
NHỮNG
SUY
TƯỞNG
TRIẾT
HỌC
TRONG
THƠ
CHẾ
LAN
VIÊN
NGÔ
BÍCH
THU
(,)
Tóm
tat:
Qua
khảo
sát
một
cách
hệ
thống
một
số
tập
thơ
của
Chế
Lan
Viên,
bài
viết
đi
sâu,
làm
nổi
bật
phong
cách
thơ
Chế
Lan
Viên
cũng
như
sự
vận
động
của
tư
duy
sáng
tạo,
tư
duy
triết
học
trong
thơ
ông.
Qua
đó
làm
rõ,
Chế
Lan
Viên
là
một
nhà
thơ
có
tư
tưởng
đầy
mâu
thuẫn
và
phức
tạp,
người
không
biết
mệt
mỏi
trong
cuộc
hành
trình
“
đi
tìm
mặt
”
của
chính
mình.
Ngoài
ra,
bằng
phương
pháp
so
sánh
đồng
đại
và
lịch
đại,
bài
viết
cũng
chỉ
ra
điểm
tương
đồng
và
khác
biệt
của
phong
cách
thơ
Chế
Lan
Viên
với
các
tác
giả
cùng
thời
và
khác
thời
ông.
Đồng
thời
bài
viết
khám
phá
một
Chế
Lan
Viên
có
nghệ
thuật
viết
độc
đáo,
thống
nhất
trong
đa
dạng,
một
“
gương
mặt
thơ
”
điển
hình
của
nền
thơ
hiện
đại
Việt
Nam.
Từ
khóa:
Chế
Lan
Viên,
phong
cách
thơ,
cá
tính
sáng
tạo,
tư
duy
sáng
tạo,
tư
duy
triết
học.
Abstract:
This
article
highlights
Che
Lan
Vien
’
s
evolution
as
a
creative
and
philosophical
poet
through
a
systematic
investigation
of
his
poetry
collection.
The
article
shows
that
Chế
Lan
Viên,
in
looking
‘
for
his
own
face
’
in
his
journey
as
a
poet,
becomes
an
author
of
complicated
and
paradoxical
ways
of
thinking.
Further,
by
using
both
synchronic
and
diachronic
comparative
studies,
the
article
identifies
stylistic
similarities
and
differences
between
Chế
Lan
Viên,
an
original
Vietnamese
poet,
and
his
contemporaries.
Keywords:
Che
Lan
Viên,
poetry
style,
creative
personality,
creative
thinking,
philosophical
thinking.
Cùng
với
lịch
sử
tư
duy
của
con
người
là
sự
ra
đời
của
lịch
sử
triết
học.
Bất
kì
ngành
nghiên
cứu
khoa
học
nào,
kể
cả
nghệ
thuật
và
thơ
ca
đều
phải
vận
dụng
tư
duy
triết
học.
Đã
có
giai
đoạn
trong
văn
học
phương
Đông,
người
ta
quan
niệm
“
văn
sử
triết
bất
phân
”
-
một
tác
phẩm
văn
học
đồng
thời
là
một
tác
phẩm
sử
học
và
triết
học.
Tuy
ngày
nay
quan
niệm
trên
đã
thay
đổi,
nhưng
ở
những
tác
phẩm
văn
học
đích
thực,
độc
giả
vẫn
nhận
thấy
những
yếu
tố
triết
học
cũng
như
sử
học.
về
khái
niệm
triết
học
trong
thơ,
trước
hết
phải
nói
rằng,
đây
chỉ
là
một
khái
niệm
có
ý
nghĩa
tương
đối,
bởi
vì
nhà
thơ
đích
thực
nào
cũng
có
tư
duy
triết
học
ở
mức
độ
ít
hay
nhiều,
nhà
thơ
nào
cũng
có
một
hệ
thống
quan
niệm,
cách
lí
giải
các
vấn
đề
của
tự
nhiên
và
xã
hội.
