiều từ gốc (gọi tên sự vật, hiện

tượng) bao nhiêu thì chứng tỏ sự hình thành tồn tại và phát triển của cộng đồng dân

tộc đó bấy nhiêu. Và điều đó chỉ có thể tìm thấy nhiều nhất, chính xác nhất, đầy đủ

nhất trong dân gian. Trên cơ sở này khi khảo sát Quốc âm thi tập, chúng tôi tập

trung khảo sát những danh từ mang tính khẩu ngữ. Qua khảo sát 254 bài thơ, chúng

tôi thống kê được một số loại danh từ chỉ loại (định danh) như, danh từ chỉ con vật,

danh từ chỉ cây cỏ.

Số lượng danh từ được sử dụng khá nhiều trong đó danh từ chỉ cây cỏ chiếm số

lượng lớn nhất 201 lần xuất hiện với 44 loại cây được nhắc tới. Sau đó danh từ chỉ

con vật được sử dụng với số lượng 85 lần xuất hiện với 25 con vật được nhắc tới.

Những con vật, có tính khuôn mẫu, điển hình mà thơ cổ hay dùng như, viên,

hạc, rồng, nhạn… Hay đó là những cây cỏ được coi là biểu hiện của khí phách hiên

ngang, cốt cách thanh cao mà mỗi khi nhắc đến ai cũng hiểu như, trúc, thông, hồng

liên trì (sen), cúc, mai.. Chẳng hạn:

- Thề cùng viên hạc trong hai ấy. (23/ 7)

- Trúc Tưởng Hủ nên tiết cứng.

Mai Lâm Bô đâm được câu thần. (81/ 3 – 4)

Bên cạnh đó là những con vật gần gũi với cách gọi và đời sống của người

dân như: tằm, hùm, mèo, ong, dế, ve, sâu, chó, … Hay những cây cỏ quen thuộc với

đời sống của người lao động cần cù một nắng hai sương trên đồng ruộng như, bèo,

rêu, đậu, kê, niềng niễng, núc nác, muống, mùng tơi, ổi, cỏ….Chẳng hạn:

- Trường thiên định hùm nằm chực

Trái thì trai, vượn nhọc đam. (64/ 3 -4)

- Tả lòng thanh vị núc nác

Vun đất ải, luống mùng tơi (10/ 4 – 5)

Như vậy, có thể thấy trong cách định danh các sự vật, Nguyễn Trãi đã đưa

28

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vào thơ một hệ thống những danh từ định danh xuất phát từ đời thường và gần gũi

với đời sống của nhân dân. Điều này khác hẳn với cách định danh của các tác giả

cùng thời - lấy những con vật, cây cỏ có tính khuôn mẫu, mang vẻ đẹp hoàn hảo và

có giá trị biểu tượng cao như rồng, hạc... mai, cúc... làm thi liệu. Đây là bước cách

tân lớn của Nguyễn Trãi khi đưa hệ thống thi liệu này vào trong thơ Nôm. Và điều

đó còn cho thấy tác giả phải là người có điều kiện sống cùng nhân dân, hiểu nhân

dân và muốn làm tất cả cho dân mới có thể viết lên những câu thơ như vậy. Đọc

những câu thơ này của Nguyễn Trãi bạn đọc dường như cảm nhận được lời văn của

Trần Nhân Tông trong Cư trần lạc đạo phú: “Mình ngồi thành thị, nết tại thâm tâm.

Muôn nghiệp lắng, an nhàn thế tính. Nửa ngày rồi, tự tại thâm tâm. Tham, ái,

nguồn đình chẳng còn châu yêu, ngọc quý. Thị, phi, tiếng lặng, được dầu nghe yến

thốt, oanh ngâm. Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có người đắc ý. Biết đào

hồng hay liễu lục, thiên hạ năng mỗ chủ tri âm” (Đệ nhất hội).

Cách sử dụng thi liệu từ ngôn từ dân gian và cách viết của Trần Nhân Tông

mang tính tự nhiên và giống như lời nói thường ngày của người dân. Phải chăng

Nguyễn Trãi đã tiếp thu, kế thừa cách sử dụng ngôn từ và diễn đạt của Trần Nhân

Tông để viết nên những câu thơ Nôm mang tính khẩu ngữ.

Như vậy, với việc sử dụng những danh từ có sự xen lẫn của tính khuôn mẫu

và đời thường thì Nguyễn Trãi đã làm tăng số lượng từ vựng cho kho từ vựng Việt

và câu thơ trơn tuột như lời nói thường ngày. Bên cạnh đó tác giả diễn tả thành công

những trạng huống, những cung bậc tình cảm cũng như những ý đồ sáng tạo nghệ

thuật. Đặc biệt lần đầu tiên trong lịch sử văn học ngôn từ dân gian được đi vào trang

thơ một cách tự nhiên, giản dị, gần gũi nhất nhưng đem lại hiệu quả nghệ thuật cao.

2.1.1.2. Động từ

Trong giao tiếp hàng ngày, động từ là những từ biểu thị hoạt động hay trạng

thái nhất định của sự vật trong quá trình. Nguyễn Trãi viết văn, làm thơ nhằm mục

đích chiến đấu. Tuy nhiên đến với thơ Nguyễn Trãi nói chung và thơ Nôm nói riêng

thì ngoài tính chiến đầu thì thơ ông còn nhằm mục đích bộc lộ tâm trạng của mình.

Trong Quốc âm thi tập những suy tư, trăn trở, những cung bậc tinh thần Nguyễn

29

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Trãi được gửi gắm vào những câu thơ viết về thiên nhiên, về cuộc sống đời thường.

Khảo sát 254 bài thơ trong Quốc âm thi tập, chúng tôi nhận thấy Nguyễn

Trãi sử dụng rất nhiều những động từ miêu tả hoạt động và những động từ miêu tả

trạng thái. Những động từ miêu tả hoạt động của người lao động (chủ yếu là người

nông dân) xuất hiện với số lượng, 39,7 %. Đó là những động từ như: cuốc, cày, vun,

vãi, ương, hái, phát, cấy, chăn, thả …Chẳng hạn:

- Vun đất ải, luống mồng tơi. (10/ 5)

- Tằm ươm lúc nhúc, thuyền đậu bãi. (9/ 5)

Ngoài các động từ miêu tả hoạt động của người lao động, Nguyễn Trãi còn

sử dụng những động từ miêu tả hoạt động, trạng thái của con vật, cây cỏ chiếm

51,3% trong số lượng từ được khảo sát. Đó là những động từ như: kêu, chen, trỗi,

nẩy, xạ, đưa, bén, nẩy nẩy, giương, đùn đùn, nở, xòe, …. Chẳng hạn:

- Giữa mùa đông, trỗi thức xuân

Nam chi nở, cực thanh tân. (214/ 1 – 2)

- Hơn chó được ngồi khi giỡn bếp

Tiếc hùm chẳng bảo chước leo cây. (251/ 3 - 4)

Ngoài các động từ trên thì trong Quốc âm thi tập còn có một số lượng các

động từ miêu tả quan hệ. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy các động từ miêu tả

hành động, trạng thái phần lớn được sử dụng là các động từ đơn âm. Tuy nhiên một

trong những đóng góp hết sức quan trọng trong việc sử dụng các động từ có tính

khẩu ngữ là tạo ra các tổ hợp động từ thể hiện đa dạng, nhiều chiều vẻ. Đó là những

tổ hợp động từ kết hợp với danh từ như, vớt bèo, cấy muống, phát cỏ, ương sen, cày

ruộng, cuốc vườn, đạp bóng trăng..

Cày ruộng, cuốc vườn dầu hết khỏe, (43/ 5)

(ĐT + DT) (ĐT + DT)

Ao cạn vớt bèo cấy muống

(ĐT + DT) (ĐT + DT)

Việc tạo ra các tổ hợp động từ và danh từ đa dạng, Nguyễn Trãi đã có thể

diễn tả thành công những ý đồ nghệ thuật. Và với việc tạo ra những tổ hợp đó tác

30

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giả cũng đã khẳng định ngôn từ dân tộc hoàn toàn có khả năng biểu đạt và hơn trên

hết nó còn có giá trị thẩm mĩ cao. Với Quốc âm thi tập lần đầu tiên trong lịch sử

văn học những hoạt động mang tính chất đời thường, dân dã gắn với cuộc sống của

người lao động lại được đi vào trang thơ một cách phong phú và đa dạng. Những

hoạt động như cuốc, cày, vun, tưới, phát, ương,...miêu tả chân thực, sinh động cuốc

sống của người nông dân. Và ngoài ra những hoạt động mang tính chất của sinh

hoạt đời thường cũng được Nguyễn Trãi miêu tả trong Quốc âm thi tập. Sự mới lạ

này trong thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi khác hẳn so với các tác giả cùng thời và

phải đến vài thế kỉ sau thì những hoạt động mang tính chất đời thường đó mới được

đi vào trang thơ một cách tự nhiên như vậy. Trong bài thơ Chốn quê, Nguyễn

Khuyến miêu tả cuộc sống làng quê Việt sinh động với những trạng thái cảm xúc cụ

thể và đâu đó dáng dấp của những câu thơ Quốc âm ẩn hiện sau những vần thơ này:

Năm nay cày cấy vẫn chân thua,

Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa.

Phần thuế quan Tây, phần trả nợ

Nửa công đứa, nửa thuê bò.

Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,

Chợ búa trầu chè chẳng dám mua.

Tằn tiện thế mà không khá nhỉ?

Nhờ trời rồi cũng mất gian kho!. (Chốn quê)

Có thể nói miêu tả cuộc sống thường ngày lại gắn với những trạng huống

tâm lí của cá nhân nên những động từ mang tính chất đời thường xuất hiện như một

hiện tượng bình thường. Tuy vậy do sự chi phối của hệ thống thi pháp trung đại cho

nên thơ Nôm Nguyễn Trãi đã đem đến sự cách tân lớn trong việc miêu tả cuộc sống

đời thường. Điều này khác hẳn với các tác giả cùng thời với Nguyễn Trãi đồng thời

đem đến cho thơ Nôm Nguyễn Trãi cái dung dị, giản dị và tự nhiên. Khẳng định

định vị thế của ngôn từ dân tộc.

2.1.1.3. Tính từ

Thơ Nôm Nguyễn Trãi sử dụng rất nhiều tính từ. Yếu tố này một mặt góp

31

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phần biểu thị nội dung một cách chính xác, mặt khác nó đã tạo ra được những sắc

thái biểu cảm rõ nét. Trong đời sống hàng ngày, tính từ là những từ diễn đạt những

đặc điểm về chất lượng, về tính chất, về màu sắc, mùi vị, trạng thái … Trên cơ sở

này chúng tôi khảo sát 245 bài thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và xác

định được, 885 tính từ/ 254 bài, như vậy trung bình, hơn 3 từ/ bài. Và các tính từ đó

được chúng tôi phân loại vào một số loại lớn: tính từ chỉ chất lượng, tính từ chỉ số

lượng, tính từ chỉ quan hệ.

Những tính từ chỉ chất lượng chủ yếu diễn đạt những ý nghĩa về phẩm chất,

về tính chất của sự vật, hiện tượng như: trung hiếu, lo lắng, cứng, mềm, canh cánh,

khen, chê, khó, khéo, gầy, xỉ, lù khù, hiểm hóc, xênh xang, lúc nhúc... Chẳng hạn:

- Non cao, non thấp, mây thuộc

Cây cứng, cây mềm, gió hay. (26/ 3 - 4)

- Tôi người hết tấc lòng trung hiếu. (100/ 7)

Phần lớn những tính từ chỉ chất lượng trong Quốc âm thi tập không tồn tại

độc lập mà luôn kết hợp cùng với các động từ hoặc danh từ để tạo nên các tổ hợp

định ngữ hoặc bổ ngữ. Với việc tạo ra các tổ hợp từ như, lòng trung hiếu, chân non

khỏe, lòng canh cánh, hùm oai, muông mạnh, nằm nghĩ ngợi, đeo âu, lưng gầy, da

xỉ, tướng lù khù... Nguyễn Trãi đã làm cho chính những danh từ, động từ, tính từ

trong tổ hợp trở nên sống động, mang đậm ngôn ngữ đời thường hơn.

Những tính từ được sử dụng trong thơ Nôm Nguyễn Trãi nhiều khi được sử

dụng với tính chất cực tả, cụ thể mang ý nghĩa tuyệt đối mang hơi thở ngôn ngữ đời

thường như: - Ở ngọt thì nhiều kẻ chuộng

Quá chua liền ủng có ai màng. (147/ 3 - 4)

- Mùi thế đắng cay cùng mặn chát. (46/ 7)

Bên cạnh việc sử dụng những tính từ chỉ chất lượng, Nguyễn Trãi còn sử

dụng rất nhiều những tính từ chỉ số lượng và tính từ quan hệ. Những tính từ chỉ số

lượng như, ít, nhiều, cao, thấp, dài, ngắn (vắn), sâu, thiếu, dư, đầy, vơi... được sử

dụng trong việc miêu tả đối tượng một cách cụ thể. Những tính từ này là những tính

từ khái quát chung, miêu tả đối tượng về mặt định lượng một cách tự nhiên nhưng

32

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ẩn sau nó tràn đầy sức sống, sức gợi. Điều này khác hẳn với quan niệm thẩm mĩ của

văn học trung đại ưa viết về những gì tao nhã, trang trọng. Cùng với việc sử dụng

những tính từ chuyên dụng, Nguyễn Trãi còn tạo ra những tính từ có tính chất lâm

thời bằng cách chuyển nghĩa danh từ đi sau trong tổ hợp danh từ + danh từ thành

tính từ. Đây chính là những tính từ quan hệ như, lều cỏ, hiên trúc, lều ta, cảnh lạ,

thuốc tiên... Chẳng hạn:

- Căn lều cỏ đối đức Đường Ngu. (15/ 6)

- Thuốc tiên thường phục tử hà sa. (118/ 1)

Với việc chuyển nghĩa này một mặt Nguyễn Trãi đã tạo ra được những nét

nghĩa mới đáp ứng nhu cầu biểu đạt đối tượng sinh động, cụ thể hơn. Mặt khác

những nét nghĩa mới này bổ sung vào kho từ vựng tiếng Việt cách biểu đạt mới.

Cách sử dụng tính từ của Nguyễn Trãi "Nằm có chiếu chăn cho ấm áp, Ăn thì

canh cá chớ khô khăn" (134/ 5 - 6) có điểm chung với cách dùng của Lý Đạo Tái

trong Vịnh Hoa Yên tự phú: "Nương am vắng, bụt hiện từ bi; gió hiu hiu, mây nhẹ

nhẹ.Kề song thưa, thấy ngồi thiền định; trăng vằng vặc, núi xanh xanh". Những tính

từ mà Lý Đạo Tái sử dụng như "hiu hiu", "nhẹ nhẹ", "vằng vặc", "xanh xanh" mang

đậm cách nói của lời nói thường dùng nhưng nó lại gợi tả rõ nét, sâu sắc, gần gũi

nhưng cùng hết sức đẹp đẽ. Cách miêu tả của Lý Đạo Tái và Nguyễn Trãi đều sử

dụng những tính từ biểu thị tính chất, đặc điểm,... của đối tượng từ những từ ngữ

thông thường. Và việc sử dụng những tính từ gần gũi với đời sống hàng ngày các

tác giả đã khẳng định ngôn từ dân tộc hoàn toàn có khả năng trở thành ngôn từ nghệ

thuật, ngôn từ văn hóa.

Như vậy với việc sử dụng những tính từ chân chính và những tính từ lâm

thời, Nguyễn Trãi đã làm tăng khả năng biểu đạt hình ảnh thơ và giúp nhà thơ diễn

tả những trạng huống tâm lí, tâm tư, tình cảm một cách dễ hiểu, chân thực và cụ thể.

Điều này đã làm cho lời thơ mang tính hàm súc cao nhưng lại hết hết sức gần gũi,

dễ hiểu giống như cách cảm và cách nhận của lớp người bình dân. Việc sử dụng

những tính từ có nguồn gốc từ lời nói thường Nguyễn Trãi đã tạo ra điểm nhấn

trong cách diễn đạt lời thơ so với các tác giả đi trước và tác giả cùng thời. Đây cũng

33

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chính là một trong những đóng góp quan trọng cho sự thành công của Quốc âm thi

tập nói riêng và của việc khẳng định đưa ngôn từ dân tộc vào trong sáng tác thơ ca

nói chung.

2.1.1.4. Số từ

Mỗi dân tộc trong quá trình hình thành ngôn từ riêng đều có những hệ thống

kí mã đặc trưng. Một trong những đặc trưng được xem là khởi nguyên và thông

dụng trong ngôn ngữ đó chính là hệ thống con số kí hiệu . Nếu như người Trung

Hoa sử dụng hệ thống con số mang cách đọc riêng như, nhất, nhị, tam, tứ... thì

người Việt cũng sáng tạo ra hệ thống con số của riêng mình với đặc thù riêng. Cho

nên cho dù nền văn hóa có chịu sự chi phối nặng nề đến bao nhiêu thì dấu ấn ngôn

từ gốc vẫn không hề mất đi. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi lưu lại những dấu ấn

sử dụng ngôn từ dân gian một cách khác rõ nét.

Số từ là những từ chỉ số lượng hoặc thứ tự của sự vật. Qua khảo sát và thống

kê Quốc âm có 255 lần số từ xuất hiện. Trong đó: 218 lượt là các số từ xác định,

Một (122 lần), Hai (22 lần), Ba (25 lần), Bốn (5 lần)... Chẳng hạn:

- Góc thành nam, lều một căn. (1/1)

- Lan còn chín khúc, cúc ba đường. (127/ 1)

Ngoài các số từ trên còn có rất nhiều các số từ xác định khác được sử dụng

như: năm (4 lần), chín, mười (5 lần).... Những số từ xác định này được sử dụng để

nhằm thể hiện xác định chính xác của tác giả Quốc âm. Điều này khác hẳn với cách

xác định của thơ ca trung đại thường mang tính chất ước lệ, tượng trưng, không cụ

thể. Bên cạnh các số từ xác định, Nguyễn Trãi còn sử dụng rất nhiều các đại từ bất

định (không xác định) như: Mấy (18 lần), Ngàn (nghìn) (9 lần), Vạn (4 lần):

- Mấy người ngày nọ thi đỗ. (3/ 7)

- Mựa để ngàn đời tiếng hổ hang. (93/ 8)

- Vạn diệp thiên chi bởi một cây. (145/ 2)

Ngoài ra còn phải kể đến các đại từ bất định khác như: mọi, nhiều... Đại từ

bất định trong Quốc âm thi tập chủ yếu được dùng để ước lượng. Những số từ này

34

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tạo ra những sắc thái ý nghĩa khác nhau. Có khi là mỉa mai, châm biếm như khi tác

giả viết: "Mấy kẻ văn sinh đất Việt" nhưng đôi khi diễn tả trạng thái tâm lí nhớ

nhung đau đáu quê nhà "Nghìn dặm xem mây nhớ quê"...

Cách sử dụng số từ của Nguyễn Trãi mang tính khẩu ngữ cụ thể. Bởi lẽ chỉ

trong đời sống, người ta rất ưa thích cách nói sử dụng số từ nhằm mục đích cụ thể

hóa điều được nói tới. Trước Nguyễn Trãi, Trần Nhân Tông trong Cư trần lạc đạo

phú cũng sử dụng số từ để cụ thể hóa như: "Miễn cộc một lòng, thuớ rồi mọi hoặc.

Chuyển tam độc mới chứng tam thân" (Đệ tứ hội).

Bằng cách sử dụng các số từ với số lượng nhiều và số lần sử dụng cao,

Nguyễn Trãi không chỉ tạo nên những hình ảnh thơ sống động, rõ ràng mà còn tạo

nên sắc thái riêng cho thơ của ông. Một sự gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân

chứ không mang tính chất sang trọng, cầu kì kiểu cách như thơ văn cùng thời.

2.1.1.5. Đại từ

Thơ ca Việt Nam trung đại chịu sự chi phối và ảnh hưởng sâu sắc của nền

Hán học. Các tác phẩm luôn chịu sự chi phối của hệ thống thi pháp trung đại. Vì thế

các tác phẩm chủ yếu ngợi ca và đề cao cái ta chung. Cái tôi cá nhân thường bị hòa

tan trong cái tôi chung. Cho nên điều này đã lí giải trong các tác phẩm thơ luật

Đường rất hiếm gặp cái tôi được thể hiện qua các đại từ nhân xưng.

Khác với các tác giả khác cùng thời, trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi sử dụng

rất nhiều các đại từ nhân xưng thể hiện cái tôi cá nhân. Theo khảo sát và thống kê trong

Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi sử dụng đại từ nhân xưng với số lượng nhiều và tần số

xuất hiện khá cao. Chẳng hạn như sử dụng 65 lần đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, đại

từ ta (49 lần), đại từ mình (5 lần), đại từ ông (5 lần), đại từ tôi (18 lần)...

Ví dụ như: - Trong nhà cam quýt ấy tôi mình. (83/6)

- Ông này đã có thú ông này. (28/8)

Như vậy, đại từ nhân xưng trong Quốc âm thi tập rất đa dạng. Tuy nhiên các

đại từ này không phải là những đại từ tồn tại độc lập với nhau trong gọi tên đối

tượng mà chúng là những đại từ có sự phân công trong hệ thống. Chúng đều là

những đại từ quen thuộc với lời ăn tiếng nói hàng ngày và là cách xưng hô khác

35

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhau của một chủ thể. Trước Nguyễn Trãi, cũng đã có một số tác giả sử dụng đại từ

nhân xưng trong tác phẩm của mình. Chẳng hạn trong Cư trần lạc đạo phú của Trần

Nhân Tông sử dụng đại từ "mình" như, "Mình ngồi thành thị, nết dụng sơn lâm,

Muôn nghiệp lắng, an nhàn thể tính; Nửa ngày rồi, tự tại thân nhân" (Đệ nhất hội).

Tuy nhiên nếu văn học trung đại luôn lấy thiên nhiên là trung tâm, là chủ thể,

là thước đo vẻ đẹp con người thì đến với thơ Nôm, của Nguyễn Trãi con người

được khẳng định và trở thành thước đo cho mọi chuẩn mực của cái đẹp. Con người

không còn "núp" dưới những "lớp vỏ" thể hiện mình mà trực tiếp bộc lộ tâm tình:

- Ta được thanh nhàn ta xá yêu. (18/2)

- Non nước cùng ta đã có duyên. (74/ 1)

Hiện thực không như mong muốn nên trong Nguyễn Trãi luôn có những

niềm u uẩn khôn nguôi. Những niềm u uẩn khôn nguôi và muốn giải tỏa trong ông

không tìm được lối thoát cho nên nhiều khi Nguyễn Trãi tỏ ra khinh mạn, giận dỗi.

Điều này được thể hiện khá rõ qua việc sử dụng đại từ "tôi" hay tổ hợp định danh

gồm đại từ và danh từ xác định vị trí: "ông này":

- Năng một ông này đẹp thú này. (11/ 8)

- Ông này đã có thú ông này. (28/8)

Tuy vậy, bên cạnh những câu thơ thể hiện khí phách ngang tàng của một cá

nhân đầy bản lĩnh còn có không ít những câu thơ rất hóm hỉnh, giản dị, dân dã

giống như một ông già thôn quê:

- Văn đạt chẳng cầu,yên mỗ phận, (157/ 7)

- Thân nhàn lục cục mỗ già. (94/ 4)

Như vậy, với việc sử dụng hệ thống đại từ nhân xưng đa dạng và phong phú

như: ta, mình, tôi, ông...Nguyễn Trãi thể hiện được những trạng huống tâm lí khác

nhau của cá nhân mình. Có khi thân mặt, vui vẻ với việc sử dụng đại từ "mình"

nhưng cũng có khi khinh mạn, kiêu kì pha chút giận dỗi với việc dùng tổ hợp "ông

này". Và hệ thống đại từ nhân xưng này được Nguyễn Trãi sử dụng chính ngôn từ

trong giao tiếp hàng ngày. Chúng tôi nhận thấy việc dùng đại từ nhân xưng "ông

này" đã tạo dấu ấn khẩu ngữ đậm nét trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Từ việc sử dụng

thành công các đại từ trong việc góp phần thể hiện con người cá nhân mình,

36

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Trãi còn thể hiện ý thức sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ trong sáng tạo thơ ca.

2.1.2. Hƣ từ

Tiếng Việt trung đại không được sử dụng trong các hoạt động mang tính chất

quốc gia mà chủ yếu được dùng trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Bởi

lẽ hệ tư tưởng chi phối toàn bộ đời sống kinh tế - chính trị- văn hóa - xã hội của

nước ta giai đoạn đó là hệ tư tưởng phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên hệ tư tưởng

phong kiến Việt Nam lại chịu sự chi phối mạnh mẽ của hệ tư tưởng phong kiến

Trung Quốc. Cho nên trong đời sống văn học, thơ trung đại Việt Nam tuân thủ và

chịu sự ràng buộc của hệ thống thi pháp Trung Quốc rất chặt chẽ. Điều này là một

trong những nguyên nhân lí giải lí do thơ trung đại Việt Nam hạn chế việc sử dụng

hư từ. Bên cạnh lí do khách quan trên thì ngay bản thân hệ thống hư từ cũng chưa

có được cấu trúc ổn định . Bởi hư từ tiếng Việt trung đại chưa có sự khu biệt rõ nét

giữa nội hàm chức năng cụ thể. Hay nói cách khác đây là hiện tượng đa chức năng -

một từ vừa là thực từ lại vừa là hư từ.

Cả hai lí do chủ quan và khách quan nêu ở trên đã là những "rào cản" cản trở

việc đưa khẩu ngữ vào trong tác phẩm văn học mà đặc biệt thơ trung đại. Tuy nhiên

hư từ lại là lớp từ được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày. Một mặt vì các

hư từ có chức năng biểu thị ý nghĩa tình thái cụ thể, rõ ràng và biểu cảm nhất. Mặt

khác có thể nói nhờ có các hư từ mà câu trở nên sinh động và rõ ràng hơn.

Đứng trên lập trường ý thức dân tộc và nhận thấy giá trị biểu đạt của hư từ,

Nguyễn Trãi đã đưa hư từ vào thơ Nôm một cách có hệ thống, phong phú và đa

dạng. Điều này đi ngược với quan niệm của các tác giả cùng thời, tránh sử dụng

hoặc nếu sử dụng thì hạn chế tối đa. Việc sử dụng hư từ trong tác phẩm văn chương

ở Nguyễn Trãi có sự bứt phá rõ nét từ "Ức Trai thi tập" đến "Quốc âm thi tập". Với

Quốc âm thi tập số lượng hư từ tăng lên đột biến. Việc đưa hư từ thành công vào

trong thơ Nôm, Nguyễn Trãi tạo ra một hướng đi riêng, một giọng điệu riêng.

Qua khảo sát 254 bài thơ Nôm của Nguyễn Trãi, chúng tôi nhận thấy số

lượng hư từ được sử dụng với tỉ lệ rất cao. Có khoảng 130 hư từ với 2090 lượt,

chiếm 19,2% lượt từ của toàn bộ tác phẩm, tức là cứ gần năm từ thì có một hư từ.

37

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Những hư từ khảo sát được chúng tôi phân ra thành một số tiểu loại như, phụ từ, kết

từ, tiểu từ. Trong số đó chiếm số lượng lớn nhất là hệ thống kết từ khoảng 47%.

Tiểu từ là những từ có số lượng chiếm vị trí thứ hai trong số các hư từ được sử

dụng. Những tiểu từ này góp phần bộc lộ thái độ một cách cụ thể và phong phú . Và

cuối cùng là tiểu loại phụ từ khoảng 30%.

Từ loại Phụ từ Kết từ Tiểu từ

Lượt xuất hiện 480 982 627

Tỉ lệ (%) 22.5 47.8 30.3

Đặc biệt, nhiều hư từ có tần số lặp lai cao như: những (18 lần), lại (39 lần),

chớ (41 lần), chi (47 lần), ở (49 lần), qua (50 lần), nào (56 lần), ấy (57 lần), thì (66

lần), cũng (79 lần), đã (100 lần), chăng (chẳng) (176 lần).....Chẳng hạn như:

- Chẳng dại, chẳng hòa lại chẳng thương. (157/2)

- Danh chăng chác lộc chăng cầu

Được ắt chẳng mừng mất chẳng âu. (121/1- 2)

Trong Quốc âm thi tập có nhiều câu hư từ có mặt gần như một nửa, một nửa

hoặc nhiều hơn thế như:

- Chẳng dại người hòa lại chẳng thương. (157/ 2)

- Càng còn đi ấy thác vay. (112/ 2)

- Ấy còn lãng đãng làm chi nữa. (29/ 7)

Nguyễn Trãi không chỉ sử dụng hư từ với số lượng nhiều mà quan trọng hơn

tác giả đã tạo ra được đặc trưng riêng. Việc đưa hư từ vào trong thơ đã khiến cho

câu thơ có ý nghĩa biểu thái rõ rệt và biểu thị quan hệ cụ thể. Điều này đã tác động

trực tiếp vào cảm quan của người đọc, tạo nên ấn tượng riêng về cá tính cũng như

phong cánh của tác giả. Đây là một đặc điểm quan trọng tạo nên tính khẩu ngữ

trong Quốc âm thi tập. Bởi lẽ hư từ là những từ được sử dụng nhiều trong đời sống

hàng ngày.

Thơ Nôm thời Trần cũng sử dụng những hư từ trong tác phẩm văn chương.

Chẳng hạn trong Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông có sử dụng các hư từ

38

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

"rồi" ," chẳng", "còn", "chẳng" để biểu thị thái độ và liên kết câu: "Miễn được lòng

rồi; chẳng còn pháp khác. Gìn tính sáng, tính mới hầu an. Nét niềm võng, niềm

đành chẳng thác, Dứt trừ nhân ngã, thời ra tướng thực kim cương" (Đệ nhị hội).

Tuy nhiên chỉ đến với thơ Nôm Nguyễn Trãi, hư từ mới được coi là một hiện

tượng độc đáo của cách nói khẩu ngữ đưa vào trong thơ. Bởi vì hư từ trong thơ

Quốc âm được sử dụng với số lượng nhiều và quan trọng là những hư từ đó được

sắp xếp theo trật tự xác định, tạo nên cách nói riêng, đặc biệt.

Những hư từ xuất hiện đúng chỗ góp phần tạo cho câu thơ trở nên nôm na,

giản dị, dễ hiểu và gần gũi đi vào tâm hồn người Việt - những câu thơ "hoàn toàn

Nôm thực sự". - Đã biết của quyền nhiều hiểm hóc

Cho hay đường lợi cực quanh co. (20/5 - 6)

- Hoa càng khoe tốt, tốt thời rữa

Nước chớ cho đầy, đầy ắt vơi. (85/5 -6)

Tóm lại,sử dụng những hư từ khẩu ngữ, Nguyễn Trãi đã tạo ra những câu thơ

gần gũi như lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Điều này đã cho thấy tài năng,

ý thức và công lao to lớn của Nguyễn Trãi khi đưa phong cách khẩu ngữ vào văn

học viết như một việc làm tự nhiên. Đồng thời góp phần thể hiện ý thức sử dụng

ngôn ngữ dân tộc một cách rõ rệt.

Qua tìm hiểu những đặc điểm trong việc sử dụng từ vựng của Nguyễn Trãi

trong Quốc âm thi tập, chúng tôi nhận thấy, biểu hiện của từ khẩu ngữ trong thơ

Nôm Nguyễn Trãi rất phong phú, đa dạng. Sự xuất hiện của các từ mang tính khẩu

ngữ ở tất cả các lớp từ như, thực từ (danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ) và hư từ

(phụ từ, kết từ, tiểu từ). Những từ này xuất hiện không phải một cách ngẫu nhiên,

vô tình mà ngược lại sự xuất hiện này mang tính hệ thống hóa cao. Điều đó mang

lại giá trị thẩm mĩ cho thơ Nôm Nguyễn Trãi. Thứ nhất, nó góp phần đưa ngôn từ

dân tộc vào trong sáng tạo văn chương từ đó khẳng định vị thế của ngôn từ dân tộc

và chính thức "ghi tên" vào kho từ vựng tiếng Việt. Thứ hai, những từ khẩu ngữ này

đã đưa những câu thơ trở nên nhẹ nhàng, gần gũi, dễ cảm, dễ hiểu hơn chứ không

cầu kì, kiểu cách, khó hiểu đối với người dân Việt. Thứ ba, từ khẩu ngữ đã thực sự

39

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phát huy tác dụng trong việc giúp tác giả Quốc âm diễn tả những trạng huống, tâm

lí, tình cảm. Với việc đưa khẩu ngữ vào trong thơ và khẳng định giá trị thẩm mĩ mà

nó đem lại, Nguyễn Trãi đã khẳng định bản lĩnh, tài năng, ý thức sâu sắc mình.

