UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

NGUYỄN THỊ HƯƠNG

QUAN ÂM THỊ KÍNH

VÀ KIỂU TRUYỆN THƠ NÔM TÔN GIÁO

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 8220121

BÌNH DƯƠNG – 2020

UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

NGUYỄN THỊ HƯƠNG

QUAN ÂM THỊ KÍNH

VÀ KIỂU TRUYỆN THƠ NÔM TÔN GIÁO

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ: 8220121

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS ĐOÀN LÊ GIANG

BÌNH DƯƠNG – 2020

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Quan Âm Thị Kính và kiểu truyện thơ

Nôm tôn giáo trong văn học trung đại Việt Nam là công trình nghiên cứu của tôi

dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS Đoàn Lê Giang. Các số liệu và tài liệu

được sử dụng có xuất xứ rõ ràng, những nghiên cứu và kết quả trong luận văn chưa

được ai công bố dưới bất kì hình thức nào.

Bình Dương, ngày 20/4/2020

Tác giả

Nguyễn Thị Hương

i

LỜI CẢM ƠN

Luận văn này được hoàn thành nhờ sự hướng dẫn khoa học tận tình, tâm

huyết của PGS. TS Đoàn Lê Giang. Tôi xin được kính gửi tới thầy lòng cảm ơn

chân thành, sâu sắc nhất!

Tôi xin trân trọng cám ơn quý thầy cô trong Ban giám hiệu, Phòng Đào tạo

sau Đại học, Khoa KHXH&NV trường Đại học Thủ Dầu Một cũng như quý giảng

viên đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ chúng tôi trong suốt quá trình học tập, làm đề

tài.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, quý đồng nghiệp trường THPT

Trần Văn Ơn - Bình Dương đã động viên, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành chương

trình đào tạo và làm luận văn.

Tôi xin cảm ơn những người thân yêu trong gia đình, bạn bè đã luôn đồng

hành, chia sẻ, động viên để tôi thực hiện đề tài của mình.

Tác giả

Nguyễn Thị Hương

Xin chân thành cảm ơn!

ii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu. .......................................................................................... 2

3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài .................................................................... 7

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 7

5. Phương pháp nghiên cứu. ................................................................................ 8

5.1. Phương pháp lịch sử - xã hội .......................................................................... 8

5.2. Phương pháp nghiên cứu thi pháp học ........................................................... 8

5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu ....................................................................... 8

6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................... 9

7. Cấu trúc của luận văn. ..................................................................................... 9

Chương 1. KIỂU TRUYỆN THƠ NÔM TÔN GIÁO VÀ VĂN BẢN

TRUYỆN QUAN ÂM THỊ KÍNH ...................................................................... 11

1.1. Kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo ................................................................... 11

1.1.1. Khái niệm truyện thơ Nôm tôn giáo .......................................................... 11

1.1.2. Một số truyện thơ Nôm tôn giáo tiêu biểu ................................................. 18

1.1.3. Đặc điểm truyện thơ Nôm tôn giáo ............................................................ 22

1.2. Truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính ......................................................... 29

1.2.1. Vấn đề tác giả ............................................................................................. 30

1.2.2. Vấn đề văn bản ........................................................................................... 32

1.2.3. Quan Âm Thị Kính trong các loại hình nghệ thuật khác ........................... 35

Chương 2. QUAN ÂM THỊ KÍNH - TỪ TƯ TƯỞNG TÔN GIÁO ĐẾN TƯ

TƯỞNG NHÂN ĐẠO ........................................................................................ 39

2.1. Tư tưởng tôn giáo ........................................................................................ 39

2.1.1. Tư tưởng luân hồi nghiệp báo. ................................................................... 40

2.1.2. Tư tưởng từ bi hỷ xả ................................................................................... 48

2.2. Tư tưởng nhân đạo ...................................................................................... 54

2.2.1. Niềm cảm thương sâu sắc trước số phận bất hạnh của người phụ nữ ....... 55

iii

2.2.2. Phê phán các thế lực chà đạp lên nhân phẩm con người ........................... 61

2.2.3. Ngợi ca những vẻ đẹp của con người ......................................................... 67

2.2.4. Niềm trân trọng những khát vọng bình dị của con người .......................... 75

Chương 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TRUYỆN THƠ NÔM

QUAN ÂM THỊ KÍNH ........................................................................................ 82

3.1. Kết cấu truyện Quan Âm Thị Kính ............................................................ 82

3.1.1. Kết cấu cốt truyện ...................................................................................... 83

3.1.2. Kết cấu nhân vật ......................................................................................... 86

3.1.3. Kết cấu không gian - thời gian nghệ thuật ................................................. 90

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Quan Âm Thị Kính ....................... 97

3.2.1. Nhân vật hiện lên qua ngoại hình, tính cách và khắc họa nội tâm ............. 98

3.2.2. Bút pháp lí tưởng hóa và hiện thực hóa ................................................... 104

3.2.3. Cảm hứng tôn giáo chi phối cách xây dựng nhân vật .............................. 109

3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong Quan Âm Thị Kính ..................................... 112

3.3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật .................................. 112

3.3.2. Ngôn ngữ vừa đậm chất văn chương bác học vừa mang sắc thái bình

dân ...................................................................................................................... 117

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 127

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 132

iv

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài.

1.1. Truyện thơ Nôm là một thể loại văn học đặc sắc của dân tộc ta, kết tinh

trí tuệ, tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn, đồng thời là đỉnh cao ngôn ngữ của cha ông, mà

không hề lẫn với một thể loại ngoại lai nào khác. Từ lâu truyện thơ Nôm đã trở

thành một di sản quí báu trong kho tàng văn học dân tộc. Nhiều tác phẩm có ảnh

hưởng sâu sắc đến cuộc sống thường ngày, thành lời hát ru, hoặc chuyển thể sang

các loại hình nghệ thuật khác như chèo, cải lương, tuồng, opera hay truyện văn

xuôi… Nhân dân ta đã đúc kết nhiều giá trị tinh tuý của tâm hồn dân tộc trong các

truyện thơ Nôm, giáo dục các thế hệ sau về những tấm gương đạo đức, những bài

học về đối nhân xử thế, vun đắp lối sống lành mạnh trong sáng. Rõ ràng truyện thơ

Nôm đã gói ghém rất nhiều bài học cho hậu thế.

Đặt trong bối cảnh ra đời của truyện thơ Nôm (chủ yếu khoảng thế kỉ XVII

- XIX), có thể thấy hoàn cảnh xã hội, đời sống tinh thần, ý thức tâm linh của con

người cộng với những điều kiện chín muồi của văn học đã nảy sinh ra kiểu truyện

thơ Nôm tôn giáo, là những truyện thơ Nôm có đề tài tôn giáo, có nhân vật chính

là các hình tượng tôn giáo. Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp, chúng

tôi chỉ giới hạn trong nhóm truyện thơ Nôm về Phật giáo.

Trong kho tàng truyện thơ Nôm của dân tộc nói chung, nhóm truyện thơ

Nôm tôn giáo nói riêng, Quan Âm Thị Kính là một tác phẩm đặc sắc có ảnh hưởng

rất nhiều trong dân gian, gắn liền với tích về kiếp thứ mười của đức Quan Thế Âm

Bồ Tát.

Quan Thế Âm (hay Quán Thế Âm - Avalokitesvara) là vị Bồ Tát quen thuộc

trong lòng mỗi Phật tử mộ đạo. Ngài luôn lắng nghe mọi tiếng kêu khổ đau của

muôn chúng sinh với niềm tin thiêng liêng cứu vớt con người ra khỏi bể khổ. Khởi

nguyên, trong kinh Pháp Hoa, hình tượng Quan Thế Âm vốn là một người nam,

nhưng khi đạo Phật được truyền bá sang Việt Nam, để dung hòa với văn hóa thờ

Mẫu, đề cao người phụ nữ, thì hầu hết Bồ Tát được thờ phụng dưới hình tượng

một vị thần nữ, Phật Bà. Một trong những hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát chính

1

là Quan Âm Thị Kính - vị Bồ Tát vô cùng gần gũi, quen thuộc trong đời sống văn

hóa, tinh thần của người dân Việt Nam.

1.2. Truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính từ lâu đã được nhiều học giả quan

tâm nghiên cứu dưới nhiều phương diện khác nhau. Tác phẩm vừa là đối tượng

nghiên cứu của văn học, vừa là đối tượng nghiên cứu của Phật học, đặc biệt là hình

tượng Quan Âm. Học giả Thiều Chửu đã coi truyện Quan Âm Thị Kính như là một

cuốn kinh, một kinh Phật ở Việt Nam, như người Ấn coi Ramayana như là Thánh

kinh của họ. Xét riêng ở lĩnh vực văn học, các bài nghiên cứu phê bình phần nhiều

quan tâm tới giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, vẻ đẹp hình tượng Quan

Âm Thị Kính hay sức ảnh hưởng của nó tới đời sống nhân dân. Giới nghiên cứu

cũng khám phá tác phẩm như một truyện thơ Nôm nói chung trong tương quan với

các truyện thơ Nôm khác, mà chưa có một công trình nào nghiên cứu Quan Âm

Thị Kính như một truyện thơ Nôm tôn giáo hay trong tương quan với nhóm tác

phẩm thuộc kiểu loại truyện thơ Nôm tôn giáo.

1.3. Nghiên cứu đề tài Quan Âm Thị Kính và kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo

trong văn học trung đại Việt Nam, chúng tôi muốn một lần nữa nhìn nhận, đánh

giá, khẳng định những giá trị bất biến của tác phẩm nổi tiếng này, nhưng trên một

hướng nghiên cứu mới: đi từ những đặc trưng của kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo

trong văn học trung đại Việt Nam để soi sáng tác phẩm, cùng với đó là đối chiếu

với một số tác phẩm khác cùng kiểu loại. Từ đó góp phần khẳng định giá trị tác

phẩm, đồng thời thấy được tính phong phú đa dạng của truyện thơ Nôm, một thể

loại đặc sắc, độc đáo đã một đi không trở lại trong nền văn học nước ta.

2. Lịch sử nghiên cứu.

Quan Âm Thị Kính là tác phẩm văn học mang chủ đề Phật giáo, lại có tư

tưởng nhân văn sâu sắc, nằm trong trào lưu chung của chủ nghĩa nhân văn trong

văn học trung đại Việt Nam thời hậu kì. Do đó nó đã trở thành một tác phẩm được

ưa thích và phổ biến, lưu truyền khá rộng rãi trong nhân dân từ khi ra đời tới ngày

nay. Các công trình nghiên cứu, các bài viết và ý kiến của các học giả xoay quanh

tác phẩm này cũng khá phong phú, từ nội dung tư tưởng cho đến giá trị nghệ thuật

của truyện. Thế nhưng các ý kiến đánh giá tác phẩm như một truyện thơ Nôm tôn

2

giáo, hay tư tưởng Phật giáo của truyện chưa được tập trung khai thác, hoặc nếu

có thì chủ yếu dưới dạng một vài nhận xét tản mạn trong các bài nghiên cứu.

Năm 1943, học giả Thiều Chửu soạn cuốn Giải thích truyện Quán Âm Thị

Kính, chủ yếu dùng triết lí Phật học để giải thích nhan đề cũng như nội dung câu

chữ trong truyện. Ông coi tập truyện thơ Nôm khuyết danh đó là kinh Phật. Và

Thiều Chửu có lẽ là người đầu tiên và duy nhất đến nay khẳng định nước ta có

kinh Phật. Nói về động cơ viết cuốn sách này, trong phần Tiếng vọng ở đầu sách,

tác giả viết:

Tôi ham đọc kinh này từ thủa nhỏ. Biên tập từ lúc còn đề chỏm, mà

nay răng đã gẫy, mắt đã loá, trong chỗ tu học cùng tuổi cùng lên, nên bản

thảo lần này, so với mọi lần, thực là khác hẳn, không phải là tôi của thủa

trước nữa. Các bản trước tôi phải theo nghĩa thế gian, mà lần này thì hoàn

toàn theo nghĩa xuất thế gian, không biết làm như thế có hợp với ý của tác

giả hay không? Có ích lợi gì cho thế gian và xuất thế gian không?

Cuốn sách này là một tài liệu hữu ích, đáng tin cậy cho các nhà nghiên cứu

sau này trong việc biên soạn, tìm hiểu, đánh giá truyện Quan Âm Thị Kính. Đặc

biệt, những lời chú giải truyện của Thiều Chửu mang đậm sắc màu Phật giáo, trên

nền tảng triết lí Phật giáo, giúp người đọc các thế hệ tiếp nhận thấu đáo tác phẩm

theo đúng tinh thần. Đánh giá về giá trị của công trình này, cuốn Từ điển văn học

bộ mới viết: “Khác với các lối chú giải thông thường, ngoài phần chú về nghĩa và

điển tích, ông còn giải thích tác phẩm trên tinh thần Phật giáo, sau mỗi đoạn đều

có phần “thích”, để “giải thích rõ sự tích ý nghĩa của từng câu từng chữ”(…). Đây

là bản chú thích công phu, qua nhiều năm, nhiều lần khác nhau” (Đỗ Đức Hiểu và

cộng sự, 2004).

Sách Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, Tập 3, đã có nhận xét khách

quan về giá trị nghệ thuật của tác phẩm trong tương quan với các tác phẩm cùng

thể loại, cùng thời, theo đó Quan Âm Thị Kính “có bút pháp văn chương, lời thơ

có chỗ chải chuốt, văn vẻ, song vẫn còn lạm dụng điển cố, từ ngữ Hán học” (Bùi

Duy Tân, 2005).

3

Trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Quyển thượng, Thanh Lãng (1967)

đã nhìn nhận truyện thơ Nôm này trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật:

Tư tưởng trong Quan Âm Thị Kính là tư tưởng Phật giáo. Đời là một bể

khổ mà mỗi người là một con thuyền vô trạo, một cánh bèo trôi giạt ở bến

mê. Đời Thị Kính là một thí dụ sống (…). Về mặt văn chương, Quan Âm

Thị Kính không có những vần thơ rực rỡ huy hoàng. Văn nó là thứ văn tôn

giáo, thanh đạm và trang nghiêm. Từ đầu đến cuối, truyện rất ly kỳ và mạch

lạc, có những đoạn gây hồi hộp, thắc mắc... Nhưng đi vào chi tiết, ở một

đôi chỗ có hơi máy móc, như đoạn tả nỗi oan mưu giết chồng... Tuy nhiên,

có nhiều đoạn tả cảnh, tả tình rất tinh tế tỏ ra cái tài của tác giả. Nói tóm lại,

văn ở đây tuy không bay bướm nhưng không phải là thứ văn tầm thường,

nó đáng liệt vào những tác phẩm có giá trị.

Phạm Thế Ngũ (1997) trong sách Việt Nam văn học sử giản ước tân biên

đã nhận định: Quan Âm Thị Kính “trước hết là một câu chuyện triết lí và lịch sử

của Đạo Phật (…). Đặt vào tầm thước của chúng nhân, câu chuyện chính là một

lời cảnh cáo cho những kẻ tưởng chọn con đường thanh nhàn khi tìm tới đạo Phật.

Tu hành không phải là sống an ổn với tiếng mõ câu kinh. Để đắc đạo, người ta phải

chịu khổ”. Về hình thức tác phẩm, ông thẳng thắn đánh giá: “Đành là khuôn truyện

mượn song cũng nên nhận xét tình tiết có chỗ gò ép, như thái độ của Thiện Sĩ đối

với vợ, việc hiểu lầm này thiếu sự thật tâm lí…”.

Nguyễn Huệ Chi trong Từ điển văn học - bộ mới, bên cạnh việc đánh giá

rất cao giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện, còn thẳng thắn chỉ ra những mặt

hạn chế, nhất là sự ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo của truyện: “Dễ thấy nhất là

những ảnh hưởng của quan niệm hư vô của nhà Phật trong cách lí giải hiện thực.

Hình như sau bao phen hoạn nạn, tư tưởng yếm thế đã thấm vào những người viết

truyện, khiến họ cảm thấy cuộc đời là vô nghĩa, và tu hành mới là cứu cánh cho

con người (…). Triết lí nhẫn nhục này làm cho Quan Âm tân truyện thiếu đi một

sức phản kháng cần thiết” (Đỗ Đức Hiểu và cộng sự, 2004). Đây là một nhận định

mang tính chủ quan của ông, và rất có thể là từ lập trường giai cấp.

4

Cùng quan điểm đánh giá tác phẩm ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo là tiêu

cực, yếu ớt, tác giả Văn Tân trong bài Ý nghĩa truyện Quan Âm Thị Kính cũng

nhận định: “Tác giả đã đưa ra một nhân vật Thị Kính hoàn toàn tiêu cực luôn luôn

hành động theo câu “nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu”. Tác giả tỏ ra muốn ru

ngủ những kẻ bị áp bức nhất, chà đạp nhất dưới chế độ phong kiến” (Dẫn theo Bùi

Thức Phước, 2015).

Không đồng tình với quan điểm của Văn Tân khi bàn về mục đích, giá trị

của tác phẩm khuyết danh này, tác giả Bùi Thức Phước (2015) trong bài Thử xác

định lại ý nghĩa của truyện Quan Âm Thị Kính đã đưa ra các luận giải, bằng chứng

thuyết phục nhằm khẳng định lại mục đích, ý nghĩa cao cả của truyện này. Dù được

soi chiếu dưới ánh sáng của tư tưởng Phật pháp hay từ tư tưởng nhân văn truyền

thống dân tộc, ông đều thấy “mục đích là tuyên truyền cho Phật giáo”, “giúp người

nghe hiểu rõ tiểu sử của biểu tượng mà Phật tử thờ kính: Đức Quán Thế Âm! Một

sự tích thuộc về tôn giáo không mang màu sắc thể chế chính trị”. Bài viết của Bùi

Thức Phước đã phân tích ý nghĩa tác phẩm trên tinh thần Phật giáo, lấy tư tưởng

Phật giáo để suy nghĩ về toàn bộ hành vi, lời nói của các nhân vật cũng như kết

cấu truyện, giúp người đọc có cái nhìn toàn diện, biện chứng hơn về truyện Quan

Âm Thị Kính như một tác phẩm Phật giáo điển hình. Tác giả cũng cho rằng truyện

Nôm Quan Âm Thị Kính không phải là một sáng tác thuần tuý của nhà văn mà là

kể lại, ghi lại một tích cũ: “Truyện Quan Âm Thị Kính chỉ là tác phẩm diễn ca (ghi

lại bằng văn vần) “truyện đời còn ghi”, sự tích đã có ấy, chứ không phải là một tác

phẩm sáng tác thuần tuý của nhà văn” (Bùi Thức Phước, 2015).

Nhà nghiên cứu Trịnh Vân Thanh trong Thành ngữ - điển tích – danh nhân

Từ điển, mục “Thị Kính” đã khẳng định giá trị tác phẩm ở chỗ: “tác giả nêu lên sự

thành công rực rỡ do đức kiên nhẫn tạo thành, cốt ý khuyên người ta phải nhẫn

nhục chịu đựng, bền tâm tiến theo định chí của mình thì dù việc khó khăn đến đâu

cũng vượt qua nổi. Tác giả đã dựng lên tấm gương từ bi bác ái, hầu mong mọi

người cùng soi” (Trịnh Vân Thanh, 2008).

Diệu Phương (2008) khi giới thiệu văn bản Quan Âm Thị Kính bằng thơ

lục bát của soạn giả Tâm Minh Ngô Tằng Giao, cũng đưa ra những nhận xét xác

5

đáng về tác phẩm đậm màu sắc tôn giáo này: “Truyện Quan Âm Thị Kính đề cao

các hạnh trì giới, tinh tấn và nhẫn nhục cùng cực. Ngoài ra truyện còn đề cập đến

hai vấn đề là chữ Hiếu và chữ Nhẫn của người xuất gia theo đạo Phật”.

Tác giả Dương Xuân Thự (2008) trong cuốn Đỗ Trọng Dư - con người và

tác phẩm đã giới thiệu về 2 tác phẩm Quan Âm Thi Kính và Âm chất diễn nôm, qua

đó khẳng định Đỗ Trọng Dư là tác giả của truyện thơ Quan Âm Thị Kính. Quan

điểm của ông về vấn đề tác giả được nhiều người đồng tình song cũng gây ra nhiều

tranh luận.

Trên các tạp chí văn học, tạp chí Phật giáo, nhật báo, các diễn đàn cũng

đăng tải nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan tới

đề tài. Gần với đề tài chúng tôi nghiên cứu nhất là bài viết Ảnh hưởng của Phật

giáo trong truyện Nôm Quan Âm Thị Kính của tác giả Đinh Thị Khang đăng trên

tạp chí văn học, số 2 (385) tháng 12/2001, tr. 41- 44. Một số bài viết đáng kể khác

như: Yếu tố Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong truyện thơ Nôm có nguồn gốc

bản địa Việt Nam của tác giả Nguyễn Văn Hoài trên Tạp chí khoa học Đại học Sài

Gòn, niên san 2015, tr. 122 - 131; Quan Âm Thị Kính và cách nghĩ của người Việt

về người phụ nữ Việt của tác giả Thích Huệ Thiện, đăng trên tạp chí Văn hoá Phật

giáo số 18. Trần Phước Thuận với bài Quan Âm Thị Kính hình ảnh đẹp về người

phụ nữ Việt Nam đăng trên tạp chí Văn hoá Phật giáo số 14. Tác giả Trần Hải Yến

có bài: Tự sự dân gian với một biến thân của Quan Âm ở Việt Nam: Quan Âm Thị

Kính đăng trên tạp chí Văn hoá Nghệ An tháng 4/2010. Tác giả Man Đức Huy trên

Tạp chí văn hóa Phật giáo số 186 (2013) cũng có bài Về truyện thơ Quan Âm Thị

Kính. Ở đó, tác giả đi tìm hiểu sự kết hợp giữa tư tưởng Phật giáo và tư tưởng nhân

dân, để lí giải về số phận con người, đặc biệt là số phận người phụ nữ trăm đắng

ngàn cay cùng những phẩm chất tốt đẹp của họ.

Cùng với đó là các luận văn, khoá luận tốt nghiệp như: luận văn Thạc sĩ:

Truyện Quan Âm Thị Kính trong văn học trung đại Việt Nam - tác giả Dương Mai

Oanh – Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học quốc gia Thành phố Hồ

Chí Minh, 2012. Ở đó, tác giả đã công phu đi tìm nguồn gốc truyện Quan Âm Thị

Kính trong đời sống Phật giáo và trong văn học, tìm hiểu giá trị của truyện dưới

6

các hình thức tồn tại từ truyện cổ tích, kịch bản chèo và truyện thơ Nôm, bước đầu

chỉ ra các giá trị của truyện Nôm Quan Âm Thị Kính trên hai phương diện nội dung

và nghệ thuật; Khoá luận tốt nghiệp đại học: Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ

thuật của truyện Nôm Quan Âm Thị Kính, tác giả Thái Thị Ái – Đại học sư phạm

Hà Nội 2, 2015. Khóa luận mới chỉ dừng lại ở việc thấy được giá trị nội dung của

tác phẩm ở khía cạnh cơ bản nhất là diễn tả bi kịch của người phụ nữ và lí giải số

phận của họ từ tư tưởng Phật giáo, đồng thời chỉ ra giá trị nghệ thuật trên các

phương diện thể loại, nhân vật, ngôn ngữ.

Nhìn chung, truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính đã được quan tâm nghiên

cứu từ rất lâu, song mảng nghiên cứu về yếu tố tôn giáo trong truyện chưa được

khai thác như đúng vai trò thể hiện của nó trong tác phẩm, cũng như nghiên cứu

Quan Âm Thị Kính trong tương quan với các tác phẩm khác cùng hệ thống truyện

thơ Nôm tôn giáo. Đề tài hi vọng sẽ bổ khuyết mảng nghiên cứu này, để có một

cái nhìn bao quát hơn về giá trị cũng như vị trí tác phẩm trong nền văn học, văn

hóa dân tộc.

3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

Nghiên cứu đề tài Quan Âm Thị Kính và kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo trong

văn học trung đại Việt Nam, luận văn hướng tới các mục tiêu:

- Bước đầu tìm hiểu kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo với những đặc điểm cơ

bản về nội dung, nghệ thuật, những kế thừa và sáng tạo, thành công và hạn chế,

cùng vị trí, vai trò của nó trong văn học trung đại Việt Nam.

- Khái quát về diện mạo và một số đặc điểm của kiểu truyện thơ Nôm tôn

giáo.

- Thấy được những biểu hiện của truyện thơ Nôm tôn giáo trong Quan Âm

Thị Kính và những nét đặc sắc của Quan Âm Thị Kính với kiểu truyện này.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các đặc điểm của kiểu truyện thơ

Nôm tôn giáo được biểu hiện cụ thể trong truyện thơ Quan Âm Thị Kính.

Đề tài được nghiên cứu trong phạm vi cụ thể là văn bản tác phẩm Quan Âm

Thị Kính do Thiều Chửu hiệu đính, chú giải, bản in năm 2007, Nhà xuất bản Đà

7

Nẵng. Ngoài ra trong quá trình nghiên cứu chúng tôi cũng khảo sát một số văn bản

trong các bản in khác để so sánh đối chiếu như: Quan Âm chính văn tân truyện,

Phúc An hiệu in (1919); bản Quan Âm Thị Kính truyện dẫn giải của Đinh Xuân

Hội (1929), Nhà xuất bản Tân Dân thư quán; bản in Quan Âm Thị Kính của Thi

Nham Đinh Gia Thuyết (1996), Nhà xuất bản Đồng Tháp; Giải thích truyện Quan

Âm Thị Kính của Thiều Chửu (2003), Nhà xuất bản Văn hóa thông tin.

Để làm rõ đặc trưng của kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo, nghiên cứu truyện

thơ Nôm Quan Âm Thị Kính trong tương quan với các truyện cùng nhóm, đề tài

còn khảo sát các văn bản truyện thơ Nôm tôn giáo sau: Quan Âm Nam Hải (Sách

của Bùi Thức Phước), Mục Liên Thanh Đề (ấn bản điện tử của Hoàng Xuân Hãn),

Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển (sách của Phan Thanh Đào biên dịch).

5. Phương pháp nghiên cứu.

Trong quá trình nghiên cứu, xây dựng đề tài chúng tôi đã vận dụng kết hợp

rộng rãi các phương pháp nghiên cứu khoa học và các phương pháp luận nghiên

cứu văn học. Song để làm rõ vấn đề, chúng tôi đã sử dụng chủ yếu các phương

pháp nghiên cứu như sau:

5.1. Phương pháp lịch sử - xã hội

Phương pháp lịch sử - xã hội được sử dụng nhằm truy tìm nguồn gốc phát

sinh, quá trình phát triển của các tác phẩm nghiên cứu để phát hiện bản chất và quy

luật vận động, đồng thời đặt tác phẩm vào trong môi trường xã hội, văn hóa tư

tưởng, nơi tác phẩm đó tồn tại, và đặt cạnh các hiện tượng xã hội khác cùng bối

cảnh thời đại. Phương pháp này được áp dụng trong toàn bộ luận văn để luôn luôn

có cái nhìn vấn đề trên quan điểm lịch sử, cụ thể và quan điểm toàn diện.

5.2. Phương pháp nghiên cứu thi pháp học

Phương pháp nghiên cứu thi pháp học là một trong những phương pháp

quan trọng nhất trong nghiên cứu văn học. Nó hướng tới văn bản là chính, không

quá đề cao các yếu tố ngoài văn bản như: tác giả, hoàn cảnh sáng tác... Phương

pháp này được chúng tôi sử dụng trong chương 2 và chương 3 nhằm khảo sát các

yếu tố nội dung và nghệ thuật của văn bản Quan Âm Thị Kính.

5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu

8

Phương pháp này được chúng tôi áp dụng phổ biến trong chương 2 và

chương 3, khi xem xét các khía cạnh của truyện Quan Âm Thị Kính sự đối chiếu

với các khía cạnh cùng bình diện của các truyện thơ Nôm tôn giáo khác, hoặc các

tác phẩm văn học cùng thời, nhằm thấy được điểm chung, hoặc nét dị biệt.

6. Đóng góp của luận văn

Với đề tài Quan Âm Thị Kính và kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo trong văn

học trung đại Việt Nam, chúng tôi mong muốn đóng góp một tiếng nói khẳng định

những giá trị to lớn, bền vững của truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính trong kho

tàng văn học dân tộc nói chung, truyện thơ Nôm nói riêng, dưới góc nhìn từ mảng

truyện thơ Nôm tôn giáo.

Luận văn bổ khuyết cho mảng nghiên cứu về văn học Phật giáo ở Việt Nam,

hi vọng giúp ích ít nhiều cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn học trung đại cũng

như văn học Phật giáo trên các phương diện nội dung tư tưởng và hình thức nghệ

thuật.

Luận văn đóng góp một nghiên cứu chuyên biệt về truyện thơ Nôm tôn giáo

trong văn học trung đại Việt Nam thông qua một hiện tượng văn học cụ thể: Truyện

Quan Âm Thị Kính.

7. Cấu trúc của luận văn.

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của luận văn được triển khai

trong 3 chương:

Chương 1: Kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo và văn bản truyện Quan Âm Thị

Kính. Nhiệm vụ chính của chương này là giới thuyết khái niệm truyện thơ Nôm

tôn giáo, sự ra đời, phát triển và những đặc điểm chính của truyện thơ Nôm tôn

giáo cùng một số truyện thơ Nôm tôn giáo tiêu biểu. Bên cạnh đó, chúng tôi khảo

sát và tổng hợp các vấn đề về tác giả, văn bản truyện Quan Âm Thị Kính.

Chương 2: Quan Âm Thị Kính - từ tư tưởng tôn giáo đến tư tưởng nhân đạo.

Ở chương này, chúng tôi tập trung tìm hiểu các biểu hiện của tư tưởng tôn giáo

trong văn bản truyện Quan Âm Thị Kính như tư tưởng luân hồi nghiệp báo, tư

tưởng từ bi hỷ xả, và các khía cạnh của tư tưởng tôn giáo trong tác phẩm như niềm

9

đồng cảm với số phận con người, lên án các thế lực chà đạp lên con người, ca ngợi

vẻ đẹp cũng như sự trân trọng nâng niu những khát vọng bình dị của con người.

Chương 3: Một số đặc điểm nghệ thuật truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính.

Ở chương này, chúng tôi quan tâm tìm hiểu những nét đặc sắc về nghệ thuật của

văn bản truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính để làm rõ những đặc điểm của kiểu

truyện thơ Nôm tôn giáo xét về mặt nghệ thuật, như là: kết cấu truyện, nghệ thuật

xây dựng nhân vật, ngôn từ nghệ thuật…

Cuối cùng là danh mục tài liệu tham khảo.

10

Chương 1

KIỂU TRUYỆN THƠ NÔM TÔN GIÁO VÀ

VĂN BẢN TRUYỆN QUAN ÂM THỊ KÍNH

1.1. Kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo

1.1.1. Khái niệm truyện thơ Nôm tôn giáo

Truyện thơ Nôm hiện nay tồn tại nhiều luồng ý kiến khác nhau về cách gọi

tên và định danh loại hình - loại thể. Đa số cho rằng nó là một thể loại văn học,

nhưng cũng có ý kiến cho rằng truyện thơ Nôm phải được nhìn như một loại hình.

Và như tên gọi, nó có sự pha trộn: vừa có yếu tố truyện, vừa có yếu tố thơ. Trong

các công trình nghiên cứu từ trước đến nay, nó được gọi bằng nhiều tên khác nhau:

tiểu thuyết quốc ngữ (Phạm Đình Hổ), tiểu thuyết bằng văn vần, hay luân lí tiểu

thuyết (Dương Quảng Hàm), truyện ngâm (Hoàng Thiếu Sơn), truyện Nôm (Đặng

Thanh Lê, Kiều Thu Hoạch), thể lục bát trường thiên (Phạm Thế Ngũ). Trong dân

gian có người gọi là truyện thơ, có người gọi là truyện Nôm, có người lại gọi là

văn Nôm... Đây là một hiện tượng có nhiều tên gọi khác nhau nhất trong văn học

Việt Nam. Tuy nhiên, thuật ngữ truyện thơ Nôm vẫn là tên gọi phù hợp nhất, diễn

đạt trọn vẹn ý nghĩa nhất.

Cũng có nhiều cách định nghĩa truyện thơ Nôm, nhưng cơ bản là thống nhất

về bản chất thể loại. Phạm Thế Ngũ (1997) coi đó là loại truyện “thuật lại một

truyện xảy ra kết hợp bởi ít nhiều tình tiết biến đổi li kì để đưa đến cuối cùng một

cái giải kết”. Nguyễn Lộc (2004) nêu khái niệm: truyện Nôm là “một thể văn học

viết dưới hình thức văn vần, có cốt truyện trong văn học cổ Việt Nam, phát triển

mạnh mẽ nhất ở giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII và thế kỉ XIX”. Từ điển thuật ngữ

văn học cũng định nghĩa: truyện Nôm là “thể loại tự sự bằng thơ dài rất tiêu biểu

cho văn học cổ điển Việt Nam, nở rộ vào cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, do viết

bằng tiếng Việt, ghi bằng chữ Nôm nên được gọi là truyện Nôm” (Lê Bá Hán và

cộng sự, 1997).

Truyện thơ Nôm cùng với khúc ngâm, thơ Nôm Đường luật là những thể

loại được viết bằng ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm). Truyện Nôm ra đời là một tất

yếu và là một hiện tượng có tính lịch sử, tuân theo quy luật hình thành và phát triển

11

của thể loại văn học, có sinh có diệt. Các nhà nghiên cứu đã nhận định sơ bộ về sự

ra đời của truyện thơ Nôm: đó là vào giai đoạn XVI - XVII và phát triển cực thịnh

vào thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì khủng hoảng trầm trọng

không thể cứu vãn của chế độ phong kiến Việt Nam, dẫn đến hệ quả tất yếu là sự

đảo lộn trật tự xã hội. Cùng thời gian này, theo chân các thuyền buôn phương Tây,

nền kinh tế hàng hóa bắt đầu manh nha và lối sống thị dân đã tác động mạnh mẽ

đến ý thức hệ phong kiến. Từ đó, những tư tưởng dân chủ, tiến bộ, tinh thần đấu

tranh chống lại lễ giáo khắt khe cổ hủ, đòi quyền sống, quyền tự do cho con người

ngày càng phát triển. Chủ nghĩa nhân đạo và tiếng nói đánh thức bản ngã là những

mảng màu lớn trong bức tranh văn học giai đoạn này. Cùng với sự chấn hưng Phật

giáo, văn hóa dân gian phát triển và đạt được những thành tựu rực rỡ. Truyện thơ

Nôm là kết quả của sự kết hợp giữa văn học, văn hóa dân gian với văn chương bác

học. Đây cũng là giai đoạn ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ văn học Nôm phát triển

đến đỉnh cao. Truyện Nôm ra đời vừa đáp ứng được nhu cầu cân bằng đời sống xã

hội, vừa giúp giảm bớt áp lực văn học chữ Hán vốn quá quy phạm, xơ cứng.

Ở Việt Nam hiện có khoảng hơn 100 truyện thơ Nôm với nhiều cách phân

loại khác nhau. Dựa vào nguồn gốc đề tài có ba loại: Loại lấy đề tài từ các truyện

cổ dân gian, ví dụ: Trương Chi, Tấm Cám, Thạch Sanh…; Loại lấy đề tài, cốt

truyện từ văn học Trung Quốc: Truyện Hoa Tiên, Nhị độ mai, Phan Trần…; Loại

lấy đề tài, cốt truyện từ những sáng tác chữ Hán hoặc những sự tích có thật ở Việt

Nam: Tống Trân-Cúc Hoa, Bích Câu kỳ ngộ… Dựa vào nội dung và hình thức, có

hai loại: Truyện Nôm bình dân do các nho sĩ bình dân sáng tác như: Tống Trân-

Cúc Hoa, Phạm Công-Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa…; Truyện Nôm bác học

do các nhà Nho thuộc tầng lớp trên sáng tác như: Phan Trần, Nhị độ mai… Dựa

vào mối quan hệ với tác giả có: truyện Nôm hữu danh và truyện Nôm khuyết danh.

Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển 2) lại tiếp tục

chia truyện thơ Nôm khuyết danh thành các loại sau: Truyện Nho giáo trung hiếu

tiết nghĩa “chính tông”: như Nhị độ mai, Tống Trân, Thạch Sanh…; Truyện Nho

giáo với nhân vật chính là nữ nhân: Nữ tú tài, Phương Hoa, Lý Công, Hoàng

Trừu…; Truyện tình ái có màu sắc Lão hoặc Phật: Bích câu, Bạch Viên, Phan

12

Trần…; Truyện Phật giáo “chính tông”: Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Diệu Thiện,

Mục Liên Địa Tạng, Mục Liên Thanh Đề…; Truyện ngụ ngôn luân lí: Hoa điểu

tranh năng, Trê cóc, Trinh Thử… Nhìn chung vấn đề phân loại cũng như tên gọi

của truyện thơ Nôm đến nay vẫn chưa thống nhất. Cách phân loại phổ biến hiện

nay được nhiều người chấp nhận nhất là chia thành hai loại: truyện thơ Nôm bình

dân và truyện thơ Nôm bác học.

Về truyện thơ Nôm tôn giáo, trước hết tôn giáo là: “1: Hình thái ý thức xã

hội hình thành nhờ vào lòng tin và sùng bái thượng đế, thần linh (nghiên cứu về

tôn giáo, vấn đề tôn giáo); 2: Các đạo nói riêng như đạo Phật, đạo Thiên Chúa,

đạo Hồi,...” (Nguyễn Như Ý, 2005). Như vậy, có thể hiểu tôn giáo phản ánh hiện

thực thông qua các khái niệm, ý niệm mang tính tưởng tượng, siêu hình. Gắn với

mỗi tôn giáo là các hoạt động tín ngưỡng, địa điểm tâm linh. Các tôn giáo trên thế

giới đều có điểm chung là đức tin vào sự tồn tại thực của một đấng siêu nhiên do

chính họ tưởng tượng ra và tôn thờ tuyệt đối. Đồng thời, mỗi tôn giáo đều có những

hình thái thờ phụng, có đấng tối cao để tôn thờ, có lễ nghi đặc thù, có giáo lý, kinh

sách, có quy tắc, có tín đồ riêng…

Ở khắp các quốc gia trên thế giới, tôn giáo đều có ảnh hưởng lớn tới văn

học nghệ thuật. Chính vì vậy nó hình thành cả một dòng văn học tôn giáo. Những

tôn giáo thành dòng trong văn học Việt Nam là Thiên Chúa giáo, Phật giáo và Đạo

giáo, trong đó đậm nét nhất là văn học Phật giáo. Từ trước đến nay vẫn chưa có

công trình nghiên cứu chuyên sâu về nhóm truyện thơ Nôm tôn giáo, và cũng chưa

có một định nghĩa thực sự đầy đủ, khái quát cho khái niệm truyện thơ Nôm tôn

giáo. Để có được một định nghĩa đầy đủ, chính xác về truyện thơ Nôm tôn giáo

không phải là chuyện ngày một ngày hai, mà còn phải dày công sưu tầm, nghiên

cứu. Tuy vậy, bước đầu có thể hiểu như sau:

Truyện thơ Nôm tôn giáo là những truyện thơ Nôm mà yếu tố tôn giáo đóng

vai trò chủ đạo (xây dựng nhân vật tôn giáo (hình tượng tôn giáo), khai thác đề tài

tôn giáo, kể tích truyện tôn giáo…). Truyện thường xoay quanh các câu chuyện

tôn giáo, thuyết minh cho hệ thống triết lí của tôn giáo, thường được các giáo phái

sử dụng với mục đích tuyên truyền cho giáo lí của mình.

13

Trong đề tài này, khái niệm Truyện thơ Nôm tôn giáo mà chúng tôi xem xét

được giới hạn trong phạm vi là truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo (Nhà nghiên cứu

Phạm Thế Ngũ gọi nhóm truyện thơ Nôm này là “Truyện Phật giáo chính tông”,

Nguyễn Văn Hoài lại gọi là “truyện thơ Nôm tôn giáo”). Bởi vì chiếu theo tiêu chí

của một tác phẩm văn học tôn giáo như trên thì một truyện thơ được xem là truyện

thơ Nôm tôn giáo chỉ khi nó mang đề tài - chủ đề tôn giáo, chứa đựng tư tưởng tôn

giáo, vừa phải xây dựng được nhân vật tôn giáo, hoặc cốt truyện tôn giáo. Nguyễn

Văn Hoài (2015) trong bài Thi pháp truyện thơ Nôm tài tử giai nhân và một số tiểu

loại truyện thơ Nôm khác: nhìn từ góc độ nhân vật, mô thức cốt truyện, ở phần

phân loại truyện thơ Nôm, mục Truyện thơ Nôm tôn giáo, tác giả cũng kể tên một

số truyện thơ Nôm Phật giáo là: Quan Âm Thị Kính, Quan Âm tống tử bản hạnh,

Mục Liên Thanh Đề, Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển… chứ không xếp các

truyện mang màu sắc Đạo giáo, Thiên Chúa giáo vào nhóm này. Ở Việt Nam, văn

học Đạo giáo, Thiên Chúa giáo hay tôn giáo dân gian có thể nhiều ở các thể loại

khác, nhưng truyện thơ Nôm thì chỉ có Phật giáo là đáng kể mà thôi. Do đó khái

niệm truyện thơ Nôm tôn giáo trong đề tài này đồng nhất với truyện thơ Nôm về

Phật giáo. Từ “tôn giáo” ở đây có nội hàm là Phật giáo.

Tiền đề xuất hiện truyện thơ Nôm tôn giáo, có thể xem xét trên hai phương

diện. Thứ nhất, về tiền đề lịch sử - văn hóa: Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn

nhất trên thế giới (cùng với đạo Thiên Chúa, đạo Hồi), và cũng là tôn giáo lớn, có

lịch sử lâu đời nhất ở Việt Nam. Quê hương của Phật giáo ở Ấn Độ. Đạo Phật du

nhập vào Việt Nam từ đầu kỉ nguyên Tây lịch, theo chân của các thương nhân Ấn

Độ. Vùng đất Luy Lâu (huyện Thuận Thành - Bắc Ninh ngày nay) trở thành trung

tâm Phật giáo của Giao Chỉ, hình thành sớm hơn cả trung tâm Phật giáo Lạc Dương

và Bành Thành (Trung Quốc). Giai đoạn đầu, đạo Phật được truyền bá vào Việt

Nam bằng con đường tự nguyện và trực tiếp ảnh hưởng từ Ấn Độ chứ không phải

bằng con đường cưỡng bức như Nho giáo. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lang trong

Việt Nam Phật giáo sử luận viết:

Trong các chuyến đi xa hằng năm với nhiều tháng lênh đênh trên

biển cả như thế, các thương gia Ấn cũng thờ cúng và cầu nguyện đức Phật

14

và các vị Bồ Tát hộ trì cho trời yên biển lặng và mọi sự yên lành. Các thương

thuyền này thường thờ đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara) và đức Nhiên

Đăng (Dipankara), nổi tiếng là những vị che chở cho thủy thủ được an lành

ngoài biển khơi. Cũng trong mục đích cầu nguyện và cúng dường tam bảo,

họ thỉnh theo thương thuyền một số vị tăng sĩ. Chính những vị tăng sĩ đi

theo thương thuyền này sẽ lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu tại Giao

Chỉ (Nguyễn Lang, 2000).

Chính vì tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ, nên tiếng Bụt của người Việt

được phiên âm trực tiếp từ âm tiết thứ nhất của chữ Buddha (tiếng Phạn cổ, có

nghĩa là Đấng giác ngộ). Đây là cách gọi tên Đức Thích Ca Mâu Ni của người Việt

ở giai đoạn đầu. Tên gọi này phổ biến trong dân gian, trong truyện cổ, ca dao, tục

ngữ… và tồn tại đến tận ngày nay. Về sau, do ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo truyền

bá qua con đường Trung Quốc, ta có thêm tiếng Phật (Phật là phiên âm chữ Hán

rút gọn của Buddha - Phật Đà (佛 陀) - cũng gọi là Bậc giác ngộ). Như vậy, Phật

và Bụt là hai tên gọi tồn tại song song trong tiếng Việt cùng chỉ về người đã sáng

lập ra Phật giáo.

Lịch sử Phật giáo ở nước ta trải qua các thời kì sau: Thời kì từ đầu kỉ nguyên

Tây lịch tới hết thế kỉ X là thời kì Phật giáo được truyền bá, xác lập và phát triển;

Thời Lý - Trần là giai đoạn Phật giáo phát triển cực thịnh, được các vua Trần đề

cao, coi là “quốc giáo”; Thời Hậu Lê, nhà nước phong kiến đề cao Nho giáo nên

Phật giáo đi vào suy thoái một thời gian dài tới mấy thế kỉ. Trong khi nhà Hậu Lê

ở Đàng Ngoài không coi trọng Phật giáo thì ngược lại, ở Đàng Trong, các chúa

Nguyễn lại chủ trương chấn hưng Phật giáo bằng nhiều cách như xây chùa, trùng

tu chùa, thỉnh kinh…; Thời Nguyễn, đặc biệt là từ khi Pháp xâm lược và bình định

nước ta, Phật giáo không được chính quyền quan tâm phát triển do chính sách chấn

hưng Nho giáo của triều Nguyễn hay phát triển Thiên Chúa giáo của nhà cầm

quyền Pháp; Từ thế kỉ XX đến nay Phật giáo bước vào thời kì phục hưng trở lại.

