TNU Journal of Science and Technology
230(08): 328 - 334
http://jst.tnu.edu.vn 328 Email: jst@tnu.edu.vn
THE CATEGORY OF "CHÍ" IN NGUYEN TRAI'S NOM POETRY
Nguyen Van Trung*
TNU University of Education
ARTICLE INFO
ABSTRACT
Received:
19/3/2025
Middle age Vietnamese literature often exalts the "chí" (will,
ambition, aspiration) of the noble man, the true gentleman. Using
poetry to express one's "chí" is a way for poets to reveal their inner
thoughts, emotions, and aspirations. Nguyen Trai, however, had a
unique way of expressing his "chí." How is this uniqueness
manifested in his Nom poetry? Through an initial examination of his
Quoc am thi tap (National pronunciation poetry collection),
particularly the 21 poems titled Ngon Chi (Expressing Aspirations),
the results reveal aspects of the will of a patriotic Confucian scholar.
In Nguyen Trai's poetry, "chí" represents patriotism and the desire to
build a prosperous nation in peace. At the same time, Nguyen Trai
also shows that "chí" encompasses personal emotions and individual
ideals towards the community. This study reveals a close relationship
between ideology and literature, a relationship not only found in
Nguyen Trai's works but also in many other authors of middle age
Vietnamese literature.
Revised:
25/6/2025
Published:
25/6/2025
KEYWORDS
Expressing Aspirations
Nguyen Trai
Nom poetry
Quoc am thi tap
Middle age Vietnamese Literature
PHẠM TRÙ “CHÍ” TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI
Nguyễn Văn Trung
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TT
Ngày nhn bài:
19/3/2025
Văn học trung đi Vit Nam vẫn thường đ cao “chí” của người quân
t, bậc nam nhi. ợn thơ để i chí mt hình thc bày t ni
lòng, bc l tâm s, th hin hoài bão ca mi thi nhân. Đi vi
Nguyn Trãi, cách th hiện “chí” của ông cũng rất khác bit. Vy s
khác biệt đó được th hiện như thế nào trong sáng tác thơ m ca
ông? Thông qua khảo sát ban đầu Quc âm thi tập, đc bit 21 bài
thơ nhan đ Ngôn chí, kết qu thu được đã cho thấy phn nào chí
ng ca một nhà nho yêu nước. Trong thơ Nguyễn Trãi, “chí”
yêu nước, khát vng xây dựng đất nước phát trin trong hòa bình.
Đồng thi, Nguyễn Trãi cũng cho thấy “chí” cảm xúc nhân,
tưởng ca mỗi nhân đối vi cộng đồng. Kết qu nghiên cứu đã
cho thy mi quan h cht ch giữa tưởng văn chương. Mi
quan h này không ch thy riêng Nguyn Trãi n gp nhiu
tác gi khác trong văn học trung đi Vit Nam.
Ngày hoàn thin:
25/6/2025
Ngày đăng:
25/6/2025
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.12345
*Email: trungnv.lol@tnue.edu.vn
TNU Journal of Science and Technology
230(08): 328 - 334
http://jst.tnu.edu.vn 329 Email: jst@tnu.edu.vn
1. Đặt vấn đề
Thơ ca trung đại Việt Nam, đặc biệt thơ Nôm luôn đ tài hp dẫn để các nhà nghiên cu
đào sâu tìm tòi. Bản thân của thơ Nôm dùng chữ Nôm ghi li li nói của người Vit nên ý t
cũng như câu chữ gần gũi với đời sống người dân Vit Nam. Nguyn Trãi một thi nhân “bậc
thầy” trong sáng tác thơ Nôm. Sáng tác ch Nôm ca Nguyn Trãi ch yếu là thơ hầu hết
được tp hp li thành mt tp với nhan đề Quc âm thi tp. Thi tập này được các hc gi biên
son phân ra làm nhiu môn loại như: Ngôn chí, tự thán, tc s, t thut, thi lnh môn, hoa
mc môn, cm tmôn.v.v... Mi môn loại đều những bài thơ tiêu biểu mang đậm màu sc
của đất nước và con người Đại Vit.