2.2. Về phƣơng diện cú pháp.

Quốc âm thi tập tuy xuất hiện ở chặng đầu của thơ tiếng Việt song ngôn ngữ

thơ Nôm đã hình thành dấu ấn riêng. Sử dụng một vốn từ Việt phong phú nhất là

các từ khẩu ngữ trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã làm cho ngôn ngữ thơ Nôm

phong phú, uyển chuyển, tế nhị, linh hoạt trong việc tả tình ý và "mọi khía cạnh của

cuộc sống". Bên cạnh sự thành công khi đưa ngôn từ dân tộc vào trong tác phẩm

không thể không nói tới việc sử dụng cách kết hợp các từ ngữ đặc sắc để tạo thành

lời thơ riêng. Hay nói cách khác một trong những điểm làm nên dấu ấn ngôn ngữ

riêng trong Quốc âm thi tập chính là phương diện cú pháp. Phương diện cú pháp

trong Quốc âm thể hiện ở rất nhiều mặt. Tuy nhiên ở luận văn này chúng tôi tập

trung tìm hiểu những cấu trúc cú pháp bởi cú pháp là toàn bộ các phương tiện và

quy tắc cấu tạo nên các đơn vị lời nói trong ngôn ngữ. Dựa trên lí thuyết của ngôn

ngữ học thì cú pháp có cấu trúc phức tạp bao gồm một loạt các đơn vị như: Một cú

đoạn, một cú hoặc một câu. Và các chức năng của cú pháp là làm chủ ngữ, vị ngữ,

tân ngữ,…và câu – có nội dung thông báo hoàn chỉnh Theo đó thì cú pháp trong thơ

Nôm được thể hiện ở, sự kết hợp từ ngữ trong sự cân đối hài hòa, sử dụng các kiểu

câu cảm thán và nghi vấn, sử dụng các kết cấu riêng của lời nói thường. Khảo sát

254 bài thơ Nôm trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thu được kết quả như sau:

Cụm từ cân Câu cảm thán và Kết cấu theo lối nói khẩu

Cú pháp đăng câu nghi vấn ngữ

đối hài hòa Câu cảm Câu nghi Kết cấu Kết cấu

thán vấn "thì", "là" những + vị từ,

hãy + động từ.

Số lượng 157 28 96 103 53

40

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tỉ lệ (%) 35.9 6.4 22 23.6 12.1

2.2.1. Kết hợp từ ngữ trong sự đăng đối hài hòa

Việt Nam có một nền văn hóa đặc sắc, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều này

được thể hiện rất rõ qua kho tàng các thành ngữ, tục ngữ, ca dao mà cha ông ta để

lại. Như vậy có thể nói ngôn ngữ dân gian được lưu truyền lại trong thành ngữ, tục

ngữ, ca dao đều bắt nguồn từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Trên cơ sở

kho tàng ngôn từ dân tộc, Nguyễn Trãi đã khai thác và vận dụng khéo léo, tài tình

nguồn ngữ liệu này để diễn đạt những tình ý, những suy ngẫm của mình về cuộc

sống, về con người, về bản thân, về sự nghiệp mà ông phụng sự.

Những từ ngữ được ông chọn lựa và kết hợp với nhau tạo nên chỉnh thể cân

đối hài hòa. Hay nói cách khác sự kết hợp các từ với nhau tạo nên các cụm từ cân

đối hài hòa. "Cụm từ cân đối hài hòa là cách gọi tên của ngữ có cấu trúc cân đối

gồm hai vế. Mỗi vế ngoài số chữ bằng nhau (có thể là 4 chữ, có thể là 6 chữ), còn

yêu cầu phải "đối", đối về thanh điệu và đối về từ loại" [41, tr.75].

a. Dựa vào số lƣợng chữ trong mỗi vế

Dựa vào số lượng chữ trong mỗi vế của cụm từ cân đối, chúng tôi chia các

cụm từ cân đối thành hai loại: Cụm từ cân đối 4 chữ và cụm từ cân đối 6 chữ. Qua

thống kê và phân loại 254 bài thơ Nôm thì có 131 trường hợp cụm từ cân đối gồm 4

chữ và 26 trường hợp cụm từ cân đối gồm 6 chữ. Chẳng hạn như:

Cụm từ cân đối 4 chữ Cụm từ cân đối 6 chữ

"Chè mai đêm nguyệt" (3/3) "No nước uống thiếu cơm ăn" (1/2)

"Hài gai khăn gốc" (33/2) "Thơ đầy túi, rượu đầy bình" (86/ 8)

"Khướu hót chim khôn" (127/ 6) "Trời nghi ngút nước mênh mông" (213/1)

Các cụm từ cân đối được Nguyễn Trãi tạo ra bằng những lối kết hợp khác

nhau. Chẳng hạn như trong việc tạo ra cụm từ cân đối 4 chữ, Nguyễn Trãi đã mượn

thi liệu từ văn liệu Trung Quốc nhưng diễn đạt theo cách của mình. Chẳng hạn như:

cụm từ "Cày ăn đào uống" (102/ 8) được lấy từ Tề thư "Tạc ẩm canh thực" hay

"Tường đào ngõ mận" lấy từ câu "Thiên hạ đào lý tất tại công môn" (= Đào lí trong

thiên hạ ắt ở trong cửa nhà ông)... Có những cụm từ được tạo ra bằng cách kết hợp

41

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

chéo cân đối.. Đó là cách tách các tiếng kép thành 4 từ tự do rồi lồng chéo 4 từ vừa

tách được vào với nhau tạo ra một cụm mới. Chẳng hạn như cụm, "Cày ruộng cuốc

vườn" (43/ 7) được tạo ra từ việc tách và kết hợp 2 tiếng kép "cày cuốc" và "ruộng

vườn" hay như cụm từ "Đường danh lối lợi" (172/8) được tạo ra rừ việc tách và kết

hợp 2 tiếng kép "đường lối" và "danh lợi"...

b. Dựa vào cấu tạo đối trong các cụm từ

Dựa vào cấu tạo đối trong các cụm từ có thể chia thành đối từ loại và đối thanh.

- Đối từ loại: Theo khảo sát và phân loại thì có các kiểu kết hợp từ ngữ như sau:

Cụm từ được kết hợp bởi: Danh từ + tính từ đối danh từ + tính từ.

Chẳng hạn như: + Cuốc cùn ước xáo (7/3)

+ Hùm oai muông mạnh. (127/ 5)

Cụm từ được tạo ra do sự kết hợp: Động từ + danh từ đối động từ + danh từ.

Chẳng hạn như: + Tìm mai đạp nguyệt (60/4)

+ Phát cỏ ương sen ( 69/ 4)

Cụm từ được tạo ra do sự kết hợp: số từ + danh từ đối số từ + danh từ.

Chẳng hạn như: + Một cơm hai việc (173/ 5)

+ Hai thớ ba dòng (173/ 6)

- Về đối thanh: Qua khảo sát và phân loại các cụm từ cân đối hài hòa có các kiểu

đối thanh sau: Cụm từ cân đối có chữ thứ nhất ở vế thứ nhất đối với chữ thứ nhất ở

vế thứ hai và chữ thứ hai ở vế thứ nhất đối với chữ thứ hai ở vế thứ hai; Cụm từ cân

đối có các chữ ở mỗi vế cùng thanh với nhau nhưng hai vế lại đối thanh với nhau;

Cụm từ có ba chữ cùng thanh với nhau nhưng chữ cuối của hai vế nhất thiết phải

đối nhau... Chẳng hạn như:

+ Chè mai đêm nguyệt (3/ 3)

+ Sân mai tuyết bạc (164/ 4)

+ Chẳng cằn chẳng cỗi (215/ 2)

Các cụm từ cân đối trên được tạo ra bằng nhiều cách thức khác nhau nhưng

có thể nhận thấy các cụm từ trên được tạo ra từ những nguồn gốc khác nhau. Một số

cụm từ được tạo ra từ việc mượn và cải biến từ văn liệu Trung quốc. Tuy nhiên

42

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phần lớn các cụm từ cân đối trong Quốc âm thi tập đều có gốc từ vốn ngôn ngữ

quen dùng của nhân dân - đặc biệt là từ những thành ngữ, tục ngữ, ca dao của dân

gian. Trên cơ sỏ thi liệu từ dân gian, Nguyễn Trãi đã dụng công nhào nặn để làm

thành thứ ngôn ngữ trau chuốt từ nhịp điệu, âm thanh cho đến nội dung ý nghĩa.

Chẳng hạn như, từ câu tục ngữ: "Con sâu bỏ rầu nồi canh"

Nguyễn Trãi đã tạo ra câu thơ có cụm từ cân đối 6 chữ:

"Nẻo có sâu thì bỏ canh" (136/ 6)

Việc tạo ra các cụm từ cân đối hài hòa với nhiều cách thức khác nhau đã làm

cho cách diễn đạt của Nguyễn Trãi trở nên đa dạng, phong phú và ý thơ được thể

hiện một cách sinh động, rõ ràng, gần gũi hơn. Nói bằng ngôn từ dân tộc, thể hiện

tâm tư, tình cảm, cảm xúc của con người Việt cho nên tho Nguyễn Trãi trở nên gần

gũi, quen thuộc và dễ dàng tiếp cận đối với người dân chứ không cầu kì, kiểu cách

và khó hiểu như thơ bác học.

Lí giải điều này có lẽ do Nguyễn Trãi là một nhà thơ luôn hướng lòng mình

về nhân dân, hết lòng vì nhân dân và đồng thời có điều kiện sống gần gũi với đời

sống của nhân dân ở mức độ nhất định. Cho nên Nguyễn Trãi có được vốn sống

rộng rãi và đặc biệt có được vốn ngôn ngữ từ nhân dân khá dồi dào. Điều này được

thể hiện trong thơ qua sự tiếp thu và cải biến các thành ngữ, tục ngữ và ca dao. Hay

nói cách khác, tiếng nói nhân dân được Nguyễn Trãi lựa chọn, gọt giũa và cách điệu

hóa từ trong ngôn ngữ văn học dân gian mà tục ngữ, ca dao là tinh chất để đưa vào

trong tác phẩm. Có thể khẳng định nhờ tiếp thu và sử dụng một cách sáng tạo các

thành ngữ, tục ngữ, ca dao đã đem đến cho thơ Nôm Nguyễn Trãi màu sắc riêng.

2.2.2. Sử dụng các kiểu câu cảm thán, câu nghi vấn

Bên cạnh việc đưa vào một số lượng lớn các từ láy và tạo ra các cụm từ cân

đối hài hòa, một trong những đặc điểm trong sử dụng cú pháp là sử dụng các câu

trong Quốc âm thị tập. Hầu hết các bài thơ Nôm Nguyễn Trãi là lời tâm sự chân

thành bộc lộ ra một cách thoải mái, hồn nhiên. Cho nên có rất nhiều những câu nói

lên tâm sự, suy tư. Đó là lí do chúng tôi nhận thấy có rất nhiều những câu cảm thán

43

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

và câu nghi vấn có mặt trong Quốc âm.

a. Sử dụng câu cảm thán

Trong tiếng Việt, câu phân loại theo mục đích nói được chia thành bốn loại:

câu cảm thán, câu nghi vấn, câu cầu khiến và câu mệnh lệnh. Theo đó thì câu cảm

thán là những câu được dùng khi cần thể hiện đến một mức độ nhất định trong

những tính chất khác nhau, thái độ đánh giá, trạng thái tinh thần khác thường của

người đối với sự vật hoặc sự vật mà câu nói đề cập hoặc ám chỉ.

Trên cơ sở lí thuyết trên, chúng tôi nhận thấy trong Quốc âm thi tập có rất

nhiều câu phù hợp với lý thuyết trên. Chủ yếu chúng tôi nhận biết được dựa trên

những dấu hiệu hình thức của câu cảm thán. Chẳng hạn như:

Bể hiểm nhân gian ai kẻ biết

Ghê thay thế nước vị qua mềm. (115/ 7- 8)

Đây là câu cảm thán có tiểu từ "thay" được cấu tạo theo lối, vị từ đứng trước

danh từ chủ thể. Lối kết cấu này nhằm nhấn mạnh đến thái độ mỉa mai, như một lời

khẳng định.

Ngoài ra có rất nhiều câu cảm thán được câu tạo bởi kế cấu, tiểu từ "thay"

đứng sau một vị từ như:

- Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết

Bui một lòng người cực hiểm thay. (26/7- 8)

- Kỳ ký no thai đà có đấy

Kẻ nhìn cho biết lại khôn thay. (112/78)

Kết cấu này mang giá trị biểu đạt là lời khẳng định với thái đội mỉa mai, xác định.

Cũng theo lý thuyết ngôn ngữ học thì những tiểu từ tình thái (đặc biệt là

những tiểu từ tình thái cuối câu) là những từ tuy không có nghĩa từ vựng nhưng lại

có nghĩa ngữ pháp rất quan trọng. Nó là một trong những điều kiện để phát ngôn trở

thành câu và biểu thị thái độ đi kèm. Vì vậy, chúng tôi xác định những câu thơ trong

Quốc âm thi tập chứa tiểu từ tình thái và đại từ nhân xưng đều được coi là câu cảm

thán. Chẳng hạn như:

- Ta còn lẳng đẳng làm chi nữa

44

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Tượng có trời bày đặt vay. (45/ 7- 8)

- Lan, huệ chẳng thơm thì chớ

Nỡ chi lại phải chốn tanh tao. (167/ 7- 8)

Bên cạnh những kết cấu câu cảm thán có thể nhận bết được thì có những câu

trung gian. Nghĩa là có thể xác định câu đó là câu tường thuật hàm chỉ sự chú ý hay

có thể xác định là câu cảm thán. Bởi để xác định được mức độ tình cảm, tâm trạng

để xác định có phải là câu cảm thán hay không là điều rất khó. Ở luận văn này

chúng tôi chỉ chú ý đến những câu có dấu hiệu hình thức khá xác định để chỉ ra một

trong những đặc điểm cú pháp trong Quốc âm thi tập là sử dụng câu cảm thán.

b. Sử dụng câu nghi vấn

Qua khảo sát Quốc âm thi tập, chúng tôi thấy Nguyễn Trãi sử dụng những

câu nghi vấn. Theo lý thuyết thì những câu nghi vấn thường được dùng để nêu lên

điều chưa biết hoặc còn hoài nghi và chờ đợi sự trả lời, giải thích của người tiếp

nhận câu đó. Theo đó thì có một số dấu hiệu nhận biết câu nghi vấn như,sử dụng

các đại từ nghi vấn, kết từ hay (với ý nghĩa lựa chọn), các phụ từ nghi vấn, các tiểu

từ chuyên dụng. Theo thống kê sơ bộ thì trong Quốc âm thi tập có 96 câu được xác

định là câu nghi vấn. Những câu nghi vấn có đại từ nghi vấn trong Quốc âm thi tập

như:

- Thân nhàn dầu tới dầu lui

Thua được bằng cờ ai kẻ đòi. (13/1- 2)

- Quê chợ bao nhiêu khách để xe. (73/ 2)

Mỗi đại từ nghi vấn trên đều được sử dụng với nội dung hỏi khá rõ, kèm theo

những sắc thái tế nhị và hướng tới một đối tượng, một đích cụ thể. Tuy nhiên đối

với những trường hợp có hai khả năng xảy ra và cần đưa ra quyết định lựa chọn thì

sử dụng câu nghi vấn với kết cấu "hay". Trong Quốc âm thi tập, chúng tôi nhận

thấy có một số câu được tổ chức theo cấu trúc này như:

- Ai ai đà biết được hay chưa. (179/ 2)

- Ướm xem dầu nguyệt tiểu hay đài. (194/ 8)

Mở rộng kết cấu câu nghi vấn sử dụng từ "hay" thì có rất nhiều câu nghi vấn

45

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

được kết cấu "hay chăng" dùng để hỏi đoán.

- Thiên hạ đổi được hay chăng. (16/ 8)

- Nghìn vàng ước đổi được hay chăng (77/ 8)

Ngoài ra trong Quốc âm có nhiều câu nghi vấn được tạo ra bằng việc sử

dụng các tiểu từ chuyên dụng , chi (gì), ấy chớ. Chẳng hạn:

- Tổn hại tinh thần sự ích chi (190/ 6)

Phu phụ đạo thường chăng được chớ. (190/ 7)

Có thể thấy những câu nghi vấn trong Quốc âm thi tập thường không đòi hỏi

câu trả lời. Nhiều khi hỏi về cả những điều đã biết và có lẽ nhằm để thu hút sự quan

tâm và làm cho thế văn trở nên linh hoạt, hoạt bát hơn.

Với mỗi kết cấu nghi vấn đều mang lại những giá trị nội dung khác nhau và

sắc thái khác nhau. Việc sử dụng những kết cấu nghi vấn khác nhau đã giúp Nguyễn

Trãi diễn tả những suy nghĩ, tâm trạng một cách rõ nét. Với tâm trạng băn khoăn,

mâu thuẫn, giằng xé không nguôi giữa việc xuất thế và nhập thế thì những câu nghi

vấn và cảm thán đã phát huy hiệu lực cao.

Như vậy, với việc sử dụng những câu cảm thán với nhiều kiểu kết hợp khác

nhau đã giúp Nguyễn Trãi diễn tả được nhiều trạng thái tâm lý, tình cảm, những suy

tư của tác giả. Đồng thời với việc sử dụng những cấu trúc cảm thán và nghi vấn có

sự góp mặt của các kết cấu gần với lời nói thường đã tạo ra nhưng câu thơ hết sức

dễ hiểu, gần gũi không câu kì, kiểu cách.

2.2.3. Sử dụng kết cấu của lối nói khẩu ngữ.

Trong giao tiếp, người nói luôn bị hai hiệu lực chi phối, một là, quy tắc tổ

chức câu, hai là, hoàn cảnh và tính huống quyết định sự lựa chọn kiểu diễn đạt này

hay kiểu khác. Chính vì vậy, mỗi tình huống khác nhau tạo ra những kiểu nói đặc

thù mà có thể dễ nhận ra. Thơ Nôm Nguyễn Trãi bộc lộ tâm tình của nhà thơ với

cảm xúc đa dạng gắn liền với nhiều cảnh ngộ khác nhau trong cuộc đời. Bên cạnh

việc bộc lộ tâm tình thơ Nôm Nguyễn Trãi còn thể hiện ý thức dân tộc. Đặc biệt là

trong việc sử dụng ngôn từ dân tộc. Với việc sử dụng những từ ngữ Việt, tạo ra

những kết hợp hài hòa trên cơ sở kho tư liệu phong phú là tục ngữ, ca dao thì

46

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Trãi còn vận dụng cả những cách nói mang tính khẩu ngữ từ dân gian. Điều

này được thể hiện qua một số kết cấu để cấu tạo nên một số lượng lớn những câu

thơ trong Quốc âm. Sau đây là một số kết cấu điển hình như:

a. Sử dụng kết cấu "thì", "là"

Xét về mặt ngôn ngữ thể hiện thì thơ Nôm Nguyễn Trãi trở nên gần gũi như

lời ăn tiếng nói của nhân dân một phần do sự lựa chọn từ, phần khác do sự kết hợp

các từ đó theo cách nói dân gian. Khảo sát Quốc âm thi tập, chúng tôi nhận thấy có

103 câu sử dụng kết cấu chữ "thì", "là". Những kết cấu này vốn rất ít xuất hiện

trong thơ Đường luật nói riêng và trong thơ trung đại nói chung. Xét từ phương diện

lí thuyết thì các các cấu trên là kết cấu đặc trưng của phong cách khẩu ngữ.

Các kết cấu này có nhiều chức năng, có thể phân tách hoặc liên kết các thành

phần của một câu, hai câu hay là tiền giả định của một câu. Tuy nhiên mỗi kết cấu

này lại biểu đạt những nội dung và có giá trị riêng khác khi sử dụng. Kết cấu "thì"

mang chức năng ngăn phần chủ ngữ và phần vị ngữ. Tùy thuộc vào những trường

hợp khác nhau mà kết cấu này nhấn mạnh nét nghĩa "tất yếu" hoặc "tương phản".

Tuy nhiên nói chung "thì" thường dùng trong lối liệt kê sự vật. Theo thống kê sơ bộ

trong Quốc âm thi tập có 73 câu sử dụng kết cấu "thì" vói các chức năng như, nối

kết câu, nhấn mạnh một nét nghĩa nào đó hoặc là tiền giả định cho câu. Chẳng hạn

để nhấn mạnh chủ thể "tôi", Nguyễn Trãi sử dụng kết cấu "thì" có một hàm ngôn so

sánh với người khác như:

Tôi người một lòng trung hiếu. (93/ 7)

Chính vì có một tiền giả định (Ai chứ tôi thì... ) đã nhấn mạnh chủ ngữ "tôi".

Từ đó làm cho câu thơ tăng hiệu lực khẳng định.

Hay Nguyễn Trãi nhiều lần sử dụng kết cấu chữ "thì" để liệt kê như:

- Có thì ăn mặc chớ lo toan. (134/ 2)

- Ăn thì canh cá chớ khô khan. (134/ 6)

Tuy nhiên trong 73 câu có sử dụng kết cấu chữ "thì" thì phần lớn dùng để thể

hiện nét nghĩa "tất yếu". Chẳng hạn:

(20/ 1) - Nẻo có ăn thì có lo.

47

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

(131/ 2) - Khó thì hay khốn khéo hay hanh.

Bên cạnh đó cũng có những câu mang nét nghĩa "tương phản" như:

- Hoa càng khoe tốt, tốt thì rữa. (85/ 5)

- Chẳng thấp thì cao ắt được dùng. (132/ 8)

Với việc sử dụng kết cấu "thì", Nguyễn Trãi có thể diễn tả một cách giản dị,

dễ dàng những trạng huống, suy nghĩ và điều mà cá nhân tác giả muốn nói. Quốc

âm thi tập là tập thơ thể hiện những suy tư, tình cảm của cá nhân tác giả cho nên

đây cũng là điều lý giải tại sao kết cấu "thì" mang lại hiệu quả cao.

Bên cạnh việc sử dụng kết cấu "thì", Quốc âm thi tập còn có 33 câu được cấu

trúc kết cấu chữ "là". Trong câu "là" cũng là một dấu hiệu dùng để ngắt câu hoặc

thành phần câu. Và khi đó "là" có thể thay thế được cho "thì". Chẳng hạn trong

Quốc âm thi tập có những câu thơ mang hai cấu trúc "thì", "là" khác nhau nhưng

đều có chức năng giống nhau. Chẳng hạn như:

"Nẻo có ăn thì có lo" (20/ 1)

"Lòng chẳng mắc tham là của cải" (74/ 5)

Tuy nhiên kết cấu "là" lại khác kết cấu "thì" ở chỗ: "Là" có chức năng của hệ

từ (động từ). Như vậy đã tạo ra sự khác nhau về sắc thái khi sử dụng hai kết cấu

này. Sắc thái của kết cấu "là" ở mức độ bắt buộc nhẹ hơn "thì". Chẳng hạn như,

trong câu: "Nhịn xong thì vạn sự qua" (191/ 8) thì kết cấu "thì" thể hiện nét nghĩa

"tất yếu", điều hiển nhiên. Tuy nhiên trong câu "Lòng chẳng mắc tham là của cải"

(74/ 5) thì kết cấu "là" thể hiện nét nghĩa một nhận định nhưng nhận định này là tất

yếu nhưng không có hiệu lực bắt buộc phải phụ tùng tuyệt đối như với kết cấu "thì"

ở cấu trên.

Ngoài ra còn có rất nhiều các câu có kết cấu chữ "là" thể hiện một quan

niệm, nhận định được đưa ra như:

- Nào đâu là chẳng đất nhà quan. (17/ 8)

- Sắc là giặc, đam làm chi. (190/ 1)

Như vậy, với các cấu trúc này, Nguyễn Trãi có khả năng diễn tả, bộc lộ

nhiều trạng huống, nhận định của cá nhân mình và đặc biệt là tăng ngữ điệu nhấn

48

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mạnh vào một vài nét nghĩa nào đó. Từ đó có thể hàm ý khẳng định hoặc phủ định,

khuyên bảo hay dãi bày tâm sự... Ngữ điệu nói trở nên rõ ràng nhờ một phấn ở kết

cấu này. Các kết cấu này tạo ra sự phân tách, điểm ngừng và nhấn mạnh vào một

nội dung nào đó tùy vào ý nhà thơ. Cho nên có thể khẳng định, cách nói này giống

với cách "vừa nói vừa nghĩ" của nhân dân và Nguyễn Trãi đã xóa dần đi khoảng

cách giữa ngôn ngữ thơ với ngôn ngữ hàng ngày.

b. Sử dụng cấu trúc: những + vị từ và hãy + động từ

Bên cạnh những cấu trúc thường thấy trong sinh hoạt hàng ngày thì trong

Quốc âm thi tập cũng có rất nhiều những câu được tạo ra do sự kết hợp giữa hư từ

với động từ theo lối khẩu ngữ. Cấu trúc, những + vị từ nhằm hàm ý nhấn mạnh một

hành động, trạng thái, đặc điểm, tình cảm... ; hãy + động từ chỉ hành động tiếp diễn:

(Những + Vị từ)

- Phượng những tiếc cao diều hãy liệng. (120/ 3)

- Tơ hào chưa báo hãy còn âu (30/ 8)

(hãy + động từ)

Các kết cấu này tạo ra những nét nghĩa mới biểu đạt những dụng ý mà

Nguyễn Trãi muốn dãi bày. Đó là tâm trạng nuối tiếc, băn khoăn... vẫn đang xâm

chiếm trong tâm thức của nhà thơ. Đồng thời qua đó tạo ra hàm nghĩa ẩn, thể hiện

sự tự ý thức, chủ động của Nguyễn Trãi khi viết lên những vần thơ đó. Và còn có

không ít những câu thơ được viết theo ngôn ngữ nói thường ngày. Nhiều khi được

đến những câu thơ như thế tưởng như đó là lời thốt ra từ miệng của quần chúng

nhân dân mà Nguyễn Trãi mượn để nói. Đó là những câu như:

- Nghe - lượm lấy - lọ chi đòn (192/ 8)

- Thiếu một hai mà lo chín tuần (195/ 8)

Như vậy, có thể nói những kiểu kết cấu vừa trình bày ở trên đã mang lại giá

trị biểu đạt rất cao. Mỗi một kết cấu với chức năng, giá trị đặc thù đã giúp Nguyễn

Trãi diễn tả đầy đủ những trạng huống, tâm tình, suy nghĩ và đem lại hiệu quả thẩm

mĩ cao. Không cầu kì, kiểu cách, những câu thơ hết sức dân dã, như lời ăn tiếng nói

49

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

của nhân dân đã đi vào thơ Nguyễn Trãi một cách tự nhiên, dễ hiểu, dễ gần.

Tóm lại, việc tạo ra những kết cấu cân đối, hài hòa, sử dụng những kiểu câu

nghi vấn và sử dụng những kiểu cấu trúc của lời nói thường, Nguyễn Trãi đã diễn tả

những trạng huống tâm lí, những hình tượng nghệ thuật một cách chính xác, rõ ràng

nhưng hết sức gần gũi, dễ hiểu. Theo lý thuyết thì mỗi một từ, mỗi một kết cấu đều

mang ý nghĩa riêng của mình. Việc Nguyễn Trãi sử dụng nhiều kết cấu khác nhau

đã cho thấy Nguyễn Trãi không chỉ tạo ra những hiệu quả nghệ thuật cao mà còn

cho thấy ông rất am hiểu ngôn và thông thạo việc sử dụng chúng sao cho hiệu quả.

Điều này cho thấy ý thức sử dụng ngôn từ dân tộc ở Nguyễn Trãi là rất cao, tự giác.

2.3. Một số biện pháp tu từ

Bên cạnh việc sử dụng những từ ngữ xa lạ với thơ bác học nhưng lại quen

thuộc với nhân dân như: quả núc nác, luống mùng tơi, hạt kê, dưa muối, ngáy pho

pho, đủng đỉnh, thú thứa, lẽo đẽo, xênh xang... và những cấu trúc cú pháp theo cách

nói khẩu ngữ như: những + vị từ hàm ý nhấn mạnh một hành động trạng thái, đặc

điểm tính chất, hãy + động từ chỉ hành động tiếp diễn... hay cách hành văn theo lối

của ngôn ngữ nói, Nguyễn Trãi còn sử dụng một số biện pháp tu từ như, biện pháp

so sánh, ví von giàu hình ảnh, biện pháp nói quá khoa trương... để diễn tả dụng ý

nghệ thuật của mình.

2.3.1. Cách so sánh ví von giàu hình ảnh

Để miêu tả sự vật, đời sống hàng ngày một cách sinh động, Nguyễn Trãi đã

sử dụng cách nói hình ảnh, lối ví von so sánh cụ thể, sinh động và giản dị. Qua khảo

sát 254 bài thơ trong Quốc âm thi tập, chúng tôi thống kê được 177 thơ được xây

dựng nhờ cách ví von so sánh. Trong số 177 câu thơ thống kê được có 21 câu thơ

có cấu trúc: B trong A như B. Chẳng hạn:

- Ngày tháng bằng thoi một phút cười. (22/2)

- Quan thanh bằng nước nhà bằng khách. (117/5)

Với cách so sánh hai sự vật có mối tương liên với nhau, Nguyễn Trãi đã tạo

ra những hình ảnh sinh động, hết sức dễ hiểu. Những sự vật được sử dụng để so

sánh rất gần gũi với nhân dân. Hay nói cách khác, Nguyễn Trãi đã sử dụng những

50

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sự vật gần gũi và được nhân dân sử dụng trong giao tiếp đời sống hàng ngày như

đá, là con thoi, nước...đã được đem ra so sánh, ngày tháng được ví như con thoi, sự

nghèo ví nhiều bằng tóc, khí tiết được ví bằng đá... để đưa vào Quốc âm. Chính điều

này đã làm cho lời thơ của Nguyễn Trãi có màu sắc riêng giảm bớt tính chất quan

phương và phù hợp với cách cảm và nghĩ của người Việt.

Khi miêu tả thế giới thiên nhiên bao la, muôn vàn cảnh vật Nguyễn Trãi dành

rất nhiều câu thơ nói về các loài hoa. Đó là hoa mai, một loài hoa trượng trưng cho

cốt cách thanh khiết, có vẻ đẹp yêu kiều:

Trên cây khác ngỡ hồn Cô Dịch

Đáy nước ngờ là mặt Thái Phi. (214/3-4)

Để nói lên cốt cách thanh khiết của hoa mai, Nguyễn Trãi đã ví hoa mai với

thần nhân ở núi Cô Dịch - một vị thần da trắng như tuyết, yểu điệu như người con

gái chưa chồng, không ăn năm loài thóc (ngũ cốc), chỉ hớp gió uống sương. Vả vẻ

đẹp của hoa mai được ví với nét mặt yêu kiều đầy đặn của nàng Dương Quý Phi -

vợ lẽ vua Đường Minh Hoàng nổi tiếng về nhan sắc. Nói về vẻ đẹp của hoa mai

trong bài 215 Nguyễn Trãi còn ví vẻ đẹp của hoa mai với khuôn mặt của nàng Thọ

Dương được hoa mai điểm sắc.

Cách song khác ngỡ hồn Cô Dịch

Quảng bóng in nên mặt Thọ Dương. (215/ 3-4)

Vẻ đẹp của Dương Quý Phi không chỉ được dùng để so sánh nói lên vẻ đẹp

của hoa mai mà khi nói về hoa Trường An - một loài hoa chưa rõ thuộc loại hoa nào

Nguyễn Trãi cũng sánh vẻ đẹp của loài hoa này với Dương Quý Phi:

Ấy chẳng Tây Thi thì Thái Chân. (246/ 1)

Và những giọt sương đêm vương trên những cánh hoa khiến cho những bông

hoa trở nên lung linh, huyền ảo và đẹp lạ lùng. Giọt sương như nước mắt của những

bông hoa đang nhỏ lệ khi nhớ về nàng Thái Chân.

Vườn hoa khóc tiếc nàng Phi tử. (195/5)

Câu thơ nhắc đến mối duyên tình sâu đậm của Đường Minh Hoàng và

Dương Quý Phi. Vì thương nhớ người phi tử yêu mà Đường Minh Hoàng rơi lệ khi

51

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhìn hoa phù dung.

Hoa được nhắc đến trong Quốc âm thi tập không phải chỉ kiêu xa, lộng lẫy

mà những bông hoa còn mang nặng nghĩa tình, mang nặng những tình cảm thiết tha.