Tuy
nhiên,
một
(,)
TS.
-
Trường
Đại
học
Mở
TP.
Hồ
Chí
Minh.
Email:
nbthuhn@gmail.com
.
Số
nhà
thơ
đã
lấy
những
vấn
đề
đó
làm
đối
tượng
mô
tả
trực
tiếp
và
là
nguồn
cảm
hứng
chủ
đạo
trong
sáng
tác
của
mình.
Những
nhà
thơ
như
vậy
có
thể
được
coi
là
những
nhà
thơ
có
tư
duy
triết
học
đậm
nét.
Xét
ở
phương
diện
này,
Chế
Lan
Viên
là
một
nhà
thơ
như
vậy.
Nói
đến
Chế
Lan
Viên
là
nói
đến
một
nhà
thơ
trí
tuệ,
có
tư
duy
triết
học
sâu
sắc
và
phức
tạp.
Chất
triết
học
trong
thơ
ông
được
bộc
lộ
ở
nhiều
phương
diện
như
cách
nhìn
của
tác
giả
về
vũ
trụ,
về
thời
gian,
quan
niệm
về
vấn
đề
tồn
tại
và
hư
vô,
sống
và
chết...
1.
Suy
tưởng
về
vũ
trụ
Vũ
trụ
là
nguồn
cảm
hứng
xuyên
suốt
nhiều
tập
thơ
của
Chế
Lan
Viên.
Tuy
nhiên
Chế
Lan
Viên
không
phải
là
nhà
thơ
duy
nhất
viết
về
vũ
trụ.
Trước
Cách
mạng
Huy
Cận
đã
từng
viết
Vũ
trụ
ca.
Trong
đó
xuất
hiện
những
biểu
tượng
kì
vĩ
của
vũ
trụ
“
Biên
vang
chiều
chăng
liệt/
Sóng
rủ
nhau
đi
bát
ngát
cười
”
,
muôn
triệu
dòng
“
suối

Những
suy
tưởng
trỉêt
học...
99
mê
say
”
,
‘
‘
Đi
về
biến
nhạc
xa
tăm
tap
”
.
Vũ
trụ
trong
thơ
Huy
Cận
là
vũ
trụ
mở
huy
hoàng,
vũ
trụ
mênh
mông
đến
cảm
hòa,
và
cái
tôi
của
nhà
thơ
cũng
là
một
cái
tôi
kì
vĩ,
hài
hòa
cùng
cái
kì
vĩ
của
vũ
trụ:
Ta
góp
chân
nhanh
cùng
bốn
gió
Ta
đi
mau
quá
tầm
chân
người
Ta
gặp
hồn
ta
trong
vũ
trụ
(Xuân
hành)
[1,
tr.
136]
Khác
Huy
Cận,
Chế
Lan
Viên
lại
có
những
suy
nghĩ
rất
bi
quan
về
sự
tồn
tại
của
loài
người
và
vũ
trụ:
Ngày
mai
đây
muôn
loài
rồi
tan
rã
Vũ
trụ
kia
rồi
biến
ra
hư
không
(Bóng
tối)
[8,
tr.43]
Còn
trái
đất
đối
với
người
chỉ
là
một
khối
sầu
vô
hạn.
Cái
tôi
của
Chế
Lan
Viên
trước
vũ
trụ
không
có
được
cái
kì
vĩ
như
cái
tôi
của
Huy
Cận,
mà
thật
nhỏ
bé
và
cô
đơn.
Khao
khát
hiểu
đến
tận
cùng
bản
chất
của
VŨ
trụ,
nhung
không
sao
hiểu
thấu,
nhà
thơ
cảm
nhận
được
sự
rợn
ngợp,
tương
phản
rõ
rệt
giữa
cái
nhỏ
nhoi
của
con
người
với
cái
mênh
mông,
vô
tận
của
đất
trời.
