UED Journal of Sciences, Humanities & Education ISSN 1859 - 4603
TP CHÍ KHOA HC XÃ HI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DC
Tp chí Khoa hc hi, Nhân văn & Giáo dc, Tp 5, s 3(2015), 71-77 | 71
*
Liên h tác gi
H Văn Quốc
Trường Đi hc Khoa học, Đại hc Huế
Email: quocho1975@gmail.com
Nhận bài:
01 07 2015
Chấp nhận đăng:
25 09 2015
http://jshe.ued.udn.vn/
DU N THI HỌC TƯỢNG TRƯNG
TRONG ĐAU THƯƠNG CA HÀN MC T
H Văn Quốc
Tóm tt: Hàn Mc T là thi để li nhng du n tính sáng tạo trong phong trào Thơ mới. Tập thơ
Đau thương mt minh chứng sinh đng. không còn xây ct trên mảnh đất lãng mn tr tình như
Gái quê mà đã đến vi thế giới tượng trưng - thế gii ca vô thc, ý nim, tâm linh vi diu. Hàn Mc T
trên hành trình tìm kiếm chính mình đã nhanh chóng vượt qua cách biu hin cái tôi cá nhân t ý thc
ca ch nghĩa lãng mạn trong Gái quê để đi đến cuc phân thân quyết lit, len nhp vào tn cùng khu
vc n ca trái tim, thế gii hình thế lực định mnh trong Đau thương. thế, cái tôi tr tình
trong Đau thương đưc cu trúc bi s phân cực, đa diện. Bằng năng lực thiên khi, thi nhân gii phóng
bn th trong nhng giấc mơ kì lạ và th hiện vũ trụ tinh thn bí n, siêu nghim.
Từ khóa: Đau thương; thi học tượng trưng; cái tôi trữ tình; Hàn Mặc Tử; siêu nghiệm
1. Đặt vấn đ
Sut my thp k qua, các nhà nghiên cu, phê
bình không ngng m thêm nhng cánh ca mi vào
thám lầu thơ Hàn Mc Tử. Song, ờng như chưa
th đi đến tn ng bi lầu thơ ấy “rng rinh không b
bến” và n cha nhng va tng bí mật. Đặc bit vi
Đau thương, mt tập thơ kết tinh t “hương thơm” tôn
giáo “mật đắng” phận người rồi thăng hoa trong
trạng thái “máu cuồng hồn điên” một bài toán
không li gii cho những ai thích đọc thơ von, tâm
sự. Hơn nữa, Đau thương đã đưa thi nhân vượt thoát
khỏi cõi nhân gian đ đến vi thế giới Phượng Trì
thanh khiết, biên, ngi chói vn hào quang bng
li thi học tượng trưng độc đáo, hiện đại.
2. Nhng biu hin thi học tượng trưng trong
Đau thương của Hàn Mc T
Thơ tượng trưng ra đi Pháp vào những năm 60
(thế k XIX). Ngay lp tc to ra n đa chn làm
lay động thi đàn. Sang thế k XX, thơ ng trưng m
rng phm vi nh hưởng trên toàn thế giới, đng thi
tìm được bến đ trong nền văn học Vit Nam. T sau
m 1936, khi ảnh hưởng Pháp li thm thía thêm
mt tng na” [3, tr.31] - “tầng ch nghĩa ợng trưng
- Tmi ng chng t ưu thế trong vic gii mã thế
gii, cuc sống và con ngưi hiện đi. Hu hết c nhà
thơ mi tiếp biến khuynh hướng thơ này nhng giác
độ sắc độ khác nhau. Hàn Mc T ng không
ngoi l. Mc , trong các tuyên nn ca mình, ông
không tha nhn điều đó nhưng thc tế Hàn Mc T
khó lòng khưc t s cám d, hoc ca Hoa Ác,
“cho nên kng th không thy Thơ Điên y mơ r
vi Hoa Ác. Bi ng thơ của c gi Hoa Ác tuy
vẫn được coi là đi tìm i Đẹp trong cái Ác, nhưng
suy cho cùng vn bông hoa mc lên t cái gc
Đau tơng [6, tr.33]. vy, trong bài viết này,
chúng tôi mun m thêm mt nh ca na - duy
ợng trưng - để khám phá Đau thương.