Những bông hoa như những cô gái mang vẻ đẹp bề ngoài và cả nội tâm. Có thể

khẳng định, bằng thủ pháp so sánh ví von giàu cảm xúc, Nguyễn Trãi đã tạo ra thế

tương liên giữa vẻ đẹp của các loài hoa và vẻ đẹp của con người. Đây là một quan

điểm rất mới trong văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XV. Bởi vì văn học Việt Nam

thế kỉ XV luôn lấy đề cao vẻ đẹp của tự nhiên, luôn lấy tự nhiên làm chuẩn mực,

thước đo cho cái đẹp. Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã bộc lộ quan điểm thẩm

mĩ khác với các tác giả cùng thời. Nguyễn Trãi không lấy vẻ đẹp của tự nhiên làm

chuẩn mực của con người mà lấy con người là trung tâm, làm chuẩn mực và là

thước đo cho cái đẹp. Quan niệm thẩm mĩ này đã vượt lên thời đại của ông. Và phải

sau mấy thế kỉ, quan niệm thẩm mĩ này mới được xem xét một cách ý thức và tìm

được vị trí của mình. Sau gần 3 thế kỉ, Nguyễn Du với tác phẩm "Truyện Kiều" là

người đánh dấu đậm nét quan niệm thẩm mĩ lấy con người là trung tâm là chuẩn

mực của cái đẹp.Khi miêu tả vẻ đẹp của hai nàng Thúy Vân và Thúy Kiều, Nguyễn

Du viết:

"Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười, ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy, nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh"

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Có thể thấy cách ví von, so sánh trong Quốc âm thi tập rất hay, rất có hình

ảnh và rất thấm thía. Lý giải điều này là do Nguyễn Trãi sử dụng những thi liệu là

thành ngữ, tục ngữ, ca dao của dân gian. Dân gian thường dùng biện pháp tu từ so

52

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sánh một cách sáng tạo trong thành ngữ, tục ngữ, ca dao như, mượn ý câu tục ngữ:

"Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài".

Nguyễn Trãi đã sáng tạo nên hình ảnh:

"Ở bầu thì dáng ắt nên tròn". (148/1)

Để nói tùy theo từng cảnh huống mà tiến thoái, xuất xử cho phù hợp. Hay

mượn những câu tục ngữ, ca dao nói về tính chất nham hiểm của lòng người dưới

chế độ phong kiến như:

- Sông sâu còn có kẻ dò

Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.

- Khẩu phật, tâm xà.

Nguyễn Trãi đã tạo ra những hình ảnh so sánh mà bất cứ lòng sông, lòng

biển nào cũng không sánh kịp, không sâu bằng lòng người như:

- Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,

Lòng người quanh nữa nước non quanh. (136/ 3-4)

Như vậy, việc sử dụng biện pháp so sánh ví von giàu hình ảnh trong Quốc

âm thi tập Nguyễn Trãi đã tạo ra bức tranh sinh động, sống động, nhiều chiều vẻ.

Những hình ảnh sinh động được tạo ra trên cơ sở thi liệu là những câu thành ngữ, ca

dao, tục ngữ đã thể hiện rõ ý thức trân trọng tiếng nói của tổ tiên và ý thức dân tộc

và của bản thân tác giả.

2.3.2. Sử dụng biện pháp ẩn dụ, hoán dụ

Trong Quốc âm thi tập, những bức tranh sinh động, sống động, nhiều chiều

vẻ và những trạng huống tình cảm, những nỗi niềm riêng tư được bộc lộ một phần

nhờ vào hiệu quả thẩm mĩ của biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ. Trong tác phẩm

văn học, đặc biệt là thơ sử dụng khá nhiều nhằm giúp biểu đạt hình tượng, ý tứ thơ

một cách sâu xa và đẹp đẽ hơn.

Trong tác phẩm, biện pháp tu từ ẩn dụ nhằm tạo ra những hình tượng và biểu

đạt cảm xúc đa chiều. Bởi ẩn dụ là sự định danh thứ hai mang ý nghĩa hình tượng,

dựa trên sự tương đồng hay giống nhau (có tính chất hiệu thực hoặc tưởng tượng ra)

giữa khách thể (hoặc hiện tượng, hoạt động, tính chất) A được định danh với khách

53

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thể (hoặc hình tượng, hoạt động, tính chất) B có tên gọi được chuyển sang dành cho

A. Một số hình tượng thơ, cảm xúc ẩn trong thơ trong Quốc âm thi tập được tạo ra

nhờ biện pháp ẩn dụ như:

- Phượng những tiếc cao diều hãy liệng

Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi. (120/ 5- 6)

Ở câu thơ trên "hoa" được dùng để ví người có phẩm chất cao đẹp, đối lập với

"cỏ" ví hạng người thấp hèn trong cuộc đời éo le đầy nghịch cảnh. Và biểu tượng

"hoa" thường được dùng để ví với vẻ đẹp của người con gái trong thơ nói chung và

trong Quốc âm thi tập nói riêng. Trong Quốc âm thi tập có những câu thơ như:

- Vườn hoa khóc tiếc mặt phi tử

Đìa cỏ tươi nhưng lòng tiểu nhân. (195/5- 6)

- Đông phong từ hẹn tin xuân đến

Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi. (196/ 3- 4)

Nguyễn Trãi nhắc đến hoa nhưng không phải nói về hoa, nhắc đển cỏ nhưng

không nói về cỏ. Hình ảnh những bông hoa mang vẻ đẹp lung linh, khoe sắc cũng

chính là hình ảnh những cô gái đẹp đẽ, xinh tươi. Và trong mối tương quan khách

quan của hiện thực hoa luôn héo và cỏ thường xanh, Nguyễn Trãi muốn nói đến cái

đẹp, cái thanh tao thì thường hay bị vùi dập. Cho nên nhiều khi Nguyễn Trãi cũng

dùng hình tượng "hoa" để nhắn giùm lời thủ thỉ:

Chớ phụ xuân này chớ phụ hoa

Hoa có ý thì xuân có ý. (229/2- 3)

Hay để diễn tả cảnh ngộ và số phận của những người con gái đẹp, Nguyễn Trãi ẩn

mình trong những câu thơ viết về hoa Trường An :

Ấy chẳng Tây Thi thời Thái Chân,

Trời cho tốt lạ mười phân.

Ngày chày điểm đã phong quần đỏ,

Giữa từ mùa một thức xuân . (34/ 5- 6)

Với phép tu từ ẩn dụ, Nguyễn Trãi không chỉ thành công trong việc xây dựng

hình tượng và biểu đạt tâm tư, tình cảm mà còn hàm chứa trong đó sức mạnh biểu

54

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cảm sâu sắc. Và thành công hơn hết là việc Nguyễn Trãi đưa vào những thi liệu lấy

từ đời thường mà ai cũng biết qua đó đã tạo ra những hình ảnh thơ dễ hiểu, dễ cảm

cho bạn đọc. Đây cũng là một trong những đóng góp không nhỏ của Nguyễn Trãi

trong việc đưa điệu hồn dân tộc vào trong thơ.

Bên cạnh biện pháp tu từ ẩn dụ, Nguyễn Trãi còn sử dụng biện pháp tu từ

hoán dụ. Với việc sử dụng biện pháp này không chỉ góp phần giúp cho Nguyễn Trãi

có thêm "công cụ" để tạo ra những hình tượng thơ đa dạng, mới mẻ, tươi đẹp mà

cũng rất đa thanh.

Hoán dụ là một phương thức chuyển nghĩa bằng cách dùng một đặc điểm

hay một nét tiêu biểu nào đó của một đối tượng để gọi tên chính đối tượng đó.

Trong ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày, hoán dụ xuất hiện khá nhiều và xuất hiện ở

khắp mọi nơi. Và trong ngôn ngữ nghệ thuật, hoán dụ là một phương thức phục vụ

đắc lực cho sáng tạo nghệ thuật. Đặc biệt trong ca dao hoán dụ được sử dụng rất

nhiều. Trên cơ sở này, chúng tôi nhận thấy rất nhiều câu thơ trong Quốc âm thi tập

có hình ảnh được chuyển tải dựa trên phương thức hoán dụ. Chẳng hạn chỉ riêng

cách gọi tên một đối tượng nào đó mà Nguyễn Trãi có những cách gọi khác nhau

như: người tri âm, kẻ công danh, kẻ chê, kẻ khen, người quân tử, kẻ tiểu nhân,

thằng hề, kẻ cấy cày, người khốn, đứa ngư tiều, nhi tôn, kẻ công danh, người cố

cựu, kẻ say, người ngay.... Chẳng hạn như trong một số câu thơ:

- Mấy đứa ngư tiều bậu bạn thân. (102/ 4)

- Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày. (146/ 4)

Những từ này xuất hiện trong Quốc âm rất nhiều và xuất hiện trong những

hoàn cảnh giao tiếp khác nhau. Trong một hoàn cảnh giao tiếp cụ thể những từ này

đem lại những giá trị biểu đạt lâm thời trong lời nói. Mỗi một từ xuất hiện đều gợi

ra những phương diện cảm nhận khác nhau. Những cảm nhận đó nhiều chiều hơn,

cảm xúc hơn. Nhiều cách gọi khác nhau với nhiều đối tượng được khu biệt bởi

những đặc điểm riêng biệt. Chẳng hạn: với những người láng giềng ở bên cạnh nhà

là nông dân, Nguyễn Trãi không gọi trực tiếp là người nông dân mà có khi gọi là

bạn cấy cày, có khi gọi là kẻ nhọc chân tay... Hay khi gọi tên những con người khác

nhau trong xã hội mà có thể gặp thì Nguyễn Trãi có rất nhiều cách gọi khác nhau

55

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

như: đứa dại, người khôn, người ngay, quân tử, tiểu nhân,....

Bên cạnh việc sử dụng hoán dụ để gọi tên định danh người thì Nguyễn Trãi

còn sử dụng biện pháp tu từ hoán dụ để diễn tả tâm tư tình cảm của mình bằng cách

lấy một bộ phận để chỉ cái toàn thể như, đầu xanh để chỉ người trẻ, đầu bạc để chỉ

người già, lòng thanh để nói lên một tấm lòng trong sáng, thân nhàn nói lên cảnh

sống ẩn dật, nhàn cư... hay bằng cách liên hệ giữa số ít và số nhiều, Nguyễn Trãi đã

tạo nên những câu thơ thể hiện rất rõ nét và đặc thù dấu ấn cá nhân như:

- Một thân lẩn quất đường khoa mục

Hai chữ mơ màng việc quốc gia. (8/ 3- 4)

Như vậy, với biện pháp tu từ ẩn dụ và hoán dụ, Nguyễn Trãi có khả năng

diễn tả nhiều đối tượng hơn và thông qua đó thế giới trong thơ Nguyễn Trãi sinh

động hơn, nhiều sắc vẻ hơn. Những đối tượng trong thơ Nguyễn Trãi hiện ra với

nhiều sắc vẻ khác nhau và ngay cả những trạng huống, cung bậc tình cảm của riêng

cá nhân tác giả cũng được thể hiện dưới nhiều chiều vẻ khác nhau. Phần lớn những

đối tượng được ẩn đi hoặc gọi tên bằng một đặc trưng đặc thù là những đối tượng

gần gũi với nhà thơ ở ẩn. Đó là những người nông dân, những người vợ hiền, những

người cùng nghiệp văn chương... hay đó là những sự vật, đối tượng gần gũi với

chính cuộc sống của Nguyễn Trãi. Điều này một mặt đã tạo nên hiệu quả thẩm mĩ

cao mặt khác đã cho thấy ý thức sử dụng ngôn từ dân gian, từ cuộc sống hàng ngày

vào trong tác phẩm. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy ở trong Quốc âm nói đến người

phụ nữ đẹp rất nhiều và đặc biệt là hình ảnh người vợ lần đầu tiên cũng được nhắc

tới trong một tác phẩm có tầm vóc cao và của một tác giả có tầm ảnh hưởng lớn.

Tiểu kết

Qua khảo sát những đặc điểm mang tính khẩu ngữ trong thơ Nôm - Nguyễn

Trãi, chúng tôi nhận thấy: Nguyễn Trãi đã vận dụng những lời ăn tiếng nói hàng

ngày (khẩu ngữ) vào trong sáng tác của mình phong phú, đa dạng, tạo nên một hệ

thống, một chỉnh thể đa dạng. Từ việc lựa chọn những từ ngữ (phương diện từ

vựng) cho đến những cách kết hợp (phương diện cú pháp) và biện pháp tu từ,

Nguyễn Trãi đã cho thấy một sự dụng công lớn trong việc đưa khẩu ngữ vào trong

56

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thơ. Tất cả những phương diện được đưa vào trong Quốc âm đều có mối quan hệ

tương hỗ với nhau và có sự phân công rõ ràng. Hiệu quả của sự dụng công này đã

được khẳng định bởi sự thành công của Quốc âm thi tập về phương diện thể hiện

nội dung - thể hiện những trạng huống tâm lí, tình cảm của cá nhân và đặc biệt là

tạo nên sức sống lâu bền cho thơ Nôm.

Trong khi ngôn ngữ và chữ viết dân tộc chưa được sự quan tâm đúng mức

của giai cấp phong kiến cầm quyền và nhất là ảnh hưởng của văn hóa Hán ngày

càng nặng nề với nền văn học dân tộc. Văn học dân tộc hoàn toàn bọ coi rẻ những

truyền thống và sáng tạo tinh thần của nhân dân, mà ngôn ngữ là tiêu biểu. Sự xuất

hiện của Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập quả là một cống hiến vĩ đại của tác giả.

Nguyễn Trãi đã đưa thơ bác học - một sinh hoạt nghệ thuật vốn còn xa lạ và mới mẻ

với người bình dân - trở về gần gũi với họ hơn. Đúng như GS. Hoàng Tuệ nhận xét,

"Ở thế kỉ XV, điều mà Nguyễn Trãi đã xây dựng nên được niềm tin" về khả năng

57

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

biểu đạt của tiếng Việt.

CHƢƠNG 3:

GIÁ TRỊ VÀ VAI TRÕ CỦA TÍNH KHẨU NGỮ TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI.

Quốc âm thi tập là tác phẩm viết bằng chữ Nôm đầu tiên trong lịch sử dân

tộc và là một trong những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Trãi trên lĩnh vực

xây dựng ngôn ngữ dân tộc. Theo Hoàng Tuệ với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã

có những cống hiến ở, "bản lĩnh ngôn ngữ của Nguyễn Trãi trong cuộc đấu tranh

bảo vệ nền văn hiến lâu đời của dân tộc" [46, tr.817]. Đó là cuộc đấu tranh giữa hệ

tư tưởng chính thống phản động của giai cấp phong kiến thống trị và hệ tư tưởng

phi chính thống của nhà nho đại diện cho các giá trị chân chính tốt đẹp của nhân

dân, của dân tộc. Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt ở nhiều phương

diện. Trước hết đó là,"bộ phận từ vựng (...) ở ngữ pháp tiếng Việt, đáng chú ý là sử

dụng các hư từ, ngữ điệu..." [46, tr.819]. Và có thể nói với những cống hiến về mặt

hình thức biểu hiện này đã góp phần tạo ra những hiệu quả nghệ thuật và giá trị

thẩm mĩ cao cho tác phẩm nói riêng và cho văn học giai đoạn này nói chung. Trên

cơ sở đánh giá những giá trị hiệu quả thẩm mĩ trong việc thể hiện con người cá nhân

nhà thơ và tạo ra sức sống lâu bền cho thơ Nôm Nguyễn Trãi, chúng tôi đi sâu lí

giải nguồn gốc sử dụng từ ngữ mang tính khẩu ngữ đã làm nên thành công trên.

3.1. Giá trị biểu hiện

Quốc âm thi tập là tập thơ vô cùng quý giá của dân tộc ta. Quý bởi nó là tác

phẩm mở đầu cho nền văn học cổ điển của dân tộc, phong phú cả về số lượng và thể

tài văn học: "Đó là tác phẩm duy nhất viết bằng chữ Nôm của Nguyễn Trãi, sáng

tạo tác phẩm đặc thù của nền văn hóa Việt Nam. Cho đến nay, đó là bản chữ Nôm

có dung lượng lớn nhất, là tập thơ quy mô nhất bằng chữ Nôm, phản ánh bằng

chính tiếng nói dân tộc, những vấn đề dân tộc" (49, tr.737). Với Quốc âm thi tập,

Nguyễn Trãi có công rất lớn trong việc xây dựng ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ văn

hóa từ ngôn ngữ giao tiếp thông thường. Từ sự thành công về phương diện ngôn

ngữ, Nguyễn Trãi thực sự thành công trong việc miêu tả thế giới hiện thực khách

quan từ thiên nhiên, xã hội đến con người cá nhân của chính tác giả và làm nên sức

58

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sống lâu bền của thơ Nôm.

3.1.1. Thể hiện con ngƣời cá nhân của nhà thơ

Đọc thơ Nguyễn Trãi, nhiều người trong chúng ta cũng sẽ có cùng cảm nhận

chung với nhà thơ Tế Hanh, "chưa có nhà thơ nào nói đến nỗi niềm riêng tư của

mình nhiều như Nguyễn Trãi". Ngoài tập thơ viết bằng chứ Hán, Ức Trai thi tập,

Quốc âm thi tập - là tập thơ Nôm thể hiện rõ nhất con người cá nhân của Nguyễn

Trãi với những tâm sự sâu kín.

Nguyễn Trãi sáng tác thơ Nôm trong nhiều thời kì khác nhau. Tuy nhiên,

phần lớn số bài trong Quốc âm thi tập đều được làm vào thời kì nhiều hoạn nạn

nhất, biến động nhất trong cuộc đời nhà thơ. Có lẽ vì thế ông đã chọn thơ Nôm để

gửi gắm bao trạng huống tình cảm phong phú của mình. Qua đó chúng ta dường

như mới thực sự hiểu Nguyễn Trãi hơn.

Văn chương cổ trung đại thường quan niệm cái "phi ngã" như là một đặc

điểm nổi bật đặc trưng. Nghĩa là sự thể hiện con người không mang tính chất cá

nhân mà con người luôn bị mờ đi trong trách nhiệm, chức phận của mình trong

cộng đồng. Nói cách khác con người bị ràng buộc bởi các khuôn thước "Tam cương

ngũ thường", "Trung, hiếu, tiết, nghĩa", "Quân, thần, phụ, tử"... Nhưng đến với tác

phẩm của Nguyễn Trãi, đặc biệt là trong thơ Nôm, con người cá nhân được thể hiện

rõ nét. Để thể hiện sâu sắc nội dung này đòi hỏi phải có sự tổng hợp của nhiều yếu

tố trong đó có vai trò quan trọng của khẩu ngữ. Trong Quốc âm thi tập các yếu tố

khẩu ngữ xuất hiện trên diện rộng từ các thực từ cho đến hư từ. Đặc biệt trong hai

hệ thống loại từ này thì sự xuất hiện của các danh từ chỉ sự vật thân thuộc, các động

từ chỉ trạng thái hoạt động, các tính từ chỉ tính chất, cảm xúc, các tiểu từ tình thái,

các kết từ.... Đây là tất yếu bởi để nói lên cuộc sống dân dã, gần gũi với thiên nhiên,

con người lao động thì không thì không từ ngữ nào có sức khái quát hơn các danh

từ chỉ sự vật thân thuộc, các động từ chỉ trạng thái hoạt động, các tính từ chỉ tính

chất, cảm xúc; khi miêu tả những trạng huống tâm lí, những chiêm nghiệm, suy tư

của tác giả thì không từ ngữ nào có sức biểu hiện lớn hơn các tiểu từ tình thái.

Có thể lúc sinh thời, Nguyễn Trãi không nghĩ đến việc viết thơ để ghi lại dấu

59

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ấn hình tượng cá nhân của mình nhưng đọc thơ Nôm ta thấy chân dung Nguyễn

Trãi hiện lên sinh động, gần gũi. Khác với các tác giả cùng thời khi miêu tả hình

tượng nhân vật qua thơ thường là những có người có dáng "tiên nho", Nguyễn Trãi

lại tự nhận mình là lão nông sáu mươi với tướng tá chậm chạp, lưng gầy, da xỉ..

suốt ngày bận bịu việc đồng áng. Với việc sử dụng những ngôn từ mang tính chất

đời thường, Nguyễn Trãi đã hiện lên thật chân thật, gần gũi trong con mắt bạn đọc.

Đó là một ông lão với vóc dáng:

Vừa sáu mươi dư tám mươi

Lưng gầy, da xỉ, tướng lù khù. (15/ 1-2)

Và ông lão ấy suốt ngày bận bịu với công việc đồng áng:

Ao cạn vớt bèo cấy muống

Đìa thanh phát cỏ ường sen. (69/ 3- 4)

Cuốc cày là thú những thồn chân. (86/ 6)

Lấy công việc ruộng vườn là thú vui của tuổi già và làm bạn với những lớp

người lao động như, mấy đứa ngư tiều, thằng chài, thằng mạc... Chân dung một lão

nông thực sự hiện lên sau lớp ngôn từ dân dã dường như khiến người ta tạm quên đi

một Nguyễn Trãi với " Bình Ngô đại cáo", với những chiến công phò vua diệt Minh

oanh liệt thuở nào. Nhưng người ta thường nói: "Giang sơn dễ đổi bản tính khó rời"

và dù Nguyễn Trãi có hóa thân là ai thì cốt cách Nguyễn Trãi vẫn không hòa lẫn. Vì

thế chân dung lão nông Nguyễn Trãi xuất hiện trong thơ Nôm vẫn không xóa mờ

được chân dung một nhà nho với thú vui tao nhã, với cốt cách thanh cao:

- Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén

Ngày vắng xem hoa bả cây. (11/ 3- 4)

Sự đan xen song cùng hai chân dung con người này dường như báo hiệu một

sự kiện trong suy nghĩ, trong tâm thế của Nguyễn Trãi. Với tư cách là một nhà nho,

Nguyễn Trãi luôn hướng tới cái đẹp, cái thanh cao và đồng thời cũng song cùng tồn

tại khí phách của nhà nho là một tấm lòng ưu dân ái quốc:

- Bui có một lòng trung lẫn hiếu

60

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Mài chăng khuyết nhuộm chăng đen. (69/ 7 - 8)

Và dù dưới tư cách là con người nào, Nguyễn Trãi cũng thể hiện là một con

người mang nặng duyên nợ với thiên nhiên, đất nước; một con người luôn một lòng

vì nghĩa quân thân, vì nợ núi sông. Tư tưởng ẩn cư có đôi khi như ngọn lửa bùng

cháy "đám cỏ khô tâm hồn" bị "cái nắng" của sự nghi ngờ nung đỏ. Điều này đã

khiến một con người yêu hết tấc, yêu hết thảy nhiều khi rơi vào trạng thái bơ vơ,

muốn rời xa tất cả, lãng quên tất cả. Nhưng cái nợ quân thân ngày đêm đeo đẳng

không tha đã khiến con người đó luôn luôn phải sống trong sự giằng xé. Nguyễn

Trãi rơi vào bi kịch của chính bản thân mình.

Vốn xuất thân từ "Cửa Khổng sân Trình", Nguyễn Trãi là một nhà nho chân

chính điển hình. Chính ông cũng đã rất nhiều lần nói ông một đời "phỏng dáng đạo

tiên Nho" cho nên trong thơ Quốc âm có rất nhiều câu mang tính chất khuyên răn,

triết lí nhưng cũng lại rất gần gũi, nôm na do ảnh hưởng của cách nói mang tính dài

dòng của người dân.

- Lác đác rừng Nho nức tiếng thơm

-Lòng hãy cho bền đạo Khổng môn. (111/ 2)

Suốt một đời vì dân, vì nước, lo lắng cho nhân dân, phụng sự vì nhân dân.

Trước xã hội có nhiều rối ren; gian thần lộng hành, giết hại trung thần, con người

từng một thời "đứng dưới một người và trên mọi người" xưa kia nay không còn

được ưu ái. Ông xót xa, bàng hoàng khi nhận ra sự thay đổi khôn lường của thế thái

nhân tình. Mượn những lời ông cha đúc kết trong tục ngữ, ca dao, thành ngữ,

Nguyễn Trãi thể hiện sự khó lường của lòng người. Với cách mượn lời từ dân gian,

Nguyễn Trãi không chỉ tạo ra những câu thơ có chiều sâu ý nghĩa mà còn diễn đạt

thành công những ưu từ trong lòng mình.

- Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc

Cho hay đường lợi cực quanh co. (20/ 5 - 6)

- Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn,

Lòng người quanh nữa nước non quanh. (136/ 3 - 4)

Quá khứ vinh quang như tiếng vọng xa, như dấu hỏi nao lòng vào hiện thực

61

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cay đắng. Càng khao khát sống, cống hiến bao nhiêu thì Nguyễn Trãi càng đau đớn,

giằng xé khi bị xã hội không đón nhận mà còn vùi dập. Bi kịch sống "thừa" đã

khiến con người từng tin vì Đạo, sống vì Đạo; từng dốc lòng vì vương triều, vì xã

tắc nhiều khi rơi vào trạng thái:

- Sự thế dữ lành ai hỏi đến

Bảo rằng ông đã điếc hai tai. (6/ 7 -8)

Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có một nhà thơ dám xưng hô

một cách trực diện với sự có mặt của các đại từ nhân xưng như: ta, một ta, nhà ta,

mình, trách mình, khoe mình, ông, ông này, ....

Cùng bi kịch sống thừa, Nguyễn Trãi còn nếm trải cảnh ngộ cô đơn. Không

cam chịu chữ "nhẫn" để sống với những xấu xa, hủ bại của xã hội khiến Nguyễn

Trãi sống cô đơn. Bạn bè cùng chí hướng thì chia lìa, tan tác bởi lưỡi gươm đố kị

của gian thần, tri kỉ chẳng còn ai.

Người tri âm ít, cầm nên lặng

Lòng hiếu sinh nhiều, cá lại câu. (121/ 5 - 6)

Nỗi buồn chán đến vô vọng xâm chiếm tâm hồn Nguyễn Trãi, nhiều khi ông

ngỡ mình như một cánh buồm lẻ loi, cô đơn, bơ vơ trước cảnh chiều. Dấu hỏi đi đâu

nao lòng người đọc. Đây là cách diễn đạt rất hiếm trong thơ văn trung đại nhưng lại

thường tình trong đời sống xã hội. Khi người ta cô đơn, buồn tủi, mất phương

hướng thì hay tự nhìn lên trời than thở, hỏi trời để cho nhẹ bớt lòng:

Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ

Trời ban tối ước về đâu? (14/ 7 - 8)

Sự thay đổi của xã hội, của lòng người khiến Nguyễn Trãi mệt mỏi và đôi

khi chán trường. Và khi đó chính là lúc Nguyễn Trãi mang trong mình tư tưởng

sống nhàn, tư tưởng ẩn cư - trở về bầu bạn với thiên nhiên. Nguyễn Trãi từng muốn

lánh đời khỏi những bùn nhơ và tìm về với thiên nhiên, con người thôn dã để giữ

trọn tấm lòng trong sạch:

Giũ bao nhiêu bụi, bụi lầm

62

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Giơ tay áo đến tùng lâm. (5/ 1 -2)

Trở về với cuộc sống thôn quê, với những món ăn, cách sống bình bị; với những

thú tiêu dao mang đậm phong vị nông thôn ... Và coi thiên nhiên và những người lao

động như: mây, núi, chim, vượn,...., thăng chài, đứa ngư tiều... là bạn thân:

- Một cày một cuốc thú nhà quê

Áng cúc lan xen vãi đậu kê. (48/1 - 2)

- Núi láng giềng, chim bậu bạn

Mây khách khứa, nguyệt anh tam. (64/ 5- 6)

Và những câu thơ viết về thiên nhiên chính là những phút trải lòng, những

phút Nguyễn Trãi trở về với cội nguồn sự yên tịnh mà lâu nay chốn quan trường

ông không có được. Nguyễn Trãi từ đầu đã nói mình và thiên nhiên dường như đã

được "se duyên" để mà gắn kết, hòa hợp:

Non nước cùng ta đã có duyên. (74/ 1)

Trong những giây phút thăng hoa của cảm xúc, thi nhân viết nên những câu

thơ nhiệm mầu như:

Khách lạ đến, ngàn hoa chửa rụng

Câu mầu ngâm, dạ nguyệt càng cao. (52/ 3 - 4)

Thơ viết về thiên nhiên đã thể hiện cảm xúc mãnh liệt, đẹp đẽ và sâu sắc của

Nguyễn Trãi. Điều này cho thấy con người nghệ sĩ Nguyễn Trãi với tình yêu thiên

nhiên là cái cái đẹp thường trực, là bản chất trong tâm hồn. Cho nên khi gặp cái đẹp

trong vũ trụ mới bật ra những vần thơ đẹp, có sức cuốn kì diệu. Và đây cũng chính

là những câu thơ mà lòng Nguyễn Trãi ít bị câu thúc, bị chi phối của nỗi cô đơn,

giằng xé tâm trạng nhất. Bi kịch yêu, tin càng lớn thì thất vọng càng cao đã khiến

Nguyễn Trãi nhiều khi "bướng bỉnh", bất cần, mặc đời bao tiếng khen chê:

- Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi,

Ông này đã có thú ông này. (28/ 7 - 8)

Nguyễn Trãi đã từng nghĩ về với thiên nhiên là lánh được tục trần, lánh được

những bon chen và cả cái nợ quân thân trong ông. Nhưng không phải vậy, là một

nhà thơ chân chính, là người từng hi sinh hết mình vì dân vì nước và trong lòng

63

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

luôn canh cánh giúp dân thì Nguyễn Trãi sao dễ dàng bỏ qua tất cả những khao khát

cống hiên trong ông. Vì thế những vần thơ viết về thiên nhiên càng đẹp thì càng thể

hiện những vận động dữ dội trong ông. Vậy nên, về với thiên nhiên Nguyễn Trãi

cũng không có được sự yên tĩnh tận đáy lòng. Cái nợ quân thân ngày đêm đeo bám,

từng ngày từng giờ xâm chiếm trong trái tim, trong tư tưởng của ông.

Còn có một lòng âu việc nước

Đêm đêm thức nhắn nẻo sơ chung (68/ 7 - 8)

Một Nguyễn Trãi luôn trọn đạo bề tôi, một nhà nho hành đạo trong lễ nghĩa, tài đức:

- Đạo làm quan lẫn đạo làm tôi. (2/ 8)

- Làm người thì giữ đạo trung dung. (127/ 1)

Một Nguyễn Trãi với ý chí cứng cỏi, khí phách hiên ngang đôi khi còn cao

ngạo đến bậc kiêu kì, pha một vẻ khinh mạn, bất cần:

- Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược

Có nhân có trí có anh hùng. (132/ 5 - 6)

Sự đan xen, giằng xé giữa lẽ xuất - xử, lánh đời và nhập thế luôn canh cánh

trong lòng Nguyễn Trãi. Những trạng huống cảm xúc đối nghịch giữa một bên là

khát vọng riêng tư chính đáng của một cá nhân và một bên là khát vọng của người

anh hùng - bậc vĩ nhân. Và có lẽ chính bi kịch giằng xé này khiến Nguyễn Trãi

không ít lần tỏ ra khinh mạc, tỏ ra bất cần:

Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi,

Ông này đã có thú ông này. (28/ 7- 8)

Có thể nói với cách diễn tả mang tính chất tự nhiên đời thường, Nguyễn Trãi

đã diễn tả những trạng huống, những thái cực đối lập nhau trong ông giữa lánh đời

và nhập thế. Việc sử dụng những ngôn ngữ đời thường đã giúp thơ ông khỏi những

ràng buộc có tính chất quy phạm, bác học của thơ cổ.

Và trong bi kịch ấy, sự tiếc nuối về tuổi trẻ chính là điều thể hiện những day

dứt trong ông. Điều này cho thấy, Nguyễn Trãi rất mực nhạy cảm với thời gian trôi

chảy và sự tàn lụi của vẻ đẹp đang hiện hữu. Cho nên:

Tiếc xuân cầm đuốc mải chơi đêm,

64

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Những lẹ xuân qua tuổi tác thêm.

Chẳng thấy ngoài hiên tơ liễu rủ,

Một phen liễu rủ, một phen mềm. (Bài 205)

Nguyễn Trãi tiếc xuân bởi đã bỏ lỡ những cơ hội tốt lành để thể hiện khát vọng

riêng tư không dễ nói thành lời của mình.

Với thơ Nôm, Nguyễn Trãi đã sống thực với những khát khao bỏng cháy của

mình và bộc lộ những trạng huống tâm lí sâu kín nhất của con người ông. Không

chỉ là một Nguyễn Trãi đại trí, đại dũng - một vĩ nhân mà Nguyễn Trãi còn là một

con người đời thường nhất - một con người với những ước vọng bình thường nhất,

tự nhiên nhất. Những thái cực tồn tại trong con người Nguyễn Trãi đó tưởng chừng

như mâu thuân, đối nghịch với nhau nhưng ngược lại chúng lại rất thống nhất với

nhau để cùng tồn tại và đó cũng chính là sự thể hiện của con người có nhiều tâm

trạng và sự suy tư nhất. Và có thể nói những trạng thái, tình cảm mâu thuẫn giằng

xé trong con người Nguyễn Trãi đã được thể hiện khá trọn vẹn qua tập thơ Nôm-

Quốc âm thi tập. Và có thể khẳng định để làm nên sự thành công này là sự vận

dụng, sáng tạo ngôn ngữ thơ nói chung và những ngôn từ khẩu ngữ nói riêng nhằm

diễn tả những tâm tư, tình cảm, những trạng huống tâm lí một cách chân thật nhất,

sâu sắc nhất.