Lịch sử gần 2000 năm của Phật giáo Việt Nam lúc thăng lúc trầm, thịnh suy

theo vận nước, đạo Phật đã trở thành một phần không thể thiếu của văn hóa Việt

Nam, và là tôn giáo lớn nhất, có nhiều người theo nhất ở nước ta “dường như một

15

người Việt Nam nếu không theo một tôn giáo nào khác thì ắt là theo đạo Phật hoặc

chí ít là có tình cảm với đạo Phật” (Trần Ngọc Thêm, 1999). Cốt lõi của Phật giáo

là tam bảo (Phật - Pháp - Tăng). Tinh thần chung của Phật giáo tựu trung ở thuyết

nhân duyên: “thập nhị nhân duyên”. Đó là cơ sở của mọi sự vận động, biến đổi

không ngừng nghỉ của vạn vật trong vũ trụ vô thường.

Giai đoạn thế kỉ XVII - XIX, mặc dù không được nhà cầm quyền quan tâm,

nhưng Phật giáo lại thực sự được chấn hưng trong dân chúng, đặc biệt các nhà trí

thức. Đây cũng là thời kì phát triển của truyện thơ Nôm tôn giáo.

Thứ hai, về tiền đề văn học: cần khẳng định rằng, trải qua 2000 năm du nhập

và phát triển, ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học Việt Nam là khá rõ nét và có

lịch sử lâu dài. Màu sắc Phật giáo có mặt trong hầu hết các thể loại văn học dân

gian. Nhân dân đúc kết kinh nghiệm sống, kinh nghiệm đối nhân xử thế qua các

câu tục ngữ đậm đặc triết lý nhà Phật: “Gieo nhân nào gặp quả ấy”; “tích thiện

phùng thiện tích ác phùng ác”; “Thứ nhất tu tại gia, thứ hai tu chợ thứ ba tu chùa”;

“No ra Bụt đói ra ma”; “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”; hay phê

phán những hạng người “Miệng nam mô bụng bồ dao găm”; “khẩu Phật tâm xà”…

Các thành ngữ ngắn gọn: “Phật tại tâm”; “Lâm thời bão Phật cước”… Các câu ca

dao cũng truyền tải tư tưởng, đạo lý mà Đức Phật đã dạy chúng sinh:

- Dù xây chín đợt phù đồ

Không bằng làm phúc cứu cho một người.

- Lênh đênh qua cửa Thần Phù

Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

Tay bưng quả nếp vào chùa -

Thắp nhang lạy Phật, xin bùa em đeo

Lên chùa lễ Phật quy y -

Cầu cho tuổi nọ tuổi ni kết nguyền

Có khi là những câu ca dao hài hước:

Ba cô đội gạo lên chùa

Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư…

16

Ảnh hưởng của Phật giáo rõ nét nhất, nhiều nhất là trong truyện cổ tích,

như: Tấm Cám, Chử Đồng Tử, Khổng Lồ đúc chuông hay là sự tích trâu vàng Hồ

Tây, Huyền Quang, Sư Không Lộ… Yếu tố Phật giáo trong truyện cổ tích đã được

rất nhiều người quan tâm nghiên cứu. Đỗ Văn Đăng (2005) phân chia nhóm truyện

cổ tích này làm 3 loại: Phật thoại; những truyện ảnh hưởng Phật giáo; và những

truyện có mối giao thoa với kinh điển, điển tích Phật giáo. Những giáo lí nhà Phật

được truyền tải qua hình thức nhẹ nhàng, dễ hiểu của truyện cổ tích: đó là thuyết

nhân quả, luân hồi nghiệp báo, khuyên con người tu nhân tích đức, làm điều thiện,

tránh xa điều ác… Nguyễn Đổng Chi (2000) đã chỉ ra rằng: Phần lớn truyện mang

màu sắc Phật giáo là những truyện cổ tích thế sự. Về cơ bản nhóm truyện này vẫn

mang đặc trưng thi pháp của văn học dân gian.

Những câu tục ngữ, ca dao, những câu chuyện giản dị ấy thấm đẫm tinh

thần từ bi, luật nhân quả, không chỉ làm giàu cho kho tàng văn học nước nhà mà

còn có khả năng truyền bá những giáo lí nhà Phật một cách hiệu quả nhất trong

đời sống dân tộc Việt.

Đặc biệt, trong thời kì cực thịnh của Phật giáo (thời Lí - Trần), đã hình thành

cả một dòng văn học Phật giáo. Đó là các bài kinh, kệ, các bài thơ Thiền do các

nhà sư, đồng thời là nhà thơ như Trần Nhân Tông (nhà vua - Thiền sư, người có

công sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm ở Việt Nam), Mãn Giác Thiền sư, Không Lộ

Thiền sư, Huyền Quang Thiền sư, Tuệ Trung Thượng sĩ… sáng tác. Tiêu biểu như

bài thơ Thị đệ tử sau đây của sư Vạn Hạnh:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô

Dịch thơ:

Bảo các học trò

Thân như bóng chớp, có rồi không

Cây cối xuân tươi, thu não nùng

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi

17

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông

(Dẫn theo Nguyễn Hữu Sơn, 2017)

Bài thơ thấm đẫm tinh thần giác ngộ. Vạn Hạnh đã dạy cho học trò về quy

luật thịnh suy, được mất, sống chết, hãy an yên mà đón đợi. Thân xác mỗi con

người hay là sự vần xoay của thế giới cũng chỉ như một giọt sương trên ngọn cỏ,

xuất hiện rồi tan biến, vốn là lẽ thường hằng.

Nội dung thơ Thiền Lý - Trần xoay quanh các vấn đề về nhân sinh quan, vũ

trụ quan, đường lối trị nước, các triết lí đạo Phật… Về hình thức vẫn mang nặng

thi pháp văn học cổ, nhất là ảnh hưởng bút pháp của Đường thi.

Giai đoạn thế kỉ XVII - đầu XIX, văn học chữ Nôm phát triển, kéo theo đó

là văn học bình dân, ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ được chú trọng. Mối giao thoa giữa văn

học dân gian và văn học viết, giữa văn học bình dân với văn chương bác học trở

nên rõ nét hơn. Các nội dung, chủ đề của văn học ngày càng gần gũi với đời sống,

chú trọng tiếng nói đòi quyền yêu quyền sống, phản đối chiến tranh phi nghĩa,

chống đối lễ giáo phong kiến, các hủ tục lạc hậu, đề cao ý thức cá nhân, khát vọng

giải phóng bản ngã, khát vọng hạnh phúc bình dị… Các chủ đề nhân đạo ấy của

văn chương phù hợp với bản chất khuyến thiện, nhân ái bao la của nhà Phật. Do

vậy, các giáo lí của nhà Phật đã tìm được một hình thức phù hợp với nó: truyện

thơ Nôm, nhất là truyện thơ Nôm bình dân. Từ đó hình thành nên kiểu truyện thơ

Nôm tôn giáo.

Một trong những môi trường hình thành và tồn tại của truyện thơ Nôm là

các nhà Chùa Phật giáo. Khi các nhà sư muốn truyền bá giáo lí cho các Phật tử (mà

đa phần là tầng lớp bình dân), họ đã chọn một hình thức (thể loại) dễ đi vào lòng

công chúng nhất, đó là diễn ca Phật giáo bằng thơ lục bát (như truyện Lưu Hương

diễn nghĩa bảo quyển, Mục Liên Thanh Đề), hoặc diễn ca một truyện tích Phật giáo

(như Quan Âm Thị Kính, Bà Chúa Ba), dần dần hình thành một truyện thơ Nôm

tôn giáo hoàn chỉnh.

1.1.2. Một số truyện thơ Nôm tôn giáo tiêu biểu

18

Truyện Quan Âm Thị Kính là một tác phẩm xuất hiện từ sớm và khá phổ

biến trong dân gian, từ lâu vẫn được coi là khuyết danh. Truyện kể về cuộc đời và

quá trình tu hành đắc đạo của Phật Bà Quan Thế Âm, lấy bối cảnh là xứ Cao Ly

(tức Triều Tiên ngày nay). Theo văn bản do Thiều Chửu giới thiệu, chú thích thì

truyện diễn ca gồm có 788 câu lục bát, và một bức thư Thị Kính gửi cho cha mẹ

viết bằng văn biền ngẫu. Truyện có thể chia làm 5 hồi: Nỗi oan giềt chồng; Thị

Kính đi tu; Nỗi oan thông dâm; Thị Kính nuôi con Thị Mầu; Rửa oan thành Phật.

Truyện thấm đẫm tinh thần Phật giáo Đại thừa. Bởi vậy Thiều Chửu đã coi Quan

Âm Thị Kính như là một cuốn kinh Phật ở Việt Nam.

Truyện Quan Âm Nam Hải: Hiện có nhiều bản in khác nhau và có nhiều tên

gọi khác như Nam Hải Quan Thế Âm, Nam Hải Quan Âm Phật sử tích ca, Quan

Âm chân kinh diễn nghĩa, Quan Âm Diệu Thiện… Theo tác giả Nguyễn Lang,

truyện Quan Âm Nam Hải vốn xuất phát từ một vị Tăng đời Nguyên bên Trung

Hoa. Tích này được lưu truyền trên đất Việt kể từ khoảng cuối thế kỷ XIV hay XV

và được Việt hóa. Bản Nôm cổ nhất của truyện Quan Âm Nam Hải vẫn chưa biết

được khắc vào thời đại nào. Bản Việt ngữ đầu tiên Quan Âm diễn ca của Huỳnh

Tịnh Của, ấn hành năm 1897 (Nguyễn Lang, 2000).

Văn bản Nam Hải Quan Thế Âm do Bùi Thức Phước sưu tầm và biên soạn

dài 1424 câu (kèm theo 1 bài kệ theo thể thất ngôn tứ tuyệt, 2 bài sắc) kể về huyền

thoại của Phật Bà Quan Thế Âm Bồ Tát. Công chúa Diệu Thiện (chúa Ba), con

vua Trang Vương, từ thuở nhỏ đã phát tâm theo Phật, nguyện không lấy chồng.

Điều đó đã làm vua cha nổi giận, trừng phạt. Tuy vậy, nàng đã kiên cường vượt

qua tất cả những trở ngại, thử thách để theo đuổi con đường tu hành. Về sau, được

Phật tổ chứng giám, công chúa được lên Niết Bàn trở thành Phật Bà Quan Thế Âm

Bồ Tát, quay lại trị bệnh cho vua cha và trở thành Phật Bà nghìn tay nghìn mắt,

nhìn thấu suốt cõi đời, nghe thấu mọi tiếng kêu khổ đau, dang rộng vòng tay phổ

độ chúng sinh. Bà trụ trì ở chùa Hương Tích. Nhiều người đã cho rằng truyện Nôm

Nam Hải Quan Âm được viết bởi hòa thượng Chân Nguyên. Trong bài Giới thiệu

vài nét về văn học Phật giáo Việt Nam - bài giảng Phật học cơ bản của Ban Hoằng

Pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tác giả Thích Tâm Hải cũng khẳng

19

định rằng: Thiền sư Chân Nguyên (1647 - 1726) đã viết các truyện Nôm: Nam Hải

Quan Âm, Đạt Ma thái tử bản hạnh.

Có thể thấy yếu tố Phật giáo trong Nam Hải Quan thế âm rõ rệt hơn, xuất

hiện dày đặc hơn ở Quan Âm Thị Kính. Quan Âm Thị Kính gắn với đời nhiều hơn,

Quan Âm Nam Hải lại gắn với đạo nhiều hơn. Nếu Thị Kính đi tu vì những khổ

đau trong đời thực, thì Diệu Thiện lại đi tu vì niềm tin tôn giáo. Nhiều người đã

xem tác phẩm này như một cuốn kinh của đạo Phật, thật dễ hiểu và dễ tác động

đến nhân tâm. Tuy vậy, Nam Hải Quan thế âm không phải là một thứ “diễn ca” dễ

dãi, khô khan mà thực sự là một tác phẩm có phẩm chất và cốt cách văn học, phản

ánh tư tưởng ước vọng của nhân dân trong giai đoạn khủng hoảng của xã hội phong

kiến.

Truyện Mục Liên Thanh Đề (còn có các tên gọi khác như Mục Liên bản

hạnh, Mục Kiền Liên, Mục Liên Thanh Đề tân san): hiện cũng chưa rõ thời gian ra

đời và ai là tác giả, chỉ biết rằng nó được diễn âm bằng thể thơ lục bát, được khắc

in và lưu hành ở Việt Nam từ rất sớm, gắn với lễ nghi và sinh hoạt Phật giáo. Trong

các bản in bằng chữ quốc ngữ hiện còn, đáng chú ý là bản phiên âm từ chữ Nôm

và kèm theo chú thích của Hoàng Xuân Hãn (gồm 162 câu lục bát). “Tôi nghĩ rằng

văn bản nầy đáng được coi là khắc tự đời Lê, trước 1731” (Hoàng Xuân Hãn, Paris

ngày 4/9/1994, Phật lịch 2538). Ngoài ra còn có các bản in quốc ngữ của Đặng Lễ

Nghi (1930), Lê Duy Thiện (1934), Khấu Vô Nghi (1930)… So với Quan Âm Thị

Kính hay Nam Hải Quan Thế Âm thì truyện thơ Mục Liên Thanh Đề ít phổ biến

trong dân gian hơn. Nhưng tích truyện về ngài Mục Kiền Liên (còn gọi là Mục

Liên) lại được lưu truyền nhiều trong các sách Phật giáo, đặc biệt trong những mùa

Vu Lan báo hiếu, khi người ta kể về công ơn của các bậc sinh thành và những tấm

gương chí hiếu. Có thể coi đây là sự tích tiêu biểu cho luật nhân quả của nhà Phật,

được biên soạn thành kinh, gọi là kinh Mục Liên.

Bà Thanh Đề, mẹ của ngài Mục Liên, là người ác nghiệt. Sau khi chết đi,

bà bị đày vào ngục Ngạ quỷ (ma đói). Khi ấy Mục Liên còn làm đệ tử của Phật.

Một ngày, Mục Liên dùng nhãn giới siêu phàm nhìn xuống địa ngục, ngài thấy mẹ

bị đày ải khổ sở, chỉ còn một nắm xương khô. Ngài xin được xuống thăm mẹ, mời

20

mẹ ăn chuối. Bà bóc vỏ, ném xuống đất, lại lấy chân dày cho nát để các tù nhân

khác không thể lượm ăn. Mục Liên lại dùng phép biến hóa ra một bát cơm đưa cho

mẹ. Nhưng lạ thay, khi cơm đưa đến miệng bà Thanh Đề liền biến thành lửa, khiến

bà vô cùng đau đớn. Thương mẹ, Mục Liên cầu đức Phật cứu độ cho mẹ. Đức Phật

dạy phải tụng kinh Vu Lan Bồn, và nhằm ngày rằm tháng Bảy âm lịch làm lễ siêu

độ, cúng dường Tam Bảo. Nhờ đó, mẹ ngài được thoát nạn. Truyện Mục Liên

Thanh Đề nhấn mạnh đến luật nhân quả, đến lòng hiếu thảo chí thành của ngài

Mục Liên.

Truyện thơ Nôm Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển là một phát hiện mới

gần đây ở chùa Hội Khánh (Bình Dương). Sách cổ bằng chữ Nôm do hai tín nữ

Nguyễn Từ Nguyên và Huỳnh Diệu Trúc tự bỏ tiền san định lại năm 1908. Gần

đây, Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển đã được Phan Thanh Đào dịch ra tiếng Việt,

do hội Khoa học lịch sử Bình Dương xuất bản. Các nhà nghiên cứu Hán Nôm xem

đây là tác phẩm thứ 3 (Sau Quan Âm Thị Kính và Nam Hải Quan Thế Âm) diễn

nghĩa những cổ sự mang tư tưởng Phật giáo nhằm mục đích khuyến thiện, răn đời,

có lẽ cũng là tác phẩm diễn Nôm dài nhất trong số các truyện Nôm về Phật Quan

Âm (3306 câu thơ lục bát). Cốt truyện đề cập đến những hành động từ bi bác ái

của nàng Lưu Hương - cô gái vốn sinh ra đã mang mùi hương tự nhiên. Cô khuyên

cha mẹ bỏ nghề buôn bán rượu thịt, vì cô tin vào thuyết nhân quả và đã được cha

mẹ chấp thuận. Dung lượng lớn của truyện kể về nỗi khổ cùng cực, những niềm

oan khiên của Lưu Hương khi làm dâu gia đình họ Mã. Nhưng cuối cùng, với tính

nhẫn nhục chịu đựng, lòng thành kính, Lưu Hương đã cảm động được cả đất trời,

cả các sinh vật và cảm hóa được gia đình chồng, ngay cả bà mẹ chồng và hai chị

dâu ác nghiệt. Truyện còn đề cao lòng hiếu thảo của con người. Tác phẩm khuyên

mọi người hãy có lòng từ bi và hạnh nhẫn nhục, không sát sinh, không tà dâm,

không ham mê sắc dục, khuyên mọi người nên giữ ngũ giới của đạo Phật.

Toàn bộ câu chuyện đặt trên cơ sở tinh thần nhẫn nhục, giữ giới,

kiêng sát sanh của Phật giáo, lại đề cao thuyết nhân quả. Cốt truyện đặt trên

quan điểm phổ biến của văn học cổ điển: “Tích thiện phùng thiện tích ác

phùng ác”. Mâu thuẫn được phản ánh trong tác phẩm là những mâu thuẫn

21

xảy ra trong gia đình: Mâu thuẫn giữa mẹ chồng và nàng dâu, mâu thuẫn

giữa những chị em dâu trong gia đình (Phan Thanh Đào, 2006).

Ngoài ra có thể kể đến một vài truyện thơ Nôm tôn giáo khác như: Đạt Ma

thái tử bản hạnh, Cổ Châu Pháp Vân bản hạnh, Tỉnh mê một cõi (tức Hứa Sử

truyện), Thơ Phật Tổ ra đời, Thơ Phật Thích Ca…mà trong điều kiện hạn hẹp,

chúng tôi chưa có điều kiện khảo sát kĩ.

1.1.3. Đặc điểm truyện thơ Nôm tôn giáo

Bên cạnh các đặc điểm chung của văn học trung đại, của thể loại truyện thơ

Nôm, kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo còn mang những đặc trưng riêng. Cho đến nay

vẫn chưa có một nghiên cứu nào chỉ ra những đặc điểm của tiểu loại này. Để có

một công trình đầy đủ, toàn diện có lẽ cần nhiều thời gian và công sức. Ở đây,

chúng tôi mạnh dạn nêu ra một vài đặc điểm chính về nội dung tư tưởng và nghệ

thuật sau:

Thứ nhất, truyện thơ Nôm tôn giáo chịu sự chi phối của vận động văn học

dân tộc thời hậu kì trung đại và tinh thần dung hòa tam giáo.

Nằm trong dòng chảy của văn học dân tộc, truyện thơ Nôm tôn giáo chịu

sự chi phối toàn diện về thể tài, nội dung tư tưởng cũng như thi pháp của vận động

văn học thời hậu kì trung đại (khoảng từ thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX). Đó là

sự phát triển của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa và cảm hứng nhân văn. Nổi bật lên

trong các truyện thơ Nôm tôn giáo là tiếng nói bênh vực quyền sống của con người,

ca ngợi vẻ đẹp của con người và đấu tranh giải phóng con người, nhất là người phụ

nữ. Bên cạnh đó còn là tiếng nói phản kháng chế độ phong kiến hà khắc, đày đọa

con người, chà đạp lên nhân phẩm con người. Văn học thời kì này cũng chứng kiến

sự lên ngôi của các sáng tác bằng chữ Nôm. Đây là mảng sáng tác đáng lưu ý nhất

và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ ở cả bộ phận truyện Nôm bình dân và truyện

thơ Nôm bác học. Các sáng tác bằng chữ Nôm có xu hướng khuyết danh, bình dân

hóa được phổ cập rộng rãi. Đây là một thể loại văn học tự thân, thuần Việt, mang

tính nội tại, trong đó kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo đóng góp một vị trí không nhỏ.

Phật giáo ở Việt Nam vốn có tính tổng hợp và tính linh hoạt, do vậy nó có

khả năng dung hợp với các tín ngưỡng truyền thống của dân tộc (tín ngưỡng thờ

22

Mẫu, tục thờ ông bà tổ tiên, sùng bái các hiện tượng tự nhiên, thờ các vị thần, các

anh hùng dân tộc…), đồng thời dung hợp với các tôn giáo ngoại lai khác (Nho

giáo, Đạo giáo) tạo thành hiện tượng tam giáo đồng nguyên (tam giáo đồng quy,

tam giáo nhất thể) trong văn hóa, văn học. Tính chất này có thể thấy rất rõ trong

các truyện thơ Nôm nói chung và đặc biệt ở truyện thơ Nôm tôn giáo. Ba trong số

bốn truyện được chúng tôi khảo sát kể chuyện về các Phật bà (Bà Thị Kính, chúa

Ba, Lưu Hương), rất gần với tín ngưỡng thờ mẫu, tôn sùng người phụ nữ của người

Việt. Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Nam Hải, Mục Liên Thanh Đề đều nhấn mạnh

đến chữ Hiếu, đó vừa là nền tảng của giáo lí Phật giáo, vừa là hạt nhân của đạo

Nho. Tinh thần giữ giới luật, kiêng sát sinh trong Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển

cũng rất gần với chủ trương sống thuận với tự nhiên, yêu thiên nhiên, quý sự sống

của Đạo giáo. Nàng Lưu Hương khuyên chồng là Mã Ngọc học hành, đi thi để phò

vua giúp nước, Thiện Sĩ dùi mài kinh sử đêm ngày lại rất gần với phạm trù chữ

Danh của đạo Nho. Đó có lẽ là sự dung hợp giữa tư tưởng tôn trọng Phật, Pháp,

Tăng và sự đề cao quân, sư, phụ. Trang Vương với mong mỏi có con trai nối ngôi,

ngăn cản Diệu Thiện đi tu là biểu hiện cực đoan của một tín đồ đạo Khổng điển

hình. Nhân vật Thị Kính trước khi xuất giá đi tu được xây dựng đúng như hình

mẫu của người phụ nữ theo chuẩn mực của đạo Nho (tam tòng, tứ đức). Sự tu luyện

của chúa Ba, những phép thuật biến hóa, phương thuốc tiên cứu sống Trang

Vương… trong truyện Quan Âm Nam Hải lại mang màu sắc Đạo giáo…

Như vậy, có thể nói đặc điểm của văn học trung đại Việt Nam thời hậu kì

và tinh thần tam giáo đồng nguyên để lại dấu ấn đậm nét trong các truyện thơ Nôm

tôn giáo.

Thứ hai, truyện thơ Nôm tôn giáo có sự vận động theo hướng dân tộc hóa

và hướng về đại chúng.

Mặc dù hình thành trong sự ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện bởi yếu tố ngoại

lai (đặc biệt là Hán học) như: cốt truyện (vay mượn), đề tài (khai thác từ đề tài tôn

giáo), thi pháp (ước lệ, sùng cổ, phi ngã), tư tưởng (ảnh hưởng học thuyết Nho

giáo trong các mối quan hệ gia đình xã hội)…, song có thể nói ở mảng truyện thơ

Nôm tôn giáo đã có sự vận động đáng kể theo hướng dân tộc hóa. Bên cạnh những

23

yếu tố dân tộc hóa chung của truyện thơ Nôm như: sử dụng văn tự chữ Nôm, thể

loại thuần Việt (truyện thơ), thể thơ dân tộc (thơ lục bát, song thất lục bát), thì yếu

tố dân tộc hóa dễ thấy nhất ở truyện thơ Nôm tôn giáo là ở nội dung thế sự. Hầu

như các tác phẩm đều xoay quanh chuyện gia đình, tình cha con, nghĩa vợ chồng,

đạo hiếu nghĩa…và con đường để thoát khổ. Đặc biệt, truyện thơ Nôm tôn giáo đã

xây dựng được cho mình những giá trị cao cả, bám sát tinh thần nhân văn của Phật

giáo, trong đó chủ nghĩa nhân đạo là cảm hứng chính. Về thi pháp, bên cạnh sự

vay mượn điển tích điển cố, văn thi liệu Trung Hoa, Ấn Độ, thì các tác giả truyện

thơ Nôm tôn giáo còn sử dụng văn thi liệu của văn học Việt Nam, cảnh vật, địa

danh, con người ở Việt Nam (như ngôi chùa Vân trong truyện Quan Âm Thị Kính

chính là chùa Dâu (Pháp Vân tự) ở Bắc Ninh, Hương Tích Sơn trong Quan Âm

Nam Hải chính là ngôi chùa ở Hương Sơn - Hà Tĩnh…).

Trong khi hầu hết văn học viết Việt Nam thời trung đại, bao gồm cả truyện

thơ Nôm bác học, thơ Nôm Đường luật đều hướng tới công chúng tầng lớp Nho sĩ

(đây là đẳng cấp cao nhất trong các thứ hạng sĩ nông công thương thời phong kiến,

lại là tầng lớp chỉ chiếm số lượng ít nhất trong xã hội), thì truyện thơ Nôm tôn giáo

hướng đến đối tượng công chúng là đại chúng nhân dân. Đa số tầng lớp trong xã

hội đều có thể tiếp cận được, kể cả người không biết chữ. Bởi đơn giản mục đích

của các truyện thơ Nôm tôn giáo là truyền bá giáo lý nhà Phật, lại lưu truyền bằng

con đường truyền miệng, khuyết danh, hình thức thơ dễ nhớ, dễ đọc (thể lục bát

dân gian). Do vậy nó được đông đảo quần chúng đón nhận, dễ đi vào lòng người

và thành món ăn tinh thần của đại chúng.

Thứ ba, truyện thơ Nôm tôn giáo khai thác đề tài Phật giáo và ảnh hưởng

tư tưởng của Đại thừa Bắc tông.

Tôn giáo vốn dĩ là đề tài bất tận cho nhiều ngành nghệ thuật, không chỉ có

văn chương. Và ngoài Phật giáo, các tôn giáo khác cũng đã đổ bóng trong rất nhiều

công trình nghệ thuật văn chương, hội họa, điêu khắc… Truyện thơ Nôm tôn giáo

ở Việt Nam thời trung đại dĩ nhiên lấy các câu chuyện từ trong kinh sách Phật giáo

hay các truyện cổ Phật giáo (những chuyện khá gần gũi với đời sống của Việt

Nam) làm đề tài cho mình. Trong truyện thơ Nôm tôn giáo và hầu hết các truyện

24

cổ Phật giáo ở nước ta, những câu chuyện về cuộc đời của các vị Phật chính thống

như Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà thường là rất hiếm. Hầu hết truyện thơ Nôm

tôn giáo khai thác sự tích của các vị Phật như Phật Bà Quan Âm, Mục Kiền Liên,

hay những kẻ tu hành đắc đạo như bà Lưu Hương… Phần nhiều trong số đó là các

Phật bà (Thị Kính, Lưu Hương, chúa Ba) trong khi Phật giáo gốc vốn không có

Phật là nữ giới. Đây chính là điểm khác biệt trong nhận thức của con người Việt

Nam về các vị Phật, thể hiện sự tiếp biến của các tôn giáo trong lòng xã hội Việt

Nam, nơi mà văn hóa mẫu, tín ngưỡng thờ Mẫu luôn được đề cao.

Phật giáo Đại thừa thấm nhuần trong các truyện thơ Nôm tôn giáo, trên tất

cả các khía cạnh, từ nhân sinh quan, vũ trụ quan tới hệ thống triết lí. Hầu hết các

truyện đều nhằm soi sáng luật nhân quả, đề cao chữ hiếu với cha mẹ (Ngài Mục

Liên, Thị Kính, Chúa Ba đều là những tấm gương sáng về đức hiếu nghĩa), sự nhẫn

nhục và lòng từ bi đến tận cùng để đạt được giác ngộ (Quan Âm Thị Kính, Quan

Âm Nam Hải, Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển), hay khuyên chúng sinh không

tà dâm, không nên sát sinh, không tham sân hận… Cửa Phật rất rộng mở, phổ độ

chúng sinh, không chỉ những kẻ xuất gia lên chùa đi tu thì mới đắc đạo, mà những

người có tâm tu hành, một lòng hướng Phật, đều có thể lên miền cực lạc, như các

nhân vật: đứa con Thị Màu, cha mẹ Thị Kính trong truyện Quan Âm Thị Kính,

Diệu Thanh, Diệu Âm trong Quan Âm Nam Hải cũng trở thành Văn Thù Bồ Tát,

Phổ Hiền Bồ Tát. Nhìn chung các tác phẩm đều có tính hướng thiện, khuyên con

người nên giữ ngũ giới của đạo Phật, và hướng con người đến bến bờ giải thoát.

Chỉ với mười lời khuyên của nàng Lưu Hương ta đã thấy giáo lí của Đại thừa Phật

giáo thật sâu sắc mà rất đỗi nhẹ nhàng qua những vần thơ lục bát:

Một là tin tưởng Phật trời

Thờ cha kính mẹ hiếu thời vi tiên

Hai là tu đức hồi thiên

Từ bi nhẫn nhục cố kiên tinh thần

Ba là rượu thịt chớ gần

Ăn chay niệm Phật ân cần thiện vi

Bốn là dục sắc đoạn ly

25

Trừng tâm thanh tịnh lễ nghi vẹn toàn

Năm là hòa thuận xóm làng

Bần dân ân xá bạc vàng đừng tham

Sáu là tu tạo chùa am

Ngân tiền bố thí chớ cam một mình

Bảy là an dưỡng tín thành

Đê tâm hạ khí từ thìn nết na

Tám là chớ nói sai ngoa

Cố ngôn cố hạnh gần xa yên vì

Chín là lập chí tu trì

Kiên tâm luận đạo thần kì kính khâm

Mười là chẳng đặng tà dâm

Sát sanh hại vật sắc âm chớ gần

(Phan Thanh Đào, 2006).

Thứ tư, truyện thơ Nôm tôn giáo đề cao các triết lí nhà Phật.

Phật giáo là một tôn giáo, đồng thời là một trường phái triết học: triết học

Phật giáo. Triết học Phật giáo là triết học thực tiễn, vừa có tính duy tâm, lại vừa

hết sức duy vật và biện chứng. Sở dĩ nói triết học thực tiễn bởi hệ thống triết lí,

quan niệm mà nó nêu ra chủ yếu hướng tới mục đích giúp các Phật tử vận hành,

áp dụng những nguyên lí ấy vào cuộc sống tu tập của mỗi cá nhân để đạt tới bến

bờ giác ngộ. Nói đến triết lí nhà Phật là nói đến các khái niệm (thuật ngữ) như: tứ

diệu đế (bao gồm khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế), Tam pháp ấn (bao gồm: khổ, vô

ngã, vô thường)… Các khái niệm này được trình bày rõ trong các kinh điển Phật

giáo.

Trước hết là quan niệm về Khổ (bát khổ). Khổ là một triết lý bao trùm của

Phật giáo, là cơ sở của Tứ diệu đế, triết lý này thường được dân gian đúc rút ngắn

gọn trong câu: “đời là bể khổ”. Quả thực vậy, cuộc đời con người luôn vận động

trong vòng tuần hoàn sinh - lão - bệnh - tử, và vì “thụ ngũ uẩn” mà sinh ra bát khổ.

Đức Phật nói: “Nước mắt chúng sinh dồn lại nhiều hơn nước bốn bể”. Chúng ta

thấy tất cả các truyện thơ Nôm tôn giáo đều đề cập tới nỗi khổ trầm luân của kiếp

26

người. Mở đầu truyện Quan Âm Thị Kính là lời “chỉ đường chính giác”: con người

muốn tu hành đắc đạo phải vượt qua được nỗi khổ của đời mình:

Nhân sinh thành Phật dễ đâu

Tu hành cứu khổ rồi sau mới thành

(Câu 1 - 2)

Cả cuộc đời Thị Kính, trên con đường tu tập để đạt tới Niết Bàn đã trải biết

bao khổ cực: khổ vì sinh ra là thân con gái trong một xã hội nam quyền, khổ vì gia

đình nhà chồng vu oan, chồng nhu nhược không biết bảo vệ vợ. Để đi tu, nàng phải

phạm ngũ giới, đó là tội nói dối “giả hình nam tử”, để rồi những nỗi khổ lại thêm

chất chồng: bị Thị Màu - một đứa con gái lẳng lơ trong làng - ve vãn, trêu ghẹo,

rồi vu oan; bị làng đánh đập, bị người đời mỉa mai nhiếc móc, phải ra ở tam quan,

phải nuôi con người rồi vì kiệt sức mà chết… Nàng công chúa Diệu Thiện trong

Quan Âm Nam Hải hay Lưu Hương trong Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển lại

chịu nỗi khổ “oán tăng hội”: tức phải sống chung với những gì mình không thích

hoặc oán ghét. Diệu Thiện không thích hợp với cuộc sống lụa là trong cung trên

danh phận của một công chúa, Lưu Hương từ nhỏ đã chay tịnh niệm Phật, không

muốn lấy chồng. Khi bị vua cha, gia đình ép họ phải làm theo những gì sắp đặt thì

đó là căn nguyên của nỗi khổ: Diệu Thiện bị Trang Vương sai người tra tấn năm

lần bảy lượt, Lưu Hương bị gia đình nhà chồng hành hạ, vu oan giá họa đến thừa

sống thiếu chết. Nỗi khổ của ngài Mục Liên trong Mục Liên Thanh Đề là phải

chứng kiến mẹ mình chịu khổ vì hình phạt do những lỗi lầm mà bà gây ra, dù đó

là nỗi khổ sau khi chết. Riêng với nhân vật bà Thanh Đề là nỗi khổ chồng lên nỗi

khổ. Lúc sống bà khổ vì tham sân si, vì “sở cầu bất đắc”, lúc chết xuống địa ngục

bà phải chịu khổ vì luật nhân quả.

Con đường để thoát khổ không gì khác hơn là tu tập Bát chánh đạo - tức

con đường tu hành chân chính với tám nhánh (chi). Các nhân vật chính trong nhóm

truyện thơ Nôm tôn giáo đều thực hành bát chánh đạo: chánh kiến, chánh tư duy,

chánh ngữ, chánh mạng, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.

Thị Kính chuyên cần tu tập, xin sữa nuôi con Thị Màu là chánh tinh tấn, Lưu

Hương dùng lời nói ôn hòa, việc làm chân chính của mình mà cảm hóa được bao

27

nhiêu người, kể cả người gian ác, kể cả loài súc vật hươu nai, đó là chánh ngữ,

chánh nghiệp. Mục Liên tìm mọi cách cứu mẹ ra khỏi địa ngục Ngạ quỷ là chánh

nghiệp. Diệu Thiện từ bỏ cuộc sống nhung lụa quyền quý để lên chốn rừng xanh

núi thẳm tu hành, sống cuộc đời khổ hạnh đó là chánh kiến… Việc thực hành bát

chánh đạo một cách nghiêm túc, tự nguyện đã giúp các nhân vật thoát khỏi bể khổ

trầm luân của cuộc đời, vượt qua vòng luân hồi sinh tử, vươn lên đến đời sống viên

mãn, hạnh phú.c, cực lạc, quả phúc vẹn tròn. Trong Quan Âm Thị Kính: “Truyền

rằng nào tiểu Kính Tâm - Phi thăng làm Phật Quan Âm tức thì” (câu 75 - 76); trong

Nam Hải Quan Thế Âm: “Sắc phong là Quan Thế Âm - Phổ Đà Nham, cả bể Nam

mình Ngài” (Bùi Thức Phước, 2015). Trong Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển,

nàng Lưu Hương được phi thăng làm Bảo Nguyệt Phật: “Hương nữ đức bị phước

toàn - Bảo Nguyệt tôn Phật khỏi đường oan khiên” (Phan Thanh Đào, 2006).

Phật pháp quan niệm đời là vô thường, vô ngã. Vô thường là một trong

những thuyết cơ bản của Phật giáo, coi vạn vật trên thế gian này không có gì là

thường trụ thường hằng cả. Mỗi vật sinh ra, biến đổi rồi chuyển hóa thành cái khác.

Thế giới cũng không đứng yên mà vận động trong từng sát na (sát na: đơn vị tính

thời gian rất ngắn của nhà Phật: nhỏ hơn cả một giây). Các truyện thơ Nôm tôn

giáo đã thể hiện rõ cái triết lí vô thường ấy của thế gian, của con người. Hãy xem

Quan Âm Thị Kính, đoạn Thị Kính cắt râu mọc ngược của chồng rồi bị vu oan, bị

đuổi về nhà cha mẹ (từ câu 121 - 190), học giả Thiều Chửu gọi tên phần này là

“Thế gian vô thường”. Cuộc sống tưởng như êm đềm trôi đi với cảnh “Kẻ đường

kim chỉ người người nghề bút nghiên”, nào ngờ sự thể đổi thay quá nhanh “Nước

trong bát, đã dời tay - Có còn bốc lại cho đầy được chăng”. Thiều Chửu đã giảng

giải trong phần “thích” rằng: “Cho hay thế gian đất nước, thân thể còn là vô thường,

huống chi là cảnh ngộ của con người. Bãi bể nương dâu, nay còn mai mất, trăm

năm thân thế, như bóng câu qua cửa, có cái gì là lâu dài, là vững bền. Sinh tử tử

sinh như bánh xe quay tít, sướng khổ khổ sướng, cũng làm nhân quả cho nhau”

(Thiều Chửu, 2007). Trang Vương trong Nam Hải Quan Thế Âm hôm nay còn là

ông vua hét ra lửa, đánh đông dẹp bắc, tham vọng không dừng, thì ngày mai đã

28

bệnh tật đầy mình, không còn thiết đến ngai vàng, danh vọng, thấy cuộc đời chỉ là

phù du, ảo ảnh.

Đi liền với vô thường là vô ngã. Vô ngã là không có cái ta, tức không có cái

gì tồn tại vĩnh cửu, vì theo lẽ vô thường, vạn vật biến chuyển không ngừng trong

từng phút từng giây, từng sát - na. Sự vật cũng như con người, có mặt trên đời này

là do duyên sinh, khi duyên tan rã thì sự vật cũng tự diệt. Theo đó, cuộc đời này là

cõi tạm, là không có thật. Trong Quan Âm Thị Kính có đoạn:

Đoái trông sự thế nực cười

Như đem trò dối mà chơi khác gì

Phù vân một đóa bay đi

Khi thì áo trắng lúc thì muông đen

(Câu 333 - 336)

Truyện thơ Nôm tôn giáo còn hướng con người tới đạo giải thoát, thực hành

điều thiện. Đức Phật Thích Ca đã dạy đại ý rằng: Nước biển chỉ có một vị, đó là vị

mặn. Đạo của Ngài cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Bên cạnh đó, đọc các

truyện thơ Nôm tôn giáo, ta hiểu rõ hơn các khái niệm Địa ngục, thiên đường, luân

hồi nhân quả, Bồ Tát giới, nhân duyên… và giáo lí nhà Phật về các khái niệm ấy.

Như vậy, trên cơ sở phân tích một số đặc điểm nổi bật của kiểu truyện thơ

Nôm tôn giáo, ta thấy rõ ràng đây là một tiểu loại đặc sắc, khu biệt, đầy hấp dẫn

đặt trong tương quan với các truyện thơ Nôm cùng thời, xứng đáng có được vị trí

trong dòng chảy văn học trung đại Việt Nam.

1.2. Truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính

Quan Âm Thị Kính quả là một tác phẩm có sức sống lâu bền và sự ảnh

hưởng mạnh mẽ trong nền văn hóa, văn học dân tộc. Đã mấy trăm năm trôi qua kể

từ khi tác phẩm ra đời và được lưu truyền, từ giới nghiên cứu phê bình đến các độc

giả bình dân vẫn không thôi bàn bạc về nó. Các vấn đề được nói đến là: tác giả của

truyện Nôm Quan Âm Thị Kính là ai? Có những dị bản nào và đâu là văn bản gốc?

Hình tượng và cốt truyện Quan Âm Thị Kính tồn tại dưới những loại hình, thể loại

văn bản nào…

29

1.2.1. Vấn đề tác giả Các nhà nghiên cứu cho rằng đa số truyện thơ Nôm tôn giáo có xu hướng

khuyết danh hóa. Khuyết danh vì nhiều lí do, có cả vấn đề lịch sử, vấn đề thư tịch,

không loại trừ cả lí do quan niệm của tác giả. Theo Nguyễn Văn Sâm (2015), “đối

với một nhà sư, sự vô danh trong việc trước tác còn quan trọng hơn vì mang ý

nghĩa triết lí về kiếp nhân sinh không trường tồn, chỉ là một mắt xích trong chuỗi

thời gian thường tồn của cái chân linh mỗi người”, sở dĩ tác giả gạt bỏ tên mình ra

khỏi tác phẩm vì coi cái tên của mình vốn không quan trọng, nhất là khi tác giả ấy

lại là một người tu hành. Tác giả của truyện thơ Quan Âm Thị Kính đến nay vẫn là

một ẩn số, lâu nay vẫn được xem là truyện khuyết danh. Các văn bản Nôm cổ

truyện Quan Âm Thị Kính không đề tên tác giả (có bản ghi “Vô danh thị”), không

có lời dẫn. Bản in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên năm 1911 của Nguyễn Văn Vĩnh

cũng không ghi tên tác giả. Cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam của các tác giả

Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nguyễn Đổng Chi, Vũ Ngọc Phan năm 1958 đã

đặt Quan Âm Thị Kính vào loại tác phẩm khuyết danh và xếp ở thế kỉ XVIII (Dẫn

theo Phạm Đức Duật, 1996). Trong tình hình nghiên cứu văn học những năm 60

của thế kỉ XX, Thanh Lãng đặt câu hỏi: “Tác giả là ai? Là một nhà tôn giáo hay

một bậc sĩ phu? Cuốn truyện này ra đời vào thời nào? Chưa ai khảo cứu được cho

đích đáng. Có lẽ tác giả nó đã sống vào những năm cuối thế kỉ XVIII hay đầu thế

kỉ XIX. Là một nhà thơ muốn dùng văn chương truyền bá đạo Phật, đi ngược lại

phong trào bài bác hay dửng dưng với đạo Phật của đầu thế kỉ XIX” (Thanh Lãng,

1967). Với nỗ lực tìm tòi, khảo cứu, bảo tồn các văn kiện Hán Nôm của giới nghiên

cứu, hiện nay tồn tại hai giả thuyết về tác giả của Quan Âm Thị Kính như sau:

Giả thuyết thứ nhất cho rằng tác giả Quan Âm Thị Kính là Đỗ Trọng Dư

(1786? - 1868?), một danh sĩ đời Gia Long. Trong cuốn Lược truyện các tác gia

Việt Nam do Trần Văn Giáp chủ biên xuất bản lần đầu năm 1962, Tạ Phong Châu,

Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Tường Phượng và Đỗ Thiện đã xác định tác giả Quan

Âm Thị Kính chính là: “Đỗ Trọng Dư, người làng Đại Mão, huyện Siêu Loại (sau

là phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh cũ, nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Không biết ông

sinh và mất năm nào. Năm 1819 (Gia Long thứ 18), ông đậu Hương cống cử (cử

30

nhân), làm quan đến Tri huyện, rồi bị cách. Tác phẩm của ông còn lại có: Một áng

văn Nôm Quan Âm Thị Kính (theo gia phả họ Đỗ)”. Trong sách Huấn địch thập

điều xuất bản năm 1971, Đỗ Hữu Mục cũng nhận định Đỗ Trọng Dư - một trong

những nhân vật quan trọng của nhà Nguyễn, đậu thứ 20 trên 23 cử nhân trúng cách

khoa Kỷ Mão 1819, sau bị cách chức vĩnh viễn - chính là tác giả của Quan Âm Thị

Kính. Và gần đây, trong cuốn Đỗ Trọng Dư - con người và tác phẩm: Quan Âm

Thị Kính âm chất diễn Nôm (2008), tác giả Dương Xuân Thự trên cơ sở đối chiếu

gia phả dòng họ Đỗ ở Bắc Ninh và những nghiên cứu kĩ lưỡng của mình, đã một

lần nữa khẳng định Đỗ Trọng Dư chính là người đã diễn Nôm tích truyện này đầu

tiên. Gia phả họ Đỗ ở Bắc Ninh viết:

Tiên quân nhanh nhẹn sáng suốt, có tài lạ thường, làm thơ không nặn nọt,

mở miệng thành vần, văn chương có nhiều kì thú (…). Ngoài 80 tuổi vẫn

không lúc nào ngồi rỗi, không dừng giấy bút… Lúc bình sinh trước thuật

rất nhiều, nhưng thất lạc gần hết, chỉ còn bộ Tứ tự sử lược, bộ Nam phong

giải trào, bộ Quan Âm Thị Kính, bộ Âm chất giải âm…”

(Dương Xuân Thự, 2008).