2.1. T quan nim ngh thut: Máu cung rên
vang dưới ngòi bút”
Bng quan nim ngh thut mi m thc tin
sáng tác sinh động, thi phái tượng trưng đã mở ra trang
s hiện đi cho nền văn chương Pháp nói riêng, thế gii
nói chung. Trong công trình nghiên cứu “Tổng kết văn
H Văn Quốc
72
hc thế k XX”, Albérès đã gọi những nhà thơ
Baudelaire, Mallarmé, Rimbaud, Verlaine “thánh
hin ca n giáo mới”. Họ dũng cảm làm mt cuc
cách mng nhm phá b mọi quy ước cng nhắc, ngăn
cn s tiến hóa ca ngh thuật, để ri kiến to lối thơ n
cha nhng rung cm sâu xa ca cõi vô thc, tâm linh,
bản năng; đồng thi m ra cái nhìn mi v thế gii
trong tính hai mặt. Theo Baudelaire: “Thơ ca cái
đó hiện thực hơn, cái đó chỉ hoàn toàn tht trong mt
thế giới khác”, còn J. Moréas trong Tuyên ngôn tượng
trưng khẳng định: thơ ca ợng trưng biểu hiện trước
hết “những tưởng nguyên ủy”, k thù của “sự
t khách quan”. Nhìn chung, c thi ợng trưng
ch trương phủ nhn trí, gt b mi luận đề, mi
khuynh hướng tư tưởng nhm gii phóng cho ngh thut
“tìm tới trái tim, ti nhng cm quan của con ngưi (H.
Taine), ti cái ý thức không được ý thc - cái phi
tính. Mi nhà thơ phát huy thấu trit thiên bm diu
ca mình để khám phá mi góc khut ca tm hn, ghi
nhn s tn tại “những cái hình nhng thế lc
định mệnh” (Meaterlinhck). Hơn na, h còn đi đến tn
cùng th ngh thut thun túy. Baudelaire cho rng:
“Thơ ca không mục đích nào ngoài chính nó;
không thmc đích nào khác, sẽ không có bài thơ
nào vĩ đại, cao quý, thc s xứng đáng với tên gi bài
thơ bằng một bài thơ được viết ra ch cái thú mt
bài thơ”. Quan niệm ngh thut của trường phái tượng
trưng đã tìm thy s “đồng thanh”, “đng khí” với hn
thơ Hàn Mặc T. Qua các bài viết được xem như những
tuyên ngôn ca thi họ Hàn: “Nghệ thuật ?”,
“Quan niệm thơ”, “Chiêm bao và s thật”, Tựa tp Đau
thương, Ta tp Xuân như ý…, thi nhân đã mở ra mt
mch ngun mi l cho thơ: trực gc, phi lí tính, “thun
túy và tượng trưng”.
Không phi ngu nhiên Đau thương còn tên gi
khác Thơ điên. Theo Chu Văn Sơn: “Nếu Đau thương
ni dung sáng tạo, thì Điên hình thức ca sáng to
ấy. Nói cách khác Điên chính s hin hình, s ct
tiếng ca đau thương” [6, tr.31]. Hàn Mc T đã đi bằng
“đôi chân” đó để đến min vô tn của thơ khi “trí Ngưi
đã dâng cao thơ Người dâng cao hơn nữa. Thì ra
Người đang say sưa đi trong Ưc, trong Huyn
Diệu, trong Sáng Láng và t ra hẳn ngoài
Linh…” [2, tr.132]. ràng, lầu thơ Đau thương không
còn xây ct trên mảnh đất lãng mn tr tình như Gái
quê mà đã đến vi thế giới tượng trưng - thế gii ca vô
thc, ý nim, tâm linh vi diu. Bằng năng lực thiên khi,
thi nhân gii phóng bn th trong nhng giấc lạ
th hiện trụ tinh thn n, siêu nghiệm. Nhà thơ
không ngn ngi bày t: “Thế gii dị” của thơ ông
được “tạo ra trong khi máu cuồng rên vang i ngòi
bút” [2, tr.133]. Chính trong trng thái sáng to y, s t
do, n ca tâm hồn được th hin mt ch trn vn
nhất. Đúng n Hàn Mặc T đã viết: “Tôi làm thơ ?
Nghĩa tôi yếu đui quá! Tôi b cám d. i phn li
tt c nhng lòng tôi, máu tôi, hồn tôi đều hết sc
gimật. Và cũng có nghĩa là tôi mất trí, tôi phát điên.