Những
vần
thơ
về
vũ
trụ
của
Chế
Lan
Viên
phảng
phất
hơi
hướng
thơ
Đường:
Trời
xanh
ới
hỡi!
xanh
khôn
nói
Hồn
tôi
muốn
hiếu
chang
cùng
cho
Có
cảnh
chim
gì
bay
chới
với
Chết
rồi!
Nó
lạc
giữa
Hư
vô
(Đọc
sách)
[8,
tr.27]
Trong
một
lần
trả
lời
phỏng
vấn
giáo
sư
văn
học
Đức
Gunter
Giesenfild,
Che
Lan
Viên
đã
tự
họa
chân
dung
mình
với
lời
tự
bạch:
“
Tôi
thích
thơ
cổ
Á
Đông
và
thơ
thế
kỉ
XX
của
châu
Âu.
Của
châu
Á
thích
Kinh
Phật
(Livres
bouddhistes),
thơ
Đường
(poésie
de
1
’
époque
des
Tang),
thơ
của
Lý
Bạch
(Ly
Tai
Pé),
Đồ
Phủ
(Tou
Fou);
châu
Âu
thích
Rainer
Maria
Rilke,
Apollinare,
Neruda,
Eluard,
Ritsos...
”
1
.
1
“
Chế
Lan
Viên
nói
về
thơ,
nói
về
mình
”
,
Văn
nghệ,
số
Tết
Quý
Dậu
(23/1/1993).
Còn
theo
nhà
phê
bình
văn
học
Hoài
Thanh
thì
“
Chế
Lan
Viên
đã
đi
từ
Baudelaire,
Edgar
Poe
đến
thơ
Đường
”
.
Cảm
hứng
của
Chế
Lan
Viên
về
vũ
trụ,
con
người
có
điểm
thật
gần
gũi
với
cách
cảm
của
một
nhà
thơ
Đường
cách
xa
ông
mươi
mười
lăm
thế
kỉ.
Đó
là
Trần
Tử
Ngang
với
bài
Đăng
u
Châu
đài
ca
(Bài
ca
lên
đài
u
Châu):
Tiền
bất
kiến
cố
nhân,
Hậu
bất
kiến
lai
giả.
Niệm
thiên
địa
chu
du
du,
Độc
thưcmg
nhiên
nhi
thế
há.
Theo
bản
dịch
của
Trần
Trọng
San
là:
Ngoảnh
lại
trước:
người
xưa
vẳng
vẻ,
Trông
về
sau:
quạnh
quẽ
người
sau.
Ngẫm
trời
đất
dài
lâu,
Mình
ta
roi
hạt
lệ
sầu
chứa
chan.
[10,
tr.68]
Có
lẽ
nếu
biết
sau
mình
có
một
nhà
thơ
cũng
đau
đáu
ngẫm
suy
về
cái
kì
vĩ,
vô
cùng
của
trời
đất,
cái
nhỏ
nhoi
đơn
độc
của
kiếp
người,
thì
Trần
Tử
Ngang
đã
không
phải
một
mình
rơi
hạt
lệ
sầu
chứa
chan.
Thơ
ca
quả
là
tiếng
nói
tri
âm
tri
kỉ!
Sau
Cách
mạng,
cách
cảm
cách
nghĩ
của
Chế
Lan
Viên
về
vũ
trụ
lại
hoàn
toàn
thay
đổi.
Nếu
như
trước
đây,
nhà
thơ
nhìn
vũ
trụ
bằng
cái
nhìn
siêu
hình
với
quan
niệm
“
bất
khả
tri
”
,
thì
giờ
đây
nhà
thơ
cho
rằng
con
người
có
thể
hiểu
được
và
làm
được
tất
cả,
kể
cả
việc
cải
tạo
thế
giới.
Khát
vọng
của
con
người
là
vô
cùng
và
khả
năng
của
con
người
là
vô
tận.