Khi nói lên tiếng nói cá nhân, Nguyễn Trãi đã sử dụng rất nhiều những đại từ

nhân xưng để đưa những nỗi niềm của mình vào thơ một cách trực tiếp và dùng

nhiều cảm thán từ, để bày tỏ thái độ đồng thời sử dụng các danh từ chỉ sự vật, các

động từ hành động, tính từ chỉ tính chất, trạng thái tài tình để cụ thể hóa tâm trạng

của mình. Như vậy, việc đưa khẩu ngữ vào trong Quốc âm thi tập không chỉ đáp

ứng nhu cầu biển hiện, phản ánh mọi khía cạnh đa dạng của cuộc sống, từ thế giới

khách quan đến con người cá nhân của Nguyễn Trãi mà còn tạo nên sức sống lâu

bền của thơ Nôm Nguyễn Trãi.

3.1.2. Sức sống lâu bền của thơ Nôm Nguyễn Trãi

Nói đến văn học trung đại, ta thường nghĩ ngay đến một hệ thống ngôn ngữ

bác học mang tính công thức, ước lệ, tượng trưng nhưng với thơ Nôm Nguyễn Trãi

65

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đã lần đầu tiên phá vỡ những khuôn thước đó. Và làm nên sức sống lâu bền của thơ

Nôm - Nguyễn Trãi trước hết chính là việc lựa chọn chữ nôm, cách diễn đạt nôm na

của ngôn ngữ đời sống hàng ngày để thể hiện tâm tư, tình cảm của người Việt.

Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi là người đầu tiên giải phóng thơ ca dân

tộc khỏi những sáng tác mang tính bác học. Văn học Việt Nam trung đại chịu sự chi

phối mạnh mẽ của ngôn ngữ Hán, văn học Hán cho nên rất ít các tác phẩm viết bằng

ngôn ngữ thơ Nôm. Tiếng Việt, chữ Việt dưới cái nhìn của giai cấp phong kiến là

thứ tiếng, thứ chữ "mách qué". Việc sử dụng những từ ngữ, cách diễn đạt mang tính

khẩu ngữ đã thể hiện sự quan tâm và ý thức sử dụng ngôn từ dân tộc trong tác phẩm

văn chương. Tiếp thu vốn từ ngữ của dân gian, của những người dân nơi "thôn cùng

ngõ vắng", lời ăn tiếng nói của những người lao động như "thằng chài", "mấy đứa

ngư tiều",... Nguyễn Trãi đưa vào trong sáng tác của mình. Việc tiếp thu vốn ngôn

từ, cách biểu hiện của dân gian và tiếp thu những thành tựu thơ văn Nôm thời Trần

đã làm tăng giá trị biểu đạt, đáp ứng mục đích và khát vọng nghệ thuật của tác giả.

Tuy nhiên, với Quốc âm thi tập thì ngôn từ dân tộc lần đầu tiên được đưa vào trong

sáng tác với một cách hệ thống, có chủ đích. Và Quốc âm thi tập trở thành kho tư

liệu về vốn ngôn từ dân tộc được bảo tồn và lưu giữ một cách có ý thức. Những lời

ăn tiếng nói của người Việt thời trung đại được ghi lại và thế hệ con cháu sau này

có điều kiện học hỏi và lí giải nguồn gốc ngôn từ dân tộc mình một cách dễ dàng.

Đó là những câu thơ miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên như mùa hạ có tiếng ve kêu,

quyên gọi hè, có hoa hòe nở như:

Vì ai cho cái đỗ quyên kêu,

Tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu.

Lại có hòe hoa chen bóng lục,

Thức xuân một điển não lòng nhau. (Bài 197)

Hay đó là những câu thơ viết về cỏ cây, vạn vật cụ thể, giản dị đã được thuần

hóa để phục vụ con người: vật chất và tinh thần, qua những câu thơ hết sức thuần

phác nhưng rung động tâm tư cảm xúc nhiều thế hệ con người Việt Nam như:

Tưởng nhớ vuờn nhà ba rặng cúc,

66

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Hồn về đêm vẫn gửi chiêm bao.

Hay với những hình tượng "cây mía", "cây chuối", "cây đa già"...bên cạnh

tùng, cúc, trúc, mai... luôn đan cài với nhau tạo nên vẻ đẹp nhiều chiều cạnh. Với

việc tiếp thu những tục ngữ, ca dao đã cho thấy Nguyễn Trãi đã phát hiện được mối

quan hệ giàu giá trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa thiên nhiên và đời sống lao

động sản xuất của con người như:

- Một cày một cuốc thú nhà quê

Áng cúc lan chen vãi đậu kê. (48/ 1 - 2)

Và đặc biệt qua cách sử dụng ngôn từ để thể hiện những trạng huống tâm lí,

tình cảm của cá nhân sâu sắc thì bạn đọc thế hệ sau còn cảm nhận được những đặc

điểm tâm lí, những lối sống của người Việt trung đại. Đó là vấn đề giữ vững tiết

nghĩa trong sạch:

Phú quý chăng tham thanh tựa nước,

Lòng nào vày vọ hơi hơi. (22/ 7 - 8)

Hay đó là những lời kết luận đượuc rút ra từ thế thái nhân tình ở đời nhiều

hiểm trở như:

- Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết,

Bui một lòng người cực hiểm thay. (26/ 7 - 8)

Và rất nhiều những trạng huống tâm lí khác nhau được thể hiện rất tài tình

qua thơ Nôm Nguyễn Trãi. Việc tiếp thu những thành tựu và đưa ngôn từ dân tộc

vào trong tác phẩm đã tạo nên những kết quả hết sức to lớn.

Bên cạnh việc tiếp thu những ngôn từ trong đời sống hàng ngày cũng như

cách diễn đạt của những người lao động vào trong thơ, Nguyễn Trãi đã tạo nên một

kho tư liệu vô cùng quý báu cho ngàn đời sau. Việc tiếp thu những ngôn từ từ giai

đoạn trước, làm giàu cho giai đoạn văn học mà ông sinh sống đã là nền tảng cho

những nhà văn, nhà thơ giai đoạn sau học tập, tiếp thu, gìn giữ và phát triển ngôn từ

dân tộc. Chẳng hạn trong việc sử dụng từ láy. Qua khảo sát, tìm hiểu chúng tôi đồng

quan điểm với nhận định của Tiến sĩ, Phạm Thị Phương Thái : Từ láy trong Quốc

âm thi tập không kém là bao so với Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn - Đoàn

67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thị Điểm, Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tuy nhiên điều ghi nhận đóng góp của

Nguyễn Trãi chính là thời điểm ông sử dụng từ láy như một phương tiện nghệ thuật

- Nguyễn Trãi là người đi tiên phong trong lĩnh vực này. Và vượt lên trên hết,

Nguyễn Trãi đã là người đầu tiên khẳng định lớp từ mang hồn cốt dân tộc - từ láy

có giá trị thẩm mĩ cao trong diễn đạt những hình ảnh thơ mang đậm màu sắc của

ngôn ngữ nói như:

- Ao bởi hẹp hơi khôn thả cá,

Nhà quen thú thứa, ngại nuôi vằn. (1/ 5 - 6)

- Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh,

Áo bô quen cật vận xênh xang. (126/5 - 6)

Có rất nhiều những từ láy được Nguyễn Trãi sử dụng trong Quốc âm thi tập

được các nhà thơ, nhà văn sử dụng ở giai đoạn sau. Chẳng hạn như từ láy "thung

thăng" được dùng để miêu tả dáng vẻ:

Quốc âm thi tập:

Ngày tháng kê khoai những sản hằng

Tường đào ngõ mận ngại thung thăng. (23, 1 - 2)

Hồng Đức Quốc âm thi tập:

Vườn hoa chấp chới tin ong dạo,

Dặm liễu thung thăng xứ điệp truyền.

(Lại vịnh cảnh mùa xuân)

Với việc sử dụng từ láy và tạo ra những tổ hợp từ mới với từ láy, Nguyễn Du

đã tạo ra sự mới mẻ trong thơ Nôm. Những tổ hợp từ này sau này được các nhà thơ

sử dụng rất nhiều. Điều này đã khẳng định đây là một phần đóng góp không nhỏ

của Nguyễn Trãi đối với sức sống của thơ Nôm.

Bên cạnh việc sử dụng từ láy và đem lại những hiệu quả cao thì một đóng

góp không nhỏ làm nên sự thành công về mặt ngôn từ trong Quốc âm thi tập chính

là sử dụng các hư từ. Những hư từ trong Quốc âm thi tập một mặt phản ánh những

trạng huống tâm lí của con người giai đoạn đó. Mặt khác, chúng cũng phản ánh

cách nói, cách nghĩ của nhân dân của một giai đoạn lịch sử. Có thể thấy những hư

từ trong Quốc âm thi tập được sử dụng rất thành công để rồi hơn sáu thế kỷ sau

68

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những câu thơ vẫn luôn giữ được vẻ tươi mới, hiện đại. Đó là những câu thơ như:

- Trọng thì nên ngõ, nhờn thì dại,

Mất chẳng hề âu, được chẳng mừng. (161/ 3 - 4)

Với việc sử dụng hư từ như một đặc trưng của thơ Nôm, Nguyễn Trãi đã tạo

ra những câu thơ "hoàn toàn Nôm thực sự". Và những câu thơ giản dị, tự nhiên như

lời ăn tiếng nói thông thường đó chẳng khác là bao so với những câu thơ ở năm thế

kỉ sau của "Bà chúa thơ Nôm" - Hồ Xuân Hương:

"Cả nể cho nên sự dở dang

Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng

(...) Cái nghĩa trăm năm chằng nhớ chửa

Mảnh tình một khối thiếp xin mang"

(Không chồng mà chửa)

Theo chiều dài phát triển của lịch sử văn học, Quốc âm thi tập mặc dù xuất

hiện ở chặng đầu của thơ tiếng Việt, song ngôn ngữ thơ Nôm - Nguyễn Trãi đã sớm

hình thành dấu ấn riêng. Và có thể khẳng định Quốc âm thi tập được coi là "chùm

hoa rực rỡ đầu mùa" của thơ ca viết bằng chữ Nôm. Điều này đã được minh chứng

bằng việc tác giả sử dụng khá triệt để vốn từ Việt và nhất là việc đưa các yếu tố

khẩu ngữ vào trong thơ. Theo đó ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi giản dị, tự nhiên,

trong sáng và thuần tính dân tộc.

Sau Quốc âm thi tập, các tập thơ ngày càng nhiều từ thuần Việt hơn, ít những

điển cố, thi liệu Hán học, sử dụng nhiều từ láy hơn. Nhưng có thể nói ngôn ngữ cũng

như cách biểu đạt trong thơ Nôm Nguyễn Trãi nhìn chung so với ngày nay không

khác là bao, cho dù đã trải mấy trăm năm. Đặc biệt trong sự phát triển của thơ Nôm,

nếu Nguyễn Trãi là người đặt nền móng cho sự phát triển của thơ Nôm thì người

khẳng định sự phát triển mạnh nhất, rực rỡ nhất của thơ Nôm chính là Nguyễn Du và

Hồ Xuân Hương. Xét về mặt sử dụng ngôn từ khẩu ngữ thì Hồ Xuân Hương xứng

đáng với danh hiệu Bà chúa thơ Nôm mà Xuân Diệu đã phong cho bà. Chúng tôi có

thể khẳng định điều này bởi khi xem xét thơ Nôm Hồ Xuân Hương chúng tôi nhận

thấy thơ Nôm của bà gần gũi, gắn bó mật thiết với ngôn ngữ đời sống thường ngày

69

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

giản dị, mộc mạc. Điều đó tạo nên những khả năng diễn đạt mới cho thơ.

Sự phát triển của thơ Nôm là một quá trình có tính lịch sử mà "nguồn mạch

dân gian chảy qua vùng thượng nguồn là Quốc âm thi tập, Hồng Đức Quốc Âm thi

tập, tha thiết trăn trở qua Bạch Vân Quốc Ngữ thi tập, dữ dội mạnh mẽ qua thơ

Nôm - Hồ Xuân Hương, thâm trầm nhưng có sóng ngầm qua thơ Nguyễn Khuyến

rồi lại trào nên sôi nổi qua thơ Tú Xương.

Như vậy có thể nói bằng việc đưa khẩu ngữ vào trong thơ, Nguyễn Trãi

không những khẳng định được tài năng nghệ sĩ, ý thức sử dụng ngôn từ dân tộc mà

qua đó còn góp phần thúc hoàn chỉnh, thúc đẩy sự phát triển của thơ Nôm, làm giàu

thêm vốn ngôn ngữ của dân tộc, tạo ra được cách diễn đạt mới mẻ trong thơ và đặc

biệt tạo ra sức sống lâu bền cho thơ Nôm Nguyễn Trãi.

Tóm lại, Việc sử dụng khá triệt để vốn từ Việt và nhất là đưa các yếu tố

khẩu ngữ vào trong thơ đã làm cho ngôn ngữ thơ Nguyễn Trãi giản dị, tự nhiên hơn.

Điều này đã thực sự đem lại lợi thế để Nguyễn Trãi diễn tả những trạng huống tâm

lí, con người cá nhân tác giả. Qua Quốc âm thi tập, con người cá nhân hiện diện

trong Quốc âm thi tập thuộc mẫu hình riêng, vừa có ý nghĩa bao quát, điển hình vừa

bao gồm nhiều kiểu người khác nữa. Trong ông có cả tư tưởng nhập thế và lánh đời

hướng đến tự do tuyệt đối. Trong ông có cả Nho, cả Phật, cả Đạo, cả cái cao cả lẫn

cái đời thường trần tục, cả uyên bác lẫn bình dân. Tất cả những con người đó tưởng

như mâu thuẫn nhưng lại hết sức thống nhất, hòa quyện vào nhau để làm thành mẫu

hình con người cá nhân Nguyễn Trãi. Và chính ở đó, Nguyễn Trãi đã tạo nên những

vần thơ Nôm có sức lay động lạ thường. Điều đó đã làm nên sức sống lâu bền của

thơ Nôm Nguyễn Trãi. Và làm nên thành công đó chính là việc sử dụng những ngôn

từ dân tộc và đặc biệt là đưa khẩu ngữ vào trong thơ. Như vậy có thể khẳng định

việc sử dụng khẩu ngữ trong thơ Nguyễn Trãi đã đem lại giá trị thẩm mĩ cao trong

việc thể hiện con người cá nhân tác giả và tạo nên sức sống lâu bền của thơ Nôm

70

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Trãi.

3.2. Nguồn gốc cách sử dụng từ ngữ mang tính khẩu ngữ trong thơ Nôm

Nguyễn Trãi

Thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi sử dụng vốn từ ngữ phong phú. Với sự phong

phú của vốn từ ngữ đó đã đáp ứng nhu cầu biểu đạt của nhà thơ. Đồng thời cũng là

đóng góp không nhỏ của Nguyễn Trãi đối với nền thơ viết bằng tiếng Việt vào thời

điểm mà vốn từ ngữ tiếng Việt chưa được dồi dào. Chỉ riêng điều này cũng đã

khẳng định, Nguyễn Trãi là một trong những người đặt cột mốc cho đại lộ thơ

Tiếng Việt. Vốn từ ngữ ấy được tạo nên từ các cách thức khác nhau hay đó chính là

những nhân tố. Và hình thành nên cách sử dụng từ ngữ mang tính khẩu ngữ trong

thơ Nôm Nguyễn Trãi. Đó là các nhân tố: nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.

3.2.1. Nhân tố khách quan

3.2.1.1. Ảnh hƣởng văn học dân gian

Trên phương diện ngôn ngữ văn học dân tộc, ngôn ngữ văn học dân gian đã

cố định hóa và làm giàu ngôn ngữ văn học dân tộc bằng chính sự kết tinh và gọt

giũa từ đời sống ngôn ngữ. Văn học viết trung đại Việt Nam là một nền văn học

chịu ảnh hưởng của văn học và ngôn ngữ Hán học rất mạnh mẽ. Tuy nhiên trong sự

ảnh hưởng chi phối đó cũng không ngừng có sự khắc phục ảnh hưởng và dần dần

đến một mức độ nào đó thì những yếu tố ngoại lai đó mất dần địa vị bởi đòi hỏi độc

lập của một dân tộc. Tất cả những sự khắc phục đó đều dựa trên nền tảng của văn

học dân gian nói chung và ngôn ngữ văn học dân gian nói riêng.

Sử dụng tiếng mẹ đẻ, nhất là vận dụng ngôn ngữ văn học dân gian vào trong

sáng tác văn học đã chứng tỏ sự lớn mạnh, giàu có của ngôn ngữ dân tộc, đồng thời

chứng tỏ vai trò to lớn của nó trong tiến trình dân tộc hóa và đại chúng hóa nền văn

học dân tộc. Trên thế giới đã có rất nhiều những đại văn hào lấy ngôn ngữ văn học

dân gian làm chất liệu và thành công rực rỡ. Ở nước ta nói đến việc lấy ngôn ngữ

văn học dân gian là chất liệu và có được những thành công rực rỡ người ta luôn

nhắc đến Nguyễn Trãi - "Nguyễn Trãi ông tổ của nền văn học cổ điển, là ông tổ của

nghệ thuật dân tộc..." và là người có vai trò "khai sinh một nghệ thuật dùng ngôn

71

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

ngữ dân gian của Nguyễn Trãi" [22, tr.805]. Vì dùng ngôn ngữ của nhân dân cho

nên chúng ta có thể bắt gặp tiếng nói trong Quốc âm thi tập là tiếng nói của nhân

dân. Qua khảo sát các lớp từ được sử dụng trong Quốc âm thi tập, chúng tôi nhận

thấy, lớp từ Việt xuất hiện đa dạng và phong phú ở tất cả các đơn vị từ loại. Và đặc

điểm từ loại tiếng Việt giai đoạn trung đại phần lớn là các từ đơn tiết. Vì vậy sự có

mặt của các từ đơn tiết Việt trong Quốc âm thi tập xuất hiện với số lượng lớn như:,

cuốc, cày, cấy, phát, ương, bén,... đã đưa lời thơ bớt tính hàm súc, bác học và tăng

tính chất dân dã, giản dị trong thơ Nôm. Qua sự có mặt của lớp từ này trong thơ

Nôm đã khẳng định, Nguyễn Trãi đã tiếp thu triệt để và khai thác có hiệu quả lớp

ngôn từ dân gian để làm nên thành công cho Quốc âm thi tập.

Ngoài những từ đơn mang tính chất biểu hiện sự vật, hiện tượng mang tính

chính xác thì trong Quốc âm thi tập có một số lượng lớn các từ láy và hư từ được sử

dụng mang nguồn gốc khẩu ngữ. Như đã trình bày ở chương 2 thì từ láy là một tiểu

loại từ mà người Việt rất ưa dùng. Trong kho tàng ngôn ngữ dân gian Việt có rất

nhiều những từ láy khác khác nhau nhằm biểu đạt nội dung mà tác phẩm muốn

truyền tải. Việc sử dụng những từ láy một phần giúp nhà thơ thể hiện, trải lòng

mình mặt khác nó góp phần tạo cho những vần thơ trở nên giản dị, gần gũi, dễ hiểu

phù hợp với nếp cảm và nghĩ của người bình dân. Bên cạnh các từ láy, Nguyễn Trãi

còn sử dụng các hư từ, đặc biệt là các hư từ khẩu ngữ với số lượng nhiều và tần số

sử dụng lớn. Đây có thể nói là lớp từ mang tính dân tộc khá rõ nét bởi mỗi dân tộc

đều có hệ thống các từ thể hiện những trạng huống, thái độ của con người một cách

đặc thù. Những hư từ khẩu ngữ là lớp từ sử dụng rộng rãi trong giao tiếp hàng ngày

và nó hoàn toàn phù hợp với cách vừa nói, vừa nghĩ của sinh hoạt hàng ngày của

người dân. Lớp từ này được biểu hiện rất phong phú trong Quốc âm thi tập.

Cùng với việc sử dụng những từ trong đời sống hàng ngày thì Nguyễn Trãi

còn sử dụng các yếu tố thành ngữ, tục ngữ, ca dao từ ngôn ngữ văn học dân gian

vào trong Quốc âm thi tập. Theo thống kê của GS. Bùi Văn Nguyên trong 1908 câu

thơ của Quốc âm thi tập thì có khảng 50 câu thơ chứa yếu tố tục ngữ, ca dao (chiếm

72

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

2,5%). Với tỉ lệ này có thể nói những yếu tố tục ngữ, ca dao có thể trải khắp tập thơ.

Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy sự ảnh hưởng, tiếp thu nguồn dân gian trong

Quốc âm thi tập thể hiện ở một số điểm nổi bật:

Trên cơ sở nguồn thi liệu là thành ngữ, tục ngữ, ca dao dân gian, Nguyễn

Trãi tiếp thu những nội dung có trong đó, lựa chọn để đưa vào tác phẩm phù hợp

với chủ đề tư tưởng. Nguyễn Trãi dựa vào nội dung mang tính chất triết lí, chiêm

nghiệm từ thực tiễn, trong các vấn đề quan hệ ứng xử giữa con người với con người

được đúc kết trong tục ngữ, ca dao và những bình giá về phẩm chất con người trong

những hoàn cảnh khác nhau sáng tạo những câu thơ của riêng mình:

Tục ngữ:

Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.

Quốc âm thi tập:

Ở bầu thì dáng ắt nên tròn. (148/ 1)

Hay ca dao:

Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây.

Quốc âm thi tập:

Có mống tự nhiên lại có cây. (25/ 1)

Bên cạnh việc tiếp thu nội dung của những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao từ

dân gian, Nguyễn Trãi còn tiếp thu vận dụng về hình thức nghệ thuật. Điều này có

thể thấy rất nhiều câu thơ trong Quốc âm thi tập được tạo ra bằng cách lấy ý từ tục

ngữ, ca dao có khi cả câu, có khi bổ sung từ. Chẳng hạn, Nguyễn Trãi đưa nguyên

mẫu tục ngữ, ca dao vào trong thơ của mình như:

Tục ngữ:

Nuôi con mới biết lòng cha mẹ.

Quốc âm thi tập:

Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ. (135/ 5)

Qua dẫn chứng có thể thấy Nguyễn Trãi đưa nguyên mẫu câu tục ngữ, ca dao

vào trong thơ mà không thay đổi cấu trúc hoặc sắc thái tu từ của câu tục ngữ, ca dao

ban đầu. Lúc này câu dẫn đóng vai trò như một chân lí được khẳng định cả về nội

73

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dung và hình thức. Hay có rất nhiều câu trong Quốc âm thi tập được tạo ra bằng

cách phát triển ý tưởng lên một tầng bậc mới hoặc đưa ra một chân lí mới trên cơ sở

các câu tục ngữ, ca dao trong đời thường. Chẳng hạn như:

Tục ngữ:

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây.

Quốc âm thi tập:

Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cầy. (146/ 4)

Bên cạnh việc tiếp thu trên nền thi liệu là tục ngữ, ca dao dân gian về mặt nội

dung và hình thức, Nguyễn Trãi còn vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao một cách

sáng tạo, linh hoạt. Sự linh hoạt đó thể hiện ở vị trí xuất hiện các câu có tiếp thu từ

thành ngữ, tục ngữ, ca dao vào những vị trí khác nhau ở trong câu, có thể ở vị trí

câu đề, hoặc ở vị trí câu thực, hoặc ở vị trí câu luận hoặc ở vị trí câu kết trong kết

cấu của bài thơ Đường.

Tóm lại, trong Quốc âm thi tập vốn từ có xuất xứ chủ yếu từ ngôn ngữ dân

gian. Những lời ăn, tiếng nói hàng ngày;những từ láy, hư từ; thành ngữ, tục ngữ, ca

dao; những cụm từ cân đối hài hòa được tác giả khai thác, sử dụng với số lượng lớn

và đem lại hiệu quả cao.

3.2.1.2. Ảnh hƣởng của văn thơ Nôm đời Trần

Từ thế kỉ XIII đời Lý - Trần, văn thơ tiếng Việt đã được nhen nhóm. Dưới

thời Lý, chữ Nôm được dùng chủ yếu để ghi tên người, tên đất. Ngoài ra còn ở một

số văn bia nhà chùa. Đến thời Trần, thơ phú bằng tiếng Việt mới có. Tương truyền

Nguyễn Thuyên là người dùng chữ Nôm đầu tiên. Sau này việc làm thơ chữ Nôm

trở nên thịnh hành. Thơ chữ Nôm trở thành một bộ phận trong dòng văn học thời kỳ

này với một số tác giả tiêu biểu như, Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu An...

Khi nhà Minh sang xâm lược nước ta, suốt hai mươi năm trời chúng thi hành

những chính sách độc ác về văn hóa. Cho nên những tác phẩm bằng chữ Nôm

không còn lại gì, lại thêm bắt buộc dân ta học và dùng chữ Hán trong mọi hoạt động

của xã hội đã khiến văn hóa nước ta giai đoạn này trở nên vô cùng nguy hiểm. Hòa

bình lập lại, dân tộc ta bước vào giai đoạn khôi phục và xây dựng nền văn hóa. Tuy

74

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nhiên do sự thiếu đồng thuận cho nên giai đoạn này chủ trương về xây dựng nền

văn hóa cũng có những khó khăn và thiếu nhất quán. Chính ở giai đoạn này, chúng

ta bắt gặp Nguyễn Trãi với một tư cách mới - một nhà văn hóa lớn. Bên cạnh việc

sử dụng những liệu quen thuộc của văn học dân gian như đã trình bày thì Nguyễn

Trãi còn tiếp thu những thành tựu văn thơ Nôm thời Trần trong việc sáng tạo tác

phẩm Quốc âm thi tập.

Qua tìm hiểu một số các tác phẩm đời Trần và Quốc âm thi tập chúng tôi

nhận thấy có sự tương đồng trong cách sử dụng một số lượng từ ngữ nhất định. Và

những từ ngữ này thấy xuất hiện ở những tác phẩm trước Nguyễn Trãi và trong tác

phẩm của Nguyễn Trãi nhưng không xuất hiện ở giai đoạn sau. Chẳng hạn như khảo

sát tác phẩm Cư trần lạc đạo phú của Trần Nhân Tông và Quốc âm thi tập đều xuất

hiện từ "chỉn xá" với nghĩa là hãy nên như:

Quốc âm thi tập:

Chỉn xá lui mà thủ phận

Lại tu thân khác mực thi thư (34/ 7- 8)

Cư trần lạc đạo phú, đệ nhị hội:

Chỉn xá nói tự sau Mã tổ, ắt đà quên thuở trước tiên Hoàng.

Không chỉ tiếp thu những từ trong văn thơ Nôm thời Trần mà Nguyễn Trãi

còn tiếp thu cả cách sử dụng phổ biến trong cách diễn tả - đó là sử dụng những cụm

từ cân đối hài hòa. Cách sử dụng này khá phổ biến ở Cư trần lạc đạo phú. Chẳng

hạn như trong Quốc âm thi tập có những cụm từ như:

Bạc mai vàng cúc. (49/ 8)

Đêm thanh nguyệt hiện. (153/ 4)

Mắt hòa xanh, đầu dễ bạc. (36/ 5)

Những cụm từ cân đối hài hòa này sau Nguyễn Trãi rất lâu sau mới thấy xuất

hiện lại. Phải đến Truyện Kiều của Nguyễn Du thì các cụm từ cân đối mới thấy.

Và một đặc điểm khác trong việc tiếp thu thành tựu thơ văn Nôm thời Trần

trong sáng tác thơ Nôm Nguyễn Trãi là sự có mặt của hư từ với số lượng nhiều và

tần số lớn. Minh chứng cho sự tiếp thu này là sự có mặt của rất nhiều các hư từ như,

75

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

nếu, chẳng, còn, lại, chớ,... có mặt trong Cư trần lạc đạo phú và sau có mặt trong

Quốc âm thi tập. Ngoài ra trong Quốc âm thi tập nhiều câu thơ có ý hoặc có lối diễn

đạt tương tự như các câu thơ trong các tác phẩm giai đoạn trước. Chẳng hạn:

Trong Cư trần lạc đạo phú, đệ nhị hội, viết:

"Ăn rau, ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thuở đắng cay. Vận giẻ, vận sui,

thân căn có ngại chi đen trắng. Nhược chỉn vui bề đạo đức, nửa gian lều quý nớ

thiên cung. Dầu hay miễn thuở nghĩa nhân, ba phiến ngõa yêu hơn lầu các".

Trong Quốc âm thi tập bài 23, câu 1 - 2 - 3 - 4 viết:

Ngày tháng kê khoai những sản hằng

Tường đào ngõ mận ngại thung thăng

Đạo ta cậy bởi chân non khỏe

Lòng thế tin chi mặt nước bằng.

Ở hai dẫn chứng trên, chúng tôi nhận thấy chúng có những điểm chung về

nội dung biểu hiện và về mặt ngôn ngữ xét đến cùng chúng đều bắt nguồn từ ngôn

ngữ dân gian. Lý giải điều này có thể là do mục đích nghệ thuật của cả hai tác phẩm

có điểm tương đồng. Quốc âm thi tập là tập thơ Nôm thể hiện khát vọng xây dựng

ngôn ngữ văn hóa có tính dân tộc và tính thống nhất còn Cư trần lạc đạo phú là bài

phú viết nhằm giảng giải và giác ngộ cho đệ tử.

Vì những lí do trên có thể nói rất có thể vốn từ trong Quốc âm thi tập đã

được tiếp thu từ những thành tựu văn thơ Nôm đời Trần. Và với nội dung phản ánh

phong phú, đa dạng trong Quốc âm thi tập thì việc tiếp thu từ những thành tựu thơ

văn Nôm đời Trần không đáp ứng nhu cầu diễn đạt.

3.2.1.3. Vay mƣợn thi liệu Hán học

Xã hội Việt Nam giai đoạn trung đại dưới sự lãnh đạo của giai cấp phong

kiến một mặt luôn tỏ rõ thái độ tích cực chống mưu đồ bá quyền và sự bành trướng

của phong kiến phương Bắc. Nhưng mặt khác ngay trong thời đại ấy giai cấp phong

kiến không thoát khỏi vòng cương tỏa của văn hóa trung Hoa, không tìm cho mình

được một hướng đi riêng mà lệ thuộc vào hệ tư tưởng chính thống của Trung Quốc

76

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một cách sâu sắc. Và có thể nói ở giai đoạn này thái độ sùng bái văn hóa, học thuật,

ngôn ngữ Trung Quốc hoàn toàn chiếm ưu thế. Cho nên những truyền thống sáng

tạo tinh thần của nhân dân mà ngôn ngữ là tiêu biểu bị coi rẻ.

Trong điều kiện như vậy, Nguyễn Trãi xuất hiện với một hướng đi và cách

làm mới. Xuất thân từ gia đình có truyền thống Nho học và bản thân ông cũng là

người say mê văn chương, tài hoa nức tiếng. Với học vấn uyên thâm lại hiểu rộng

về văn hóa, văn học Trung Hoa cho nên có lẽ đây là tiền đề cơ sở cho Nguyễn Trãi

có điều kiện làm giàu từ ngữ Việt văn hoá bằng cách vận dụng, cải biến và sáng tạo

từ ngữ Việt mới trên cơ sở ngữ liệu Hán học.

Quả nhiên, trong Quốc âm thi tập có rất nhiều những từ ngữ, câu thơ được

xây dựng trên cơ sở chất liệu Hán học. Và chất liệu Hán chúng tôi nói đến bao gồm

cả phần nội dung được thể hiện qua hình thức Việt. Nói cách khác đây là cách vay

mượn ngôn ngữ Hán bằng hình thức từ vựng và ngữ pháp của tiếng Việt. Ngoài ra

trong Quốc âm thi tập có rất nhiều những điển cố được Nguyễn Trãi nhắc tới và

những từ ghép được tạo ra bằng phương thức ghép từ. Có thể nói cách tiếp thu, cải

biến ngữ liệu Hán học là hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động của ngôn ngữ và

đáp ứng được yêu cầu biểu đạt của con người.

a. Vay mƣợn ngữ nghĩa của từ Hán

Vay mượn ngôn ngữ là một cách thức phổ biến đối với bất cứ ai hay quốc gia

nào để đáp ứng nhu cầu biểu đạt. Đây là cách mượn phần nội dung chất liệu từ ngữ

gốc Hán thay thế hình thức ngữ âm (vỏ âm thanh) của chúng bằng hình thức ngữ

âm của dân tộc. Trong quá trình vay mượn, tùy vào mục đích sử dụng cũng như tùy

thuộc vào lớp ngôn từ vay mượn mà các hình thức vay mượn thông qua phương

thức khác nhau. Trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi phỏng dịch theo một số cách:

Dịch tương đương một từ gốc Hán thành một từ gốc Việt. Chẳng hạn

Bần cốt đáo thành ngặt đến xương (71/ 1)

Hàn đăng -> đèn lạnh (120/ 4)

Thanh lâu - > lầu xanh (210/ 1)

Khi dịch các yếu tố này từ tiếng Hán sang tiếng Việt, Nguyễn Trãi tuân thủ

77

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

các quy luật biến đổi vị trí các yếu tố chính - phụ từ Hán sang Việt khá nghiêm

ngặt. Tuy nhiên cũng có một số trường hợp ông giữ nguyên vị trí của các yếu tố

Hán - Việt sang Việt như, tam kính cúc -> ba đường cúc. Với việc dịch thẳng

những từ ngữ gốc Hán sang từ Việt, Nguyễn Trãi không chỉ làm tăng khả năng diễn

đạt cho người Việt mà còn tạo thêm cho người Việt có thêm vốn từ trong việc sử

dụng ngôn ngữ. Những từ ngữ mới được tạo ra phù hợp với cách cảm và cách nghĩ

của người Việt. Tuy nhiên cũng cần thấy hạn chế trong cách dịch này là đôi chỗ

dịch còn gượng gạo, khiên cưỡng.