Nàng đánh tôi đau quá, tôi bt ra tiếng khóc, tiếng gào,
tiếng rú. ai ngăn cản được tiếng lòng tôi ?” [2,
tr.133]. phi thế trước khi vào tri phong Quy
Hòa, nthơ đã tâm sự vi Quách Tn rng: ông s đốt
tp Thơ điên nếu Chúa ban ơn lộc cho ông lành bnh
không muốn “người đi thy nhng n ca lòng
mình”. Điều đó n nghĩa, Hàn Mặc T xem thơ
s kết tinh ca mt trng thái tinh thần đặc bit, cao
siêu, t ra ngoài s kim ta của trí đ vươn tới s
thành tht tuyệt đối của trái tim đang m máu: Ta
mun hn trào ra đu ngn bút;/Mi lời thơ đu dính
não cân ta./ Bao nét ch quay cuồng như máu vọt,/ Như
man chết điếng c làn da./ C để ta ngất ngư trong
vũng huyết,/ Tri niềm đau trên mảnh giy mong manh;/
Đừng nm li nguồn thơ ta đang xiết/ C ng ai trong
m ch rung rinh”.
T vic coi trng yếu t phi tính trong sáng to
ngh thuật đã đưa Hàn Mặc T đến vi lối thơ thun
túy, v li, k d, l thường. Điều đó biểu hiện trước
hết quan nim v người làm thơ: H không phi thiên
thần nhưng cũng không phải người thường v
“khách lạ đi giữa ngun trong trẻo”, “loài thi sĩ” -
“những bông hoa rt quý và rt hiếm” (Quan niệm thơ) -
được Đc Chúa Tri to ra vi mt s mnh cao c,
thiêng liêng đem thông đip của Chúa đến vi loài
ngưi. vậy, người thơ “phải biết tận hưởng nhng
công trình châu báu của Đức Chúa Trời đã gây nên, ca
ngi quyn phép của Người trút vào linh hồn Người
nhng ngun khoái lạc đê nhưng rất thơm tho, rất
ngoan sạch” (Quan niệm thơ). Song, đ được nim
hoan h y, “loài thi sĩ” phải chu không ít cc hình,
thm chí phi tr bằng “giá máu”. Cuộc đời s
nghiệp thi văn Hàn Mc T minh chng chân tht,
sống động nhất cho điều đó.
ISSN 1859 - 4603 - Tp chí Khoa hc hi, Nhân văn & Giáo dc, Tp 5, s 3(2015), 71-77
73
Chạy vượt rào trên con đường thơ, Hàn Mc T
liên tc to ra nhng bc phá ngon mc. Làm nên
sc mnh y, không ch nh cht xúc tác bên ngoài
còn da vào ni lực ý hướng sáng to của nhà thơ:
“Nguyện suốt đời đi tìm s lạ” (Quan niệm thơ).
như chiếc la bàn dn dắt người thơ đi tìm “tiếng gi
chốn xa xăm, thiêng liêng huyền bí làm rung động
cõi lòng”, bởi “thơ ham mun biên nhng ngun
khoái lc trong trng ca mt cõi tri cách biệt” (Quan
niệm thơ). Thế nên, không ng ngàng khi độc gi
thy trong thế gii Đau thương s hòa trộn điêu
luyn các yếu t: chân, kì, l o. Tt c được đẩy lên
cấp đ tt cùng, biên, tuyệt đích ng tha mãn khát
vọng “hưởng Cái Thơ trên Cái Thơ khác nữa” (Quan
niệm thơ) của thi sĩ h Hàn.
2.2. Qua cái tôi tr tình: Anh đã thoát hn anh
ngoài xác tht”
Các thi tượng trưng thám thế gii, cuộc đi,
con người trong tính nh nguyên ca cái thc ti cái
tinh thần được bao bc bởi màn sương huyn nhim.
vậy, để chc thng tm màn ấy, tìm đến bn th trụ,
lòng người, đòi hỏi người ngh phải một “tiên tri
thu thị”. Song làm cách nào đ tr thành “tiên tri thu
thị” ? Trong bức thư “Gửi Paul Demeny”, Rimbaud
viết: “Thi nhân tự biến mình thành tiên tri thu th bng
mt s hn lon ca tt c mi giác quan lâu dài, rng
lớn, phi thường và hợp lý” [1, tr.59] khiến “tôi là một k
khác” để “thy tt c, cm tt c, tiêu th tt c, thám
him tt c, nói tt cả” [1, tr.57] hiện th nhng linh
ng nhm hướng tới “một viễn tượng v cuộc đời”
chiu kích khác: chân tht biên, sâu thẳm. Như
vậy, làm thơ là một công vic sáng tạo đầy lao kh để đi
tìm biu hiện “kẻ khác” trong mình: con người
thc, tâm linh, bản năng; nó giúp người thơ tìm thấy bn
lai din mc ca mình trong s run ry thm kín, tế vi
ca tâm hồn. Đồng thời, để cõi đời, cõi người cõi
thơ đan bện vào nhau, thâm nhp vào nhau, tt c phi
hư lên vì thc.