Đây
chính
là
quan
điểm
của
chủ
nghĩa
duy
vật.
Trong
thơ
Chế
Lan
Viên
không
còn
sự
cách
biệt,
tương
phản
giữa
cái
nhỏ
bé
hữu
hạn
của
con
người
với
cái
mênh
mông
vô
hạn
của
vũ
trụ.
Giờ
đây
vũ
trụ
và
con
người
thật
gần
gũi,
giao
hòa
như
thể
anh
em:
Ôi
vũ
trụ
đón
mời
ta
đến
Mà
không
gian
là
bến
ta
qua
Trăng
gần
cho
chỉ
sao
xa
Xưa
là
khách
lạ,
nay
là
anh
em.
(Bay
ngang
mặt
trời)
[4,
tr.63]

100
NGHIÊN
cửu
VẴN
HỌC,
SỐ
7-2022
Còn
trong
bài
Đi
ra
ngoại
ô
của
Chế
Lan
Viên
trong
tập
Anh
sáng
và
phù
sa,
người
đọc
lại
bắt
gặp
một
bầu
trời
“
xanh
quyến
luyến/
Như
bầy
chim
ca/
Trời
nghiêng
bóng
suối...
Hiền
như
tuỏi
nhỏ...''
’
Sự
thay
đổi
trong
quan
niệm
về
vũ
trụ
của
Chế
Lan
Viên
xuất
phát
từ
sự
thay
đổi
trong
tư
tưởng
của
chính
nhà
thơ,
gắn
liền
với
những
biến
động
lớn
lao
của
thời
đại:
“
Thời
đại
lớn
cho
ta
đôi
cảnh
”
.
Và
chính
đôi
cánh
ấy
của
thời
đại
đã
nâng
thơ
Chế
Lan
Viên
bay
lên,
bay
lên
cùng
mặt
trời
và
hòa
nhập
cùng
vũ
trụ.
Cảm
hứng
về
vũ
trụ
được
Chế
Lan
Viên
duy
trì
đến
tận
những
năm
tháng
cuối
đời.
Nhưng
khác
với
các
giai
đoạn
trước
đó,
đây
là
giai
đoạn
có
tính
chất
chiêm
nghiệm,
đúc
kết
kinh
nghiệm
sống
của
nhà
thơ.
Nhà
thơ
không
chỉ
suy
ngẫm
về
cái
tôi
của
mình,
về
con
người
nói
chung,
về
các
vấn
đề
xã
hội,
mà
cả
những
vấn
đề
huyền
bí,
cao
siêu
của
thế
giới
tự
nhiên,
vũ
trụ.
Chế
Lan
Viên
nghiền
ngẫm,
cố
gắng
tìm
ra
mối
liên
hệ
nội
tại
giữa
bản
thể
con
người
và
vũ
trụ.
Trong
bài
Đàn
bầu,
Chế
Lan
Viên
viết:
Trút
hết
tạp
âm
của
vũ
trụ
đi,
chi
còn
một
dây
bản
ngã
của
anh
thôi
...
Bản
ngã
của
anh
chứa
những
tạp
âm
rạn
vỡ
của
sao
trời
Chứa
những
âm
âm
uuvũ
trụ
Bản
ngã
anh
anh
chỉ
tìm
ra
hiếu
rõ
Khi
chạm
sổ
phận
mình
cùng
một
vì
sao
lạ
đôi
ngôi.
{Đàn
bầu)
[9,
tr.20]
Sự
vận
động
mạch
cảm
xúc
về
vũ
trụ
của
Chế
Lan
Viên
gắn
với
sự
vận
động
của
tư
duy
nhà
thơ.
Cho
dù
hệ
thống
quan
niệm
về
vũ
trụ
của
nhà
thơ
chưa
thống
nhất,
mang
đậm
dấu
ấn
chủ
quan,
nhưng
nó
bộc
lộ
được
tính
chất
đa
dạng,
phức
tạp
của
tư
duy
triết
học
Chế
Lan
Viên.