Khác với thơ chữ Hán, thơ Nôm của Nguyn Trãi biu l tâm tình của ông hơn. Người xưa
thường dùng thơ để nói chí hướng, không ngoi l, Nguyễn Trãi cũng dùng thơ ca để biu th
ni lòng, bc l cm xúc. Vấn đề thơ nói chí của tác gi văn học trung đại Việt Nam, đặc bit
thơ nói chí của Nguyễn Trãi, đã từng được nhắc đến trong các nghiên cu ca các hc gi như
Trần Đình Hượu, Trn Ngọc Vương, Nguyễn Hữu n v.v Tuy nhiên, nhng nghiên cu ch
dng li góc độ đánh giá đơn lẻ như nhận định trong chuyên lun Nho giáo Văn học Vit
Nam trung cận đại ca nhà nghiên cu Trần Đình Hượu [1], hoc Văn học Vit Nam dòng riêng
gia ngun chung ca Trn Ngọc Vương [2] hoặc nhng nhận định được in trong chuyên lun
Nguyn Trãi v tác gi và tác phm do tác gi Nguyn Hữu Sơn tuyển chn và gii thiệu [3]
Bên cnh 03 chuyên lun nêu trên ca nhng nhà nghiên cứu hàng đầu trong văn học trung
đại Vit Nam, gii hc thut còn có mt s bài viết v ngh thuật thơ ca của Nguyn Trãi, có th
k đến 05 bài báo khoa hc sau: “Nguyễn Trãi th thơ Việt Nam trong Quc âm thi tp[4],
“Trăng trong ‘Quốc âm thi tập’[5]; “Quan niệm ca Nguyn Trãi v vai trò trách nhim ca
người ngh trong sáng tác văn nghệ” [6]; “Nhận thc lại thái độ thẩm của Nguyn Trãi
trong “Quốc âm thi tập”” [7]; “Giải những câu thơ sáu chữ trong Quc âm thi tp t ng
đường ng âm hc lch sử” [8]... Hu hết nhng bài viết này đều nghiên cu v ni dung và ngh
thut của thơ Nôm Nguyễn Trãi trong Quc âm thi tp nhiu khía cnh, tuy nhiên vẫn chưa
mt bài viết nào tp trung vào phạm trù “chí” trong thơ Nôm của ông.
Để đánh giá một cách c th hơn đặc trưng thơ nói chí của Nguyn Trãi, bài viết đã dựa trên
s phân định ranh gii gia hai khái niệm “thi ngôn chíThi ngôn chí”, đồng thi áp dng
vào việc pn tích sơ b tp thơ Nôm Quc âm thi tp ca Nguyn Trãi đ đưa ra những đánh g c
th hơn về tác gia y. Qua đó,i viết gp cho đc gi mti nhìn xác đáng v phm trù “chí
trong t ca ca c gi.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích, đi chiếu: phương pháp này được triển khai đ phân định hai khái
nim d gây nhm lẫn là “thi ngôn chí” và “Thi dĩ ngôn chí”, la chn ra khái niệm xác đáng hơn
để vn dng vào việc phân tích thơ Nôm của Nguyn Trãi.
- Phương pháp thống kê, phân loi: Dựa trên sở thng toàn b Quc âm thi tp ca
Nguyn Trãi, chúng tôi la chọn ra chùm 21 bài thơ Ngôn chí để khảo sát, phân tích đánh giá
nhng ni dung th hin rõ nhất quan điểm ca tác gi khi dùng thơ để nói chí.
- Phương pháp tổng hp: Phương pháp này giúp bài viết tng kết lại được kết qu nghiên cu
để cng c thêm nhận định đã được đề xuất, đồng thi th đưa ra những hướng gi m mi
khi nghiên cứu thơ Nôm của Nguyn Trãi.
3. Kết qu nghiên cu
3.1. “Thi ngôn chí” hay “Thi dĩ ngôn chí”?
Trong nghiên cứu văn học thường xut hin hai khái nim gần như tương đồng tuy nhiên ni
hàm li có chút khác biệt là “thi ngôn chí” 詩言志 và “Thi dĩ ngôn chí詩以言志.