Hàn Mc T trên hành trình tìm kiếm chính mình
đã nhanh chóng vượt qua cách biu hin cái tôi nhân
t ý thc ca ch nghĩa lãng mạn trong Gái quê để làm
cuc phân thân quyết lit, len nhp vào tn cùng khu
vc n ca trái tim, thế gii hình thế lực đnh
mnh trong Đau thương. thế, cái tôi tr tình trong
Đau thương đưc cu trúc bi s phân cực, đa diện,
biến hóa khôn ờng, “một xác thân nhiu nhân cách,
toàn những “nhân cách” phản trái nhau” [6, tr.34]: linh
hn - th xác, hin thc - o, điên loạn - siêu thoát,
đơn hòa hợp… Tất c đưc to ra do Đau thương
khát vng tìm liu pháp cho Đau thương. Đó thể
là ước mơ Siêu thoát trong cõi siêu hình, tôn giáo: "Tri
bát ngát không cn phô triết lý/ Thơ láng lai chp chóa
nhng hàng châu/ Ta hiu chi trong áng gió nhim màu/
Nhng ht l của trích tiên đày đọa/ A ha h ! say sưa
chê chán đã/ Ta ta hay không phi ta ?.../ Hn vi
thoát ra khi b trí tu" (Siêu thoát). Phiêu du vào thế
gii miên vin, cao trng, huyn diu ấy, người thơ như
đưc cu rỗi, làm vơi bt nỗi đau thân xác và đưc sng
bng tinh thn hoan hỉ. Hơn nữa, tôn giáo còn đôi
cánh diu nâng tHàn Mặc T thoát ra khi b t
tu - s hu hn của duy con ngưi - đến vi cõi
tri t ngát”, đấng hng Sng, hng Ng Tr”.
Cho nên, không ít ln Hàn Mc T để hn lìa khi xác,
sng một đi t do như ý, thoát khi s giam cm ca
xác thân; điều nhà thơ không th thc hiện trong đi
thực nên đã “siêu hóa những ước không đưc tha
mãn”: Anh đã thoát hn anh ngoài xác thịt/ Để chp
chn trong ánh sáng mông lung(Sáng láng); Ta khc
hn ra ngoài ca ming/ Cho bay lên hí hng vi ngàn
khơi (Say trăng); Đêm nay ta khạc hn ra khi
ming,/ Để cho hồn đỡ bt nỗi bi thương./ Nhưng khn
nỗi xác ta đang câm tiếng,/ Hồn đi rồi, không nhp xác
thê lương” (Hn lìa khi xác). th nói, cho hn lìa
khi xác chỉ liu pháp tm thời để cắt cơn đau.
Trong Thơ điên, Hàn Mc T mt xác tín rng: ni
đau hình hài chỉ nguyên tội, phương thức đ Chúa
dùng cu thế. Những ai theo đạo Kitô đu nhn thc rõ
điều đó và sẵn lòng, hân hoan đón nhận đ có được vinh
hiển mai sau: “Đau thương m nay thai nghén cho
ngày mai, thai nghén một mùa Xuân như ý” [5, tr.163].
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm, vi Hàn Mc T ngoài
tín nim ca một con chiên ngoan đạo còn s tri
nghiệm đến tt cùng t nỗi đau thân phận. S cng
ng ca hai yếu t cùng tài năng bẩm sinh đã giúp
ông vượt qua được rào cn ca hin thc, tìm thấy “viễn
ợng Thiên Đàng”, nơi ng tr ca i i bn th, tìm
thy nhng giá tr thiêng liêng trong s hn lon ca
tâm trí. Không ít lần, nhà thơ rơi vào trng thái phân
thân, m bất định, đơn tuyệt đích đến ni thy
bóng mình ng ai đang ngồi bên cnh: Ai đi
lng lặng trên làn nước/Vi li ai ngi khít cnh tôi ?/
sao ngm cứng thơ đầy ming,/ Không nói không
H Văn Quốc
74
rng nín c hơi !/ Chao ôi ! ghê quá trong ng/
Một vũng cô liêu cũ vạn đời (Cô liêu).