2.
Suy
tưởng
về
thòi
gian
Lịch
sử
nghệ
thuật
cho
thấy
các
nhà
văn
nhà
thơ
ở
mọi
thời
đại
đều
đưa
ra
những
kiến
giải
của
riêng
mình
về
khái
niệm
thời
gian.
Trong
lĩnh
vực
thơ
ca,
thời
gian
là
một
hình
tượng
do
nhà
thơ
sáng
tạo
nên
và
mang
đậm
dấu
ấn
cá
nhân
của
chủ
thể
sáng
tạo.
Chính
ở
đây
phong
cách
của
tác
giả
được
bộc
lộ
rõ.
Ở
Chế
Lan
Viên,
quan
niệm
của
nhà
thơ
về
thời
gian
có
những
điểm
khác
biệt
với
các
nhà
thơ
khác.
Cùng
thế
hệ
với
Chế
Lan
Viên,
mỗi
nhà
thơ
lãng
mạn
lại
tạo
nên
những
hình
tượng
thời
gian
riêng,
theo
cảm
nhận
của
riêng
mình.
Đoàn
Phú
Tứ
dùng
màu
thời
gian
và
hưomg
thời
gian
để
gợi
lại
kí
ức
về
một
tình
yêu
đẹp
đã
qua:
Màu
thời
gian
không
xanh
Màu
thời
gian
tím
ngát
Hương
thời
gian
không
nồng
Hương
thời
gian
thanh
thanh...
(Màu
thời
gian)
[3,
tr.l
14]
Thời
gian
trong
thơ
Xuân
Diệu
thì
gấp
gáp,
hối
hả,
giục
giã
người
ta
phải
sống
hết
mình
với
những
phút
giây
hiện
tại.
Bởi
vì:
Xuân
đương
tới,
nghĩa
là
xuân
đương
qua
Xuân
còn
non,
nghĩa
là
xuân
sẽ
già
Mà
xuân
hết,
nghĩa
là
tôi
cũng
mất
...
Mau
đi
thôi!
Mùa
chưa
ngả
chiều
hôm.
(Vội
vàng)
[2,
tr.125]
Trái
ngược
với
Xuân
Diệu,
Chế
Lan
Viên
thường
đắm
mình
trong
những
kỉ
niệm
của
quá
khứ,
khát
khao
quay
ngược
lại
thời
gian:
Ta
nham
mắt
mặc
yên
cho
hiện
tại
Biến
dần
ra
dĩ
vãng
ở
trên
mỉ...
(Tạo
lập)
[8,
tr.32]
Âm
thanh
của
dòng
sông
trôi
chảy
cũng
làm
nhà
thơ
cảm
thấy
“
tưởng
như
dĩ
vãng
đến
gần
đây
”
(Chiến
tượng),
sống
trong
hiện
tại
nhưng
Chế
Lan
Viên
chỉ
một
lòng
hướng
về
quá
khứ.
Nhà
thơ
yêu
những
con
người
của
kiếp
trước,
khao
khát
trở
về
một
mùa
thu
trước,
muốn
tìm
lại

Những
suy
tưởng
triêt
học...
101
“
những
nét
thơ
xanh
cũ
”
với
"
‘
'những
cảnh
cũ
những
nghìn
xưa
Ai
đâu
trở
lại
mùa
thu
trước
Nhặt
lẩy
cho
tôi
những
lá
vàng
Với
cùa
hoa
tươi
muôn
cánh
rã
về
đây
đem
chắn
nẻo
xuân
sang
(Xuân)
[8,
tr.67]
Quả
thực,
trước
và
sau
Chế
Lan
Viên
chưa
từng
có
tác
giả
nào
đem
vào
thơ
khát
vọng
trở
về
quá
khứ
mãnh
liệt
và
kỳ
lạ
như
vậy,
dùng
“
hoa
tươi
muôn
cánh
rã
”
đế
“
chắn
nẻo
xuân
sang
”
.