TNU Journal of Science and Technology
230(08): 328 - 334
http://jst.tnu.edu.vn 330 Email: jst@tnu.edu.vn
Đi vi cm t thi ngôn chí”, liu c nht nhc đến ba ch này ch Thưng t 尚書, thiên
Nghiêu điển 堯典. Khi nói đến vai t ca thơ ca, ngâm vịnh và âm nhc, sách đã viết: Thi ngôn chí,
canh ngôn, thanh y vĩnh, luậta thanh.t âm khc hài, vô tưng đot luân, thần nhâna.”
(詩言志,歌永言,聲依永,律和聲。八音克諧,無相奪倫,神人以和) [9, tr. 20]. Câu này
th hiu mt ch khái quát thơ i chí ng, ca ngâm vnh li, thanh theo ging ngâm, lut để
a thanh, bát âm hài hòa, không chen ln ln xn. Thn và ni do đó đu hòa hp.
V cm t Thingôn chí”, tài liệu sm nht cho thy s xut hin ca nó là T truyn. Phn
ơng Công nhị thp tht niên của sách này có nói đến việc sau khi các danh tham dự ba tic
ca Trnh Gin Công, mỗi ni yêu cầu đọc mt bài thơ để th hiện chí hưng. Bui tic kết thúc,
Triệu Vũ nói với Tc ớng:Văn T o Tc ng viết: ‘Bá Hữu ơng vi lục hĩ! Thi ngôn
chí, chí vu kì thượng, nhi công oán chi, dĩ vi tân vinh, kỳ ng cửu h? Hnh nhi hậu vong.’ Thúc
ng viết: ‘nhiên. Dĩ xỉ! S v bt cập ngũ nẫm gi, phu t v hĩ.n Tử viết: ‘kì dư giai sổ thế
chi ch . T Trin k hu vong gi dã, tại thưng bt vong giáng. n th k th dã, lc nhi bt
hoang. Lạc an dân, bất dâm dĩ s chi, hu vong, bt dic kh h?’” [10, tr. 189-190].
Tc, Sau bui tic, Triệu nói với Thúc Hướng: “Bá Hữu e rng s b giết. Thơ biểu đạt
tâm ý ca một người. Ông ta dám đem nhng li mit th quc quân ca ông ta biu th mt cách
công nhiên trước mặt quan khách, để lấy lòng người khác. Ông ta như vậy, làm sao sng lâu
được? Ch e rng không bao lâu s b tai ha thiệt thân.” Thúc Hướng nói: “Đúng thế. Ông ta có
phn kiêu ngo. Thế mi nói Sống không quá năm năm, lẽ nói v trường hợp này.” Triệu
nói: “Sáu người khác đều th phò nhiu v chúa công của nước Trnh. T Triển người
cui cùng ri khỏi chính trường. Ông ta làm quan to nhưng không quên nhân dân cấp dưới. Kế
đó Ấn Đoạn. th hưởng lạc không hoang dâm. Dùng hưởng lạc để an định nhân dân,
nhưng lại làm cho nhân dân không vượt quá thân phận để hoang dâm độ, th duy trì đưc
lâu dài, thì có vic gì không th làm được?”. Và “Thi” ở đây được xác định là Kinh Thi.
Như vậy, xét v thi gian và xut x, có th thy hai khái nim này xut hiện tương đồng, đều
t thư tịch c thi tiên Tn. Tuy nhiên ni hàm ca hai khái nim có s khác bit.
Mao thi t 毛詩序 chép: “thi gi, chí chi s chi dã, tại tâm vi chí, phát ngôn vi thi. Tình đng
vu trung nhi hình vu ngôn, ngôn chi bt túc c ta thán chi, ta thán chi bt túc c vnh ca chi, vnh
ca chi bt túc , bt tri th chi vũ chi, túc chi khiêu chi dã.(詩者,志之所之也,在心爲志,發
言爲詩,情動于中而形于言,言之不足,故嗟歎之,嗟歎之不足,故詠歌之,詠歌之不足,
不知手之舞之足之蹈之也。) [9, tr. 22-23]. th hiểu Thơ, nơi của chí, ti tâm thì gi
chí, phát ngôn thì gi là thi. Tình vận động bên trong, mà hình thái thì ngôn t. Lời không đủ
thì th hin bng s th than; th than không đủ thì bày t qua vnh ca; vịnh ca không đủ thì
chng hiểu được thế nào tay múa, chân nhy”. Đây thể coi luận điểm khẳng định quá
trình sáng tác th loi thi ca t đó trở thành một bước hoàn chnh mệnh đề “Thi ngôn chí”, một
mệnh đề được coi là “khai sơn chi tác” của thi ca c đin Trung Quc.