Sau này, khi Đỗ Trọng Dư mất đi, con trai là cử nhân Đỗ Trọng Vĩ đã chép

lại tác phẩm này (1876). Cuộc đời nhiều thăng trầm cùng những biến cố của thời

cuộc loạn li đã được ông giãi bày trong các trước tác: “Đỗ Trọng Dư đã gửi nỗi

niềm tâm sự vu oan vào tác phẩm của ông: Quan Âm Thị Kính” (Dương Xuân Thự,

2008). Ngoài Quan Âm Thị Kính, ông còn viết cuốn Âm chất diễn Nôm, Hành kinh

thi, Lạng hành thi tập, Tự tri ngâm…

Hướng nghiên cứu thứ hai cho rằng tác giả Quan Âm Thị Kính phải là

Nguyễn Cấp (? - ?), người thôn Thượng, xã Nguyên Khiết, huyện Thọ Xương, nay

thuộc Hà Nội. Đi đầu cho hướng nghiên cứu này là nhà Hán học kì cựu Hoa Bằng

Hoàng Thúc Trâm (1902 - 1977). Trong bài viết Quan Âm tân truyện, tức Quan

Âm Thị Kính xuất hiện từ bao giờ và ai là tác giả đăng trên Tạp chí văn học số 6

(năm 1970), ông đã khẳng định: Nguyễn Cấp là người đã viết Quan Âm tân truyện.

Sau này khi in ra chữ quốc ngữ, người ta mới đổi tên thành Quan Âm Thị Kính

(Dẫn theo Dương Mai Oanh, 2012). Sách Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực

31

cũng nhắc đến chuyện Thiên Trường Tri phủ Nguyễn Cấp vì dính líu kiện tụng mà

phải ẩn dật khắp trong Nam ngoài Bắc. Sau nhờ Tham tán xứ Lạng Giang là

Nguyễn Công Trứ chở che, cho ẩn náu nơi núi rừng, ông gọt tóc sống đời tu hành

tại đây, cuối đời, ông viết Quan Âm tân truyện để giãi bày lòng mình. Sách viết:

“Cấp cùng Đỗ Trọng Dư xã Đại Mão, chơi thân với nhau, Cấp có làm Quan Âm

tân truyện, để tỏ tình trọng, lại làm bài biện luận về việc cắt tóc, cho Dư vặn hỏi

(làm đối thoại)” (Phan Thúc Trực, 2009). Ngoài Quan Âm tân truyện, Nguyễn Cấp

còn viết Tam tự kinh quốc âm ca và Lý tưởng truyện…Tương truyền, Nguyễn Cấp

đã dựa vào chùa Bổ Đà để hư cấu ngôi chùa Vân Tự trong truyện, nơi Thị Kính tu

hành. Theo đó, có thể suy luận rằng, trong nhà Đỗ Trọng Dư cũng có văn bản Quan

Âm tân truyện, nên con cháu tưởng rằng tác phẩm này do Đỗ Trọng Dư viết.

Những giả thuyết trên đây đều có cơ sở khoa học, song chưa có giả thuyết

nào đưa ra được bằng chứng xác đáng về tác giả của truyện. Nguyễn Huệ Chi nhận

định: “Chưa rõ hai giả thuyết trên, thuyết nào gần chân lý hơn. Cũng có thể cả hai

người, Nguyễn Cấp và Đỗ Trọng Dư đều có liên quan đến việc cho ra đời tác phẩm

Quan Âm tân truyện mà một người đóng vai trò khởi đầu và một người góp phần

hoàn chỉnh…” (Đỗ Đức Hiểu và cộng sự, 2004). Điều đáng lưu ý là bản in sớm

nhất Quan Âm chính văn tân truyện hiện phát hiện được là bản chữ Nôm do Thịnh

Văn Đường ấn hành năm Mậu Thìn 1868, như vậy khó có thể khẳng định rằng Đỗ

Trọng Dư là người diễn ca đầu tiên được, vì bản của Đỗ Trọng Dư đến năm 1876

mới được in ra giấy.

1.2.2. Vấn đề văn bản

Vấn đề văn bản truyện Quan Âm Thị Kính cũng được giới nghiên cứu quan

tâm, bởi hiện nay tồn tại nhiều dị bản, kể cả các văn bản Nôm cũng có nhiều:

Truyện Quan Âm Thị Kính bản in năm 1868 mang tiêu đề là Quán Âm Chú

Giải Tân Truyện, bằng chữ Nôm. Bản này gồm 788 câu thơ lục bát và một lá thư

của tiểu Kính Tâm gửi cho cha mẹ được viết theo lối văn biền ngẫu.

Bộ Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Hà Nội, 1993, quyển 2,

số thứ tự 2776 nhắc đến 9 bản in (Trần Nghĩa, 1993). Trong đó 4 bản đang được

lưu giữ ở Viện nghiên cứu Hán Nôm là: AB.48: Quan Âm Tống Tử Bản hạnh,

32

Quán Văn Đường, in năm Thành Thái Giáp Ngọ 1884, 56 trang, 17x12.5cm;

AB.638: Quan Âm chính văn tân truyện, Phúc Yên (An) hiệu, in năm Khải Định

thứ 4 (1919), 42 trang, 19x23cm, có chữ Hán; AB.639: Quan Âm tống tử bản hạnh,

62 trang, các trang 12, 18 và 20 đã bị mất, được chép lại, 19 x 13.5cm; AB.219:

Quan Âm chú giải tân truyện, Thịnh Văn Đường in năm Tự Đức Mậu Thìn 1868,

54 trang, 17 x 12.5cm, có chữ Hán; 5 bản hiện lưu giữ ở trường Sinh ngữ Đông

phương Pháp. Bản in Quan Âm chú giải tân truyện (còn gọi là Quan Âm chính văn

tân truyện) do Thịnh Văn Đường in năm Tự Đức Mậu Thìn 1868 là bản quan trọng

nhất, được dùng để phiên âm ra chữ quốc ngữ nhiều lần.

Trong bảng liệt kê các văn bản Nôm dùng trong Tự điển – Việt Nam từ điển:

mục 54 ghi: Bản in Quan Âm Diễn ca toàn truyện, xuất xứ: Bửu Hoa Các tàng bản,

Bính Thân 1896.

Bản in đầu tiên bằng chữ quốc ngữ do Nguyễn Văn Vĩnh ấn hành năm 1911.

Năm 1929, Tân Dân thư quán (Hà Nội) xuất bản Quan Âm Thị Kính truyện

dẫn giải, bao gồm 30 đoạn nhỏ, do tác giả Đinh Xuân Hội biên tập.

Năm 1943, Thiều Chửu soạn cuốn Giải thích truyện Quán Âm Thị Kính, tác

giả chủ yếu dùng triết lí Phật học để giải thích nội dung và câu chữ trong truyện.

Đây là một công trình quan trọng, đã được tái bản nhiều lần và được nhiều người

dùng như là tư liệu đáng tin cậy để khảo cứu.

Văn bản do Dương Quảng Hàm giới thiệu tại lần xuất bản duy nhất năm

1961 (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội) gồm 786 câu lục bát. Trong cuốn Việt Nam

thi văn hợp tuyển (tái bản nhiều lần), Dương Quảng Hàm một lần nữa giới thiệu

lược trích Quan Âm Thị Kính và khẳng định tác phẩm có 786 câu lục bát, chia 5

hồi.

Nhà xuất bản Tân Việt năm 1953 đã in Quán Âm Thị Kính, bản do Thi

Nham Đinh Gia Thuyết đính chính và chú thích. Năm 1996, nhà xuất bản Đồng

Tháp tái bản cuốn này.

Bản của Tâm Minh Ngô Tằng Giao, do Diệu Phương xuất bản năm 2008,

soạn giả đã dựa vào các văn bản xưa, nhất là bản của cụ Thiều Chửu, để kể lại câu

33

chuyện bằng 1226 câu lục bát, thay thế những điển tích, Hán tự khó hiểu bằng

những lời lẽ bình dị giúp quần chúng dễ hiểu hơn…

Cũng theo Nguyễn Huệ Chi (2004), trong quá trình lưu truyền, người ta đã

tự ý sửa lại hoặc thêm thắt. Đó là một phần lí do tác phẩm có nhiều dị bản. Thậm

chí có bản viết mới hoàn toàn như Truyện Thị Kính lưu hành ở vùng Nghệ Tĩnh.

Các bản in Quan Âm Thị Kính cơ bản giống nhau về nội dung, cốt truyện, hệ thống

nhân vật. Song về từ ngữ có đôi chỗ khác nhau, có thể do phương ngữ vùng miền,

cách phiên âm tiếng Nôm, hoặc các từ ngữ có khuôn vần giống nhau (như tu hành

- tu thành, làm - lắm), trong quá trình lưu truyền (có cả truyền miệng) sinh ra nhiều

dị bản. Chỉ cần đem đối chiếu 3 câu mở đầu ta cũng thấy được sự khác nhau đó:

Bản của Thiều Chửu (tái bản năm 2003) ghi:

Nhân sinh thành Phật dễ đâu

Tu hành cứu khổ rồi sau mới thành

Ai hay một dạ làm lành

(Câu 1 - 3)

Bản của Đinh Gia Thuyết (1996) lại ghi:

Nhân sinh thành Phật dễ đâu

Tu hành có khổ rồi sau mới thành

Ai hay vững dạ làm lành

(Câu 1 - 3)

Bản Quan Âm chính văn tân truyện do Phúc An hiệu tàng bản, năm Khải

Định thứ 4 (1919) ghi là: Ai hay bền dạ làm lành. Câu 144, bản của Thiều Chửu

(2003) và Đinh Gia Thuyết (1996) cùng ghi: “Rằng: từ gảy khúc loan hoàng đến

nay”, bản của Dương Quảng Hàm (1968) lại ghi: “Rằng: từ gảy khúc phượng

hoàng đến nay”.

Ngay trong văn bản của cùng một tác giả cũng có sự khác nhau giữa các

lần xuất bản. Ta hãy đối chiếu bản của Thiều Chửu, bản in năm 2003, câu thứ 3

ghi: Ai hay một dạ làm lành, bản in năm 2007 lại ghi: Ai hay một dại làm lành;

câu số 76, bản in năm 2003 ghi: Năm canh thức giấc tấm lòng cảm thương, bản in

năm 2007 lại ghi: Năm canh thức nhắc tấm lòng cảm thương. Bản in do Nhà xuất

34

bản văn hóa thông tin, 2003, đã sửa lại nhan đề là Quan Âm Thị Kính (ban biên tập

lí giải rằng sửa như vậy cho hợp với cách dùng từ hiện nay (Thiều Chửu, 2003).

Còn cuốn do Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007 vẫn ghi là Quán Âm Thị Kính như

nguyên văn của Thiều Chửu trong lần đầu ra mắt năm 1943.

1.2.3. Quan Âm Thị Kính trong các loại hình nghệ thuật khác

Truyện cổ tích Quan Âm Thị Kính: Không rõ truyện cổ tích có trước hay

truyện thơ Nôm Quan âm Thị Kính có trước. Chỉ biết rằng truyện cổ tích này rất

phổ biến trong dân gian, được Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, biên soạn và đưa vào

bộ Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (tập 2), xuất bản lần đầu năm 1957. Truyện

được xếp vào mục: Tình bạn, tình yêu, nghĩa vụ. Ở phần chú thích, Nguyễn Đổng

Chi cho biết ông đã dựa vào bản Quan Âm chính văn tân truyện (Nôm) bản in Phúc

An (1919). Bởi vậy, tình tiết trong truyện cổ tích do Nguyễn Đổng Chi kể cơ bản

bảo lưu truyện Nôm. Tuy nhiên, hai văn bản có sự khác nhau ở phần kết: trong

truyện cổ tích do Nguyễn Đổng Chi kể không có chi tiết ông bà họ Mãng và đứa

bé được lên toà sen, hay chi tiết Thiện Sĩ biến thành con chim vẹt đậu hầu bên

cạnh. Đồng thời, trong phần Khảo dị truyện Quan âm Thị Kính, Nguyễn Đổng Chi

có đề cập đến 2 truyện khác: “Ở Nghệ An có 2 truyện có tình tiết gần với truyện

Quan Âm Thị Kính: Sự tích cây chay…; Đứa con của thần” (Nguyễn Đổng Chi,

2000). Ông cũng cho rằng Phật thoại Bà chúa Ba hay Quan Âm Nam Hải là các dị

bản của truyện cổ tích Quan Âm Thị Kính.

Vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính: Các nhà nghiên cứu cũng chưa xác định

được rõ truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính có trước hay vở chèo cổ này có trước.

Theo ý kiến của Nguyễn Huệ Chi (2004) thì vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính là sự

phóng tác theo truyện Nôm cùng tên. Chưa rõ thời điểm ra đời và tác giả của tích

chèo trên, chỉ biết rằng nó đã được biết đến sâu rộng trong quần chúng, đặc biệt là

các địa phương Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ - quê hương của sân khấu chèo. Một số

bản in tiêu biểu như Chèo cổ Quan Âm Thị Kính do Trần Huyền Trân sưu tầm cải

biên, nhà xuất bản phổ thông phát hành năm 1957, hay gần đây là vở chèo cổ do

Hà Văn Cầu sưu tầm và chú thích trong cuốn Kịch bản chèo, tập I. Tác giả cho

biết vở chèo Quan Âm Thị Kính là kịch bản do nghệ nhân An Văn Mược và Phạm

35

Hồng Lô thuộc chiếng chèo Ninh Bình đọc và chép lại vào năm 1959. Vở chèo

Quan Âm Thị Kính do Vũ Khắc Khoan giới thiệu, nhà xuất bản Đào Tấn in năm

1966 cũng là bản được nhiều người quan tâm, với sự góp sức của nhiều nghệ sĩ

ngành chèo.

Vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính nhìn chung vẫn giữ được cốt truyện, hệ

thống nhân vật, tinh thần Phật giáo Đại thừa vẫn được tôn trọng như trong truyện

Nôm. Màn giáo đầu có đoạn:

Lòng thành thắp một tuần nhang

Khấn cùng chư Phật mười phương độ trì

Chữ rằng: thiện giả thiện tùy

Ác giả ác báo vậy thì không sai

(Trần Huyền Trân, 1957)

Về cơ bản là giống nhau, song giữa truyện thơ Quan Âm Thị Kính và vở

chèo cùng tên vẫn có nhiều điểm khác. Yếu tố “đời” trong vở chèo đậm đặc hơn,

bức tranh đời sống nông thôn, văn hóa làng xã có điều kiện thể hiện rõ nét hơn qua

hình thức diễn xướng của nghệ thuật chèo. Đồng thời, các điển tích điển cố, thi

liệu Hán học cũng theo đó giảm đi đáng kể cho phù hợp với công chúng. Nhiều

đoạn, vốn chỉ là ý phụ trong truyện thơ Nôm, nay được tác giả sân khấu phát triển,

trở thành những màn chính, thậm chí, màn đặc sắc của vở chèo, như các màn: Thị

Màu lên chùa, Xã trưởng mẹ Đốp, Thị Màu đùa anh Nô… đã được nhiều người

thích thú, thậm chí thuộc lòng lời thoại. Những nhân vật vốn là phụ trong truyện

thơ như Thị Màu, anh Nô, phú ông… lại được xây dựng thành những nhân vật ghi

dấu ấn đậm nét, đặc biệt là nhân vật Thị Màu. Vở chèo được nhiều thế hệ dàn dựng

và được công chúng tiếp nhận nồng nhiệt. Ngày nay khi nhắc đến sân khấu chèo

truyền thống (chèo cổ, chèo sân đình), người ta không thể không nhắc tới Quan

Âm Thị Kính, bên cạnh những vở kinh điển khác như: Kim Nham, Lưu Bình -

Dương Lễ, Tôn Mạnh - Tôn Trọng… Đánh giá về vở chèo, giáo sư Nguyễn Huệ

Chi cho rằng: “Quan Âm Thị Kính là một sáng tạo quan trọng của nhà viết kịch

dân gian; nó chuyển một chủ đề có tính chất bi kịch sang một chủ đề có tính chất

hài kịch” (Bùi Thức Phước, 2015)

36

Gần đây, ở hải ngoại, Phạm Quân Phan - nhà soạn nhạc người Mỹ gốc Việt

- đã dựa trên truyện tích cũ, đặc biệt là vở chèo mà soạn ra vở Opera Chuyện bà

Thị Kính khá quy mô và chuyên nghiệp. Hiệp hội nghệ thuật và âm nhạc sáng tác

Việt Mĩ (VASCAM) tài trợ trình diễn tại nhiều nhà hát ở California (Hoa Kì).

Bên cạnh đó, truyện thơ Quan Âm Thị Kính còn được chuyển thể thành cải

lương, tuồng, truyện văn xuôi... Ngoài các tác phẩm chuyển thể thì truyện thơ Nôm

Quan Âm Thị Kính còn trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo cho nghệ sĩ trong nước

và hải ngoại. Một trong số đó là bài Thị Màu của nhà thơ Anh Ngọc lấy cảm hứng

từ nhân vật Thị Màu, được xếp vào “100 bài thơ hay nhất thế kỉ XX”. Trong đó có

những câu như:

Người mấy trăm năm làm rung chuyển những sân đình

Làm điên đảo những phông màn khép mở

Người táo bạo

Người không hề biết sợ

Người chưa từng lùi bước trước tình yêu

(Huỳnh Xuân Sơn, 2014)

Điều đó cho thấy sức sống bất diệt và sự ảnh hưởng sâu rộng của Quan Âm

Thị Kính trong lòng công chúng qua các thế hệ.

TIỂU KẾT

Có thể nói truyện thơ Nôm nói chung, kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo nói

riêng là một hiện tượng độc đáo trong tiến trình văn học viết Việt Nam. Đó là sự

kết tinh của vẻ đẹp ngôn ngữ dân tộc, tâm hồn dân tộc với những gì tinh túy nhất

của tôn giáo ngoại lai, khi nó ăn sâu vào văn hóa dân tộc, tiềm thức con người,

trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc: thế kỉ XVII - XIX. Các vấn

đề về đặc trưng thể loại, tên gọi, phân loại truyện thơ Nôm đã được quan tâm

nghiên cứu nhiều, với quy mô từ nhỏ đến lớn song đến nay vẫn chưa đi đến quan

điểm thống nhất. Riêng với kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo, một tiểu loại của truyện

thơ Nôm, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện. Trong văn

học trung đại Việt Nam, khái niệm “tôn giáo” trong truyện thơ Nôm tôn giáo được

hiểu là Phật giáo, và đa phần là truyện thơ Nôm về Phật giáo mà thôi. Truyện thơ

37

Nôm tôn giáo đã góp phần làm phong phú thêm nội dung của văn học trung đại,

đậm đà tinh thần dân tộc, thấm đẫm tinh thần từ bi hỷ xả của Phật giáo, hơn hết nó

hướng con người đến những điều thiện lành, nhân ái.

Truyện thơ Quan Âm Thị Kính là một truyện thơ Nôm tôn giáo điển hình.

Cho đến nay vấn đề tác giả của tác phẩm này vẫn chưa thống nhất, các nghiên cứu,

nhận định cũng mới chỉ là giả thuyết. Tác phẩm cũng tồn tại nhiều dị bản do các

yếu tố khách quan, chủ quan như trên đã phân tích. Mong rằng một ngày gần đây

chúng ta sẽ có lời giải thỏa đáng cho những ẩn số này. Bằng lòng với những gì

hiện có, ta thấy tác phẩm vẫn có một sức ảnh hưởng lớn lao, sâu rộng trong lòng

người tiếp nhận qua nhiều thế hệ, nhiều vùng không gian địa lý, không gian văn

hóa khác nhau. Nghiên cứu văn học trung đại là một việc làm đầy ý nghĩa, mang

đến cho chúng ta nhiều cảm xúc, song cũng đòi hỏi sự công phu và tâm huyết của

người làm nghiên cứu khoa học.

38

Chương 2

QUAN ÂM THỊ KÍNH - TỪ TƯ TƯỞNG TÔN GIÁO

ĐẾN TƯ TƯỞNG NHÂN ĐẠO

Tư tưởng ở đây là khái niệm thuộc phạm trù nội dung của tác phẩm văn

học. Tư tưởng là yếu tố quan trọng bậc nhất, là hạt nhân, là cốt lõi của tác phẩm.

Bất kì nhà văn nào khi sáng tác cũng phải truyền tải một hay một vài tư tưởng có

ý nghĩa. Và người tiếp nhận tác phẩm cũng phải trả lời cho được câu hỏi: tư tưởng

của tác phẩm ấy là gì? Tư tưởng ấy có gì mới so với các tác phẩm trước đó hoặc

cùng thời? Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tư tưởng tác phẩm văn học có thể hiểu

là “nhận thức, lí giải và thái độ đối với toàn bộ nội dung cụ thể sống động của tác

phẩm văn học, cũng như những vấn đề nhân sinh đặt ra ở trong đó” (Lê Bá Hán và

cộng sự, 1997). Tư tưởng của tác phẩm có thể được thể hiện trực tiếp qua các phát

ngôn của tác giả, ngôn ngữ của nhân vật, cũng có thể gián tiếp qua hình tượng, qua

sự xâu chuỗi các sự kiện, chi tiết, hình ảnh… Tư tưởng cũng như các yếu tố nội

sinh khác của tác phẩm văn học, chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội, thế giới

quan, ý thức hệ của nhà văn. Tư tưởng của tác phẩm không phụ thuộc vào độ dài,

quy mô mà chính là qua giá trị của nó. Có những tư tưởng lớn đôi khi lại chứa

đựng trong những lời văn lời thơ giản dị đến không ngờ. Một tác phẩm văn học có

giá trị là một tác phẩm chứa đựng trong nó những tư tưởng sâu sắc, mang sức chứa

lớn về nhân sinh, được thể hiện qua một hình thức nghệ thuật đặc sắc.

2.1. Tư tưởng tôn giáo

Như đã trình bày ở trên, nhóm truyện thơ Nôm tôn giáo chịu ảnh hưởng sâu

sắc, toàn diện của tư tưởng triết học Phật giáo. Đây là tư tưởng hướng con người

đến trực cảm, tâm linh, là tư tưởng triết học mang tính biện chứng, duy vật, khác

với tư tưởng duy tâm của các tôn giáo hữu thần khác, và cũng khác với tư tưởng

thiên về lí tính của Nho giáo. “Phật giáo với quan niệm cuộc đời là bể khổ, là bến

mê, với quy luật sinh lão bệnh tử nên tìm cách giải thoát con người ra khỏi cuộc

đời đầy khổ ải đắng cay ấy bằng tám con đường “bát chánh đạo”. Đó là con đường

tu hành - tu tâm dưỡng tính để đạt tới chân như, niết bàn, tức đạt đến Phật tính”

39

(Nguyễn Công Lý, 2016). Cũng như các tác phẩm văn học Phật giáo trên thế giới

(như Tây du kí của Ngô Thừa Ân, thơ Hai - kư của các nhà thơ Nhật Bản, Sakuntala

của Kalidasa…), các truyện thơ Nôm tôn giáo của Việt Nam cũng chuyên chở các

triết lí nhà Phật một cách dễ hiểu, gần gũi, thấm sâu thông qua các hình tượng văn

học được hư cấu, dưới hình thức dễ nhớ dễ đọc của thể thơ lục bát.

2.1.1. Tư tưởng luân hồi nghiệp báo

Luân hồi nghiệp báo là một khái niệm, là giáo lý cốt yếu của nhà Phật. Thiền

sư Thích Đức Thắng (2010) cho rằng: “Tất cả mọi sinh mệnh hữu tình sinh ra sống

còn và chết đi, chúng bị lệ thuộc vào nghiệp nhân và nghiệp quả để trở thành một

sinh mệnh hữu tình trong hiện tại”. Chữ Luân hồi trong tiếng Phạn gọi là Samsera,

trong đó luân (dịch nghĩa là cái bánh xe), hồi (dịch nghĩa là quay tròn). Sự sống và

cái chết, sinh tử tử sinh, kiếp người luân chuyển như vòng quay của bánh xe lăn,

vô hồi vô hạn, không có điểm dừng. Thuyết luân hồi là một trong những giáo lý

của đạo Bà la môn xưa và của Phật giáo sau này.

Trong quan niệm của nhân dân ta xưa, luân hồi được hiểu là con người ta

có kiếp trước kiếp sau, kiếp này là quả của kiếp trước và là nhân của kiếp sau. Khi

con người chết là chỉ mất đi phần xác, phần tàng (hồn) vẫn còn và đầu thai vào

một kiếp khác. Nguyễn Du nói: “Thác là thể phách còn là tinh anh” hay “Kiếp này

trả nợ chưa xong - Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau” chính là chịu ảnh hưởng

của thuyết luân hồi này. Nhiều truyện cổ tích Việt Nam cũng đã phản ánh sự ảnh

hưởng của thuyết luân hồi trong cảm quan của dân gian. Trong truyện cổ tích Tấm

Cám, Tấm đã hóa kiếp 4 lần, trải qua 5 kiếp (người, chim, cây xoan đào, khung

cửi, quả thị rồi lại trở lại làm người). Ca dao cũng có câu:

Ai ơi hãy ở cho lành

Kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau

Điều này chứng tỏ tư tưởng luân hồi đã in sâu trong tâm trí nhân dân như

một chân lí hiển nhiên, khách quan. Thuyết luân hồi mang giá trị nhân văn cao cả

bởi nó răn dạy con người hãy hướng đến kiếp sau mà ăn ở cho phải đạo ở ngay

kiếp này. Muốn kiếp sau hưởng phúc thì kiếp này hãy tu nhân tích đức cho dày:

Có tiền thì hậu mới hay

40

Có trồng cây đức mới dầy nên nhân

(Ca dao)

Tư tưởng nghiệp báo gắn chặt với luân hồi, cũng được hiểu là thuyết nhân

quả. Bởi theo Phật giáo, kiếp này là quả của kiếp trước và là nhân của kiếp sau.

Theo nghĩa từ điển, nghiệp báo có nghĩa như quả báo, nghĩa là “sự đáp lại điều

thiện hay điều ác cho thế hệ sau, tương ứng với điều đã làm ở kiếp trước, theo đạo

Phật” (Nguyễn Như Ý, 2005).

Nghiệp báo là một thuật ngữ trong tiếng Phạn cổ (dịch từ chữ Karma).

Trong đó nghiệp là nguồn gốc, là nguyên nhân dẫn tới báo, chúng tạo nên luật

nhân quả báo ứng, tuần hoàn liên tục suốt cõi luân hồi. Nghiệp bao gồm

những năng lực, hành động từ những suy nghĩ của con người, từ đó tạo ra lời nói

hay hành động chủ ý, chủ tâm, lặp lại nhiều lần thành thói quen. Nghiệp không

sớm thì muộn sẽ đưa đến những quả báo tương xứng trong hiện tại và mai sau.

Cho nên trong dân gian mới lưu truyền thành ngữ “gieo nhân nào gặp quả ấy”.

Cũng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết: “Đã mang lấy nghiệp vào thân – Thì

đừng trách lẫn trời gần trời xa” nhằm chỉ điều ấy.

Về tư tưởng nghiệp báo, Giáo sư Kalupahana trong cuốn Nhân quả, triết lí

trung tâm Phật giáo (2007) cho rằng: “Bản chất của mọi sự vật hiện tượng, theo

Phật giáo, không thể có mặt vô nhân, càng không thể là thụ tạo của một cái khác.

Tất cả là tập hợp của nhân (hetu) và duyên (pratyaya), tồn tại, phát triển và hoại

diệt để tạo thành cái khác bằng một chuỗi tương thuộc thuộc các nguyên nhân

(paccayakara)”. Nhân quả nghiệp báo là triết lí cốt lõi của đạo Phật. Phật dạy rằng:

“Ai thấy nhân quả thì thấy được pháp”.

Trong truyện Quan Âm Thị Kính, thuyết luân hồi được lặp lại nhiều lần.

Trong vòng tuần hoàn vũ trụ, mỗi sinh mệnh có hằng hà sa số kiếp. Đức Quan Âm

đã tu qua chín kiếp luân hồi, kiếp nào cũng giữ mình được trong sạch: “Tu trong

chín kiếp vừa qua – Bụi trần rũ sạch thói tà rửa không” (Câu 15 - 16). Vì một niệm

sai lầm mê muội, Phật tiếp tục thử lòng, và kiếp thứ mười, Thị Kính thác sinh vào

gia đình họ Mãng, làm phận nữ nhi, để tiếp tục thử thách, tiếp tục tu thành cho đến

kì chứng quả:

41

Trở sang kiếp khác vẹn mười

Thử cho đầy đoạ một đời xem sao

Cõi trần mượn cửa thác vào

Hoá sinh sinh hoá lẽ nào cho hay

(Câu 25 - 28)

Lúc Thị Kính biện bạch với gia đình chồng vì bị ngờ mưu giết chồng, nàng

cũng nói đến kiếp tái sinh:

Thác đi phỏng lại sinh hoàn

Thì đem lá phổi buồng gan giãi bày

(Câu 153 - 154)

Và lúc chia tay với chồng để trở về nhà cha mẹ, Thị Kính xót xa nghĩ đến

kiếp sau không biết có cùng chồng tái hợp hay không:

Vì đâu phút hợp phút ly

Kiếp nầy đã lỡ, chắc gì kiếp sau

(Câu 205 - 206)

Ở cuối truyện, khi Thiện Sĩ sụt sùi khóc thương vợ, anh ta những muốn Thị

Kính sẽ lại đầu thai để lại cùng nhau kết duyên vợ chồng, đền chút ân ái, chuộc lại

lỗi lầm mà mình đã gây ra cho vợ “Vì anh lỗi đạo cho nàng ngậm oan”. Về phần

mình, cho rằng thế gian là sầu não, Thiện Sĩ muốn chết đi để kiếp sau lại được gặp

Thị Kính:

Vi Cao lòng vẫn liền liền

Ngọc tiêu phỏng độ mấy niên tái hoàn (…)

Họa may gặp kiếp sau này

Vậy thì xin hóa làm cây Hàn Bằng

(Câu 745 - 749)

Nói đến thuyết luân hồi, không thể không liên hệ với truyện Quan Âm Nam

Hải. Trong tiền kiếp, Diệu Thiện vốn là nam nhi, và hai người chị gái của nàng

cũng vậy. Vì cả ba người con trai nhà họ Thi đều khuyên cha không nên giúp kẻ

gian Vương Cật, nên bị Ngọc Hoàng tống giam, sau được đầu thai làm ba con gái

Diệu Trang Vương:

42

Chuyển trai làm gái cả ba

Tâm hồn, cự phách đợi mà thác sinh

(Bùi Thức Phước, 2015)

Trong đó, chúa Ba là hậu sinh của cậu con trai út nhà họ Thi vốn “nhân đức

thuần hòa, hơn cả hai anh”. Bởi thế mà chúa Ba cũng hơn hẳn hai chị cả về dung

nhan lẫn cốt cách tâm hồn:

Vẻ thanh trong ngọc trắng ngà

Trăng tròn nét mặt, núi xa dáng mày

Ngắm xem cốt cách thanh kỳ

Bụi trần chẳng có mảy may chút nào

(Bùi Thức Phước, 2015)

Dễ thấy motif tái sinh thành nữ của truyện Quan Âm Nam Hải giống với

truyện Quan Âm Thị Kính. Cả hai nữ nhân vật chính đều được luân hồi chuyển

kiếp từ nam nhi ở kiếp trước sang nữ nhi ở kiếp này, và cùng chịu đọa đày đau khổ

trước khi thuyền trần cập bến giác ngộ. Điều này có lẽ cũng là sự dụng ý của các

tác giả khi nó trùng khớp với xuất thân của ngài Quan Thế Âm Bồ Tát trong các

kinh điển Phật giáo. Theo kinh Bi Hoa thì ngài Quán Thế Âm (hay Quan Thế Âm)

vốn trước kia là thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Thái tử cùng vua cha phát tâm Bồ

Đề quyết chí tu hành, sau khi trọn vẹn công hạnh, Thái tử vãng sanh về miền Tây

phương cực lạc thành Bồ Tát hiệu là Quán Thế Âm. Khi du nhập sang các nước

phương Đông như Việt Nam, Trung Quốc, hình tượng Ngài chuyển hóa thành nữ

giới, để tượng trưng cho lòng bao dung, đức hi sinh, chịu đựng, và lòng thương

người vô bờ bến của người phụ nữ, Ngài là người mẹ hiền của chúng ta.

Các tích truyện về Mục Kiền Liên cũng thể hiện rõ thuyết luân hồi. Theo

đạo Phật, chúng ta không chỉ sống một lần trên đời này mà còn hóa thân vô lượng

kiếp trước đó và về sau. Như ngài Mục Liên, kiếp này sinh ở cửa hào phú nhưng

trong tiền kiếp sâu xa ngài từng là chàng ngư phủ, sống bằng nghề đánh bắt tôm

cá đem ra chợ bán. Trong tiền kiếp, Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất (bạn thân ở

kiếp này, cả hai cùng rời nhà ra đi tìm thầy học đạo và đều tu thành chính quả)

cũng là bạn của nhau, có kiếp Mục Liên làm rùa, Xá Lợi Phất làm rắn; có kiếp Xá

43

Lợi Phất làm khỉ, Mục Kiền Liên làm voi, hoặc cả hai làm chim thiên nga (Lê Kỉnh

Tâm, 2008). Trong truyện thơ Mục Liên bản hạnh (Hoàng Xuân Hãn phiên âm và

chú thích) cũng nói về việc luân hồi chuyển kiếp của bà Thanh Đề, mẹ của Mục

Liên, người bị đày vào ngục A- tì vì có ác tâm lúc sinh thời. Ngay cả khi chịu tù

tội, bà vẫn có dã tâm vứt chuối xuống đất, lấy chân dày cho nát để các tù nhân

khác không thể lượm ăn. Chịu nhiều đọa đày vì những nghiệp chướng mình gây

ra, bà phải luân hồi làm kiếp chó “Đọa thân làm chó, chực trường ba năm”. Nhờ

công tu hành của Mục Liên và sự cứu giúp của các vị chư tăng, ba năm sau bà mới

được tái sinh lại kiếp người. Chưa dừng lại ở đó, lẽ hóa sinh, luân hồi còn ứng với

nhiều người, nhiều đời khác nhau, khi mà:

Nhờ ơn có Mục Liên thầy

Các các môn ngục đều rày hóa tiên

Ai ai hưởng lộc tự nhiên

Thất tổ cửu huyền đều được hóa sinh

(Hoàng Xuân Hãn, 1994)

Bên cạnh tư tưởng luân hồi, có thể nói toàn bộ truyện đều toát lên tư tưởng

nghiệp báo. Hầu hết các nhân vật trong truyện Quan Âm Thị Kính đều chịu sự chi

phối của tư tưởng này. Thị Kính một đời nhẫn nhục chịu đựng, mắc tiếng oan

chồng chất. Sống trọn đạo làm con hiếu thảo, làm vợ đảm, làm dâu hiền, khi đi tu

thì một lòng trì giới. Nàng đã phát tâm cưu mang con người khác mà không quản

ngại miệng thế cười chê, như câu nói của Thị Kính với sư thầy:

Dầu xây chín đợt phù đồ

Không bằng làm phúc cứu cho một người

(Câu 619 - 620)

Câu nói này của Thị Kính có ảnh hưởng rõ rệt từ tư tưởng nhân nghĩa trong

dân gian: cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp, hay: cứu một mạng người

phúc đẳng hà sa. Để nuôi con Thị Màu, Thị Kính phải trải trăm ngàn khổ cực đắng

cay trong cảnh “tò vò mà nuôi con nhện”:

Rõ là nước lã mà lầm

Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào

44

Mẹ vò thì sữa khát khao

Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền

Nâng niu xiết nỗi truân chuyên

Nhai cơm mớm sữa để nên con người

Đến đâu ai cũng chê cười

“Tiểu kia tu có trót đời được đâu”

(Câu 625 - 632)

Thị Kính đã nhẫn nhục để gieo nghiệp thiện, chịu kham khổ đến héo úa tàn

tạ tấm thân mình:

Vừa mừng con đã sởn sơ

Ai ngờ tằm kéo hết tơ thì già

Gió vàng một chút thoảng qua

Lá ngô biến sắc cánh hoa ủ mầu

(Câu 649 - 652)

Cho nên, quả phúc đã đến ngay nhãn tiền: cuộc đời trôi dạt đơn côi nơi tam

quan lạnh vắng của nàng nay đã vui hơn vì có tiếng cười con trẻ “Những buồn, có

trẻ hóa ra đỡ buồn”. Và phép Phật nhiệm màu thay: “Con mày mà giống cha nuôi

- Hình dong, ý tứ khác nòi bản sinh”. Đứa trẻ lên ba giống tạc cha (mẹ) nuôi, đó

cũng là phần thưởng, là quả ngọt mà Phật ban cho Thị Kính, cho những hi sinh,

những gian lao mà nàng đã kinh qua. Cuối cùng, Thị Kính được giải oan, được tu

thành đắc đạo, trở thành Phật Quan Âm cứu độ chúng sinh.

Nhưng trên con đường tu hành của mình, Thị Kính không phải chỉ gieo

nghiệp thiện, mà có lúc cũng mắc sai lầm, phạm vào những điều cấm kị của Phật.

Đó là khi nàng - trong thân phận nam nhi ở kiếp trước - đã yếu lòng trước giai

nhân mà buông lời trăng hoa “Có chăng kiếp khác gọi là…”. Quả của nghiệp này

lập tức báo ứng khi Thị Kính phải bị thử thách thêm một kiếp nữa. Đủ thấy rằng

trong các nghiệp mà con người tự tạo ra cho mình, thì khẩu nghiệp là đi đầu và

thật đáng sợ làm sao. Đó còn là khi vào chùa “giả hình nam tử”, nàng đã nói dối

sư trụ trì về thân phận, như vậy là một lần nữa phạm vào giới cấm, lại tiếp tục gieo

nghiệp cho mình, cho dù nguồn cơn của việc nói dối ấy là đi tu chăng nữa. Thiều

45

Chửu (2007) cho rằng: “nếu một niềm mê lầm, thì tâm xằng nổi lên bời bời. Mỗi

một niềm xằng nổi lên, tức là ươm sẵn một nhân xấu; một cái nhân xấu sẽ kết ra

trăm ngàn quả khổ… Nhân quả đã đúng như thế, lại sinh sôi như thế, cho nen

người tu cần phải luôn luôn ghi nhớ giữ một chính niệm, mới mong thoát khỏi trầm

luân được”. Qua câu chuyện Thị Kính, đủ để ta thấy rằng công phu tu hành không

gì bằng giữ tâm cho vững, không động, giữ lời cho chính.

Đối lập với Thị Kính, Thị Màu là người tạo nghiệp nặng nề cho mình và

cho người khác: lẳng lơ buông lời hoa nguyệt với chú tiểu ngay cửa chùa mới thật

là ghê gớm, lại dâm ô với đứa thương đầu để đến nỗi anh ta phải bỏ đi biệt xứ (tà

dâm theo quan điểm nhà Phật là điều cấm kị, là tính cách xấu của con người, phạm

vào ngũ giới), sau cùng là gieo tiếng oan tày trời cho Thị Kính, không chỉ vu khống

tiểu Kính Tâm tội dâm ô với mình, mà còn “mặt dàn mày dày” bồng con thơ đến

bỏ mặc ở tam quan, nhằm “ăn vạ”. Kết cục Thị Màu phải để tang Thị Kính “Thị

Màu cũng bạn má hồng - Để tang mà khóc bằng chồng dở dang” (Câu 703 - 704),

về sau phải tự vẫn mà chết, bị đày xuống địa ngục, chìm đắm trong bể khổ trầm

luân. Xây dựng nhân vật Thị Màu, đứng trên lập trường đạo đức phong kiến, tác

giả muốn khuyên con người phải tránh xa điều ác “kỉ sở bất dục vật thi ư nhân”

tức là những gì mình không muốn cũng đừng gây ra cho người khác. Còn trên tinh

thần Phật giáo, tác giả cũng muốn chúng sinh hãy đừng gieo nghiệp ác, nghiệp xấu

cho người và cho mình, mà nên “ẩn ác hướng thiện”. Cùng với Thị Màu, nhà phú

ông, kẻ đã bỏ rơi đứa cháu máu mủ, phải nộp khoán gấp hai, chịu mọi chi phí ma

chay, chuộc mọi lỗi lầm đã gây ra với Thị Kính.

Nghiệp báo của Thiện Sĩ là nghiệp báo giành cho người chồng nhu nhược,

không biết đứng ra bảo vệ vợ, chỉ nghe theo lời mẹ, có học hành mà không có

chính kiến, không phân biệt phải trái, thì chẳng khác gì con vẹt hót theo lời người

khác, nên khi chết đi hoá thành con vẹt:

Kìa như Thiện Sĩ lờ đờ

Cho làm chim vẹt đứng nhờ một bên

(Câu 779 - 780)

46

Chữ “lờ đờ” tượng hình quả đã miêu tả không thể chính xác hơn chân dung,

thần thái nhân vật. Anh chàng Thiện Sĩ có thể so sánh với Kim Nham trong vở

chèo Kim Nham. Đó là kiểu Nho sinh dài lưng tốn vải, khác hẳn với các nhân vật

Nho sinh trong các truyện thơ Nôm khác như Kim Trọng, Phạm Công, Phạm

Tải…(gắn với hình tượng “phong lưu tài mạo”, phong nhã hào hoa, đức độ…).

Thiện Sĩ là một loại người như cái bóng mờ nhạt tồn tại giữa cuộc đời. Và sự tái

sinh của Thiện Sĩ thành con vẹt phản ánh đúng bản chất hạng người này.

Các nhân vật còn lại như ông bà họ Mãng, đứa bé con Thị Màu…đều nhận

được quả phúc vẹn toàn xứng đáng với những gì mình tạo ra: “Siêu thăng thoát cả

một nhà – Từ đây phúc đẳng hà sa vô cùng” (Câu 783 - 784).

Câu cuối của truyện thơ hô ứng với phần đầu, nói lên cái cốt lõi của tư tưởng

luân hồi nghiệp báo, cũng là triết lí nhẹ nhàng mà Phật muốn nhuần thấm tới chúng

sinh:

Thực là lành lại làm lành

Nam mô di Phật tu hành thời coi

(Câu 787 - 788)

Liên hệ với các truyện thơ Nôm khác, ta thấy Mục Liên Thanh Đề là minh

chứng rõ nhất cho tư tưởng nhân quả nghiệp báo. Truyện kể rằng Mục Liên dùng

phép thần thông, xin đức Phật cứu muôn người khỏi phải chịu khổ hình, nhưng

ngài vẫn không cứu được mẹ mình, vì ác nghiệp bà tạo ra quá lớn. Sinh thời:

Thanh Đề nết ở đa đoan

Thấy người đói khát cơ hàn chẳng thương

Sát hại lục súc ngưu dương

Tổn tha vật mệnh, phỉ thường bán tăng

Cho nên quả báo chẳng hằng

“Nhị tác nhị thụ” họa chưng u đồ

(Hoàng Xuân Hãn, 1994)

Khi bị đày vào ngục Ngạ quỷ chịu những cực hình tra tấn, vẫn tiếp tục gây

nghiệp, cho nên phải bị đày làm kiếp chó ba năm, muôn phần đau khổ đọa đày,

thật là “Vì chưng quả báo chẳng sai đâu là”. Ngược lại, Mục Liên, một người con

47

chí hiếu, một Phật tử chí thiện, một lòng hướng về Phật, lại kiên trì ngày ngày tụng

kinh Vu Lan bồn, làm lễ siêu độ, cúng dường tam bảo. Nhờ đó ông cứu được mẹ,

lại cứu được mọi người thoát khỏi ngục tối tăm. Về sau ông trở thành một trong

những đệ tử thần thông bậc nhất của Đức Phật. Chuyến đi của Mục Liên xuống địa

ngục thăm mẹ hay giấc mơ của công chúa Diệu Thiện xuống Âm ty có thể xem là

những chuyến đi thực chứng về luật nghiệp báo, như ý thơ trong truyện Quan Âm

Nam Hải: “Cơ thâm thì tội cũng thâm - Ác hữu ác báo chẳng nhầm chút nao” (Bùi

Thức Phước, 2015). Người Việt Nam có câu “Trời Phật có mắt” nhằm để chỉ sự

công bằng của luật nhân quả. Ai ai cũng sẽ được nhận quả báo mà mình tạo ra bởi

nghiệp, dù ở kiếp này hay đợi kiếp sau.