phi thế mà Hoài Thanh cho rằng: đọc u
cung Hồn điên, “mt nhà chuyên nghiên cu nhng
trng thái d của tâm linh (…) sẽ ợm được nhiu tài
liệu hơn một nhà phê bình văn nghệ” [3, tr.200]. Nhn
xét này xem ra không thỏa đáng, bởi “những trng thái
d của tâm linh” y không phi sn phm ca bnh
s kết tinh ca nỗi đau chót vót, nỗi đơn
cùng cc khiến nó không ging hin thực như ta thưng
thấy, thường nghĩ. Đó hiện thực tâm linh được thi
nhân cm nim bng trực giác, “thiên nhãn” rồi hóa
thành thơ nên thật hơn cuộc đi tht hay i cách khác
hoàn toàn tht trong mt thế gii khác. Theo li k ca
Hàn Mc T cho Quách Tấn, hai bài thơ liêu
Cui thu ra đời t ni ám nh v mt cảnh tượng hãi
hùng ông chng kiến trong một đêm trăng lạnh trên
bãi biển Quy Nhơn: “Đêm lạnh hết sc, lạnh đến ni
nghe c tiếng chiêm bao... Tôi mt cm giác ngm
ngợp… Cht nhìn lên tri thấy bóng trăng đã đứng đầu,
và nhìn bên cnh thy mt bóng ngưi ngi sát. Liền đó,
t trong bóng người ngi bên cạnh tôi… bước ra mt
bóng th hai, đi từ t ra biển và bước lng thng trên
mặt nước… Rồi hai bóng đều biến mt mt bin
đọng li thành tuyết sáng ngi dưới bóng trăng khuya.
Thot hin ra một người, thân vóc n nang, mình khoác
chiếc áo lông, vai gánh hai thùng thiết đựng đầy nước
óng ánh. Người ấy bước đi thì c trong thùng tung
ra và hóa thành máu đổ chã trên tuyết. Người gánh
máu đi lần vào bờ… Tôi khiếp quá, hét lên mt tiếng,
vụt đứng dy, chy mt mch v nhà. Vừa đến nhà, mt
quá, nằm trước thềm, ngút hơi… Từ y cảnh tượng
kia ám ảnh tôi mãi” [6, tr.61].
Tóm li, nếu Baudelaire đi tìm cái Đp trong cái Ác
thì Hàn Mc T tìm thy trong Đau thương mt “linh
hn thanh khiết”, một ngun mạch cho thơ. Đau thương
đã kết t, tng hoa thành nghệ thut; đồng thi m ra mt
ng đi mới cho thi ca khi m n tung cái nguyên tôi
thành muôn mnh, khiến “tôi kẻ kc” nhằm tm
mi ngõ ngách bí n ca trái tim ln cõi vô thc, tâm linh.
2.3. Đến kiến trúc lu thơ: Rộng rinh không b bến
Khám phá thế gii Thơ điên, độc gi như được
thoát hn cùng người thơ phiêu du trong i siêu
hình, “rng rinh không b bến”. Bởi thế gii y không
đưc kiến to t cht liu hin thực đời thường và xây
trên mảnh đất trần gian “làm bằng êm du, làm bng
thanh bai (…), đầy trinh tiết đầy thanh sắc” [2,
tr.132] được chiết xut t Ngun Trong Tro - ngun
thơ thun khiết, mang màu sắc tượng trưng - biu hin
lối duy tương hp vi s “khải thị” linh diệu,
nhng biểu tượng phc hp s “ni loạncủa nhc
điu, ngôn t.