Trong thiên Tương Công nhị thp tht niên 襄公二十七年 ca sách T truyn 左傳 cm t
“Thi ngôn chí” cũng được nhắc đến, “Thi” đây chỉ Kinh Thi 詩經, tập đại thành ca thi ca
dân gian Trung Quốc, không đơn thuần thi ca nói chung, theo đó “chí” ng hoài bão,
tâm của người đọc Kinh Thi, mượn Kinh Thi để biểu đạt tâm tư, tình cảm của người đọc
người tiếp nhn, ch không phải “chí” của người sáng tác Kinh Thi.
Trong 3 ch “thi ngôn chí”, có thể thy ch “thi” mang nội hàm ý nghĩa rộng hơn, và biểu th
thi ca nói chung, đồng thi ch “chí” cũng biểu đạt mt cách c th tâm tư, hoài bão, cũng như
tâm trng, tình cm ca mi tác giả. Như vậy, ba ch “thi ngôn chí” là sự kế tha phát trin
của “Thi dĩ ngôn chí”, đồng thi th hin mt cuc chuyển hướng t “chí” của độc gi, tức người
tiếp nhận sang “chí” của thi nhân, tức người sáng tác.
V ngun gc ca “thi ngôn chí, ch c chưa xut hin trong giáp ctn và kimn, nhưng
trong Thuyết văn giải t 說文 ca Ha Thn đờin đã xut hin, và theoch gii thích trong
TNU Journal of Science and Technology
230(08): 328 - 334
http://jst.tnu.edu.vn 331 Email: jst@tnu.edu.vn
cun sách này thì có th hiểuchí là tt c nhng ý t xut phát t trong tâm” hayi cách kcchí
gi, tâm chi s chi (志者), tức làm động làm nênc (m đng tác vichí”) [11,
tr. 71]. Như vậy, th tóm c, “chí” một loi vn động ca ý thc xut phát t trong tim ca
mi ngưi. Khi lun gii ch chí”, nhà nghiên cứu Trung Quc là Văn Nht Đa cho rằng ch chí
có ng ch “ch trên ch “tâm, n “chí” tức dng li trên m, hay ct giu
trong tim, vì thế, ch “chí” có 3 ý nghĩa cơ bản: 1) ký c; 2) ghi chép li; 3) hoài o [9, tr. 20].
Người xưa thường dùng ch “chí” để thay cho ch “ý” . Vào thi c đại, “thi” “chí”
đồng nghĩa, cùng âm đọc nên th ợn nhau để s dụng. Do đó, “thi” và “chí” bản thân
mt ch, sau này s xut hin của “thi ngôn chí” càng khẳng định thêm s chc chn của sở
ng liu.
Nhà nghiên cu Ninh Bi Long (Trung Quốc) đã đưa ra hai tiêu chí để phân bit giữa “thi
ngôn chí” “Thi ngôn chí”. Theo ông, “‘Thi ngôn chí’ lý luận làm nên tiếp nhận văn học,
còn ‘thi ngôn chí’ là lý luận làm nên sáng tác văn học”. (“詩以言志是作爲文學接受理論的,
詩言志則是作爲文學創作理論的。) [9, tr. 20].
Như vậy, th thy trên góc độ nội hàm ý nghĩa, “thi ngôn chí” thi ngôn chí” hai
khái nim khác nhau v nội hàm ý nghĩa. Do đó cần tránh s hiu lm v hai khái nim.