2.1.2. Tư tưởng từ bi hỷ xả

Nếu như tư tưởng luân hồi nghiệp báo răn dạy mỗi người hiểu được rằng

những gì ta nhận được trong tương lai sẽ là kết quả của những gì ta làm ở kiếp này,

thì tư tưởng từ bi hỉ xả lại khuyên con người tu tâm dưỡng tính ở hiện tại để có

được quả ngọt trong tương lai. Đức Phật khuyên dạy chúng sinh hãy chăm tu

tập “Tứ Vô Lượng Tâm”, đó là các tâm “Từ, Bi, Hỷ, Xả”. Từ vô lượng: “Từ” là

lòng nhân ái vị tha, bao dung, thương yêu muôn người muôn vật. Tâm từ là

lòng mong ước cho tất cả chúng sinh đều được sống yên vui, từ đó mà bản thân

mình cũng tràn đầy hạnh phúc. Tâm từ hay từ tâm chính là Phật tính, nuôi dưỡng

tâm từ, lòng từ bi giúp ta gần hơn với Phật. Tâm từ đối chọi và diệt trừ lòng sân

hận. Bi vô lượng: “bi” trong tứ tâm vô lượng chính là lòng thương xót cảm thông

vô hạn, cứu khổ cứu nạn cho hết thảy chúng sinh, giúp họ bớt đi những khổ đau

mất mát buồn tủi. Người có tâm bi là người có khả năng rung cảm sâu sắc trước

sự đau khổ của tha nhân và luôn sẵn lòng giúp người khác thoát khỏi cảnh khổ.

Tâm bi đối lập với thói hung bạo, ganh ghét. Hỷ vô lượng: “Hỷ” là hoan hỉ, là niềm

vui, nhưng không chỉ là niềm vui ích kỉ nhỏ nhen của bản thân mà là vui và chúc

mừng cho hạnh phúc, thành công của chúng sinh. Người có tâm hỷ là người luôn

quên đi đời sống cá nhân để vui cùng, vui theo niềm vui của người khác. Trái với

hỷ là ưu phiền, là đố kị. Xả vô lượng: “Xả” là lòng buông bỏ không cố chấp vào

bất cứ điều gì, luôn bình thản ung dung trước hoàn cảnh, không phân biệt kẻ oán

48

người thân. Tâm xả giúp ta luôn thanh thản, sống một cách an yên trước mọi đổi

thay, mọi biến động của thời cuộc, của lòng người.

Tóm lại, nói tới từ bi hỷ xả là nói tới lòng nhân ái, tình thương yêu của con

người giành cho vạn vật. Đạo Phật được biết đến là đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu

có đạo Phật thì ở đó có tình thương. Tư tưởng đó gặp gỡ với tinh thần nhân đạo,

vị tha, “thương người như thể thương thân” bao đời nay của nhân dân ta. Nó là tư

tưởng cao đẹp của Phật giáo, đó cũng chính là lí do để Phật giáo thu hút được rất

nhiều tín đồ trên thế giới. Nhiều người không theo tôn giáo nào nhưng lại rất có

cảm tình với Phật giáo, rất năng đi chùa, bởi họ tìm thấy ở đó những điều làm họ

thanh thản, yên bình, bởi Phật giáo đã khơi dậy trong tâm hồn họ bản tính thiện

lành, từ bi bác ái.

Từ bi hỷ xả là tư tưởng cốt lõi của đạo Phật, đã ăn sâu và phổ biến trong hết

thảy các chặng đường văn học Việt Nam, từ văn học dân gian tới văn học viết.

Trong truyện cổ tích, nhân vật Bụt thường là biểu tượng của đức từ bi hỷ xả, bởi

vậy người ta thường nói “hiền như Bụt”. Trong sự hình dung của nhân dân, Bụt là

hiện thân của đấng quyền năng siêu phàm có thể lay chuyển mọi tình thế, biến hóa

muôn hình vạn trạng, nhưng lại vô cùng bình dị gần gũi, nhân từ độ lượng. Bụt

luôn có mặt ở khắp nơi, xuất hiện đúng lúc để cứu giúp người đau khổ, thiệt thòi.

Bụt hiện lên giúp Tấm mỗi khi Tấm sụt sùi khóc và giúp Tấm trở thành hoàng hậu,

Bụt giúp anh Khoai vượt qua thử thách của phú ông để cưới được vợ đẹp… Tục

ngữ lại có câu: “Một sự nhịn, chín sự lành” để khuyên con người nên mở rộng tứ

vô lượng tâm. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm thì gửi gắm triết lí nhàn dật qua

bài Nhàn chất chứa lòng từ bi hỷ xả: đó là xa lánh vòng lợi danh, chọn nơi “vắng

vẻ” làm một lão nông canh điền, vui với ruộng vườn:

Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Ngồi xem phú quý tựa chiêm bao

Nguyễn Trãi với cốt cách thanh cao của một vị đại trí, đại nhân, đại dũng

khi đã trải qua mọi thăng trầm biến cố trong cuộc đời, lại khuyên: “Nhẫn xong thì

mọi sự qua”… Nhẫn ở đây chính là tâm từ và tâm xả. Nhẫn để tự mình bình tâm

vượt qua mọi can qua, mọi đổi thay của tình đời, tình người.

49

Trong truyện Quan Âm Thị Kính, hai nhân vật thể hiện rõ nhất tứ tâm vô

lượng là Thị Kính và sư thầy. Với Thị Kính, hai lần bị mắc tiếng oan, nàng tự mình

kêu oan nhưng lực bất tòng tâm. Lần thứ nhất giữa gia đình Thiện Sĩ:

Há rằng có phụ tình đâu

Muôn trông xét đến tình đầu kẻo oan

(Câu 151 - 152)

Lần thứ hai, giữa dân làng, giữa “trần ai điên đảo”, nàng bị khép tội thông

dâm với Thị Màu, tiếng kêu oan của người con gái nhỏ bé chẳng thấu được trời

xanh hay chư Phật mười phương:

Mười phương Phật chín phương trời,

Chưa hay đến sự dưới đời oan gia?

Đuốc nào soi thấu lời vu

Bôi lòe đen trắng, lộn mù phải chăng

(Câu 533 - 536)

Thị Kính đã yên lặng chịu đựng với tất cả nhẫn nhục:

Sá thù chi đứa dâm ô

Nước tuỳ duyên rửa đi cho kẻo mà

Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hoà

Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu

(581 - 584)

“Nhẫn điều khó nhẫn” tức là chịu nhẫn nhục trước những điều tưởng như

không thể nhẫn được. Người tu hành muốn đắc đạo thì phải dụng công chịu nhiều

thử thách, như lửa thử vàng vậy. “Nhẫn nhục nhiệm hòa” chính là “nhịn nhục cho

được vui hòa. Nhẫn đến không thấy có sự kia là nhục, có mình là đã nhẫn được

nữa, thì mới thực là vô sinh nhẫn, mới là chân tu” (Thiều Chửu, 2007). Ở đây, nhẫn

không phải là thái độ yếm thế, buông xuôi hay cam chịu một cách cực đoan trước

hoàn cảnh, mà ngược lại, nó biểu hiện lòng bao dung và vị tha đối với kẻ gây tai

hoạ cho mình hay đúng hơn là biểu hiện của lòng từ bi hỷ xả vô tận. Với hạnh nhẫn

nhục bao la ấy, Thị Kính đã trở thành biểu tượng của đức đại từ đại bi của Phật

50

giáo. Câu tụng niệm của chúng sinh khi niệm đến danh Ngài thường là: “Nam mô

đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát”.

Tâm từ bi hỷ xả của Kính Tâm được thể hiện cảm động nhất, lay động lòng

trắc ẩn của người đọc nhiều thế hệ nhất ở hành động nuôi con Thị Màu, bỏ qua lời

đàm tiếu của dân làng, sẵn sàng “đem giọt máu tình thâm hòa vào”. Hành động ấy

của nàng trước hết được sư thầy khen ngợi:

Sư nghe thưa thốt mấy điều

Khen rằng: “cũng có ít nhiều từ tâm”

(Câu 623 - 624)

Ai cũng biết rằng, chú tiểu giả trai kia nuôi con Thị Màu suốt ba năm lao

khổ như thế nào cả về sức lực lẫn tâm hồn. Ấy vậy mà Thị Kính đã làm được điều

phi thường:

Nâng niu xiết nỗi truân truyên

Nhai cơm mớm sữa để nên con người

Đến đâu ai cũng chê cười

“Tiểu kia tu có trót đời được đâu”

Biết chăng một đứa thương đầu

Mình là hai, với Thị Màu là ba

(Câu 629 - 634)

Nỗi lòng thầm kín của nàng, có lẽ chỉ ba người biết: nàng, Thị Màu và đứa

thương đầu. Nhưng vì những lí do cá nhân, mà bí mật này mãi mãi được giấu kín

cho đến khi nàng chết. Nuôi con mình dứt ruột đẻ ra đã khó trăm bề, thì cái cảnh

nuôi con người, mẹ vò nuôi con nhện mới thật phi thường làm sao. Công quả ấy

thật chỉ có người có tâm của Phật mới làm được. Bởi vậy “Phật pháp vô biên”. Lấy

ân đền oán, đem tấm lòng Bồ Tát đối đãi với kẻ tiểu nhân đã hại mình, tiểu Kính

Tâm đã thực hành đạo từ bi, cứu vớt một sinh linh vô tội, độ lượng nhân từ với

một người khác trong hành trình luân hồi sinh tử, giúp họ vượt qua bể khổ trầm

luân, đồng thời cũng giúp chính mình, tạo thêm nghiệp thiện, dầy thêm phúc đức

và gần hơn với Đức Thế Tôn. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có nói: “Tất cả chúng

sinh đều có Phật tính. Tuy họ tạm thời còn mờ ám, sa ngã hoặc bị đọa lạc, chớ sau

51

này họ cũng trở nên giác ngộ” (Thích Trí Tịnh, 1997). Để đến được bến bờ giác

ngộ, chúng sinh phải một lòng tu hành, mở rộng tâm từ bi hỷ xả, và Quan Âm Thị

Kính cũng vậy. Nhà văn Vũ Khắc Khoan trong lời giới thiệu sách Vở chèo Quan

Âm Thị Kính cũng có những nhận xét về lòng từ bi, đức nhẫn nhục của Thị Kính:

Tư tưởng Phật giáo lại càng tỏ rõ khi Thị Kính cam chịu tiếng oan,

vì lòng từ bi, vì đức hiếu sinh, hy sinh cuộc sống của mình để nuôi đứa bé

sơ sinh của Thị Mầu. Nỗi oan mưu sát chồng đã đưa Thị Kính đến con

đường giải thoát, nỗi oan quyến rũ Thị Màu không làm cho nàng nản chí

trên con đường giải thoát; nhưng chính lòng từ bi, đức hiếu sinh, chính hành

động tích cực nuôi con Thị Màu mới thực sự đưa nàng lên cõi giải thoát.

Trên hành trình vượt sông mê để cập bến giác, tinh thần Phật giáo đã là

ngọn hải đăng soi sáng bước chân Thị Kính. Để Thị Kính trở thành tiểu

Kính Tâm, để tiểu Kính Tâm trở thành Đức Phật Quan Âm.

(Dẫn theo Đào Nguyên, 2012).

Sư thầy trong truyện cũng là một bậc đại từ đại bi. Khác hẳn một số hình

tượng sư thầy biến chất khác trong một số truyện cổ tích sinh hoạt, một số trích

đoạn hề chèo, hay ca dao hài hước, thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương (sư

hổ mang), sư thầy trong Quan Âm Thị Kính rõ ràng là biểu tượng đẹp đẽ, mẫu mực

của một bậc chân tu, luôn hướng về Phật. Thầy đã mở rộng lòng từ bi, nhận Thị

Kính làm tiểu, cho nàng nương nhờ cửa Phật khi nàng đau khổ nhất, tuyệt vọng

nhất phải từ giã song thân đi xa:

Sư rằng: Này đạo từ bi

Rộng thương phổ bộ, hẹp gì trần duyên

(Câu 323 - 324)

Khi Kính Tâm gặp hoạn nạn lại bỏ tiền ra nộp khoán, bảo lãnh cho nàng,

dầu biết tai tiếng dâm ô có thể làm liên luỵ đến chốn thanh tịnh của thiền môn.

Đồng ý cho Kính Tâm nuôi con Thị Màu và khi nàng chết thì lo ma chay chu đáo

cho nàng. Sư thầy đã yêu thương và độ lượng với Thị Kính như yêu thương một

đứa con, cả khi đúng đắn hay khi lầm lạc (nên nhớ rằng khi Thị Kính bị Thị Màu

đổ oan, ngoài nàng, Thị Màu và đứa thương đầu, không ai biết, kể cả sư thầy). Sư

52

thầy quả như vị Bồ Tát đã xuất hiện đúng lúc để cứu vớt và dẫn dắt Thị Kính đi

trên con đường chánh đạo. Hình tượng sư thầy giúp ta liên tưởng tới vãi Giác

Duyên trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Dù chỉ là vãi, nhưng Giác Duyên có

tấm lòng Bồ Tát, hay chính Bồ Tát Quan Âm đã hiện hình thành vãi Giác Duyên,

để hai lần ra tay cứu Kiều, cứu vớt nàng thoát khỏi vũng bùn nhơ nhớp của phận

gái thanh lâu, lại cứu vớt nàng khỏi sóng lớn Tiền Đường, đưa nàng về nương nhờ

cửa Phật:

Cho hay giọt nước nhành dương

Lửa lòng rưới tắt mọi đường trần duyên

(Nguyễn Thạch Giang, 1996)

Chỉ có thể là giọt nước cam lồ trên tay Bồ Tát, mang theo tấm lòng của bậc

đại từ bi mới có thể làm sống lại những mầm cây khô héo, những tâm hồn bị đọa

đày, đưa họ từ cõi chết trở về.

Tương tự như Thị Kính, nhân vật bà Chúa Ba trong Nam Hải Quan Thế Âm

cũng là biểu tượng đẹp đẽ của lòng tư bi hỷ xả. Xuất thân là công chúa xinh đẹp,

nhưng nàng lại có chí tu hành. Bởi vậy, Diệu Thiện đã từ bỏ cuộc đời nhung lụa,

từ giã cha mẹ, bước vào cuộc đời tu hành khắc khổ, dù bị Trang Vương cấm đoán,

tìm mọi cách ngăn cản, kể cả nhục hình. Trên con đường hành đạo, nàng đã sẵn

sàng hỷ xả để cứu độ chúng sinh tai qua nạn khỏi. Cảm động nhất là hành động hi

sinh thân thể của mình, mất cả hai mắt và hai tay, để cứu vua cha khỏi bệnh. Tâm

từ bi của chúa Ba đã cảm động cả đất trời, đã độ cho gia đình mình được siêu thăng

tới đất Phật:

Sắc phong là Quan Thế Âm

Phổ Đà Nham, cả bể Nam mình Ngài (…)

Diệu Thanh phong là Văn Thù

Diệu Âm cũng được phong cho Phổ Hiền

Thoắt trần nhơ, được cõi tiên,

Đại thiện Bồ Tát, được liền cả đôi.

(Bùi Thức Phước, 2015)

53

Quan Âm Thị Kính hay Quan Âm Nam Hải đều là những ứng thân của đức

Bồ Tát Quan Âm. Kinh Phổ Môn có nói đến hạnh nguyện của Đức Quan Thế Âm

Bồ Tát là cứu độ chúng sinh khỏi tham sân si, nếu chúng sinh niệm đến danh hiệu

Ngài. Và hạnh nguyện của Ngài là tượng trưng cho hạnh từ bi cứu khổ cứu nạn.

Bởi vậy dù ở ứng thân nào, Quan Thế Âm cũng vẫn là biểu tượng của bậc từ bi hỷ

xả.

Trong đạo Phật có lưu hành bài kệ: “Đạo cao nhất xích - Ma cao nhất trượng

- Đạo cao nhất trượng - Ma tại đầu thượng”. Có thể hiểu là: cái xấu luôn lấn át cái

tốt, nhưng cái tốt luôn vững vàng để chống lại cái ác. “Đạo” ở đây tượng trưng cho

cái tốt trong mỗi con người, đạo cũng là con đường tìm về sự giải thoát, mà con

đường ấy trong mỗi người không gì hơn là mở rộng tâm từ bi hỷ xả. Đạo đưa con

người tới bến bờ giải thoát, an vui. Còn “Ma” ở đây chính là cái xấu, là phần ma

quỷ ẩn tàng trong bản ngã chúng sinh. Đó là tham, sân, si, là lòng đố kị, ích kỉ.

Người luôn mở rộng lòng từ bi hỷ xả, thì đạo ắt sẽ lấn át được ma, diệt trừ tham

sân si là nguồn gốc của nghiệp báo trầm luân.

2.2. Tư tưởng nhân đạo

Bên cạnh tư tưởng tôn giáo nổi bật, truyện Nôm Quan Âm Thị Kính còn

chứa đựng tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tư tưởng nhân đạo (humanism) là một trong

những giá trị cơ bản, cốt yếu của tác phẩm văn học. Theo Lê Bá Hán và cộng sự

(1997), tư tưởng nhân đạo (còn gọi là chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn) “là toàn bộ

những tư tưởng quan điểm, tình cảm quý trọng các giá trị của con người như trí

tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân đạo không phải là một

khái niệm đạo đức đơn thuần, mà còn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con

người về nhiều mặt”. Tư tưởng nhân đạo là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình văn

học Việt Nam bao gồm cả văn học dân gian và văn học viết. Bởi xét đến cùng, văn

học nghệ thuật là gì nếu không vì con người mà hướng tới? Chức năng chính, ý

nghĩa thực sự của văn học là nhân đạo hóa con người. Nằm trong trào lưu chung

của văn học Việt Nam thời hậu kì trung đại, truyện Nôm Quan Âm Thị Kính cũng

như các tác phẩm văn học thành văn khác như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung

oán ngâm, Tống Trân - Cúc Hoa, Bích Câu kì ngộ, thơ Nôm Hồ Xuân Hương…

54

đều thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Cốt lõi của tư tưởng nhân đạo trong các tác

phẩm thời kì này đó là lòng yêu thương giành cho con người với những biểu hiện

cơ bản như: niềm đồng cảm, thấu cảm của nhà văn đối với thân phận bất hạnh của

con người; vạch trần, tố cáo các thế lực tàn bạo đã chà đạp lên nhân phẩm con

người, tước đi quyền sống của con người; bên cạnh đó còn là ngợi ca những vẻ

đẹp của con người; niềm trân trọng nâng niu những khát vọng sống chân chính

bình dị của con người, nhất là người phụ nữ. Tất cả các yếu tố ấy của chủ nghĩa

nhân đạo thời trung đại đều hội tụ đầy đủ, đậm nét trong Quan Âm Thị Kính.

2.2.1. Niềm cảm thương sâu sắc trước số phận bất hạnh của người phụ

nữ

Tác phẩm thể hiện nỗi thống khổ trong cuộc đời trăm đắng ngàn cay của

Thị Kính. Rõ ràng, khi trút bỏ đi lớp áo Đạo, để qua một bên cái gọi là tư tưởng

Phật giáo, khuyên con người ta “tu hành cứu khổ rồi sau mới thành” hay “nhẫn

điều khó nhẫn mới là chân tu”, ta thấy màu sắc Đời vẫn là chủ đạo trên toàn bộ

bức tranh hiện thực của tác phẩm. Nhân vật Thị Kính tiêu biểu cho biết bao người

lao động Việt Nam nói chung, người phụ nữ nói riêng, phải chịu đựng những bất

công ngang trái, những luật lệ hà khắc mà xã hội đã định sẵn. Họ là nạn nhân của

những hủ tục lạc hậu, những lễ nghi, phép tắc như chiếc vòng kim cô siết chặt,

không thể giải thoát.

Trước hết phải nói rằng, Thị Kính sinh ra làm phận gái đã là một sự bất

hạnh. Bởi người Việt ngàn đời nay chịu ảnh hưởng sâu sắc, toàn diện của Nho giáo

nên có quan niệm trọng nam khinh nữ, với họ “nhất nam viết hữu thập nữ viết vô”.

Người phụ nữ trong xã hội xưa khổ bởi “mười hai bến nước”, bởi chế độ đa thê,

bởi những tam tòng tứ đức… Thương cảm cho thân phận người phụ nữ, ca dao

dân gian đã có hàng trăm câu than thân não ruột như: “Thân em như hạc đầu đình

- Muốn bay chẳng cất nổi mình mà bay”, Nguyễn Du cũng đau đớn mà thốt lên:

“Đau đớn thay phận đàn bà - Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Đoàn Thị

Điểm thì đồng cảm với “khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên”. Có khi Hồ Xuân

Hương phẫn uất mà bật thành tiếng chửi “chém cha cái kiếp lấy chồng chung”…

Trở lại với Thị Kính, trong tiền kiếp vốn là đấng nam nhi, đã tu trong chín kiếp

55

nhưng vẫn chưa đắc đạo. Vì một niệm vô minh mà phải bị trầm luân thêm một

kiếp ở cõi người. Cõi người lại làm thân phụ nữ trong gia đình nghèo. Phải chăng

từ trong lai lịch, trong lời giới thiệu đã hàm chứa niềm thương cảm của tác giả

giành cho nhân vật của mình. Còn nhớ, vua Trang Vương trong Nam Hải Quan

Thế Âm khi sinh con gái đã lấy làm bất bình “Rằng sinh con gái thì sinh làm gì”,

sinh con gái thứ hai thì “toan rày giết con”, và đến đứa thứ ba thì thất vọng “mười

phần chẳng tươi”, đủ thấy rằng chưa bàn đến cuộc đời, đến những kiếp nạn sau

này, chỉ mang phận nữ nhi thôi đủ làm nên nỗi bất hạnh của người phụ nữ. Chưa

hết, người phụ nữ bình thường đã khổ, người phụ nữ tài sắc lại gánh thêm nỗi khổ

chất chồng, bởi “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Tạo hóa thường không

ưa những người tài sắc, nhất là phụ nữ. Trong khi Thị Kính lại mang trong mình

vẻ đẹp và đủ mọi đức hạnh, nết na:

Đậm nhuần sắc nước dịu dàng vẻ hoa

Não nùng chim cũng phải sa

Người tiên cũng ở đâu ta trên đời

Điểm trang tứ đức đủ mười

(Câu 40 - 43)

Vẻ đẹp chim sa cá lặn dường như là một dự báo cho một cuộc đời chẳng

thể bằng phẳng, như nàng Kiều của Nguyễn Du “hoa ghen thua thắm liễu hờn kém

xanh”. Thị Kính dù đoan trang, trung hiếu, vợ thảo dâu hiền, nhưng sấm sét đã

giáng xuống đầu nàng tai họa đầu tiên khi vô tình để cả nhà chồng nghi oan là kẻ

tư tình bất chính, mưu hại giết chồng, để rồi bị trả về nhà cha mẹ đẻ, chịu bao nỗi

cực nhục, lại lỡ đường gia thất “Đã toan vì chiếc tăng hài - Mặt nào mà lại đi hai

lần đò” (Câu 231 - 232). Sau này, nàng đã phải ngậm ngùi nghĩ về thân phận mình:

Vẻ chi chút phận hồng nhan

Cành hoa nở muộn thời tàn mà thôi

(Câu 241 - 242)

Người phụ nữ trong xã hội cũ thường có cách ẩn dụ thân phận mình tựa

những đóa hoa sớm nở tối tàn như thế, truyện Kiều cũng có câu: “Vẻ chi một đóa

yêu đào”. Vẻ đẹp sắc nước hương trời chưa bao giờ là một điềm báo tốt lành. Đã

56

lánh đời đục, tìm đời trong ở nơi lâm tuyền, nơi lời kinh câu kệ, mà kiếp hồng nhan

vẫn không thôi bủa vây lấy nàng:

Trời sinh tư sắc làm chi

Hoa thơm bướm cũng có khi bận long

(Câu 381 - 382)

Đó chính là nguồn cơn để tai họa lại giáng xuống đời nàng lần nữa, không

cho Kính Tâm được an yên nơi cửa từ bi. Và nỗi khổ của người phụ nữ cũng là

tiêu biểu cho nỗi khổ chung của con người. Không chỉ Quan Âm Thị Kính, mà các

tác phẩm văn học trung đại nói chung, đều đồng vọng một tiếng nói về người phụ

nữ: truân chuyên, chìm nổi, chịu nhiều bất công.

Niềm cảm thương của tác giả đối với Thị Kính không chỉ giới hạn trong cái

nhìn đầy tính nhân văn về thân phận người phụ nữ, mà nổi bật hơn hết, ở tác phẩm

này, là thông qua hai lần mắc tiếng oan của Thị Kính. Lần thứ nhất: tiếng oan hại

chồng. Vốn dĩ Thị Kính cũng có một quãng đời bình lặng bên mẹ cha, có một mối

lương duyên tốt đẹp với chàng Nho sinh Thiện Sĩ. Cuộc sống êm đềm trôi qua

trong cảnh:

Hôm mai trong chốn thâm khuê

Kẻ đường kim chỉ người nghề bút nghiên

(Câu 123 - 124)

Thế mà chỉ trong một khoảnh khắc tình ngay lí gian, mọi thứ đã trở nên quá

phũ phàng. Chi tiết Thị Kính giơ dao toan cắt râu chồng đã trở thành một nút thắt

quan trọng, thành tình huống truyện tiêu biểu để đẩy xung đột truyện lên cao trào.

Bà mẹ chồng cay nghiệt đã nổi giận lôi đình, trút xuống đầu nàng mọi thứ tội lỗi

xấu xa trên đời, không cho nàng được phân minh:

Công cô rằng: bảo cho hay

Trộm hương cắp phấn cũng đầy chan chan

(Câu 155 - 156)

Trong khi người chồng nhu nhược chẳng nói lời nào, ông bố chồng thì cả

nể, sợ vợ, trước những lời buộc tội của Sùng bà, Thị Kính chỉ còn biết sụt sùi đau

xót, đành đoạn chia tay “Lòng nàng xiết nỗi xót xa - Má đào ủ dột mặt hoa u sầu”.

57

Vái từ cha mẹ chồng và Thiện Sĩ trở về, coi như đời nàng cũng dở dang, bởi quan

niệm của người xưa gái chính chuyên một chồng, cũng bởi “mặt nào mà lại đi hai

lần đò”. Đoạn thơ sau miêu tả tâm trạng ngổn ngang buồn tủi của Thị Kính khi trở

về nhà trong tiếng oan nhơ nhuốc, đầy tủi hổ:

Phòng riêng vò võ hôm mai

Trông ngày đằng đẵng lại dài hơn năm

Buồn trông giọt ngọc đầm đầm

Mùi ăn chẳng nhớ, giấc nằm chẳng ngon

Nực cười sự cỏn còn con

Bằng lông mà nảy ra cồn Thái Sơn

(Câu 235 - 240)

Những từ láy tượng hình được sử dụng liên tiếp: vò võ, đằng đẵng, đầm

đầm, cỏn còn con đã đặc tả nỗi oan tê tái thấu trời của người phụ nữ đoan chính

mà không biết tỏ bày cùng ai. Qua đó, ta thấy được thái độ cảm thông của nhân

dân xưa giành cho người bất hạnh. Thị Kính đã chọn con đường xuất gia cầu đạo,

không phải là để trốn tránh cuộc đời một cách tiêu cực, yếm thế như một số suy

diễn hời hợt, nông cạn mà là sự lựa chọn khi đã suy nghĩ thấu đáo của Thị Kính,

sau khi trải qua biến cố cuộc đời:

Có khi dốc chí tu hành

Lánh miền trần tục nương mình thuyền môn

Độ trì nhờ đức Thế Tôn

Nhỡ nhàng thuở trước vuông tròn mai sau

Nghiêm từ dành phúc về sau

Họa đền nghĩa nặng ân sâu nghìn trùng

(Câu 249 - 255)

Nhưng đến đoạn đời “lánh miền trần tục nương mình thuyền môn” này, đau

khổ bi kịch vẫn không nguôi bủa vây lấy nàng. Lại một lần nữa, nàng mắc tiếng

oan thông dâm với Thị Màu. Bởi những mối dây liên hệ với cuộc đời vẫn chưa thể

dứt bỏ, bởi Thị Kính, khi đã vào chùa đi tu “đã lồng ba tấm cà sa”, mà sắc đẹp

khác phàm của nàng vẫn làm cho “Dập dìu trước chốn thuyền lam - Đứa hoài xuân

58

những muốn làm ni cô”. Dường như nghiệp chướng tiền kiếp đã gây nên mối oan

tình thứ hai này. Dù rằng miêu tả nỗi oan này, tác giả chủ yếu nhằm ngợi ca chữ

nhẫn, đức từ bi của bậc chân tu, song cuộc đời Thị Kính trong màu áo chủ tiểu

Kính Tâm vẫn có tính chất tiêu biểu cho nỗi oan khổ, bất hạnh cùng cực của người

phụ nữ Việt Nam thời phong kiến, những nỗi khổ chỉ mình mình gánh chịu, không

thể chia sẻ cùng ai. Đọc lại đoạn làng xử tội Kính Tâm, dễ thấy tấm thân liễu yếu

đào tơ làm sao mà chịu nổi:

Làm cho chín khúc cũng đau

Đào nhăn nhó mặt, liễu cau cớn mày

Hải đường gặp trận gió tây

Lá rụng lai láng hoa bay tơi bời

Mười phương Phật chín phương trời

Chưa hay đến sự dưới đời oan vu

(Câu 529 - 534)

Dù sử dụng thủ pháp ước lệ tượng trưng của văn học cổ, không tả chân sự

việc, nhưng ta vẫn thấy cảnh đánh đập tra tấn Thị Kính diễn ra sống động, cảnh

Thị Kính quằn quại giữa đòn roi, bởi “Thịt da ai cũng là người - Lòng nào hồng

rụng thắm rời chẳng đau” (Nguyễn Du). Công chúa Diệu Thiện trong Nam Hải

Quan Thế Âm cũng đôi lần chịu cảnh hành hạ tra tấn bởi trái lệnh của vua cha, kiên

quyết từ giã gia đình để đi tu, nhưng nàng đều đã bình yên vô sự nhờ sự trợ giúp

của thần phật, khi là rồng, lúc là chim, lúc là trận mưa, khi là mãnh hổ…Còn ở

đây, Kính Tâm phải oằn lưng chịu đòn giữa thanh thiên bạch nhật, giữa đông đủ

thành phần trong làng xã, nơi người ta sẵn sàng “bôi lòe đen trắng, lộn mù phải

chăng”, nơi mà nàng - dẫu có chết - cũng không dám hé môi để lộ thân phận mình.

Nỗi đau thể xác vì bị đánh đập thật là kinh khủng, nhưng đau hơn là bị hàm

oan, bị người đời dè bỉu chê bai “Tiểu kia tu có trót đời được đâu”. Người xưa nói

“Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ”. Thị Kính ôm nỗi đau bia miệng ấy suốt

phần đời còn lại của mình. “Oan Thị Kính” đã trở thành một thành ngữ dân gian,

thành câu cửa miệng của người Việt bao đời nay. Cầm lòng ra ở mái tam quan, nỗi

tủi buồn của Kính Tâm lại tăng thêm bậc nữa khi mà “Trông tòa phương trượng,

59

dám còn vào ra”, không dám bước vào trong chùa, vì người ta sợ ô uế chốn thanh

cao. Cũng may, nàng ngày ngày bạn với cỏ cây, gió trăng và câu kinh nhịp kệ,

chuyên tâm tu hành. Nhưng bi kịch chưa dừng ở đó, tiền căn nghiệp chướng chưa

thôi buông tha nàng, Thị Màu sinh con rồi đem ra cổng chùa để, cố ý đổ thừa cho

Thị Kính. Vì lòng từ bi, vì đức hiếu sinh, vì bản năng làm mẹ của người phụ nữ,

Thị Kính một lần nữa chịu muôn vàn khổ nhục, chịu tiếng chê bai của người đời

để nuôi con Thị Màu:

Nhưng thời trong dạ hiếu sinh

Phúc thời làm phúc dơ đành chịu dơ

(Câu 607 - 608)

Bao năm trời nuôi con Thị Màu vất vả ra sao ta cũng đã biết:

Mẹ vò thì sữa khát khao

Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền

Nâng niu xiết nỗi truân chuyên

Nhai cơm mớm sữa để nên con người

(Câu 627 - 628)

Trong truyện Quan Âm Thị Kính, bên cạnh hình tượng trung tâm Thị Kính,

thì nhân vật Thị Màu cũng là nơi tác giả kí thác niềm đồng cảm, xót thương đối

với thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ, nhưng ở một khía cạnh hoàn toàn

khác. Bằng cái nhìn nhân văn, tác giả đã xây dựng Thị Màu với những nỗi bất hạnh

riêng chẳng giống như ai. Thị Màu rõ ràng là một nhân vật lệch chuẩn, đối lập hẳn

với Thị Kính, và đáng trách đáng cười chê hơn là đáng thương. Bao nhiêu những

đức tính xấu xa người ta đã gán cho Thị Màu: lẳng lơ, dâm dục, trơ tráo, mặt dạn

mày dày, ăn đơm nói đặt… Thị Màu không thể là một hình mẫu lí tưởng về người

phụ nữ truyền thống. Để đến nỗi cuối cùng, Thị phải chọn cho mình kết cục bi

thảm. Song, nhân vật Thị Màu cũng là một phương diện thành công của tác phẩm,

để người đọc phải nhớ mãi, phải ám ảnh mãi. Nỗi bất hạnh của Thị Màu chính là

ở chỗ cô là một vai lệch chuẩn, một phụ nữ cá tính nổi loạn, sinh ra trong vũng ao

tù đọng của xã hội phong kiến với những hủ tục khắt khe trói buộc người phụ nữ.

Thị Màu có khát khao hạnh phúc lứa đôi, đó là một khát khao hoàn toàn chính

60

đáng, nhưng khao khát ấy bị kìm hãm, không được quyền biểu lộ ra ngoài. Thị bị

cha mẹ ép lấy chồng năm lần bảy lượt cũng là nỗi khổ tâm, và Thị kiên quyết phản

kháng, bởi thế mới tạo nên án hoang thai ầm ĩ trong làng ngoài nước. Trong chuyện

này, người đầu tiên chịu tiếng mỉa mai báng bổ của dân làng là Thị Màu, bỏ đi đứa

con dứt ruột đẻ ra, người đau khổ trước tiên cũng là Thị Màu:

Trên tay nâng giọt máu đào

Hầu đi lại đứng toan vào lại ra

Ngỡ chơi đâu biết thế mà

Cắn răng đem rứt ruột rà cho ai

(Cây 593 - 596)

Thị Màu là con người của bản năng và bị lạc vào bến mê của dục vọng bản

năng, và chính Thị cũng là nạn nhân đau khổ của dục vọng. Sâu xa hơn, chính

những ràng buộc xã hội, ràng buộc của lễ giáo và những mặc cảm bản thân đã đẩy

Thị vào bước đường cùng. Đây là bi kịch không lối thoát của người phụ nữ. Có lẽ,

chỉ Hồ Xuân Hương - bậc kỳ nữ thơ ca - mới dám cất lên tiếng nói bênh vực người

phụ nữ mắc án hoang thai như Thị Màu, dù tiếng thơ có phần chua chát: “Duyên

thiên chưa thấy nhô đầu dọc - Phận liễu sao đành nảy nét ngang”. Còn ca dao thì

an ủi người phụ nữ lầm lỡ: “Không chồng mà chửa mới ngoan - Có chồng mà chửa

thế gian sự thường”. Đó cũng là biểu hiện của lòng nhân đạo sâu sắc.

2.2.2. Phê phán các thế lực chà đạp lên nhân phẩm con người

Con người dù ở thời đại nào, cũng luôn sống trong vòng cương tỏa của xã

hội, và con người trong Quan Âm Thị Kính cũng vậy. Các mối liên hệ ràng buộc

từ trong gia đình đến làng xã chính là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của những

người phụ nữ thấp cổ bé họng. Nằm trong dòng chảy của trào lưu nhân đạo chủ

nghĩa, cũng như nhiều tác phẩm cùng thời, Quan Âm Thị Kính đã tố cáo tội ác của

các thế lực phong kiến chà đạp lên nhân phẩm, quyền sống của con người, lên án

những bất công phi lí của xã hội đương thời. Phủ lên toàn bộ tác phẩm là cái bóng

của lễ giáo phong kiến, của chế độ nam quyền. Đó là những thế lực vô hình và

đáng sợ đối với bất cứ ai. Nó là nguyên nhân khiến cho tình vợ chồng tan vỡ, tình

cốt nhục chia lìa, tình người bị chà đạp.

61

Sự bất công phi lý của xã hội, sự hà khắc của lễ giáo đối với con người biểu

hiện qua hai giai đoạn trong cuộc đời Thị Kính. Giai đoạn thứ nhất: Thị Kính trong

mối quan hệ gia đình. Rõ ràng, mối lương duyên của Thị Kính với Thiện Sĩ là mối

lương duyên ép gả, dù bề ngoài, ban đầu, lương duyên ấy có vẻ lí tưởng “vừa đôi

vừa lứa quan thư”. Thị Kính không được quyền quyết định đời mình, không được

chọn ý trung nhân cho mình, mà phải nghe theo lời cha mẹ theo quan niệm cha mẹ

đặt đâu con ngồi đấy. Bởi vậy, xét về bản chất, giữa Thị Kính và Thiện Sĩ không

có sự đồng cảm, tình yêu thật sự, dù nàng “nết đủ mọi điều”, dù cả hai đã “Có phen

thề thốt dưới trăng - Một rằng thế thế hai rằng xinh xinh”. Chính vì vậy Thiện Sĩ

không hiểu được vợ mình, không nhận ra tấm lòng Thị Kính đối với mình, nên đã

không thể bảo vệ được cho vợ mình trước những cáo buộc của mẹ cha. Và có lẽ,

ở chừng mực nào đó, tiếng nói của Thiện Sĩ trong đêm oan khuất đó dù có cũng

không thể làm thay đổi những lời nói và quyết định cay nghiệt của Sùng ông Sùng

bà. Trong cách cư xử của Thiện Sĩ, ta thấy dáng dấp của Nho sinh Kim Nham trong

vở chèo cùng tên: đêm ngày kinh sử, con nhà gia giáo, nuôi ý chí khoa bảng làm

quan, cũng có một gia đình êm ấm, một người vợ hiền thảo, nhưng lại nhu nhược,

thiếu quyết đoán, đặc biệt không hiểu vợ, không mang lại hạnh phúc cho người vợ

tảo tần. Kim Nham sẵn lòng lạnh lùng li hôn vợ, để cho Xúy Vân từ chỗ giả dại

đến điên dại thật. Còn Thiện Sĩ nông cạn, dại khờ mách cha mẹ:

Chàng rằng: “giấc bướm vừa say

Dao con nàng bỗng cầm tay kề gần”

(Câu 139 - 140)

Thiện Sĩ đúng là một thư sinh dài lưng tốn vải, không chỉ nông cạn, hồ đồ

mà còn thiếu quyết đoán, nhu nhược. Để đến khi người vợ đầu gối tay ấp lạy từ

bước chân ra đi, hắn mới sụt sùi ngẩn ngơ:

Lòng chàng nghĩ lại bồi hồi

Trước tuy còn giận sau rồi lại thương

Duyên này mà đã dở dang

Còn nên gảy khúc cầu hoàng nữa chăng

(Câu 217 - 220)

62

Thiện Sĩ tiêu biểu cho một bộ phận Nho sĩ đương thời, tầng lớp đại diện

cho ý thức hệ xã hội. Anh ta là sản phẩm của nền giáo dục phong kiến cuối mùa.

Nó cho thấy chế độ phong kiến đang trên đà khủng hoảng suy thoái của và không

thể cứu vãn nổi.

Gia đình phụ quyền, chế độ nam quyền đã đối xử bất công đối với người

phụ nữ. Khi về làm dâu nhà Thiện Sĩ, cũng giống như nàng Cúc Hoa trong truyện

Tống Trân Cúc Hoa, nàng Ngọc Hoa trong Phạm Tải Ngọc Hoa, Thị Kính đã một

lòng thờ chồng, cha mẹ chồng theo khuôn khổ đạo đức xuất giá tòng phu, một lòng

nuôi chồng ăn học:

Khuyên chàng kinh sử đêm ngày

Thang mây mong bước ngấn giầy cho cao

(Câu 119 - 120)

Nhưng rõ ràng nàng không hề có một tiếng nói nào trong gia đình ấy. Khi

bị nghi toan tính giết chồng, Thị Kính cũng không thể giãi bày, thanh minh. Nhân

vật Sùng bà với tính cách độc đoán, cay nghiệt đóng vai trò chủ đạo trong việc đẩy

Thị Kính vào bi kịch thứ nhất:

Công cô rằng: “Bảo cho hay

Trộm hương cắp phấn cũng đầy chan chan

Mấy người tiệt quyết một an

Nay Tương mai Lý thế gian hiếm gì”

(Câu 155 - 156)

Đó là những lời buộc tội vô căn cứ, lời vu oan giá họa mà những nàng dâu

như Thị Kính chỉ được phục tùng, không hề được cãi lại. Mãng ông dù rất thương

con, hiểu con, song “lờn bơn chịu trót một bề - Quản làm sao được kẻ chê người

cười”, vẫn phải ngậm ngùi nghe những lời độc địa từ ông bà thông gia, rồi đắng

cay xin nhận con về. Trước lúc từ giã về nhà, ông còn dạy con đến lạy cả gia đình

chồng:

Gọi con đến trước lạy người

Lạy hương nhân đã sẽ rời chân ra

(Câu 193 - 194)

63

Biết mình vô tội mà vẫn phải lạy tạ người đã vu khống, kết án oan, lạy người

chồng nhu nhược, đó phải chăng là những điều phi lí mà người dân lao động xưa

phải nhẫn nhục chịu đựng: “Chi tiết Thị Kính lạy mẹ chồng rồi lạy chồng ra về

như một bức tranh tương phản thể hiện hai thế lực một bên là gia đình trọc phú

trịch thượng, rẻ rúng và coi người khác không ra gì, còn một bên là hai cha con tội

nghiệp đã bị tiếng oan, lại còn bị người ta xỉa xói, khinh khi” (Dương Mai Oanh,

2012). Trong truyện Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển, nàng Lưu Hương hiền

thục cũng phải cam chịu những khổ hạnh khi làm dâu gia đình họ Mã. Mã Ngọc

chuyên tâm trên con đường khoa cử, làm quan triều đình, Lưu Hương ở nhà chịu

đủ mọi hành hạ, đòn roi, vu oan giá họa từ người mẹ chồng và hai chị dâu ác độc,

lúc nào cũng sẵn sàng vùi dập, hãm hại nàng, khiến con đường tu hành của Lưu

Hương gặp nhiều trắc trở. Xã hội phong kiến đã trút hết lên đầu người phụ nữ,

người làm dâu những đòn độc ác nhất.

Giai đoạn thứ hai: Thị Kính trong mối quan hệ xã hội. Từ lúc Thị Kính giả

hình nam tử bước lên đường đi tu, cuộc đời nàng rẽ sang một hướng khác, và nàng

cũng bắt đầu đối mặt với những thử thách mới, những mối quan hệ mới, đa dạng,

phức tạp hơn, đó là mối quan hệ giữa một người phụ nữ chân yếu tay mềm đang

phải cố ẩn mình trong lớp áo cà sa, trong dáng hình nam nhi để đối mặt với toàn

xã hội rộng lớn, phức tạp, xa lạ. Cũng chính vì chế độ trọng nam khinh nữ mà Thị

Kính phải cải trang. Xã hội xưa cấm đoán người phụ nữ không được đi học, không

được tham gia công việc xã hội đã đành, đến cả giới tu hành cũng cấm cửa phận

nữ lưu, khiến cho biết bao người, để đạt được mục đích, lí tưởng mình theo đuổi,

đã không được sống là chính mình. Chuyện nữ trải trang là nam để đi học, đi thi,

đi tu có lẽ không phải quá hiếm trong xã hội cũ ở các nước phương Đông. Để đạt

được ước nguyện của mình, nhiều người trong số đó đã phải trả cái giá quá đắt,

mà Thị Kính là một điển hình. Khi làm chú tiểu bị nhiều người ve vãn (chứ không

chỉ riêng Thị Màu) mà không thể giãi bày:

Dập dìu trước chốn thuyền lam

Đứa hoài xuân những muốn làm ni cô

Ngỡ chàng Phan Nhạc đấy ru

64

Ra đâu cũng ném quà cho tiếc gì

(Câu 177 - 180)

Khi bị Thị Màu đổ riệt cho cái tội thông dâm, Thị Kính cũng không thể nào

minh oan cho mình, vì sợ lộ thân phận nữ nhi. Thanh thế của phú ông, lệ làng với

những luật lệ hà khắc đã đẩy Kính Tâm đến nỗi đau cùng cực thấu trời. Nhà chùa

dù rất có uy tín trong xã hội phong kiến, song phép vua còn thua lệ làng. “Làng”

trong truyện không phải là một nhân vật cụ thể nào cả, mà là một thế lực lớn, một

thế lực hãi hùng đối với bất cứ ai (trong vở chèo cổ cùng tên, làng được cụ thể hóa

bằng các vị chức sắc có vai vế mang tính chất đại diện như xã trưởng, cụ đồ, tuần

đinh, cụ thầy). Làng là một tổ chức xã hội chặt chẽ, có tôn ti trật tự, có quy củ luật

lệ riêng được đặt ra và truyền qua nhiều thế hệ để cai trị, để giữ gìn phép tắc, duy

trì nề nếp gia phong. Mỗi làng có lệ riêng và không ai được bước ra ngoài lằn ranh

của những luật lệ ấy. Có những luật lệ đúng đắn, nhân văn nhưng cũng không thiếu

những luật lệ hà khắc, hủ bại. Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc

Thêm (1999) khẳng định rằng trong nhiều thế kỉ, các thế lực ngoại bang khi cai trị

Việt Nam, chúng chỉ có thể với tay xuống tới hàng huyện hàng xã, chứ chưa bao

giờ với tay xuống tới làng. Bởi vậy, làng là một “pháo đài” tự trị bất khả xâm

phạm. Làng được cai trị bởi các vị chức sắc chức dịch có vai vế và các vị ấy có

quyền tung quyền tác, quyền quyết định mọi việc bất kể đúng sai. Như trong vụ

làng xử án hoang thai Thị Màu, ta thấy đầy những phi lí, những kết luận vô căn

cứ, áp đặt cho kẻ yếu thế, bất kể đó là kẻ tu hành, bất kể bên cạnh kẻ đó còn có sư

thầy. Những lời buộc tội của làng đối với tiểu Kính Tâm cũng là những lời chà đạp

lên đạo Phật không thương tiếc:

Đào yêu chẳng dỗ được nào

Buồn mình lại quyến đứa nào yêu chơi

Giả hình làm tiểu dối đời

Dối ai dễ dối được trời kia ru?