Thời
gian
trong
tâm
tưởng
Chế
Lan
Viên
luôn
hiện
lên
như
một
ám
ảnh
thật
u
buồn,
tuyệt
vọng:
Cả
dĩ
vãng
là
chuỗi
mồ
vô
tận
Cả
tương
lai
là
chuỗi
huyệt
chưa
thành
Và
hiện
tại,
biết
cùng
chăng
hỡi
bạn
Cũng
đương
chôn
lặng
lẽ
chuỗi
ngày
xanh
(Những
nấm
mồ)
[8,
tr.3
7]
Từ
chuỗi
được
láy
tới
ba
lần
trong
một
khố
thơ
bốn
câu
(chuỗi
mồ,
chuỗi
huyệt,
chuỗi
ngày),
gợi
lên
trong
người
đọc
cảm
nhận
về
một
dòng
thời
gian
dài
dặc,
bất
tận,
đang
trôi
với
một
nhịp
điệu
chậm
rãi,
ảm
đạm.
Khi
biết
rằng
những
câu
thơ
ấy
được
viết
nên
khi
tác
giả
chưa
đầy
mười
bảy
tuổi,
độc
giả
càng
cảm
nhận
rõ
hơn
cái
bí
ấn,
kì
lạ
của
tâm
hồn
thi
sĩ.
Ý
thức
về
thời
gian
và
bộc
lộ
quan
niệm
của
riêng
mình
về
thời
gian
là
một
đặc
điểm
độc
đáo
của
tư
duy
triết
học
Chế
Lan
Viên.
Đặc
điểm
ấy
được
biểu
hiện
xuyên
suốt
tiến
trình
thơ
ca
của
Chế
Lan
Viên
với
sự
vận
động
và
biến
đổi
không
ngừng.
Sống
trong
không
khí
hào
hùng
của
cả
dân
tộc
trong
những
ngày
đánh
Mỹ,
tư
tưởng
Chế
Lan
Viên
đã
có
sự
trưởng
thành
và
quan
niệm
về
thời
gian
của
nhà
thơ
cũng
thay
đổi
hoàn
toàn
so
với
thời
trước
Cách
mạng.
Những
ngày
tôi
sổng
đây
là
những
ngày
đẹp
hơn
tất
cả
Dù
mai
sau
đời
muôn
vạn
lần
hơn
(Tổ
quốc
bao
giờ
đẹp
thế
này
chăng)
[5,
tr.72]
Trong
những
sáng
tác
viết
thời
chống
Mỹ,
thơ
Chế
Lan
Viên
luôn
hướng
về
hiện
tại
và
tương
lai
với
niềm
vui,
nụ
cười
và
hi
vọng:
Ôi
tương
lai
như
hải
cảng
lam
tàu
Những
con
tàu
chở
đầy
hạnh
phúc
Ôi!
Tương
lai
như
mùa
chiêm
lắm
thóc
Lắm
tiếng
cười,
lắm
cánh
bồ
câu
(Chim
lượn
trăm
vòng)
[4,
tr.29]
Trong
Tet
trồng
cây
hôm
nay,
nhà
thơ
đã
thấy
sự
sống
của
ngày
mai:
Lịch
sử
cây
ta
đất
đã
thay
màu
Chỉ
còn
máu
sông
Hồng
trong
quả
ngọt
Con
chim
ăn
thấy
vị
phù
sa
trong
tiếng
hót
Chỉ
còn
nắng
trời
kết
sáp
nhụy
hoa
ngon
Ong
tìm
hoa
đôi
cánh
thay
bồn
chồn.
Chỉ
còn
cây...
cây...
chỉ
còn
cuộc
sổng.