3.2. “Thi ngôn chí” trong thơ Nôm Nguyn Trãi
Nhng bậc nhân xưa nay đều s gi ca các thời đại, văn chương ca h, nếu như họ
văn chương thực sự, thì thường ch i đạo ln ca thời đại. Bi vy, k sĩ xưa kia làm thơ cốt để
nói lên cái chí ca nh. Thiên Thuấn điển trong Kinh Thư nói “thi ngôn chí”, sách T
truyn nhc lại ý đó: “Thi ngôn chí” hoặc thiên Nho hiu 儒效 trong sách Tuân T 荀子: “Thi
ngôn k chí dã” hoặc thiên Thiên h 天下 trong sách Trang T 莊子 đều nói lại ý đó: “Thi dĩ đạo
chí” (詩以道志) v.v… Khổng T thường nhc nh con mình Ngư phải chăm lo học tp
Kinh Thi, “Bất hc thi, ngôn” (不學詩無以言), tức Không hc Kinh Thi thì khó ăn nói
đời” (trích thiên Quý th 季氏 trong sách Lun ng 論語) [9, tr. 22].
trưng hp Nguyn Trãi, xét tng th thơ ca của ông th thy, nhng sáng tác này đại
th đều dùng để biểu đạt tâm tư, tình cảm của nhân ông đi vi thế cuộc, đối vi bản thân…
Do đó, khi nghiên cứu thơ ca của ông, chúng ta nên dùng khái niệm “thi ngôn chí”.
Xét đến thơ Nôm ca Nguyn Trãi, Quc âm thi tp đại din tiêu biu nht. Trong thi tp
một chùm 21 bài thơ mang tên Ngôn chí. Những bài thơ này mặc mang tên Ngôn chí
nhưng chủ đề khá đa dạng. Chng hạn trong bài thơ Ngôn chí k nht, Nguyn Trãi nói v vic
ông nhàn thân, tr v vi cuc sống thanh đạm, thưởng thc những thú vui thường ngày như:
thưởng trà, nghe tiếng chim kêu, xem hoa n, chơi cờ cùng bn hu. Tuy nhiên, kết thúc bài thơ
vn là ni nim tâm s ca một người tn trung, tn hiếu. Tâm trạng đó được ông tâm nim bng
câu nói “chăng nỡ trễ”, tức là không dám tr ni ch mong làm tròn đạo làm con và đạo làm tôi.
Bui có mt niềm chăng nỡ tr,
Đạo làm con với đạo làm tôi.
Kho sát toàn b 21 bài thơ nhan đ Ngôn chí trong Quc âm thi tp, th thấy đại đa số
những bài thơ trong chùm thơ này đều nói đến cnh sống thanh nhàn. Tuy nhiên, ông không đơn
thun miêu t cnh sống thanh nhàn đó mà, n sau cuc sng vi thiên nhiên thôn vn ni
lòng canh cánh chưa trọn đạo trung thn, hiếu t. Có th hiểu đây chính là chí của Nguyn Trãi.
Trong thơ quốc âm ca Nguyn Trãi, ch “chí” bản được th hin s bất đắc chí (chưa
tha chí nguyện), chưa báo đền được ơn vua lộc nước, đồng thời cũng sự trăn trở chưa vẹn
tròn đạo hiếu với song thân. Đây điều bn thân tác gi luôn băn khoăn, day dứt sut trong
nhng ngày tháng tm gác li vic quan. Có th điểm qua mt s câu thơ như:
Quân thân chưa báo lòng canh cánh,
Tình ph cơm tri áo cha.
(Ngôn chí k tht)
TNU Journal of Science and Technology
230(08): 328 - 334
http://jst.tnu.edu.vn 332 Email: jst@tnu.edu.vn
Hoặc như hai câu trong bài Ngôn chí k cu, ông cũng viết:
Liêm, cn tiết c tua hng nm,
Trung, hiếu niềm xưa mựa na ri.
Và trong bài Ngôn chí s 11, tc Ngôn chí k thp nht, ông vn day dt:
N quân thân chưa báo được,
Hài hoa còn bn dm thanh vân.
th nói, chùm thơ Ngôn chí là tập hp những bài thơm hay nhất v chí ca Nguyn Trãi.
Ông th hin s tinh tế ca mình trong vic miêu t thiên nhiên, cuc sng bình n ng ng
thôn. n sau mi ngny, nếp nhà, tiếng chim, nhánh mung vn là mt ni u hoài, mt tình cm
trĩu nặng ca mt trí thc Nho hc. Cho cuc sống đẹp tươi với nhng hoa n, chim kêu mi
sớm mai, hay ánh trăng, vị trà khi đêm xuống, thì tâm tư của thi nhân vẫn vướng bn mt món n
“quân thân”. Nguyễn Trãi vn luôn tâm niệm đây món nợ bản thân ông chưa thể tr ni.