Liệu ba mươi sáu đường tu

Chẳng thì văn bút vũ vồ dễ chi

Nói sao cũng cứ chi chi

65

Thằng roi đứa nọc tức thì truyền mau

(Câu 121 - 128)

Vừa vu oan vừa đánh đập tra tấn kẻ tu hành, đó là tội ác của những người

luôn mang tiếng là cha là mẹ dân, là người cầm cân nảy mực trong làng. Nhận xét

về chi tiết làng xử tội Kính Tâm, học giả Thiều Chửu viết: “mắt trần mờ mịt, lòng

trần điên đảo, nhận xằng thế này là chính, thế kia là tà, thực ra chẳng cái gì làm

mẫu mực cho định nghĩa chính tà cả (…). Kẻ cung xưng đã điên đảo, người xử án

cũng điên đảo nốt” (Thiều Chửu, 2007). Thật nực cười, và thật là “lòng trần điên

đảo”, rắp tâm kết tội Thị Kính là thế, ra vẻ nghiêm trị để giữ gìn phép tắc là thế,

vậy mà khi sư thầy xin nộp khoán thì họ tha ngay. Đồng tiền đã khiến “Dẫu người

độc dữ cũng nên xuôi dòng”. Đồng tiền đã khiến con người mờ mắt, đã làm khuynh

đảo mọi giá trị, đúng như Nguyễn Du kết luận: “máu tham hễ thấy hơi đồng thì

mê”.

Cũng chính cái lệ làng khắt khe vô lí đã khiến cho Thị Màu, để không phải

chịu những hình phạt nặng nề như cạo đầu bôi vôi, thả bè trôi sông… đã phải vu

oan cho tiểu Kính Tâm; hơn hết, nó khiến cho Kính Tâm từ đó đến lúc chết, phải

chịu nhiều điều tiếng của người đời, ra ở tam quan, xin sữa nuôi con người và trăm

đắng ngàn cay khác. Nếu xã hội không khắt khe cay nghiệt đến thế, có lẽ Thị Màu

đã được bao dung hơn, có lẽ Thị Kính đã không phải oằn lưng chịu đòn… Không

riêng Thị Kính, Thị Màu cũng là nạn nhân của chế độ nam quyền.

Tóm lại, qua thiên truyện, tác giả đã tái hiện bức tranh làng xã Việt Nam

thời phong kiến với những bất công ngang trái, những luật lệ hà khắc, phi lí đã đẩy

con người, nhất là người thấp cổ bé họng, người phụ nữ đến bước đường cùng,

vạch trần những thế lực tàn bạo (cả vô hình và hữu hình) đã chà đạp lên nhân phẩm

con người, tước đi quyền sống, quyền yêu và dập vùi những khát vọng chính đáng

của họ. Nguyễn Huệ Chi trong cuốn Từ điển văn học bộ mới đã tổng kết: “Xã hội

đảo điên đến mức tất cả những chỗ bám víu của một phụ nữ xưa là chồng con, cha

mẹ, làng xóm, nhà chùa đều trở thành bất lực. Xã hội càng đảo điên hơn khi người

chịu oan mà không có cách gì giải tỏ, đành ngậm oan cho đến chết” (Đỗ Đức Hiểu

và cộng sự, 2004).

66

2.2.3. Ngợi ca những vẻ đẹp của con người

Thiên chức cao cả của nhà văn là qua tác phẩm của mình, dẫn dắt người

đọc đến với cái đẹp. Cái đẹp mà văn chương mang đến rất đa dạng: cái đẹp ở thiên

nhiên muôn hình muôn sắc, cái đẹp bình dị trong đời sống thường nhật, cái đẹp

trong nghệ thuật - sản phẩm sáng tạo vô biên của người nghệ sĩ, và hơn hết là cái

đẹp của con người với cả hình thể lẫn nội tâm. Một trong những biểu hiện sống

động nhất của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học là khai thác, ngợi ca vẻ đẹp của

con người, nhất là người phụ nữ. Nhân vật nữ chính trong các truyện thơ Nôm nói

riêng, văn học trung đại Việt Nam nói chung hầu hết được khắc họa ở những vẻ

đẹp truyền thống: ngoại hình đoan trang, dịu dàng, thủy chung, nết na hiền thục và

giỏi giang. Thị Kính trong Quan Âm Thị Kính cũng không ngoại lệ. Ở nàng hội tụ

đủ cả tứ đức, tam tòng và trên hết là chữ hiếu, chữ nhẫn.

Thị Kính dù chịu những oan khổ như những gì nàng tổng kết trong bức thư

gửi mẹ cha lúc cuối đời: “Thuở làm vợ để chồng ngờ thất tiết; khi làm trai cho gái

đổ oan tình”, là nạn nhân tội nghiệp của xã hội ngang trái bất công, nhưng ở nàng

vẫn toát lên vẻ đẹp sáng ngời. Đó là các đức hạnh: hiếu nghĩa, từ bi, bao dung…Thị

Kính được giới thiệu ở đầu truyện theo motif quen thuộc của văn học cổ: là con

gái duy nhất của ông bà họ Mãng ở về Hồ Nam huyện Bắc, quận Lũng Tài, thành

Đại Bang nước Cao Ly, gia đình vốn thuộc dạng “Gia tư thời cũng bậc trung”.

Nàng có vẻ đẹp đoan trang, hiền thục, lại hội tụ cả tức đức công dung ngôn hạnh:

Đậm nhuần sắc nước dịu dàng vẻ hoa

Não nùng chim cũng phải sa

Người tiên cũng ở đâu ta trên đời

Điểm trang tứ đức đủ mười

Cửa vương đạo dễ chọn người sàng đông

(Câu 40 - 44)

Ta nhận ra cái thuyết “Thiên địa phong trần, hồng nhan đa truân” rất quen

thuộc, thâm thúy của văn học cổ. Vẻ đẹp chim sa cá lặn, vẻ đẹp khác phàm của

Thị Kính dường như là một dự báo không tốt lành. Phạm Thế Ngũ cho rằng: “Sinh

ra đời với tài sắc đã là một cái lụy, song đừng tưởng trốn vào cửa Không là rũ sạch

67

được cái lụy ấy. Tài sắc tự nó đẻ ra nhân duyên, do đó đi đâu không tránh nổi nó

trói buộc lấy mình” (Phạm Thế Ngũ, 1997). Với vẻ đẹp và đức hạnh đủ đầy như

vậy, Thị Kính đã được gia đình họ Sùng - một gia đình được đánh giá là gia giáo,

khuôn phép “sẵn khuôn y bát vốn dòng cân đai” - hỏi cho con trai của mình là

Thiện Sĩ, một Nho sinh theo đòi nghiên bút. Mối lương duyên ấy thật cân tài cân

sắc, đẹp lòng mẹ cha:

Đem cân mà thử bắc lên

Bên tài bên sắc đôi bên cùng vừa

(Câu 59 - 60)

Khi làm dâu, Thị Kính lại tỏ ra là một nàng dâu hiền vợ đảm, đủ mọi nết

na:

Mà nàng nết đủ mọi điều

Đã niềm trung hiếu lại chiều đoan trang (…)

Nghi gia hai chữ thi đào

Nhận ra trăm nết, nết nào mà chê

(Câu 115 - 122)

Thiều Chửu (2007) cho rằng: “cái nhân duyên của bà Thị Kính thật là tốt

đôi rất mực, cái hạnh phúc gia đình của bà Thị Kính thật là êm dịu vô cùng”. Thị

Kính là kết tinh vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt Nam: đoan trang, dịu

hiền, đức hạnh, ở nhà thì hiếu kính với mẹ cha, đi lấy chồng thì vun đắp cho nhà

chồng, một lòng chăm lo cho chồng ăn học. Chi tiết Thị Kính toan lấy dao con cắt

râu mọc ngược cho chồng cũng cho thấy nàng là người yêu chồng, biết chăm sóc

và muốn làm đẹp, sửa soạn cho chồng. Trong lời thanh minh của Thị Kính trước

mặt bố mẹ chồng và chồng trong cái đêm oan nghiệt ấy, đã cho thấy động cơ cắt

râu của nàng là xuất phát từ tấm lòng vô tư trong sáng, từ tình yêu thương của vợ

dành cho chồng:

Án kia nưng ở ngang mày

Sạch trong một tiết, thảo ngay một bề

Bởi chàng đèn sách mỏi mê

Gối Ôn Công thủa giấc hòe thiu thiu

68

Thấy râu có chút chẳng đều

Cầm dao tiện để một chiều như nhau

Há rằng có phụ tình đâu

Muôn trông xét đến tình đầu kẻo oan

(Câu 145 - 152)

Tiếc thay, tình cảm đẹp đẽ ở người vợ, người dâu con ấy đã bị định kiến

giết chết một cách phũ phàng.

Nhưng Thị Kính được người đời nhớ đến không chỉ bởi có thế, mà phẩm

chất nổi bật, đáng kính hơn ở nàng chính là chữ hiếu dành cho cha mẹ. Hiếu nghĩa

là đức tính tốt đẹp và cần có ở mỗi người. Chữ hiếu cũng là điểm gặp gỡ giữa đạo

Phật, đạo Nho và tư tưởng văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Ca dạo có câu:

Tu đâu cho bằng tu nhà

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu

Người tu hành trước hết phải có lòng hiếu thảo với mẹ cha. Phật cũng dạy

chúng sinh rằng: “Cha mẹ là Phật hiện tại” hay “Phải hiếu thuận cha mẹ, sư tăng

tam bảo! Hiếu là cái pháp thứ nhất tới đạo chí thiện” (dẫn theo Thiều Chửu, 2007).

Nho giáo cũng đặt chữ hiếu lên hàng đầu (trung - hiếu - tiết - nghĩa). Tăng Tử (học

trò của Khổng Tử) viết bộ sách Hiếu kinh, đã trở thành chuẩn mực của đạo hiếu

suốt mấy ngàn năm ở các nước lấy Nho giáo làm học thuyết trị nước, duy trì trật

tự xã hội. Chữ hiếu của đạo Phật lại có điểm chung với quan niệm về chữ hiếu của

đạo Nho (ở Việt Nam) ở chỗ: không chỉ hiếu với mẹ cha (tiểu hiếu) mà còn phải

hiếu với nhân dân, với tất cả mọi người (đại hiếu). Còn nhớ cha của Nguyễn Trãi

là Nguyễn Phi Khanh khi chia tay con ở ải Nam Quan, đã chí tình dặn dò Nguyễn

Trãi về chữ đại hiếu. Quan Âm Thị Kính là một tác phẩm đề cao chữ hiếu. Chữ

hiếu trong truyện có nội hàm rất rộng: hiếu không chỉ là nghĩ về cha mẹ, chăm sóc

cha mẹ, mà còn cứu giúp cha mẹ đến bến bờ giải thoát, qua khỏi vòng luân hồi

sinh tử.

Thị Kính là người con chí hiếu với cha mẹ. Khi được gia đình Thiện Sĩ đến

dạm hỏi, nàng ngập ngừng chưa muốn lấy chồng, bởi thương cha mẹ già hôm mai

vò võ không người chăm sóc:

69

Có ta một chút má đào,

Thần hôn cũng đã ra vào làm khuây.

Áo Lai chưa múa sân này

Thời đem kinh bố mà thay gọi là

Tòng phu nếu đã từ ra

Thừa hoan như lúc ở nhà được đâu

(Câu 79 - 84)

Chỉ khi cha già khuyên nhủ phải chăng, nàng mới vâng lời cất bước theo

chồng. Con gái đi lấy chồng, yên bề gia thất cũng là cách để báo hiếu cha mẹ. Và

Thị Kính như bao người con khác, đã chọn con đường ấy. Nhưng cuộc đời nàng

lại chẳng như mong muốn. Nàng thương cha mẹ khi bị gia đình Thiện Sĩ đuổi về.

Bởi theo quan niệm ngày xưa, con gái bị nhà chồng đuổi về nhà là nỗi nhục lớn

của cha mẹ. Trong đêm trở về nhà ngồi suy nghĩ, trước khi quyết chí đi tu “xuất

gia quyết một tâm liền”, nàng đã nghĩ rất nhiều và thương cha mẹ rất nhiều:

Tủi thay tóc bạc da mồi

Vì ai nên phải đứng ngồi chẳng khuây? (…)

Lấy chi báo đức sinh thiềng,

Dễ đem má phấn mà đền trời xanh (…)

Nghiêm Từ dành phúc về sau

Họa đền nghĩa nặng ân sâu nghìn trùng

(Câu 243 - 254)

Luôn canh cánh bên lòng nỗi niềm chưa báo đáp được công ơn cha mẹ,

nhưng trong cơn bĩ cực ấy, dường như Thị Kính lại được giác ngộ. Thiều Chửu

nhận định: “Như bà Thị Kính đây có bị hoàn cảnh éo le, cay đắng đến thế, mới

tỉnh giấc mộng trần, là quay lại bản giác, mà thấy tỏ cõi đời là khổ, là không, là vô

thường, mà quyết chí tu hành, mong ngày giải thoát” (Thiều Chửu, 2007). Như

vậy, chọn con đường đi tu cũng là cách để Thị Kính báo hiếu với cha mẹ, bằng

một con đường không thể nhiệm màu hơn: quy y cửa Bồ Đề, những mong Phật độ

trì cho cha mẹ đến bến bờ giác ngộ. Gạt nước mắt giả hình nam tử ra đi, trước khi

70

tìm được đến chùa Vân Tự, trên dặm trường xa ngái một thân một mình, Thị Kính

luôn nghĩ về gia đình:

Tưởng ân trời bể mông mênh

Dễ mà đền được ân tình ấy đâu

Tà tà bóng ngả cành dâu

Sớm khuya dưới gối ai hầu hạ thay

Vắng lời khuất mặt lúc này

Lòng người thiểu não biết ngày nào nguôi…

(Câu 297 - 302)

Về sau, khi đã nương mình chốn Thiền môn, ngày ngày “Khêu đèn Bát Nhã,

gióng chuông tham thiền”, Thị Kính vẫn không nguôi tưởng nhớ về quê nhà, về

cha mẹ:

Đòi cơn tưởng nhớ hương quê

Người đi ngàn dặm, lòng về năm canh.

(Câu 365 - 366)

Có những lúc nàng vọng về quê mẹ xa xa mà bùi ngùi:

Bạch vân khuất nẻo xa xa

Song thân ta đấy là nhà phải không?

Bể non chưa chút đền công

Bấy lâu nay những nặng lòng vì con

(Câu 569 - 572)

Trong nỗi nhớ của Thị Kính tới quê hương, mẹ cha ta thấy phảng phất bóng

dáng cô Kiều. Nàng Kiều của Nguyễn Du cũng vậy, mười lăm năm trời lưu lạc,

chưa giây phút nào không nguôi nghĩ về gia đình, về người thương. Ở đây, ta thấy

quan niệm về chữ hiếu của nhân dân ta rất rộng rãi, tiến bộ: đi tu không có nghĩa

là rũ bỏ hết những mối dây liên kết với trần ai, là xa lánh trốn tránh cuộc đời, mà

ngược lại người xuất gia phải là người vẹn tròn chữ hiếu. Thị Kính khi siêu thăng

thành Phật đã độ được cho mẹ cha cũng được nhập cõi niết bàn: “Ra tay cầm quyết

bước lên trên tòa - Siêu thăng thoát cả một nhà” (Câu 82 - 83). Nàng đã báo hiếu

71

đền ơn cha mẹ mình theo cách trọn vẹn nhất, nhờ vào khả năng giải thoát nhiệm

màu của Phật pháp vô biên.

Cùng với Quan Âm Thị Kính, một số truyện thơ Nôm tôn giáo khác cũng

đề cập đến chữ hiếu, đến đạo làm con đối với bậc sinh thành. Lưu Hương trong

Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển vì chữ hiếu mà miễn cưỡng nghe lời cha mẹ lấy

Mã Ngọc, mặc dù nàng đã một lòng ăn chay niệm Phật, theo ni sư Chân Không tu

hành. Cũng vì chữ hiếu nàng đã khuyên được cha mẹ bỏ nghề buôn rượu thịt, thôi

sát sanh, cứu độ được cho cha mẹ khỏi nghiệp chướng luân hồi. Truyện Quan Âm

Nam Hải cũng nhấn mạnh đến đạo hiếu ngay từ phần mở đầu:

Chân như đạo Phật rất mầu

Tâm trung chữ Hiếu, nhiệm màu chữ Nhân

Hiếu là độ được đấng thân

Nhân là vớt hết trầm luân mọi loài

(Bùi Thức Phước, 2015)

Vì chữ hiếu nàng Chúa Ba quyết chí tu hành. Sau này, vì chữ hiếu nàng

dâng đôi tay và đôi mắt để cứu cha. Trong suy nghĩ của nàng công chúa ấy:

Giữ chi hiếu nhỏ tầm thường

Giữ điều hiếu lớn mới dường báo ân

(Bùi Thức Phước, 2015)

“Hiếu nhỏ” là hiếu với cha mẹ, “hiếu lớn” là hiếu với nước với dân. Công

chúa Diệu Thiện đã thực hiện “điều hiếu lớn” ấy để báo đáp Tứ ân như lời Phật

dạy: Tứ ân: công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục, ơn thầy cô dạy dỗ nên người;

ơn chúng sinh xã hội giúp cho phương tiện sống; ơn quốc gia cho ta an cư lạc

nghiệp; ơn Tam Bảo giúp ta những gương mẫu và sống yên vui (Bùi Thức Phước,

2005). Đặc biệt, ngài Mục Kiền Liên trong Mục Liên Thanh Đề là biểu tượng về

lòng chí hiếu, khi ông kiên trì, chí thành sám hối và thành tâm kính lễ trai tăng

giúp mẹ thoát khỏi địa ngục, vãng sanh về miền cảnh giới an lành.

Lòng hiếu thảo là phẩm chất đẹp đẽ của các nhân vật truyện thơ Nôm tôn

giáo nói chung, của Quan Âm Thị Kính nói riêng. Tấm gương của các bậc chí hiếu

ấy mãi mãi soi chung cho các thế hệ sau:

72

Để lời thệ hải minh sơn

Làm con trước phải đền ơn sinh thành

(Nguyễn Giang Thạch, 1996)

Bên cạnh chữ hiếu, qua nhân vật Thị Kính, nhân dân ta còn ca ngợi một vẻ

đẹp sáng ngời, đó là chữ Nhẫn. Chữ Nhẫn (忍) trong tiếng Hán bao gồm chữ đao

(刀) ở trên và bộ tâm (心) ở dưới, với ngụ ý rằng người nhẫn là người có thể chịu

đựng hàng trăm mũi dao đâm vào tim mình. Chữ Nhẫn có nội hàm rất rộng: bao

gồm nhẫn nhịn, nhẫn nhục, kiên nhẫn, bao dung vị tha… Nhẫn chính là phẩm chất

thể hiện bản lĩnh con người. Kinh Hoa Nghiêm có câu: “Nhẫn nhất thời phong

bình lãng tĩnh -Thối nhất bộ hải khoát thiên không”.Có nghĩa là: Nhẫn một lúc gió

yên sóng lặng - Lùi một bước biển rộng trời cao. Đức Khổng Tử cũng dạy học trò:

“Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mưu” (nghĩa là: việc nhỏ mà không nhẫn được thì việc

lớn sẽ loạn). Ngoài ra, tục ngữ cũng đúc kết: “một sự nhịn chín sự lành”. Trong

các gia đình Việt Nam nhiều nhà thường treo bức thư pháp chữ Nhẫn, như muốn

tự răn mình và cháu con phải luôn luôn giữ gìn hòa khí để được trong ấm ngoài

êm.

Mở đầu truyện Quan Âm Thị Kính tác giả đã tuyên ngôn về chữ nhẫn: người

tu hành muốn đắc đạo thì việc đầu tiên là phải thực hành chữ nhẫn:

Nhân sinh thành Phật dễ đâu

Tu hành cứu khổ rồi sau mới thành

Ai hay một dạ làm lành

(Câu 1 - 3)

Nhẫn trong trường hợp này là khả năng chịu đựng của bậc tu hành, muốn

chứng quả đắc đạo thì phải có sức chịu đựng phi thường. Và để làm rõ chân lý ấy,

tác phẩm đã xây dựng hình tượng Thị Kính - Kính Tâm. Thị Kính là mẫu mực của

đức nhẫn nhịn và từ bi. Nàng nhẫn nhịn khi bị gia đình chồng vu oan, bị vu khống

cho tội tư tình với trai và mưu toan giết chồng:

Ngán thay chữa dép vườn dưa

Dẫu ngay đến chết cũng ngờ rằng oan

(Câu 133 - 134)

73

Trong trường hợp bị hàm oan như vậy, người phụ nữ yếu đuối nông nổi có

khi không chịu nổi mà tìm đến cái chết. Nhưng Thị Kính thì không, nàng can đảm

vượt qua nỗi oan khốc ấy, vượt qua sự dè bỉu chê trách của thế gian và chọn con

đường tu hành. Mang án oan giết chồng để được sống, chịu nỗi nhục bị đuổi về

nhà cha mẹ đẻ, đó là một sự nhẫn nhục phi thường. Chưa hết, người đọc lại một

lần nữa chứng kiến sự tận cùng nhẫn nhục của Thị Kính khi bị khép tội thông dâm

với Thị Màu. Ở tình huống thứ hai này, để minh oan thật dễ hơn nhiều, nàng chỉ

cần thú thật mình là phận gái, mọi việc sẽ rõ ràng. Nhưng Kính Tâm quyết không

tiết lộ, chấp nhận chịu mọi hình phạt trong nỗi oan thấu trời:

Mười phương Phật chín phương trời

Chưa hay đến sự dưới đời oan gia?

(Câu 533 - 534)

Nếu lần trước, Thị Kính nhẫn nhục để được sống, được đi tu báo hiếu cha

mẹ, thì lần này, nàng cam chịu khổ nhục là để được tiếp tục con đường tu hành:

Lặng nghe đau đớn lòng son

Kiếp tu thuở ấy có tròn được chăng!

Bây giờ cải dạng nam trang

Nói ra dễ giữ khói nhang được nào

(Câu 503 - 506)

Đối với người tu hành, chữ nhẫn cần phải được đặt lên hàng đầu. Phật dạy

rằng: “Hận thù diệt hận thù - Điều này không có được - Từ bi diệt hận thù - Là

định luật ngàn thu” (Kinh Pháp Cú 5). Lấy ân báo oán, đem lòng từ bi đối đãi với

hận thù, đó là cách ứng xử của bậc chân tu. Một lần nữa, Thị Kính tõ rõ đức hạnh

từ bi nhẫn nhục phi thường của mình khi nhận nuôi đứa con bỏ rơi của Thị Màu.

Ca dao có câu: “Con ai đem bỏ chùa này - A di đà Phật con thầy thầy nuôi”. Còn

Thị Kính, nàng nuôi con Thị Màu không những vì lòng vị tha bao dung của nàng

đối với người đã gây bao đau đớn tủi nhục cho mình mà hơn hết, vì lòng hiếu sinh

đối với một sinh linh bé bỏng, vì thiên chức làm mẹ của người phụ nữ Việt trước

đứa bé đỏ hỏn đang oa oa khóc trước mái tam quan:

Chẳng sinh cũng chịu cù lao

74

Xót tình măng sữa nâng vào trong tay

(Câu 611 - 612)

Bởi xuất phát từ lòng từ bi nhẫn nhục mà Thị Kính vượt qua nỗi nhục nhã,

khổ cực, không phải ngày một ngày hai mà tới ba năm trời, cho đến khi kiệt quệ

tấm thân. Đó là đức nhẫn đã đến mức quên mình như nhận xét của Thiều Chửu:

Tiểu Kính Tâm mẹ gà con vịt, lại tiếng nọ điều kia, mỉa mai cực

nhục, thế mà chỉ biết có một chủ nghĩa đã tin và chịu vâng theo Phật tổ, làm

cái chủ nghĩa xả thân cứu thế, mà chẳng quản nhọc nhằn, chẳng sợ chê

trách, nước lã coi như máu đào, mẹ vò cố nuôi con nhện, cái công quả ấy

mới xứng đáng với bốn chữ trời bể khôn tầy, chỉ có người tu hành Bồ Tát

trong Phật pháp mới làm nổi được.

(Thiều Chửu, 2007)

Từ câu chuyện nuôi con của Thị Kính, ta hiểu vì sao nuôi con là đức hạnh

lớn nhất của người phụ nữ. Và Thị Kính trên đường tu hành trải dài mười kiếp, thì

nuôi con là pháp tu khó nhất, vĩ đại nhất và cũng là pháp tu cuối cùng mà Ngài

phải vượt qua để được Đức Thế Tôn chứng giám và cho siêu thăng thành Phật.

Hạnh nguyện nhẫn nhục của Thị Kính cũng góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người

phụ nữ Việt, tôn vinh phẩm chất của người tu hành.

2.2.4. Niềm trân trọng những khát vọng bình dị của con người

Một trong những biểu hiện khá tiến bộ và sâu sắc của chủ nghĩa nhân đạo

mà ta bắt gặp trong văn học trung đại Việt Nam ở các tác gia cùng thời kì như

Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn và các truyện thơ

Nôm khuyết danh đó là nhà văn đã phát hiện và trân trọng những khát vọng bình

dị, đời thường của con người trong đời sống hằng ngày. Đó là niềm khát khao yêu

đương, khát khao hạnh phúc lứa đôi, khát khao cuộc sống yên bình, hạnh phúc,

đặc biệt là tiếng nói đòi quyền yêu quyền sống của người phụ nữ. Điều này trước

đó, nền văn học thành văn của nước ta, do những quy phạm ngặt nghèo của thi

pháp trung đại, chưa có được.

Trở lại với Quan Âm Thị Kính, niềm trân trọng những khát vọng bình dị của

con người được thể hiện chủ yếu qua hai nhân vật nữ: Thị Kính và Thị Màu. Ở

75

nhân vật Thị Kính, giai đoạn đầu của cuộc đời, khi chưa xuất gia, đó là khát vọng

gia đình hạnh phúc, cuộc sống an bình với “kẻ đường kim chỉ người nghề bút

nghiên”. Có lẽ, với người phụ nữ, không gì hạnh phúc hơn là được hôm sớm bên

chồng con, được hi sinh cho chồng con, vun đắp cho tổ ấm của mình, dù phải vất

vả gian nan, dù phải gánh cả giang san nhà chồng. Có thể nhận ra điều ấy qua bức

tranh cuộc sống gia đình khi Thị Kính về làm vợ Thiện Sĩ:

Có phen thề thốt dưới trăng

Một rằng thế thế hai rằng sinh sinh

Đá kia tạc lấy lời minh

Vòng đâu tương lấy chữ tình mà treo

(Câu 109 - 112)

Và trong mong ước của Thị Kính gửi gắm vào đức lang quân của mình về

một ngày không xa chàng đỗ đạt thành danh, nàng sẽ được thơm lây, cha mẹ được

nhờ cậy:

Khuyên chàng kinh sử đêm ngày

Thang mây mong ước ngấn giầy cho cao

(Câu 119 - 120)

Đặc biệt, khi gạt nước mắt từ biệt chồng sau khi bị vu oan, Thị Kính đã giãi

bày những mong ước nhỏ nhoi ấy của mình khiến cho Thiện Sĩ phải sụt sùi tiếc

nuối cho mối lương duyên lỡ dở, cho một gia đình sớm phải chia lìa tan tác:

“Kể từ kim cải duyên ưa

Giây leo cây bách mong nhờ về sau (…)

Vì đâu phút hợp phút ly

Kiếp này đã lỡ mong gì kiếp sau

Thiệt công ô thước bắc cầu

Chàng Ngưu, ả Chức giã nhau từ rầy”

(Câu 201 - 208)

Cũng xuất phát từ khát vọng lứa đôi, hạnh phúc gia đình mà Thị Kính có

hành động đưa dao ra định cắt râu mọc ngược cho chồng. Tiếc thay, xã hội đương

thời với những định kiến hẹp hòi, khắt khe đối với người phụ nữ, chỉ quen nhìn họ

76

ở khía cạnh con người nghĩa vụ, con người chính danh, nên đã không nhìn thấy cái

cử chỉ yêu thương và ấm áp ấy của Thị Kính. Do đó cả cha mẹ chồng, cả chồng

đều kết tội cho nàng một cách vô cảm, cứng nhắc, cay nghiệt.

Trong giai đoạn xuất gia đi tu, khát vọng của Thị Kính là giải thoát, cứu

khổ không chỉ cho mình mà còn cho cả cha mẹ, cho Thị Màu và đứa con Thị Màu.

Khi vào diện kiến sư thầy chùa Vân Tự, xin được nương nhờ Thiền môn, Thị Kính

đã tỏ bày tâm nguyện của mình, cũng là lí do nàng muốn đi tu:

Đoái trông sự thế nực cười

Như đem trò dối mà chơi khác gì

Phù vân một đóa bay đi

Khi thì áo trắng lúc thì muông đen (…)

Cho nên mến cảnh trụ trì

Dám xin nhờ đức Tăng Ni mở lòng

(Câu 337 - 346)

Đoạn thơ nói lên được ý nghĩa cốt tử của đạo Phật: coi cuộc đời là hư không

ảo ảnh, và tìm đến với Phật là tìm đến với sự giải thoát, bởi Phật là một đấng đại

giác ngộ, mang con thuyền từ bi phổ độ đến để cứu vớt chúng sinh khỏi những mê

lầm vượt qua bể khổ. Thị Kính đã “nghe tỏ đạo mầu” và tìm đến với Phật pháp

như thế. Cũng bởi từ khi nhìn ra được bản chất của đời người, Kính Tâm vượt qua

được nỗi nhớ nhà, thương cha thương mẹ hay những giây phút yếu lòng khi nghĩ

tới thân phận mình để dốc chí tu hành:

Này gươm trí tuệ mài đây

Bao nhiêu khổ não cắt ngay cho rồi

Hương xông pháp giới ngùi ngùi

Thông rung trống kệ, trúc hồi mõ kinh

(Câu 369 - 372)

Hành động cưu mang đứa con Thị Màu không chỉ thể hiện đức từ bi nhẫn

nhục, đức hiếu sinh bao la như trên đã phân tích, mà hơn hết, nó còn cho thấy khát

vọng thầm kín, đầy nhân bản ở người phụ nữ này: đó là khát vọng làm mẹ, khát

vọng nuôi con. Đối với người phụ nữ, làm mẹ, nuôi con là một bản năng trời phú,

77

một thiên chức cao cả, một nghĩa vụ thiêng liêng, một hạnh phúc vô bờ. Tiểu Kính

Tâm bao năm giả dạng nam nhi để tu hành, song khát vọng và bản năng làm mẹ

dường như không mất đi, nó chợt sống dậy mạnh mẽ khi nàng ôm đứa bé sơ sinh

trong tay mình “Xót tình măng sữa, nưng vào trong tay”. Đoạn thơ miêu tả cảnh

“mẹ vò nuôi con nhện” có lẽ là đoạn thơ cảm động nhất, lay động trời phật nhất:

“Nâng niu xiết nỗi truân chuyên - Nhai cơm mớm sữa để nên con người”. Vượt

qua những vất vả tủi nhục, người mẹ nuôi ấy có được những tháng ngày hạnh phúc

trong tình mẫu tử, giúp nàng nguôi ngoai những đắng cay nhọc nhằn:

Ra công nuôi bộ thực là

Những buồn, có trẻ hóa ra đỡ buồn

Khi trống giục, lúc chuông dồn,

Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày

(Câu 635 - 638)

Hạnh phúc chắt chiu, tội nghiệp nhưng thật đáng nâng niu. Nàng còn gửi

gắm ước mong vào đứa con hờ ấy, mong cho đứa bé một tương lai tươi sáng:

Mai ngày đến lúc trưởng thành

Cơ cừu dễ sáng tiền trình hơn xưa

(Câu 647 -648)

Đến đây, ta thấy chủ nghĩa nhân đạo của nhân dân gặp tư tưởng giải thoát

của nhà Phật: mong cho tất cả mọi chúng sinh đều vượt qua những tham sân si,

những vướng nợ trần tục, để sống cuộc đời an lạc, hạnh phúc.

Đặc biệt, biểu hiện này của chủ nghĩa nhân đạo thể hiện rõ nhất ở nhân vật

Thị Màu, một nhân vật phụ nhưng không hề mờ nhạt trong tác phẩm. Thị Màu

được xây dựng lên như là sự đối lập tính cách so với Thị Kính. Nhưng không hoàn

toàn là đáng trách mà còn đáng thương, không hoàn toàn đáng lên án mà còn cần

được cảm thông, mặc dù đặt trong hệ thống các truyện thơ Nôm, Thị Màu được

xếp vào tuyến nhân vật phản diện. Thị Màu còn là sự đối lập hoàn toàn với xã hội

phong kiến với khát vọng giải phóng bản ngã mạnh mẽ, với tiếng nói chống lại

những luật tục khắt khe, tiếng kêu đòi quyền yêu, quyền sống, quyền được là chính

mình cho con người. Thị Màu là một thôn nữ nhan sắc, con nhà quyền thế. Thị

78

Màu si mê chú tiểu Kính Tâm cũng là một tình cảm hết sức tự nhiên, và thị không

hề che đậy dục vọng của mình:

Liếc trông thấy tiểu dịu dàng

Sóng thu xui khiến cho nàng khát khao

(Câu 391 - 392)

Tình cảm ấy quả là táo bạo, bỏ ngoài tai những khuôn phép luật lệ đối với

người phụ nữ. Táo bạo hơn, Thị Màu còn gian díu với đứa thương đầu để thỏa mãn

dục vọng bản năng của mình. Để đến khi bị ép đến đường cùng, Thị lại đem khát

vọng yêu đương của mình ra trải lòng một cách ngây thơ, những mong làng sẽ giúp

mình se tơ kết tóc cùng chú tiểu:

Phép người đã cứ cung xưng

Yêu ai chỉ nấy may chưng được nhờ

(Câu 479 - 480)

Ta thấy trong khát vọng yêu đương rất người của Thị Màu cái nổi loạn của

Hồ Xuân Hương “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”, cái khao khát thầm kín

chân thật của người chinh phụ “nguyệt hoa hoa nguyệt trùng trùng - Trước hoa

dưới nguyệt trong lòng xiết đau” hay cái điên cuồng rồ dại của Xúy Vân “Tôi

thương nhân ngãi, tôi nhớ nhân tình - Đêm năm canh tôi thức cả vừa năm”… Song

khát vọng không chiến thắng được chiếc vòng kim cô của lễ giáo đang xiết chặt

trên đầu họ. Thị Màu cuối cùng phải tìm đến cái chết, như là hình phạt cho những

nghiệp chướng mà cô đã tạo cho mình, cho người khác. Nhưng hình ảnh cô Màu

với đôi mắt lúng liếng đưa đẩy đầy xuân tình, với khát khao yêu đương thành thực

vẫn sống mãi trong lòng người.

TIỂU KẾT

Tóm lại, Quan Âm Thị Kính là một truyện thơ Nôm tôn giáo nổi tiếng không

chỉ trong giới mộ đạo mà còn có sức sống lâu dài trong đời sống nhân dân. Nội

dung câu chuyện xoay quanh cuộc đời của Thị Kính - kiếp thứ mười của Bồ Tát

Quan Thế Âm. Tác phẩm thấm đẫm tinh thần Phật giáo Đại Thừa: đó là tư tưởng

luân hồi nghiệp báo, thuyết nhân quả, quan niệm cuộc đời là ảo ảnh hư vô… Đặc

biệt thông qua nhân vật chính, tác phẩm đề cao tinh thần từ bi hỷ xả của con người,

79

coi đó là phẩm hạnh, là điều kiện cốt yếu để xã hội được an bình, con người đến

được bến bờ giải thoát. Bên cạnh việc tuyên truyền cho những giáo lí Phật pháp,

tác phẩm còn chứa đựng nội dung nhân đạo sâu sắc, niềm cảm thương trước số

phận bất hạnh của những người dân lao động thấp cổ bé họng, phản ánh bức tranh

đời sống nông thôn trong xã hội phong kiến Việt Nam với những bất công ngang

trái, đồng thời ngợi ca những phẩm hạnh đức độ tuyệt vời của con người, nhất là

người phụ nữ, bên cạnh đó tác giả còn thể hiện sự trân trọng, đề cao khát vọng

sống của con người. Sự kết hợp, cộng hưởng tư tưởng tôn giáo với tư tưởng nhân

đạo đã giúp ta có cái nhìn tổng quan sâu sắc hơn về số phận con người, về bản chất

cuộc sống, đồng thời cũng thấy được tầm ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo trong

đời sống văn hóa, tâm linh của người Việt Nam.

Giữa tư tưởng tôn giáo và tư tưởng nhân đạo của truyện Quan Âm Thị Kính

có mối liên hệ sâu sắc và biện chứng. Tác phẩm trước hết là truyện Phật giáo, cho

nên nó mang tinh thần chung của Phật giáo, nhằm tuyên truyền cho các giáo lí nhà

Phật. Nhưng bản thân các tôn giáo (mà nhất là Phật giáo) luôn chứa đựng tinh thần

nhân đạo, với tư tưởng cốt yếu nhất là cứu độ con người, đưa con người vượt ra

khỏi những lầm lạc khổ đau, đến bến bờ giải thoát. Truyện thơ Nôm tôn giáo lại

hình thành và phát triển trong khoảng thời gian từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, giai

đoạn mà văn học Việt Nam cũng có nhiều thành tựu rực rỡ, đặc biệt chủ nghĩa

nhân đạo phát triển thành một trào lưu mạnh mẽ. Cốt lõi của tư tưởng nhân đạo

trong văn học cũng là con người, hướng đến con người, nhất là người phụ nữ. Do

đó, tư tưởng tôn giáo gặp gỡ, giao thoa với tư tưởng nhân đạo trong văn học Việt

Nam thời hậu kì trung đại. Xem xét truyện thơ Nôm tôn giáo nói chung, Quan Âm

Thị Kính nói riêng, ta thấy tư tưởng tôn giáo đã hòa quyện với tư tưởng nhân đạo

trong một ánh sáng chung là đồng cảm với nỗi khổ của con người và kiếm tìm con

đường đến sự giải thoát.

Quan Âm Thị Kính cũng giống như các truyện cổ dân gian hay các truyện

thơ Nôm khuyết danh khác, có chung motif kết thúc có hậu, ở hiền gặp lành, ác

giả ác báo. Từ đó tác phẩm có ý nghĩa giáo dục con người có ý thức tu thân, tích

đức, gieo nghiệp lành… Lẽ tất nhiên do những hạn chế của lịch sử cho nên các tác

80

giả cũng chưa nhìn thấy ở quần chúng cái động lực để giải quyết các vấn đề thời

đại đặt ra, cho nên trong đấu tranh họ phải nhờ đến những lực lượng siêu hình như

thần phật giúp đỡ. Nhưng thần phật cũng chỉ có mặt để cho con người chiến đấu

hết mình với hoàn cảnh. Trong cuộc đấu tranh sinh tử ấy, con người vẫn phải chủ

động, vẫn phải nỗ lực rất nhiều.

81

Chương 3

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT

TRUYỆN THƠ NÔM QUAN ÂM THỊ KÍNH

3.1. Kết cấu truyện Quan Âm Thị Kính

Kết cấu của tác phẩm văn học được hiểu là sự tổ chức, sắp xếp các thành

tố, yếu tố vào trong một chỉnh thể theo ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Bởi bất cứ

một tác phẩm văn học thuộc thể loại nào, dung lượng nhiều hay ít, đều là một chỉnh

thể nghệ thuật chặt chẽ, có tính trọn vẹn về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức.

Kết cấu luôn gắn bó không tách rời với nội dung tác phẩm. Kết cấu vừa cho thấy

ý tưởng của tác giả trong việc truyền tải nội dung tư tưởng, vừa thể hiện tài năng

nghệ thuật của họ trong việc triển khai tổ chức tác phẩm. Xem xét kết cấu của một

tác phẩm giúp người đọc lĩnh hội được phong cách sáng tác của nhà văn, đồng thời

cũng nắm bắt được đặc trưng thể loại trong sự vận động của lịch sử văn học. Hiện

nay có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về kết cấu của tác phẩm văn học. Các

tác giả Lí luận văn học định nghĩa: “Kết cấu tác phẩm là toàn bộ tổ chức tác phẩm

phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt

ra cho mình. Kết cấu tác phẩm không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư

tưởng tác phẩm” (Phương Lựu, 2002). Còn trong Từ điển thuật ngữ văn học, khái

niệm kết cấu được hiểu là “toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm”

(Lê Bá Hán và cộng sự, 1997). Có rất nhiều hình thức kết cấu khác nhau tùy thuộc

vào sự lựa chọn của nhà văn và từng thể loại. Bất kì tác phẩm nào cũng có một kết

cấu nhất định. Trong mỗi tác phẩm, nhà văn cũng có thể vận dụng nhiều hình thức

kết cấu khác nhau để phục vụ cho mục đích nghệ thuật của mình. Do vậy một tác

phẩm văn học có thể có nhiều dạng kết cấu phối hợp.

Truyện Quan Âm Thị Kính vừa mang mô hình kết cấu của hệ thống các

truyện thơ Nôm cùng thời, vừa có cách thức kết cấu đặc thù của nhóm các truyện

thơ Nôm tôn giáo. Trong khuôn khổ cho phép của đề tài nghiên cứu, chúng tôi

không thể đi hết các bình diện kết cấu mà chỉ tập trung nghiên cứu kết cấu truyện

82

Quan Âm Thị Kính từ các phương diện chính của văn bản tự sự: kết cấu cốt truyện,

kết cấu nhân vật, kết cấu thời gian - không gian nghệ thuật.

3.1.1. Kết cấu cốt truyện

Cốt truyện được hiểu là “hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu

tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong

hình thức động của tác phẩm thuộc các loại tự sự và kịch” (Lê Bá Hán và cộng sự,

1997). Nếu cốt truyện là một khái niệm thuộc phạm trù nội dung thì kết cấu lại là

yếu tố thuộc về hình thức. Kết cấu cốt truyện là cách sắp xếp tổ chức hệ thống các

sự kiện trong tác phẩm sao cho hợp lí, phù hợp với nội dung. Tác giả Hồ Thị Yến

Minh đã phân chia hai kiểu kết cấu cốt truyện trong truyện thơ Nôm khuyết danh

là: Kết cấu theo mô hình: gặp gỡ - tai biến – đoàn viên, và mô hình kết cấu Nhân

– quả (Hồ Thị Yến Minh, 2016). Còn theo Nguyễn Thị Nhàn, truyện Nôm tôn giáo

“không có dạng thức kết cấu giống các tác phẩm khác cùng thể loại”. Thay vào

các chặng đời của nhân vật phàm trần phải trải qua, tôn giáo đã hoán cải bản chất

sự việc và sắc thái thẩm mỹ. Sự kiện tai biến vừa là giả tưởng tôn giáo, vừa là

chặng thử thách của cõi Thiền. Trường đoạn lưu lạc được thay bằng thời gian tu

luyện đạo. Kết thúc đoàn viên được biến thành chứng quả đắc đạo (Nguyễn Thị

Nhàn, 2004). Các cách phân chia và giới thiệu mô hình trên đều có cơ sở song

chưa thực sự phù hợp khi áp dụng vào truyện thơ Nôm tôn giáo. Trên cơ sở mô

hình kết cấu của truyện thơ Nôm và những gợi ý của tác giả Nguyễn Thị Nhàn,

chúng tôi phác thảo mô hình kết cấu của truyện Quan Âm Thị Kính là: Mở đầu -

Thử thách và tu luyện - Đắc đạo. Đây cũng có thể coi như mô hình kết cấu cốt

truyện chung của nhóm truyện thơ Nôm tôn giáo.