(Giữa
Tet
trồng
cây)
[4,
tr.43]
Nếu
như
trong
Điêu
tàn,
Chế
Lan
Viên
gián
tiếp
phủ
định
hiện
tại
thông
qua
ước
muốn
quay
ngược
lại
thời
gian
quá
khứ,
thì
trong
những
tập
thơ
sau
Cách
mạng
nhà
thơ
đã
trực
tiếp
khẳng
định
hiện
tại
và
tương
lai.
Sự
thay
đổi
trong
quan
niệm
về
thời
gian
đó
phản
ánh
sự
vận
động
của
tư
duy
triết
học
của
nhà
thơ,
gắn
với
biến
động
của
thực
tại
khách
quan
cũng
như
của
chính
tâm
lí
nhà
thơ.
Đen
những
năm
cuối
đời,
cảm
xúc
về
thời
gian
sống
là
định
hướng
lớn
nhất
thu
hút
tư
duy
thơ
Chế
Lan
Viên.
Nếu
như
ở
giai
đoạn
trước
đó,
nhà
thơ
vẫn
còn
“
đủng
đỉnh
”
triết
lí
về
“
những
lá
thơm
hải
lúc
về
già
”
,
thì
đến
Di
cảo,
nhà
thơ
phải
chống
chọi
quyết
liệt
với
thời
gian
nước
xiết,
với
bệnh
tật
và
nồi
buồn.
Gió
thôi
mây
bay
bất
trắc
...
Phải
tranh
thủ
làm
thơ
giữa
hai
chớp
mắt
...
Viết
đi!
Viết
đi!
Viết!
Viết!
Thời
gian
nước
xiết

102
NGHIÊN
CỬU
VẨN
HỌC,
SỐ
7-2022
...
Viết
thêm!
Viết
nữa!
Viết
vào.
(Thời
gian
nước
xiết)
[7,
tr.64]
Cảm
xúc
của
nhà
thơ
về
thời
gian
dường
như
dồn
nén
hơn,
thúc
bách
hơn:
Mỗi
ngày,
mỗi
phút,
mỗi
giây
Thấy
thời
gian
đang
dồn
anh
vào
chân
tường.
(Dồn
anh
vào
chân
tường)
[9,
tr.47]
Đôi
khi
nhà
thơ
cảm
thấy
quỹ
thời
gian
đang
bị
vơi
như
từng
hạt
thóc
giống:
Số
ngày
còn
lại
của
anh
trên
trải
đất,
đếm
rồi
Như
thóc
giống
đếm
từng
hạt
một
Chỉ
còn
từng
ẩy
hạt
thôi,
anh
phải
tạo
ra
mùa
(Nghề
của
chúng
ta)
[6,
tr.47]
Mặc
dù
có
lúc
tự
nhủ
với
lòng
mình
phải
ngày
nào
việc
ấy,
sống
cho
từng
phút
giây
hiện
tại'.
Cái
hôn
ngày
hôm
trước
đê
ngày
hôm
trước
hôn,
quả
chín
ngày
mai
có
ngày
mai
hải
...
Chỉ
phút
giây
hiện
tại
trước
mắt
này
cũng
đã
cho
anh
hạnh
phúc,
nụ
cười
và
nước
mắt
lo
toan
(Ngày
nào
việc
ấy)
[9,
tr.
120]
nhưng
Chế
Lan
Viên
vẫn
thường
nhìn
về
quá
khứ,
về
những
“
mùa
hoa
xưa
”
mình
đã
đi
qua:
Thôi
không
còn
chờ
mùa
hoa
phía
trước
Mà
ngoái
đầu
nhẩm
lại
những
mùa
hoa
phía
sau
(Các
mùa
hoa)
[7,
tr.
107]
Khi
ở
gần
cái
đích
cuối
của
cuộc
đời,
nhà
thơ
cảm
nhận
thời
gian
của
một
đời
người
thật
quá
ngắn
ngủi,
chỉ
là
vui
buồn
khoảnh
khắc.