Dịch một nửa và giữ một nửa từ ngữ Hán. Cách dịch này thực chất là ghép

yếu tố Hán với yếu tố Việt. Cách ghép này chủ yếu được sử dụng để ghép yếu tố

dịch (yếu tố chính của từ Hán) với yếu tố phụ của từ Hán (giữ nguyên). Từ đó tạo ra

một từ ghép trong đó yếu tố chính là từ Việt còn yếu tố phụ là từ Hán. Chẳng hạn:

Nguyệt dạ thành đêm nguyệt (22/ 5)

Lan tương - > chèo lan (41/ 1)

Lãnh quan - > quan lạnh (108/ 7)

Với cách dịch và ghép này đã tạo ra những từ mới mang sắc thái Việt, phù

hợp về cấu trúc ngữ pháp Việt và cách biểu đạt ý nghĩa.

Tuy nhiên trong cách làm giàu hệ thống ngôn từ bằng cách phỏng dịch thì

cách dịch ý của từ ngữ được sử dụng nhiều nhất. Trong Quốc âm thi tập có rất

nhiều câu thơ được cấu tạo từ cách dịch ý từ các thành ngữ gốc Hán. Với cách dịch

này thì số lượng từ ngữ sau khi dịch thường có sự thay đổi (hoặc thêm hoặc bớt

chữ). Tuy nhiên ý tứ, nội dung của cụm từ gốc vẫn được giữ nguyên. Chẳng hạn:

Thủ khẩu như bình thành Còn miệng tựa bình đà chỉn giữ. (34/ 3)

Quan bất tại ngu -> Quan cao nào đến dáng người ngây (137/ 4)

Bỉnh chúc dạ du - > Cầm đuốc mải chơi đêm. (204/ 4)

Với những cách vay mượn ngữ nghĩa trên đã giúp cho Nguyễn Trãi có nhiều

ngôn từ để sử dụng nhằm biểu đạt nội dung một cách chính xác nhất với cách cảm

và cách nghĩ của người dân Việt. Thoát khỏi lớp vỏ ngôn từ từ chất liệu Hán học

các từ mới được tạo ra gần gũi với cách cảm, cách nghĩ của người Việt trên cả hai

78

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phương diện cấu trúc ngữ pháp và cách biểu đạt ngữ nghĩa. Như vậy có thể nói với

cách vay mượn trên Nguyễn Trãi đã sáng tạo được một số lượng từ ngữ đáng kể

nhập vào ngôn ngữ văn học dân tộc. Bên cạnh việc tạo ra những từ mới bằng cách

vay mượn ngữ nghĩa từ, Nguyễn Trãi còn làm giàu kho từ vựng tiếng Việt bằng

cách tạo thêm vốn từ ngữ diễn đạt bằng cách dụng điển.

b. Vay mƣợn điển cố

Văn học trung đại vốn mang tính chất sùng cổ và tập cổ cho nên trong Quốc

âm thi tập xuất hiện hiện tượng vay mượn điển cổ cũng là điều dễ xảy ra. Điển cố là

những chuyện cũ người xưa, lời nói xưa có tính chất điển hình về một bình diện nào

đó được rút gọn lại trong đôi ba chữ để đưa vào thi văn, làm cho câu văn trở nên

hàm súc, ngắn gọn, lời ít ý nhiều. Nhận thấy dụng điển có một giá trị nhất định

trong việc sáng tác nên Nguyễn Trãi đã đưa một số điển cố vào trong thơ Nôm. Tuy

nhiên việc vận dụng điển cố này hoàn toàn mang tính chất sáng tạo, mang màu sắc

cá nhân rõ nét chứ không phải là sự cóp nhặt ngôn ngữ một cách cơ học.

Do sự rút gọn cho nên mỗi điển cố khi đi vào văn thơ chỉ tồn tại dưới dạng là

những tập hợp từ (dưới dạng thức ngữ hoặc câu). Tuy nhiên xét về giá trị thông báo

mà điển cố được sử dụng trong câu thơ thì tập hợp đó chỉ tương đương một từ.

Cũng giống như các thành ngữ, quán ngữ, các đơn vị yếu tố của bản thân điển cố

không thể tồn tại độc lập để mang giá trị thông báo toàn vẹn mà chúng phải được

gắn kết với nhau, nương tựa vào nhau để biểu đạt ý nghĩa ước lệ của điển cố.

Trong Quốc âm thi tập có khá nhiều điển cố. Theo khảo sát của tác giả Phạm

Thị Phương Thái thì ước tính số điển cố trong tập thơ này có khoảng 300 điển cố.

Những điển cố được sử dụng trong Quốc âm như:

- Ngàn nọ so miền Thái Thạch

Làng kia mở cảnh Tiêu Tương. (42/ 3 - 4)

Có khi trong một bài thơ tác giả sử dụng rất nhiều điển cố theo khác nhau.

Chẳng hạn như:

Lan còn chín khúc cúc ba đường

Quê cũ chẳng về nỡ để hoang.

79

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Thương nhẫn Biện Hòa ngồi ấp ngọc,

Đúc nên Nhan Tử tiếc chi vàng.

Quan thanh bằng nước nhà bằng khánh,

Cảnh ở tựa chiền lòng tựa sàng.

Dường ấy của no cho bậc nữa,

Hôm dao đáo để có công mang. (Bài 117)

Bài thơ 8 câu nhưng có tới 6 điển cố. Với cách sử dụng các điển cố này

không chỉ mang đến vẻ đẹp sang trọng cho câu thơ bằng lối tập cổ mà chủ yếu giúp

nhà thơ tạo ra những cách diễn đạt mới mang tính hàm súc, sâu sắc như những điều

tâm sự. Mở đầu bài thơ, Nguyễn Trãi đã mượn chữ và dịch nghĩa chữ "cửa uyển"

trong câu thơ của Khuất Nguyên trong Ly Tao: "Dư ký tư lan chi cửu uyển" (Ta đã

tưới chín uyển lan a) để phiếm chỉ cảnh ẩn dật, điền viên, vui thú với mấy luống lan

luống cúc và để bày tỏ ý định sống ẩn dật nơi quê nhà giống như Đào Tiềm "Điền

viên tương vu hồ bất qui" (Ruộng vườn sắp hoang sao chẳng về). Không được tin

dùng, bị nghi ngờ là người có bụng bất trung, Nguyễn Trãi đau xót nhắc chuyện

Biện Hòa xưa kia dâng hòn đá ngọc cho Lệ Vương, Vũ Vương nước Sở mà bị chặt

hai chân. Ông xót xa cho phận mình một lòng hướng nghĩa quân thần nào khác Biện

Hòa, Nhan Tử - những bậc tôi trung tài giỏi mà không được tin dùng. Suốt một đời

trọn đạo làm quan trong sạch thanh liêm - "nhà bằng khánh".

Những điển tích mà Nguyễn Trãi dùng trong Quốc âm thi tập thường là

những điển tích phổ biến mà nhiều người biết. Chẳng hạn như: Nghiêu Thuấn,

Khuất Nguyên, Đào Uyên Minh, Thái Chân, Dương Quý Phi... Với những điển tích

trên tác giả nói ít mà ý nhiều diễn tả sâu sắc những trạng huống tâm lí một cách sâu

sắc, chính xác nhất. Việc sử dụng những cụm từ mang tính chất điển cố này đã giúp

cho Nguyễn Trãi tăng khả năng diễn tả và tạo ra giá trị nghệ thuật cao.

c. Vay mƣợn hình thức ngữ âm và sử dụng phƣơng thức ghép tạo ra từ mới

Kho từ vựng là một hệ thống mở, luôn luôn só sự tự tạo và thu nạp những từ

mới để phục vụ cho nhu cầu diễn đạt của con người. Những từ ghép mà Nguyễn

Trãi tạo ra cũng nhằm mục đích đó. Xét về mặt biểu thị nghĩa thì những từ này

80

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thường có ý nghĩa khái quát hơn so với các từ đơn nghĩa. Các từ ghép này thường là

sự kết hợp của các từ đơn có cùng trường nghĩa với nhau. Chẳng hạn trong Quốc

âm thi tập có những từ ghép như, quân thân, bầu bạn, thư thất, tham lam, dữ

lành...

- Dễ hay ruột bể sâu cạn,

Khôn biết lòng người vắn dài.

Sự thế dữ lành ai hỏi đến (6/ 5 -6 - 7)

Theo khảo sát của tác giả Phạm Thị Phương Thái trong Quốc âm thi tập có

93 từ ghép. Các từ ghép này được tạo ra từ sự kết hợp giữa yếu tố Hán Việt - Việt

hoặc Việt - Việt Hán với nhau. Có thể nói các từ ghép này đã đảm nhiệm vai trò

quan trọng trong việc thể hiện những vấn đề mang tính chất trừu tượng, khái quát.

Đây cũng là một phương thức làm giàu ngôn từ một cách sáng tạo của Nguyễn Trãi.

Tóm lại, để phản ánh được nhiều vấn đề, trạng huống tâm lí, nhiều khía cạnh

trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều phương thức khác nhau để

tạo ra một số lượng lớn các từ đáp ứng nhu cầu trên. Nguyễn Trãi không chỉ sáng

tác bằng chữ Nôm của dân tộc mà ông còn sử dụng chất liệu quen thuộc của văn

học dân gian - những hình ảnh bình dị dân dã của cuộc sống vào trong những trang

viết của mình tạo ra ý thức dân tộc trong việc xây dựng nền văn hóa và văn học.

Bên cạnh đó, tác giả vừa tiếp thu những thành tựu của thơ văn Nôm thời Trần vừa

cải biến và sáng tạo ra những từ mới dựa trên sơ sở nguồn ngữ liệu Hán học. Tuy

nhiên về căn bản cái làm nên thành công nhất chính là việc Nguyễn Trãi dựa vào

nguồn ngôn ngữ dân gian - cái nôi của nền văn học dân tộc để sáng tạo nên Quốc

âm thi tập. Điều này cho thấy nguồn gốc sâu xa của văn hóa - văn học luôn luôn bắt

nguồn từ nền văn học dân gian. Những nhân tố khách quan này một mặt là nguồn tư

liệu phong phú cho Nguyễn Trãi có điều kiện thể hiện, sáng tạo nên tác phẩm mặt

khác chính bản thân những nhân tố này cũng được khẳng định và nâng lên một

bước mới nhờ sự thành công của tác phẩm.

Bên cạnh những nhân tố khách quan có tính chất chi phối, bổ trợ cho quá

trình hình thành và tạo nên sự thành công của tác phẩm thì những nhân tố chủ quan

81

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

như hoàn cảnh xuất thân, tư tưởng nhân dân và ý thức xây dựng nền văn hóa Đại

Việt cùng góp phần mang tính chất nội lực thúc đẩy làm nên sự thành công cho tác

phẩm.

3.2.2. Nhân tố chủ quan

Sau kháng chiến chống Minh thắng lợi, quân và dân nhà Lê bắt tay xây dựng

quốc gia độc lập. Với tư cách là một nhà lãnh đạo, một nhà văn hóa, nhà tư tưởng

có tầm nhìn chiến lược, Nguyễn Trãi đã nhận ra điều này và ý thức được sự cần

thiết phải xây dựng ngôn ngữ văn hóa. Nhiệm vụ chiến lược này được Nguyễn Trãi

thực hiện với tinh thần trách nhiệm cao.

3.2.2.1. Tƣ tƣởng nhân dân

Nguyễn Trãi ra đời và lớn lên trong những ngày tháng đen tối nhất khi tổ

quốc xây dựng ngàn đời đang rên xiết dưới gót giầy của quân xâm lược. Nhân dân

trên khắp mọi miền đang oằn lưng dưới sự bạo tàn của quân cướp nước. Xuất thân

trong gia đình Nho học, có tinh thần yêu nước nồng nàn và trải qua những thăng

trầm của lịch sử, Nguyễn Trãi luôn nêu cao tinh thần trung quân, ái quốc, hết lòng

vì xã tắc, non sông. Tinh thần yêu nước của ông luôn bỏng cháy. Với ông, yêu nước

chính là yêu những người lao động, những người đem hết mồ hôi, xương máu để

xây dựng non sông đất nước Việt Nam. Tư tưởng quan niệm về nhân dân trong văn

học trước Nguyễn Trãi thường chỉ những đối tượng chung. Nhưng đến với Nguyễn

Trãi tư tưởng nhân dân của ông có sự thay đổi. Nhân dân không tồn tại như một

tượng đài chung mà họ là những con người cụ thể, rõ ràng. Họ là những "dân đen",

"con đỏ", "thằng chài", "đứa ngư tiều"...Và đặc biệt khác với các tư tưởng khác

cùng thời, Nguyễn Trãi rất chú ý miêu tả, coi nhân dân - những người thấp cổ bé

họng là trung tâm, là đối tượng để thương xót, để ngợi ca.

Khác với các trí thức khác cùng thời, Nguyễn Trãi là một trí thức có điều

kiện được sống trong lòng nhân dân. Gắn bó với nhân dân trong suốt những năm

tháng kháng chiến gian khổ mà oai hùng, Nguyễn Trãi hiểu được sức mạnh tiềm

tàng của nhân dân bùng cháy dữ dội trong giờ phút đất nước gian nguy. Sống vì lí

tưởng xây dựng một đất nước hòa bình, giàu mạnh, Nguyễn Trãi luôn mong ước:

82

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khắp đòi phương. (170/ 3 - 4)

Có thể thấy trong Quốc âm thi tập, tư tưởng nhân dân dường như luôn câu

thúc Nguyễn Trãi. Tư tưởng vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân mà đập tan

cường quyền bạo ngược luôn canh cánh trong lòng tác giả Quốc âm. Có lẽ vì thế

nhân dân trở thành nơi đặt niềm tin, sức mạnh khiến trong ông luôn "Đêm ngày

cuồn cuộn nước triều đông". Tư tưởng nhân nghĩa của ông thể hiện rõ nét ở thái độ

ứng xử của ông với nhân dân. Ông luôn coi nhân dân là gốc và đặt ra vấn đề "Đem

dân mựa nỡ mất lòng dân" ( Bảo kính cảnh giới - 57). Suốt một đời lo cho dân cho

nước cho nên Nguyễn Trãi luôn muốn đem tâm huyết, tài năng làm cho đất nước

phồn vinh, nhân dân ấm no. Nhưng "con tạo" khéo xoay vần, không chiều lòng

người. Xã hội phong kiến Việt Nam khi đã ổn định đã bộc lộ những mâu thuẫn, tiêu

cực mà không giải quyết được. Con người từng một thời oai danh muôn phương giờ

đây "bất đắc chí", chức cao mà không có thực quyền. Những kế sách giúp dân, giúp

nước của ông này không được xem xét. Ông muốn triều đình bớt sưu cao thuế nặng,

bớt lo chuyện trừng phạt mà nên chăn dân, dưỡng dân "Nên thợ nên thầy vì có học,

No ăn no mặc bởi hay làm". Điều này cũng chính là thể hiện tấm lòng biết ơn, nhớ

ơn công lao của nhân dân đã nuôi dưỡng và ủng hộ cho cuộc kháng chiến thành

công cũng như xây dựng nền hòa bình, no ấm cho nhân dân. Cho nên ông ao ước:

Vua Nghiêu, Thuấn, dân Nghiêu, Thuấn

Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền. (74/ 7 - 8)

Tuy nhiên những mơ ước cao đẹp đó của ông chẳng bao giờ thành hiện thực.

Suốt cuộc đời và sự nghiệp ông luôn là một tấm gương sáng ngời cho quá trình đấu

tranh không mệt mỏi vì dân tộc, vì nhân dân. Tư tưởng lấy dân là cội nguồn của đất

nước; giữ được nước là giưa được gốc là giữ được nước, trị được nước; mất gốc là

mất nước luôn canh cánh trong ông. Việc phản ánh mọi mặt đời sống của nhân dân,

mang lại những điều tốt đẹp cho nhân dân là điều Nguyễn Trãi muốn thực hiện. Và

điều này đã thực sự được thực hiện qua sự thành công của Quốc âm thi tập - Lần

đầu tiên trong lịch sử dân tộc, những con người bé nhỏ được bước vào trang văn thơ

83

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

với tư cách là chính mình và rõ nét chứ không phải là tượng đài chung.

Đúng như Phạm Văn Đồng từng nhận xét: Nguyễn Trãi "suốt đời mang một

hoài bão lớn, làm gì cho dân, người dân lầm than khổ cực". Nguyễn Trãi thật xứng

đáng là nhân vật lịch sử đầu tiên nêu cao lý tưởng vì dân, quý trọng và tin theo dân.

Và chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định, tư tưởng nhân dân trong con người

Nguyễn Trãi là một động lực thúc đẩy việc đưa lời ăn tiếng nói trong đời sống hàng

ngày của nhân dân vào trong tác phẩm văn học.

3.2.2.2. Ý thức xây dựng nền văn hóa Việt.

Nguyễn Trãi là hiện thân của ý thức dân tộc mạnh mẽ không chỉ trong lĩnh

vực chính trị mà ngay cả trên trường văn - Ông là ngôi sao sáng của văn học yêu

nước đầu thế kỉ XV. Ông đã để lại cho chúng ta những tác phẩm văn thơ vô cùng

quý giá, phản ánh những quan điểm tiến bộ về văn học, nghệ thuật đương thời. Trên

cơ sở kể thừa những truyền thống tốt đẹp của hàng nghìn năm lịch sử dân tộc, đặc

biệt là những thành tựu thơ văn Lý - Trần, Nguyễn Trãi đã có những cống hiến lớn

lao và thể hiện rõ ý thức xây dựng nền văn hóa Đại Việt lên một bước mới.

Tập thơ Quốc âm thi tập thể hiện khá cụ thể tính dân tộc và quan điểm nghệ

thuật của ông. Tuy dấu hiệu Hán học vẫn hiện hữu trong thơ Quốc âm nhưng chúng

ta vẫn có thể khẳng định Nguyễn Trãi đã rất cố gắng trong việc dân tộc hóa hình

thức nghệ thuật văn chương của ông. Cống hiến của Nguyễn Trãi trong tập thơ này

chính là thành tựu xây dựng thể thơ Đường luật dân tộc viết bằng ngôn ngữ văn học

dân tộc mà dựa trên cơ sở ngôn ngữ nhân dân và ngôn ngữ văn học dân gian.

Từ ý thức xây dựng nền văn hóa Đại Việt - đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta

có thể lí giải được tại sao Nguyễn Trãi lại rất coi trọng việc sử dụng ngôn ngữ dân

tộc. Minh chứng lớn nhất cho điều này chính là sự xuất hiện 254 bài thơ viết bằng

chữ Nôm. Với khối lượng đồ sộ như vậy, Nguyễn Trãi trở thành một trong những

tác giả sáng tác nhiều thơ Nôm nhất trong lịch sử văn học dân tộc.

Thơ Nôm của Nguyễn Trãi biểu hiện rõ nét tính dân tộc ở ngay thể thơ thất

ngôn xen lục ngôn, thậm chí là ngũ ngôn mà Nguyễn Trãi đã sử dụng. Ý thức xây

dựng nền văn hóa Đại Việt cũng thể hiện khá rõ trong việc Nguyễn Trãi phá cách

84

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

những luật thơ có sẵn. Nguyễn Trãi đã cố gắng Việt hóa không chỉ trên phương diện

nội dung mà trên cả phương diện hình thức. Cho nên trong Quốc âm thi tập ta có

thể bắt gặp lối ngắt nhịp thuần Việt của thể thơ song thất lục bát như:

Người ảo hóa / khoe thân ảo hóa

Thuở chiêm bao / thốt sự chiêm bao. (47/ 3 - 4)

Hay đó là cách phối hợp bằng trắc trong một bài thơ có sự phá cách tạo nên sư khác

biệt trong cách dùng vần trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và thơ Đường luật như:

Dễ hay ruột bể sâu cạn,

Khôn biết lòng người vắn dài.

Sự thế dữ lành ai hỏi đến, (6/ 5 -6- 7)

Là nhà thơ có điều kiện gần gũi với đời sống của nhân dân ở một mức độ

nhất định và có tấm lòng tận tụy vì dân, luôn hướng về nhân dân nên Nguyễn Trãi

có được vốn sống rộng rãi và am hiểu sâu sắc ngôn ngữ nhân dân. Đặc biệt ông đã

vận dụng vốn ngôn ngữ quý báu đó vào trong thơ ca của mình. Những thi liệu dân

gian phon phú đã được Nguyễn Trãi sử dụng một cách khéo léo vào việc biểu hiện

dụng ý nghệ thuật của mình.

Tuy nhiên chúng ta có thể khẳng định, Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã

lần đầu tiên đưa tiếng Việt dân gian, tiếng Việt từ đời thường vào trang thơ một

cách có ý thức, có hệ thống và đặc biệt giàu tính sáng tạo. Điều này đã thể hiện rất

rõ trong Quốc âm thi tập có những câu thơ mang tính chất tự nhiên, dân dã như lời

ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân:

Ngủ thì nằm đói thì ăn

Việc vàn ai hỏi áo bô cằn. (110/ 1 -2)

Những khẩu ngữ quen thuộc cũng được Nguyễn Trãi sử dụng một cách ý

thức cao.

Tiếng nói đời thường của nhân dân đã được Nguyễn Trãi gọt dũa và cách

điệu hóa từ những nguồn thi liệu là ngôn ngữ văn học dân gian. Sự tiếp thu một

cách sáng tạo những thành ngữ, tục ngữ, ca dao đã đem đến cho tác phẩm của

85

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Nguyễn Trãi một sắc thái mới.

Như vậy, có thể nói trong việc sử dụng từ ngữ mang tính khẩu ngữ của

Nguyễn Trãi cũng đã bắt nguồn từ ý thức xây dựng nền văn hóa Đại Việt. Đây

chính là lí do cho sự xuất hiện những từ mới, cách diễn đạt mới phù hợp với cách

cảm, cách nghĩ, cách nói năng của người Việt.

* Tiểu kết

Qua quá trình tìm hiểu và đánh giá giá trị, hiệu quả và nguồn gốc của việc sử

dụng những từ ngữ mang tính khẩu ngữ trong Quốc âm thi tập, chúng tôi nhận thấy,

việc sử dụng những từ ngữ mang tính khẩu ngữ không chỉ làm tăng vốn từ ngữ cho

kho tàng ngôn ngữ dân tộc, tăng giá trị và phương tiện biểu đạt tình ý theo cách cảm

và nhận của người Việt mà còn góp phần thể hiện rõ nét con người các nhân của

Nguyễn Trãi. Đồng thời với việc tiếp thu, vận dụng và phát triển vốn ngôn từ đã tạo

nên sức sống lâu bền cho thơ Nôm Nguyễn Trãi. Lý giải nguyên nhân có được

những thành công trên chúng tôi đã chỉ ra hai nhân tố lớn chi phối đó là các nhân tố

khách quan và nhân tố chủ quan. Các nhân tố khách quan là những nhân tố tác động

từ bên ngoài như sự tiếp thu nguồn dân gian, tiếp thu những thành tựu của nền văn

học Lý - Trần và sự tiếp thu, cải biến và sáng tạo từ ngữ liệu Hán học. Và các nhân

tố chủ quan tồn tại trong nội tại tác giả như hoàn cảnh xuất thân, tư tưởng nhân dân

và ý thức xây dựng nền văn hóa Đại Việt. Các nhân tố này là nguồn gốc nảy sinh

cách sử dụng những từ ngữ mang tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Và

Quốc âm thi tập thực sự thành công cũng nhờ một phần lớn của việc sử dụng ngôn

86

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

từ mang tính khẩu ngữ này.

KẾT LUẬN

Tìm hiểu tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, chúng tôi khảo sát sự

vận dụng những ngôn từ và những cách diễn đạt trong giao tiếp thường ngày vào

trong thơ Nôm. Chúng tôi nhận thấy rằng những biểu hiện của tính khẩu ngữ trong

thơ Nôm Nguyễn Trãi xuất hiện trên những phương diện ngôn từ cấu tạo nên tác

phẩm. Đặc biệt là việc sử dụng nhiều từ ngữ mang tính khẩu ngữ. Qua khảo sát và

thẩm định, có thể nói ngôn ngữ đời thường đã được Nguyễn Trãi vận dụng và tiếp

thu một cách chủ động, tích cực và sáng tạo. Trong khuôn khổ luận văn này do thời

gian và năng lực bản thân có hạn, chúng tôi chưa có đủ thời gian để tìm hiểu thấu

đáo toàn diện tính khẩu ngữ thơ Nôm. Vấn đề tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn

Trãi không chỉ giới hạn ở việc vận dụng những lời nói khẩu ngữ như chúng tôi đã

trình bày mà còn đề cập đến mối quan hệ giữa văn học chữ Nôm với nền văn học

dân tộc. Tuy vậy qua tìm hiểu tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, bước đầu

chúng tôi có một số nhận xét sau:

1. Nguyễn Trãi tiếp thu và vận dụng ngôn từ dân tộc vào trong thơ Nôm một

cách xuất sắc. Những ngôn ngữ dân tộc đi vào trong thơ Nôm Nguyễn Trãi rất tự

nhiên, giản dị những có "tính kỉ luật cao". Những lời ăn tiếng nói thường ngày của

nhân dân được Nguyễn Trãi lựa chọn kĩ lưỡng tạo thành một hệ thống, một chỉnh

thể toàn diện mang đậm dấu ấn dân tộc. Có thể nói trí tuệ thi hào và trí tuệ nhân dân

trong thơ Nôm đã có một sự đồng điệu nhất định. Và cũng chính nhờ sự đức kết

nhuần nhuyễn tri thức khai thác từ đời sống dân gian, Nguyễn Trãi đã đem đến cho

thơ Nôm giá trị ngôn từ sâu sắc và giá trị tinh thần cao cả. Những ngôn từ dân tộc

trong Quốc âm thi tập vừa thể hiện nội lực mạnh mẽ của nó đồng thời vừa khắc họa

được chân dung Nguyễn Trãi rất thật, rất dung dị.

2. Việc khai thác vốn ngôn từ dân gian từ phương diện từ vựng, phương diện

cú pháp cho đến biện pháp tu từ cho thấy,Nguyễn Trãi đã có đóng góp lớn lao đối

với việc khẳng định vị thế của ngôn từ dân tộc. Những từ ngữ, cách nói mang đậm

tính khẩu ngữ đi vào thơ Nôm Nguyễn Trãi không chỉ giữ nguyên được đặc tính

87

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

trong sáng vốn có mà còn được phú thêm những nét đẹp mới, tính sinh động trong

sự kết hợp đa dạng nhiều chiều với các ngôn từ mang tính bác học. Ngôn từ dân

gian được sử dụng trong Quốc âm thi tập là một hệ thống hoàn chỉnh, một chỉnh thể

thống nhất. Từ việc sử dụng những từ ngữ mang đậm dấu ấn đời thường như, cuốc,

cày, núc nác, muống, thằng mặc, thằng chài, ông... cho đến những kết cấu mang

đậm dấu ấn của người lao động như," Ngại ở nhân gian lưới trần,Thì nằm thôn dã

miễn yên thân", cho đến việc sử dụng những lối nói ưa so sánh ví von nhiều hình

ảnh của nhân dân như, "Thời nghèo sự biến nhiều bằng tóc"... Với việc vận dụng

lớp từ ngữ dân gian vào thơ Nôm thành công, Nguyễn Trãi đã là nhà thơ đầu tiên

trong lịch sử dân tộc mở đường cho văn thơ viết bằng ngôn từ dân tộc. Thơ Nôm

Nguyễn Trãi là một minh chứng sống động về vẻ đẹp, tiềm năng mạnh mẽ của ngôn

từ dân tộc trong văn học trung đại.

3. Cuối cùng phải kể đến những giá trị đem lại trong việc sử dụng ngôn từ dân

tộc trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Bằng phương tiện ngôn từ dân tộc, Nguyễn Trãi đã

là người đầu dám bộc bạch những tâm sự cá nhân mình mạnh mẽ, chân thành nhất.

Con người cá nhân Nguyễn Trãi hiện lên với những trạng huống tâm lí giằng xé

giữa nợ nước, nợ dân với thất vọng muốn lánh đời luôn trở đi trở lại trong các bài

thơ. Việc sử dụng ngôn ngữ đời thường, Nguyễn Trãi đã hiện lên với tư cách là một

con người bình dị với những khát khao đời thường nhất. Cùng với việc thể hiện con

người cá nhân Nguyễn Trãi thành công, việc vận dụng ngôn ngữ đời thường còn tạo

nên sức sống lâu bền cho thơ Nôm. Với Quốc âm thi tập, lần đầu tiên trong lịch sử

dân tộc, ngôn từ dân tộc chính thức được bước lên vũ đài văn chương trên cơ sở kế

thừa, tiếp tiếp thu truyền thống văn học dân gian, tiếp thu thơ văn Nôm thời Trần và

tiếp thu cải biến những cứ liệu Hán học. Cũng chính thơ Quốc âm đặt nền móng

vững chắc cho thơ Nôm phát triển ở giai đoạn sau với các tác giả nổi tiếng như,

Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế

Xương...

4. Việc nghiên cứu tìm hiểu tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi không

chỉ là minh chứng cho sức sống, tiềm năng mạnh mẽ của ngôn từ dân tộc trong giai

88

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đoạn văn học chữ Hán đang chiếm địa vị độc tôn trong nền văn học dân tộc, không

chỉ khẳng định những đóng góp lớn lao của Nguyễn Trãi trong việc dân tộc hóa văn

học dân tộc, mà còn có ý nghĩa to lớn đối với vấn đề nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ

trong thơ Nôm giai đoạn văn học trung đại, một lĩnh vực có ý nghĩa thời sự trong

nghiên cứu văn học trung đại.

Tóm lại, với những thành công lớn lao trong việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc

vào trong thơ và khẳng định vị thế ngôn từ dân tộc, Nguyễn Trãi xứng đáng là "ông

89

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tổ của nền văn học cổ điển, là ông tổ của nghệ thuật dân tộc..." [ 22, tr.805]

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, NXB Khoa họa xã hội, H.

2.Hoài Anh (1980), "Nguyễn Trãi trong trái tim người xưa", sáu trăm năm Nguyễn

Trãi, NXB Tác phẩm mới, H, tr 92 - 99.

3. Lê Bảo (1997), Nguyễn Trãi, NXB Giáo Dục, H.

4. Nguyễn Đình Chú (1007), "Cây chuối", Nguyễn Trãi tác phẩm và lời bình, NXB

Văn hóa, H, tr 308 - 310.

tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 566- 569.

5. Xuân Diệu (1999), "Một số bài thơ Nguyễn Trãi: Ba tiêu", Nguyễn Trãi về tác gia và

6. Xuân Diệu (1999), "Quốc âm thi tập- Tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển Việt

Nam, Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới

thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 587 - 638.

7. Phạn Văn Đồng (1980), "Nguyễn Trãi người anh hùng dân tộc", sáu trăm năm

Nguyễn Trãi, NXB Tác phẩm mới, H, tr 5 - 9.

8. Tế Hanh (1999), "Hồn thơ đa dạng của Nguyễn Trãi", Nguyễn Trãi về tác gia và

tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 718 - 723.

9.Quang hùng,Minh Nguyệt(đồng chủ biên) (2007),Từ điển tiếng Việt, NXBTừ

điển bách khoa.

10. Hoàng Văn Hành - Vương Lộc (1980), "Mấy đặc điểm của vốn từ tiếng Việt văn

học thế kỉ XV qua "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi, TCNN (3), tr 22 - 28.

11. Trần Đình Hượu (1999), Nguyễn Trãi và Nho gia", Nguyễn Văn Hoàn (1999),

"Địa vị của Nguyễn Trãi trong qúa trình phát triển của lịch sử văn học Việt

Nam", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và

giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 84 - 126.

12. Nguyễn Văn Hoàn (1999), "Địa vị của Nguyễn Trãi trong qua trình phát triển

của lịch sử văn học Việt Nam", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn

Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 765 - 785.

13. Đinh Gia Khánh (1999), "Quan điểm văn nghệ của Nguyễn Trãi", Nguyễn

Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB

90

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Giáo Dục, H, tr 126 - 136.

14. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (2002), Văn học Việt Nam từ

thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ XVII, NXB Giáo dục, tr 215 - 266.

15. Vũ Khiêu (1999), "Người trí thức từ tinh hoa của dân tộc", Nguyễn Trãi về tác

gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 975- 995

16. Đinh Trọng Lạc (2000), Phong cách học tiếng Việt, NXB Giáo Dục, H.