Theo đó, thay vì mở đầu truyện bằng giai đoạn “gặp gỡ và đính ước” như

trong các truyện thơ Nôm khác (đặc biệt các truyện tài tử giai nhân) như Truyện

Kiều, Lục Vân Tiên, Tống Trân Cúc Hoa, truyện thơ Nôm tôn giáo mở đầu bằng

những câu thơ nêu lên triết lí nhà Phật, sự nhiệm màu của Phật pháp và công lao

khổ hạnh của người tu hành (nhân vật chính). Thiều Chửu gọi phần này trong Quan

Âm Thị Kính là “Chỉ đường chính giác”:

Nhân sinh thành Phật dễ đâu

83

Tu hành cứu khổ rồi sau mới thành (…)

Đức Quan Âm ấy truyện đời còn ghi

(Câu 1 - 14)

Đoạn thơ đượm ý vị giáo huấn của nhà Phật: coi cuộc đời là tạm bợ, nhân

sinh là bể khổ. Con người muốn vượt qua vòng sinh tử tới bến bờ giác ngộ thì phải

trải qua nhiều kiếp nạn chất chồng, phải kinh qua thử thách, được Đức Thế Tôn

chứng giám lòng thành. Trong Nam Hải Quan Thế Âm, phần này cũng được trình

bày súc tích, nêu lên được sự nhiệm màu của Phật pháp và hạnh nguyện của Đức

Chúa Ba:

Chân như đạo Phật rất mầu

Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân (…)

Này trong bể nước Nam ta

Phổ Môn có đức Phật Bà Quan Âm

Niệm Ngài thường niệm tại tâm

Dẫn xem sự tích ca ngâm cho tường

(Bùi Thức Phước, 2015)

Trở lại với truyện Quan Âm Thị Kính, sau đoạn “chỉ đường chính giác” là

phần chi tiết hơn, dung lượng dài hơn, giới thiệu về lai lịch của nhân vật chính (Thị

Kính). Cách giới thiệu theo tâm thức tôn giáo: trải quan nhiều thân kiếp, trước là

đàn ông đã tu được chín kiếp, vì một niệm mê lầm mà phải luân hồi thêm kiếp nữa,

làm thân gái con nhà Mãng ông, xinh đẹp nết na hiền thục, rồi kết hôn với Thiện

Sĩ, một Nho sinh trong làng, cuộc sống êm đềm trôi qua. Cách giới thiệu nhân vật

(người phàm trần trước khi phi thăng thành Phật bà) này tương tự như truyện cổ

và các truyện thơ Nôm khác.

Chặng Thử thách và tu luyện chiếm dung lượng nhiều nhất và là phần quan

trọng nhất trong tác phẩm (từ câu 125 đến câu 670, chiếm gần 70% dung lượng).

Như vậy, phần lớn nội dung tác phẩm diễn giải hai nỗi oan của Thị Kính, nỗi oan

sau nối tiếp nỗi oan trước và nặng nề hơn nỗi oan trước, cũng là thử thách lớn lao

hơn, khắc nghiệt hơn đối với người tu hành, trước khi đặt chân tới bờ giác ngộ.

Chữ nhẫn và hạnh từ bi là tư tưởng xuyên suốt của chặng đường này. Do ảnh

84

hưởng của tư tưởng nhà Phật, truyện đã gia công xây dựng và mô tả sức chịu đựng,

sự đày đọa khổ ải của nhân vật. Thị Kính luôn bị xô đẩy vào những tình huống bi

kịch không tìm được lối thoát. “Từ chi tiết cắt râu chồng mọc ngược, oan khiên

dồn chất mãi lên cuộc đời Thị Kính. Đoạn này tương đương với sự kiện tai

biến, mà thực chất là chặng thử thách chữ nhẫn và cũng là diễn tả quy luật vô

thường của thế gian” (Nguyễn Thị Nhàn, 2004). Nếu như ở phần mở đầu nêu lên

những nguyên lý chung, chân lý phổ quát của đạo Phật thì phần Thử thách và tu

luyện là phần diễn giải các triết lí Phật giáo chi tiết nhất, cụ thể rõ ràng nhất, vừa

gián tiếp thông qua chuỗi sự kiện của nhân vật, vừa trình bày trực tiếp qua lời thoại

nhân vật hay ngôn ngữ tác giả. Đoạn Thị Kính đến chùa Vân Tự gặp sư thầy là ví

dụ điển hình:

Sư rằng: “Này đạo từ bi

Rộng đường phổ độ hẹp gì trần duyên…”

(Câu 323 - 324)

Ý nói rằng cửa Phật luôn rộng mở, đạo Phật là đạo cao cả vô biên, luôn độ

cho hết thảy chúng sinh. Hay câu nói của sư thầy:

Kìa bào kìa ảnh phút qua

Kia sương kìa chớp kìa là chiêm bao

(Câu 349 - 350)

Câu nói lấy ý từ Kinh Kim Cương, ý rằng: “Hết thảy mọi vật có vì lẽ gì mà

làm ra, đều là trò dối, biến huyễn vô thường, như bọt nước, như bóng câu, như

sương mai, như chớp nhoáng, như chiêm bao vậy” (Thiều Chửu, 2007). Cũng

chính Thiều Chửu cho rằng “Đoạn này là đoạn cốt tử trong toàn bộ Bản hạnh này.

Hiểu hết đoạn này thì chân lý nhà Phật mười phần đã rõ được bảy rồi”. Ở các

truyện thơ Nôm tôn giáo khác phần thử thách và tu luyện của nhân vật chính cũng

chiếm phần lớn nội dung cốt truyện như thế. Trong Mục Liên Thanh Đề đó là cảnh

tượng Mục Liên chứng kiến mẹ mình bị đày xuống ngục ngạ quỷ với bao nhiêu

trừng phạt đọa đày, là những việc mà Ngài Mục Liên đã làm hết sức để cứu mẹ và

cứu muôn loài muôn vật thoát khỏi địa ngục. Trong Lưu Hương diễn nghĩa bảo

quyển là chuỗi ngày dài Lưu Hương sống ở nhà chồng, bị ngăn cấm việc tu đạo, bị

85

vu oan giá họa, bị hành hạ dã man bởi mẹ chồng và hai chị dâu, bị đẩy ra ngoài

nghĩa địa…

Phần Đắc đạo là phần khép lại tác phẩm, chiếm dung lượng không nhiều

nhưng nó có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển cốt truyện. Nó là minh

chứng cho triết lý Phật giáo đã được nói đến một cách phổ quát ở phần mở đầu, nó

là “phần thưởng” cho nhân vật chính sau bao ngày tu luyện khổ ải. Nó mang đến

niềm tin tôn giáo cho người đọc với ý nghĩa: tích thiện phùng thiện tích ác phùng

ác. Đa số nhân vật chính đều đạt được ý nguyện của mình. Ở Quan Âm Thị Kính,

phần cuối truyện không chỉ nói lên công cuộc tu hành đắc đạo của Thị Kính - Kính

Tâm, mà còn là mở nút thắt cho cốt truyện, giải quyết những mâu thuẫn, xung đột

diễn ra trong toàn bộ câu chuyện: một bên là những người được Phật độ trì, được

đến miền cực lạc, bên cạnh Thị Kính được siêu thăng thành Phật Quan Âm còn có

cha mẹ Thị Kính, đứa tiểu nhi, Thiện Sĩ; một bên phải trả giá cho những nghiệp

chướng tai ách mình gây ra: Thị Màu, nhà phú ông. Phép Phật là có thật và công

bằng cho tất cả mọi người:

Ai hay phép Phật nhiệm màu

Có khi nước Trúc ở đâu cũng gần

(Câu 769 - 770)

Thị Kính khổ tâm tu luyện không chỉ giúp mình giải thoát, mà còn độ được

mẹ cha, chồng, đứa con nuôi, giúp họ thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử. Như vậy

cũng có thể xem kết thúc truyện thơ Nôm tôn giáo là kết thúc có hậu, thay vì màn

đoàn tụ thì ở đây là chứng quả đắc đạo, là quả phúc như lý tưởng mà nhân vật

chính theo đuổi: lý tưởng tu hành.

3.1.2. Kết cấu nhân vật

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, nhân vật văn học là “Con người cụ thể

được miêu tả trong tác phẩm văn học (…). Khái niệm nhân vật văn học có khi

được dùng như một ẩn dụ, không chỉ một nhân vật cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện

tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm” (Lê Bá Hán và cộng sự, 1997). Kết cấu nhân

vật được hiểu là sự tổ chức, sắp xếp các nhân vật trong tác phẩm vào hệ thống theo

một ý đồ nghệ thuật nào đó nhằm đạt hiệu qủa thẩm mĩ nhất định.

86

Cũng tương tự như phương thức kết cấu nhân vật của truyện cổ dân gian

Việt Nam, truyện trung đại hay gần hơn là các truyện thơ Nôm cùng thời, hệ thống

nhân vật trong truyện Quan Âm Thị Kính được kết cấu theo hai tuyến đối lập chính

– tà, thiện – ác. Một bên đại diện cho chính nghĩa, cái đẹp, điều thiện lành và một

bên ngược lại. Hai lực lượng này luôn đấu tranh với nhau không khoan nhượng,

và thông thường thì ban đâu, tuyến thiện yếu thế hơn, thua thiệt hơn, tuyến ác lấn

át hơn, nhưng cuối cùng chiến thắng bao giờ cũng thuộc về tuyến thiện, mà đại

diện là nhân vật chính (với phần thưởng xứng đáng là sự tu hành đắc đạo của Thị

Kính). Mỗi tuyến nhân vật được xây dựng theo những phương thức nghệ thuật

riêng. Trong đó tuyến thiện gồm: Thị Kính (nhân vật chính, và nhân vật chính

đương nhiên thuộc về tuyến thiện), ông bà họ Mãng, sư thầy, đứa tiểu nhi… (không

giống như các tác phẩm tự sự hiện đại, nhân vật chính có thể thuộc tuyến ác hoặc

lưỡng tuyến). Tuyến ác gồm: Thị Màu, vợ chồng phú ông, ông bà họ Sùng. Riêng

Thiện Sĩ thuộc kiểu nhân vật nước đôi. Vì không có chính kiến, vì sống nhu nhược

nên có khi anh ta thuộc tuyến thiện (khi sụt sùi tiễn biệt Thị Kính, khi lặn lội cùng

ông bà họ Mãng vượt chặng đường xa xôi đến chịu tang Thị Kính), có khi anh ta

lại thuộc về tuyến ác (khi a dua theo cha mẹ vu tiếng oan cho Thị Kính). Vì tội của

anh ta nhiều hơn công (mấu chốt gây ra nỗi oan trái thứ nhất cho Thị Kính khiến

nàng chịu trầm luân khổ ải) nên anh ta bị người đời ghét hơn là thương, lên án

nhiều hơn là cảm thông, tha thứ.

Cuộc đấu tranh giữa hai tuyến nhân vật là cuộc đấu tranh bền bỉ, không

khoan nhượng để chứng minh cho chân lý: ở hiền gặp lành ở ác gặp ác. Đây cũng

là mô thức kết cấu chung của truyện cổ dân gian và truyện trung đại. Tuy nhiên,

cuộc đấu tranh giữa hai lực lượng ấy trong truyện thơ Nôm tôn giáo khác về bản

chất. Do đặc trưng truyền bá giáo lí nhà Phật, truyện Nôm tôn giáo không có những

cảnh trả thù, lấy oán báo oán như trong các truyện khác (những phen trả thù quyết

liệt của Tấm trong truyện Cái Tấm cái Cám, màn ân đền oán trả của Thúy Kiều

trong Đoạn trường tân thanh…), mà ngược lại, các nhân vật trong truyện Nôm tôn

giáo luôn luôn lấy chữ nhẫn nhục hỉ xả lên hàng đầu:

Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa

87

Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu

(Câu 583 - 584)

Thị Kính nhẫn nhịn nuốt nước mắt khi bị vu oan giết chồng, bị đuổi về nhà

cha mẹ đẻ, chịu bao nỗi oan khiên, không dám oán trách nhà chồng, trước khi về

còn phải lạy tạ cha mẹ chồng và chồng. Khi bị án oan thông dâm, bị làng khép tội

và tra tấn “Làm cho chín khúc cũng đau - Đào nhăn nhó mặt liễu cau cớn mày”,

Thị Kính cắn răng chịu đựng để giữ kín thân thế, tiếp tục tu hành. Khi Thị Màu

mang con đến ăn vạ, Thị Kính dang đôi tay, mở lòng từ bi đón nhận “phúc thời

làm phúc dơ đành chịu dơ”, chịu biết bao điều tiếng chê bai của người đời.

Tương tự như Thị Kính, nàng Diệu Thiện trong Nam Hải Quan Thế Âm

cũng lấy ân đền oán. Dù bị Trang Vương cấm đoán, tra tấn cả về thể xác lẫn tinh

thần, để ngăn cản nàng theo con đường xuất gia, buộc nàng lấy chồng để chọn

người nối ngôi, song Chúa Ba vẫn tận hiếu với cha, cứu cha khỏi những tai ách,

bệnh tật. Nàng Lưu Hương trong Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển cũng vậy, dù

bị gieo tiếng oan, bị hành hạ dã man bởi anh em bên chồng, nhưng ta tuyệt nhiên

không thấy những màn trả thù báo oán của nhân vật chính. Ngược lại nàng luôn

lấy đạo Phật ra để khuyên nhủ, cảm hóa mọi người.

Xung đột truyện phát triển theo sự phát triển của nhân vật chính. Cụ thể,

các xung đột của truyện tăng dần theo nỗi oan của Thị Kính. Tương ứng với 2 nỗi

oan ấy là hai giai đoạn cuộc đời. Cũng giống như xung đột trong truyện Cái Tấm

cái Cám, nỗi oan thứ nhất gắn với xung đột trong quan hệ gia đình (phạm vi hẹp).

Nỗi oan thứ hai gắn với xung đột trong quan hệ xã hội, giai cấp, thứ bậc (phạm vi

rộng hơn). Nỗi oan càng tăng xung đột càng dữ dội, đẩy dần lên cao trào, tạo nên

kịch tính cho câu chuyện.

Việc chia hệ thống nhân vật thành hai tuyến đối lập cũng nhất quán và có

tính ổn định, vì thế kết cấu nhân vật có tính vững chắc. Không có chuyện nhân vật

ban đầu là thiện về sau lại ác hoặc ngược lại (điều này cũng khác hẳn với thi pháp

nhân vật trong văn học hiện đại). Tức là nhân vật không có sự phát triển tính cách,

tính cách nhân vật ổn định từ đầu đến cuối truyện.

88

Một điểm quan trọng không kém là: nhân vật chính thuộc tuyến thiện

thường nghiêng về phía Đạo (hoặc có ý chí tu hành từ nhỏ như Chúa Ba, Lưu

Hương, Mục Liên, Phật Tổ, hoặc có duyên với đạo, gặp biến cố mà đến với Đạo

như Thị Kính), còn nhân vật thuộc tuyến ác nghiêng về phía Đời (dĩ nhiên không

phải ai thuộc về phía Đời đều ác, cũng không phải Đạo xung đột với Đời). Do mục

đích của truyện thơ Nôm tôn giáo là để tuyên truyền cho giáo lí nhà Phật, kể chuyện

tôn giáo nên các tác giả chủ đích xây dựng nhân vật chính là các hình tượng tôn

giáo. Để làm nổi bật đức độ lòng từ bi của các hình tượng tôn giáo ấy, nhà văn đã

xây dựng các nhân vật đối lập. Ví dụ: đức tính nhẫn nhục của Thị Kính chỉ được

nổi rõ khi bị nghi oan là âm mưu giết chồng (vì vậy các nhân vật thuộc tuyến ác

trong giai đoạn đầu cuộc đời Thị Kính được xây dựng nên: đó là Sùng bà, Sùng

ông, Thiện Sĩ nhằm thử thách đức nhẫn nhịn, tâm từ bi hỉ xả của Thị Kính. Trừ

Thiện Sĩ ra, hai nhân vật kia về sau không xuất hiện nữa vì không còn vai trò trong

việc thúc đẩy sự phát triển cốt truyện cũng như phục vụ tư tưởng chủ đề tác phẩm).

Và tình tiết thứ nhất này chính là căn nguyên, là cái duyên để Thị Kính đến với

đạo Phật. Ở giai đoạn thứ hai (giai đoạn Kính Tâm tu ở chùa), các nhân vật phản

diện như Thị Màu, Phú ông và bóng dáng của làng xuất hiện như là “phép thử”

đức hạnh của bậc tu hành. Nếu không có chuỗi tình tiết Thị Màu ve vãn chú tiểu,

đổ oan tình, làng phạt vạ, Thị Màu mang con đến bỏ ở cổng chùa, thì công cuộc tu

hành của Thị Kính chỉ đơn thuần với tiếng mõ câu kinh hằng ngày mà thôi, Phật

Thích Ca không thể chứng quả cái thử thách “Thử cho đầy đọa suốt đời xem sao”

đối với người tu hành này được. Thị Kính đã đúc kết những oan trái của mình qua

những câu độc thoại nội tâm:

Ngỡ rằng qua hạn Cự môn

Ai hay Thái tuế hãy còn theo đây

Tiền sinh nghiệp chướng có dầy

Cho nên trời bắt đem đầy nhân gian

Mắt phàm khôn tỏ ngay gian

Hai phen đem buộc tiếng oan tầy trời

(Câu 573 - 578)

89

Mỗi thử thách của Thị Kính trong hành trình đến với cõi Phật đều do một

số nhân vật góp phần tạo nên. Cho nên, các nhân vật thuộc tuyến ác trong truyện

được sinh ra với vai trò thử thách nhân vật chính trên con đường tu đạo.

3.1.3. Kết cấu không gian - thời gian nghệ thuật

Xây dựng kết cấu không gian - thời gian nghệ thuật là một thành công đặc

sắc của tác giả Quan Âm Thị Kính. Không gian và thời gian là những đối tượng vật

chất, không có sự vật nào tồn tại bên ngoài không gian và thời gian. Hình tượng

nghệ thuật trong tác phẩm văn học cũng tồn tại trong không - thời gian nhất định,

đó gọi là không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật.

3.1.3.1. Kết cấu theo không gian Đời và không gian Đạo

Thuật ngữ không gian nghệ thuật được hiểu là “hình thức bên ngoài của

hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó (…) không gian nghệ thuật

có tính độc lập tương đối, không quy được vào không gian địa lý” (Lê Bá Hán và

cộng sự, 1997). Không gian nghệ thuật được hư cấu dựa trên không gian có thực

và những quan niệm về không gian của nhà văn. Do đó nó được xem là sản phẩm

sáng tạo, là một hình tượng nghệ thuật. Không gian nghệ thuật góp phần hình thành

nên cấu trúc bên trong của tác phẩm, đồng thời cho thấy quan niệm của nhà văn

về thế giới, không gian nghệ thuật là bối cảnh thể hiện nội tâm, tính cách, hoàn

cảnh của nhân vật.

Trong Quan Âm Thị Kính, không gian được kết cấu theo hai mảng chủ đạo

là không gian thuộc cõi Đời và không gian thuộc cõi Đạo. Theo đó, không gian

Đời có thể thu về trong bối cảnh gia đình, làng xã, đường sá… có địa danh cụ thể

hay địa danh phiếm chỉ. Ở phần Mở đầu, khi giới thiệu lai lịch nhân vật, tác giả đã

dựng lên không gian sinh sống, làm nền để chân dung nhân vật chính (Thị Kính)

xuất hiện. Trước hết là một địa danh cụ thể:

Cao Ly là nước lớn thay

Đại Bang thành vốn xưa nay gọi là

Lũng Tài quận ấy bao xa

Hồ Nam, huyện Bắc có nhà Mãng ông

(Câu 29 - 32)

90

Cách giới thiệu địa danh khá chi tiết theo thi pháp của văn học cổ. Tuy lấy

bối cảnh là một đất nước xa xôi (có nhiều giả thuyết cho rằng Cao Ly là một vương

quốc thuộc bán đảo Triều Tiên ngày nay), nhưng sự việc, con người, văn hóa, tâm

linh trong không gian ấy lại rất thân thuộc, gần gũi với đất nước, con người nước

ta. Cho nên cũng giống như các truyện thơ Nôm khác, người đọc nghiễm nhiên coi

đó là bối cảnh xã hội Việt Nam thời phong kiến. Không gian nhà chồng của Thị

Kính cũng ở gần đó và “có vẻ như” thuộc nếp nhà gia giáo “Ở trong vùng có họ

Sùng - Sẵn khuôn y bát vốn dòng cân đai”. Qua đó ta thấy được toàn bộ bối cảnh

của câu chuyện về nàng Thị Kính: đó là không gian gia đình, làng xã nông thôn

Việt Nam thời phong kiến suy tàn, tạo nên hệ quy chiếu điểm nhìn để đánh giá các

nhân vật cũng như tư tưởng chủ đề của truyện.

Trên đây là bối cảnh chung, là không gian rộng lớn, còn không gian hẹp

hơn làm nền cho nhân vật hoạt động, bộc lộ tính cách là không gian gia đình, không

gian riêng tư của lứa đôi, ví như:

Hôm mai trong chốn thâm khuê

Kẻ đường kim chỉ, người nghề bút nghiên

(Câu 123 - 124)

Câu thơ vẽ ra một cảnh tượng gia đình ấm cúng: dưới một ngọn đèn chung,

vợ ngồi khâu vá, chồng dùi mài nghiên bút, thỉnh thoảng lại nhìn nhau nở một nụ

cười. Nhưng đó là quãng đời hạnh phúc ngắn ngủi của Thị Kính gắn với đời, với

đạo nghĩa vợ chồng, với bổn phận dâu con. Chẳng lâu sau đó đã là một không gian

hoàn toàn khác:

Xuất gia quyết một tâm liền

Phụ tinh đới nguyệt bước lên dặm trường

(Câu 163 - 164)

Trước mắt nàng là không gian của vũ trụ đêm thăm thẳm, của trăng sao. Đó

là không gian dặm trường xa ngái, không gian mịt mùng không biết đâu là bến bờ

của người phụ nữ đơn côi, vừa mới trải qua biến cố lớn của cuộc đời, chông chênh

và vô định, dù trong lòng nàng đã quyết chí xuất gia đi tìm đến nẻo Phật. Còn trong

tâm tưởng của cha mẹ già, khi bặt tin con, đó lại là không gian đầy bất trắc:

91

Biết đâu dặm thẳm đường xa

Biết là giếng cạn hay là bể sâu

(Câu 269 - 270)

Ở giai đoạn sau của cuộc đời Thị Kính, không gian của Đời không còn bó

hẹp trong phạm vi gia đình nữa mà mở rộng ra thành làng xã. Ở đó có nhiều thành

phần phức tạp hơn, nhiều luật lệ trói buộc hơn, và lẽ đương nhiên, cũng khắc nghiệt

hơn nhiều. Ta nghe trong không gian ấy âm thanh tiếng mõ “nguyệt bình” rao từ

đầu làng tới cuối xóm, tiếng mõ báo trong làng có sự, tiếng mõ khiến ai cũng phải

lắng tai chú ý, tiếng mõ có khi làm tiêu tan cả một đời người. Đó là tiếng mõ báo

tin Thị Màu hoang thai, tiếng mõ chát chúa báo hiệu những hình phạt nặng nề đối

với người phụ nữ:

Khôn thời thưa thốt cho xong

Khéo là bè chuối trôi sông chẳng là

(Câu 148 - 149)

Đi sau tiếng mõ ấy sẽ là tiếng xấu không thể xóa nhòa đối với một con

người, sẽ là những trận đòn oan, là nỗi đắng cay thấu trời đối với một con người

khác. Không gian làng xã với lũy tre, với cây đa bến nước sân đình vốn là chiếc

nôi êm, là nơi ai cũng thổn thức nhớ về, nhưng cũng là không gian gây nhiều ám

ảnh, trói buộc con người với những luật tục hà khắc, cổ hủ do chính con người

nghĩ ra để đày đọa nhau. Do đó nó là không gian tù túng quẩn quanh ngột ngạt như

chiếc ao tù mà họ - vì những mối dây liên kết chằng chịt - không thể nào thoát ra.

Không gian ấy hiện lên đậm đặc qua cảnh làng tra khảo Thị Màu và buộc tội, đánh

đập Thị Kính:

Nói sao cũng cứ chi chi

Thằng roi đứa nọc tức thì truyền mau

Làm cho chín khúc cũng đau

Đào nhăn nhó mặt, liễu cau cớn mày

Hải đường gặp trận gió tây

Lá rụng lai láng, hoa bay tơi bời

(Câu 527 - 532)

92

Nếu không gian Đời gắn liền với những nỗi oan của Thị Kính, gắn với mối

liên hệ của Thị Kính với xã hội, thì không gian Đạo lại gắn với công cuộc tu hành,

gắn với quãng thời gian chiêm nghiệm về đời mình, về Phật pháp. Không gian Đạo

trong tác phẩm chính là không gian tôn giáo, nhà chùa, không gian tâm linh. Bắt

đầu là khung cảnh nên thơ yên bình của non nước chùa Vân hiện ra dưới con mắt

của Thị Kính sau bao ngày cất bước ra đi:

Bốn bề phong cảnh lạ thay!

Bồng lai kia cũng thế này mà thôi

(Câu 309 - 310)

Bên cạnh cảnh thiên nhiên hữu tình là cảnh Bồ Đề hiện ra với tất cả sự

nhiệm màu: này là cửa thuyền, này là sư cụ ngồi đọc kinh với “Mưa hoa rẩy khắp

bên mình - Nhấp nhô đá cũng xếp quanh gật đầu”. Cảnh tình ấy khiến Thị Kính

bén duyên ngay: “Mới hay đạo Phật pháp mầu - Nghĩ đây cũng dễ đổi sầu làm

vui. Tiếp sau đó là những tháng ngày Kính Tâm sống trọn vẹn trong không gian

Đạo, dù có những lúc vui, lúc buồn, lúc nhớ quê nhà:

Vâng lời nương cảnh thượng phương

Khêu đèn Bát nhã, gióng chuông tham thiền (…)

Hương xông pháp giới ngùi ngùi

Thông rung trống kệ, trúc hồi mõ kinh

Có người cảnh lại càng thanh

(Câu 361 - 373)

Đây là một trong những đoạn thơ miêu tả cuộc sống bình yên của Thị Kính

bên bóng mát của Phật, ngày ngày làm bạn với tiếng mõ câu kinh, với mùi hương

pháp giới, với trúc thông… Không gian Đạo rõ ràng làm cho người ta thanh cao

hơn, trong sáng hơn. Ngay cả khi bị vu oan, bị tra tấn, hay khi vất vả nuôi con Thị

Màu, thì Kính Tâm vẫn sống với không gian của cõi Đạo, chính không gian ấy

giúp nàng kiên định hơn để vượt qua sóng gió, thanh thản hơn để thực hành đạo

hiếu sinh:

Nương mình bên cụm cúc hoa

Một hai chồi trúc, năm ba khóm tùng

93

Gương bạch nguyệt, quạt thanh phong

Cười cùng thiếu nữ, bạn cùng thuyền quyên

Lấy chi làm chuyện giải phiền

Quyển kinh trăm lá, ngọn đèn một hoa

(Câu 563 - 568)

Khi không còn được ở trong chùa để ngày đêm nghe Sư thầy giảng kinh

nữa, không còn được vào ra “tòa phương trượng” nữa, mà phải ra ở mái ngoài tam

quan, nhưng bóng mát của lòng từ bi, mùi hương của Phật vẫn tỏa bóng bên nàng.

Kính Tâm ngày ngày vẫn kiên tâm trì niệm, vẫn sống trọn vẹn trong không gian

của Đạo.

3.1.3.2. Kết cấu thời gian theo trật tự tuyến tính

Gắn liền với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ

thuật là yếu tố thuộc về hình thức của tác phẩm văn học, mang tính chủ quan của

người sáng tạo. Thời gian nghệ thuật được hiểu là “Hình thức nội tại của hình

tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng như không gian nghệ thuật,

sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm

nhìn nhất định trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật” (Lê Bá Hán và

cộng sự, 1997). Không giống với thời gian vật chất, thời gian nghệ thuật dài hay

ngắn, nhanh hay chậm tùy thuộc vào sự cảm nhận, vào trạng thái tâm lý của con

người. Có khi nó rất nhanh: “Ngày vui ngắn chẳng tày gang - Trông ra ác đã ngậm

gương non đoài” (Nguyễn Du), có khi nó lại đằng đẵng như vô tận: “Nhất nhật bất

kiến như tam thu hề” (Kinh Thi).

Cũng như hầu hết các truyện cổ dân gian và truyện trung đại khác, Quan

Âm Thị Kính có cùng kiểu kết cấu thời gian theo trình tự tuyến tính (hay còn gọi

là trình tự thời gian trước sau, kết cấu thời gian theo đường thẳng). Nghĩa là diễn

biến câu chuyện, chuỗi sự việc được tác giả kể theo trình tự thời gian lịch đại:

chuyện gì diễn ra trước kể trước, chuyện gì diễn ra sau kể sau, từ sự việc mở đầu

cho đến sự việc kết thúc xảy ra theo tuần tự. Điều này khác với cách kết cấu thời

gian của loại hình tự sự hiện đại (có thể theo thời gian đồng hiện, theo diễn biến

tâm lí nhân vật, thời gian dòng ý thức…). Truyện bắt đầu bằng việc giới thiệu về

94

tiền kiếp của Đức Quan Âm Thị Kính: kiếp trước là nam nhi, xuất gia tu hành từ

thuở thiếu thời và đã vượt qua mọi thử thách trên con đường tu hành, trải qua chín

kiếp, thuyền trần chưa neo được vào bến giác thì mắc sai lầm, do đó Đức Mâu Ni

thử thách thêm một kiếp nữa. Toàn bộ phần tiếp theo kể về những thử thách ở kiếp

thứ mười cho đến khi Thị Kính thành Phật: từ lúc ở nhà hiếu kính với cha mẹ, đi

lấy chồng trọn nghĩa dâu hiền vợ đảm, đến khi đi tu một lòng dốc chí tu hành, nhẫn

nhục chịu đựng, làm việc hiếu sinh, trải hai mối oan thấu trời lệch đất. Theo trình

tự thời gian tuyến tính được kể trong truyện, các nhà nghiên cứu đã dễ dàng chia

bố cục cho tác phẩm, có nhiều cách chia giúp người đọc dễ hình dung diễn biến

câu chuyện, nhưng phổ biến nhất là cách chia tác phẩm làm 5 hồi:

- Thị Kính mắc tiếng oan hại chồng (câu 1 - 224)

- Thị Kính đi tu (câu 225 - 370)

- Thị Kính mắc tiếng oan thông dâm (câu 371 - 584)

- Thị Kính nuôi con Thị Màu (câu 585 - 692)

- Thị Kính rửa sạch tiếng oan và thành Phật (câu 693 - 786)

(Dương Quảng Hàm, 2001).

Cũng với cách chia 5 hồi như trên, tác giả Thi Nham Đinh Gia Thuyết lại

tiếp tục tóm tắt truyện theo 31 đoạn nhỏ hơn như sau:

1. Mở đầu

2. Vào truyện

3. Quan Âm thác sinh

4. Họ Sùng ngỏ lời thông gia với họ Mãng

5. Họ Mãng bằng lòng nhận lời cầu hôn của họ Sùng

6. Thị Kính buồn nỗi phải xa cha mẹ

7. Cha mẹ khuyên giải Thị Kính

8. Thị Kính về nhà chồng

9. Thị Kính bị nghi oan giết chồng

10. Thị Kính bày tỏ nỗi oan

11. Nhà chồng có ý ngờ Thị Kính có ngoại tình

12. Thị Kính từ giã nhà chồng về nhà cha mẹ đẻ

95

13. Lúc vợ chồng từ giã nhau

14. Thị Kính sau khi về nhà cha mẹ đẻ

15. Thị Kính cải trang trốn đi ở chùa

16. Thị Kính xin vào tu tại chùa Vân Tự

17. Thị Kính được đổi tên là Kính Tâm làm tiểu nhà chùa

18. Thị Màu phải lòng tiểu Kính Tâm

19. Thị Màu tư thông với đứa ở

20. Phú ông tra hỏi Thị Màu

21. Vì làng đòi hỏi, phú ông phải dẫn Thị Màu ra đình

22. Tiểu Kính Tâm bị làng tra hỏi

23. Tiểu Kính Tâm bị đòn

24. Nhà sư xin bảo lĩnh cho tiểu Kính Tâm

25. Nỗi niềm tiểu Kính Tâm khi ra ở tam quan

26. Thị Màu sinh con trai, đem giao trả cho Kính Tâm

27. Tiểu Kính Tâm nhận nuôi đứa tiểu nhi của Thị Màu

28. Tiểu Kính Tâm viết thư dặn con rồi siêu thoát

29. Nỗi nhà họ Mãng sau khi nhận được tin

30. Tiểu Kính Tâm siêu thăng được làm Phật Quan Âm

31. Kết luận

(Thi Nham Đinh Gia Thuyết, 1996)

Trong trục thời gian tuyến tính như vậy, tác giả Quan Âm Thị Kính lại có

cách thể hiện thời gian nghệ thuật hết sức phong phú. Có khi tác giả dùng các từ

chỉ thời gian: Năm canh (“Dế năm canh nguyệt cuốc ba tháng hè”; “Người đi

nghìn dặm lòng về năm canh”; “Năm canh thức nhắc tấm lòng cảm thương”), bây

giờ (“Bây giờ cải dạng nam trang”; “Bây giờ đôi ngả bắc nam”), sau này (“Xuân

già huyên cỗi sau này làm sao”)…, có khi lại dùng cách nói ước lệ: (“Lá ngô lần

điểm đốt tay”; “Gió vàng một phút thoáng qua - Lá ngô biến sắc cánh hoa ủ màu”),

có khi dùng hình ảnh gợi về một thời điểm nhất định nào đó (“Phụ tinh đới nguyệt

bước lên dặm trường”; “Khi trống giục lúc chuông dồn”)… Trong truyện cũng

xuất hiện cả ba chiều thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Thời gian thuộc về

96

quá khứ: “Vốn xưa là đấng nam nhi…Tu trong chín kiếp hầu qua”, “Tiền căn

nghiệp chướng có dày - Cho nên trời bắt đem đày nhân gian”. Thời gian hiện tại

như: “Vắng người khuất mặt lúc này - Lòng người thiểu não biết ngày nào nguôi”

hay “Bây giờ đôi ngả bắc nam”. Thời gian tương lai: “Mai này đến lúc trưởng

thành - Cơ cừu dễ sáng tiền trình hơn xưa”, “Giữa đường thoát gánh khỏi tay -

Xuân già huyên cỗi sau này làm sao” hay “Họa may gặp kiếp sau này - Vậy thì xin

hóa làm cây hàn bằng”. Thời gian tuân theo quy luật của tâm trạng, lâu chóng, nhặt

khoan: khi Thị Kính bị đuổi về nhà cha mẹ, một ngày trôi qua với nàng thật đằng

đẵng: “Phòng riêng vò võ hôm mai - Trông ngày đằng đẵng lại dài hơn năm”. Khi

nuôi con Thị Màu, dù vất vả khổ cực, nhưng công việc bận rộn và niềm vui bên

đứa trẻ thơ đã cuốn nàng đi, khiến cho thời gian trôi qua thật mau chóng: “Thoi

đưa tháng trọn ngày qua - Mấy năm mà đã lên ba tuổi rồi”. Đặc biệt, thời gian

trong truyện cũng thấm đẫm tư tưởng Phật giáo: “Kìa bào kìa ảnh phút qua - Kìa

sương kìa chớp kìa là chiêm bao” hay “Lấy ai làm nhục làm vinh - Trăm năm là

áng cỏ xanh rì rì”. Tư tưởng về thời gian như trên cũng thấy nhiều trong các kinh

điển Phật giáo. Cuộc đời vốn là ảo ảnh như bọt nước, như cái bóng, thời gian trôi

nhanh mọi sự chuyển hóa vô thường như sương chớp, như chiêm bao. Và nhục

hay vinh, thắng hay bại rồi cũng tan biến, cũng qua nhanh, cái còn lại ai cũng như

ai là một áng cỏ xanh rì, đúng như triết lí: “cát bụi lại trở về với cát bụi” mà thôi.

Tóm lại, thời gian nghệ thuật trong Quan Âm Thị Kính được kết cấu theo

trật tự tuyến tính, vừa chịu ảnh hưởng của thi pháp văn học trung đại về thời gian,

vừa đậm màu sắc Phật giáo.

3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Quan Âm Thị Kính

Một trong những nét đặc sắc của Quan Âm Thị Kính là nghệ thuật xây dựng

nhân vật. Có những nhân vật đã ghi dấu ấn đậm nét, trở thành hình tượng nghệ

thuật bất hủ qua nhiều thế hệ, được chuyển hóa sáng các loại hình nghệ thuật khác,

như Thị Kính, Thị Màu. Có được thành công đó, tác giả đã gia công xây dựng nhân

vật bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật đa dạng.

Như trên đã đề cập, khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học được hiểu

là “Con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn học (…). Khái niệm nhân

97

vật văn học có khi được dùng như một ẩn dụ, không chỉ một nhân vật cụ thể nào

cả, mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác phẩm” (Lê Bá Hán và cộng sự,

1997). Nhân vật trong tác phẩm không đồng nhất với con người thật ngoài đời

sống, bởi đó là một hình tượng được hư cấu qua lăng kính chủ quan của nhà văn,

là một hình tượng đầy tính ước lệ. Tác phẩm văn học không thể thiếu nhân vật bởi

thông qua nó mà tác phẩm thực hiện chức năng phản ánh cuộc sống bằng hình

tượng. Nhân vật văn học chính là con đẻ tinh thần của nhà văn. Để xây dựng nhân

vật, nhà văn phải sử dụng nhiều phương tiện, thủ pháp nghệ thuật khác nhau. Và

nhân vật có chân thực, có sống động và gây ấn tượng hay không phụ thuộc nhiều

vào tài năng khắc họa của nhà văn.

3.2.1. Nhân vật hiện lên qua ngoại hình, tính cách và khắc họa nội tâm

Trong việc xây dựng chân dung nhân vật, các nhà văn hầu hết đều rất chú

trọng việc miêu tả ngoại hình nhân vật. Bởi ngoại hình là diện mạo bên ngoài của

con người, là cái hình thức đầu tiên rõ nhất khi nhìn nhận một con người, ngoại

hình cũng không phải độc lập hoàn toàn với tính cách, nội tâm, mà có quan hệ

khăng khít, bởi vậy người đời mới nói “trông mặt mà bắt hình dong”. Trong Quan

Âm Thị Kính ngoại hình nhân vật không được miêu tả kĩ lưỡng chi tiết mà chủ yếu

là những nét chấm phá chân dung mang rõ tính chất ước lệ của văn học cổ, nhưng

đó lại là những nét phác họa tài tình làm nổi bật tính cách, số phận, cuộc đời nhân

vật. Ta hãy đọc lại đoạn miêu tả ngoại hình Thị Kính ở phần đầu:

Đậm nhuần sắc nước dịu dàng vẻ hoa

Não nùng chim cũng phải sa

Người tiên cũng ở đâu ta trên đời

Điểm trang tứ đức đủ mười

Cửa vương đạo dễ chọn người sàng đông

(Câu 40 - 44)

Tác giả đã tuân thủ thi pháp của văn học cổ: miêu tả nhân vật chính diện

bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Ở Thị Kính toát lên vẻ đẹp dịu dàng, đoan trang

hiền thục, lấy thiên nhiên làm thước đo vẻ đẹp con người khi so sánh với nước, với

hoa. Đặc biệt tác giả còn vận dụng điển cố “chim sa cá lặn” hay so sánh với tiên

98

để nhấn mạnh vẻ đẹp hơn người của Thị Kính. Bùi Thức Phước cũng cho rằng:

“Ước lệ trong cách dùng từ, cách so sánh, tác giả đã miêu tả vóc dáng của Thị Kính

bằng những câu thơ khá nhuần nhị” (Bùi Thức Phước, 2015). Để hoàn thiện chân

dung ấy, tác giả còn ca ngợi Thị Kính có đủ cả tứ đức công dung ngôn hạnh (nữ

công, dáng vóc, nói năng, nết ở), cái nào cũng “mười phân vẹn mười”. Tính cách,

phẩm hạnh của nàng còn được miêu tả khi về làm dâu nhà Thiện Sĩ:

Mà nàng nết đủ mọi điều

Đã niềm trung hiếu lại chiều đoan trang

Ở trên hiếu thuận song đường

Lòng quỳ dám trễ, tay Khương nào dời

(Câu 117 - 120)

Với cách miêu tả đầy trân trọng và ngợi ca ấy, ta thấy chân dung nhân vật

chính dù được đánh giá là rất đẹp song đó là vẻ đẹp mang tính ước lệ, vẻ đẹp chung

chung. Hơn nữa vẻ đẹp ngoại hình cũng có tính dự báo cho một cuộc đời chìm nổi,

đa đoan, bởi “trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” (Nguyễn Du). Chính ngoại

hình như “người tiên”, vẻ đẹp não nùng khiến chim phải sa, cá phải lặn của nàng

đã báo trước một tương lai không hề bằng phẳng. Để rồi sau này, giữa bước đường

tu hành đầy chông gai, có lúc Kính Tâm phải than trách phận mình: “Vẻ chi chút

phận hồng nhan - Cành hoa nở muộn thời tàn mà thôi” hay “Trời sinh tư sắc làm

chi - Hoa thơm bướm cũng có khi bận lòng”.

Ngược lại với Thị Kính, chân dung nhân vật Thị Màu dường như lại được

miêu tả cụ thể chi tiết hơn bằng bút pháp tả chân, thông qua cả ngoại hình, hành

động. Thị Màu được giới thiệu là tiểu thư con nhà giàu, tuổi vừa đôi tám:

Tiểu thư ở chốn hồng lâu

Tuổi vừa đôi tám Thị Màu là tên

Lá hồng đặt xuống dâng lên

Mối duyên đo đắn chưa nên mối gì

(Câu 385 - 388)

Đó chắc chắn phải là một con người cá tính, mạnh mẽ, vượt ra ngoài khuôn

khổ phép tắc của lễ giáo phong kiến, ít nhất là ở chi tiết Thị Màu không chịu ép

99

mình làm theo “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, sau nữa: là tiểu thư lá ngọc cành

vàng nhưng không phải suốt ngày “giữ nết khuê vi”, quanh quẩn nơi phòng the kín

đáo, mà mạnh dạn, tự do, làm theo ý thích của mình, cho nên “ngày rằm mùng một

cũng đi cúng dàng”. Về ngoại hình, tác giả không miêu tả nhiều, không miêu tả

bao quát, mà chỉ qua một ánh mắt, một cái nhìn đủ nói lên cái lẳng lơ đa tình là cá

tính nổi bật của con người ấy: “Sóng thu xui khiến cho nàng khát khao”.“Sóng thu

là ánh mắt đa tình, nhìn như có nước lóng lánh ở trong guồng mắt” (Thiều Chửu,

2007). Theo nhân tướng học thì đó là biểu hiện rõ nhất của con người lẳng lơ, dâm

đãng, thiếu đứng đắn. Đi đôi với ánh mắt là cái nhìn của Thị Màu, không phải cái

nhìn chính diện, đường hoàng, mà là cái nhìn trộm, nhìn ngang: “Liếc trông thấy

tiểu dịu dàng”.

Rõ ràng chỉ qua vài nét miêu tả ngoại hình, chân dung và cá tính Thị Màu

đã hiện lên nổi bật. Đó là con người tràn đầy sinh lực, tràn đầy xuân sắc, sống theo

bản năng hơn là nghĩa vụ, con người của đời thường trái hẳn với những giáo lý của

Đạo. Và chân dung Thị Màu được xây dựng như là sự đối lập, làm tôn lên vẻ đẹp

tôn giáo ở con người Thị Kính.