Còn
sự
vĩnh
hằng
thuộc
về
thiên
nhiên,
tạo
vật:
Giữa
3
vạn
6
nghìn
ngày
chóng
mặt
Anh
ở
đây
chốc
lát
Vui
buồn
khoảnh
khắc
Rồi
anh
ra
đi
Chỉ
có
màu
xanh
chu
kì
Trở
về
đều
đặn
...
Chỉ
có
cây
kia
là
bất
tận
(Cây
và
người)
[9,
tr.67]
Như
vậy,
quan
niệm
về
thời
gian
của
Chế
Lan
Viên
ở
những
thời
điểm
sáng
tác
khác
nhau
có
những
đặc
trưng
nổi
bật
khác
nhau.
Cùng
là
nỗi
ám
ảnh
quá
khứ,
nhưng
nồi
ám
ảnh
trong
Di
cảo
có
sắc
thái
riêng,
khác
trong
Điều
tàn.
Cái
nhìn
về
quá
khứ
trong
Di
cảo
là
cái
nhìn
chiêm
nghiệm,
đúc
kết
của
một
người
đã
trải
qua
nhiều
thăng
trầm
của
đời
sống,
có
vốn
sống
vốn
tri
thức
già
dặn
phong
phú.
Còn
cái
nhìn
trong
Điêu
tàn
là
cái
nhìn
của
một
chàng
trai
mơ
mộng.
Và
cũng
chính
nhờ
thời
gian
mà
những
triết
lí
về
thời
gian
của
Chế
Lan
Viên
đã
vươn
tới
một
tầm
cao
hơn,
sâu
sắc,
gần
chân
lí
hơn.
3.
Những
suy
ngẫm
về
tồn
tại
và
hư
vô,
sống
và
chết
trong
sự
tự
liên
hệ
vói
bản
thân
Tồn
tại
và
hư
vô,
sống
và
chết
là
những
vấn
đề
triết
học
ám
ảnh
con
người
từ
rất
lâu,
kể
từ
khi
con
người
sinh
ra
trên
trái
đất
này.
Descartes,
nhà
triết
học
Pháp
thế
kỉ
XVII
từng
nêu
một
mệnh
đề
nổi
tiếng:
“
Tôi
tư
duy
nghĩa
là
tôi
tồn
tại
”
.
Tuy
nhiên,
đó
không
chỉ
là
mối
quan
tâm
riêng
của
triết
học
mà
là
mối
quan
tâm
chung
của
mọi
ngành
khoa
học
trong
đó
có
văn
học
nghệ
thuật.
William
Shakespeare
trong
Hamlet
đã
đề
cập
đến
điều
đó,
thông
qua
dòng
độc
thoại
nội
tâm
quyết
liệt
của
nhân
vật
chính
-
chàng
hoàng
tử
giả
điên
xứ
Đan
Mạch:
“
Tồn
tại
hay
không
tồn
tại
”
(To
be
or
not
to
be).
Den
the
kỉ
XX,
Hoochê
Luix
Boochex,
một
huyền
thoại
của
vãn
học
thế
giới
thế
kỉ
XX,
người
được
nhiều
nhà
văn
lớn
trên
thế
giới
coi
là
bậc
thầy,
cha
đẻ
của
văn
học
châu
Mỳ
La
tinh
hiện
đại,
đã
đưa
ra
một
quan
niệm
độc
đáo
về
sự
sống
và
cái
chết:
“
Cái
chết
-
đó
là
kho
báu
chung
của
mọi
người
”
.
Còn
trong
văn
học
Việt
Nam
hiện
đại,
một
trong
những
nhà
thơ
trăn
trở
nhiều
nhất
về
vấn
đề
sự
sống
và
cái
chết,
tồn
tại
và
hư
vô,
đó
là
Chế
Lan
Viên.
Từ