Ngược dòng lch s đến thi Trần, đã từng có mt v danh tướng “thẹn” khi chưa tr đưc n công
danh Phm NLão. Mặc lp bao ng danh hin hách trong công cuc chng ngoi xâm
nhưng Phạm No vẫnthẹn”, một nỗi “thẹn thể hin được hoàio, chí khí cao ngt của đng
nam nhi. Đến vi Nguyễn Trãi, người cũng đã lập bao công lao giúp nhà dng nghiệp, nhưng
vn phng pht ni u hoài. Trong ý thc ca nhng bậc nhân đó, họ luôn mun làm nhiều điều
hơn những gì đã làm. Nguyn Ti bun, kng phi chưa lập được công danh gì cho quc gia, ông
bun l bi giữa c đang hừng hc khí thế p vua giúp đời lại không hội được th
hiện tài năng, giữa lúc mun bn vic quan li phi sng trong cảnh “thanh quan”, mặc dù chc v
còn đó nhưng năng lực chng được dùng. B ngoài cuc sng an nhàn làm bn vi hạc, vượn,
trúc, mai kết anh em với trăng, mây, làm láng giềng với núi nhưng nơi sâu thẳm trong tâm trí thi
nhân vn là ni nh đến bn cũ vườn Nho, ng những trí thức cùng cng vi ông.
Ni kh tâm ca Nguyễn Trãi đã được giáo sư Trần Đình Hượu nhận định như sau: “Nho giáo
ảnh hưởng trc tiếp đến văn học qua thế gii quan của người viết. Nho giáo hiu quan h gia
thiên đạo và nhân s, s tn ti ca tri, s chi phi của Đạo, Lý ca Mnh. Cách Nho giáo hình
dung thc tế, vn s, vn vt và l biến dch; cách Nho giáo hiu c kim (lch s), cách Nho giáo
hình dung xã hi, s quan trọng đặc bit của cương thường, đòi hỏi con người có trách nhim, có
tình nghĩa, cảm xúc, cách suy nghĩ làm cho con người quan tâm hàng đầu đến đạo đức, lo lng
cho thế đạo, nhân tâm, băn khoăn về l xut x” [1, tr. 51-52].
Trong Quc âm thi tp, t “chí cũ” đưc lặp đi lặp li k nhiu, th điểm qua các bài thơ như
Ngôn chí k thp nht, Thut hng k t, Mn thut k thp hay Bo nh cnh gii k thp tht.
th thy s thy chung son st ca ông với cng nam t ca bản thân mình.m tư đó luôn
thưng trực trong con người ông: Quân t hãy lăm bền chí cũ/ Chng âu ngt, chng âu già (Nn
chí k thp tht); Thân a hương ha chăng n ưc/ Chí cũ ng danh đã phỉ nguyên (Thut hng
k bát); ởng thân o ni bng bèo/ C công danh vn keo (Mn thut k thp); Cu
hin chí mong cho đưc/ Bt nghĩa ng o ma n toan (Bo kính cnh gii k thp tht).
“Chí cũ” ở đây là chí lớn, đại chí ca quân t, nó vốn có trong suy nghĩ ca ch th t lâu. Đó
là chí vì dân, vì nước, tc niềm ưu ái mà bản thân Nguyễn Trãi đã nói đi nói lại nhiu ln:
Còn có mt lòng âu việc nước,
Đêm đêm thức nhn nẻo sơ chung.
(Thut hng k nh thp tam)
Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách,
Đam dân mựa n mt lòng dân.
(Bo kính cnh gii k ngũ thập tht)
Tht ra, ch có quan điểm văn chương th hin chí ln k mới là quan điểm đúng đn. Nhng
nhà văn, nhà thơ thuộc thế h sau Nguyễn Trãi như Thánh Tông Tao Đàn nhị thp bát tú,
Nguyn Bnh Khiêm hc trò của ông, như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh… đều ý
thc ly văn chương làm một phương tiện cao quý để phc v cuc sống vì dân, vì nước.