17. Cao Hữu Lạng (1999), "Một bài thơ tình của Nguyễn Trãi", Nguyễn Trãi về tác

gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H,tr564 - 565.

18. Thanh Lãng (1999), "Quốc âm thi tập", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm,

Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 803 - 805.

19. Phạm Luận (1999), "Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và

thi pháp Việt Nam", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn

tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 851 - 873.

20. Phạm Luận, Nguyễn Phạm Hùng (1999), "Một vài nhận xét về mối quan hệ

giữa thể thơ Nôm của Nguyễn Trãi với thất ngôn luật của Trung Quốc",

Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu,

NXB Giáo Dục, H, tr 860 - 873.

21. Phương Lưu (chủ biên)(2000), Lí luận văn học, NXB Giáo Dục, H.

22. La Kim Liên (1999), "Trăng trong thơ Nguyễn Trãi", Nguyễn Trãi về tác gia và

tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 544- 547.

23. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, NXB GD, H.

24. Vương Lộc (1989),"Về một vài hư từ trong "Quốc âm thi tập"",TCNN (4), tr 9-14.

25. Đặng Thai Mai (1999), "Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi", Nguyễn

Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB

Giáo Dục, H, tr 915- 930.

26. Trần Thanh Mại (1999), "Vài nét về tư tưởng Nguyễn Trãi qua thơ văn ông",

Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu,

NXB Giáo Dục, H, tr765 - 785.

91

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

27. Bùi Văn Nguyên (1994), Thơ quốc âm Nguyễn Trãi, NXB ĐH &THCN, H.

28. Bùi Văn Nguyên (1999), "Trúc", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn

Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 548- 550.

29. Bùi Văn Nguyên (1999), "Âm vang tục ngữ, ca dao trong thơ quốc âm của

Nguyễn Trãi", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển

chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 806 - 815.

30. Giang Nam (1980), "Nguyễn Trãi. Một hồn thơ lớn", Sáu trăm năm Nguyễn

Trãi, NXB Tác phẩm mới, H, tr 10 -14.

31. Phạm Thế Ngũ (1997), "Quốc âm thi tập", Nguyễn Trãi tác phẩm và lời bình,

NXBVH, H, tr 199 - 307.

32. Nhiều tác giả (1980),Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa dân tộc,NXBKhoa

họa xã hội, H.

33. Ngô Văn Phú (1999), "Mấy suy nghĩ về thể thơ sáu lời (lục ngôn) xen bảy lời

trong Quốc âm thi tập", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn

tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 827- 838.

34. Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

35. Nguyễn Hữu Sơn (1999), "Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc và danh

nhân văn hóa thế giới", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn

tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 12- 28.

36. Nguyễn Hữu Sơn (1999), "Về con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi",

Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu,

NXB Giáo Dục, H, tr 729-736.

37. Trần Đình Sử (1999), "Con người cá nhân trong thơ Nôm Nguyễn Trãi",

Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu,

NXB Giáo Dục, H, tr 723 - 728.

38. Trần Đình Sử (1997), "Tùng - Một bài thơ tâm huyết của Nguyễn Trãi",

Nguyễn Trãi tác phẩm và lời bình, NXB VH, H, tr 322 - 338.

39. Bùi Duy Tân (1997), "Nguyễn Trãi nhà chính trị kiệt xuất, Nguyễn Trãi tác

92

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

phẩm và lời bình, NXBVH, H.

40.Hoài Thanh (1999), "Một vài nét về con người Nguyễn Trãi qua thơ Nôm",

Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu,

NXB Giáo Dục, H, tr 697 - 711.

41. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học tiếng Việt và đặc điểm tu từ tiếng Việt,

NXB ĐH & THCN.

42. Phạm Thị Phương Thái (2006), Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập

của Nguyễn Trãi, Luận án tiến sĩ ngữ văn, H.

43. Mai Trân (1999), "Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi", Nguyễn Trãi

về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo

Dục, H, tr 956- 975.

44. Nguyễn Thiên Thụ (1999), "Ảnh hưởng và địa vị của Nguyễn Trãi trong văn

học Việt Nam", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển

chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 668 - 680.

45. Nguyễn Thiên Thụ (1999), "Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi", Nguyễn Trãi

về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo

Dục, H, tr 769- 718.

46. Hoàng Trung Thông - Nguyễn Huệ Chi, "Vị trí của Nguyễn Trãi trong lịch sử

văn học Việt Nam", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn

tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 935 - 946.

gia và tác phẩm,Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXBGiáo Dục, H,tr816 - 826.

47. Hoàng Tuệ, "Cống hiến của Nguyễn Trái đối với tiếng Việt", Nguyễn Trãi về tác

48. Lê Trí Viễn , Đoàn Thu Vân, "Tùng", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm,

Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 551- 559.

49. Trần Ngọc Vương (1999), "Nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ trong Quốc âm thi

tập", Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới

thiệu, NXB Giáo Dục, H, tr 737 - 756.

50. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1997), Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học, NXB Giáo

93

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dục, H.

Phụ lục 1: BẢNG THỐNG KÊ THỰC TỪ

Động từ no, đói đòi chăn thả ngại gác lánh

Danh từ ngựa cá

chim,hòe

Tính từ

STT Bài Câu 1 1 2 3 2 4 3 5 4 6 5 6 8 7 2 1 2 8 3 9 4 10 5 11 7 12 13 8 12 3 1 2 14 3 15 4 16 5 17 6 18 7 20 21 8 22 4 2 3 24 4 25 5 26 6 27 28 8 32 5 1 2 33 3 34 4 35 7 36 6 1 38 2 40 3 41 5 42 6 44 7 45 8 46 7 1 47 3 48 4 50 5 51 6 52 7 53 8 54

ngô đồng hoa tùng lâm hoa trúc, thông Cuốc cùn thuyền mọn lòng thanh mai, cúc

cởi, pha tìm kêu, nở chưa nên là dậy ngồi đeo có thi nào đến dầu có nài chi dưỡng cày, ương ngâm giũ giơ đi làm đi biết bảo đua mừng cậy

khổ nhục dại dột, phong lưu động, nhiều ít, xâm đức, tài kém hiểm hóc sâu cạn vắn, dài dữ lành thịnh

94

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Số từ một một mấy ba hai một một Đại từ tôi ông

tằm núc nác mùng tơi chim cỏ xanh trúc rợp, mai

8 1 55 2 56 3 57 4 58 5 59 6 60 7 61 8 62 9 2 63 3 65 4 66 5 67 68 8 71 10 1 2 72 3 73 4 74 6 75 7 77 78 8 79 11 3 4 82 5 83 7 84 86 8 87 12 1 2 88 3 89 4 90 6 91 7 93 94 8 95 96 13 1 2 97 3 98 4 99 5 100 7 102 103 8 104 14 1 2 105 4 107 5 108 6 109 7 110 111 8 112 15 1

có cam quýt

để báo phụ ươm trào lặn, mọc tả vun hớp, nghiêng xem, bả năng để quét báo tới,lui ham kiếm cày hiềm ngả dãi chìm khứng ước

đeo đẳng lẩn quất mơ mòng lẹt lạt mòn mỏi canh cánh đầm hâm cao, mát nhẹ lúc nhúc sang, khó ngặt vắng rậm ít, nhiều thân nhàn thiếu

ta ông tôi

một hai ngàn một một ba nghìn một sáu mươi, tám chín

113

2

gầy, xỉ, lù khù

95

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

3 114 5 117 6 118 7 119 120 8 121 16 1 2 122 3 123 4 124 6 126 7 127 128 8 129 17 1 2 130 3 131 4 132 5 133 6 134 136 8 138 18 2 5 139 6 140 7 141 142 8 143 19 1 2 144 3 145 4 146 5 147 6 148 7 149 150 8 151 20 1 2 152 3 153 4 154 5 155 6 156 7 157 158 8 159 21 1 2 160 3 161 4 162 5 163 6 164 7 165 8 166 167 22 3

quét trúc tùng lâm chim, hoa cúc lan trúc chim, hoa hoa, trúc vượn rùa, hạc ổi

nhờ đội có dạy đòi quét thưởng nhớ ước tham xem kêu tạn rưới đưa dưỡng hiềm kêu hay hứng mọc tan ắt đeo âu có cài mở tìm biết hay kêu rợp hiện nằm, lẩn ủ

vắng cao, thấp khấp khểnh thanh nhàn nhàn vắng cũ pho pho nhàn vắng hiểm hóc, nhiều quanh co hơn thiệt đắn đo, dễ mòn vướng vất thâm vàng mát tròn

ba một ba một một hai một một

ta, ta ta ta

96

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

4 168 5 169 6 170 7 171 172 8 173 23 2

cúc đào, mận

đến vạy vọ

3 174 4 177 5 178 6 179 7 180 181 8 182 24 3 4 183 5 184 6 185 8 186 187 25 1 3 188 4 189 6 190 191 8 192 26 1 2 193 3 194 4 195 5 197 7 198 8 199 27 1 200 2 201 3 202 4 203 5 204 6 205 7 206 207 8 208 28 1 3 209 4 210 5 211 6 212 8 213

cỏ mai viên hạc chim cây đức trúc cá chim, cây

cậy tin được cầm thề han được quản ăn có nhờ hỏi cho đủng đỉnh bay thông chơi ngại say ngỏ trồng chen chúc chống quét, chứa buông tiếc có

phú quý, thanh thung thăng, non, khỏe phú quý, trọng thanh nhàn, yêu thủy chung đầy cao thấp cứng, mềm hiểm nhàn, khó khăn hiểm hóc nhọc nhằn thông

hai một mấy một ba một một

214 29 2 3 215 4 216 6 217 7 218

chim, cá

lánh kêu, lội dưỡng làm

nhàn ngặt nhiều lẳng đẳng

một

ta ta, ta ông này, ông này mình

97

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cúc bèo hoa

thông,trúc

trúc én rau, cá mận, đào

219 8 220 30 1 4 221 5 222 7 223 224 8 225 31 1 2 226 3 227 5 228 229 6 230 32 1 2 231 3 232 6 233 234 8 235 33 1 2 236 3 237 4 238 5 239 6 240 241 8 242 34 1 4 243 5 244 6 245 246 7 247 35 1 2 248 3 249 4 250 5 251 6 252 253 8 254 36 4 5 255 256 37 1 4 257 5 258 6 259 260 8 261 38 2 3 262 4 263 5 264 6 265 7 266 8 267

tiếc lọt đem báo tiếc lựa nổi chèo đòi náu lìa ước nằm có hầu lui tỉnh đưa đến vào làm khoe họa gặp lui ước trọn đắp xem là có

nhẹ nặng quanh sạch âu, ngặt chí cũ nghèo lửng thửng hiềm xênh xang thiếu cao lẩn thẩn nhàn xanh, bạc khỏe lành khó khăn

một một một, hai năm một

mình nhà ta tôi

98

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

vầu, trúc

một,một

làm được ăn mặc sinh yêu đội đến, nghỉ đòi đạp, ôm ngồi, gác quen ước thấy chèo mở ngủ lên mua

vui bất nhân vô nghĩa no lồng lộng tròn bủi bủi cường

đến

chim, chim rêu chim lan cậy, ép, nghe cậy

son bạc khó, bền mạnh, gắng khỏe sang

một một hai hai một

Bảy tám mươi,

tôi

268 39 1 2 269 3 270 4 271 6 272 273 7 8 274 275 40 1 2 276 3 277 5 278 279 8 280 41 2 3 281 4 282 5 283 6 284 8 285 286 42 1 2 287 3 288 4 289 5 290 6 291 292 8 293 43 1 2 294 3 295 4 296 5 297 6 298 7 299 8 300 301 44 1 3 302 4 303 5 304 6 305 7 306 307 8 308 45 2 3 309 4 310 5 311 6 312 7 313 314 8 315 46 1 2 316

ốc hòe dế trúc mai mận đào

cậy, ép cậy có soi trải họp ngại

khúc khỉu hăm he hèn hoang lẳng đẳng bạn cũ

ta

99

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

317 318 319 320 321

3 4 5 6 7

chơi

8 322 323 47 1 2 324 3 325

có khoe

thân nhàn nghèo, nhiều lạnh, quan thanh đắng, cay, mặn chát ít nhiều khá lửng vửng

thốt thấy chép

người ảo hóa, thân ảo hóa mai hoa cúc,lan,đậu,kê vãi chim

đầm ấm thấp cao thanh ngặt dữ lành

một, một một

một,mấy

4 326 5 327 6 328 7 329 330 8 331 48 1 2 332 3 333 4 334 5 335 6 336 7 337 338 8 339 49 1 2 340 3 341 4 342 5 343 6 344 345 8 346 50 1 2 347 3 348 4 349 5 350 6 351 7 352 353 8 354 51 3 4 355 5 356 6 357 358 7 8 359 360 52 1 2 361 3 362 4 363 5 364

đến,mừng,rụng đeo khen khao liều thấy chảy cho đến ưa làm hứng bẻ vun rụng, đeo tuôn nghĩ ngợi cho đến lẩn quất

mai, cúc đào, mận cúc, thông mai trúc chè mai, hoa trúc ổ thông hoa lan cúc

chí cũ, nhiều bạc, vàng sầu nặng, bạc nhặt, tiếc, cũ cuồn cuộn nghĩ ngợi mòn mọn, đẹp cao

ta ta

100

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cây

ong con ong niềng niễng

lanh chanh dập dìu chí cũ phúc lạ, thanh đất phàm, cõi tục hoang tham lam rẻ khó ngặt khó khăn

365 6 366 7 8 367 368 53 1 3 369 4 370 5 371 372 8 373 54 1 2 374 3 375 4 376 377 8 378 55 1 2 379 3 380 4 381 6 382 383 8 384 56 1 2 385 3 386 4 387 6 388 389 8 390 57 1 2 391 3 392 4 393 5 394 6 395 7 396 8 397 398 58 1 2 399 5 400 6 401 402 7 403 59 2 3 404 4 405 5 406 7 407 408 8 409 60 2 3 410 4 411 5 412 6 413

hùm vượn chim trúc, mai viên, hạc cúc, lan mai

là có ước xun xoăn lấy làm nợ uổng để cầm cày có, rẻ tạnh chen ngảnh tìm khóc nhàn nghe làm say dã yên quản đến hỏi nằm phụ quen hái, ương, bén tìm, đạp, xâm

trọn nhàn khó, vui phú quý nhàn

một, mấy đôi ba một, mấy ba bốn một

ta ta ta

101

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

414 8 415 61 1 2 416 3 417 4 418 419 6 420 62 1 2 421 4 422 5 423 6 424 7 425 426 8 427 63 1 3 428 4 429 5 430 6 431 432 64 1 2 433 3 434 4 435 436 7 437 65 1 2 438 3 439 4 440 5 441 6 442 443 7 444 66 1 2 445 3 446 4 447 5 448 6 449 8 450 451 67 1 2 452 4 453 5 454 6 455 7 456 457 8 458 68 2 4 459 5 460 6 461 7 462

trúc thông hùng ngư muống mùng

là nằm say, đứng đã dạo đã đòi biết soi có đi nằm nhọc rửa dưỡng ca khôn báo mừng có đeo chụm kề chẳng quản nài chi ngồi thèm thả ương có

no nồng thân nhàn vắng vẻ thanh phú quý cao vô tình mừng, khó khăn khó, hào khỏe, dày vắng, cao đầm ấm, lạnh khô khan nhiều đìu hiu khó khôn âu (lo)

một mười một ba một một hai một một hai một một

tôi ta

102

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

một

463 8 464 69 1 2 465 3 466 4 467 6 468 7 469 470 8 471 70 1 2 472 3 473 4 474 5 475 6 476 477 8 478 71 1 3 479 4 480 6 481 7 482 483 8 484 72 1 2 485 3 486 5 487 6 488 7 489 490 8 491 73 1 2 492 3 493 4 494 5 495

muống sen thông, trúc sen viên, hạc kiến cúc

thức được vớt, cấy phát, ương chở có mài, nhuộm lánh tìm say hỏi có quì cầm chiêm bao hờn đeo tiếc chứa để treo gửi

một hai mọi ba

cúc, thông

6 496 497 7 498 74 1 2 499 3 500 4 501 5 502 503 8 504 75 2 3 505 4 506 5 507 6 508 7 509 510 8 511 76 1

tiêu chạy, bay có nhàn hỏi chơi hổ quen đòi, chắp

nhàn lành, dữ, khen nặng trung hiếu đen cũ vô tâm ngặt hiềm thanh cũ, nặng nhàn, tàn khó ngặt hết co que phú quý phong lưu, mòn mỏi tham quyền quý bạc hiềm

một một, một năm mươi

ta ta

103

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cá trúc mai tùng, cúc

4 512 5 513 6 514 7 515 516 8 517 77 1 2 518 3 519 4 520 5 521 6 522 7 523 524 8 525 78 1 3 526 4 527 5 528 6 529 530 7 531 79 1 2 532 4 533 5 534 6 535 536 7 537 80 1 2 538 3 539 4 540 5 541 6 542 7 543 8 544 545 81 1 3 546 4 547 5 548 7 549 550 8 551 82 1 2 552 3 553 5 554 555 6 8 556 557 83 1 2 558 3 559 4 560

trúc cây quých, chè trúc mai hoa xuân hoa mai sen cúc

cùng phỏng dạng dò, xông tìm ước đổi có đầy chơi phục dưỡng quáng bàn bạc đòi báo lủi thủi làm đổi cầu cầu đâm là chiếm mong lo, nhọc được có chịu quên đem

cá tươi giàu, khó, mừng danh lợi, dửng dưng bát ngát thanh nhàn nhẹ vô tâm, bạc thanh trẻ già thưa thưa im, sáng khó khăn xao xác nhàn già nhẻ (đầy) no, mặn lạt mọn mọn vắng an nhàn bền, thường thiên hòa vàng

một ba 7-8 mươi 5-3 chén một mấy một mười một mấy

ta tôi

104

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mận, đào cam quýt

hoa trúc mai cây, chim

561 5 562 6 8 563 564 84 1 3 565 4 566 5 567 6 568 7 569 8 570 571 85 1 2 572 3 573 4 574 5 575 6 576 577 7 578 86 1 2 579 3 580 4 581 7 582 583 8 584 87 1 3 585 4 586 5 587 7 588 8 589 590 88 1 3 591 4 592 5 593 6 594 7 595 596 8 597 89 2 3 598 4 599 5 600 6 601 602 8 603 90 1 2 604 3 605 5 606 7 607 8 608 609 91 1

chim, cá mai

khen hứng màng dóng thấy gửi học gửi đưa họp cho biết trách ưa học ngẫm tiếc giữ phù trì lân la chờ rước nguôi muốn đến khiến làm cầm bắt đòi cười tìm, nhờ mừng làm

lâu dài, lều nhàn dễ dài nhọc tốt, tốt đầy, đầy, vơi đẹp bạc thanh buồn đầy ngon dễ, trắng tấc son khá giàu chê ngộ, cao hào dễ dại, vụng thừa

một, hai

tôi, mình ta mình ta ta

105

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cỏ

610 2 611 3 612 4 613 5 614 6 615 7 8 616 617 92 1 2 618 4 619 5 620 6 621 622 8 623 93 1 2 624 3 625 4 626 5 627 6 628 7 629 630 8 631 94 1 5 632 6 633 634 8 635 95 1 2 636 3 637 4 638 5 639 640 6 641 96 1 2 642 3 643 4 644 5 646 6 646 7 647 648 8 649 97 1 3 650 4 651 5 652 6 653 7 654 655 8 656 98 1 3 657 5 658

trúc thông, hoa chim

cậy cho lánh nhường mọc làm để biết thì để ngồi ơn xin có xem rước trừng trừng có làm xét đọc, quét bảo còn

sang, tài trực ngọt dài mỹ đức dễ, kém thua, được lành, dữ đức, tài dài xộc xộc vàng cứng đục, dễ trung hiếu trừng trừng thần minh dại trọc thanh nhục, vinh thấp thấp nàm nàm đen lục, chàm tiêu sái tham

một mấy một tam một ngàn hai mấy

tôi

106

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cá mèo cam, quýt hoa cá

659 6 660 7 8 661 662 99 1 2 663 3 664 4 665 5 666 6 667 7 668 669 8 670 100 1 2 671 3 672 4 673 6 674 7 675 8 676 677 101 1 2 678 3 679 5 680 6 681 682 8 683 102 1 2 684 3 685 4 686 5 687 6 688 689 7 690 103 1 2 691 3 692 4 693 6 694 7 695 696 8 697 104 1 2 698 4 699 5 700 6 701 702 8 703 105 1 2 704 3 705 4 706 5 707

chim

biếng xin sinh nấn ná mùng đội là làm sinh ơn biết chơi thác giũ đòi nhìn đòi có xem ẩn mặc day rịn đong lừa nương náu kêu lặt, xem

cao, bạc, bạc ngặt, xanh trọng vui, lành trung hiếu thịnh suy đầu bạc leo lẻo, xanh cũ tròn thánh hiền vui bịn rịn, cũ hiềm, tục váng, phàm tàn, rụng

một một nghìn mấy ba một

ta tôi ta

107

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

hoa mai cúc chim cá

708 6 709 7 8 710 711 106 1 2 712 3 713 4 714 5 715 716 6 717 107 1 2 718 3 719 4 720 5 721 6 722 7 723 724 8 725 108 1 3 726 4 727 5 728 6 729 7 730 731 8 732 109 1 2 733 3 734 4 735 5 736 6 737 7 738 739 8 740 110 1 2 741 5 742 6 743 7 744 745 8 746 111 1 2 747 3 748

vượn, hạc vượn, chim trúc

xấu, giàu ghê, dại dột dễ, chân thật khó khăn, dễ, thanh nhàn khó khăn bền

một một ba một một một hai ngàn, một một

ta ta

749 4 750 5 8 751 752 112 1 2 753 3 754 4 755 5 756

rừng nho

soi có tin nguôi nấn ná điểm hẹn tiếc nguyện xin có khuyên tiếc muốn lo lấy được ước biếng quen thong thả nằm, ăn kêu hót lấy quên tích đức,đua lành làm có đi nấn ná

lành, khôn trung hiếu hiểm bạc, ưu ái

mấy

108

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

đắng cay khôn

ngựa cúc mai lan, cúc chim, cá

757 6 758 7 8 759 760 113 1 2 761 3 762 4 763 5 764 6 765 7 766 767 114 1 3 768 5 769 6 770 771 8 772 115 1 2 773 3 774 4 775 6 776 777 7 8 778 779 116 1 2 780 4 781 5 782 6 783 784 7 785 117 1 2 786 3 787 4 788 5 789 790 7 791 118 1 2 792 3 793 5 794 6 795 796 7 8 797 798 119 1 2 799 3 800 4 801 5 802 6 803 7 804 8 805

viên, hạc trúc mai

tiêu nhờ nhìn đòi về khiêm nhường sinh ngâm nga là đợi sinh biết ghê nhàn cầu quản về ngồi đúc, tiếc phục tìm nhiễm làm phụ lìa phát nhuốm bén rủ quyến tàn yên lo

tàn bạc, xanh thiệt lành lành ngon sầu khó khăn dại dột muộn hiềm ưu ái bể hiểm ghê, mềm ngặt quê cũ no khôn

ba mấy

ta

109

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tư mươi một, một

mười,mười

thấy tiếc héo có mừng có

phượng hoa, cỏ cá mai chim hoa trúc, thông

806 120 1 2 807 3 808 4 809 5 810 6 811 7 812 813 8 814 121 1 2 815 3 816 5 817 6 818 7 819 820 8 821 122 1 2 822 3 823 4 824 5 825 826 6 7 827 828 123 1 2 829 3 830 4 831 6 832 833 8 834 124 1 2 835 3 836 4 837 5 838 839 8 840 125 1 3 841 5 842 6 843 7 844 845 8 846 126 1 2 847 3 848 4 849 5 850 6 851 7 852 8 853 854 127 1

sen hoa thông trúc vượn,chim

đứt tuôn chồng đeo truyền trách quét đậu thấy dõi có đọng biến nằm rụng bù trì trách kết đi vận làm làm, giữ

lạnh cao héo, tươi xanh, bạc lặng lững đững lục cao đạm bạc cực thanh phú quý, hèn chê, khen bạc, đen vắng vẻ đạm bạc đạm bạc thưa thưa thấp thấp cao, thấp

mấy một, một một một hai một bốn

ta tôi

110

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

mọi

hùm khiếu

855 2 856 3 857 4 858 5 859 6 860 7 8 861 862 128 1 3 863 4 864 5 865 6 866 7 867 8 868 869 129 1 2 870

dỗ kính, gìn nằm đem cho chép cho màng

một

3 871 4 872 6 873 874 7 875 130 1 2 876 3 877 4 878 5 879 6 880 7 881 8 882 883 131 1 2 884

mai cúc

truyền phụ đào, cày tích nối gìn toan

bảy tám mươi

3 885 5 886 6 887 888 8 889 132 1 2 890 3 891 5 892

cỏ

biết có có nắm chép trừ, trừ

tôi

6 893 7 894 895 8 896 133 1 2 897 3 898 4 899 5 900 6 901

có, có được lấy đem

khẩn khoản, răn dỗ tham, dại oai, mạnh khôn hung hăng hiền lành tham, nhiều ít được, mất nhàn bền phú quý, khoe khoang muộn, bạc vàng tao khang thông (đủ) nhiều cao gìn nhân nghĩa, trung khó, khó, khốn, hanh cứng nghèo, lành phúc, họa họa, phúc độc, tham, bạo ngược nhân, trí thấp, cao phú quý nhọc nhiều khó

111

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

sâu ngựa

7 902 903 8 904 134 1 2 905 3 906 4 907 5 908 6 909 7 910 8 911 912 135 1 2 913 3 914 4 915 5 916 7 917 918 8 919 136 1 2 920 3 921 4 922 5 923 924 6 925 137 1 3 926 4 927 5 928 6 929 7 930 931 8 932 138 1 2 933 3 934 4 935 5 936 6 937 8 938

làm làm có nằm ăn thác lìa, làm nuôi, biết gặp làm xảy quanh muốn có có có đến có oán

trăm tuổi một mấy mọi 7-8 mươi

mình

939 139 1 2 940 3 941 4 942 6 943 944 7 8 945 946 140 1 3 947 4 948 5 949 6 950

ân cần gìn chen mặc bền chê khen

an nhàn ấm áp khô khan nhiều bần tiện, trọng yêu quý giá cũ nhiều lành phúc họa nhọn, nhọn quanh quanh nhỏ, lớn cao, ngây chính tài đức lòng ngay phúc nơm nớp nơm nớp, nhân sinh giàu, khó ân cần, phú quý hoa lạnh bạc đen nhân nghĩa phú quý, nhiều bạc cũ, đen khó ngặt, bền chê khen, chê khen

hai

ta

112

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

7 951 952 8 953 141 1 2 954

5-3 thửa

đi cười tham lấy đứt nhịn

ta

3 4 955 5 956 6 957 7 958 959 8 960 142 1 2 961 3 962 4 963 5 964 6 965 7 966 967 8 968 143 1 3 969 4 970 5 971 972 6 973 144 1 2 974 3 975 4 976 5 977 6 978 7 979 980 8 981 145 1 2 982 4 983 5 984 6 985 986 8 987 146 1 2 988 3 989 4 990 5 991 992 6 7 993 994 147 1 2 995 3 996 4 997 5 998

đem kết bạn cầu, mong đắp có có thương nhắn nhủ bù trì nghe nhớ đền dưỡng có làm

nhiều hèn dại ngay, thiếu, khen chê quen lạ cũ dại, khó bền dễ đẹp cương, nhu khó, nhiều rộng, phiền nhàn tham, gian nan hiền bất nghĩa phong lưu, khó phú quý, hàn cũ nghèo, an yêu, trọng phúc, đức cao, thấp nhiều nhọc lành, dữ ngọt, hơn, nhiều chua, ủng lành, dữ

một hai vạn, thiên

113

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

thông, mai nho

6 999 1000 7 1001 148 1 2 1002 5 1003 6 1004 7 1005 1006 8 1007 149 1 2 1008 3 1009 4 1010 5 1011 6 1012 7 1013 1014 8 101 150 1 3 1016 4 1017 5 1018 1019 6 8 1020 1021 151 1 2 1022 3 1023 5 1024 6 1025 1026 7 1027 152 1 2 1028 3 1029 4 1030 6 1031 1032 8 1033 153 1 3 1034 4 1035 5 1036 1037 8 1038 154 1 2 1039 3 1040 4 1041 1042 7 8 1043 1044 155 1 2 1045 3 1046 4 1047

hoa trúc cá nghìn đầu

chơi kết chạy trợ lấy làm làm nhặt bới ràn làm trách thương cảm nguyền xem được thua nài có có được lánh nuôi nhẫn, mong xem chờ nhà biếng

thắm tròn xấu tốt dại, dại khôn, khôn đen, đỏ khó khăn, ngon ích kỉ đức rộng danh lợi khô được, thua cao thấp, đắn đo nước biếc non xanh đêm thanh, cạn, đục thân nhàn nhàn

một một một, bốn chín nghìn bốn nghìn một hai

mình ta

114

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

dẫn quẩy

ta ta

5 1048 6 1049 7 1050 8 1051 1052 156 1

một tám

lấy lụy biết

ta

2 1053 3 1054 4 1055 5 1056 6 1056 8 1057 1058 157 1

hoa

dời giữ bước tìm kề là có lánh có dời có ngại lui quét dùng lẩn thấy trọng

ba ba mọi một nhiều

ta ta

2 1059 3 1060 4 1061 6 1062 8 1063 1064 158 1 2 1065 3 1066 4 1067 5 1068 6 1069 1070 7 1071 159 1 2 1072 3 1073 4 1074 5 1075 6 1076 1077 8 1078 160 1 2 1079 4 1080 5 1081 6 1082 1083 7 1084 161 1 2 1085 3 1086

1087 1089 1090 1091

4 5 6 7

mất biết

nặng hơn, thiệt khen, chê trọc trọc, thanh thanh họa khôn khôn, dại, ương ương dại vàng mềm, xanh cũ, cũ, thanh lạnh lạnh chênh chênh cũ xanh xanh phận an ngặt, bền nhiều nhờn, dại, trọng, khôn

một mười

115

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cúc mai hoa, chim cá cây, chim lan, huệ