duy tương hp mt sáng to ý nghĩa tiên
phong ca Baudelaire, góp phn m ra mt thi đại mi
cho thi ca trong vic khám phá thế giới, con người
chiu sâu n, mi quan h siêu vit gia cái hu
hình - vô hình, hu thc - thc, tht - o, linh hn -
th xác, hương thơm - màu sc - âm thanh... Bài thơ
Tương hợp (Correspondances) chính tuyên ngôn ca
Baudelaire cho quan nim y: trụ một ngôi đền
tr ct thiên nhiên/ Thnh thong nói lên nhng li
hồ, n/ Con người đi qua, cả mt rng biu
ng/ Nhìn chúng ta vi nhng con mt thân quen/
Như những tiếng vng dài, t rất xa hòa xướng/ Trong
mt âm thanh duy nht, sâu thm tối đen/ Mênh mông
như ánh sáng, mênh mông như bóng đêm/ Hương sắc và
âm thanh trong không gian tương ng”. Để cm nim
thế giới, con ngưi vn vt trong mối tương quan
huyn bí mang tính cht siêu nghiệm đòi hỏi người ngh
phi nht th hóa các giác quan (hay nói cách khác
“tương ứng cảm quan”) mới đi sâu vào được bn cht s
vt, làm phát l nhng bí n bt ng, lý thú.
Hàn Mc T đã tìm thy s tương đồng với thơ
ợng trưng trong quan nim này khi to ra mt thế gii
ngp tràn âm thanh, màu sc, hương thơm - những đi
ng cn chinh phc ca các giác quan - quyn hòa vào
nhau trong không gian tương ng làm nên một thi
gii lung linh, o diệu: Bằng trăm tiếng v ra trăm
màu sc,/ Với đôi tay nàng trút hết đê mê./ Dạ lan
hương bừng n cánh e dè,/ Trong khúc nhạc rên đều hơi
gió rt.(Đàn ngọc), Như hương trăng đằm thm cõi
không gian(ng láng), Tiếng vàng rơi xung giếng,/
Trăng vàng ôm b ao…/ Gió ng đang xao xuyến
(Ng với trăng), Ta ước ao đầu đội triều thiên,/
tm gi trong ngun ánh sáng./ Ca những điệu ngc
vàng cao sang sng (Ngoài trụ)… Bên cạnh đó,
Hàn Mc T n phát huy đến tn ng sc mnh ca
trc giác, linh cm - chiếc cu ni gia hai b ý thc và
tim thc, trí bản năng - cùng những liên tưởng
ngu nhiên, táo bạo đến không ngờ: Bỗng đêm nay,
trước cửa bóng trăng quỳ,/ Sp mt xung cúi mình
ISSN 1859 - 4603 - Tp chí Khoa hc hi, Nhân văn & Giáo dc, Tp 5, s 3(2015), 71-77
75
theo ng liu./ Li nguyn gẫm xanh như màu huyền
diu,/ Não n lòng vin khách giữa lúc (Hãy nhp
hn em), “Mi lớn lên trăng đã thẹn thò/ Thơm như tình
ái ca ni (Huyn o), Tôi da không gian, ra ti
cùng./ Tôi khát cùng,/ Tôi giết thi gian trong nm
tay./ Tôi vo tiếc mến như vo la,/ Ct tiếng cười ròn xao
động ng mây” (Chơi trên trăng)… Bằng trc giác
tương ng cảm quan, nhà thơ đã dẫn d trí năng ngưi
đọc vượt qua i c th, hu hình, kinh nghiệm để đi
đến cái trừu tượng, tinh thn, siêu nghim; đến vi bn
cht bên trong, n ca s vt mt cách trc tiếp, tc
thi không qua suy lý.