Nhưng đó mới chỉ là miêu tả chân dung bên ngoài và phác thảo tính cách

nhân vật. Điều làm nên giá trị, sức hấp dẫn của Quan Âm Thị Kính chính là ở nghệ

thuật miêu tả tâm lí nhân vật, nhất là tâm lí nhân vật chính - Thị Kính. Chiều sâu

của tác phẩm chính là ở những trường đoạn miêu tả nội tâm của nàng, đặc biệt

trong những thời khắc quan trọng của cuộc đời. Đọc lại đoạn thơ miêu tả tâm trạng

của Thị Kính khi bị trả về nhà cha mẹ, ta như thấu cảm cùng nàng:

Tủi vì phận liễu một cành

Liều đi thì bỏ mối tình cậy ai

Phòng riêng vò võ hôm mai

Trông ngày đằng đẵng lại dài hơn năm

Buồn trông giọt ngọc đầm đầm

Mùi ăn chẳng nhớ, giấc nằm chẳng ngon

(Câu 233 - 238)

100

Đoạn thơ chứa nhiều từ ngữ miêu tả tâm trạng đau khổ, dày vò của một

người phụ nữ chịu nhiều oan ức mà không thể tỏ bày. Thậm chí có lúc là sự giằng

xé trước lựa chọn sống - chết. Nhưng ở con người ấy, chữ hiếu vẫn vẹn nguyên,

chữ hiếu giúp nàng vượt qua được cảm giác tiêu cực, cha mẹ chỉ có mình nàng,

chết đi thì “bỏ mối tình cậy ai”. Chính bởi lựa chọn con đường sống để báo hiếu

cha mẹ, những ngày bị trả về nhà đối với Thị Kính là những ngày dài đằng đẵng

sống trong tột cùng khổ nhục. Các từ láy vò võ, đằng đẵng, đầm đầm liên tiếp diễn

tả rõ nét tâm trạng nặng nề, cô đơn, khổ đau của con người bị phụ rẫy. Để vượt

qua nỗi khổ nhục ấy, và cũng để báo hiếu cha mẹ, Thị Kính lựa chọn con đường

xuất gia tu hành. Những tưởng cuộc sống tu hành sẽ làm cho tiểu Kính Tâm rũ bỏ

những vướng bận bụi trần, nhưng không, tấm lòng nàng lúc nào cũng canh cánh

hướng về quê nhà, về mẹ cha:

Cũng toan gỡ mối tơ vò

Thành sầu cao ngất phá cho tan tành

Tưởng ân trời bể mông mênh

Dễ mà đền được ân tình ấy đâu

(Câu 294 - 295)

Khi đã quen thuộc với nhịp điệu của cuộc sống tu hành chùa Vân Tự, ngày

ngày đều đặn “Khêu đèn bát nhã, gióng chuồng tham thiền”, Kính Tâm vẫn không

nguôi những giây phút chạnh nghĩ về quê nhà, về mẹ cha, về bản thân mình với

nỗi cô đơn sâu thẳm:

Đòi cơn tưởng nỗi hương quê

Người đi ngàn dặm, lòng về năm canh

Sự mình mình ngỏ với mình

Nặng tình cũng phải nén tình làm khuây

(Câu 365 - 368)

Đan xen trong nỗi nhớ quê nhà, nhớ mẹ cha là nỗi thương mình. Tác giả sử

dụng phép điệp từ mình liên tiếp ba lần trong một dòng thơ để tô đậm nỗi buồn

thân phận của người phụ nữ trên bước đường xa ngái. Ta liên tưởng tới Kiều “giật

101

mình mình lại thương mình xót xa” cũng tự thương mình như thế trong những lúc

cô đơn trống trải không có người tri âm tỏ bày.

Nội tâm của nhân vật chính còn được khắc họa tài tình, cảm động ở phần

sau, khi nàng bị bị làng khép tội thông dâm, bị đánh đập, mắc tiếng oan tình, khi

nghe tiếng khóc trẻ thơ bên hiên chùa, khi ôm con Thị Màu ròng rã mấy năm “nhai

cơm mớm sữa”… Nhưng cảm động nhất, sâu sắc nhất có lẽ là đoạn miêu tả nỗi

lòng Thị Kính khi phải ra ở mái ngoài tam quan. Dù được sư thầy rộng lòng từ bi

khoan dung che chở, dù vẫn ngày ngày nép bên bóng mát của Phật, song đó vẫn là

những tháng ngày buồn nhất, tủi nhất của Kính Tâm:

Ngỡ rằng qua hạn Cự môn

Ai hay Thái tuế hãy còn theo đây

Tiền sinh nghiệp chướng có dày

Cho nên trời bắt đem đày nhân gian

Mắt phàm khôn tỏ ngay gian,

Hai phen đem buộc tiếng oan tày trời

(Câu 573 - 578)

Trong những ngày tháng ấy, Thị Kính đã chiêm nghiệm cuộc đời mình, đã

thấu suốt thiên mệnh, đã hiểu ra luật nhân quả, luân hồi nghiệp chướng mà đạo

Phật đã soi tỏ cho nàng.

Đặc sắc trong nghệ thuật khắc họa nội tâm không chỉ ở nhân vật chính Thị

Kính mà tác giả còn rất thành công ở việc khắc họa tâm lí nhân vật phản diện Thị

Màu. Dù không được miêu tả nhiều song những đoạn miêu tả nội tâm Thị Màu

vẫn là những đoạn xuất sắc. Ví như đoạn Thị Màu bị làng tra hỏi về người cha đứa

bé trong bụng, Thị Màu đắn đo nhưng cách suy nghĩ lại rất hồn nhiên và có toan

tính:

Nghe lời dìu dặt mà nao

Nghĩ mình đã trót dễ nào giấu xong

Thương đầu nó đã tếch trong

Nói ra thêm xấu vả không có chừng

Phép người đã cứ cung xưng

102

Yêu ai chỉ nấy may chưng được nhờ

(Câu 475 - 480)

Rõ ràng đoạn nhân vật tự bộc lộ nội tâm trên thể hiện rõ tính cách con người

Thị Màu: sống bản năng, đơn giản, nông nổi và cũng đầy thực dụng mưu toan.

Đoạn miêu tả nội tâm ấy khiến cho người đọc càng thương Thị Kính bao nhiêu

càng phẫn uất, lên án Thị Màu bấy nhiêu. Song đoạn thơ sau đây lại hoàn toàn

khác: khi bế đứa con đỏ hỏn trên tay, Thị Màu cũng có những suy nghĩ, những tâm

trạng rất người, đó là nỗi khổ tâm của người mẹ phải đành lòng lìa xa khúc ruột

của mình. Đoạn thơ chan chứa tình mẫu tử thiêng liêng khiến người đọc không

khỏi ngậm ngùi:

Trên tay nâng giọt máu đào,

Hầu đi lại đứng, toan vào lại ra

Ngỡ chơi đâu biết thế mà,

Cắn răng đem rứt ruột già cho ai

(Câu 493 - 496)

Không có nỗi đau nào bằng nỗi đau tình cốt nhục chia lìa, tình mẫu tử đành

đoạn. Chỉ bằng vài dòng thơ, tác giả đã khắc họa tâm lí của người mẹ trẻ trong

khoảnh khắc đối mặt, trả giá cho những sai lầm, nông nổi, thiếu chín chắn của

mình. Không cần nói ra, nhưng ta cũng ngầm hiểu rằng rồi đây, Thị Màu sẽ phải

sống nốt quãng đời còn lại trong sự dày vò, trong mặc cảm tội lỗi và nỗi buồn nhớ

con thơ.

Để khắc họa tâm lí nhân vật, ngoài miêu tả trực tiếp nội tâm hay nhân vật

tự bộc lộ tâm trạng, tác giả còn đan xen những đoạn tả cảnh ngụ tình. Đây cũng là

một thủ pháp đặc sắc làm nên giá trị nghệ thuật của thiên truyện. Tả cảnh ngụ tình

là việc thể hiện tâm trạng, tình cảm nhân vật gián tiếp qua bức tranh ngoại cảnh,

qua cảnh vật bên ngoài mà bộc lộ bức tranh tâm trạng. Nguyễn Du từng viết: “Cảnh

nào cảnh chẳng đeo sầu - Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Trong Quan Âm

Thị Kính cũng có những bức tranh tâm cảnh đặc sắc. Đây là đoạn thơ miêu tả cảnh

gió mát trăng trong nơi chùa Vân Tự, nơi Thị Kính tìm được sự an yên sau chuỗi

ngày chống chếnh, buồn đau:

103

Hương xông pháp giới ngùi ngùi

Thông rung trống kệ, trúc hồi mõ kinh

Có người cảnh lại càng thanh

Bồn không cũng nảy ra cành liên hoa

(Câu 371 - 374)

Những hình ảnh của ngoại cảnh với mùi hương pháp giới, lời kinh câu kệ

xen lẫn thông reo trúc động, cảnh và người hòa quyện bên nhau đã nói lên được

tâm trạng Thị Kính: yên bình, tươi vui, người vui thì cảnh cũng thanh, cũng vui.

Giáo sư Thanh Lãng cho rằng đây là một trong những đoạn “tả cảnh tả tình rất tỉ

mỉ tỏ ra cái tài quan sát của tác giả rất tinh tế (…). Đó là một câu văn súc tích, tả

được cảnh thiên nhiên, tả được cảnh chùa với cái vẻ cung kính sùng đạo của nó”

(Thanh Lãng, 1967). Còn đây là đoạn miêu tả ngoại cảnh khi Thị Kính ở mé ngoài

tam quan, chỉ có cỏ cây trăng gió hoa lá làm bầu bạn giải buồn:

Nương mình bên cụm cúc hoa,

Một hai khóm trúc, năm ba khóm tùng

Gương bạch nguyệt, quạt thanh phong

Cười cùng thiếu nữ, bạn cùng thuyền quyên

(Câu 563 - 566)

Trong hoàn cảnh đó, Kính Tâm chỉ còn biết ngày ngày trò chuyện với cây

cỏ, làm bạn với “quyển kinh trăm lá, ngọn đèn một hoa”. Miêu tả hoa lá, nói đến

bầu bạn, đề cập đến tiếng cười, song ta vẫn thấy bao trùm lên một không gian tràn

ngập nỗi cô đơn, lạnh lẽo.

Thành công trong việc khắc họa nội tâm nhân vật cũng là yếu tố làm nên sự

khác biệt của truyện Quan Âm Thị Kính so với các truyện thơ Nôm tôn giáo khác.

Ở các truyện khác, yếu tố kể nhiều hơn, ít yếu tố tả, còn ở đây ta thấy yếu tố tả đã

được gia công đáng kể (tả cảnh, tả tâm trạng). Qua đó ta cũng thấy được các đoạn

miêu tả nội tâm nhân vật giúp cho truyện Nôm vừa hấp dẫn bởi yếu tố tự sự vừa

thấm đẫm yếu tố trữ tình.

3.2.2. Bút pháp lí tưởng hóa và hiện thực hóa

104

Một trong những đặc điểm nổi bật của thi pháp văn học trung đại, đặc biệt

ở truyện Nôm là xu hướng lí tưởng hóa khi xây dựng nhân vật chính diện và xu

hướng hiện thực hóa đối với các nhân vật phản diện. Nguyễn Lộc lí giải “Mỹ học

phong kiến quan niệm nhân vật chính diện thuộc phạm trù cao cả, cho nên phải là

những con người phi thường (…), là con người có nguồn gốc xã hội cao quý, có

phẩm chất đạo đức cao quý…Và để thích ứng với một đối tượng phản ánh như

vậy, mỹ học phong kiến chọn cho nó một phương thức biểu hiện thiên về tính chất

ước lệ, tượng trưng.” (Nguyễn Lộc, 1965). Theo đó, bút pháp lí tưởng hóa được

lựa chọn như là điều dĩ nhiên để xây dựng các nhân vật mang tính hình mẫu chuẩn

mực của thời đại. Lí tưởng hóa trong sáng tác văn học “thường thường thiên về

việc đề cao các đối tượng tích cực, trình bày nó trong sự phấn hứng, đề cao nó lên

thành mẫu chuẩn thành lí tưởng, gán cho nó một diện mạo hoàn thiện” (Lê Bá Hán

và cộng sự, 1997).

Trong truyện Quan Âm Thị Kính, bút pháp lí tưởng hóa được sử dụng chủ

yếu khi xây dựng nhân vật chính Thị Kính. Truyện xoay quanh cuộc đời đau

thương và nỗi oan trái của Thị Kính trên con đường tu hành thành Đức Quan Âm.

Nhưng Thị Kính không phải là người thuộc tầng lớp tầm thường, bình dân, mà có

xuất thân thuộc tầng lớp cao quý trong xã hội bấy giờ. Kiếp trước là nam nhi, là

Hoàng tử từng tu qua chín kiếp. Kiếp này tuy có là nữ nhi nhưng sinh trưởng trong

một gia đình “gia tư thời cũng bậc trung”. Bậc trung tức đã là gia đình tương đối

khá giả (ở hầu hết các truyện thơ Nôm và truyện thơ Nôm tôn giáo khác, nhân vật

chính cũng có xuất thân cao quý như vậy: Truyện Kiều: “gia tư nghỉ cũng thường

thường bậc trung”; Nam Hải Quan Thế Âm: Diệu Thiện là công chúa con vua Triệu

Trang Vương; Mục Liên Thanh Đề: Ngài Mục Liên, bà Thanh Đề thuộc gia đình

giàu có, trong nhà có nhiều gia nhân…). Không những xuất thân ở tầng lớp trên,

bản thân nhân vật chính còn hội tụ những đức tính cao quý, những phẩm chất chuẩn

mực của con người thuộc thời đại bấy giờ. Như Thị Kính lúc mới sinh thành đã có

tướng mạo quý phái như “đấng Thạch Lân”, báo hiệu sau lớn sẽ thành tài. Nàng

lại hội tụ đủ mọi điều tốt đẹp: đẹp người, đẹp nết. Về dung nhan thì như “người

tiên”, như chim sa cá lặn, về tài năng thì “điểm trang tứ đức đủ mười”, về phẩm

105

chất thì “nết đủ mọi điều - đã niềm trung hiếu lại chiều đoan trang”. Đối với cha

mẹ thì “hiếu thuận song đường”, đối với chồng thì “nhận ra trăm nết nết nào mà

chê”. Khi đi tu thì Kính Tâm lại hội tụ đầy đủ phẩm chất của một bậc chân tu:

chăm chỉ, nhẫn nhục, từ bi quảng đại. Nhìn chung nhân vật Thị Kính mang những

yếu tố lí tưởng của con người thời đại, ở nàng không có điểm nào là xấu, là trái

với chuẩn mực (khác với Thị Màu là con người lệch chuẩn). Bên cạnh Thị Kính,

Thiện Sĩ cũng được miêu tả phần nào đó mang tính chất lí tưởng hóa (mặc dù xét

về nhân vật này cũng có lúc là đa tính cách hay tính cách phức tạp). Thiện Sĩ vốn

xuất thân trong gia đình họ Sùng “sẵn khuôn y bát vốn dòng cân đai”, tức gia đình

có nề nếp gia phong, dòng giống quan lại tướng tá. Bản thân Thiện Sĩ là chàng

Nho sinh theo nghề nghiên bút, vừa có tướng mạo khôi ngô vừa hay chữ:

Kể điều tài mạo cũng ngoan

Gã Tào kiếp trước chàng Phan thân này

(Câu 54 - 55)

Chưa nói về tính cách, phẩm chất, nhưng xuất thân, dung mạo và tài năng

của Thiện Sĩ cho thấy nhân vật này mang dáng dấp của những Nho sĩ thư sinh,

những tài tử sánh duyên cùng giai nhân trong các truyện Nôm xưa như Kim Trọng,

Phan Trần… Chính vì quan niệm nhân vật chính diện dù ít hay nhiều đều mang

màu sắc lí tưởng nên đã quy định việc miêu tả chân dung nhân vật ấy cũng mang

tính chất ước lệ tượng trưng. Vẻ đẹp của Thị Kính được so sánh với sắc nước, vẻ

hoa, với chim sa cá lặn, hay phi thường hóa vẻ đẹp ấy như người tiên, tài năng thì

“tứ đức đủ mười”, phẩm chất thì “nết đủ mọi điều”…, nhìn chung tác giả đã lấy vẻ

đẹp của thiên nhiên, hay những chuẩn mực của đạo đức phong kiến để làm thước

đo cho nhân vật. Khi miêu tả Thiện Sĩ, tác giả lại dùng điển cố như gã Tào, chàng

Phan, Đổng Xuyên để nêu bật vẻ đẹp tài năng, dung mạo cũng như chí hướng lớn

lao của nhân vật. Không dừng lại ở việc miêu tả chân dung nhân vật mang màu sắc

ước lệ tượng trưng, ta thấy ngôn ngữ, hành động cử chỉ của nhân vật lí tưởng cũng

thiên về tính chất ước lệ. Khi Thị Kính trình thưa, giãi lòng trước lúc bị đuổi về

nhà, ngôn ngữ cũng đầy tính ước lệ:

Kể từ kim cải duyên ưa

106

Giây leo cây bách mong nhờ về sau

Dầu ai phụ bạc cùng nhau,

Đã thần ba thước trên đầu chứng tri

(Câu 201 - 204)

Khi nhân vật khóc, đó là “giọt ngọc”, “châu chan”. Miêu tả nỗi đau thể xác

của Thị Kính, tác giả dùng những hình ảnh ước lệ: “Đào nhăn nhó mặt, liễu cau

cớn mày”, “lá rụng lai láng, hoa bay tơi bời”. Đào, liễu, lá, hoa tượng trưng cho

tấm thân gầy guộc nhỏ bé của người con gái. Thiện Sĩ trong cảnh đau đớn khóc

thương người vợ hiền, cử chỉ, ngôn ngữ cũng mang màu sắc ước lệ: “hạt châu lai

láng”, “vì anh lỗi đạo cho nàng ngậm oan”, thậm chí là dùng điển tích:

Châu rơi có lẽ phục hoan

Cũng mong Liễu lại tay Hàn mai ngay

(Câu 741 - 742)

Nhìn chung, bút pháp lí tưởng hóa khi xây dựng nhân vật chính diện đã chi

phối cách miêu tả nhân vật mang tính ước lệ, tượng trưng (về vấn đề ngôn ngữ

nhân vật mang màu sắc ước lệ, chúng tôi sẽ trình bày kĩ hơn ở phần sau).

Trong khi đó, khi xây dựng các nhân vật phản diện, tác giả văn học trung

đại lại chủ yếu thiên về bút pháp hiện thực hóa. Ngược lại với các nhân vật mang

vẻ đẹp lí tưởng, chuẩn mực của thời đại, các nhân vật phản diện thường có những

bộ mặt mang tính cá biệt hơn, muôn màu muôn vẻ hơn, do vậy nó phải được miêu

tả chân thực, chi tiết như bản chất của nó, không thể lấy các yếu tố ước lệ, tương

trưng, các khuôn vàng thước ngọc để miêu tả được. Để bóc trần chân tướng và bản

tính xấu xa của nhân vật phản diện, tác giả đã dùng lối tả chân. Để chân dung nhân

vật hiện lên sống động, chân thực có tính cá thể, ngôn ngữ thuần Việt, nôm na

được sử dụng triệt để, khác với cách nói ước lệ tượng trưng khi xây dựng nhân vật

lí tưởng. Điển hình cho bút pháp hiện thực hóa là việc xây dựng nhân vật Thị Màu.

Cái nhìn của Thị Màu không phải là ánh nhìn thông thường đoan chính mà là “liếc

trông”, cái khát khao của Màu không phải là khát khao hiền lành kín đáo như bao

người con gái chưa chồng khác mà là khát khao táo bạo, nổi loạn “Thì xin một trận

phong vân cũng nhờ”. Khi bị làng tra khảo vì án hoang thai, thì rắp tâm “Yêu ai

107

chỉ nấy may chưng được nhờ” và sau đó thẳng thừng đề nghị “Dù nên cầu bắc gửi

trao - Nhờ làng ơn ấy đời nào dám quên”. Miêu tả việc Thị Màu đem con ra chùa

đổ oan cho Thị Kính, tác giả viết:

Gớm thay mặt dạn mày dày

Trân trân rằng “Trả con đây” mà về

(Câu 603 - 604)

Các câu thơ không có từ Hán Việt, không có những hình ảnh trang trọng cổ

điển thường gặp trong văn học cổ. Cụm từ cảm thán gớm thay, thành ngữ mặt dạn

mày dày, từ láy trân trân rõ ràng đã tập trung miêu tả một cách chân thực, sống

động bộ mặt trơ tráo, ghê gớm của Thị Màu. Còn sự cay nghiệt, vô cảm của bố mẹ

chồng Thị Kính lại được thể hiện qua những lời kết tội, những phán quyết lạnh

lùng như dao cứa vào tim:

Ấy may mà tỉnh ngay đi

Đỉnh đình đinh nữa có khi còn đời

Sự này chớ lấy làm chơi

Sai người tức khắc sang mời Mãng ông

(Câu 159 – 162)

Hay việc đuổi thẳng thừng đứa con dâu trước mặt thông gia như chưa hề

quen biết, chưa hề có nghĩa tình:

Nghe anh nào có bụng gì

Đem về dạy lấy sao thì mặc anh

(Câu 171 - 172)

Cách nói như tát nước đổ đi, những từ thuần Việt: đỉnh đình đinh, còn đời,

tức khắc, mặc anh cộng với giọng điệu đay nghiến, chì chiết trong một đoạn dài

nói lên bản chất của con người vô cảm, gia trưởng, ích kỉ, cay nghiệt.

Bút pháp hiện thực hóa không chỉ thể hiện nơi những nhân vật phản diện

mà đôi khi còn ở cả nhân vật chính diện. Đó là khi tác giả muốn lột tả tận cùng bản

chất sự việc hay than trách cho số phận, cho nỗi đau khổ, oan trái của Thị Kính,

khi những cách nói ước lệ, trang trọng trở nên bất lực. Ví như đoạn miêu tả nỗi

oan của Thị Kính khi bị gia đình chồng vu oan:

108

Nực cười sự cỏn còn con

Bằng lông mà nảy ra cồn Thái Sơn

(Câu 239 - 240)

Từ ngữ: nực cười, nảy, từ láy cỏn còn con, cách so sánh ví von sự việc nhỏ

bằng cái lông mà khuếch đại thành núi Thái Sơn, đã diễn tả cái tréo nghoe, trớ trêu,

ngang trái của tình cảnh Thị Kính. Nỗi đau thấu xương tủy của Thị Kính khi bị

làng đánh phạt cũng đã đi quá giới hạn của bút pháp lí tưởng, ước lệ, nó nhường

chỗ cho ngòi bút hiện thực được tung hoành:

Đuốc nào soi thấu lời vu

Bôi nhòa đen trắng, lộn mù phải chăng

(Câu 535 - 536)

Tóm lại ta có thể khẳng định rằng, chân dung nhân vật trong Quan Âm Thị

Kính được miêu tả bằng cả bút pháp hiện thực và bút pháp lí tưởng hóa. Trong đó,

bút pháp lí tưởng hóa chủ yếu dành cho các nhân vật chính diện, còn bút pháp hiện

thực hóa đa phần được dùng để khắc họa chân dung nhân vật phản diện.

3.2.3. Cảm hứng tôn giáo chi phối cách xây dựng nhân vật

Văn học tôn giáo nói chung, nhóm truyện thơ Nôm tôn giáo trong văn học

trung đại Việt Nam nói riêng, cảm hứng tôn giáo đã chi phối mạnh mẽ cách xây

dựng hình tượng nhân vật. Nói cách khác, nhân vật (nhất là nhân vật chính) trong

các tác phẩm này được xây dựng theo xu hướng tôn giáo hóa. Nói tới cảm hứng

tôn giáo là nói đến cái hứng thú mãnh liệt của người nghệ sĩ hướng về tôn giáo.

Theo đó, xây dựng nhân vật từ cảm hứng tôn giáo được hiểu là tác giả xuất phát

từ điểm nhìn tôn giáo, từ tâm linh tôn giáo để sáng tạo, khắc họa toàn bộ ngoại

hình, tính cách, số phận, cuộc đời nhân vật. Tóm lại, nhân vật văn học sẽ được

khoác chiếc áo mang màu sắc tôn giáo.

Trước hết, Quan Âm Thị Kính cũng như toàn bộ truyện thơ Nôm tôn giáo

đều xây dựng nhân vật từ các hình tượng tôn giáo (nhân vật lấy nguyên mẫu từ các

hình tượng tôn giáo). Nhân vật Thị Kính - Kính Tâm được xây dựng từ Quan Thế

Âm Bồ Tát, một hình tượng Phật giáo vô cùng gần gũi đáng kính đối với người

dân Việt bao đời nay. Kinh Bi Hoa chép rằng: về thời quá khứ, Ngài Quán Thế

109

Âm làm Thái tử con vua Vô Tránh Niệm. Vua tu hành tinh tấn, đến khi công hạnh

vẹn toàn thì thành Phật ở cõi Cực Lạc Tây phương hiệu A Di Đà, Thái tử cũng

công hạnh trọn đủ, cũng sanh về cõi ấy thành Bồ Tát hiệu là Quán Thế Âm. Trong

kinh Phổ Môn, Đức Phật có nói đến hạnh nguyện của Ngài Quán Thế Âm là cứu

độ chúng sinh thoát khỏi ba tính tham, sân si, nếu chúng sinh niệm đến danh hiệu

Ngài. Hạnh nguyện của Đức Quán Thế Âm là tượng trưng cho hạnh từ bi (Dẫn

theo Bùi Thức Phước, 2015). Đó là hình tượng Quan Thế Âm Bồ Tát trong kinh

Phật. Khi du nhập vào Việt Nam, Ngài lại hiện thân trong hình tượng người phụ

nữ, nhân dân ta vẫn gọi là mẹ hiền Quan Thế Âm Bồ Tát. Tương tự như vậy, nhân

vật chính trong một số truyện Nôm tôn giáo khác cũng được xây dựng từ các hình

tượng tôn giáo: Phật Tổ (trong truyện Phật Tổ ra đời, Thơ Phật Thích ca); Quan

Âm Nam Hải, Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát (trong Nam Hải Quan Thế Âm);

Mục Kiền Liên (trong Mục Liên Thanh Đề); Phật Bảo Nguyệt (trong Lưu Hương

diễn nghĩa bảo quyển); Bồ Đề Đạt Ma (trong Đạt Ma thái tử bản hạnh)… Những

hình tượng tôn nghiêm, siêu phàm kì vĩ đi vào trong tác phẩm văn học bỗng trở

nên chân thực, gần gũi, rất đời. Qua đó, ta nhận ra tôn giáo hoàn toàn không phải

là sự phản ánh xuyên tạc thế giới khách quan, là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp

bức, là trái tim của thế giới không có trái tim như những luận điệu thường tuyên

truyền, mà tôn giáo chính là cuộc đời, là thân phận, là sự hóa thân của con người,

là sự gửi gắm ước mơ, là điểm tựa tinh thần, niềm an ủi cần thiết cho mọi chúng

sinh trong cuộc đời bể dâu này.

Bên cạnh đó, nhân vật còn được xây dựng với diện mạo, tính cách, phẩm

chất tốt đẹp, tiêu biểu theo chuẩn mực của nhà Phật. Thị Kính ngay từ khi chưa

xuất gia tu hành đã là một người con hiếu thảo, người vợ hiền thục đoan trang.

Nàng là biểu tượng của đức nhẫn nhục tột độ, của tinh thần từ bi hỷ xả. Hai lần

mắc tiếng oan và hai lần chịu thiệt thòi về phía mình đã chứng minh điều ấy. Sự

nghiệp tu hành, thực hành các pháp giới, nuôi con người của nàng đã được Phật tổ

chứng giám và được siêu thăng thành Đức Quan Âm. Nếu truyện cổ tích kết thúc

có hậu bằng những phần thưởng xứng đáng cho nhân vật chính như được làm vua,

được lấy hoàng tử công chúa hay được giàu sang phú quý, các truyện Nôm thông

110

thường kết thúc có hậu bằng những cuộc đoàn viên sum vầy, thì truyện Nôm tôn

giáo lại kết thúc bằng việc nhân vật chính, sau khi kinh qua nhiều thử thách trên

con đường tu luyện, lại được đắc đạo viên thành, được siêu thăng thành Phật như

lời mở đầu của truyện:

Nhân sinh thành Phật dễ đâu

Tu hành cứu khổ rồi sau mới thành

(Câu 1 - 2)

Cùng với đó, ta thấy những lời nói, hành vi, cuộc sống của nhân vật chính

nhằm phát ngôn, minh họa cho giáo lí nhà Phật. Như lời độc thoại sau đây của Thị

Kính, trước khi đi tu, đã cho thấy việc xuất gia đi tu là một quyết tâm, một chí

hướng, một ý chí của con người sau khi đã suy nghĩ đúng đắn về mục đích của sự

nghiệp tu hành: đó là tu hành để báo hiếu, để được độ trì, để vượt qua bể khổ, chứ

không phải là một suy nghĩ tiêu cực, buông bỏ cuộc đời như nhiều người vẫn suy

luận một cách tùy tiện. Với Thị Kính, đi tu là:

Độ trì nhờ đức Thế tôn

Nhỡ nhàng thuở trước vuông tròn mai sau

Nghiêm từ dành đức về sau

Họa đền nghĩa nặng ân sâu nghìn trùng

(Câu 251 - 254)

Lời đối thoại của Thị Kính với sư chùa Vân cũng đậm triết lí nhà Phật:

Đoái trông sự thế nực cười

Như đem trò dối mà chơi khác gì

Phù vân một đóa bay đi

Khi thì áo trắng lúc thì muông đen

(Câu 237 - 240)

Đặc biệt, hành động nuôi con người khác của Thị Kính đã là minh chứng

rõ nhất cho đức hiếu sinh, cho lòng độ lượng từ bi của nhà Phật: “Dầu xây chín

đợt phù đồ - Không bằng làm phúc cứu cho một người”…Và cuối cùng, ta thấy

nhân vật chính luôn được cứu giúp, độ trì nhờ phép màu của Phật giáo, như lời thơ

khép lại truyện:

111

Ai hay phép Phật nhiệm màu (…)

Nam mô Di Phật tu hành thời coi

(Câu 769 - 788)

Tóm lại, vì mục đích của truyện là truyền bá giáo lí nhà Phật, nên cảm hứng

tôn giáo đã chi phối mạnh mẽ từ đề tài, cốt truyện, ngôn từ và đặc biệt là cách xây

dựng chân dung nhân vật. Hình tượng nhân vật chính Thị Kính - Kính Tâm ở toàn

bộ thiên truyện được khắc họa theo xu hướng tôn giáo hóa, mang màu sắc Phật

giáo rõ nét.

3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật trong Quan Âm Thị Kính

Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật hay còn gọi là ngôn từ nghệ thuật, cũng có

khi gọi là ngôn ngữ văn học, được hiểu là “ngôn ngữ mang tính nghệ thuật được

dùng trong văn học” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, 1997). Các tác

giả giáo trình Lí luận văn học cho rằng “Đó là ngôn từ của tác phẩm văn học, của

thế giới nghệ thuật, kết quả sáng tạo của nhà văn. Đó là ngôn từ giàu tính hình

tượng nhất và giàu sức biểu hiện nhất, được tổ chức một cách đặc biệt để phản ánh

đời sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm và tác động thẩm mĩ tới người đọc” (Phương

Lựu, 2002). Trong tác phẩm, ngôn ngữ nghệ thuật là một trong những yếu tố quan

trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách và tài năng của nhà văn. Ngôn ngữ

nghệ thuật có tính hình tượng, tính thẩm mĩ và tính cá thể hóa. Trong truyện thơ

Nôm Quan Âm Thị Kính, tác giả đã có sự gia công trau chuốt về ngôn từ, khiến

cho nó trở thành một yếu tố không thể thiếu khi nói đến thành công của tác phẩm.

Ngôn ngữ trong Quan Âm Thị Kính vừa mang những nét chung, chịu sự quy định

của thể loại cũng như thi pháp văn học cổ, vừa có những nét riêng độc đáo không

hề trộn lẫn.

3.3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn ngữ nhân vật

3.3.1.1. Ngôn ngữ người kể chuyện

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, ngôn ngữ người kể chuyện (hay còn gọi

là ngôn ngữ người trần thuật) là “phần lời văn độc thoại thể hiện quan điểm tác giả

hay quan điểm người kể chuyện (sản phẩm sáng tạo của tác giả) đối với cuộc sống

112

được miêu tả” (Lê Bá Hán và cộng sự, 1997). Trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ

người kể chuyện không những đóng vai trò then chốt mà còn thông qua đó thể hiện

phong cách, giọng điệu tác giả. Trước hết, phương thức trần thuật trong Quan Âm

Thị Kính là ngôi thứ ba, tác giả giấu mình, không trực tiếp tham gia vào câu chuyện,

tác giả đóng vai trò là người dẫn dắt cốt truyện, kể các sự kiện theo diễn biến trước

sau, đồng thời bộc lộ thái độ, tình cảm, quan điểm đánh giá đối với đối tượng được

miêu tả. Đôi khi, tác giả hóa thân vào nhân vật chính để bộc lộ cảm xúc, nỗi lòng

trước từng cảnh ngộ. Theo thống kê của chúng tôi, truyện Quan Âm Thị Kính có

498/788 dòng lục bát là ngôn ngữ người kể chuyện (chiếm 63.2% dung lượng). So

với các truyện thơ Nôm khác, đây là con số thấp, cho thấy tỷ lệ ngôn ngữ người kể

chuyện đã giảm, gia tăng tỷ lệ ngôn ngữ nhân vật, điều đó cũng có nghĩa là yếu tố

tự sự giảm đi, yếu tố trữ tình được tăng cường (theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn

Thị Giang, Quan Âm Thị Kính và Truyện Kiều là hai tác phẩm có tỉ lệ ngôn ngữ

độc thoại nhiều hơn cả (Nguyễn Thị Giang, 2014)).

Chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ người kể chuyện trong Quan Âm Thị Kính

trước hết và chủ yếu là chức năng kể (tự sự). Tác giả đã kể cuộc đời tu hành của

Thị Kính bằng lời thơ lục bát gần gũi, dễ gần, dễ thuộc nhưng cũng không kém

phần chải chuốt. Một chức năng nữa của ngôn ngữ người kể chuyện là tả: tả ngoại

cảnh, tả chân dung, có khi là tả cảnh để ngụ tình. Bên cạnh đó, ngôn ngữ tác giả

còn có chức năng bộc lộ tình cảm thái độ tác giả, là nơi để tác giả trình bày triết lí

về đạo Phật: “Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa - Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân

tu”, “Dù xây chín đợt phù đồ - Không bằng làm phúc cứu cho một người ”…). Đặc

biệt ngôn ngữ người kể chuyện còn là nơi gửi gắm nỗi niềm riêng, tâm sự thời

cuộc của tác giả. Các kiến giải của Dương Xuân Thự (về tác giả Đỗ Trọng Dư)

hay Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (về tác giả Nguyễn Cấp) đều khẳng định rằng

cuộc đời thăng trầm chìm nổi của tác giả đã in đậm dấu ấn trên mỗi trang thơ Quan

Âm Thị Kính. Ví dụ, Dương Xuân Thự cho rằng: Đỗ Trọng Dư đã gửi nỗi niềm

tâm sự bị vu oan vào tác phẩm của ông. Ông day dứt nhắc lại nhiều lần bằng các

cụm từ: bôi lòe đen trắng, vạ gió tai bay, như thêu như dệt (…). Còn với ông, bị

bãi chức trở về, ông viết cho Thị Kính mà cũng là viết cho mình rằng: “Sự mình

113

mình ngỏ với mình - Nặng tình cũng phải nén tình làm khuây” (…). Ông đành

phận trở về dạy học, và cố gắng hành xử theo con đường Phật mà ông đã có duyên

từ khi cất tiếng chào đời (Dương Xuân Thự, 2008). Còn học giả Hoa Bằng thì cho

rằng: “Cấp viết Quan Âm tân truyện để tự bày tỏ nỗi mình” hay “có thể nói Nguyễn

Cấp là hiện thân của Thị Kính, những nỗi oan ức đau khổ của Thị Kính đều phản

ảnh từ bản thân Nguyễn Cấp, người đã bị áp bức dưới chế độ vô nhân đạo của triều

Nguyễn” (Theo Phan Thúc Trực, 2009). Tóm lại, ngôn ngữ người kể chuyện trong

Quan Âm Thị Kính có vai trò kể, tả, bộc lộ tình cảm thái độ, triết lí về đạo Phật và

gửi gắm nỗi niềm riêng của tác giả.

3.3.1.2. Ngôn ngữ nhân vật

Ngôn ngữ nhân vật được hiểu là “Lời nói của nhân vật trong các tác phẩm

thuộc các loại hình tự sự và kịch” (Lê Bá Hán và cộng sự, 1997). Trong tác phẩm

tự sự, ngôn ngữ nhân vật có vai trò quan trọng, không những tham gia vào sự phát

triển cốt truyện, mà còn nhằm thể hiện cuộc sống, số phận và cá tính nhân vật.

Trong truyện thơ Nôm, ngôn ngữ nhân vật đã ngày càng được tăng cường, không

chỉ là những câu thoại khô khan, nặng về công thức, giáo huấn, hay đơn thuần là

sự tiếp diễn mạch truyện nữa (như ngôn ngữ nhân vật trong các truyện truyền kì,

tiểu thuyết chương hồi…), mà lời thoại của nhân vật đã mang chiều sâu cảm xúc,

tình cảm của cá nhân, mang tính cá thể hóa rõ nét hơn. Qua ngôn ngữ mỗi nhân

vật, ta nhận ra không chỉ số phận, cuộc đời nhân vật ấy mà còn thấy được, cảm

được tính cách, đặc biệt là chiều sâu tâm lí trong những hoàn cảnh, tình huống cụ

thể.

Trong truyện Quan Âm Thị Kính, theo thống kê của chúng tôi có 290 dòng

lục bát là ngôn ngữ nhân vật (chiếm 38.8% dung lượng tác phẩm). Trong đó có thể

phân loại thành ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại.

Về ngôn ngữ đối thoại, truyện có 218 dòng lục bát (chiếm 27.66% dung

lượng và có mặt ở toàn bộ tác phẩm nhưng tập trung chủ yếu ở phần Thử thách và

tu luyện). Hoàn cảnh, nội dung của các lời đối thoại xoay quanh các cuộc gặp gỡ,

các tình tiết, biến cố của nhân vật, đặc biệt làm rõ bi kịch của nhân vật trung tâm

Thị Kính. Ngôn ngữ đối thoại đã biểu hiện các mâu thuẫn, xung đột cơ bản, từng

114

bước bóc tách các lớp lang và làm bật chủ đề trọng tâm tác phẩm. Ví dụ như đoạn

đối thoại của Thị Kính với sư thầy chùa Vân cho thấy được bản chất của cuộc đời,

của kiếp người qua lăng kính nhà Phật và những triết lí Phật giáo được gói gọn

trong một đoạn thơ nhẹ nhàng, dễ hiểu mà cô đọng súc tích. Đoạn đối thoại giữa

các nhân vật Thị Kính - ông bà họ Sùng - Thiện Sĩ - Mãng ông ở phần đầu chặng

Thử thách cho thấy được sự trớ trêu của cuộc đời, sự bất công ngang trái, sự tráo

trở, bạc bẽo của lòng người… Chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ đối thoại trước

hết là chức năng tự sự, kể lai lịch, tự giới thiệu, như đoạn Thiện Sĩ kể với cha mẹ:

“Chàng rằng giấc bướm vừa say - Dao con nàng bỗng cầm tay kề gần”; hay đoạn

Thị Kính giới thiệu bản thân với sư thầy chùa Vân:

Thưa rằng trẻ nhỏ thư sinh

Làm chi cho được lụy mình chớ e

Lén chân nhờ bóng sân hòe

Cũng mong tranh đấu ngựa xe với người

(Câu 333 - 336)

Ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm còn góp phần thể hiện tính cách, tâm

trạng nhân vật. Đoạn Thị Kính nói lời giã từ Thiện Sĩ cho thấy tâm trạng đau khổ,

tuyệt vọng cùng sự chịu đựng nhẫn nhục của nàng:

Dầu ai phụ bạc cùng nhau

Đã thần ba thước trên đầu chứng tri

Vì đâu phút hợp phút li

(Câu 203 - 205)

Đoạn Thị Màu trả lời cha mẹ khi bị tra hỏi lại thể hiện tính cách một con

người tráo trở, tinh ranh, gian dối:

Nàng rằng “Đâu khéo những lời

Nào ai dễ có dại đời thế đâu

Cánh hoa vẫn giữ con mầu

Con oanh vẫn hót cho sầu mặc thây

Ví dù tính trước lòng mây

Nhà ma nào chịu đến rầy chưa đi”

115

(Câu 425 - 430)

Về ngôn ngữ độc thoại của nhân vật, tác phẩm có 72 dòng lục bát (chiếm

khoảng 8% dung lượng). Theo Nguyễn Thị Giang, ngôn ngữ độc thoại trong truyện

Nôm còn tương đối ít. Có những tác phẩm dường như không có ngôn ngữ độc

thoại như Trê Cóc, Thạch Sanh, Phương Hoa, Lý Công…Có những tác phẩm chỉ

chiếm tỉ lệ nhỏ như Hoàng Trừu (1.3%), Phạm Tải-Ngọc Hoa (0.6%), Hoa Tiên

(3.1%), Phan Trần (3.8%), Sơ Kính Tân Trang (2.5%)…Truyện Kiều cùng với

Quan Âm Thị Kính là hai tác phẩm có tỉ lệ ngôn ngữ độc thoại của nhân vật lớn

nhất: Truyện Kiều là gần 7%, Quan Âm Thị Kính gần 8% (Nguyễn Thị Giang,

2014). Trong Quan Âm Thị Kính có con người cảm nghĩ, con người tâm lí với

những đoạn miêu tả nội tâm phong phú, chân thực. Đó là những đoạn độc thoại

nội tâm của Thị Kính (6 lần), Thị Màu (2 lần) và Thiện Sĩ (1 lần, ở cuối truyện).

Thị Kính là nhân vật tâm lí, nhân vật của những xung đột, trầm tư, đa cảm và giàu

lòng trắc ẩn nên ở nàng hay xuất hiện những đoạn đối diện đàm tâm, tự mình bộc

lộ nỗi lòng.

Chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ độc thoại chủ yếu là để bộc lộ tâm trạng,

những mâu thuẫn, xung đột trong thế giới nội tâm của nhân vật. Ba lần Thị Kính

nhớ nhà là ba lần độc thoại nội tâm. Xuất gia đi tu, nhưng lòng thương cha nhớ mẹ

vẫn không lúc nào nguôi “Bạch vân khuất nẻo xa xa - Song thân ta đấy là nhà phải

không”. Đoạn độc thoại của Thị Màu trước khi đem bỏ đứa con lại cho thấy một

con người khác ở thị: bên cạnh một người phụ nữ lẳng lơ, dâm ô, tráo trở là một

người phụ nữ, người mẹ đầy đau khổ, dằn vặt, quyến luyến đứa con thơ. Ngôn ngữ

độc thoại còn góp phần khắc họa sâu sắc hơn tính cách nhân vật. Những lần độc

thoại nội tâm khi nhớ nhà cho thấy Thị Kính là con người chí hiếu, sống vẹn tròn

sau trước với cha mẹ. Đoạn độc thoại khi nhận lấy đứa con Thị Màu cho thấy nàng

là người có tấm lòng bồ tát, rộng lượng từ bi:

Nhưng thời trong dạ hiếu sinh

Phúc thời làm phúc, dơ đành chịu dơ

Cá trong vại nước sởn sơ

Thời nay chẳng cứu, còn chờ khi nao

116

(Câu 607 - 610)

Nhìn chung, ngôn ngữ nhân vật (bao gồm ngôn ngữ đối thoại và độc thoại)

đã làm tròn vai trò của nó trong tác phẩm: đó là chức năng tự sự, thể hiện tính cách

và tâm trạng của nhân vật một cách chân thực, sinh động.

3.3.2. Ngôn ngữ vừa đậm chất văn chương bác học vừa mang sắc thái

bình dân

3.3.2.1. Ngôn ngữ mang đậm chất văn chương bác học

Từ bác học được giải thích: “I. dt: Người thông thái, học rộng, uyên thâm,

hiểu biết sâu sắc về một hay nhiều lĩnh vực khoa học, một nhà bác học nổi tiếng,

ước mơ trở thành nhà bác học. II. tt: Có tính chất uyên thâm, sâu sắc, khó hiểu,

văn học bác học, lối hành văn bác học” (Nguyễn Như Ý chủ biên, 2005). Như vậy,

ngôn ngữ đậm chất văn chương bác học có thể hiểu là thứ ngôn ngữ cao siêu, trang

trọng, trác việt, mang tính chất cổ kính (mà thường những người học rộng mới

hiểu). Ngôn ngữ bác học trong Quan Âm Thị Kính được biểu hiện qua việc dùng

nhiều từ ngữ mang màu sắc Phật giáo, từ Hán Việt, vận dụng điển cố, thi liệu Hán

học hoặc các uyển ngữ, các thành ngữ Hán Việt…

Do đặc thù của một tác phẩm văn học Phật giáo, có thể thấy tác giả Quan

Âm Thị Kính đã sử dụng khá nhiều các khái niệm Phật giáo, từ ngữ mang màu sắc

Phật giáo. Ngay tiêu đề truyện đã là tên của một vị Bồ Tát, một nhân vật Phật giáo

(Quan Âm Thị Kính). Tên các vị Phật cũng được nhắc nhiều trong phần dẫn truyện

đầu tác phẩm, như: Phật, Ngô Thị, Địa Tạng, Đức Quan Âm, Đức Mâu Ni. Cùng

với đó là các từ ngữ nhà Phật: tu hành, cứu khổ, kinh Kim Cương, tu, độ, kiếp, cõi

trần… Có thể thấy, vén bức màn tác phẩm, ta đã được đắm chìm trong không khí

Phật giáo, hương thơm Thiền tỏa lan, từ đó dẫn dụ người đọc đi vào một câu

chuyện nhà Phật, một thế giới của cõi Phật được kể dưới hình thức đầy tính văn

chương. Đoạn đối thoại giữa Thị Kính và sư chùa Vân Tự được Thiều Chửu xem

là đoạn cốt tử, rằng “hiểu hết đoạn ấy thì chân lí nhà Phật mười phần đã rõ được

bảy rồi” (Thiều Chửu, 2007). Đây cũng là đoạn tập trung bàn về giáo lí nhà Phật,

nên các khái niệm Phật giáo, các từ ngữ hay lối nói của nhà Phật được sử dụng dày

đặc (thiền già quy y, đạo Từ bi, phổ độ, trần duyên, chữ sắc không, bào, ảnh,

117

sương, chớp, chiêm bao). Ngoài ra trong tác phẩm còn dùng nhiều khái niệm Phật

giáo, các từ ngữ trong kinh sách: đèn Bát nhã, chuông Tham thiền, chân kinh, tâm

truyền, Long nhiễu, Hổ Khê, pháp giới, cà sa… Có những câu thơ đậm đà chất

Phật giáo như:

Hương xông pháp giới ngùi ngùi

Thông rung trống kệ, trúc hồi mõ kinh

(Câu 371 - 372)

Câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên và sinh hoạt thường nhật trong chùa, với

những hình ảnh thông, trúc, âm thanh tiếng trống tiếng mõ, không khí của pháp

giới… thật an yên, thanh tịnh, khiến cho con người cũng như quên đi những bi

kịch riêng tư, hòa mình vào không gian của Phật.