1092 8 1093 162 1 2 1094 3 1095 4 1096 1097 5 8 1098 1099 163 1 2 1100 3 1101 4 1102 5 1103 6 1104 7 1105 1106 8 1107 164 1 2 1108 3 1109 6 1110 8 1111 1112 165 1 2 1113 3 1114 4 1115 5 1116 6 1117 8 1118 1119 166 1 2 1120 3 1121 4 1122 5 1123 6 1124 7 1125 8 1126 1127 167 1 4 1128 5 1129 7 1130 1131 168 1 2 1132 3 1133 4 1134 5 1135 6 1136 1137 8 1138 169 1 2 1139

uốn đòi kết bạn xem tìm được vụng là làm có đòi nẩy che nở. kêu lần đeo nhớ lội đắp đọc bước cảm ơn lụy lui lánh chép biết lần đổi ngắn say nhờ dõi có biếng

dễ hơn vụng, bất tài, kém vàng bạc nhiều son bạc dại lánh nhục khôn lạnh cao ngặt, vui khen, chê, dữ lành

một bốn năm một, một, một mấy một mười một một một hai mấy ba một

mình

116

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

lần xin viếng thăm hóng mát đùn đùn phun tịn đàn đủ

thì

3 1140 4 1141 5 1142 6 1143 7 1144 1145 8 1146 170 1 2 1147 3 1148 4 1149 5 1150 6 1151 7 1152 8 1153 1154 171 1 2 1155 3 1156 4 1157 5 1158 1159 6 1160 172 1 2 1161 3 1162 4 1163 5 1164 6 1165 7 1166

hòe thạch lựu hiên hồng liên trì

làm chước có có là trong họa có cân xưng lo

một hai ngàn ba

8 1167 1168 173 1 3 1169 4 1170 5 1171 6 1172 1173 7 1174 174 1 2 1175 3 1176 4 1177 5 1178 6 1179 7 1180 1181 8 1182 175 2 4 1183 5 1184 6 1185 7 1186 1187 8 1188 176 2

mai nguyệt

bảo no muốn làm có đành thì tranh nằn cống chạy nhịn

lòng thơ lục đỏ lao xao dắng dỏi đói khó khôn, khôn khéo, khéo, đầy rộng tham tốt, họa dễ khôn, khó, nhiều, nhiều, nhọc khôn, khéo khôn, ngây hiền lành, phàm nhiều, nhiều ít, ít xa hoa, rộng, khó hờn, tham hơn, thiệt khó khăn thơm, phúc đỏ vắn, dài

hai, ba bốn mấy

ta

117

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

cây

3 1189 4 1190 5 1191 6 1192 1193 7 1194 177 1 2 1195 3 1196 4 1197 6 1198 1199 8 1200 178 1 2 1201 3 1202 4 1203 5 1204 6 1205 7 1206 1207 8 1208 179 2 3 1209 4 1210 5 1211 1212 8 1213 180 1 2 1214

có đẵn đua làm làm ước qua, đòi đến muốn chặt thết mừng biết muốn ưa

một hai, một

ta

3 1215 4 1216 6 1217 1218 8 1219 181 2 3 1220 6 1221 7 1222 1223 8 1224 182 2 3 1225 4 1226 1227 6 8 1228 1229 183 1 2 1230 3 1231 4 1232 1233 7 1234 184 1 2 1235 3 1236 5 1237

trách thông bảo có thương ngẫm hầu chép làm thì làm đọc

dại hận khôn, khó đầy lâu lành phú quý vàng bạc lạt nồng đằm thắm hiểm hư khó khăn, dại dột, lừ khừ đủ dư dại ngơ cao nhọc nhằn cao thấp giầu bùi ngon vẹn khá tài, đức tài, kém, đức

một mười

ta đạo ta một, hai

118

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1238 6 1239 185 1 2 1240

mất nhắn

1241 5 1242 7 8 1243 1244 186 1 3 1245 4 1246 5 1247 6 1248 1249 7 1250 187 1 2 1251 3 1252 4 1253 5 1254 6 1255 7 1256 1257 8 1258 188 1 2 1259 4 1260 1261 6 1262 189 2 3 1263 4 1264 5 1265 6 1266 1267 8 1268 190 2 3 1269 4 1270 5 1271 6 1272 7 1273 1274 8 1275 191 1 2 1276 3 1277 4 1278 5 1279 1280 7 8 1281 1822 192 1 2 1283 3 1284 4 1285 5 1286

cúc

khuyên đừng sinh cạy cạy say khoe khỏi chuyên thói nỡ thìn thói kịp đã có bén thương cho có mất lìa tan tổn hại giận nhọc đua, quên mất, nát ăn năn nhịn bảo nghe xa hoa cho

khôn, dại, lo lường, an bất nghĩa, loàn đan nhiều, con hiền khoan khoan, ít lạy lạy hèn hạ chính chuyên khó khăn, phú quý đức, tài khắn khắn trung hiếu, lòng đỏ trung cần thánh hiền mừng lành đạo thường nhọc nhân nghĩa nhân tâm om thòm xa hoa hà tiện ấm

ba mấy một đôi thiếu 1,2 mấy

tôi

119

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

én, tuyết thông

vườn hoa đìa cỏ đỗ quyên hòe hoa trúc liễu

1287 6 1288 7 8 1289 1290 193 1 2 1291 3 1292 4 1293 5 1294 6 1295 7 1296 1297 194 1 4 1298 5 1299 6 1300 7 1301 1302 8 1303 195 1 2 1304 3 1305 5 1306 1307 6 7 1308 1309 196 1 2 1310 1311 3 4 1312 1313 197 1 2 1314 3 1315 1316 4 1317 198 1 2 1318 3 1319 1320 4 1321 199 1 2 1322 3 1323 1324 4 1325 200 1 2 1326 3 1327 1328 4 1329 201 1 2 1330 3 1331 1332 4 1333 202 1 2 1334 3 1335

hoa liễu ong

lọ kén có sai thấy truyền có khinh bạc thăm chong đốt ướm gặp no đi khóc chơi tin kêu biếng có sang có là đến khoe rủ có dắng dõi thấy, tiếc tiếc phụ

ngon biếng khinh bạc tuyết trắng tiểu, đài tiếc cỏ tươi dài lạnh lẽo đầm ấm, tốt tươi biếng, dùng dằng bóng lục muộn nhớn khôn, bâng khuâng khoan khoan khoe mềm dắng dõi dắng dõi khôn, lòng xuân xanh vô tình xanh, bạc

một 12 tháng 3 tháng hai một tư 1-2 phần một hai

120

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

tơ liễu liễu rủ liễu mềm hoa nguyệt

1336 4 1337 203 1 2 1338 3 1339 1340 4 1341 204 1 3 1342 1343 4 1344 205 1 3 1345 1346 4 1347 206 1 2 1348 3 1349 1350 4 1351 207 1 2 1352 3 1353 1354 4 1355 208 1 1356 2 4 1357 1358 209 1 1359 4 1360 210 1 2 1361 1362 3 1363 211 1 2 1364 3 1365 1366 4 1367 212 2 3 1368 4 1369 5 1370 6 1371 7 1372 1373 8 1374 213 1

gió xuân hoa trúc quế tử rồng

có phụ kể nhẵn cười cầm, tiếc tiếc, rủ rủ rủ hứng tiếc ron ròng ướm hỏi mượn tiếc thấy tiếc trách chịu lệnh xem chiết chiếm thăm thoát lui

mấy 3-7 mươi 3-7 mươi một, một một, một 3 tháng,3 mấy 3, 90 ngày

2 1375 3 1376 4 1377 5 1378 6 1379 7 1380 1381 8 1382 214 1 2 1383 3 1384

chim, cá cây

chìm dãi khéo rẽ hay trỗi nở ngỡ

bạc, xanh xanh tươi nhẫn, bạc hiền, dại mềm mềm vấn vít thương thanh lành đầm ấm, lanh lùng dửng dưng cũ tốt cao lạnh lẳng đẳng nghi ngút, mênh mông thanh tân

hai, một

121

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Lão mai

4 1385 5 1386 6 1387 7 1388 1389 8 1390 215 1 2 1391 3 1392 4 1393 7 1394 1395 8 1396 216 1 2 1397 3 1398 4 1399 5 1400 6 1401 7 1402 1403 8 1404 217 1 2 1405 3 1406 4 1407 5 1408 1409 7 8 1410 1411 218 1 2 1412 3 1413 1414 4 1415 219 1 2 1416 4 1417 1418 220 1 2 1419 3 1420 4 1421 1422 221 1 2 1423 1424 3 4 1425 1426 222 2 3 1427 1428 4 1429 223 1 3 1430 1431 4 1432 224 1 2 1433

lan hồng cúc tùng hoa liễu rồng hoa

nghi cười nẩy ngỡ in nhờ đổi đua nghĩ đeo thức đoái nài có cho sinh bén bền kịp yêu chuộng lạt rặng dùng có đòi đặng đặng có nhìn trợ ưa có mắng bảo bén gẫm

già cực lạ dường bền danh thơm, kịp khá lạnh lùng lạt khỏe khỏe thanh cứng cứng lạ huyễn tốt tươi sạch

một, một mấy một một, ba nhiều nhiều nhiều

122

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1434 225 1 2 1435 3 1436 1437 4 1438 226 1 2 1439 3 1440 1441 4 1442 227 1 2 1443 3 1444 1445 4 1446 228 1 2 1447 1448 3 1449 229 2 3 1450 4 1451 1452 230 1 2 1453 1454 3 4 1455 1456 231 1 3 1457 1458 4 1459 232 1 3 1460 4 1461

đào hoa chim xanh hoa hoa khí dương hòa khí dương hòa hoa luống hoa

kết bạn ngẫm ngọt có động động đưa chiếm khéo thấy có động tỏ rỉ có phụ có có nhẫn kể gặp phai có cho có tin

một tam một một, mọi ba

Ba tiêu

1462 233 1 2 1463 1464 3 1465 234 1 2 1466 1467 4 1468 235 1 2 1469 3 1470 1471 4 1472 236 1 3 1473 4 1474 1475 237 1 2 1476 3 1477 1478 4 1479 238 1 2 1480 3 1481 4 1482

Mộc cận,hồng râm bụt (giá) Lan

ngâm dưỡng để có in kể đưa bén còn gượng mở in bén rụng hay tới ăn mới

mếch trọng tốt tươi mơn mởn dễ khéo ít, ít hơn tin tin, ngờ ngờ, khá, khá hòa, tốt phú quý cây lục nhiều vờn vờn tốt ấm ấm hong hong

một nghìn một

123

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

1483 239 1 2 1484 3 1485 1486 4 1487 240 1 1488 4 1489 241 1 2 1490

lão dung cúc mộc hoa

tìm tới có rợp bén cho hay sinh

một, một

đầm hâm hiềm, muộn muộn, thơm thơm tho, tốt tươi, thiếu day day

mật lịch hoa liên hoa

tốt

hòe cam đường

3 1491 1492 242 1 1493 4 1494 243 1 3 1495 1496 4 1497 244 1 2 1498 3 1499 1500 4 1501 245 1 2 1502 3 1503 1504 4 1505 246 1 2 1506 3 1507 1508 4 1509 247 1 2 1510

trường an hoa dương

có, đòi chớ cậy bén đưa làm nảy nảy giương đùn đùn thấy, nhớ dời chép ngâm ngợi cho đã rỡ chiếm day day

mười một chín mươi

mình

có Ngẫm ăn uống quen xâm đính cười dẫy dõi phát

đi

một, một mười nghìn mười

3 1511 1512 4 1513 248 1 2 1514 3 1515 5 1516 6 1517 7 1518 1519 8 1520 249 1 2 1521 4 1522 1523 5 1524 250 1 2 1525 3 1526 4 1527 5 1528 6 1529 7 1530

lão hạc nhạn điệp trận ve

xòe chớp chớp khéo thành đắp

nảy nảy, mống lành hạc đùn đùn đất dư tốt lạ đỏ day day, tốt hòa tươi nhẹ bạch tuyết, bạc chín, hồng đủng đỉnh đầy khéo nhẹ khéo, lữa lần leo lét dìu dập

124

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

miêu trư

rồng tin liễu

tơ trâu

mắng sinh trộm ngồi bảo đi ăn hận dưỡng xem truyền cổi, làm mở im ỉm dõi bay nâng chơi dời, nằm cày

khó, sang, phụ lạt tiện nhọc phây phây nhàn phong bạc khỏe, nhiều vô cớ

một hai năm

1531 8 1532 251 1 2 1533 3 1534 4 1535 5 1536 6 1537 7 1538 1539 8 1540 252 1 2 1541 4 1542 5 1542 7 1543 1544 8 1545 253 1 2 1546 3 1547 4 1548 5 1549 1550 6 8 1551 1552 254 1 2 1553 5 1554 6 1555

125

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

Phụ lục 2:

BẢNG THỐNG KÊ CÁC HƯ TỪ

Các hƣ từ trong câu

STT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41

Bài 1 3 - 4 - - 6 - - 7 - - 8 - - 10 - - - - - - 11 12 - - - - 13 - - - 14 - 15 16 - 17 - 18 -

Câu 7 1 2 2 3 4 1 2 3 2 7 8 1 2 5 6 1 2 5 6 7 8 2 3 5 6 7 8 1 4 7 8 2 7 7 2 8 7 8 3 8

Triều quan chẳng phải ấn chẳng phải Lảo thảo chưa nên tiết trượng phu Miễn là phỏng dáng đạo tiên nho Thị phi nào đến cõi yên hà Bữa ăn dầu có dưa muối Áo mặc nài chi gấm là Làm người chẳng có đức cùng tài Đi nghỉ đều thì kém hết hai Hiểm hóc cửa quyền chăng đụt lặn Chẳng tài đâu xứng chức tiên sinh Lại mừng nguyên khí vừa thịnh Còn cậy vì hay một chữ đinh Đã mấy thu nay để lệ nhà Duyên nào đeo đẳng khó chăng tha Tài lẹt lạt nhiều nên kém bạn Người mòn mỏi hết phúc còn ta Sang cùng khó bởi chưng trời Lặn mọc làm chi cho nhọc hơi Liêm; cần tiết cả tua hằng nắm Trung hiếu niềm xưa mựa nữa đời Con cháu chớ hiềm song viết ngặt Thi thư thực ấy báu ngàn đời Có thân chớ phải lợi danh vây Nghiệp cũ thi thư hằng một chức Nhan Uyên nước chứa bầu còn nguyệt Đỗ Phủ nên thơ bút có thần Nợ quân thân chưa báo được Hài hoa còn bợn dặm thanh vân Thân nhà dầu tới dầu lui Tính quen chăng: kiếm trúc cùng mai Con cháu mựa hiềm song viết tiện Nghìn đầu cam quýt ấy là tôi Thế giới đông nên ngọc một bầu Thuyền mọn còn chèo chăng khứng đỗ Tơ hào chẳng có đền ơn chúa Khấp khểnh ba làn trở lại bằng Thiên kim ước đổi được hay chăng Ẩn cả lọ chi thành thị nữa Nào đâu là chẳng đất nhà quan Song viết hằng lề phiến sách cũ Chẳng ấu ngặt chẳng âu già

126

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86

19 - - - 20 - - - - 21 22 - - 23 - - - - 24 - - - - 25 - - - - - - 26 - - 27 - 28 - - - - - 29 - - 30

2 6 7 8 1 2 6 7 8 7 1 7 8 1 3 4 7 8 2 3 5 6 7 1 2 4 5 6 7 8 5 6 7 7 8 1 2 4 5 7 8 1 2 3 1

Cảnh lạ đêm thanh hứng bởi đâu Thế giới đông nên ngọc một bầu Ta ắt lòng bằng Văn Chính nữa Vui xưa chẳng quản đeo âu Nẻo có ăn thì có lo Chẳng bằng cài cửa ngáy pho pho Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc Tuồng ni cốc được bề hơn thiệt Chớ dễ bằng ai đắn mấy đo Rùa nằm hạc lẩn nên bầy bạn Chẳng hay rắp rắp đã bốn mươi Phú quý chẳng tham thanh tựa nước Lòng nào vạy vọ hơi hơi Ngày tháng kê khoai những sản hằng Đạo ta cậy bởi chân non khỏe Lòng thế tin chi mặt nước bằng Thề cùng viên hạc trong hai ấy Thấy có ai han chớ đai đằng Nào đâu là chẳng đất Đường Nghiêu Người tham phú quý người hằng trọng Nô bộc ắt còn hai dặng quýt Thất gia chẳng quản một con lều Miễn là tiêu sái qua ngày tháng Có mống tự nhiên lại có cây Sự làm vắng bặt ắt còn chầy Động tĩnh nào ai chẳng hỏi chầy Hỉ nộ cương nhu tuy đã có Nghĩa nhân lễ trí mựa cho khuây Hay văn hay vũ thì dùng đến Chẳng đã khôn ngay khéo đầy Nước mấy trăm thu còn vậy Nguyệt bao nhiêu kiếp nhẫn nay Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết Được thua phú quý dầu thiên mệnh Chen chúc làm chi cho nhọc nhằn Đường thông thuở chống một cày Sự thế bao nhiêu vẫn đã khuây Quét con am để chứa mây Đìa thanh nguyệt hiện chăng buông cá Dầu bụt dầu tiên ai kẻ hỏi Ông này đã có thú ông này Ở chớ nề hay học cổ nhân Lánh mình cho khỏi áng phong trần Chim kêu cá lỗi yên đòi phận Chân chăng lọt đến cửa vương hầu

127

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131

- - - - - - 31 - - 32 - - - - - 33 - - - 34 - - - - 35 - - - - 36 - - - 37 - - 38 - - - 39 - - - -

2 3 5 6 7 8 3 6 7 1 3 4 6 7 8 2 3 4 5 3 4 6 7 8 1 5 6 7 8 2 6 7 8 2 7 8 1 6 7 8 3 4 6 7 8

Ấy tuổi nào thay đã bạc đầu Liệu cửa nhà xem bằng quán khách Thân đà hết lụy thân nên nhẹ Bụt ấy là lòng bụt há cầu Bui một quân thân ơn cực nặng Tơ hào chưa báo hãy còn âu Nhà còn thi lễ âu chi ngặt Tay còn lựa hái cúc Uyên Minh Chi là của tiêu ngày tháng Tưởng thân hư ảo nổi bằng bèo Viện có hoa tàn chăng quét đất Nước còn nguyệt hiện xá thôi chèo Sự thế bằng cớ bước bước nghèo Không kể chi tay trí thuật Để đòi khi ngã thắt khi eo Lửng thửng chưa lìa lưới trần Ở thế những hiềm qua mỗ thế Có thân thì xá cốc chưng thân Vườn còn thông trúc đáng trăm mẫu Còn miệng tựa bình đà chỉn giữ Có lòng bằng trúc mỗ nên hư Quạt đã hầu thu lòng Tiệp Dư Chỉn xá lui mà thủ phận Lại tu thân khác mực thi thư Quê cũ nhà ta thiếu của nào Khách đến vườn còn hoa lác Thơ nên cửa thấy nguyệt vào Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ Lẩn thẩn làm chi áng mận đào Kiểu còn lọt lọt chữ Tương Như Lưng khôn uốn lộc nên từ Ai ai đều đã bằng câu hết Nước chẳng còn có Sử Ngư Bổ báo chưa hề đặng mỗ phân Quốc phú binh cường chăng có chước Bằng tôi nào thửa ích chưng dân Vàng bạc nhà chăng có mỗ phân Cuốc cày là thú những xun xoăn Cậy trời còn có bấy nhiêu nữa Chi tuổi chăng hiểm kẻ khó khăn Cơm kẻ bất nhân, ăn, ấy chớ Áo người vô nghĩa, mặc, chăng thà Sinh được con thì cảm đức cha Mừng thuở thái bình yêu hết tấc No lòng tự tại quản chi

128

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176

40 - - 41 - - - 42 43 - - - - 44 - - - - - - 45 - - - - 46 - - 47 - - - - - 48 - 49 - - - - - 50 - -

2 7 8 2 5 6 8 8 1 3 4 6 7 1 2 3 4 5 6 7 1 2 6 7 8 4 6 7 1 2 4 5 6 8 5 6 2 4 5 6 7 8 1 3 4

Nào ai chẳng đội ở trên đầu? Ngoài năm mươi tuổi, ngoài chưng thế Ắt đã tròn bằng nước ở bầu Đòi nước non chơi quản dầu Giang sơn mặt thấy nên quen thuộc Danh lợi lòng nào ước chác cầu Rêu bủi bủi thấy tiên đâu Thế gian hay một khách văn chương Chén chăng lọ chuốc rượu La PHù Lòng còn tấc son còn nhớ chúa Tóc hai phần bạc bởi thương thu Mạnh gắng, thì nên kẻ trượng phu Cày ruộng cuốc vườn dầu hết khỏe Chớ cậy sang mà ép nề Lời chăng phải vưỡn khôn nghe Co que thế bấy ruột ốc Khúc khỉu làm chi trái hòe hai chữ công danh chăng cảm cốc Một trường ân oán những hăm he Làm người mựa cật khi quyền thế Bảy tám mươi bằng một bát tay Người sinh ở thế mỗ hèn thay Đông hè trải đã xưa hay Ta còn lẳng dẵng làm chi nữa Tượng có trời bày đặt vay Qua ngày qua tháng, dưỡng thân nhàn Nhà ngặt quan thanh lạnh nữa đèn Mùi thế đắng cay cùng mặn chát Có thân thì cốc khá làm sao Lửng vửng công hư, tuổi tác nào Thuở chiêm bao thốt sự chiêm bao Rừng thiền ắt thấy nên đầm ấm Đường thế nào nề chẳng thấp cao Lại chăng được chép khúc Ly tao Bá Di người rặng thanh là thú Nhan Tử ta xem ngặt ấy lề Thương hải hay khao thiết thạch mòn Người xưa sử chép dễ thấy ai còn Nguyệt xuyên há dễ thâu lòng trúc Nước chảy âu khôn xiết bóng non Song viết lại toan nào của tích Bạc mai vàng cúc để cho con Đến trường đào mận ngạt chăng thông Sầu nặng Thiếu Lăng biên đã bạc Hứng nhiều Bắc Hải chén chưa thông

129

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 192 193 194 195 196 197 198 199 200 201 202 203 204 205 206 207 208 209 210 211 212 213 214 215 216 217 218 219 220 221

- - 51 - - 52 - - - - 53 - - - - - 54 - 55 - - - 56 - - 57 - 58 - - - 59 - - - 60 - - - - 61 - - - -

5 7 2 5 7 2 4 5 6 8 1 3 4 5 6 8 7 8 1 3 7 8 3 4 8 6 8 3 4 7 8 3 5 6 8 1 2 3 4 8 1 2 5 6 7

Mai chăng bẻ thương cành ngọc Bui một tấc lòng ưu ái cũ Chiêm bao ngỡ đã đến trong Gió nhặt đưa qua trúc ổ Thứ nằm nghĩ ngợi còn mường tượng Trần thế chăng cho bén mỗ hào Câu mầu ngâm, dạ nguyệt càng cao Những màng lẩn quất vườn lan cúc Ắt ngại lanh chanh áng mận đào Dập dìu là ấy chiêm bao Hễ kẻ làm quan đã có duyên Thân xưa hương hỏa chăng còn ước Chí cũ công danh đã phỉ nguyền Trẻ hòa sang ấy phúc Già được trọn là tiên Lọ phải xun xoăn đến cửa quyền Cốt lạnh hồn thanh chăng khứng hóa Âu còn nợ chúa cùng cha Kim Cốc phong lưu nữa để hoang Giàu mấy kiếp, tham lam bấy Thiên thơ án sách qua ngày tháng Một khắc cầm nên mấy lạng vàng Sự có cầu người nên rẻ mặt Phận tuy rằng khó miễn yên lòng Một ao niềng niễng mấy đòng đong Đường cùng Nguyễn Tịch khóc làm chi Ta chẳng còn nghe tiếng thị phi Thua được toan chi cơ Hán Sở Nên chăng đành lẽ kiện Thương Chu Khó miễn vui chăng thửa trách Vì chưng đời có chúa Đường Ngu Ta quản tiêu dao qua mỗ thế Thân nhàn đến chốn dầu tự tại Xuân muộn nào hoa chẳng rụng rời Non từ nay mựa tốn công dời Ngài ở nhân gian lưới trần Thì nằm thôn dã miễn yên thân Trúc mai chẳng phụ lòng quân tử Viên hạc đà quen bạn dật dân Còn một non xanh là cố nhân Già chơi dầu có của no dùng Chén rượu câu thơ ấy hứng nồng Làm quan thờ dại tài chăng đủ Về ở thanh nhàn hẹn đã hồng Rảng rảng người rằng chuông ấy thạch

130

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

222 223 224 225 226 227 228 229 230 231 232 233 234 235 236 237 238 239 240 241 242 243 244 245 246 247 248 249 250 251 252 253 254 255 256 257 258 259 260 261 262 263 264 265 266

- 62 - - - 63 - - 64 - - 65 66 - - - - 67 - 68 - - 69 - - - 70 - - 71 - - - - - - 72 - - - - 73 74 - -

8 3 4 6 7 5 7 8 2 4 8 6 1 2 5 7 8 5 6 3 7 8 1 2 7 8 6 7 8 1 2 3 5 6 7 8 3 4 5 6 7 8 1 5 6

Đóng thời cũng có tiếng công công Diếp huyện hoa còn quyến khách Rày biên tuyết đã nên ông Đà biết nhân gian mọi sự thông Chẳng bượp giang hồ nơi vắng vẻ Lòng tiện soi dầu nhật nguyệt Ấy còn cậy cục làm chi nữa Nẻo mộng chưa nồng, chẩm chửa toan Dầu lòng đi Bắc lẫn đi Nam Trái thì trai, vượn nhọc đa, Sạch chẳng còn một chút phàm Tóc tơ chưa báo mẹ cha sinh Khó khăn thì mặc, có màng bao Càng khó bao nhiêu chí mới hào Lấy khi đầm ấm pha khi lạnh Kìa nẻo Tô Tần ngày trước Chưa đeo tướng ấn có ai chào Cơm ăn chẳng quản dưa muổi Áo mặc nài chi gấm thêu La ỷ lấy đâu chăng lưới thưới Còn có một lòng âu việc nước Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung Công danh đã được hợp về nhàn Lành dữ âu chi thế nghị khen Bui có một lòng trung lẫn hiếu Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen Hỏi làm chi sự sổ câm (kim) Thế sự dầu ai hay buộc bện Sen nào có bén trong lầm Càng một ngày càng ngặt đến xương Ắt vì số mệnh, ắt văn chương Người hiềm rằng cúc qua trùng cửu Chè thuở tiên, thì mình kín nước Cầm khi đàn, khiến thiếp thiêu hương Non quê ngày nọ chiêm bao thấy Viên hạc chăng hờn lại những thương Niềm cũ sinh linh đeo ắt nặng Cật trưng hồ hải đặt chưa an Những vì thánh chúa, âu đời trị Há để thân nhàn, tiếc tuổi tàn Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt Thiên công nào có thuở tư che Non nước cùng ta đã có duyên Lòng chẳng mắc tham là của báu Người mà hết lụy ấy thân tiên

131

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

267 268 269 270 271 273 274 275 276 277 278 279 280 281 282 283 284 285 286 287 288 289 290 291 292 293 294 295 296 297 298 299 300 301 302 303 304 305 306 307 308 309 310 311 312

- 75 - - 76 - - 77 - - - 78 - - 79 - 80 - - 81 - - - - - 82 - - - - 83 - - - - - 84 - - - - 85 - - -

8 2 7 8 1 2 6 1 2 6 8 5 6 8 5 6 1 3 7 2 3 5 6 7 8 1 4 5 6 8 3 4 5 6 7 8 1 2 5 6 7 2 5 6 7

Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền Phải lụy vì danh đã hổ thay Tuổi đã năm mươi đầu đã bạc Ấy còn bịn rịn lấy chi vay Ở thế thường hiềm khác tục ngươi Đến đây rằng hết tiếng chê cười Ta cùng bóng lẫn nguyệt ba người Giàu chẳng kịp, khó chẳng mừng Danh lợi lòng đà ắt dửng dưng Từng cúc bù trí ấy của hằng Nghìn vàng ước đổi được hay chăng Trẻ dầu chơi con tạo hóa Già lọ phục thuốc trường sinh Non nước còn ghe chốn hữu tình Đòi thuở khó khăn chăng xuýt ải Thấy nơi xao xác đã mày nề Tơ tóc chưa hề báo thửa sinh Chông gai nhẻ đường danh lợi Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa Vướng vất tứ mùa những bạn thân Trúc Tưởng Hử nên thêm tiết cứng Trượng phu non vắng là tri kỷ Tiên khách nguồn im ấy cố nhân Mấy của yêu đương đà chiếm được Lại mong chiếm cả hết hòa xuân Lo chi tiên bụt nhọc tầm phương Án còn phiến sách triện còn hương Tôi ngươi một tiết bền bằng đá Biên tóc mười phần chịu những sương Chẳng quên có một chữ cương thường Tiền sen tích để bao nhiêu thúng Vàng cúc đem cho biết mấy bình Ngoài cửa mận đào là khách đỗ Trong nhà cam quýt ấy tôi mình Ai hay ai chẳng hay thì chớ Bui một ta khen ta hữu tình Lều nhà vô sự ấy lâu đài Nằm ở chăng từng khuất nhiễu ai Quyển thi thư những màng quen mặt Tiếng thị phi chẳng dóng đến tai Chẳng thấy phồn hoa trong thuở ấy Chẳng cóc nhân sinh gửi chơi Hoa càng khoe tót, tót thì rữa Nước chớ cho đầy, đầy ắt vơi Mới biết doanh hư đà có số

132

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

313 134 315 316 317 318 319 320 321 322 323 324 325 326 327 328 329 330 331 332 333 334 335 336 337 338 339 340 341 342 343 344 345 346 347 348 349 350 351 352 353 354 355 356 357

86 - - - - 87 - - - 88 - - - 89 - - 90 - 91 - - - - - 92 - - - - 93 - - - - 94 - 95 - - - - 96 - - -

1 2 3 4 7 1 2 5 6 2 6 7 8 1 7 8 1 7 1 2 3 6 7 8 3 4 5 6 8 1 4 5 7 8 3 7 1 2 3 5 6 1 2 3 4

Chước toan chưa đẹp nẻo bình sinh Đến thuở già lại trách mình Khổ trúc chăng ưa lòng khách bạc Lão mai xá học nết người thanh Nào của cởi buồn trong thuở ấy Ngẫm hay mùi đạo cực chưng ngon Nghìn kiếp dù ăn vưỡn hãy còn Chĩnh vàng chẳng tiếc danh thì tiếc La đá hay mòn nghĩa chẳng mòn Sự thế nên vong hết mọi bề Chật yên bần ấy cổ lề Ắt muốn đến chơi thành thị nữa Âu là non nước nọ đàn chê Tài tuy chăng ngộ trí chăng cao Còn có anh hùng bao nả nữa Đòi thời vậy dễ hơn nào Thế những cười ta rằng đánh thơ Phận ấy chưng ta đã có thừa Làm người hay một họa hay hai Mựa cậy sang, mựa cậy tài Tiết trực cho bằng đá sắt Đạo thánh bằng tơ mối hãy dài Ngỡ ốc nhượng khiêm là mỹ đức Đôi co ai dễ kém chi ai Gạch quẳng nào bày với ngọc Sừng hằng những mọc qua tai Làm lành mới cậy chớ làm dữ Có đức thì hơn nữa có tài Đạo này nối nắm để cho dài Nẻo xưa nay cũng một đường Nghĩa ấy bền chưng đá vàng Gió kíp hay là cỏ cứng Tôi người thì một lòng trung hiếu Mựa để ngàn đời tiếng hổ hang Đầu kế lăng căng những hổ Nợ cũ chước nào báo bổ Xin làm mỗ bộ quản giang san Có biết đâu là sự thế gian Củi hái mây, dầu trúc múa Ngày xem hoa rụng chăng cài cửa Tối rước chim về mựa lạc ngàn Trời phú tính, uốn nên hình Ắt đã trừng trừng nẻo thuở sinh Há chẳng biến dời cùng thế thái Những âu tư tối có thần minh

133

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

358 359 360 361 362 363 364 365 366 367 368 369 370 371 372 373 374 375 376 377 378 379 380 381 382 383 384 385 386 387 388 389 390 391 392 393 394 395 396 397 398 399 400 401 402

- - 97 - - - 98 - - - 99 - - - - 100 - - - - - 101 - - - 102 - - 103 - - - - 104 - - - 105 - - - - 106 - -

7 8 2 5 6 8 2 3 5 7 1 2 3 7 8 1 2 4 5 6 8 1 4 7 8 5 7 8 1 2 5 6 7 3 4 7 8 1 3 4 7 8 2 3 4

Xét sự đã qua hay sự đến Bao nhiêu nơi nhục bởi nơi vinh Chẳng bụt, chẳng tiên, ắt chẳng phàm Đầu non Thiếu Thất đen bằng mực Dòng nước Liêm Khê lục nữa chàm Bảo chăng khứng mạc một lòng tham Nhìn đỉnh tùng thu vãng chừng Thư nhạn lạc lài khi gió Gia sơn cũ còn mường tượng Khó ngặt qua ngày xin sống Phúc thay sinh gặp thuở thái bình Nấn ná qua ngày được dưỡng mình Trong mặt những mừng ơn bậu bạn Ở thế đằng nào là của trọng Vui, chẳng đã đạo là lành Vận trị cùng loàn chỉn đếm thì Bằng ta sinh uổng có làm chi Việc nước nào ích mỗ bề Rắp tới, đã chăng hay chốn tới Hầu đi, lại chửa biết đường đi Ai há liệu nơi thịnh suy Nước xuôi nước ngược nổi đòi triều Buồm nhân gió mặc khi phiêu Âu lộ cùng ta dường có ý Đến đâu thời thấy nó đi theo Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Cày ăn đào uống yên đòi phận Sự thế chăng hay đã Hán Tần Kẻ thì nên bụt kẻ nên tiên Tượng thấy ba thân đã có duyên Có thân mựa lệ bượp bằng hữu Đọc sách thì xem thấy thánh hiền Ta nẻo ở đâu vui thú đấy Muối lẫn dưa dầu đủ bữa Nhiều cùng gấm mặc chưng đời Sự thế đã hay thời vậy Có ai cốc được mỗ cười cười Nương náu qua ngày chẳng lọ nhiều Cửa hiềm khách tục nào cho đến Song vắng chim phàm chớ tới kêu Giàu những của tự nhiên ấy Khỏng khảnh dầu lòng ở đất Nghiêu Ghê dường dại dột mỗ nên xuôi Nào ai dễ có lòng chân thật Ở thế tin chi miệng đãi buôi

134

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

403 404 405 406 407 408 409 410 411 412 413 414 415 416 417 418 419 420 421 422 423 424 425 426 427 428 429 430 431 432 433 434 435 436 437 438 439 440 441 442 443 444 445 446 447

- - 107 - - - 108 - - - - - 109 - - 110 - - - 111 - - - - - - 112 - - 113 - - - - - 114 - - - - 115 - - 116 -

5 8 1 6 7 8 3 4 5 6 7 8 5 6 7 1 3 5 8 1 2 3 4 6 7 8 1 2 7 1 3 4 5 6 7 1 2 3 7 8 1 2 4 1 2