Hàn Mc T không ch làm sáng lên tính thng
nhất thâm u sâu xacủa thế giới, con người bng
cảm quan tương ng trc giác mà còn bng h thng
biểu tượng phc hợp, độc đáo; tiêu biểu vi ba biu
ợng: trăng, máu, hồn. Chúng vn không mi trong
văn học. Nhưng vi Hàn Mc Tử, trăng, máu, hồn được
nhìn qua lăng kính ch quan, gn lin vi nhng tri
nghim riêng của nhà thơ. Thế nên, chúng mang sc
màu, ý nghĩa mới l, biến hóa vô ờng. Trăng trong
Đau thương không còn mt thc th tĩnh, tồn ti
khách quan, độc lp giữa trăng thi nhân mối
dây ràng rt, thôn tính ln nhau tr thành vt s hu
ca nhau. Thế nên, người thơ thể Chơi trên trăng,
ợt trăng, Say trăng ri Ng vi trăng. Trăng - thi
tan a vào nhau: "Không gian dày đặc toàn trăng c/
Tôi cũng trăng nàng ng trăng" (Huyn o). Thêm
nữa, trăng trong thơ Hàn Mc T còn b n v thành
muôn mnh tâm trng, mỗi trăng mỗi tri nghiệm đau
thương. ám thị ghê gớm nhà thơ: Gió rít tng cao
trăng ngã ngửa,/ V tan thành ng đọng vàng khô./ Ta
nằm trong vũng trăng đêm y,/ Sáng dậy điên cuồng
mửa máu ra” (Say trăng). Trăng còn biến th ca
máu hn. Chúng mi liên h khăng khít, tồn ti
trong mt nht th Đau thương: Trăng - hin thực được
nhà thơ chứng nghim - ngun cm hng, ngun
năng lượng thp lên s sng cho hn - thế gii tinh thn
siêu việt: Tôi nhp hồn tôi trong khúc hát,/ Để nh
không khí đẩy lên trăng (Chơi trên trăng). Hn hòa
vào trăng, trăng tiêu tán trong hồn cho đến khi hồn đã
cấu, đã o, nhai ngấu nghiến(Hn ai), đó lúc
tích t mọi đau thương, tinh túy chuẩn b cho thi khc
tuôn trào ca máu trái tinh hoa của thơ: Ta mun
hồn trào ra đu ngn bút;/ Mi lời thơ đều dính não cân
ta./ Bao nét ch quay cuồng như máu vọt,/ Như mê man
chết điếng c làn da(m máu). Trăng, hồn, máu
đau thươngthăng hoa thành nghệ thut, con đường
sáng to ca Thơ điên.
Giống như các nhà thơ ợng trưng khác, bên cnh
vic khám phá bn cht huyn ca s vt, thc ti,
con người bng trc giác, cảm quan tương ng, biu
ng, Hàn Mc t còn rt chú trng vai trò ca nhc
tính trong thơ. Nói như Verlaine: Âm nhc trước mi
điu”, Âm nhc na mãi mãi”. Bởi âm nhc kh
năng đào sâu bn cht s vật, ng người; sc mnh
liên kết kì diu giữa cái hồ với cái chính xác đt
ti cái siêu vit tốt hơn các loại hình ngh thut khác.
Trong li ta tp Thơ điên, Hàn Mc T viết: “Tôi làm
thơ? Nghĩa tôi nhn một cung đàn, bấm một đường
tơ, rung rinh mt làn ánh sáng. Anh s thấy hơi đàn lả
ớt theo hơi thở ca hn tôi chiu theo nhng sóng
đin nóng ran trút xung bởi năm đầu ngón tay uyn
chuyn. Anh s run theo khúc ngân nga của đồng, s
để mc cho giai âm rền rĩ nuối không ngưng. anh sẽ
cm giác lạ” [2, tr.132 - 133]. Điều đó nghĩa, nhạc
điệu trong thơ Hàn Mc T không phi th âm thanh
khuôn vào thi điu sn do lut bng trc to nên
nhạc ng, “lả ớt theo hơi th ca hồn tôi”, ngân
nga muôn giai điu len ln, thm dn vào lòng ta
khiến ta ngất ngây, đắm ri dn d ta xa lìa cõi đi
để đi vào cõi mộng, cõi thơ; “thơ phát ra th âm nhc
này giá tr như nhng câu thần chú” [2, tr.200]: Ha
ha ! Ta đuổi theo trăng,/ Ta đuổi theo trăng./ Trăng bay
l t ngã trên cành ng (ợt trăng). Hay, Tôi ước
ao i ước ao/ Tình tôi lượng s dâng cao/ Như
bông trăng nở, bông trăng nở,/ Những cánh bông thơ
trng ngt ngào (Ước ao).
th nói, tính nhc trong Đau thương thiên biến
vn hóa, trôi chảy theo dòng tâm bất đnh ca thi
nhân, chuyển động trong từng phút giây đ ri t chn
ly nhịp điệu thích hp, không của thơ tự do, đc
bit những bài thơ trăng: Ng với trăng, ợt trăng, Say
trăng, Chơi trên trăng, Mt miệng trăngChúng như
nhng bn hòa âm diu ngân lên t cõi lòng sâu
thm, sc ám gi tâm trng to ra những ý nghĩa
sâu xa, bt ng. phù hp vi yêu cu thun khiết
hóa, huyền hóa cho thơ: "Gió thổi rào rào như đổ,/
Sui trong trng vẫn đng trinh./ Bóng ai theo rõi
bóng mình,/ Bóng nàng yêu tinh" (Mt miệng trăng).
Thơ Hàn Mc T làm rung cm trái tim bạn đọc nhiu