Bên cạnh lớp từ mang màu sắc Phật giáo, lớp từ Hán Việt và các thành ngữ

Hán Việt cũng được sử dụng phổ biến trong tác phẩm. Ví như lời Thị Kính khi

thanh minh với gia đình chồng:

Kể từ kim cải duyên ưa

Dây leo cây bách mong nhờ về sau

(Câu 201 - 202)

Câu trên vận dụng thành ngữ tiếng Hán: “hổ phách thập giới, từ thạch dẫn

châm” nghĩa là: ngọc hổ phách hút hạt cải, đá nam châm bắt kim loại. Ý nói tình

nghĩa vợ chồng quấn quýt nhau. Vẫn nói về cảnh chia ly của vợ chồng Thị Kính -

Thiện Sĩ, câu “Ai làm chia phượng rẽ loan” lại là sự vận dụng thành ngữ tiếng Hán

“bổng đả uyên ương” (có khi dịch nghĩa là chia loan rẽ thúy hay chia uyên rẽ thúy).

Mượn hình tượng ẩn dụ loan, phượng, thành ngữ trên chỉ việc dùng thủ đoạn biện

pháp cứng rắn (bổng - cây gậy, đả - đánh) nhằm chia rẽ đôi lứa, cắt đứt tình chồng

vợ. Lớp từ Hán Việt được sử dụng đúng chỗ đúng lúc mang đến cho người đọc

hình dung về một không khí cổ kính, trang nghiêm, xúc động khi Thị Kính bước

ra khỏi nhà, dấn thân vào con đường tu hành:

Xuất gia quyết một tâm liền

Phụ tinh đới nguyệt bước lên dặm trường

(Câu 263 - 264)

118

Từ Hán Việt (xuất gia, tâm, dặm trường) kết hợp thành ngữ Hán Việt (phụ

tinh đới nguyệt) không chỉ tạo nên sắc thái trang trọng cổ kính mà còn tạo cho câu

thơ giàu tính họa, tính nhạc. Bước chân của Thị Kính vừa như rất dứt khoát, quyết

tâm, lại vừa như nặng nề, chứa đầy nỗi niềm, và con đường phía trước nàng đi

không hề bằng phẳng mà trúc trắc, chông gai.

Lời của sư chùa Vân Tự khi giảng về đạo Phật cho Thị Kính sau đây cũng

chứa những từ Hán Việt đầy tính hàn lâm:

Sao bằng vui thú liên trì

Dứt không tứ tướng, xá gì nhị biên

(Câu 255 - 256)

Trong câu trên: liên trì là cái ao sen. Kinh Kim Cương, Kinh Viên Giác lí

giải rằng: những người theo đạo Phật sau khi chết sẽ về miền Tây phương Cực lạc,

ở trong ao sen, mượn hoa sen làm bào thai mà sinh ra, các vị Phật cũng ngự trên

tòa sen. Còn tứ tướng nghĩa là bốn cái hình tướng của con người (ngã, nhân, chúng

sinh, thọ giả). Con người ta vì chấp những hình tướng ấy, mà sinh ra tranh giành

nhau. Nhị biên trong câu trên nghĩa là một bên là sinh, một bên là tử. Người tu

Phật vượt lên lẽ sinh tử ở đời, vui với đạo, sống thanh đạm tự nhiên, không tranh

giành hơn thua, như thế mới giúp con người ta giải thoát.

Cũng như các truyện thơ Nôm tôn giáo khác nói riêng và văn học trung đại

nói chung, tác giả Quan Âm Thị Kính cũng sử dụng nhiều điển cố, các thi liệu Hán

học. Những câu thơ giới thiệu về Thiện Sĩ chứa đầy điển cố:

Kể điều tài mạo cũng ngoan

Gã Tào kiếp trước chàng Phan thân này

Đã trồng bạch bích dành đây

Còn chờ bói phượng chưa vầy bạn loan

(Câu 49 - 52)

Trong đoạn thơ trên, Gã Tào tức Tào Tử Kiến đời Tam Quốc có cái tài đi

bảy bước làm xong một bài thơ, chàng Phan tức Phan Nhạc đời Tống, đẹp trai lại

hay chữ, đi đâu đàn bà con gái cũng ném cho các thứ quả ăn. Hai điển cố muốn

nói Thiện Sĩ là chàng trai vừa đẹp trai vừa có tài, là người của văn chương chữ

119

nghĩa. Điển cố bạch bích gợi chuyện Ưng Bá ngày xưa gặp tiên cho hòn đá đem

về trồng lấy ngọc bích cưới nàng Từ Thị. Còn bói phượng muốn nói Kính Trọng

đời Xuân Thu muốn cưới vợ, bói được quẻ có chữ phượng hoàng, nên sau gọi sự

kén vợ là bói phượng. Ở đây muốn nói Thiện Sĩ chưa kết duyên với ai, còn đang

đợi người phù hợp, người xứng đôi vừa lứa với mình. Việc sử dụng dày đặc điển

cố trong đoạn trên giúp chân dung Thiện Sĩ hiện lên đẹp đẽ, sang trọng, đúng như

cách sử dụng thủ pháp ước lệ trong việc xây dựng các nhân vật chính diện. Câu

thơ sau lại sử dụng thi liệu cổ:

Đào yêu tới ấy màu hồng

Ngọc trao chén dặn hương xông áo nguyền

(Câu 101 - 102)

Chữ đào yêu lấy từ câu thơ trong Kinh Thi, bài Đào yêu:

Đào chi yêu yêu

Chước chước kì hoa

Chi tử vu quy

Nghi kì thất gia

Dịch nghĩa:

Cây đào tơ xinh tươi

Hoa nhiều rậm

Nàng ấy đi lấy chồng

Thì ắt thuận hòa êm ấm cảnh gia đình

(Khổng Tử, 2003)

Như vậy, chữ đào yêu trong Kinh Thi muốn nói người con gái đã đến thì

lấy chồng, tác giả đã mượn thi liệu ấy để miêu tả Thị Kính ngày theo Thiện Sĩ về

làm dâu nhà họ Sùng.

Bên cạnh đó, Quan Âm Thị Kính cũng có không ít những uyển ngữ (là cách

dùng từ, cách nói cho hay hơn, đẹp hơn, hay cách nói tế nhị, tinh tế). Uyển ngữ

cũng là một trong những cách diễn đạt thường thấy trong truyện thơ Nôm trung

đại, nhằm mang đến vẻ đẹp, vẻ tao nhã cho lời thơ. Theo Dương Xuân Thự lí giải,

ông (Đỗ Trọng Dư - tác giả Quan Âm Thị Kính) “vốn là nhà Nho có tư tưởng phong

120

kiến, lại là một người thầy mô phạm, nên dù khi miêu tả một hình ảnh được coi là

thô lỗ, không đẹp, ông đã chuyển nghĩa để nói tránh” (Dương Xuân Thự, 2008).

Có thể kể đến một vài trường hợp như: khi miêu tả nỗi khát khao luyến ái rạo rực

của Thị Màu đối với Thị Kính:

Ví không phải kiếp Châu Trần

Thì xin một trận phong vân cũng nhờ

(Câu 399 - 400)

Hay khi nói về việc Thị Màu mang thai với đứa thương đầu:

Nào ngờ gió thổi mưa bay

Hạt kia gieo xuống đủ ngày thì sinh

(Câu 413 - 414)

Những câu thơ dùng uyển ngữ như thế không hiếm gặp trong Quan Âm Thị

Kính, giúp cho lời thơ mang sắc thái mĩ lệ, trác việt, đồng thời thể hiện vốn từ ngữ

phong phú, tài dùng chữ của người cầm bút.

3.3.2.2. Ngôn ngữ mang sắc thái bình dân

Trước hết, từ bình dân được hiểu là: “I. dt: Người dân thường, tầng lớp bình

dân. II. tt: Giản dị, không sang trọng, kiểu cách, tác phong bình dân, lối sống bình

dân, quán cơm bình dân” (Nguyễn Như Ý chủ biên, 2005). Như vậy, ngôn ngữ

mang sắc thái bình dân là ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, thông dụng, gần với lời ăn

tiếng nói hằng ngày của nhân dân lao động. Biểu hiện của ngôn ngữ bình dân trong

Quan Âm Thị Kính có thể kể đến như: vận dụng thể thơ lục bát, sử dụng từ láy,

cách nói dân gian, vận dụng thi liệu dân gian (thành ngữ Tiếng Việt, tục ngữ, ca

dao), từ thuần Việt…

Trước hết, biểu hiện của màu sắc bình dân trong truyện Quan Âm Thị Kính

chính là thể thơ lục bát. Đây là thể thơ thuần dân tộc, khởi phát từ trong ca dao tục

ngữ dân gian. Từng cặp câu sáu - tám với cách ngắt nhịp chẵn (đại đa số) và gieo

vần bằng tạo nên sự hài hòa, cân đối, uyển chuyển, mềm mại mang đến cho người

nghe người đọc cảm giác nhẹ nhàng, êm ái như những khúc ru. Âm điệu du dương

của lục bát cũng tạo nên sự khác biệt so với những thể loại khác như thất ngôn,

ngũ ngôn, song thất lục bát… Truyện thơ Nôm nói chung, kiểu truyện thơ Nôm

121

tôn giáo nói riêng hầu hết vận dụng thể thơ lục bát làm phương thức kể chuyện với

quy mô hàng vài trăm, có khi vài ngàn câu không hạn định. Xuất phát từ dân gian

nên thể lục bát trong truyện thơ Nôm thật gần gũi và mang đậm bản sắc dân tộc.

Trong Quan Âm Thị Kính có những câu vừa mang tính mẫu mực của thể lục bát

dân tộc, lại vừa dễ thuộc dễ nhớ như ca dao dân ca:

Hôm mai trong chốn thâm khuê

Kẻ đường kim chỉ, người nghề bút nghiên

(Câu 123 - 124)

Hay:

Phòng riêng vò võ hôm mai

Trông ngày đằng đẵng lại dài hơn năm…

(Câu 235 - 236)

Ngoài yếu tố truyền thống, câu thơ lục bát trong Quan Âm Thị Kính còn có

sự đổi mới, sáng tạo làm nên sự độc đáo, khác biệt. Bên cạnh nhịp chẵn còn có

cách ngắt nhịp lẻ: Nhịp 1/2/3 ở câu sáu:

Rằng/ Ngô Thị tụng Kim Cương

Chân thân còn để tượng vàng nghìn thu

Rằng/ Địa Tạng dốc lòng tu

Độ cho cũng được khỏi tù đấng thân

(Câu 5 - 8)

Hoặc 3/3/2 ở câu tám:

Bởi chàng đèn sách mỏi mê

Gối Ôn Công/ thuở giấc hòe thiu thiu

(Câu 147 - 148)

Có khi là nhịp 3/3 ở câu sáu:

Nước trong bát/ đã rời tay

Có còn bốc lại cho đầy được chăng…

(Câu 187 - 188)

Điều đó cho thấy sự biến hóa linh hoạt trong cách vận dụng thể thơ truyền

thống của tác giả Quan Âm Thị Kính.

122

Việc sử dụng từ láy cũng là một trong những nét đặc sắc của tác phẩm. Từ

láy trong truyện được sử dụng một cách tự nhiên, chân thật nhất, không hề cầu kì,

gượng gạo. Ta bắt gặp rất nhiều lần tác giả sử dụng từ láy để tả cảnh hay tả tâm

trạng nhân vật, như: tà tà, vẽ vời, bẻ bai, đầm đầm, ngùi ngùi, thậm chí những từ

giản dị như mở miệng thành lời vậy: dang dang, lo lường, gạn gùng, nở nang,

minh minh…Từ láy trong truyện có khả năng lột tả sâu sắc, chân thực tâm trạng

nhân vật, như đoạn thơ tả nỗi lòng nàng Thị Kính khi bị mắc tiếng oan hại chồng,

bị nhà chồng xua đuổi:

Phòng riêng vò võ hôm mai

Trông ngày đằng đẵng lại dài hơn năm

Buồn trông giọt ngọc đầm đầm

(Câu 235 - 237)

Đặc biệt, bên cạnh những từ láy hai âm tiết phổ biến, tác giả còn sáng tạo,

đưa vào những từ láy ba âm tiết, tạo nên sự khác lạ, độc đáo:

Nực cười sự cỏn còn con

Bằng lông mà nảy ra cồn Thái Sơn

(Câu 239 - 240)

Từ láy ba cỏn còn con (sáng tạo từ từ láy đôi cỏn con, trong đó tiếng chính

con) nhấn mạnh sự việc vốn đã nhỏ, vặt vãnh, lại càng nhỏ nhoi, vặt vãnh hơn.

Trường hợp khác:

Ấy may mà tỉnh ngay đi

Đỉnh đình đinh nữa có khi còn đời

(Câu 159 - 160)

Từ láy ba âm tiết đỉnh đình đinh (sáng tạo từ từ láy đôi đỉnh đinh, trong đó

tiếng chính đỉnh, vốn có nghĩa là sự chậm rãi, thong thả, không vội vã), đặt vào

miệng Sùng bà khi kết tội Thị Kính càng tô đậm sự cay nghiệt, ác độc của bà mẹ

chồng này.

Tính chất bình dân của ngôn ngữ trong truyện Quan Âm Thị Kính còn được

thể hiện qua việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca dao Tiếng Việt. Đây cũng là

biểu hiện thường thấy trong các truyện thơ Nôm nói chung, đó là cách diễn đạt cô

123

đọng, giàu hình ảnh, lại dễ đi vào lòng người, dễ hiểu, dễ nhớ đối với mọi tầng lớp

dân chúng. Rất nhiều câu thơ, ý thơ trong tác phẩm đã sử dụng nguyên vẹn hay

sáng tạo thành ngữ, tục ngữ hay ca dao dân gian quen thuộc. Ví như: “Tủi thay tóc

bạc da mồi” (sử dụng nguyên vẹn thành ngữ tóc bạc da mồi); “Nước trong bát đã

rời tay - Có còn bốc lại cho đầy nữa chăng” (vận dụng sáng tạo thành ngữ bát nước

đổ đi hay nước đổ khó hốt); “Thực là vạ gió tai bay - Bỗng dưng gắp lửa bàn tay

tội đời” (vận dụng hai thành ngữ tai bay vạ gió và gắp lửa bỏ tay người); hay “Rõ

là nước lã mà lầm - Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào” (vận dụng sáng tạo

câu tục ngữ giọt máu đào hơn ao nước lã); “Những là chê khó chê giàu - Để sau

con dại dễ hầu ai mang” (vận dụng câu tục ngữ con dại cái mang). Sự vận dụng ca

dao trong truyện cũng rất nhuần nhuyễn:

Sông sâu còn có kẻ dò

Lòng người ai dễ mà đo cho cùng

(Câu 167 - 168)

Hay:

Mẹ vò thì sữa khát khao

Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền

(Câu 227 - 228)

Câu trên vận dụng sáng tạo bài ca dao Tò vò mà nuôi con nhện, ý nói cảnh

Thị Kính nuôi con Thị Màu, như con tò vò không có sữa mà phải nuôi con của con

nhện, công việc ấy vất vả cực nhọc khôn xiết.

Dễ thấy trong truyện Quan Âm Thị Kính từ ngữ thuần Việt, lối nói dân dã

được sử dụng phổ biến. Nếu từ Hán Việt gợi màu sắc trang trọng, cổ điển thì từ

thuần Việt ở nhiều phân đoạn lại tạo nên sắc thái gần gũi, bình dị cho câu chuyện

hay chân dung nhân vật. Nhất là ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật Thị

Màu hoặc nói về Thị Màu, nó phần nào toát lên tính cách, nội tâm của nhân vật

đầy cá tính này:

Ví dù tính nước lòng mây

Nhà ma nào chịu đến rày chưa đi

Năm xung tháng hạn phải khi

124

Hóa ra thế ấy, hỏi chi tức mình

(Câu 429 - 436)

Cũng vẫn viết về cô Thị Màu, cặp câu sau đây vừa vận dụng thành ngữ

Tiếng Việt, vừa có những từ thuần Việt gai góc, sắc nét:

Gớm thay mặt dạn mày dày

Trân trân rằng: “Trả con đây” mà về.

(Câu 603 - 604)

Đối với truyện thơ Nôm, việc sử dụng ngôn ngữ bình dân một cách phổ

biến khiến cho tác phẩm không còn nặng tính hàn lâm, quan phương nữa, mà thực

sự là tác phẩm văn thơ Nôm của đại bộ phận dân chúng, đặc biệt, với tác phẩm văn

học tôn giáo, nó còn giúp cho việc tuyên truyền giáo lí nhà Phật được dễ dàng

thuận tiện hơn.

TIỂU KẾT

Nhìn chung, Quan Âm Thị Kính là một truyện thơ Nôm tôn giáo đạt được

sự thành công tương đối toàn diện về mặt nghệ thuật. Đặt trong dòng chảy văn học

đương thời, truyện vừa mang những đặc điểm chung của thể loại truyện thơ Nôm

khuyết danh, vừa chứa đựng các yếu tố của một tác phẩm văn học tôn giáo điển

hình. Tác phẩm có kết cấu cốt truyện chặt chẽ theo mô hình mở đầu - thử thách và

tu luyện - đắc đạo, lối kết cấu vừa có điểm tương đồng vừa có điểm khác biệt so

với các truyện thơ Nôm khác, đồng thời có thể coi là mô hình kết cấu chung cho

các truyện thơ Nôm tôn giáo cùng thời. Nhân vật cũng được phân theo tuyển chính

- tà, thiện - ác, đặc biệt có thể phân chia thành tuyến Đạo - Đời để tô đậm màu sắc

tôn giáo cho câu chuyện. Không gian - thời gian nghệ thuật cũng là một phương

diện nghệ thuật giúp truyền tải đắc lực thông điệp của tác phẩm. Đặc biệt, nghệ

thuật xây dựng nhân vật là thành công nổi bật của truyện, Quan Âm Thị Kính đã

khắc họa những nhân vật ghi dấu ấn đậm nét trong lòng người đọc qua nhiều thế

hệ như Thị Kính, Thị Màu, Thiện Sĩ, đi vào lời ăn tiếng nói, nếp nghĩ của nhân

dân, “oan Thị Màu”, “oan Thị Kính” là một trong những ví dụ như thế. Để có được

những hình tượng đặc sắc đó, tác giả đã xây dựng chân dung nhân vật qua ngoại

hình, tính cách và khắc họa nội tâm, bút pháp lí tưởng hóa và hiện thực hóa nhân

125

vật, đặc biệt, cảm hứng tôn giáo đã chi phối mạnh mẽ cách xây dựng nhân vật,

nhất là với nhân vật chính Thị Kính (pháp danh Kính Tâm). Điều này góp phần tạo

nên tính chất tôn giáo cho tác phẩm văn học. Làm nên thành công cho tác phẩm

còn phải kể đến yếu tố ngôn ngữ nghệ thuật. Ngôn ngữ người kể chuyện và ngôn

ngữ nhân vật có vai trò, chức năng thẩm mĩ riêng, song đều đạt đến trình độ nghệ

thuật cao, ngôn ngữ trong tác phẩm vừa mang sắc thái bình dân vừa đậm chất văn

chương bác học.

Tuy vậy, xét một cách khách quan, truyện thơ Nôm Quan Âm Thị Kính cũng

còn những hạn chế nhất định: tình tiết đôi chỗ gò ép, khiên cưỡng (đoạn Thiện Sĩ

nghe theo cha mẹ vu oan cho vợ mình), câu thơ lục bát đôi chỗ gieo vần còn gượng

gạo, chưa chuẩn luật, nhiều chỗ lạm dụng thi liệu Hán học, điển cố gây khó hiểu

cho tầng lớp bình dân, câu thơ nhiều chỗ phảng phất thơ Kiều… Song chừng đó

không làm ảnh hưởng tới thành công nhiều mặt của tác phẩm.

126

KẾT LUẬN

Truyện Quan Âm Thị Kính cùng với kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo có thể

xem là một hiện tượng văn học độc đáo của văn học dân tộc, đã một đi không trở

lại. Giá trị của nó cả về nội dung và nghệ thuật đã được khẳng định qua lịch sử dài

lâu. Thực tế đã cho thấy, xã hội càng hiện đại, văn minh, cuộc sống càng vội vã xô

bồ, con người càng có xu hướng tìm về với những giá trị truyền thống để kiếm tìm,

để níu giữ những vẻ đẹp cho tâm hồn, và cũng để lưu giữ cho thế hệ sau. Truyện

thơ Nôm nói chung, kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo nói riêng trong đó có Quan Âm

Thị Kính và nhiều tác phẩm văn học khác đang nằm trong xu hướng ấy. Bao thế kỉ

đã đi qua, thời thế đã đổi thay nhiều, nhưng giống như những viên ngọc càng mài

càng sáng, các tác phẩm ấy vẫn có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với chúng ta.

Thoát thai từ bối cảnh xã hội phong kiến Việt Nam thời hậu kì trung đại,

truyện thơ Nôm tôn giáo không phải là một thể loại văn học tự thân, mà là sự nên

duyên giữa những truyện kể về đạo Phật ở Việt Nam với một thể loại văn học dân

tộc đang thịnh hành lúc bấy giờ: truyện thơ Nôm. Sự xuất hiện của nó là tất yếu

khi nhu cầu truyền bá đạo Phật trong dân chúng bắt gặp một hình thức phù hợp là

truyện thơ Nôm. Do đó có thể xem nó là một tiểu loại của truyện thơ Nôm, mang

đầy đủ những đặc điểm thể loại của truyện thơ Nôm, đồng thời cũng chứa đựng

những nét khu biệt. Cho đến nay, truyện thơ Nôm tôn giáo vẫn là một cánh đồng

đầy phù sa còn đợi được khai phá kĩ lưỡng hơn. Qua tìm hiểu một số tác phẩm tiêu

biểu như Quan Âm Thị Kính, Nam Hải Quan Thế Âm, Mục Liên Thanh Đề, Lưu

Hương diễn nghĩa bảo quyển, Phật Tổ ra đời, Thơ Phật thích ca, Đạt Ma thái tử

bản hạnh…, chúng ta có thể thấy một vài nét chung như: đa số truyện thơ Nôm

tôn giáo khuyết danh, các truyện được viết theo thể lục bát. Truyện khai thác đề

tài tôn giáo, xây dựng các nhân vật tôn giáo, kể các tích truyện tôn giáo, cuộc đời

các vị Phật (khái niệm tôn giáo ở đây đã được chúng tôi hạn định là Phật giáo),

với mục đích chính là thông qua công cuộc tu hành của các nhân vật chính nhằm

truyền bá giáo lí nhà Phật. Truyện thơ Nôm tôn giáo cũng chịu sự chi phối của vận

động văn học dân tộc thời hậu kì trung đại và tinh thần dung hòa tam giáo. Nằm

trong dòng chảy của văn học dân tộc, nhóm truyện này vận động theo hướng dân

127

tộc hóa và hướng về đại chúng. Về tư tưởng, truyện thơ Nôm tôn giáo đề cao các

triết lí nhà Phật. Do kết hợp được cả hình thức diễn xướng của truyện thơ Nôm, cả

những tích truyện hấp dẫn, phù hợp với triết lí dân gian, nên truyện thơ Nôm tôn

giáo dễ dàng được công chúng đón nhận, nhất là lớp công chúng bình dân, trở

thành món ăn tinh thần của quần chúng. Với niềm tin tôn giáo, với tinh thần nhân

văn, đặc biệt cuộc sống khổ cực tối tăm dưới chế độ phong kiến suy tàn đã khiến

quần chúng nhân dân lao động tìm đến các truyện thơ Nôm tôn giáo như một cứu

cánh, một điểm tựa giúp họ có động lực vươn lên trong cuộc sống. Đặc biệt có

những truyện trở thành mẫu mực, thành cuốn “kinh” của đạo Phật như Quan Âm

Thị Kính.

Về tác phẩm Quan Âm Thị Kính, cho đến nay vẫn tồn tại những luồng ý

kiến khác nhau về nguồn gốc ra đời, vấn đề tác giả cũng như các dị bản. Hiện có

hai giả thuyết về tác giả, một hướng nghiên cứu cho rằng đó là Đỗ Trọng Dư,

hướng khác lại cho rằng tác giả của truyện phải là Nguyễn Cấp. Về văn bản tác

phẩm cũng tồn tại nhiều bản in từ cổ tới kim. Âu đó cũng là tình trạng chung của

nhiều văn bản truyện thơ Nôm khuyết danh ở nước ta, khi mà vấn đề văn tự, in ấn

còn nhiều hạn chế. Song giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật của nó là điều

không ai có thể phủ nhận được, cùng với đó là tầm ảnh hưởng, sức lan tỏa rộng rãi

vượt không gian thời gian. Không chỉ lưu hành ở một vài vùng miền, nó được đón

nhận ở mọi nơi và cả ở nước ngoài. Không chỉ tồn tại ở văn bản thơ, nó được

chuyển thể thành nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau, qua nhiều thế hệ, nhằm

phục vụ nhu cầu thưởng thức, cảm nhận của nhân dân. Có được thành công đó là

bởi tác phẩm đã chạm được tới tâm can con người, làm rung động biết bao trái tim,

bởi người ta có thể cảm và hiểu được giáo lí nhà Phật thông qua hình thức dễ nhớ

dễ thuộc của thể thơ lục bát. Truyện Quan Âm Thị Kính sở dĩ có sức sống lâu bền

còn bởi nó chứa đựng những tư tưởng sâu sắc có giá trị muôn đời. Tác phẩm chứa

đựng những tư tưởng tôn giáo cơ bản như tư tưởng luân hồi nghiệp báo, tư tưởng

từ bi hỷ xả, các tư tưởng triết học tôn giáo này đã nhẹ nhàng thấm vào tâm hồn

người đọc như một dòng suối mát lành thông qua việc xây dựng nhân vật Thị Kính,

đức Quan Âm hiền từ nhân hậu, một người mẹ hiền cứu khổ cứu nạn cho chúng

128

sinh, bằng cuộc đời đau khổ, bằng công cuộc tu hành nhẫn nhục của mình. Vượt

lên trên những tư tưởng tôn giáo đó, truyện còn chứa đựng tư tưởng nhân đạo sâu

sắc. Nằm trong trào lưu chung của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt Nam

thời hậu kì trung đại, tác phẩm hội tụ đầy đủ, đậm nét các phương diện của chủ

nghĩa nhân đạo với cốt lõi là lòng yêu thương con người, hướng về con người, nhất

là người phụ nữ. Những biểu hiện cơ bản của chủ nghĩa nhân đạo trong Quan Âm

Thị Kính là: thông qua cuộc đời, số phận các nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính,

tác giả thể hiện niềm thương cảm của nhà văn trước số phận bất hạnh của con

người. Nỗi khổ cùng cực của Thị Kính qua hai lần mắc tiếng oan là tận cùng nỗi

khổ đau của con người trong xã hội cũ; vạch trần những bất công phi lí, lên án các

thế lực đã chà đạp lên nhân phẩm con người. Những bất công ấy hiện hình qua

hình ảnh cha mẹ chồng Thị Kính, những luật tục khắt khe của xã hội, cái “lệ làng”

cay độc đối với đứa con Thị Màu, trận đòn roi giành cho chú tiểu Kính Tâm; ngợi

ca những vẻ đẹp của con người, nhất là người phụ nữ. Có thể nói nhân vật Thị

Kính hội tụ “nết đủ mọi điều” của người phụ nữ xưa, nàng không chỉ mang vẻ đẹp

trần tục như công dung ngôn hạnh mà còn mang vẻ đẹp tôn giáo, vẻ đẹp của đức

nhẫn nhục, hiếu nghĩa, lòng từ bi hỉ xả; Và hơn hết, chủ nghĩa nhân đạo được thể

hiện qua niềm trân trọng nâng niu những khát vọng bình dị, chân chính của con

người, điều này thể hiện không chỉ qua nhân vật chính Thị Kính mà còn qua cả

nhân vật Thị Màu, đây là thành công lớn của tác phẩm. Không như các truyện thơ

Nôm khác, truyện thơ Nôm tôn giáo dường như đã làm được điều an ủi chúng sinh,

đó là niềm tin tôn giáo. Nói cách khác, tôn giáo chính là nơi nhân vật tìm đến để

giải thoát, để đi tìm chân lý cuộc đời, để gửi trao thân phận. Và thay vì một kết

thúc đoàn viên, kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo đã sửa soạn cho các nhân vật một

chứng quả đắc đạo.

Những nội dung tư tưởng trên được thể hiện qua tài năng nghệ thuật điêu

luyện, già dặn của người cầm bút. Kết cấu cốt truyện theo mô hình Mở đầu - Thử

thách và tu luyện - Đắc đạo đã tạo cho truyện có được màu sắc riêng hấp dẫn khác

biệt so với các truyện Nôm khác, đi cùng với đó là kết cấu không gian theo không

gian Đời và không gian Đạo, đã góp phần tô đậm tính chất tôn giáo cho tác phẩm.

129

Thời gian nghệ thuật vẫn được kết cấu theo trật tự tuyến tính, vừa tuân theo phương

thức kể chuyện của thể văn tự sự trung đại, giúp người đọc dễ nhớ, vừa phục vụ

tốt nhất cho mục đích truyền bá đạo Phật. Hệ thống nhân vật cũng được kết cấu

theo hai tuyến chính - tà, thiện - ác. Nhân vật được xây dựng thông qua ngoại hình,

tính cách và khắc họa nội tâm. Để làm rõ chân dung nhân vật, tác giả đã sử dụng

thủ pháp lí tưởng hóa và hiện thực hóa, lý tưởng hóa khi khắc họa nhân vật chính

diện (như Thị Kính) và hiện thực hóa (chủ yếu) khi khắc họa nhân vật phản diện

(như Thị Màu). Đặc biệt, cảm hứng tôn giáo đã chi phối mạnh mẽ cách xây dựng

nhân vật, điều này làm cho nhân vật chính trở thành nhân vật tôn giáo. Ngôn ngữ

nghệ thuật cũng là một phương diện rất thành công của tác phẩm. Ở đó, ngôn ngữ

tác giả, ngôn ngữ nhân vật bên cạnh các chức năng chính như kể, tả, bộc lộ tính

cách, nội tâm nhân vật, tư tưởng tác giả, còn có nhiệm vụ truyền tải tư tưởng, giáo

lí nhà Phật một cách nhẹ nhàng, dễ hiểu. Đặc biệt, ở Quan Âm Thị Kính, ngôn ngữ

độc thoại của nhân vật chiếm tỉ lệ khá lớn so với các truyện thơ Nôm khác, làm

tăng tính trữ tình cho tác phẩm. Ngôn ngữ trong truyện vừa mang tính bác học vừa

đậm chất bình dân. Tất cả những điều đó đã làm nên giá trị, sức hấp dẫn của truyện,

giúp nó có sức lan tỏa sâu rộng qua nhiều thế hệ, nhiều vùng không gian, thời gian.

Đề tài của chúng tôi đã bước đầu nghiên cứu trên những nét đại thể nhất về

sự ra đời, đặc điểm về nội dung, nghệ thuật của kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo trong

văn học trung đại Việt Nam qua một tác phẩm cụ thể: Quan Âm Thị Kính. Tuy

vậy, Quan Âm Thị Kính và kiểu truyện thơ Nôm tôn giáo trong văn học trung đại

Việt Nam là một đề tài có tính gợi mở, hấp dẫn cao, bởi đây vẫn là một mảng

khuyết trong khoa học, kể cả văn học và tôn giáo, đặc biệt các vấn đề chung của

nhóm truyện thơ Nôm tôn giáo và vấn đề riêng trong rất nhiều truyện thơ Nôm tôn

giáo khác ngoài tác phẩm được chúng tôi tìm hiểu. Không chỉ là các truyện Phật

giáo, mà từ đó có thể mở rộng ra các truyện thơ Nôm Thiên Chúa giáo, truyện thơ

Nôm Đạo giáo… Chúng ta hi vọng sẽ có những công trình nghiên cứu sâu rộng

hơn, toàn diện hơn về vấn đề này trong một ngày không xa.

Cuối cùng, dù đã hết sức cố gắng nghiên cứu, học hỏi tìm hiểu, song đề tài

của chúng tôi không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của

130

hội đồng khoa học, để chúng tôi rút kinh nghiệm trong những lần nghiên cứu tiếp

sau.



131

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU SÁCH

Phúc An hiệu tàng bản (1919). AB.638, Quan Âm chính văn tân truyện, Việt Nam Khải Định tứ niên xuân tân san (bản chép lại).

Hà Văn Cầu chủ biên (2014). Kịch bản chèo (Quyển 1), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Đổng Chi (2000). Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam tập 2, Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.

Nguyễn Đổng Chi (2008). Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5 tập), Nhà xuất bản

Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

Thiều Chửu (2003). Giải thích truyện Quan Âm Thị Kính, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.

Thiều Chửu (2007). Giải thích truyện Quán Âm Thị Kính, NXB Đà Nẵng.

Phạm Đức Duật (1996). Hướng tìm hiểu lịch sử chèo qua tư liệu Hán Nôm, Thông báo Hán Nôm học, 1996: 79-84.

Phan Thanh Đào biên dịch (2006). Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển, Hội Khoa học lịch sử Bình Dương.

Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú giải (1996). Thơ quốc âm Nguyễn Du, Nhà

xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

Trần Văn Giáp (1971). Lược truyện các tác gia Việt Nam tập 1, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

Đặng Thị Thu Hà (2008). Yếu tố tôn giáo và truyện cổ tôn giáo trong truyện kể dân gian Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu văn học, 7: 105-119.

Dương Quảng Hàm (2001). Việt Nam thi văn hợp tuyển, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

Dương Quảng Hàm (2005). Việt Nam văn học sử yếu, Nhà xuất bản Trẻ - Công ty văn hoá Minh Trí – Nhà sách Văn Lang.

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử và Nguyễn Khắc Phi (1997). Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên (2004). Từ điển văn học bộ mới, NXB thế giới, Hà Nội.

Kiều Thu Hoạch (2007). Truyện Nôm, lịch sử và bản chất thể loại, Nhà xuất bản văn hoá – thông tin, Hà Nội.

Trần Ngọc Hoàn sao lục và xuất bản (1929). Sự tích Đức Quan Âm chùa Hương (di cảo của cụ Tiên Điền), Nhà in Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội.

Đinh Xuân Hội (1929). Quan Âm Thị Kính truyện dẫn giải, Tân Dân thư quán, Hà Nội.

132

Kalupahana (2007). Nhân quả triết lí trung tâm Phật giáo, Đồng Loại và Trần Nguyên Trung dịch, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

Đinh Thị Khang (2001). Ảnh hưởng của Phật giáo trong truyện Nôm Quan Âm Thị Kính, Tạp chí văn học, số 12 (385): 41-44.

Đinh Thị Khang (2002). Kết cấu truyện Nôm, Tạp chí văn học, 9: 35-43.

Nguyễn Văn Kinh (1925). Quan Âm tế độ diễn nghĩa kinh, Nhà in Nguyễn Văn Viết, Sài Gòn.

Nguyễn Lang (2000). Việt Nam Phật giáo sử luận tập 1, 2, 3, NXB văn học, Hà Nội.

Thanh Lãng (1967). Bảng lược đồ văn học Việt Nam quyển Thượng, NXB Trình bầy, Sài Gòn.

Nguyễn Lâm (2004). Hạnh nhẫn nhục của Quan Âm Thị Kính, Tạp chí nghiên cứu Phật học, số 6: 15-17.

Phương Lựu chủ biên (2002). Lí luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

Nguyễn Công Lý, Đoàn Lê Giang chủ biên (2016). Văn học Phật giáo Việt Nam: thành tựu và định hướng nghiên cứu mới - kỉ yếu hội thảo khoa học, NXB Khoa học xã hội, Thành phố Hồ Chí Minh.

Nguyễn Hữu Minh (2004). Đọc “Giải thích truyện Quan Âm Thị Kính”, Tạp chí nghiên cứu Phật học, 5: 58-62.

Lê Hữu Mục giới thiệu, phiên âm, phiên dịch, sưu giảng (1971). Huấn Địch thập điều, Tủ sách cổ văn - Ủy ban dịch thuật Phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, xuất bản.

Phạm Thế Ngũ (1997). Việt Nam văn học sử giản ước tân biên tập 2, Nhà xuất bản Đồng Tháp.

Trần Nghĩa chủ biên (1993). Di sản Hán Nôm Việt Nam thư mục đề yếu, NXB khoa học xã hội, Hà Nội.

Nguyễn Thị Nhàn (2004). Mô hình kết cấu truyện Nôm qua nhóm truyện đề tài tôn giáo, Tạp chí văn học, số 8 (390): 118-129.

Nhiều tác giả (2012). Tư tưởng hiếu đạo trong Phật giáo. Thích Nhuận Đạt dịch, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

Dương Mai Oanh (2012). Truyện Quan Âm Thị Kính trong văn học Việt Nam, Luận văn, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 113 tr.

Bùi Thức Phước sưu tầm và biên soạn (2015). Truyện Quan Âm Thị Kính, Nam Hải Quan Thế Âm (Bà chúa Ba), Nhà xuất bản Hội nhà văn, Hà Nội.

Lưu Đức Phương (1942). Tịnh Độ Quan Âm nữ hiệp, Sài Gòn.

133

Nguyễn Văn Sâm (1997). Vài suy nghĩ về tác phẩm Quan Âm Diệu Thiện, Tạp chí Hán Nôm, số 1 (30): 34-38.

Ngọc Sơn lão nhơn bí giải giả, Thiên Pháp cư sĩ phiên dịch giả (1930). Quan Âm tâm kinh bí giải, Nhà in Bùi Văn Nhần, Bến Tre.

Trần Đình Sử (2005). Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

Lê Kỉnh Tâm (2008). Mục Kiền Liên, NXB Tôn giáo, Hà Nội.

Bùi Duy Tân chủ biên (2005). Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (tập 3), Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

Trịnh Vân Thanh (2008). Thành ngữ - Điển tích - Danh nhân từ điển, NXB văn học, Hà Nội.

Trần Ngọc Thêm (1999). Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Thi Nham Đinh Gia Thuyết đính chính và chú thích (1996). Quan Âm Thị Kính - vô danh thị, Nhà xuất bản Đồng Tháp.

Dương Xuân Thự (2008). Đỗ Trọng Dư - con người và tác phẩm: Quan Âm Thị Kính Âm chất diễn nôm, NXB văn học, Hà Nội.

Hòa thượng Thích Trí Tịnh (dịch giả) (1997 - Phật lịch 2540). Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

Trần Huyền Trân sưu tầm cải biên (1957). Quan Âm Thị Kính chèo cổ, NXB Phổ thông - Cục xuất bản - Bộ văn hóa, Hà Nội.

Phan Thúc Trực (2009). Quốc sử di biên, Hoa Bằng hiệu đính và chú thích, NXB văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

Khổng Tử (2003). Kinh Thi Tập 1, Tạ Quang Phát dịch, Nhà xuất bản Đà Nẵng.

Nguyễn Như Ý chủ biên (2005). Từ điển tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục, Hà Nội.

TÀI LIỆU MẠNG

Thái Thị Ái (2015). Tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Nôm Quan Âm Thị Kính, Khóa luận, Đại học sư phạm Hà Nội 2, truy cập ngày 20/9/2018 từ

https://123doc.net/document/3101351-khoa-luan-tot-nghiep-tim-hieu-gia- tri-noi-dung-va-nghe-thuat-cua-truyen-nom-quan-am-thi-kinh.htm.

Đỗ Văn Đăng (2005). Truyện dân gian Việt Nam về Phật giáo nhìn từ góc độ loại hình, Luận văn thạc sĩ, Trường ĐH sư phạm Thành phố Hồ Chí minh, truy cập ngày 21/4/2019 từ http://www.zbook.vn/ebook/truyen-dan-gian-viet- nam-ve-phat-giao-nhin-tu-goc-do-loai-hinh-44378/.

134

Nguyễn Thị Giang (2014). Thể loại truyện Nôm và sự phát triển của thể loại văn học trung đại Việt Nam, truy cập ngày 20/7/2018 từ

https://www.facebook.com/335489446614163/posts/335861129910328/.

Tâm Minh Ngô Tằng Giao (2008). Truyện Quan Âm Thị Kính, Diệu Phương phát hành, truy cập ngày 29/9/2018 từ

https://thuvienhoasen.org/a17215/quan-am-thi-kinh.

Hoàng Xuân Hãn (1994). Mục Liên bản hạnh, Ấn phẩm điện tử, truy cập ngày 30/8/2018 từ http://chimvie3.free.fr/01/hxhp051.html.

Nguyễn Văn Hoài (2015). Thi pháp truyện thơ Nôm tài tử giai nhân và một số tiểu loại truyện thơ Nôm khác: nhìn từ góc độ nhân vật, mô thức cốt truyện, Chuyên san Tạp chí nghiên cứu văn học, số 4 - 2015, truy cập ngày 15/14/2018 từ

http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/h%C3%A1n- n%C3%B4m/5375-thi-phap- truyn-th-nom.html.

12/7/2018 từ

Nguyễn Văn Hoài (2016). Yếu tố Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong truyện thơ Nôm có nguồn gốc bản địa Việt Nam, Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn số chuyên đề bình luận văn học, niên san 2015: 122-131, truy cập ngày http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien- cuu/h%C3%A1n-n%C3%B4m/5751-yu-t-pht-giao-va-tin-ngng-dan-gian- trong-truyn-th-nom-co-ngun-gc-bn-a-vit-nam.html.

Man Đức Huy (2013). Về truyện thơ Quan Âm Thị Kính, Tạp chí nghiên cứu Phật từ http://pgvn.vn/nghien- truy cập ngày 8/8/2018 giáo, số 186, cuu/201510/Ve-truyen-tho-Quan-am-Thi-Kinh-52103/.

Nguyễn Lộc (2015). Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều, Tạp chí văn học, tháng 11/1965, truy cập ngày 25/9/2019 từ http://thpt.daytot.vn/thuat-ngu/Mon- van-84/Ngon-ngu-nhan-vat-417.html.

Hồ Thị Yến Minh (2016). Đặc điểm nghệ thuật truyện thơ Nôm khuyết danh, Luận từ thạc sĩ, Đại học Đà Nẵng,

văn truy cập ngày 26/4/2019 http://luanvan.co/luan-van/luan-van-dac-diem-nghe-thuat-truyen-tho- nom-khuyet-danh-69315/.

Đào Nguyên (2012). Hình ảnh Phật Quan Âm qua thơ ca Việt Nam, truy cập ngày 15/8/2019 tại https://hoavouu.com/a20311/hinh-anh-phat-quan-am-trong- thi-ca-viet-nam.

Nguyễn Văn Sâm (2015). Tản mạn trước khi vào sách Tỉnh mê một cõi (tức Hứa Sử truyện), truy cập ngày 28/8/2019 từ

https://thuvienhoasen.org/a23633/tan-man-truoc-khi-vao-sach-tinh-me- mot-coi.

135

Huỳnh Văn Sơn (2014). Cảm nhận bài thơ Thị Màu của tác giả Anh Ngọc, truy cập ngày 6/12/2019 từ http://huynhxuanson.blogspot.com/2014/01/cam- nhan-bai-tho-thi-mau-cua-tac-gia.html

Nguyễn Hữu Sơn (2017). Thiền sư Vạn Hạnh và bài thơ Thị đệ tử, truy cập ngày 15/3/2018 từ https://thuvienhoasen.org/a27447/thien-su-van-hanh-va-bai- tho-thi-de-tu.

Thích Đức Thắng (2010). Luân hồi nghiệp báo, truy cập ngày 22/7/2019 từ

https://thuvienhoasen.org/a13533/luan-hoi-nghiep-bao.

Thích Huệ Thiện (2012). Quan Âm Thị Kính và cách nghĩ của người Việt về người

phụ nữ Việt, Tạp chí văn hoá Phật giáo 18, truy cập ngày 18/7/2018 từ

http://tapchivanhoaphatgiao.com/van-hoa/quan-am-thi-kinh.html .

Trần Phước Thuận (2015). Quan Âm Thị Kính hình ảnh đẹp người phụ nữ Việt Nam, Tạp chí văn hoá Phật giáo 14, truy cập ngày 18/7/2018 từ http://tapchivanhoaphatgiao.com/van-hoa/quan-am-thi-kinh.html.

136