Khong khảy kẻ cười cùng kẻ thốt Một sự quân thân chẳng khứng nguôi Nẻo từ nước có đao binh Tiếc ấy vì hay một chữ đinh Mọi sự đã chăng còn ước nữa Nguyện xin một thấy thuở thăng bình Chim có miệng kêu âu lại ngậm Cáo khuyên lòng ở mựa còn ngờ Chẳng cài cửa tiếc non che khuất Xá để thuyền cho nguyệt chở nhờ Ta ắt muốn nhàn quan muốn lạnh Lo thay vì lụy phải thờ ơ Mừng cùng vượn hạc quen lòng thắm Đã kẻo thuần lô bảo hẹn về Thong thả dầu ta ngoài thế giới Ngủ nằm đói lại ăn Tranh giăng vách nài chi bức Vườn quạnh dầu chim kêu hót Họa lại quên lòng khó khăn Chớ còn chẳng chẳng chớ quyền quyền Lòng hãy cho bề đạo Khổng môn Tích đức cho con hơn tích của Đua lành thế mựa đua khôn Hai quyển thi thư ấy báu chôn Ở thế làm chi câu thúc nữa Nhi tôn đã có phúc nhi tôn Thế gian đường hiểm há chẳng hay Cưỡng còn đi ấy thác vay Kỳ ký nô thai đà có đấy Tính ắt trần trần nẻo sinh Tuổi tàn cảnh đã về ban muộn Tóc bạc biên khôn chác lại xanh Ở thế thì cho ta những thiệt Khoe mình khá chịu miệng rằng lành Khiêm nhường ấy mới biêu quân tử Vẫn sinh lẩn thẩn mỗ già Mọi sự đều nên thuấn nhà đa Bà ngựa dầu lành nào Bá Nhạc Phong nguyệt dầu ta ai kẻ đoán Được ngâm nga ắt xá ngâm nga Khó khăn là của thế gian yêm Huống mỗ già dại dột thêm Mai sinh phải tuyết lạnh chăng hiềm Hơn thiệt đành phần sự chớ liều Được nhàn ta ắt xá tiêu diêu

135

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

448 449 450 451 452 453 454 455 456 457 458 459 460 461 462 463 464 465 466 467 468 469 470 471 472 473 474 475 476 477 478 479 480 481 482 483 484 485 486 487 488 489 490 491 492

- - - - - - 117 - - - - 118 - - - - 119 - 120 - - - - 121 - - - 122 - - - 123 - - - - 124 - - - 125 - - - 126

3 4 5 6 4 8 2 4 5 6 7 2 3 4 7 8 7 8 1 2 5 6 8 1 2 4 5 2 3 5 8 3 4 5 7 8 2 3 5 7 4 5 7 8 4

Ngọc lành nào có tơ vện Vàng thật âu chi lửa thiêu Ý Lý há cầu quan tước Hán Hứa Do quản ở nước non Nghiêu Phồn hoa chẳng dám ngặt yên phận Trong thế anh hùng ấy mới biêu Quê cũ chẳng về nỡ để hoang Đúc nên Nhan Tử tiếc chi vàng Quan thanh bằng nước nhà bằng khánh Cảnh ở tựa chiền lòng tựa sàng Dường ấy của no cho bậc nữa Bồng đảo khôn tìm ngày tháng qua Tính ắt nhiễm cùng bầy mộc thạch Lòng còn chạnh có thú yên hà Cửa động chẳng hay lìa nẻo ấy Bích đào đã mấy phát bông hoa Lều tiện qua ngày yên thửa phận Dài cao chẳng lọ tháp hoàng câm Ở thế nhiều phen thấy khóc cười Năm nay tuổi đã ngoại tư mươi Phượng những tiếc cao diều hãy liệng Hoa thì hay héo cỏ thường tươi Xanh bạc dầu chưng mặt chúng ngươi Danh chăng chác lộc chăng cầu Được ắt chẳng mừng mất chẳng âu Còn thơ đầy túi rượi đầy bầu Người tri âm ít cầm nên lặng Lâm tuyền chưa khứng dứt chiêm bao Nước càng tuôn đến bể càng cao Sự thế chưng ta dầu đạm bạc Đổi đất cong thì có khác nao Chim đậu tổ nhìn còn biết mặt Hoa niền rừng thấy họa hay danh Đai lân phù hổ lòng chăng ước Có thuở giang lâu ngày đã tối Thuyền hòa còn dõi tiếng tranh tranh Có kẻ thì chê có kẻ khen Chốn ở trách căn lều lá Hoa còn để đọng làm đất Ai thấy rằng cười là thế thái Chụm lều ở đất Nam Dương Hoa chăng thay rụng bày chi phấn Mựa trách thế gian lòng đạm bạc Thế gian đạm bạc đấy lòng thường Cầm sách cùng nhau ngày tháng trường

136

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

493 494 495 496 497 498 499 500 501 502 503 504 505 506 507 508 509 510 511 512 513 514 515 516 517 518 519 520 521 522 523 524 525 526 527 528 529 530 531 532 533 534 535 536 537

- - 127 - - - - 128 - - - - - 129 - - - - 130 - - - - 131 - - - 132 - - - 133 - - - - - - 134 - - - - - 135

7 8 1 4 5 6 8 3 4 5 6 7 8 1 2 4 5 8 1 4 5 7 8 2 5 6 8 1 4 7 8 1 2 3 4 6 7 8 1 2 5 6 7 8 2

Bốn dân nghiệp có cao cùng thấp Đều hết làm tôi thánh thượng hoàng Làm người thì giữ đạo trung dung Mựa tham mựa dại nết anh hùng Hùm còn muông mạnh còn nằm cũi Khiếu hót chim khôn phải ở lồng Tai nàn chẳng phải lại thung dung Lợi tham hết lấy nhiều thì cạnh Nghĩa phải đem cho ít chẳng phường Sự thế xá phòng khi được mất Lòng người tua đoán thuở mừng thương Chẳng nhàn xưa chép lời truyền bảo Khiến chớ cho qua một đạo thường Bền đạo trung dung chẳng thuở tàng Màng chi phú quý nhọc khoe khoang Thu nẻo tin truyền cúc có vàng Kết bạn mựa quên người cố cựu Thảy thảy dường bằng nguyệt Cửu Giang Có của hằng cho lại có thông Bia Ngụy Trung cao há nối tông Hiềm kẻ say chưng bề tửu sắc Còn nhiều xá họp toan ăn uống Tám chín mươi thì vạn sự thông Khó thì hay khéo khốn hay hanh Khi bão mới hay là cỏ cứng Thuở nghèo thì biết có tôi lành Nẻo có công nhiều lọ phải tranh Phúc của chung thì họa của chung Sự nghiệp tua thìn phải đạo trung Mặc chu biết nơi dường ấy Chẳng thấp thì cao ắt được dùng Lấy khi phú qúyđắp cơ hàn Vần chuyển chẳng dừng sự thế gian Nẻo khỏi tiểu nhân quân tử nhọc Dầu chăng quân tử tiểu nhân loàn Khó ở kinh thành thiếu kẻ han Hằng lấy của chung làm nghĩa cả Qua ngày qua tháng được an nhàn Cắp nắp làm chi hỡi thế gian Có thì ăn mặc chớ lo toan Nằm có chiếu chăn cho ấm áp Ăn thì canh cá chớ khô khan Phúc dầu hay đến trăm tuổi Mình thác thì nên mọi của tan Bần tiện ai là kẻ trọng yêu?

137

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

538 539 540 541 542 543 544 545 546 547 548 549 550 551 552 553 554 555 556 557 558 559 560 561 562 563 564 565 566 567 568 569 570 571 572 573 574 575 576 577 578 579 580 581 582

- - - - 136 - - - - - - - 137 - - - - - 138 - - - - 139 - - - - 140 - - - - 141 - - - - 142 - - - - - -

3 6 7 8 1 2 3 4 5 6 7 8 1 2 4 5 7 8 2 3 5 6 7 2 3 5 7 8 1 2 3 4 6 2 3 4 5 8 1 3 4 5 6 7 8

Của đến nước xa nên quí giá Thấy loạn thì hay đời Thuấn Nghiêu Phúc gặp ngần nào ấy mệnh Làm chi đua nhọc tốn công nhiều Trần trần mữ cậy những ta lành Phúc họa tình cờ xảy chửa đành Miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn Lòng người quanh nữa nước non quanh Chẳng ngừa nhỏ ấu nên lớn Nẻo có sâu thì bỏ canh Ở thế ươn hèn chăng có sự Ngàn muôn tốn nhượng chớ đua tranh Muốn ăn trái dưỡng nên cây Ai học thì hay mựa lệ chầy Quan cao nào đên dạng người ngây Trị dân xưa rắp lòng cho chính Có chẳng có tài dùng chẳng đến Mựa rằng thánh đức có nơi khuây Ở chưng trần thế mấy phen cười Phúc nhiều của bởi nơi ta thích Có của bo bo hằng chực của Oán người nơm nớp những âu người Làm chi pháo phúc lòng nhau bấy Hai ấy hằng lề sự thế gian Những kẻ ân cần khi phú quý Lều không con cái hằng tình phụ Lòng thế bạc đen dầu nó biến Ta gìn nhân nghĩa chớ loàn đan Phú quý thì nhiều kẻ đến chen Uốn đòi thế thái tính chưa quen Cơm ăn miễn có dầu xoa bạc Áo mặc âu chi quản cũ đen Chê khen mựa ngại tiếng chê khen Dại ngây nên thiếu kẻ khen chê Khách hiềm nào quản quen cùng lạ Cơm đói nài chi hẩm lẫn khê Yên phận cũ chăng bằng phận khác Đã nẻo làm cầm lẫn mất lề Đồng bào cốt nhục nghĩa càng bền Điền địa chớ tham hơn bỏ ải Nhân luân mựa lấy dưới làm trên Chân tay dầu đứt bề khôn nối Xống áo chăng còn mô dễ xin Ở thế nhịn nhau muôn sự đẹp Cương nhu cùng biết hết hai bên

138

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

583 584 585 586 587 588 589 590 591 592 593 594 595 596 597 598 599 600 601 602 603 604 605 606 607 608 609 610 611 612 613 614 615 616 617 618 619 620 621 622 623 624 625 626 627

143 - - - - - 144 - - - - - - 145 - - - - - - 146 - - - - - 147 - - - - 148 - - - - 149 - - - - - 150 - -

1 2 3 4 7 8 2 3 4 5 6 7 8 1 2 3 4 6 7 8 1 2 3 5 6 7 2 3 6 7 8 1 2 5 6 7 1 2 3 4 5 7 3 4 5

Bởi lòng chẳng ở cửa quyền Há rặng quân thần chẳng phải duyên Song viết có nhiều dân có khó Cửa nhà càng rộng thế càng phiền Chúc thánh cho tày Nghiêu Thuấn nữa Được về ở thú điền viên Chớ tham tiểu lợi phải gian nan Cầu hiền chí cũ mong cho được Bất nghĩa lòng nào mựa lỡ toan Giữ thuở phong lưu pha thuở khó Lấy khi phú quý đắp khi hàn Cho hay bĩ thái mấy lề cũ Nẻo có nghèo thì có an Có tông có tộc mựa sơ thay Vạn diệp thiên chi bởi một cây Yêu trọng người dưng là của cải Thương vì thân thích nghĩa chân tay Hoạn nạn bù trì huynh đệ bây Phiên bạc cùng nhau còn được cậy Mựa nghe sàm nịnh có lòng tây Sinh đẳng trung đà phúc đức thay Chẳng cao, chẳng thấp miễn qua ngày Ở yên thì nhớ lòng xung đột Nhiều của ấy chăng qua chữ nghĩa Dưỡng người cho kẻo nhọc chân tay Trời đã có kho vô tận Yêu xạ vì nhân mùi có hương Ở ngọt thì hơn nhiều kẻ chuộng Tính ở nhu hơn tính ở cương Ngâm kíp thắm thì phai lại kíp Yêu nhau chẳng đã đạo thường thường Ở bầu thí dáng ắt nên tròn Xấu tốt đều thì rắp khuôn Chơi cùng đứa dại nên bầy dại Kết với người khôn học nết khôn Ở đẳng thấp thì nên đẳng thấp Của thết người là của còn Khó khăn, phải đạo, cháo càng ngon Thấy ăn chạy đến thì no dạ Trợ đánh bênh nhau ắt phải đòn Chớ lấy hại người làm ích kỷ Tay ai thì lại làm nuôi miệng Biển học trường văn hằng nhặt bới Đường danh lối lợi, hiểm khôn tìm Chúa ràn nẻo khỏi tan con nghé

139

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

628 629 630 631 632 633 634 635 636 637 638 639 640 641 642 643 644 645 646 647 648 649 650 651 652 653 654 655 656 657 658 659 660 661 662 663 664 665 666 667 668 669 670 671 672

- 151 - - 152 - - - - - 153 - 154 - - - 155 - - 156 - - - - - 157 - - - 158 - - - 159 - - - 160 161 - - - - 162 -

8 2 7 8 1 2 4 6 7 8 2 7 3 6 7 8 2 7 8 1 2 3 4 7 8 1 2 4 7 5 6 7 8 2 3 7 8 2 1 3 4 5 7 2 3

Bạn cùng phiến sách tiếng đàn cầm Vốn xưa một cội thác cùng cành Thế gian ai có thì cốc Mựa nữa cho khuây nghĩa đệ huynh Cơn cớ nguyền cho biết sự do Xem mà quyết đoán lấy cương nhu Cao thấp nài nhau tựa đắn đo Hòa hưu thì khiến nọ tù mù Tội ai cho nấy cam danh phận Chớ có thân sơ mới trượng phu Hay đỗ, hay dưng, mới nẻo âu Kham hạ Nghiêm Quang từ chẳng đến Dưới tạc nên ao chín khúc Bếp thắng chè thô cởi thuở âu Bốn bể nhẫn còn mong đốt đuốc Dầu về dầu ở mặc ta dầu Chẳng chờ cởi ấn gượng xin về Đã ngoài chưng thế dầu hơn thiệt Chẳng quản ai khen, chẳng quản chê Chớ người trọc trọc, chớ ta thanh Lấy phải thì trung, đạo ở kinh Rồi việc mới hay khuôn được thú Khỏi quyền đã kẻo lụy chưng danh Song viết huống còn non nước cũ Mặc dầu thua được có ai tranh Chẳng khôn, chẳng dại, luống ương ương Chẳng dại, người hòa lại chẳng thương Gác vân còn giữ bút đeo hương Văn đạt chẳng cầu, yên mỗ phận Âu tư là ấy yêu dường chúa Lỗi thác vì nơi lụy bởi danh Bui có một niềm trung hiếu cũ Chẳng nằm, thức dậy nẻo ba canh Điền viên lánh mặc ta dầu Sách ngâm song có mai và điểm Đạo quân thân nhẫn dầu ai lỗi Hổ xanh xanh ở trốc đầu Lui tới đòi thì miễn phận an Yêu nhục nhiều phen vẫn đã từng Trọng thì nên ngõ, nhờn thì dại Mất chẳng hề âu, được chẳng mừng An lạc một lều dầu địch No nao biết được lòng tri kỷ Đòi phận mà yên há sở cầu? Diếp còn theo tiên gác phượng

140

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

673 674 675 676 677 678 679 680 681 682 683 684 685 686 687 688 689 690 691 692 693 694 695 696 697 698 699 700 701 702 703 704 705 706 707 708 709 710 711 712 713 714 715 716 717

- - - 163 - - - - 165 - - - 166 - - - 167 - - - - 168 - - - 169 - - 170 - - - 171 - - - - - - 172 - - 173 - -

5 6 7 1 2 3 4 7 2 3 4 7 2 4 7 8 2 3 4 7 8 1 2 3 7 2 3 7 1 3 4 7 1 2 3 4 5 6 8 2 5 8 1 2 3

Được thì xem áng công danh dễ Đến lý hay cơ tạo hóa mầu Khứng hạ Trương Lương chẳng khứng ở Lọ chi thành thị, lọ lâm tuyền Được thú thì hơn, miễn phận yên Vụng bất tài nên kém bạn Già vô sự ấy là tiên Cùng đạt lẽ hay này có mệnh Đeo lợi làm chi luống nhọc thân Nhớ chúa lòng còn son một tấc Âu thì tóc đã bạc mươi phần Dầu phải, dầu chăng, mặc thế Chẳng ngờ bước tới áng công danh Phải lụy vì nhân một chữ đinh Xưa còn chép câu kinh đấy Yên phận thì chăng nhục đến mình Lỗi thác ai vì mỗ chút nào Một phát khách chầy còn thấy hỏi Hai phen lần đến ắt chăng chào Lan Huệ chẳng thơm thì chớ Nỡ chi lại phải chốn tanh tao Đổi lần đã mấy áng phồn hoa Dầu ngặt, ta vui đạo ta Ngắm xem mai, hay tuyết đến Thấy biển triều quan đà ngại vượt Dầu mặc chê khen, mặc dữ lành Bói ở lần tìm non Tạ Phó Có thuở viếng thăm bạn cũ Rồi hóng mát thuở ngày trường Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ Hồng liên trì đã tịn mùi hương Lẽ có ngu cầm đàn một tiếng Đói khó thì việc ngửa tay Chớ làm sự lỗi quỷ thần hay Nhiều không chẳng đã bề khôn thất Trăm khéo nào qua chước khéo đầy Có của cho người nên rộng miệng Chẳng tham ở thế kẻo chau mày Của ấy nào ai từng được chầy Lọ là đứng gió xang tay Mực thước thế gian dầu có phải Chẳng đã khôn ngay, khéo đầy Kẻ khôn thì bảo kẻ ngây phàm Nghề nghiệp cầm tay ở mới cam Nên thợ nên thầy vì có học

141

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

718 719 720 721 722 723 724 725 726 727 728 729 730 731 732 733 734 735 736 737 738 739 740 741 742 743 744 745 746 747 748 749 750 751 752 753 754 755 756 757 758 759 760 761 762

- - - 174 - - - - 175 - - - - - 176 - - - - - - 177 - - - - - 178 - - - - 179 - - - - 180 - - - - - - 181

4 7 8 1 3 4 5 7 1 2 3 5 7 8 1 3 4 5 6 7 8 2 3 4 5 6 7 1 3 5 6 7 2 3 4 7 8 1 2 3 4 5 7 8 1

No ăn no mặc bởi hay làm Thấy lợi thì làm cho phải nghĩa Mựa tây mặt khiến lẫn lòng đam Tuy rằng bốn biển cũng anh tam Nhiều thốt đã đành nhiều sự lỗi Ít ăn thì lại ít người làm Xa hoa ở rộng nên khó Kìa thừng nọ dai nào có đứt Lộc trời cho đã có ngần Tua hay thửa phận, chớ còn nằn Giàu nhiều của, con chẳng có Hễ kẻ danh thơm hay được phúc Vắn, dài, được, mất dầu thiên mệnh Chạy quất làm chi cho được nhọc nhằn Việc ngoài hương đảng chớ đôi co Thấu kẻ anh hùng hãy nhịn cho Dợ nọ có dai nào có đứt Chớ đua huyết khí nên hận Làm mất lòng người những lo Hễ kẻ làm khôn thì phải khó Chẳng bằng vô sự ngáy pho pho Tạo tình những ước được lâu ngày Xuân qua còn bảo con đòi cuốc Hạ đến đà cho kẻ khá cày Cốc lại thửa làm càng tổn thiệt Ích chi còn muốn nhọc chân tay? Ruộng nương là chủ, người là khách Bậu bạn cùng nhau nghĩa chớ vong Chặt vàng chăng nhớ câu Hi Dịch Quân tử nước giao âu những lạt Hiền nhân rượu thết lọ là nồng Một phen bạn đến còn đằm thắm Ai ai đà biết được hay chưa Kim ngân ấy của người cùng muốn Tửu sắc là nơi nghiệp há chừa Chẳng say, chẳng đắm là quân tử Người hiểm lòng thay, hãy xá ngờ Chẳng hổ thân già tuổi tác hư Khó khăn, dại dột, mỗ lừ khừ Toan cùng người với thì chưa đủ Xử một ta nay ắt có dư Bạn tác để duôi đà phải chịu Bằng rồng nọ ai phen kịp Mất thế cho nên mặt dại khờ Được mất tuy nơi sự tiếc mừng

142

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

763 764 765 766 767 768 769 770 771 772 773 774 775 776 777 778 779 780 781 782 783 784 785 786 787 788 789 790 791 792 793 794 795 796 797 798 799 800 801 802 803 804 805 806 807

- - - - 182 - - 183 - - - - 184 - - - - - 185 - - - - - 186 - - - - 187 188 - - 189 - - - - - - - 190 - - -

3 4 7 8 2 3 8 1 3 4 6 8 1 2 5 6 7 8 1 3 5 6 7 8 1 4 5 7 8 4 2 3 5 1 2 3 4 5 6 7 8 1 2 3 4

Non cao Bạch Thạc nào dời chuyển Nước cả Hoàng Hà há thuở nhưng Nhọc nhằn ai chớ còn than thở Ăn có dừng thì việc có dừng Cao thấp cùng xem sự mất còn Thướng các thác vì câu uốn lưỡi Càng già, càng ngẫm của bùi ngon Trí qua mười mới khá rằng nên Đạo bút phải dùng tài đã vẹn Chí thư nấy chép việc càng chuyên Điện Bắc đà đà yên phận tiên Xưa nay cùng một sử xanh truyền Tài đức thì cho lại có nhân Tài thì kém đức một hai phân Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách Đem dân mựa nỡ mất lòng dân Của chung phải đạo, làm chi nữa Muôn kiếp nào hề lụy đến thân Này rày nhắn bảo khách bằng quan Nọ kẻ tranh hùng nên Hán tướng Già tôi thép cho nên mẻ Bể rồi hương bởi ngã bàn Khuyên kẻ trượng phu sinh ở thế Hãy đừng bất nghĩa, chớ loàn đan Của nhiều sinh chẳng được con hiền Chớ màng cạy cạy khiến lòng phiền Gia tài ấy xem hèn hạ Say rượu, no cơm cùng ấm áo Trên đời chỉn ấy khách là tiên Ở triều khắn khắn trung cần Nhiều thánh hiền xưa kiếp đã từng Tước thưởng càng ngày càng dõi chịu Ở đài các giữ lòng Bao Chửng Trùng dương mấy phát khách thiên nha Kịp phen này được đỗ nhà Túi đã không tiền khôn chác rượu Vườn tuy có cúc chửa đâm hoa Phong sương đã bén biên thi khách Tang tử còn thương tích cố gia Ngày khác hay đâu còn việc khác Tiết lành mựa nỡ để cho qua Sắc là giặc, đam làm chi Thuở trọng còn phong có thuở suy Trụ mất nước vì Đát Kỷ Ngô lìa thiên hạ bởi Tây Thi

143

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

808 809 810 811 812 813 814 815 816 817 818 819 820 821 822 823 824 825 826 827 828 829 830 831 832 833 834 835 836 837 838 839 840 841 842 843 844 845 846 847 848 849 850 851 852

- - - 191 - - - - - 192 - - - - - 193 - - - - - - 194 - - 195 - - 196 197 - 198 - - 199 - - 200 201 - - 202 203 - -

6 7 8 1 2 3 4 7 8 2 3 5 6 7 8 1 2 3 5 6 7 8 3 7 8 2 6 8 4 1 3 1 2 4 1 2 4 2 2 3 4 1 1 3 4

Tổn hại tinh thần sự ích chi Phu phụ đạo thường chăng được chớ Nối tông họa phải một đôi khi Giận làm chi, tổn khí hòa Nào từng có ích, nhọc mình ta Nẻo đua khí huyết, quên nhân nghĩa Hòa mất nhân tâm, nát cửa nhà Đến khi tịch, mới ăn năn lại, Nhịn song thì vạn sự qua Nghe lượm lấy, lọ chi đòn Xa hoa lơ lửng nhiều hay hết Áo mặc miễn là ấm cật Cơm ăn chẳng lọ kén mùi ngon Xưa đã có câu truyền bảo Làm biếng hay ăn, lở núi non Đường tuyết thông còn giá in Đà sai én ngọc lại, cho nhìn Xuân chầy liễu thấy chưa hay mặt Cành có tinh thần, ong chửa thấy Tính quen khinh bạc, điệp chăng thìn Lạc Dương khách ắt thăm thinh nhọc Xá mựa cho ai quảy đến bên Hắc Đế, Huyền Minh đà đổi ấn Chẳng thấy lịch quan tua xá hỏi Ướm xem dần nguyệt tiểu hay đài Thiếu một hai mà no chín tuần Đìa cỏ tươi nhưng lòng tiểu nhân Tiếng chuông chưa gióng ắt còn xuân Đầm ấm nào hoa chẳng tốt tươi Vì ai cho cái đỗ quyên kêu Lại có hòe hoa chen bóng lục Đông đà muộn lại sang xuân Xuân muộn thời hè lại đổi lần Thu âu là nhớn một hai phần Hầu nên khôn lại tiếc khuâng khuâng Thu đến đêm qua cảm vả mừng Khoan khoan những lệ ác tan vừng Rày liễu đã rủ tơ mềm Lòng xuân nhẫn động ắt khôn thìn Xuân xanh chưa dễ hai phen lại Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành Hỡi kẻ biên xanh chớ phụ người Vì thu cho nhẫn đầu nên bạc Chưa dễ ai đà ba bảy mươi

144

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

853 854 855 856 857 858 859 860 861 862 863 864 865 866 867 868 869 870 871 872 873 874 875 876 877 878 879 880 881 882 883 884 885 886 887 888 889 890 891 892 893 894 895 896 897

204 - - - 205 - 206 - 207 208 - 209 - - 210 - 211 - - 212 - - - 213 - 214 - - - 215 - - - - 216 - - - - - 217 - - - -

1 2 3 4 2 3 2 3 2 2 3 1 2 4 2 4 1 2 3 2 3 7 8 2 7 2 4 5 7 1 2 6 7 8 1 3 4 5 6 7 3 4 5 6 8

Ba bảy mươi nào luống nhọc thân Được thua đà biết sự vân vân Chớ cười hiền trước rằng dại Cầm đuốc chơi đêm bởi tiếc xuân Những lệ xuân qua tuổi tác thêm Chẳng thấy ngoài hiên tơ liễu rủ Hứng bện lầu thơ khách ngại rường Thấy cảnh lòng thơ càng vấn vít Huống chi người lạ cảnh hòa thanh Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng Ngoài ấy dầu còn áo lẻ Ba xuân thì được chín mươi ngày Sinh vật lòng trời chẳng tây Thế tình chớ tiếc dửng dưng thay Vì cảnh lòng người tiếc cảnh xuân Bởi chưng hệ chúa Đông quân Đâu đâu cũng chịu lệnh Đông quân Nào chốn nào chăng gió xuân Huống lại vườn còn hoa trúc cũ Xem ắt lầm một thức cùng Hải Nhược chiết nên cành quế tử Điệu khiếp thiên nhan chăng nỡ tạn Lui thuyền lẳng đẳng ở trên dòng Hai ấy cùng xem một thức cùng Rẽ có chim bay cùng cá nhảy Nam chi nở cực thanh tân Đáy nước nghi là mặt Thái Chân Càng thuở già càng cốt cách Người cười rằng kém tài lương đống Hoa nẩy nên thuở đốc sương Chẳng tàn chẳng cỗi hãy phong quang Ngày tuy gió chẳng bay hương Nhờ ơn vũ lộ đà no hết Đông đổi dầu đông hãy một dường Người đua nhan sắc thuở xuân dương Hoa nhẫn rằng đeo danh ẩn dật Thức còn thông bợn khách văn chương Tính tình nào đoái bề ong bướm Tiết muộn chăng nài thuở tuyết sương Dầu thấy xuân lan cùng lọn được Chuốt lòng son chăng bén tục Bền tiết ngọc kể chi sương Danh thơm thượng uyển còn phen kịp Bạn cũ đông ly ắt khá (nhường) Ngày nào khá ấy trùng dương

145

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

898 899 900 901 902 903 904 905 906 907 908 909 910 911 912 913 914 915 916 917 918 919 920 921 922 923 924 925 926 927 928 929 930 931 932 933 934 935 936 937 938 939 940 941 942

218 - 219 - 220 - 221 - - - 222 223 - - 224 - - - 225 - - - 226 - - - 227 228 - 229 - - 230 - - - 231 - - - 232 - - 233 -

1 4 2 3 2 4 1 2 3 4 3 2 3 4 1 2 3 4 1 2 3 4 1 2 3 4 3 2 4 2 3 4 1 2 3 4 1 2 3 4 1 2 4 1 2

Thu đến cây nào chẳng lạ lùng Tài đống lương cao ắt cả dùng Nhà cả đòi phen chống khỏe thay Cội rễ bền day chẳng động Có thuốc trường sinh càng khỏe thay Dành còn để trợ dân cày Hoa liễu chiều xuân cũng hữu tình Ưa mày vì tiết mày thanh Đã từng có tiếng trong đời nữa Quân tử ai chẳng mắng danh Huống lại nhưng nhưng chăng bén tục Dưỡng dỗ trời có ý vay Từ thuở hóa rồng càng lạ nữa Chúa xuân gầm càng huyễn thay Xuân đến nào hoa chẳng tốt tươi Ưa mày vì tiết sạch hơn người Gác đông ắt đã từng làm khách Há những Bô tiên kết bạn chơi Tiên Bô kết đã bấy thu chầy Ngẫm ngọt dường bằng mếch trọng thay Lại có một cành ngoài ấy rẽ Bóng thưa ánh nước động người vay Bóng thưa ánh nước động người vay Thầm đưa hương một nguyệt hay Huống lại bảng xuân sơ chiếm được So tam hữu chẳng bằng mày Đông phong ắt có tình hay nữa Ít bởi vì hoa ít bởi xuân Bù trì đã có khí hồng quân Chớ phụ xuân này chớ phụ hoa Hoa có ý thì xuân có ý Đâu đâu cũng một khí dương hòa Khí dương hòa há có tư ai Năng một hoa này nhẫn mọi loài Toan kể chỉn còn ba tháng nữa Gặp xuân mựa để má đào phai Má đào phai hết bởi xuân qua Nẻo lại đơm thì liền luống hoa Yến thửa Dao Trì đà có hẹn Chớ cho Phương Sóc đến lân la Phương Sóc lân la đã ở cơ Ba phen trộm được há tình cờ Tin khá tin thì ngờ khá ngờ Một thân hòa tốt lại sang Phú quý âu chăng kém hải đường

146

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

943 944 945 946 947 948 949 950 951 952 953 954 955 956 957 958 959 960 961 962 963 964 965 966 967 968 969 970 971 972 973 974 975 976 977 978 979 980 981 982 983 984 985 986 987

- 234 - 235 - - 236 - - 237 - 238 239 - 240 - - 241 - - - 242 - - 243 244 245 - - 246 - 247 - 248 - - - 249 - 251 - - - - 252

4 3 4 2 3 4 1 3 4 2 4 4 3 4 1 3 4 1 2 3 4 2 3 4 1 2 2 3 4 1 3 3 4 1 2 3 7 2 8 1 3 4 5 7 2

Ngoài nương toàn ngọc triện còn hương Ai rặng túi thầy chăng đủ thuốc Hay vườn đã có vị trường sinh Xuân nhiều tuổi đã kể dư nghìn Ngày ngày đã có tiên làm bạn Đưa thuốc tiên lai chẳng phải xin Tự bén hơi xuân tốt lại thêm Tình thư một bức phong còn kín Gió nơi đâu gượng mở xem Vện nhơ chẳng bén Bụt là lòng Sự lạ cho hay tuyệt sắc không Lan từng đốt mới hay mùi Tuy đà chưa có tài lương đống Bóng cả như còn rợp đến dân Nào hoa chẳng bén khí đầm hâm Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn Cho hay thu muộn tiết càng thơm Trời sinh vật vẫn bằng người Nẻo được thơm tho thiếu tốt tươi Ắt có hay đòi thửa phận Chẳng yêu thì chớ nỡ chi cười Đêm nguyệt đưa xuân một nguyệt hay Mấy kẻ hồng nhan thì bạc phận Hồng nhan kia chớ cậy mình thay Lầm nhơ chẳng bén tốt hòa thanh Một phút xuân qua một phút trông Đất dư dời được bạn cùng thông Bút thơ đã chép hương còn bén Ngâm ngợi nào ai chẳng động lòng Ấy chẳng Tây Thi thời Thái Chân Ngày chầy điểm đã phong quần đỏ Đông phong có ý bù trì nữa Một phút xuân là một động người Ngẫm hay sự thế nhẹ bằng lông Ăn uống chăng nài bổng Vệ Công Lầu nguyệt đã quen tiên thổi địch Nghìn dặm trời dầu đủng đỉnh Làm kỳ chính khéo nên bầy Tử tài đường nghèo lòng mựa tây Lọ vằn sinh bởi mãi phương tây Hơn chó Như Lai trộm phép thầy Tiếc hùm chẳng bảo chước leo cây Đi nào kẻ cấm buồng the kín Khó lẫn sang chăng nỡ phụ Được dưỡng vì chưng có thửa dùng

147

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn

988 989 990 991 992 993 994 995 996 997

- - - 253 - - 254 - - -

5 7 8 1 7 8 1 3 4 5

Chân khi mặt nước chưa hay lạt Tiện chẳng hay bề biến hóa Giương hai con mắt lại xem rồng Truyền tin chẳng lọ nhọc thanh đồng Nẻo đến tin đâu đều hết có Nâng coi ai nỡ để tay không Đằm chơi bể học đã nhiều xuân Mày nọ hôm dao lòng mặc khách Kỳ mài ngày tháng của thi nhân Khỏe cày ruộng thánh đà nhiều nhóm

148

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn